NGƯỜI TRÍ THỨC YÊU NƯỚC
Thôi học, Nguyễn Văn Sắc ở nhà một thời gian, sau đó xin vào làm việc tại Sở tài chính Đông Dương.
Trong những ngày chưa đi làm việc tại Sở tài chính, Nguyễn Văn Sắc có dịp đi chơi khắp phố phường Hà Nội. Anh tìm đọc những cuốn sách, những bài báo nói về nhân tình thế thái, qua đó, anh hiểu xã hội Việt Nam hơn.
Hà Nội lúc ấy như một bức tranh mô tả sự hỗn độn. Trong khi ở hiệu mỹ trang Pôn Sa-bô (Paul Chabot), những người quí phái chen chúc mua những đồ nữ trang đẹp nhất, thì tại hiệu thuốc Hồng Khê ở nhà số 31, phố chợ Hôm, người ta chen chúc nhau để mua thuốc chữa bệnh lậu, giang mai, một chứng bệnh đang hoành hành dữ dội. Luật pháp phải bất lực trước những con dao nhọn, những khẩu súng liên thanh của các băng cướp. Đâu đâu cũng có cướp, ngày nào cũng có cướp. Người dân trong thành Hà Nội lúc nào cũng nơm nớp lo sợ cướp đến. Nhiều hôm trời chưa tối hẳn, vậy mà nhiều phố phường, nhà nào nhà nấy đã phải đóng cửa. Có lần cướp xông vào nhà số 71, phố Hàng Gai cướp của. Chúng mặ cáo ba-đờ-suy, tỏ vẻ lịch thiệp, gọi cửa vào mua hàng. Khi nhà hàng vừa mở cửa, ba tên lao như bay vào nhà. Một tên đóng cửa, một tên chặn cửa nhà trong, một tên trói chủ hiệu lại, giơ dao găm ra dọa nếu kêu y sẽ đâm chết. Bà chủ hiệu chống lại, chúng đánh cho một trận nhừ tử, rồi cuỗm đi một nghìn hột vàng, 3 đôi xuyến vàng và 32 cái nhẫn vàng. Chuyện này đã được báo chí lúc ấy tường thuật tỉ mỉ. Có tên cướp như Ban Đức Lưu, mới 16 tuổi, tung hoành từ Hà Nội đến Hải Phòng để cướp. Có lần, y xông vào nhà ông Triệu Chiêu Dương, cướp 180 phơ-răng của gia đình ông, rồi đâm chết luôn ông cùng vợ và 2 đứa con.
Nguyễn Văn Sắc đau xót cho một xã hội hỗn loạn như thế. Nhưng anh chẳng biết làm gì hơn, ngoài tiếng thở dài.
Một hôm, anh nhận được giấy báo đến Sở tài chính Đông Dương làm việc.
Gia đình chuẩn bị cho anh trở thành một viên chức khá chu đáo: mua thêm cho anh những bộ quần áo mới, mũ cát trắng và giày. Nếu như hồi còn là học sinh, anh thường đội khăn xếp, thì nay đi làm, anh chuyển sang đội mũ cát trắng. Điều mà anh không ngờ tới là gia đình còn lo sắm riêng cho anh một chiếc xe tay bọc đồng vàng và thuê người kéo xe cho anh đi làm hàng ngày. Những ngày đầu, anh đến sở bằng xe tay. Nhưng chỉ vài ngày sau đó, anh dứt khoát không đi xe tay nữa. Người phu xe thấy vậy, ban đầu tỏ vẻ lúng túng nhưng rồi cũng mạnh dạn gặp anh hỏi xem chẳng hay có điều gì làm anh phật lòng. Anh ôn tồn bảo người phu xe: "Tôi chẳng có gì giận anh đâu. Tôi chỉ nghĩ rằng anh và tôi đều là dân nô lệ cho người Pháp. Anh kéo xe cho tôi ngồi, điều đó có nghĩa kẻ nô lệ kéo xe cho kẻ nô lệ. Tôi thấy ngậm ngùi cho thân phận cả anh lẫn tôi, thân phận kẻ mất nước. Vì vậy, tôi không thể ngồi xe để anh kéo" (1). Không ngồi xe tay, Nguyễn Văn Sắc trở về với chiếc xe đạp An-si-ông. Hàng ngày anh dậy sớm, cơm ưnớc xong xuôi rồi đạp xe đến sở làm việc.
Tại Sở tài chính, Nguyễn Văn Sắc được phân công làm việc ở phòng 4. Phòng này chuyên làm kế toán ngân sách Đông Dương.
Vốn là người tính toán nhanh, chính xác, lại thông thạo tiếng Pháp, chẳng bao lâu anh thanh niên Sắc trở thành một nhân vật nổi tiếng ở "sở phi-năng" (2).
Cuối năm 1924, Sắc được đề bạt làm tham biện (3).
Tiếng tăm của anh càng vang dội, làm cho tên Pê-sôn-rơ (Pechontre), phó giám đốc sở phải ký quyết định trả lương cho anh mỗi tháng 100 đồng. Với số tiền này, Nguyễn Văn Sắc có thể nuôi sống cả gia đình khá dư dật. Có điều là "làm được nhiều tiền thật, nhưng nét mặt anh Sắc lúc nào cũng đượm vẻ buồn, ít nói, ít cười" (4).
Do đó đồng tiền dư dật của Sắc, ông Phúc tính đến chuyện làm nhà gạch. Năm gian nhà lá dần dần được thay thế bằng năm gian nhà gạch khang trang. Trong nhà có cả hoành phi, câu đối (5).
Có nhà gạch đàng hoàng, ông Phúc bắt đầu tính đến chuyện hỏi vợ cho Sắc.
Một hôm, có vị tri phủ Khoái Châu tên là Trịnh Đình Chương, bạn cố tri của ông Phúc, đến chơi nhà. Qua câu chuyện tâm tình, ông Chương biết ông Phúc đang tìm vợ cho Sắc. Ông Chương nói với ông Phúc rằng: "Tôi có con gái thứ ba tên là Cán, xấu người nhưng tốt nết. Nếu cậu Sắc không chê, tôi cho đấy" (61). Lời nói đơn giản của ông Chương, vậy mà Nguyễn Văn Sắc và Trịnh Thị Cán nên vợ nên chồng.
Đám cưới của viên công chức cao cấp Đông Dương Nguyễn Văn Sắc đẹp duyên cùng Trịnh Thị Cán đượctổ chức vui vẻ tại nhà ông Phúc vào một ngày cuối năm 1924. "Hôm đi đón dâu, chú rể Sắc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp, trông sang trọng, nhưng mặt anh vẫn thấy buồn" (7).
