KỸ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ÐẠI
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 37 bài trong đề mục
Viet duong nhan 31.12.2005 06:18:49 (permalink)
0
KỸ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ÐẠI
VÀ TIÊU CHUẨN ÐÁNH GIÁ MỘT BÀI THƠ

Bài của Nguyễn Vũ Văn

LỜI NÓI ÐẦU


Ðây là những nhận xét của tôi sau nhiều năm làm thơ và xem thơ, tuy rằng tôi làm thơ rất ít. Những nhận xét này không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót và sai lầm, nhưng tôi không thể kìm lòng mà không viết ra một vấn đề mà từ xưa đến nay có lẽ chưa có ai làm, đó là kỹ thuật thơ Việt Nam hiện đại, và nhân tiện đó đi tìm những tiêu chuẩn cho một bài thơ hay.

Nếu bài viết này khơi lên được những lời phê bình hay bổ khuyết cho để vấn đề nêu ra được sáng tỏ, đó là điều làm tôi mãn nguyện.

Ngoài ra, vì thiếu sót tài liệu, tôi mạn phép trích dẫn một số câu thơ của tôi, mong độc giả lượng thứ.

Tôi cũng xin cảm tạ các bạn Bồ Tùng Linh, Mai Ninh, Bùi Tiến Hoàng và Mai Anh Tuấn trong nhóm Siliconband đã góp ý kiến và tài liệu cho bài này.

Nguyễn Vũ Văn
vanvung@teleport.com
http://www.teleport.com/~vanvung/

Kể từ khi đất nước bị chia cắt vào năm 1954, thi ca miền Nam với những đỉnh cao như Vũ Hoàng Chương và Ðinh Hùng còn mang đậm nhiều nét cổ điển. Cho tới năm 1956, khi tạp chí Sáng Tạo ra đời cùng với sự xuất hiện của một số nhà thơ ngoài nhóm Sáng Tạo, văn thơ miền Nam đã có một sắc thái tân kỳ về nội dung cũng như kỹ thuật. Từ đó kỹ thuật thơ Việt Nam càng ngày càng đổi mới, tiến triển, nhưng cũng mang lại không ít ngỡ ngàng cho số đông độc giả. Một số bài thơ có vẻ khó hiểu khiến người ta không chấp nhận được. Và những bài thơ hay không được thưởng thức. Bởi vì không có tác giả nào nói ra kỹ thuật của mình và có lẽ cũng không có ai khác đề cập đến.
Ngược lại, người ta vẫn ca tụng một số bài thơ mà không chú ý đến kỹ thuật kém cỏi. Vàng thau lẫn lộn.

Bởi vậy bài này được viết nhằm mục đích nêu lên một số đặc điểm của thơ hiện đại, về hình thức cũng như nội dung và kỹ thuật, đồng thời đề nghị những tiêu chuẩn của một bài thơ hay.

Trước hết, chúng tôi cố gắng xác định cách hợp vận mà nhiều người còn lầm lẫn, sau đó sẽ nêu lên các đặc điểm khác về thơ.



Ðoạn 1. CÁCH HỢP VẬN

Nguyên tắc : vần bằng hợp với vần bằng, vần trắc hợp với vần trắc. (Trong âm nhạc, bằng có thể hợp vận với trắc, thí dụ: nhà hợp vận với nhá).

Âm vận : Cách hợp vận trong thơ không có căn bản ngữ âm (phonetics) nào cả, ở đây tôi chỉ dựa theo cách hợp vận cổ truyền mà phân biệt như sau.

Âm vận có 2 loại toàn vận và bán vận.

Toàn vận : 2 từ chỉ khác nhau về phụ âm đầu. Thí dụ: a) tình, mình, khinh, linh. b) ta, mà, la, tha.

Bán vận : 2 từ khác nhau trong nguyên âm hay trong nguyên âm và phụ âm cuối.

A.- Bán vận trong nguyên âm : Những âm họp thành nhóm sau đây hợp vận với nhau:

1/ a, ă, â, o, ơ, ô, u, ư, oa, ua, ưa. Thí dụ: a) tha, mo, lu, thư, thoa, qùa, cua, thưa. b) lạ, thố, thụ, thóa, qụa, thủa, thửa, lựa. c) chang, rằng, nằm, lầm. d) thôn, mun,

2/ i, e, ê, oe, ue, uê, uy. Thí dụ: a) thi, me, ve, que, quy. b) thí, lẹ, thế, nhuệ. c) thịt, khét, chết. d) em, quen, đêm.

3/ ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, oai, ui, ưi, ươi, uôi. Thí dụ: a) thai, chay, khoai, mòi, thôi, lơi, thui, người, nguôi. b) thái, cậy, mọi, đổi, củi, ngửi, lưới, đuối.

4/ i, uy, uya

5/ ia, uya.

6/ i, e, ê, iê, uyê. Thí dụ: a) tin, men, lên, thiên, thuyền. b) tịt, lét, tết, khiết, khuyết, tuyệt, tiếc, tích.

7/ a (+phụ âm), o (+phụ âm), ô (+phụ âm), u (+phụ âm), ư (+phụ âm), ươ (+phụ âm). Thí dụ: chang, trong, nung, lưng, chương, chuông; trọng, chúng, thượng, chuộng, nướng; nóc, được.

8/ oa (+phụ âm), uâ (+phụ âm), uô (+phụ âm). Thí dụ: a) loan, luân. b) thoát, khoác, luật, thuốc. c) loang, khuôn, chuông, khuân, khuâng.

9/ ao, âu.

10/ eo, oeo, êu, iêu, yêu, iu.

Tóm tắt, nguyên âm chia làm 2 nhóm chính có âm phân biệt: (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư ) và (i, y, e, ê) . Nếu 2 nhóm này mà hợp vận với nhau thì bằng cách bắc cầu từ âm nọ qua âm kia, thì bất cứ 2 âm (2 nguyên âm hay 2 nhóm nguyên âm trong một từ) nào cũng có thể hợp vận với nhau.

B. Bán vận trong nguyên âm và phụ âm cuối . Nguyên âm thì theo nguyên tắc trên. Phụ âm cuối có thể thay đổi như sau:

1/ c, ch, t, p. Thí dụ: lắc, trách, tát, chập.

2/ n, nh, m. Thí dụ: a) than, cành, chàm. B) cận, thánh, cám.

3/ n, ng. Thí dụ: a) than, thong, không, thằng. B) cận, thắng, cống.

Thơ tự do rất hợp với bán vận. Trong thể thơ này, vần hợp nhau chan chát (thí dụ: hình, tình) làm câu thơ kém hay.

Ðiều tối kỵ trong âm vận : dùng 2 chữ giống nhau trong 2 vần kế tiếp hay trong 3 câu lục bát kế tiếp, ngoại trừ trường hợp nhắc đi nhắc lại để nhấn mạnh. (Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ). Thí dụ:


Nhà em mái tranh
Trắng giàn dây mơ
Bây giờ hoa cũ
Rụng hoài trong mơ (Phạm thiên Thư - Giàn mơ)

Tôi phải dỗ như là tôi đã lớn
Phải thẹn thò như sắp cưới hay vừa yêu
Phải nói vơ vào, rất vội: người yêu
Nếu ai có hỏi thầm: ai thế (Nguyên Sa - Tuổi 13)

Những câu thơ lạc vận :

Thơ lạc vận có rất nhiều trong các tạp chí và Web sites, không tiện trích dẫn ra đây.