Cán sinh năm 1900, hơn Sắc hai tuổi. Hai người sống rất thuận hòa. Mối tình gắn bó giữa Nguyễn Văn Sắc và Trịnh Thị Cán trở thành cái cầu bắc nhịp giữa hai vị thông gia. Được ông Phúc mang chuyện thực dân Pháp đàn áp dã man người Việt Nam bị đày ở Côn Đảo kể cho ông Chương nghe, làm cho vị tri phủ Khoái Châu trạnh lòng. Ông Chương bắt đầu hoài nghi chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương. Ông nghĩ đến cuộc sống cực khổ của nhân dân làng Cự Đà, Thanh Oai, Hà Đông, quê hương ông. Ông cũng nghĩ đến cuộc sống khổ cực của nhân dân Khoái Châu, nơi ông đang làm tri phủ. Ông nghĩ người dân Khoái Châu không ngoa khi truyền tụng câu nói: "Oai oái đến phủ Khoái xin cơm". Chính ông đã từng chứng kiến cảnh nhân dân chết đói trước phủ đường nơi ông làm việc. Ông nhớ lại cuộc đời chẳng hay ho gì của ông trước lúc nhậm chức tri phủ. Đó là khi còn học trường hậu bổ (8),
Ông được chứng kiến bọn thực dân chửi rủa học sinh Việt Nam rất thậm tệ. Rồi quãng đời làm thông ngôn, ông đã thấy bọn thực dân gọi người Việt am là "man di", "mọi rợ". Ông chẳng ưa gì bọn thực dân, càng căm hét những tên quan lại người Việt Nam hống hách với nhân dân. Có lần ông chửi vỗ mặt một tên tổng đốc về tôi y ức hiếp dân quá đáng. Tên tổng đốc trả thù ông bằng cách xúi bẩy quan trên của y điều ông đi làm tri huyện Phú Bình, Thái Nguyên, rồi làm tri huyện một huyện ở Lạng Sơn, sau đó lại làm thương tá (9) ở Tuyên Quang. Làm thương tá có nghĩa là gián tiếp ông bị cách chức. Trước cái chết của người vợ hiền, ông càng buồn hơn. Ông chỉ còn gửi gắm hy vọng vào người con rể thông minh Nguyễn Văn Sắc (10).
Với con gái ông, Trịnh Thị Cán, từ ngày về chung sống cùng Nguyễn Văn Sắc, lúc nào cũng chu đáo và tâm đầu ý hợp với chồng... Ngoài công việc gia đình, chị còn làm nhiệm vụ của một người "coi sách" cho chồng. Sắc tích trữ rất nhiều sách quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp, gồm đủ các thể loại: văn học, toán học, kinh tế, tài chính... Với số sách ấy, Cán bảo quản rất cẩn thận. Cụ Nguyễn Văn Lực kể lại rằng: "Chúng tôi vô cùng tự hào vì có một người chị dâu như chị Cán". Còn bạn bè gần xa của Nguyễn Văn Sắc cũng đều thừa nhận là Sắc có một người vợ trung hậu và rất mực thương yêu chồng.
Năm 1926, Trịnh Thị Cán sinh con trai đầu lòng là Nguyễn Văn Dung (11).
Sau đó, tới năm 1928, chị lại sinh người con trai thứ hai cũng là người con trai út, là tên Nguyễn Văn Vinh (12).
Từ ngày có con anh Sắc khá bận bịu với công việc gia đình. Anh muốn chia sẻ nỗi vất vả của công việc nội trợ mà vợ anh phải cáng đáng. Tuy vậy, chị Cán không muốn để anh sa đà vào những việc tủn mủn. Chị đã làm thay anh nhiều việc để anh có thời gian đọc sách, dạy học và làm việc ở công sở. Anh rất biết tình cảm tốt đẹp đó của vợ đối với anh, nên mặc dù sống với đồng lương dư dật, anh không hề sa đà vào vòng ăn chơi. Anh dành tiền để nuôi gia đình, mua sách và dành thời gian rỗi rãi để dạy các em và con em hàng xóm láng giềng học ngay tại căn nhà của anh. Lúc đầu anh Sắc dạy 3 học sinh là Nguyễn Văn Lực, Nguyễn Đình Lạp và Nguyễn Văn Đang. Lực là em Sắc, Lạp là cháu Sắc, còn Đang cũng là người họ hàng của Sắc, về sau lớp học đông dần. Tiếng tăm của thầy giáo Sắc càng vang xa, lớp học càng đông. Nhiều học trò nhờ công giáo dục của thầy Sắc, đã trưởng thành nhanh chóng. Có người trở thành nhà văn như Nguyễn Đình Lạp. Có người trở thành công nhân lái xe lửa như Nguyễn Văn Lực... Mặc dù chỉ là ông giáo"nghiệp dư", song anh Sắc đã đào tạo được một lớp người xứng đáng.
Ngoài việc dạy học ra, công việc ở sở tài chính vẫn cuốn hút anh. Tại đây, anh kết bạn với nhiều đồng nghiệp, trong đó, phải kể đến Trịnh Bá Bích (13), Hồ Trọng Hiếu (14), và Trần Quang Huyến (15). Thực ra cả Bích, Hiếu và Huyến đều đã quen biết Sắc ngay từ khi họ còn học với nhau ở trường Bưởi. Ban gày đi làm việc ở sở, tối về "bộ tứ" Sắc, Bích, Hiếu, Huyến thường gặp nhau ở nhà Sắc, làng Bạch Mai (16), hoặc nhà Huyến ở phố Công sứ Mi-ri-ben (Rue Résident Mitibe (17),
Bích là người hiền lành, Sắc là người thông minh, Hiếu là người khôi hài. Còn Huyến là người cẩn thận. Trong lúc chuyện trò, Sắc hay nói chuyện văn thơ yêu nước. Còn Hiếu hay pha trò bằng những câu châm biếm bọn viên chức thực dân làm việc ở sở tài chính. Cuộc đời của Hiếu có phần cay đắng hơn cuộc đời của Sắc, Hiếu phải chật vật lắm mới kiếm được mảnh bằng thành chung để lọt được vào làm ở sở tài chính. Làm việc ở sở tài chính, Hiếu có dịp quan sát khá đầy đủ bộ mặt của bọn thực dân và bọn tay sai ra vào nơi đây để buôn bán đồng tiền. Chúng là bọn quan lại tham lam bỉ ổi đủ các cỡ, đến nỗi có lần, Hiếu đã phải thốt lên: "Ghét kẻ chui luồn kẻ quắt quay" (18).
Tại Sở Tài chính, Hiếu lập ra một "làng thơ nho nhỏ". Sắc không quen nghề thi ca, nhưng tuyên bố ủng hộ "làng thơ nho nhỏ" của Hiếu, và những buổi bình thơ tại sở, Sắc đến dự nghe rất đều. Có lần, Hiếu đọc cho Sắc nghe một bài thơ nói về Hà Nội:
"Anh em Hà Nội ta ơi
Gương cao đã tỏ cho đời soi chung.
Người văn vật, đất Thăng Long
Hãy còn chí khí anh hùng, khá khen!"
Bài thơ này, sau đó được Hiếu bổ sung viết thành một bài thơ dài (19),
Sắc thích bài thơ ấy vô cùng. Âm hưởng của bài thơ đã góp phần làm thức dậy trong lòng Sắc một niềm tự hào về nơi chôn rau cắt rốn của anh: "Đất Thăng Long". Đất ấy có cái xung khí của rồng bay, đồng thời cũng có cái nẩy mầm của sự sống.
Công việc ở Sở tài chính, ngày càng bề bộn, ngờm ngợp lên những chồng giấy tờ "cao như non bộ", làm cho Nguyễn Văn Sắc vốn lúc đầu hăm hở với nó, nhưng về sau anh thấy nó "ngây ngấy sốt". Bởi vì, nhìn bề ngoài trông nó có vẻ đang hoàng nghi vệ, nhưng thực ra nó có khác gì cảnh ao tù nước đọng. "Có những hôm anh Sắc đi làm về là gieo ngay xuống giường nằm thở dài thườn thượt!" (20).
"Cơn sốt lòng" đến với Nguyễn Văn Sắc là qua những con số mà anh đã phân tích, tổng hợp, ngày càng thấy rõ những tội ác tày trời của chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương. Bằng chuyên môn của mình, anh biết rất rõ rằng ngay từ năm 1898, Chính phủ Pháp đã lập ra ngân sách Đông Dương nhằm thống nhất sự thu, chi của cả Đông Dương vào tay người Pháp. Ngân sách Đông Dương tăng lên vùn vụt bởi sự bóc lột, vơ vét của thực dân Pháp đối với Đông Dương. Một trong những biện pháp làm cho đẫy tiền Đông Dương căng phồng lên là chính sách thuế khóa, Mọi người dân Đông Dương bất kỳ ở lứa tuổi nào đều phải nai lưng ra gánh chịu mỗi ngày một nhiều thứ thuế. Chúng tìm mọi cách để tăng thuế: thuế trực thu có thuế thân, thuế điền, thuế gián thu có thuế rượu, thuế muối... Thuế má như chiếc gậy khổng lồ giáng xuống lưng người dân Việt Nam. Còn người Pháp lại vô cùng béo bở. Các nhà buôn Pháp mang hàng vào Việt Nam không phải nộp thuế. Người Pháp lập xưởng máy trên đất Việt Nam, nhưng không phải nộp thuế đất... Đau xót vô cùng và tàn nhẫn vô cùng trước cảnh thực dân Pháp dùng ngân sách Đông Dương để nuôi dưỡng bộ máy thống trị. Chúng bắt nhân dân lao động Đông Dương làm còng lưng để cho ngân sách Đông Dương phình ra. Khi ngân sách Đông Dương căng phình ra, chúng ăn tiêu càng phè phỡn. Toàn quyền Đông Dương đã quyết định dành 70% các ngân sách để chi tiêu cho bộ máy thống trị của Pháp và tay sai của Pháp ở Đông Dương. Một công chức Pháp tuy làm công việc như công chức Việt Nam nhưng lại được hưởng lương gấp 16, 17 lần một công chức Việt Nam. Lương chính và các khoản khác của một viên toàn quyền Đông Dương thường gấp tới 454 lần một tùy phái người Đông Dương... đấy, những con số mà Sắc nắm được cứ đập vào mắt anh, như những chiếc gai nhọn đâm vào mắt, làm anh vô cùng nhức nhối, khó chịu. Không biết thì thôi, nhưng một khi đã biết lại càng thêm đau xót.
Trong khi địch họa ghê gớm như vậy, thiên tai cũng liên tiếp giáng xuống dân lành. Trên bàn làm việc của Sắc để các sổ sách thống kê, ghi rõ những thiệt hại mà nhân dân Đông Dương phải gánh chịu qua những trận lụt khủng khiếp của các năm 1902, 1903, 1904, 1905, 1909, 1911, 1913, 1915, 1917, 1918, 1923, 1924, 1926... Riêng trận lũ lụt xảy ra năm 1926, nhân dân gọi là "lụt Bính Dần", đã làm cho hầu như toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ bị ngập, mất trắng hàng chục vạn mẫu lúa. Nhà cửa, gia súc bị thiệt hại không thể lường được. Đất nước lúc bấy giờ thật sự lâm vào cảnh:
"Khắp nơi máu đổ nhà xiêu
Cửa ô, thành quách tiêu điều xót xa" (21).
Trước cảnh đất nước như vậy, Sắc thấy mệt mỏi và chán chường. Lại thêm những chuyện chướng tai gai mắt xảy ra hàng ngày trong xã hội thực dân và trong sở tài chính, làm anh càng thấy tủi hờn cho kiếp đời nô lệ. Sắc mang nỗi sầu bi này tâm sự với Huyến, Huyến là hội viên Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội từ cuối năm 1926. Nghe Sắc bày tỏ nỗi lòng, Huyến xúc động thấy Sắc là người có chí hướng.
Cho tới một hôm vào cuối năm 1926, các anh Nguyễn Danh đới (22), Vương Văn Mùi (23) và Trần Quang Huyến là những hội viên của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đến nhà Sắc để tuyên truyền cách mạng cho Sắc. Các anh đưa cho Sắc đọc những số báo Lơ Pa-ri-a (Le Paria), trong đó có nhiều bài do đồng chí Nguyễn ái Quốc viết về vấn đề cách mạng thuộc địa. Những bài viết của cụ Phan Bội Châu đã giúp Sắc có được những nhận thức về đất nước con người Việt Nam. Rồi phong trào cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam được phản ánh qua sách, báo có tác dụng nâng nhận thức tư tưởng của Sắc lên một bước mới.