Thỉnh thoảng trong bài thơ có một hai chỗ lạc vận thì còn có thể bỏ qua. Chứ cả đoạn lạc vận thì bài thơ không còn giá trị.

Ngay cả những nhà thơ nổi tiếng cũng có những câu lạc vận, do vô tình hay cố ý. Thí dụ:

Từ ngày đàn rẽ đường tơ,
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan .
Kéo dài một chiếc áo len ,
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Khánh ơi, còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã vỡ, nay tình còn nguyên. (Thâm Tâm - Gửi T.T.Kh)

Buồm lên biển tím chênh vênh,
Một đêm gã bỏ tình nhân lại bờ.
Lòng qùy nhớ mặt trời xa,
Vào quán biển hỏi thăm ngườ i xa xưa (Phạm thiên Thư - Quán rượu ven biển)

Con chim én cùng với thơ bay trong nắng
Trên môi anh dường có ngọn cỏ thơm
Là ngón tay nào trong mười ngón tay em
Có cả nụ hôn đầu quanh quất đó...
Tháng Giêng và anh rủ nhau ngồi dưới phố
Tô môi hồng xin nhớ cánh sen non
Tháng Giêng chờ một chút lượng xuân em
Nụ cười đó, anh chờ xuân vĩnh viễn (Nguyên Sa - Tháng giêng và anh)

Sao hương sắc lên mắt mình tình tứ
Và đôi mắt nhìn tôi ngập nhừng chim sẻ (Nguyên Sa - Tuổi 13)

Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình (Nguyên Sa-Áo lụa Hà Ðông)

Có phải tôi chưa được quen
Làm sao buổi sáng đợi chờ em ?
Hay từng hơi thở là âm nhạc
Ðàn xuống cung trầm mắt nhơ ?thương ? (Nguyên Sa - Tương Tư)

Nguồn: Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2006 03:12:06 bởi Viet duong nhan >
#1
    Viet duong nhan 31.12.2005 06:21:11 (permalink)
    0
    Ðoạn 2. HÌNH THỨC THƠ

    I. Sự chọn lựa thể thơ

    Thể thơ có nhiều: thơ đều chữ, không đều chữ và thơ tự do. Ở đây tôi không nói đến thơ Ðường luật mà chỉ nói đến các thể thơ mới.

    1/ Thơ đều chữ thay đổi từ 2 đến 8 chữ trong một câu.

    Loại 2 chữ cũng như loại 3 chữ khiến hơi thơ ngắn, và bài thơ cũng thường ngắn, không nói gì được nhiều. Người dùng loại thơ này nhằm mục đích nói lên những âm thanh ngắn như tiếng nức nở, tiếng mưa rơi...

    Thí dụ :

    Sương rơi
    Nặng trĩu
    Trên cành
    Dương liễu
    Nhưng hơi
    Lạnh lùng
    Hiu hắt
    Thấm vào ...
    (Nguyễn Vỹ - Sương rơi)

    Loại 4 chữ phổ biến hơn, nhưng coi chừng dễ biến thành vè.
    Thế nào là vè? Vè là thơ dân gian, loại thường thấy là Sớ Táo Quân.
    Vè có thể là thơ 2 hay 3 chữ, nhưng thường dùng thể 4 chữ hay lục bát. Vè 4 chữ dùng liên vận, tức là 2 câu liền nhau vần với nhau, thay đổi giữa bằng và trắc. Vè không chia bài thơ thành từng đoạn 4 câu.

    Loại 4 chữ chia từng đoạn 4 câu và dùng cách vận (giống 4 câu đầu của thể thất ngôn) thì hay hơn liên vận.

    Loại 5 chữ thường chia đoạn 4 câu và dùng cách vận.

    Loại 6 chữ cũng ít được dùng, nhưng thỉnh thoảng vẫn thấy trên thi đàn.

    Xuân hồng có chàng tới hỏi
    - Em thơ chị đẹp em đâu ?
    - Chị tôi hoa ngát cài đầu
    Ði hái phù dung trong nội !
    (Huyền Kiêu - Tình sầu)

    Thể thơ từ 4 đến 6 chữ cho hơi thơ trung bình, thích hợp với phong thái nhẹ nhàng, trang trọng.

    Loại 7 chữ rất phổ biến. Niêm luật không còn trói buộc, miễn là đọc lên, câu thơ không trúc trắc. Thể thơ này thích hợp với phong thái trang nghiêm, cổ kính.

    Loại 8 chữ là thể thơ hoàn toàn Việt nam, dùng liên vận, nhưng cũng ít được dùng. Thể thơ này thường diễn tả những tình cảm tha thiết, hùng tráng. Ðiển hình nhất là bài "Hổ nhớ rừng" của Thế Lữ. Gần đây Nguyên Sa hay dùng thể thơ này.

    Dĩ nhiên câu thơ càng dài thì có tính cách kể lể nhiều hơn và không cần xén bớt từ.

    Thơ đều chữ biến thể có chêm ít câu không đều chữ, hoặc thay đổi số câu (thay vì thông thường là 4) trong đoạn. Thể thơ này thường xảy ra với loại 4, 5 hay 6 chữ.

    Thí dụ về thay đổi số chữ trong câu:

    --thơ 5 chữ

    Khoảng thời gian loãng đó
    Không có mặt nàng
    Mưa đỏ miền cao nguyên
    Núi đồi sầu lụn bại
    Khi tôi trở về
    Thành phố lạnh khoang xe
    Mây sương lòng thung lũng
    Và ngàn thông co ro
    (Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)

    --thơ 8 chữ

    Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn (9 chữ)
    Nếu em sợ thời gian dài vô tận
    Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống (9 chữ)
    Trời không mưa em có lạy trời mưa ?
    Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường về
    Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm (9 chữ)
    (Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)

    Thay đổi số câu trong đoạn:

    Anh đứng đây là đâu
    Em cười như lá mỏng
    Khép cửa vào chiêm bao
    Anh đứng đây là đâu
    Em nói như gió nghẹn
    Chiều nghiêng mây Thị Mầu
    (Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)

    2/ Thơ không đều chữ có lục bát và song thất lục bát.

    Song thất lục bát không còn được dùng.

    Lục bát là loại phổ biến nhất vì dễ làm, nhưng người mới làm thơ cũng dễ biến nó thành vè. Dễ làm nhưng khó sửa. Làm câu nào là chết câu ấy. Bài thơ làm xong rồi, muốn thêm bớt một đoạn là cả một vấn đề bởi vì vần thơ cấu kết với nhau theo kiểu liên hoàn, vừa yêu vận (vần nằm giữa câu) vừa cước vận (vần ở cuối câu).

    3/ Thơ tự do.

    Loại thơ này rất thông dụng nhưng đòi hỏi kỹ thuật và sự sáng tạo nhiều nhất. Nhiều người cho rằng người mới làm thơ nên làm các loại thơ khác trước khi làm thơ tự do, để nắm vững kỹ thuật và âm điệu.