Sau đó ít lâu, vào đầu năm 1927, các anh Đới, Mùi và Huyến lại đến gặp Sắc. Lần này các anh nói với Sắc về một tổ chức cách mạng có xu hướng xã hội chủ nghĩa đã được thành lập. Đó là Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Các anh gợi ý cho Sắc nên gia nhập tổ chức này. Sau khi hỏi cặn kẽ về mục đích và chương trình hoạt động của Thanh Niên(24),
Sắc quyết định xin gia nhập tổ chức ấy. Việc gia nhập Thanh Niên là bước ngoặt tư tưởng trong cuộc đời của Sắc. Từ đây, Sắc được đứng trong một tổ chức cách mạng, cùng với đồng đội của mình và nhân dân mình đánh đuổi thực dân, giải phóng Tổ quốc. Được biết đồng chí Nguyễn ái Quốc tác giả cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp và tác giả của những bài đăng trên báo Lơ Pa-ri-a, chính là người sáng lập ra Thanh Niên, Sắc càng tin tưởng vào tổ chức của mình. Với Nguyễn ái Quốc, Sắc coi đó như một ngôi sao sáng dẫn anh đi tới thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Từ đây, Nguyễn Văn Sắc mang tên đệm mới: Nguyễn Phong Sắc.
Chi hội Thanh Niên đầu tiên của Hà Nội được thành lập vào cuối năm 1926 do Nguyễn Công Thu (25), lúc ấy là liên lạc cho Tổng bộ Thanh niên đứng ra vận động. Đầu tiên, Thu kết nạp Mai Lập Đôn (26), dần dần số hội viên lên tới 11 người (bao gồm những người được kết nạp tại Hà Nội và những người được đồng chí Nguyễn ái Quốc kết nạp tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu, Trung Quốc, và được cử về hoạt động tại Hà Nội (27).
Riêng TrầnQuang Huyến trong một thời gian ngắn đã xây dựng được 4 tổ Thanh Niên: một tổ ở thôn Lạc Trung (Ô Đông Mác), quê vợ anh, 2 tổ ở nhà số 6 và nhà số 24 phố Bát Đàn. Còn một tổ ngay tại nhà anh. Tổ này gồm 3 anh em ruột: Trần Quang Huyến, Trần Thế Huân (29) và Trần Tích Chu (30).
Khi thành lập, chi hội qui định mỗi hội viên phải giác ngộ được 2 người trở lên, cứ thế mà phát triển thành tổ "tam tam" (tổ ba người). 11 hội viên lúc ban đầu trực tiếp đứng ra giác ngộ quần chúng tốt, rồi đưa họ vào tổ chức, qua đó mà thành lập 11 tổ và cứ thế lớn dần lên. Nhiều hội viên rất năng nổ trong cuộc vận động đưa người vào hội trong đó, phải kể đến Nguyễn Công Thu. Mai Lập Đôn, Trần Quang Huyến, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Danh Đới, Vương Văn Mùi, Mai ThịVũ Trang (28)...
Nguyễn Phong Sắc là một trong số hội viên làm tốt công tác giác ngộ thanh niên vào hội. Sau khi kết nạp được hội viên, anh đứng ra thành lập một tổ. Tổ của Sắc lúc đầu có 2 người, sau được thêm Trịnh Ngọc Long (31).
Tổ của Sắc thường sinh hoạt tại nhà anh, làng BạchMai. Những cuộc họp liên tổ thường được tổ chức ở nhà Sắc hoặc nhà Huyến.
Hà Nội vào những năm 1926, 1927, 1928, ngoài các cơ sở tại nhà Nguyễn Phong Sắc và nhà Trần Quang Huyến, tổ chức Thanh Niên còn bắt mối được nhiều cơ sở khác như nhà số 92 phố Chợ Đuổi (nay là nhà tám mái ở phố Tô Hiến Thành), chủ nhà là bà Quyên; nhà số 14 phố Đại La (ngã tư Trung Hiền) là nhà của bà Hồi ở Hoàng Mai; một nhà ở ngay cạnh cổng chùa Hương Tuyết, Bạch Mai; nhà số 15 phố Hàng Nón, chủ nhà là bà Thuận Mỹ; nhà số 37 ngõ TânHưng (nay là ngõ tức Mạc)... Những cán bộ của Thanh Niên như các anh Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Danh Đới, Đặng Xuân Khu, Trịnh Đình Cửu... thường qua lại những nơi ấy để hoạt động. NHưng cơ sở mà các nhà cách mạng đi lại nhiều hơn cả vẫn là ngôi nhà số 47 phố Mi-ri-ben, nhà của Trần Quang Huyến. Ngôi nhà này nằm ở một đường phố trung tâm của Hà Nội, gần ga Hàng Cỏ, nên việc đi lại khá tiện lợi. Nhà có hai lớp, tường vách trát vôi vữa, mái lợp ngói ta. Lớp ngoài có hai gian với một lối đi giữa và một cửa ngách. Cách một cái sân là lớp nhà trong, có một gian nhỏ, là phòng ở của Trần Thế Huân và Trần Tích Chu. Phòng này tuy hẹp, nhưng rất kín đáo. Anh em vẫn đến tụ tập nơi đây, gặp gì ăn ấy, sống giản dị, xuề xòa, nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Nơi đây còn là một "trường học" đào tạo các tổ trưởng Thanh Niên. Giảng viên là những cán bộ chủ chốt của Thanh Niên. "Bắt đầu, anh Nguyễn Danh Đới..., anh Trần Văn Cung tức Tú đến giảng một thời gian ngắn. Anh Nguyễn Đức Cảnh tức Trọng đi lại huấn luyện khá lâu. Rồi anh Đặng Xuân Khu đến kết thúc" (32).
Sẽ không đầy đủ nếu không trích những dòng sau đây của Trần Quang Huyến về chân dung những cán bộ chủ chốt của Thanh Niên hoạt động tại Hà Nội trong những năm 1927, 1928 và đầu năm 1929: "Nguyễn Danh Đới đến nhà tôi toàn di bộ. Vóc người đậm đà, dáng điệu ung dung trong bộ âu phục chỉnh tề. Anh nói năng hòa nhã, tính khí hiền hậu. Anh em đều mếm... Anh Trần Văn Cung lúc đó người vạm vỡ, thường vận âu phục, tính hạnh chân thực, khiêm tốn và nhã nhặn, được anh em quý mến. Anh Nguyễn Đức Cảnh tức Trọng, dáng người nhỏ nhắn, xinh xắn, nét mặt cứng cỏi, đôi mắt sáng, tỏ vẻ thông minh, lanh lợi. Anh thường mặc bộ quần áo tây, cổ đứng, đi đôi giày vải. Khi ở ngoài đường, anh rảo bước nhanh nhẹn, mắt luôn luôn để ý cảnh giác. "Tránh chạm trán với những quân chó săn" là điều anh em thường được nghe anh nhắc nhở luôn. Một chiến sĩ lỗi lạc như anh, bồi dưỡng thêm cho chúng tôi những lý luận chính trị thực tế; do đó, sự hiểu biết của anh chị em có tiến bộ rõ rệt. Mọi người đều mến anh. Anh Đặng Xuân Khu, dáng người nhã nhặn như một thư sinh. Anh thường đội mũ trắng, mặc quần áo ta, đi đôi giày ta. Nét mặt lúc nào cũng tươi. Thoạt trông thấy anh, anh đã vui cười. Thật là lạc quan cách mạng. Anh nói rất vui, rõ ràng, lưu loát. Tính hạnh nhã nhặn, khiêm tốn. Anh em rất mến phục" (33).