    Một loại thơ tự do đặc biệt là thơ xuôi, có hình thức như văn xuôi. Loại thơ này cần hơi thơ dài, mặc dù bị cắt thành từng câu ngắn, và dường như không chú ý đến âm vận.

    Thí dụ:

    Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu xó chợ...
    Hỡi Liên, những Liên và Liên
    Dù một chút đau thương, từ chối, tổ quốc ta chạy dài trên địa ngục, xòe mở hai bàn tay anh khóc đó - những cánh tay gầy trơ xương, chọn. Con đường đi buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù.
    (Thanh Tâm Tuyền - Liên, những bài thơ tình thời xa cách)

    Tôi giữ em lại trên một hè phố đông người. Em đừng ngần ngại. Tôi bảo rằng: tôi yêu em.
    Tôi nói không thẹn thùng, không đắn đo dò xét. Bởi vì em ơi tôi không phải là gã lái buôn hỏi giá hàng trong một buổi chợ chiều hỗn loạn. Cũng không phải là ngưoòi thư ký già ngồi mân mê vài chiếc đinh ghim và mưu toan làm chủ sự...
    (Nguyên Sa - Ngỏ ý)

    II. Cách chấm câu và xuống dòng

    Về cách chấm câu, mỗi người một ý. Có người chấm câu rất cẩn thận, có người không chấm câu. Người ta cho rằng việc xuống dòng không có dấu chấm phẩy bao hàm sự kéo dài ý nghĩa của câu thơ, "những khoảng trống có ý nghĩa".

    Theo ý tôi, thơ lục bát nên có chấm câu vì mỗi ý thường chỉ gói tròn trong 2 câu lục và câu bát kế tiếp.

    Lại có người không viết hoa ở đầu câu, làm như bài thơ chỉ là một trích đoạn.

    Cũng có người chấm câu ở giữa dòng mà không xuống hàng. Nguyễn xuân Thiệp chẳng hạn, chấm câu giữa dòng và không viết hoa:


    hỡi gió mùa
    đã thổi từ cội nguồn xa tới cửa hiện thời
    thổi qua những rặng núi. những dòng sông. những xóm làng. thành phố quê hương tôi
    (Nguyễn xuân Thiệp - Tôi cùng gió mùa)

    Trong thơ tự do, chỗ xuống dòng là để qua một ý thơ khác, để thay cho một dấu chấm hay dấu phẩy, để ngắt hơi thơ, để nhấn mạnh một chữ hay cụm từ hoặc để thể hiện một thanh âm...

    Dưới đây là thí dụ về sự nhấn mạnh bằng cách xuống hàng:

    Hôm nay
    Nghe lời hát quen quen
    Người đàn bà ấy mang tên
    Lời từ biệt
    Trên một sân ga vắng
    Tiếng kèn trầm của một chuyến ô-tô-ray
    Ðầy dĩ vãng
    (Thanh Tâm Tuyền - Bao giờ)

    Những câu "Hôm nay", "Lời từ biệt" và "Ðầy dĩ vãng" được xuống dòng để nhấn mạnh.

    Dấu phẩy rất cần thiết cho ý nghĩa cũng có thể bị tước bỏ. Trong câu dưới đây, tác gỉa muốn nói chờ đợi nhiều người chứ không phải một người :

    Tôi chờ đợi
    một người không
    nhiều người
    (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

    Dù sao, cách chấm câu cũng chỉ là tiểu tiết, không ảnh hưởng đến phẩm chất bài thơ.

    Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2006 03:14:01 bởi Viet duong nhan >
    #2
      Viet duong nhan 31.12.2005 06:23:11 (permalink)
      0
      Ðoạn 3. NỘI DUNG

      1/ Dàn ý

      Ít nhà thơ nào làm thơ có dàn bài (plan). Tuy nhiên, với những bài thơ có phân đoạn, hoặc thơ tự do, việc sắp xếp lại các câu thơ cho có trình tự hợp lý là điều cần thiết.

      2/ Ý thơ

      Bài thơ hay phải có ý thơ mới lạ. Mới lạ trong chi tiết, trong cách so sánh, cách liên tưởng... Ý thơ có thể rất tinh tế, sát với thực tế, nhưng cũng có thể rất cường điệu.

      Ðể tả sự trống vắng trong tâm hồn :

      Sao tuổi trẻ qúa buồn
      Như bàn ghế không bầy
      (Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)

      Ðể diễn tả vẻ buồn :

      Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
      Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
      (Nguyên Sa - Nga)

      Ðể diễn tả mái tóc vàng và đôi mắt nâu :

      Tôi sẽ sang thăm em
      Ðể những mái tóc màu củi chưa đun
      Mầu gỗ chưa ai ghép làm thuyền
      Lùa vào nhau nhóm lửa ...
      Hay đôi mắt màu thóc đang say
      Mầu vàng khô pha lẫn sắc nâu gầy
      (Nguyên Sa - Tôi sẽ sang thăm em)

      Ðể diễn tả mái tóc mun :

      Mùa tóc mun
      Ðẹp những khu rừng không bóng cây
      (Thanh Tâm Tuyền - Mai)

      Ðể diễn tả bàn tay trắng nõn, đôi mắt long lanh và đôi mắt ngọc bích :

      Những ngón tay dài ướp trọn mấy ngàn thu
      Mà men sáng trong xanh màu trăng vời vợi
      ...
      Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
      Thượng Ðế đưa sao mang gửi về khóe mắt ?
      ...
      Mắt dịu ngọt đúc từ rừng ngọc bích
      Hay linh hồn trăm phiến đá chân tu ?
      (Nguyên Sa - Ðẹp)

      Ðể diễn tả bước chân nặng nề và nỗi lòng chất chứa :

      Ta về từng bước chân là núi
      Thăm thẳm lòng mang một biển sâu
      (Khoa Hữu - Trở về)

      Ðể diễn tả sự đành tâm chia ly :

      Người đi, ừ nhỉ người đi thật
      Mẹ thà coi như chiếc lá bay
      Chị thà coi như hạt bụi
      Em thà coi như hơi rượu cay
      (Thâm Tâm - Tống biệt hành)

      Ðể diễn ta tình trạng giải phóng, tự do cá nhân :

      Tôi chờ đợi
      Cười lên sặc sỡ
      La qua mái ngói
      (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

      Buồn vì tuổi trẻ bất lực :

      Hôm nay
      Tuổi nhỏ khóc trên vai
      (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

      Vân vân.

      Ðể kết thúc đoạn này, tôi xin nhắc đến loại thơ tượng trưng. Tượng trưng chứ không phải biểu tượng. Trong bài thơ loại này, tác giả có thể dùng bất cứ cái gì để tượng trưng cho đối tượng mà tác giả ngầm nói tới.

      Thí dụ bài này:

      Cánh đồng con ngựa chuyến tàu

      Trên cánh đồng hoang thuần một màu
      Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
      Tàu chạy mau mà qua rất lâu
      Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
      Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
      Cỏ cây cỏ cây lùi chóng mặt
      Gò nổng cao rồi thung lũng sâu
      Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
      Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
      Cánh đồng a ! cánh đồng sắp hết
      Tàu chạy mau càng mau càng mau
      Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ
      Như giữa nền nhung một vết nâu
      (Tô thùy Yên)

      Bài này nói về kiếp số con người. Chuyến tàu là thời gian, cánh đồng là đời người, con ngựa là con người.