Ngôi nhà của Trần Quang Huyến được chọn làm trụ sở liên lạc bí mật của Thanh Niên, đưa cán bộ ra nước ngoài và đón cán bộ từ nước ngoài trở về hoạt động. Ngôi nhà của Nguyễn Phong Sắc được chọn làm địa điểm của những cuộc họp tuyệt mật có cán bộ của Tổng bộ và Kỳ bộ Bắc Kỳ của Thanh Niên tới dự. Gia đình ông Phúc đã dành một căn phòng nhỏ, phía sau bàn thờ Phật, rất kín đáo, để hội họp. Lúc ấy, Bạch Mai còn là khu ngoại ô, ít người qua lại nên việc hội họp ở nhà Sắc là rất thuận lợi.
Từ ngày được đứng trong Thanh Niên, Nguyễn Phong Sắc hoạt động cho tổ chức nhiều hơn làm việc ở sở tài chính. Những ngày anh "cáo ốm", vắng mặt ở sở, chính là lúc anh đang giải quyết công việc của đoàn thể. Tổ chức Thanh Niên càng phát triển, việc chi phí mọi mặt như in tài liệu, mua sách báo..., ngày càng nhiều. Điều đó đòi hỏi phải có tiền. Kỳ bộ Bắc Kỳ và Tỉnh bộ Hà Nội (34) kêu gọi sự đóng góp của các hội viên. Nguyễn Phong Sắc hưởng ứng lời kêu gọi bằng cách hàng tháng đem nửa số tiền lương ủng hộ công quĩ. Việc làm của anh được tổ chức đánh giá như một nghĩa khí.
Đầu năm 1927, công việc ở Sở tài chính thật là bề bộn. Các phòng đều quyết toán ngân sách năm 1926. Nguyễn Phong Sắc không thể thoái thác công việc vì anh là tham biện của sở. Trong lúc công việc đang bề bộn, tại sở có xảy ra một chuyện lôi thôi: một tên xếp người Pháp chỉ vì không vừa ý trước cử chỉ của một nữ nhân viên phục vụ người Việt Nam, y mắng chị ta là "đồ con lợn" (35).
Sắc nghe biết chuyện này. Anh giận lắm, liền đến gặp tên xếp, phản đối lời nói thô bỉ của y. Tên xếp cậy thế "nước mẹ" mắng lại Sắc. Y còn dọa đánh anh nếu anh còn cãi lại.
Về nhà, Sắc buồn ủ rũ, cầm bát cơm lên ăn nhưng không sao nuốt nổi. Từ đấy, hàng ngày đến sở, người ta thấy anh ít ngồi vào bàn làm việc mà cứ thững thờ đi lại vòng quanh sân (36).
Tên Pê-sôn-rơ thấy vậy mời anh vào và hỏi vì sao mà buồn? Không ngần ngại, Nguyễn Phong Sắc trả lời là người Pháp xúc phạm đến danh dự người Việt Nam, khi tên xếp mắng một nữ nhân viên là đồ con lợn, vì vậy mà buồn. Pê-sôn-rơ lúc ấy đang là quyền giám đốc sở, thay tên Nô-rét (M.Nores), đang về Pháp công cán, thấy Sắc than vãn như vậy, y không những không "đấu dịu" với anh, mà còn cậy quyền, cậy thế nói rằng, làm sai người ta mắng là phải. Sắc bực lắm. Anh trở vội vào bàn làm việc, lấy giấy bút ra viết đơn xin thôi việc. Tin Sắc thôi việc làm xôn xao khắp Sở tài chính. "Người ta đóng cửa phòng lại bàn tán rất ghê. Nhiều người không cắt nghĩa nổi tại sao một viên công chức cao cấp như thế lại đùng đùng xin thôi việc? Chỉ có những người bạn chí cốt của anh mới hiểu được nỗi lòng của anh và càng khâm phục anh". Cụ Hồ Trọng Hiếu, người bạn đồng nghiệp với anh ở Sở tài chính, có kể lại như vậy.
Không cần một lời đáp lại của Pê-sôn-rơ, ngay từ hôm sau, anh không đến sở làm việc nữa. Tên Pê-sôn-rơ cho tay chân đến nhà dụ dỗ thế nào anh cũng không chịu đi làm. Chúng dọa đưa anh ra tòa, anh cũng mặc. Đây là lần thứ hai Nguyễn Phong Sắc từ chối "ân huệ" của thực dân đối với anh. Lòng tự tôn dân tộc đã đưa anh đến hành động này. Đối với anh, chức vụ và đồng tiền không còn có ý nghĩa gì một khi nhân dân Việt Nam đang còn sống trong vòng nô lệ, đang bị xúc phạm.
Rời Sở tài chính, Nguyễn Phong Sắc làm cuộc hành trình tới nhiều nơi. Đầu tiên anh ra Hồng Gai đất mỏ, sau đó ngược lên Lạng Sơn, rồi xuống Ninh Bình, Cụ Hồ Trọng Hiếu cho biết sau khi thôi việc ở Sở tài chính, Sắc còn đi đến tận Sầm Nưa (Lào) và có viết thư về cho Cụ. Nữ sĩ Ngân Giang tả chuyến đi của Sắc:
"Rồi từ đấy ra đi không hẹn
Hết Ninh Bình lại đến Hồng Gai
Nước Lào "pa-thét" khắp nơi
Tìm người đồng chí ngỏ lời núi sông".
Tung hoành xứ sở Đông Dương một thời gian, Nguyễn Phong Sắc lại trở về Bạch Mai, Hà Nội vào giữa năm 1927. Khi Sắc trở về, xảy ra nhiều biến cố lịch sử. Tháng 5 năm ấy, một vạn rưởi nhân dân Hà Nội thuộc đủ các tầng lớp cùng nhau biểu tình trước tụ sở tờ báo Dân, một tờ báo bênh vực thực dân Pháp, đăng bài đả kích các nhà chí sĩ Việt Nam. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân Hà Nội, tờ báo Dân phải đình bản. Liền sau đó, tháng 6, hàng vạn nhân dân Hà Nội nô nức kéo đến nghĩa trang Hợp Thiện, tưởng niệm nhà yêu nước Lương Văn Can vừa từ trần. Lòng căm thù của nhân dân Hà Nội càng bùng lên khi quân đội Pháp tỏ thái độ khiêu khích, ngăn cản. Cuộc chống trả của nhân dân làm cho bọn lính Pháp hốt hoảng. Song cuối cùng chúng đã bắt đi nhiều người và làm bị thương một số người.