      Hy vọng

      Con bướm lạc vào cánh đồng
      Ðóa hoa thành ruộng lúa
      Con bướm khóc giữa cánh đồng
      Hồn hoa thành đứa nhỏ
      Con bướm chết trong bàn tay
      (Nguyễn Vũ Văn)

      Bài này nói về niềm hy vọng bị bóp chết bởi sự lừa dối.

      Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2006 03:13:12 bởi Viet duong nhan >
      #3
        Viet duong nhan 31.12.2005 06:24:54 (permalink)
        0
        Ðoạn 4. TỪ NGỮ

        Bài thơ hay không nên dùng những từ ngữ đã dùng nhiều trong văn thơ, nhất là tính từ, tỉ dụ như : (lòng) tê tái, (dài) lê thê, não nùng... Tuy nhiên, ta có thể làm mới những từ ấy bằng cách dùng nó theo ý nghĩa khác đi một chút. Thí dụ chữ "thăm thẳm" thường dùng để chỉ chiều sâu, Tô Thùy Yên dùng cho tiếng chó tru (trong bài "Góa phụ") để nói lên âm thanh dài và cao. Thanh Tâm Tuyền dùng "điệu nhạc gầy" để nói lên những nốt nhạc cao ("Dạ khúc").

        Thanh Tâm Tuyền còn dùng từ "cười sặc sỡ" ("Bài ngợi ca tình yêu"). Không biết ông muốn nói "cười sặc sụa", "cười muôn màu, đủ mọi kiểu", hay là "cười điên dại" ("điên dại" thì có liên quan gì đến "sặc sỡ" ?) :

        Tôi chờ đợi
        cười lên sặc sỡ
        la qua mái ngói
        thành phố ruộng đồng
        bấu lấy tim tôi
        thành nhịp thở
        (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu).

        Một bài thơ bình dị, không có từ mới, vẫn có thể là bài thơ hay, rất hay, miễn là có góc cạnh mới lạ, lời thơ giản dị, trong sáng, hay nồng nàn, thành khẩn...Thí dụ :

        Em tan trường về
        Ðường mưa nho nhỏ
        Chim non giấu mỏ
        Dưới cội hoa vàng
        Bước em thênh thang
        Áo tà nguyệt bạch
        Ôm nghiêng cặp sách
        Vai nhỏ tóc dài
        (Phạm Thiên Thư - Ngày xưa Hoàng thị)

        Hay là:

        Nhớ chăng Barbara
        Hôm ấy mưa rơi hoài xuống Brest
        Anh gặp em ở phố Xiêm
        Em mỉm cười
        Và anh cũng mỉm cười
        (Thanh Tâm Tuyền - Barbara, dịch thơ Jacques Prévert)

        Hay là:

        Ðón em suốt bãi sông Hằng
        Cát muôn kiếp mãi nhớ lần gặp xưa
        Hẹn về dù nắng dù mưa
        Hẹn về dù sớm dù trưa cũng về
        (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)


        Sáng tạo

        Ngoài ra, thơ hay cần từ ngữ sáng tạo. Thi sĩ mất nhiều thì giờ ở điểm này. Sáng tạo không phải là chế ra chữ mới, mà dùng chữ đã có với nghĩa khác thường. (Chế ra chữ mới cũng được thôi, nhưng nếu người đọc không hiểu thì lại thành thơ bí hiểm.)

        Hãy xem những từ gạch dưới :

        Em về, cát bụi òa lên
        Trăm thương nghìn nhớ vỡ rền thế gian
        (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

        Tiếng kèn hát mãi than van
        Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
        (Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)

        Người đàn ông trở dậy sau giấc ngủ trưa
        Mặt trời sáng lòa
        Một người nào đội nón đi ra
        Tiếng guốc bốc cháy lên hàng cây tù tội
        (Nguyễn Vũ Văn - Cảm giác buổi chiều)

        Tô Thùy Yên phục hồi cổ ngữ. Một cách làm mới thơ ? Hãy xem:

        Ðêm nằm, lệ chảy mòn tay
        Nghe chừng đá nát vàng phai đến điều
        (Hái rau)

        Ðòi phen toan đẩy cửa liều
        Ra cùng thiên hạ vui chiều ngửa nghiêng
        (Suốt bãi sông Hằng)

        Thảng như con ngựa già vô dụng
        Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình
        (Góa phụ)

        Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
        Giữa cánh đồng không bên kia sông
        (Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)

        Dưới đây là những chữ do tác giả sáng chế ra, để độc giả tự tìm hiểu :

        Rừng đưa mái võng treo triền
        Như quằn chiều sánh, như lền gió qua.
        (Tô Thùy Yên - Hái rau)

        Nổi chìm, lệ lợ máu lền
        Ðau thương thôi đã pha rền tử sinh
        (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

        Những ý thơ thách đố độc giả:

        Em nói như gió nghẹn
        Chiều nghiêng mây Thị Mầu
        (Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)

        Mây thành thổi lửa
        Nẻo Ðông Triều khép mở gió kỳ lân
        (Hoàng Cầm - Ðêm thổ)

        Vừa khi vuốt tóc nhìn chênh bến
        Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
        Hoa khô xây bậc cho thềm ngọc
        Một phím đàn đôi bốn cánh bay
        Ngự đỉnh dài ánh nguyệt xuyên xanh
        Ðón chào nữ chúa khóc vô thanh
        (Hoàng Cầm - Ngã ba sông)

        Biểu tượng

        Thi ca thường dùng biểu tượng, thí dụ mùa xuân hay mầu hồng chỉ sự tốt đẹp, mùa đông hay màu xám chỉ sự buồn rầu, chết chóc. Biểu tượng có tính cách phổ quát, được mọi người chấp nhận. Thơ hay cũng cần làm mới biểu tượng.

        Thí dụ, Trần Dạ Từ dùng hoa và trái thay cho mùa xuân :

        Hoa và trái một đêm nào thức dậy
        Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
        (Mộng đời)

        Riêng Thanh Tâm Tuyền có lối dùng biểu tượng rất độc đoán :

        Sao tuổi trẻ qúa buồn
        Như con mắt giận dữ
        (Dạ khúc)

        Giận dữ không thể là biểu tượng cho cái buồn. Con mắt giận dữ có thể buồn, nhưng buồn không nhất thiết có nét giận.

        Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng hay sang Bắc Ninh
        Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Ðầu Một
        Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình
        (Bao giờ)

        Những đoạn đường nói trên cũng không buộc phải là đoạn đường độc hành.


        Ðiệp ngữ

        Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ trong cùng một câu hay trong những câu liên tiếp, như dưới đây :


        Quê nhà ôi những đêm tàn lửa
        Phía mặt trời ai gọi lửa lên
        (Khoa Hữu - Trở về)

        Hay là :

        Mười năm thế giới già trông thấy
        Ðất bạc màu đi, đất bạc màu
        (Tô Thùy Yên - Ta về)

        Những trường hợp dùng điệp ngữ :

        1 - để nói đến ý của chính chữ đó:


        Ôi, mê hoặc ngày ta trở lại
        Núi còn đây tưởng núi hoang đường

        (Khoa Hữu - Trở về)

        Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
        Ðời người cũng chuyện phiếm mà thôi
        (Tô Thùy Yên - Ta về)

        2 - để nhấn mạnh :

        Mặt trời mọc !
        Mặt trời mọc !
        Rưng rưng mùa hoa gạo
        (Quách Thoại - Trăng thiếu phụ)

        3 - để diễn tả một động tác kéo dài hay lập đi lập lại :

        Trên cánh đồng hoang thuần một màu
        Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
        Tàu chạy mau mà qua rất lâu
        Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
        Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
        (Tô Thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)

        4 - để tạo âm hưởng đặc biệt :

        Ở đây ta có dăm người bạn
        Phúc tự tâm, không lý đến đời
        Ở đây ta có dăm pho sách
        Và một dòng sông, mấy cụm mây...
        Dòng sông hiền triết trôi vô lượng
        Dòng sông hiền triết chảy vô tâm
        Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
        Mà ta thân thiết tựa tri âm...
        (Tô Thùy Yên - Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)

        Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
        Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
        Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
        Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu
        (Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)

        5 - để mở rộng ý phụ :

        Dưới đây là một bút pháp nhằm mở rộng một ý mà vẫn giữ tính cách thống nhất của ngữ pháp :

        Nhân danh dân chủ tự do
        Chúng bán đầy đường súng đạn
        Chúng bán đầy đường sinh mạng
        Dạy nhau cách giết người
        Lấy tội ác viết tiểu sử
        (Nguyễn Vũ Văn - Vì sao)

        Trong đoạn thơ trên, câu thứ 3 nhằm mở rộng ý của câu thứ 2 (súng đạn = sinh mạng) mà vẫn giữ được chữ "Chúng" làm chủ từ (subject) cho 2 câu cuối cùng.

        Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2006 03:14:56 bởi Viet duong nhan >
        #4
          Viet duong nhan 31.12.2005 06:26:47 (permalink)
          0
          Đoạn 5. BÚT PHÁP

          Bút pháp là cách hành văn, bao gồm cả cú pháp (syntax, syntaxe), lối viết (style) và cách diễn đạt (tournure, turn of phrase).
          Bút pháp thơ thật là đa dạng. Có những cách mà các nhà thơ đều dùng để cô đọng thơ, so sánh đối tượng, làm mới thơ... Ở đây tôi xin nói đến một số bút pháp chung và bút pháp đặc biệt của Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, và Nguyễn xuân Thiệp.

          A.BÚT PHÁP CHUNG

          1. Dùng từ đồng cách (apposition)

          Ðồng cách từ là bút pháp phổ biến nhất để giải thích, so sánh, mở rộng ý nghiã của một từ ...

          Thí dụ :

          Ðôi khi anh muốn tin
          Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
          Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
          Vòng ân ái
          (Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)

          = Cánh tay em là vòng ân ái.

          Trán mênh mông, cánh sông dài
          Thổ ngơi xuôi mái, hồn ngoài châu thân
          (Viên Linh - Nghi hoặc nỗi gì)

          = Trán mênh mông như cánh sông dài

          2. Xén bớt những từ để cô đọng lời thơ

          Xin đọc đoạn thơ này:

          Em độc thoại lời kinh ánh xanh
          Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn
          Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
          Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn
          ...
          Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
          Thắp trắng thời gian mái tóc em
          (Tô Thùy Yên - Góa phụ)

          Bạn có thể nhận thấy những từ gọt bỏ nếu diễn ý như sau :


          Em độc thoại lời kinh ánh xanh
          Trăng lu, về khuya, vì mỏi nên nén nhang tàn
          Chó tru thăm thẳm làm ngây ngất thiên địa
          Trên mái ngói nghiêng triền, trái rụng lăn xuống
          ...
          Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
          Thắp trắng thời gian trên mái tóc em

          Thí dụ 2 :

          Ðôi khi anh muốn tin
          Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
          Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
          Vòng ân ái
          (Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)

          Diễn ý :

          Ðôi khi anh muốn tin
          Rằng ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
          Mà bên cỏ hoa là cánh tay em quyến rũ

          Thí dụ 3 :

          Hồn thảo mộc giấc ngủ
          Nằm mơ những ngôi sao mặt trăng
          (Thanh Tâm Tuyền - Mai)

          Diễn ý :


          Trong giấc ngủ, hồn như hồn của thảo mộc
          Nằm mơ những ngôi sao và mặt trăng

          Thí dụ 4 :

          Tao nhớ mày những rừng giang đồi sắn
          Ðiếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
          Ngọn rau hoang tô canh ảm đạm
          (Nguyễn Vũ Văn - Nhớ người vượt biển)

          Diễn ý :

          Tao nhớ mày cùng những rừng giang, đồi sắn
          Cùng điếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
          Cùng ngọn rau hoang làm nên tô canh ảm đạm

          3. Xén bớt từ để làm mới thơ

          Những từ trong ngoặc dưới đây đã được lược bỏ để làm mới cú pháp :

          Nhớ em một đóa thanh tao
          Kết tinh nữ sắc từ (khi) vào trần gian.
          (Nguyễn Vũ Văn - Sợi tóc)

          Ngàn (năm) xưa ai từng ở nơi này
          Rồi đến (năm) ngàn sau ai đến đây
          (Phạm Thiên Thư - Liềm trăng)

          Vân vân


          4. Thêm từ

          Nhiều từ được thêm vào cho ý thơ có vẻ mới lạ, nhưng thật ra không có tác dụng gì.

          Thí dụ những từ gạch dưới trong các câu này :

          Hôm nay
          tuổi nhỏ khóc trên vai
          (Thanh Tâm Tuyền)

          Hôm nay chợt nhớ thương người
          Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
          (Trần Dạ Từ - Nụ hôn đầu)

          Khuya buồn tủi nhục môi em
          Mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
          (Phạm Công Thiện - Ngày sinh của rắn)

          5. Ðổi chữ

          Thay vì "tôi chờ đợi lớn lên như giông bão" :

          Tôi chờ đợi
          Lớn lên cùng giông bão
          (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu

          6. Mượn cái này tả cái khác :

          Ðể tả nỗi khao khát ra biên giới mà vùng vẫy :

          Ðường nào ra biên giới
          Gió vẫy vùng cỏ cây
          (Nguyễn Vũ Văn - Cỏ úa)

          7. Kết hợp ý của các mệnh đề độc lập (independent clauses).


          Thí dụ 1 :

          Khúc tình ca thần nữ
          Người con gái khỏa thân
          Vung lên từng chuỗi ngọc
          Trong miền sương mong manh
          (Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)

          Câu thứ nhất độc lập với các câu sau về ngữ pháp, nhưng kết hợp với ý của các câu đó thành một chi tiết duy nhất.

          Thí dụ 2 :

          Chiếc cửa sổ nào ai mở ra
          Tiếng dương cầm bâng khuâng một thời dĩ vãng
          (Nguyễn Vũ Văn - Cuối thu)

          Hai câu trên hàm ý tiếng đàn thoát ra từ cánh cửa sổ mở rộng.