Hai sự kiện náo động Hà Nội lúc ấy đã làm cho người dân Hà Nội phải suy nghĩ nhiều trước vận mệnh của đất nước. Nguyễn Phong Sắc cũng nằm trong suy tư chung của nhân dân Hà Nội. Anh nảy ra ý nghĩ muốn trở về với nghề dạy học để truyền đạt cho học sinh những tư tưởng yêu nước qua những vần thơ, bài văn của Đông Kinh Nghĩa Thục và của các bậc sĩ phu, trong đó có thơ văn của cụ Phan Bội Châu. được Trịnh Bá Bích làm môi giới, Sắc xin được vào dạy học tại trường Nguyễn Văn Tòng. Dạy tại trường này một thời gian ngắn, nhà trường thải hồi anh với lý do: lạm dụng những giờ dạy toán để tuyên truyền văn thơ yêu nước Việt Nam.
Rời trường Nguyễn Văn Tòng, Nguyễn Phong Sắc tự động làm đơn xin dạy lại trường Thăng Long, một trường tư thục nổi tiếng Hà thành bởi có nhiều thầy giáo dạy giỏi. Trong những ngày dạy học tại trường Thăng Long, Nguyễn Phong Sắc càng có nhiều điều kiện tiếp xúc với những trí thức yêu nước, đồng thời cũng được đọc thêm nhiều sách, báo tiếnn bộ. Trong những ngày này, Sắc càng có điều kiện hoạt động mạnh trong Thanh Niên. Anh đi đến các nhà máy, trường học, để vận động công nhân, học sinh. Anh lui tới xưởng ôtô A-vi-a tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản trong công nhân. Anh đến gặp gỡ và tìm hiểu tình hình công nhân khách sạn Thuộc Địa (Hotel des Colonies) (37),
xem xét những phần tử ưu tú trong công nhân để giác ngộ cách mạng cho họ. Anh thường nói với anh em rằng: "Muốn hoạt động cách mạng tốt, thì phải vào nhà máy làm với công nhân, tiếp xúc với họ, tuyên truyền giác ngộ cho họ" (38).
Từ khi Nguyễn Phong Sắc vào hoạt động cách mạng, bạn bè thấy anh nhanh nhẹn, khỏe mạnh hẳn ra. Trên gương mặt hiền hòa đã thấy lấp ló nụ cười mà trước đó người ta không thấy xuất hiện. Anh sống chân tình với anh em, đồng chí nên ai cũng mến anh, tìm đến anh để hỏi điều này, điều nọ. Căn nhà của anh vẫn là nơi đi lại thường xuyên của những cán bộ cách mạng ở Hà Nội. Vì vậy, anh em mới gọi căn nhà này là "nhà đồng chí". Có người đến ở hẳn nhà anh để hoạt động như Trần Học Hải (39).
Chính anh Sắc đã tìm mọi cách đút lót cho tên cai Kim mấy đồng bạc để xin cho Hải được vào làm thọ nguội ở xưởng A-vi-a. Nhiều người thường xuyên đến trú ngụ và ăn uống tại nhà Nguyễn Phong Sắc như Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trần Văn Cung... Những người mà sau đó cùng với Sắc thực hiện cuộc vận động thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Với đồng đội, Sắc sẵn lòng hy sinh tất cả. Anh rất tận tâm nuôi nấng các đồng chí để hoạt động. Từ ngày thôi việc ở Sở tài chính, kinh tế gia đình sụt hẳn xuống, song khôngvì thế mà anh từ chối việc các đồng chí đến nhà anh ăn uống. Có những lần, nhiều người ăn quá, Sắc phải đem bán đinhững cuốn sách quí, thậm chí bán cả chiếc xe An-si-ông để lấy tiền đong gạo, mua rau... nuôi đồng chí. Việc làm đầy tinh thần vô sản của Sắc đã thật sự góp phần nhen nhóm lên ngọn lửa hồng cách mạng ở Hà Nội trong những năm chuẩn bị thành lập Đảng.
Từ năm 1928, phong trào vận động quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng phát triển mạnh. Nhiều cơ sở được củng cố và mở rộng. Nhiều người trưởng thành từ phong trào cách mạng ở Hà Nội, được cử đi xây dựng cơ sở ở nhiều tỉnh khác. Những người ở lại Hà Nội lo việc tiếp tục gây cơ sở và giác ngộ cách mạng cho quần chúng. Một trong những công việc trước mắt là in tài liệu, truyền đơn. Lúc đầu in tại nhà Trần Trọng Huyến, sau nữa lại dọn đến nhà số 25 ngõ Liên Trì, rồi lại đến ngôi nhà số 11, phố Vi-ê-lê (Rue Wiélé) (40).
Lúc đầu, in bằng thạch, sau anh em nghĩ ra cách in rô-nê-ô để được nhiều bản. Dụng cụ ấn loát để in rất đơn giản. Anh em đóng một chiếc khung gỗ có đáy, đúng với khổ giấy xếp bên trong, trên có nắp đậy. Làm một ống ru-lô, phết một lớp keo bì trâu đun lẫn với thạch cho dẻo quánh để lăn trên giấy được dễ dàng. ống ru-lô quay vòng quanh trục gỗ. Hai đầu trục có hai càng chéo lại để làm chỗ cầm. Bản in bằng giấy trắng rải lên trên miệng dạ, rắc nến bạch lạp, rồi lấy bàn là nóng là lên trên. Nến chảy ra thành giấy bóng. Đem giấy bóng đặt lên giũa sắt, lấy kim đĩa hát làm ngòi bút viết chữ hằn xuống giấy. Đặt giấy nến bóng lên trên giấy in, cầm ru-lô lăn vào mực, vào giấy bóng. Mực thấm những chữ xuống giấy in. Rút tờ trên ra, lại đặt xuống tờ dưới. Mỗi lần in như vậy được tới 200 bản (41).
Thiếu mực, anh em dùng khói đèn dầu hỏa hòa với nước sơn để in. Chữ in ra rất đen và đẹp. Công thức này được coi như một sáng kiến phổ biến rộng rãi cho các "xưởng in" của Thanh Niên ở Hải Phòng, Nam Định... Nhờ có việc cải tiến từ in thạch chuyển sang in rô-nê-ô mà số lượng truyền đơn tăng nhanh, phân phát tới nhiều cơ sở. Có tài liệu, truyền đơn trong tay, những cán bộ của Tỉnh bộ thanh niên Hà Nội càng hoạt động mạnh. Vào dịp kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, Cách mạng tháng Mười Nga... đều có phát truyền đơn và treo cờ đỏ búa liềm trong các công sở, trường học, đường phố. Bọn mật thám địch thấy ta hoạt động mạnh, chúng càng khủng bố dữ. Một số đồng chí bị chúng bắt, trong số này phải kể đến Đặng Đình Hướng, hội viên Thanh Niên, sinh hoạt ở tổ 6 phố Bát Đàn. Hôm ấy, ngày 2-5-1928, Hướng được trao nhiệm vụ mang truyền đơn ra phát ở ngoại thành. Vào quãng nhá nhem tối, Hướng mang một bó truyền đơn, đi xe đạp xuống ngã tư Vọng. Tới gần đồn Phương Liệt, anh thấy ba tên mật thám người Việt ở phía dưới đi lên. Anh xuống xe, dựng xe vào cột đèn, giả vờ vào hàng uống nước. Nhanh trí, Hướng nhét gói truyền đơn xuống gầm chõng nhà hàng. Chúng đi tới. Một tên quát to: "Xe của ai đây?". Hướng nói: "Của tôi". Y hỏi: "Tại sao xe không có đèn? Đưa thẻ xem nào?". Chẳng may Hướng lại không có thẻ, nhưng vẫn giả vờ sờ vào túi áo và năn nỉ nói: "Tôi chót bỏ quên ở nhà". Chúng yêu cầu anh dắt xe xuống đồn. Anh vừa dắt xe đi, chợt bà hàng nước vô tình gọi giật lại: "Bác ơi, bác còn bỏ quên cái gói gì kia kìa?". Bọn chúng chạy lại mở ra xem, té ra là gói truyền đơn, thế là chúng xích tay anh lại, đưa về đồn.
Trước tình thế nóng bỏng của Hà Nội, Tỉnh bộ Thanh Niên hoạt động mạnh, Nguyễn Phong Sắc càng hăng hái lao vào việc. Lúc này đây, chàng thanh niên Hà thành ấy thật sự tung cánh bay vào không gian bao la để tiếp tục thực hiện khát vọng mà anh đang vươn tới: giải phóng dân tộc. Anh đã được tổ chức Thanh Niên giao cho nhiều trọng trách.
Ngày 28-9-1928, Nguyễn Phong Sắc tham dự Đại hội lần thứ nhất của Kỳ bộ Thanh Niên Bắc Kỳ. Các đại biểu nhận rõ một trong những nhiệm vụ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội mà Điều lệ đã qui định là: "Các hội viên phải đi vào quần chúng mà vận động..." Vì thế, Đại hội đã nhận định: Cơ sở Thanh Niên ở các vùng kinh tế quan trọng còn yếu; số lượng hội viên tuy có phát triển, nhưng thành phần đa số là tiểu tư sản học sinh, trí thức. Đại hội chủ trương đưa các hội viên thuộc thành phần nói trên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để cùng lao động, cùng ăn, cùng ở với công nhân và nông dân, tuyên truyền, giác ngộ anh chị em đó về chủ nghĩa Mác - Lênin, và lãnh đạo anh chị em đấu tranh đòi các quyền lợi, qua đó, các hội viên tự rèn luyện mình.
Tháng 4 năm 1929, tại Đại hội Tỉnh bộ Thanh Niên Hà Nội,họp ở nhà số 68 phố Nam Đồng, Nguyễn Phong Sắc đã phát biểu ý kiến về cách tổ chức Thanh Niên trong các trường học, xí nghiệp và làng xóm. Đại hội bầu Ban chấp hành Tỉnh bộ Thanh Niên Hà Nội gồm ba người, do Nguyễn Phong Sắc làm Bí thư. Phạm vi hoạt động của Tỉnh bộ Hà Nội lúc đó gồm cả các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phúc Yên,Hưng Yên, Phú Thọ và huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ.
Với trách nhiệm là ủy viên Kỳ bộ Thanh Niên Bắc Kỳ, kiêm Bí thư Tỉnh bộ Thanh Niên Hà Nội, phụ trách công tác tuyên huấn, Nguyễn Phong Sắc đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Thanh Niên và phát triển tổ chức Thanh Niên. Năm 1929, riêng Bắc Kỳ có hơn 900 hội viên trong số hơn 1.500 hội viên Thanh Niên của cả nước. Từ cuối năm 1928, khi có phong trào "vô sản hóa" và sang năm 1929, sự lãnh đạo của Kỳ bộ Thanh Niên Bắc Kỳ và Tỉnh bộ Thanh Niên Hà Nội đã có nền nếp, có kế hoạch cụ thể và sát sao hơn trước; nhiều cán bộ hoạt động rất tích cực, thâm nhập công nhân và nông dân, có xu hướng chủ nghĩa cộng sản nhiều hơn trước.
Sự chuyển biến về tư tưởng và tổ chức đó trong Thanh Niên đánh dấu bước trưởng thành nhanh chóng và vững mạnh của Kỳ bộ Thanh Niên Bắc Kỳ và Tỉnh bộ Thanh Niên Hà Nội; trong đó, đồng chí Nguyễn Phong Sắc đã đóng vai trò một cán bộ lãnh đạo chủ chốt và xuất sắc của phong trào Thanh Niên lúc bấy giờ.
Những nét hoạt động nổi bật đó của đồng chí Nguyễn Phong Sắc trong tổ chức Thanh Niên là điều kiện rất cơ bản để phấn đấu trở thành người cộng sản chân chính. Cũng từ đây, anh bắt đầu thâm nhập phong trào công nhân bằng con đường "vô sản hóa".
=======================
CHÚ THÍCH 1 và 4. Theo lời thuật của cụ Nguyễn Văn Lực, đã dẫn.
2. Finanee: Tài chính.
3. Công chức cao cấp thời thực dân Pháp cai trị.
5. Bức hoành phi có 4 chữ lớn "Thụy khanh lưu thiện" (ý nói làm điều lành sẽ được truyền mãi). Bên trái có hàng chữ nhỏ: "Bản tộc đồng bái phụng". Bên phải có hàng chữ nhỏ: "Mùa thu ất Mão Duy Tân". Như vậy bức hoành phi này có trước khi ông Phúc làm nhà ngói.
6, 7. Theo lời thuật của cụ Nguyễn Văn Lực, đã dẫn.