          8. Cụ thể hóa những cái trừu tượng


          Ðây là nỗi buồn lởn vởn :
          Nỗi buồn như bầy chiên
          Vây quanh chàng mục tử
          (Nguyễn Vũ Văn - Những cánh tay của gió)

          9. Trừu tượng hóa những cái cụ thể

          Nghe thiên thu cũng trở trời
          Áo phơi mùa trước như lời bỏ quên
          (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

          Sợi tóc đen như một chuỗi cười
          Trên chùm môi lá biếc
          (Thanh Tâm Tuyền - Tháng giêng)

          10. Dùng đảo ngữ

          Ðảo ngữ thường được dùng với mục đích :

          - thỏa mãn âm vận hay âm điệu :

          Ðôi khi anh muốn tin
          Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
          Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
          Vòng ân ái
          (Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)

          Quản chi lớp lớp hư hình
          Dài đêm đăm đắm mắt nhìn quầng thâm
          (Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)

          Vừa khi vuốt tóc nhìn chênh bến
          Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
          (Hoàng Cầm - Ngã ba sông)

          - thay đổi bút pháp :

          Người về như sóng
          Buồn tôi quanh năm
          ...
          Bóng hình chia đôi
          Sầu tôi lụ khụ
          (Du Tử Lê - Một bài thơ nhỏ)

          B. BÚT PHÁP NGUYÊN SA

          Nguyên Sa có một lối viết đặc biệt, luôn luôn nghĩ ra những chi tiết rất nhỏ, ngộ nghĩnh, vẩn vơ, đôi khi chẳng có ý nghĩa gì, nhưng đó lại là chất thơ của ông.


          Bầu trời mây ở dưới áng mây cong
          Em có muốn anh giữ giùm phân nửa?
          ....
          Bài hát đó mang cho anh hò hẹn
          Em nhớ mang vàng cho cúc, ngọc cho lan
          Mang cầu vồng cho khoảnh khắc mưa tan
          Và môt chút vai em cho huệ trắng...
          ....
          Yêu cuộn tròn trong tám chữ mây qua
          Khi em tới lượn vòng trên mái tóc...
          (Tháng giêng và anh)

          Em có đứng ở bên bờ sông
          Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
          Anh về có nương theo giòng nước
          Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
          (Paris có gì lạ không em)

          Nguyên Sa ưa dùng công thức : "A hay là B", "sao không A mà như có A", "sao không A để cho tính cách/hậu qủa của A", và "có phải A nên có tính cách/hậu qủa của A".

          1. "A hay là B"

          Ðôi khi B chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là ý tưởng vơ vẩn.

          Có phải em mang trên áo bay
          Hai phần gió thổi, một phần mây
          Hay là em gói mây trong áo
          Rồi thở cho làn áo trắng bay?
          Có phải mùa xuân sắp sửa về
          Hay là gió lạnh lúc đêm khuya
          Hay là em chọn sai màu áo
          Ðể nắng thu vàng giữa lối đi?
          (Tương tư)

          Nắng thu vàng có liên quan gì đến gió lạnh và màu áo? Nếu nắng thu vàng là màu áo thì có liên quan gì đến gió lạnh?

          Hay là :

          Muôn vì hành tinh rung nhè nhẹ
          Hay ly rượu tàn run trên môi
          Người về trên một dòng sông xanh
          Trên một con tàu hay một ga mông mênh
          Sao người không chọn sông vắng nước
          Hay nước không nguồn cho sông đi quanh?
          (Tiễn biệt)

          Sông vắng nước để cho nước cạn, người không đi xa. Sông đi quanh để cho thuyền đi vòng trở lại.

          2. "Sao không A mà có như có A"

          Sao người không là một con đường
          Sao tôi không là một ga nhỏ
          Mà cũng có những giờ gặp gỡ
          Cũng có những giờ chia tan ?
          (Tiễn biệt)

          3. "Sao không A để cho có tính cách/hậu qủa của A"

          Sao người không là vì sao nhỏ
          Ðể cho tôi nhìn trong đêm thâu ?
          Sao người không là một cung đàn
          Cho tôi mềm lòng trong tiếng than
          (Tiễn biệt)

          4. "Có phải A nên có tính cách/hậu qủa của A"

          Có phải tên người là âm thanh vô vọng
          Nên mắt buồn le lói thoáng bơ vơ
          Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
          Thượng Ðế đưa sao mang gửi về khóe mắt ?
          (Ðẹp)

          Nguyên Sa cũng hay hỏi tại sao :

          Tay anh dài sao em không gối mộng
          Thơ anh say sao chẳng uống cho đầy
          Mắt thuyền trôi anh chèo cả hai tay
          Sao chẳng ngự cho hồn anh xuống nhạc
          (Người em sống trong cô độc)

          Bút pháp này gợi nhớ đến bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:

          Ðưa người ta không đưa qua sông
          Sao có tiếng sóng ở trong lòng ?
          Trời chiều không thắm không vàng vọt
          Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?

          C. BÚT PHÁP THANH TÂM TUYỀN

          Những chữ "vậy em biết không" dưới đây tạo ra một âm hưởng đặc biệt, tha thiết :

          Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì t rời th ì xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Chẳng là anh chót yêu em vậy em biết không ? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà, làm thế nào để quên được nhau.
          (Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời tìm thấy)

          Nếu bạn muốn khóc cho những cuộc tình tan vỡ mà không ra được nước mắt, bạn sẽ viết như thế nào ? Còn Thanh Tâm Tuyền thì mượn đôi mắt của người khóc:

          Hãy cho anh khóc bằng mắt em
          Những cuộc tình duyên Budapest
          (Thanh Tâm Tuyền - Hãy cho anh khóc bằng mắt em)

          Nói đến một con người tội lỗi trong cái "tôi" :

          Tôi xin một chỗ qùy thầm kín
          Cho đứa nhỏ linh hồn
          Sợ chó dữ
          Con chó đói không màu
          ...
          Em bé quàng khăn đỏ ơi
          Này một con chó sói
          Thứ cho sói lang thang
          (Phục sinh)

          Nỗi buồn vì tuổi trẻ bất lực :

          Hôm nay
          Tuổi nhỏ khóc trên vai
          (Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)

          Thanh Tâm Tuyền có một bút pháp rất "Tây". Hãy xem ông diễn tả :

          - Người đàn bà nhớ lại những câu thơ cũ :

          Những lời thơ rất cũ
          Gõ cửa trái tim nàng
          (Mai)

          - Một người đàn bà đã ra khỏi đời mình :

          Người đàn bà ấy mang tên
          Lời từ biệt
          (Bao giờ)

          Một bút pháp đặc thù Thanh Tâm Tuyền hay sử dụng là dùng một đối tượng khác để diễn tả đối tượng mình đang nói tới. Bạn buồn ư ? Ðừng nói "tôi buồn", mà nói "trời buồn" hay "con ngựa buồn".

          Thật vậy, để diễn tả nỗi buồn trong đôi mắt, TTT dùng mắt ngựa thay cho mắt đối tượng. Bạn có thể thay bằng một con vật khác và ý thơ không thay đổi:

          Con ngựa buồn
          Lửa trốn con ngươi
          (Bài ngợi ca tình yêu)

          Ðể diễn tả một sự tương thuộc, TTT dùng cỏ và hoa thay cho hai đối tượng, nhưng bạn cũng có thể thay bằng hai cái gì khác :

          Cỏ của hoa và hoa của cỏ
          Những ngón tay những ngón chân những nụ cười
          (Cỏ)

          D. NGUYỄN XUÂN THIỆP : THƠ TÙY BÚT

          Tùy bút là một thể loại hồi ký ngắn ghi lại những cảm nghĩ liên quan đến một ngoại cảnh nào đó.

          Trong một số bài, Nguyễn xuân Thiệp làm thơ như viết tùy bút, như văn xuôi có vần, không dùng biểu tượng, không thắc mắc về từ ngữ mới, và không dùng các bút pháp thông thường của thi ca như đã đề cập trong đoạn này. Lời văn giản dị. Ý thơ tinh tế, cái tinh tế của thể tùy bút.

          Hãy đọc :

          này em. chưa đan xong chiếc áo len quàng cổ
          thì gió mùa đêm nay đã đến đầy phòng
          thổi rung liếp cửa
          em có nghe tình ta âm vang dưới bầu trời hun khói
          âm vang qua đồng cỏ tranh
          lại gặp nhau
          tôi cùng gió mùa
          để đêm nay có người lục lại gối chăn trong hòm cũ
          tìm lại chiếc gương xưa
          để sớm mai
          hồng má trẻ con
          se môi thiếu phụ
          để người đi xa một sớm quay về
          (Tôi cùng gió mùa)

          khi bầy chim ngủ đỗ ở những ngoϮ cây bên bìa rừng
          cuخg cất tiếng hót
          đợi ngày lên
          chúng tôi. những tình nhân thất laϣ nhau trên mặt đất
          không được nhìn thấy nhau
          chỉ nghe tiếng nói. như từ giấc mơ naد
          của dòng sông. đã lãng quên
          (Mùa cuối)

          Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2006 03:15:54 bởi Viet duong nhan >
          #5
            Viet duong nhan 31.12.2005 06:28:26 (permalink)
            0
            Ðoạn 6. ÂM ÐIỆU


            Tiếng Việt là một ngôn ngữ tự nó đã có âm điệu, 6 thanh tạo nên một thang âm trầm bổng. Cho nên bài thơ nào cũng có âm điệu, chỉ có vấn đề là hay hoặc dở. Âm điệu phụ họa được với ý thơ là hay, âm điệu trúc trắc là dở.

            Người biết ngâm thơ có thể ngâm bất cứ bài thơ nào. Tuy nhiên, có những bài thơ chỉ để đọc hoặc chỉ nên đọc, chứ không ngâm bởi vì âm điệu gần như văn nói. Thí dụ như một số bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nhất là trong tập "Tôi không còn cô độc". Hãy xem một bài :

            tôi buồn khóc như buồn nôn
            ngoài phố
            nắng thủy tinh
            tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ thanh tâm tuyền
            (Thanh Tâm Tuyền - Phục sinh)

            Thơ Việt nam hay hơn thơ Tây phương về âm điệu, diễn ngâm không nhất thiết cần lấy giọng và làm điệu bộ như kịch sĩ, bài thơ hay tự nó đã chứa âm điệu phù hợp với nội dung. Những lời thơ trong Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm chẳng hạn, là chứng minh hùng hồn cho âm điệu tuyệt tác.

            Thơ mới cũng không thiếu những âm điệu đủ mọi phong thái. Thí dụ :

            Âm điệu hùng tráng :

            Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy
            Tiếng vang vang như thần kêu qủy hét,
            Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét
            Gọi qúa khứ vị lai những u hồn
            Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết
            (Lý đông A - Chính khí Việt)

            Âm điệu hào sảng, khí khái :

            Người đi, ừ nhỉ người đi thật
            Mẹ thà coi như chiếc lá bay
            Chị thà coi như hạt bụi
            Em thà coi như hơi rượu cay
            (Thâm Tâm - Tống biệt hành)

            Âm điệu dồn dập :

            Trên cánh đồng hoang thuần một màu
            Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
            Tàu chạy mau mà qua rất lâu
            Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
            Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
            ...
            Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
            Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
            (Tô thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)

            Âm điệu tha thiết :

            Hỡi Liên những Liên và Liên
            Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh hỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu đường xó chợ...

            (Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời tìm thấy)

            Âm điệu trầm buồn, từ cao xuống thấp dần rồi nghẹn lại :

            Bây giờ là mùa thu trời xuống thấp buồn vô cùng

            (Thanh Tâm Tuyền - Khai từ một bản anh hùng ca)

            Âm vận và ngữ âm là những yếu tố của âm điệu.

            Âm vận gồm nhiều vần trắc có âm thái sắc cạnh có khả năng diễn tả những tình cảm mạnh. Thí dụ :

            Một ngày lạnh nước người không tri kỷ
            Ta vỗ án hét thành ca chính khí
            Ðông thê thê như gió thổi u hồn
            Thấu buốt tận lòng người trong cốt tủy.
            (Lý đông A - Chính khí Việt)

            Bài thơ có nhiều âm bằng cho âm điệu ngang ngang phù hợp với tâm trạng buồn bã, hoang mang, bàng hoàng... Thí dụ :

            Sương lan mờ, bờ sông tường gần nhau
            Sương lan mờ và hồn tôi nghe đau
            (Xuân Diệu - Sương mờ)

            Sài Gòn chiều nay trời còn mưa không em
            Ðường về hình như nhà ai đang lên đèn
            Sầu tư nghe về nghìn trùng trong tim
            Trời còn mưa, mưa hoài, mưa trong đêm
            (Huy Phương - Mưa chiều)

            Phần lớn những bài thơ loại này có ý thơ sáo rỗng, gượng gạo, vì cố tìm cho ra những âm bằng.

            Sự thống nhất âm điệu

            Thơ lục bát và thất ngôn có âm điệu trầm bổng đặc biệt. Còn thơ tự do có âm điệu gần với văn nói hơn. Một câu thơ 6 chữ trong thể lục bát với một câu thơ 6 chữ trong thể tự do có âm điệu khác hẳn nhau. Khi ta làm thơ, chính âm điệu của câu thơ đầu tiên dẫn đến các câu sau theo một thể thơ nào đó.

            Một số người cho rằng bài thơ không như bản nhạc, cần thống nhất âm điệu để có một âm hưởng thuần nhất. Do đó không nên xen lẫn hai thể thơ trong một bài, như chêm mấy câu lục bát hay thất ngôn trong một bài thơ tự do.


            Phân biệt âm điệu và hơi thơ

            Hơi thơ ví như khoảng cách giữa những dấu lặng hoặc chỗ ngân dài trong một bản nhạc. Hơi thơ góp phần thay đổi âm điệu, có thể là những chỗ xuống dòng hay dấu chấm câu trong bài thơ. Cũng có khi một hơi thơ bao gồm cả mấy dòng thơ, tùy theo ý thơ.