8. Trường đào tạo quan lại dưới thời phong kiến và thực dân. Hậu bổ là chức quan chờ bổ vào chính ngạch.
9. Chức giúp việc tổng đốc hay tuần phủ.
10. Phần nói về ông Trịnh Đình Chương, chúng tôi dựa vào tài liệu của Đinh Văn Sa. Đình Văn Sa là con rể ông Chương, người làng Cự Đà, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là tỉnh Hà Sơn Bình).
11. Nguyễn Văn Dung, nguyên là công nhân. Năm 1945, tham gia Vệ quốc đoàn, chiến đấu trong Trung đoàn bảo vệ Thủ đô, hy sinh trong trận chiến đấu tại khu vực chợ Đồng Xuân ngày 14-4-1947. Anh là đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương từ năm 1944.
12. Nguyễn Văn Vinh (sau đổi là Nguyễn Phong Vinh), hoạt động cách mạng từ năm 1944, đã trải qua nhiều năm chiến đấu trong quân đội, có thời gian hoạt động báo chí của Thành ủy Hà Nội. Hiện nay công tác tại Ban tổ chức Trung ương Đảng.
13. Trịnh Bá Bích người làng Thượng Phúc, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là tỉnh Hà Sơn Bình), ra Hà Nội ở làng Bạch Mai, nay là phố Bạch Mai.
14. Hồ Trọng Hiếu tức Tú Mỡ (1900 - 1976), nhà thơ trào phúng nổi tiếng Việt Nam, người Hà Nội.
15. Trần Quang Huyến tức Đẩu (1893 - 1967), người làng La Khê, xã Văn Khê, Hoài Đức, Hà Nội.
16. Khi làng Bạch Mai được chuyển thành phố Bạch Mai, ngôi nhà này mang biển số 152.
17. Nay là ngôi nhà số 47 phố Trần Nhân Tông, Hà Nội.
18. Xem Thơ Tú Mỡ, NXB Văn học, Hà Nội, 1971, tr.9
19. Bài thơ này đã được tuyển chọn đăng trong Thơ Tú Mỡ, sách đã dẫn, tr. 78.
20. Theo lời thuật của cụ Nguyễn Văn Lực, đã dẫn.
21. "Thơ Ngân Giang", tài liệu lưu trữ tại gia đình Nguyễn Phong Sắc.
22. Nguyễn Danh Đới tức Điền Hải (1906 - 1944), quê Thái Bình, dự lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, Bí thư Kỳ bộ Bắc Kỳ của Thanh Niên, hoạt động rất tích cực, bị địch bắt nhiều lần, giam tại các nhà tù Côn Đảo, Bắc Mê (Hà Giang), căng Bá Vấn (Phú Thọ).
23. Vương Văn Mùi (1930), quê Hà Nội, một trong những hội viên của Thanh Niên ở Hà Nội.
24. Gọi tắt của tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.
25. Nguyễn Công Thu (1894 - ), người xã Đông Trung, phủ Kiến Xương, nay là xã Vũ Trung, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Ông vào Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội năm 1925, làm liên lạc cho Tổng bộ Thanh Niên, có công đưa một số cán bộ sang dự lớp huấn luyện chính trị do đồng chí Nguyễn ái Quốc và Tổng bộ Thanh Niên tổ chức tại Quảng Châu; đồng thời có công giác ngộ được một số người vào Thanh Niên.
26. Mai Lập Đôn (chết năm 1946), quê Thanh Hóa, là một trong những cán bộ của Thanh Niên, hoạt động trong phong trào công nhân. Năm 1927, tham gia ủy viên Kỳ bộ Bắc Kỳ của Thanh Niên.
27. 11 người là:
- Nguyễn Công Thu
- Vi Nam Sơn
- Nguyễn Danh Thọ
- Nguyễn Danh Đới
- Nguyễn Phong Sắc
- Mai Lập Đôn
- Đỗ Mạnh Hàm
- Tạ Đình Tân
- Tạ Đình Tán
- Vương Văn Mùi
và một người nữa.
28. Mai Thị Vũ Trang, là một phụ nữ đầu tiên trong tổ chức Thanh Niên của Hà Nội năm 1926, tham gia phong trào "vô sản hóa" ở Nam Định, hoạt động cách mạng tại Hà Nội, Nam Định... Có tài liệu nói rằng, Mai Thị Vũ trang, cũng là một trong những hội viên đầu tiên của Thanh Niên, Hà Nội.
29. Trần Thế Huân (1895 - 1971), em ruột Trần Quang Huyến, Huân hoạt động trong tổ chức Thanh Niên của Hà Nội từ năm 1927, sau đó vào công tác tại Trung Kỳ.
30. Trần Tích Chu (1897 - 1933) em ruột Trần Quang Huyến và Trần Thế Huân. Chu là một trong những hội viên Thanh Niên của Hà Nội, có thời kỳ là Thành ủy viên Hà Nội; bị bắt và xử án năm 1931, hy sinh tại nhà tù Sơn La năm 1933.
31. Chưa rõ lai lịch.
32. Theo bản Tự thuật của Trần Quang Huyến, đề tháng 10 năm 1962, hiện lưu tại gia đình cụ Trịnh Thị Tĩnh, vợ đồng chí Huyến, nhà số 47 phố Trần Nhân Tông, Hà Nội. Bản Tự thuật dày 18 trang giấy học sinh, rất có giá trị vì nó phản ánh đúng lịch sử. Gia đình cụ Tĩnh coi bản Tự thuật như một cuốn gia phả quí.
33. Theo bản tự thuật của Trần Quang Huyến, đã dẫn.
34. Sau khi Kỳ bộ Bắc Kỳ của Thanh Niên được thành lập vào tháng 3 - 1927, Chi bộ Hà Nội được chuyển thành Tỉnh bộ.
35. Theo sách Những người cộng sản, NXB Thành Niên, Hà Nội, tr. 104.
36. Sở tài chính Đông Dương (thời kỳ Nguyễn Phong Sắc làm việc) ở phố Hàng Trống, khu vực báo Nhân Dân hiện nay.
37. Khách sạn Thuộc Địa lúc ấy ở phố Hàng Trống, Hà Nội.
38. Xem sách Vô sản hóa, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1972, tr. 20,
39. Tức Trần Hồng Vận, tức Trần Văn Sửu, công nhân xưởng A-vi-a, hoạt động trong phong trào công nhân và Công hội đỏ từ năm 1929.
40. Hiện nay là phố Tô Hiến Thành, Hà Nội.
41. Theo bản Tự thuật của Trần Quang Huyến, đã dẫn.