            Thể thơ là yếu tố chính của hơi thơ. Thể thơ càng dùng câu thơ dài thì hơi thơ càng dài. Hơi thơ ngắn dùng để diễn tả những âm thanh ngắn như lời tán thán, hô khởi, tiếng nức nở, nghẹn ngào, tiếng mưa rơi, vân vân. Hơi thơ dài dùng để diễn tả những tình ý tha thiết, lời kêu gọi hùng hồn, vân vân. Như đã nói trong thể thơ.



            KẾT LUẬN


            Ta có thể rút ra những yếu tố của một bài thơ hay theo thứ tự ưu tiên:


            1. Ý mới, chi tiết mới.
            2. Bút pháp chọn lọc.
            3. Không dùng từ ngữ cũ. Từ ngữ mới càng hay.
            4. Hợp vận.
            5. Âm điệu và hơi thơ thích hợp.
            6. Dàn ý hợp lý.
            Ý thơ và bút pháp là những yếu tố quan trọng nhất.

            Ý niệm "mới" hay "cũ" đề cập ở trên là dựa vào kinh nghiệm đọc thơ nhiều.

            Ðó là tiêu chuẩn xét một bài thơ hay về phương diện khách quan. Về phương diện chủ quan, đánh giá một bài thơ hay còn tùy thuộc trình độ kiến thức của người đọc. Tốc độ cảm nhận thơ cũng vậy, nhưng nó còn tùy thuộc cả kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đọc thơ. Người có kiến thức rộng, người đã từng trải hoàn cảnh như trong bài thơ và người đọc thơ nhiều sẽ cảm nhận bài thơ mau chóng hơn những người khác.

            Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để có thể đánh giá một bài thơ làbài thơ phải có thể hiểu được. Vâng, không hiểu thì làm sao biết thơ hay ?

            Nói cách khác, bài thơ phải tự giải thích được, không cần tác giả giảng nghĩa. Với những bài thơ khó hiểu, tác giả cần phải tự hỏi mục đích làm thơ của mình là gì : để thưởng thức riêng mình hay cho người khác cùng thưởng thức. Nếu có một vài người khác tự họ hiểu được bài thơ, thì cũng coi như bài thơ có thể hiểu được. Còn không ai có thể hiểu được thì nhà thơ nên đặt lại vấn đề : có thể diễn tả một cách dễ hiểu hơn mà vẫn giữ được bản sắc kỹ thuật của mình hay chăng ? Nếu không thì tác gỉa sẽ muôn đời cô độc.


            Nguồn : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.12.2005 06:29:48 bởi Viet duong nhan >
            #6
              Lê Thường Nhiên 11.01.2006 22:18:14 (permalink)
              0
              NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

              Mạnh Thường Quân-Việt Dương Nhân tiên sinh ôi:

              LTN đã đọc bài KỸ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ÐẠI của VDN... Với tấm lòng chân thành tôi trộm nghĩ:
              - Đây là một bài viết rất hữu ích cho các thi hữu trong toàn Diễn Đàn và cho tất cả những người yêu thích thơ ca nói chung.
              - VDN có "mắng" là "được voi đòi tiên" thì LTN cũng xung phong hãnh diện cam lòng nhận để mà quyết chí thẳng thừng yêu cầu VDN phải làm ơn làm phước viết tiếp phần II: NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cho bằng được.
              - Phần nầy (vì là phần huyền bí, mênh mông bất khả tư nghì...) VDN có thể đánh tiếng và LTN tin rằng nó sẽ trờ thành một đề tài bàn luận hấp dẫn của diễn đàn chúng ta. Khi đó và qua đó LTN nghĩ rắng "tay nghề" của các thành viên trong diễn đàn sẽ được một bước nâng cao về chất.
              - Về phần mình LTN xin tự phạt (trước VDN) bằng cách nêu một vài thiển ý về nghệ thuật thơ như sau:
              Về thơ lục bát: Đây là thể thơ quả nhiên theo VDN nói: "...dễ làm, khó sửa..." ngòai ra, LTN thấy rằng: Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Người làm được thơ lục bát hay thì TÂM phải PHẬT, hồn phải VIỆT, trí phải NGỘ... như lời Nhà thơ Ngô Văn Tao dành cho Trung Niên Thi Sỹ BÙI GIÁNG:
              "Nhất nhật GIÁNG trần gian
              thân không sầu kết thiên sương tụ
              từ bi tuyệt ý thi"

              Thơ lục bát vẫn được các bậc Đại Việt thi hào ca tụng vì nó là thể thơ duy nhất có tính BẤT TẬN về không (độ dài của bài thơ, đối tượng độc giả và tác dụng...) và thời gian ("bất tri tam bách dư niên hậu..." đừng nói 3 trăm, chứ 3 ngàn năm và hơn nữa nếu nhân lọai có thể trường tồn như định, thì Kiều của Tố Như vẫn còn hay)...
              Vậy thôi, còn những nội dung liếp theo xin chờ VDN xung phong trước cho đúng lễ.
              Xin mượn thơ Trung Niên Thi Sỹ BÙI GIÁNG để chúc năm mới VDN:
              " Xin chào nhau giữa con đường
              mùa xuân phía trước miên trường phía sau"
              (muốn trọn gói bài thơ thì VDN vào Website: http://zdfree.fr/diendan/HAbuigiang/bz2.html)
              Trân trọng và thân mến.
              #7
                Viet duong nhan 12.01.2006 06:18:23 (permalink)
                0

                Trích đoạn: Lê Thường Nhiên

                NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

                Mạnh Thường Quân-Việt Dương Nhân tiên sinh ôi:

                LTN đã đọc bài KỸ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ÐẠI của VDN... Với tấm lòng chân thành tôi trộm nghĩ:
                - Đây là một bài viết rất hữu ích cho các thi hữu trong toàn Diễn Đàn và cho tất cả những người yêu thích thơ ca nói chung.
                - VDN có "mắng" là "được voi đòi tiên" thì LTN cũng xung phong hãnh diện cam lòng nhận để mà quyết chí thẳng thừng yêu cầu VDN phải làm ơn làm phước viết tiếp phần II: NGHỆ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI cho bằng được.
                - Phần nầy (vì là phần huyền bí, mênh mông bất khả tư nghì...) VDN có thể đánh tiếng và LTN tin rằng nó sẽ trờ thành một đề tài bàn luận hấp dẫn của diễn đàn chúng ta. Khi đó và qua đó LTN nghĩ rắng "tay nghề" của các thành viên trong diễn đàn sẽ được một bước nâng cao về chất.
                - Về phần mình LTN xin tự phạt (trước VDN) bằng cách nêu một vài thiển ý về nghệ thuật thơ như sau:
                Về thơ lục bát: Đây là thể thơ quả nhiên theo VDN nói: "...dễ làm, khó sửa..." ngòai ra, LTN thấy rằng: Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Người làm được thơ lục bát hay thì TÂM phải PHẬT, hồn phải VIỆT, trí phải NGỘ... như lời Nhà thơ Ngô Văn Tao dành cho Trung Niên Thi Sỹ BÙI GIÁNG:
                "Nhất nhật GIÁNG trần gian
                thân không sầu kết thiên sương tụ
                từ bi tuyệt ý thi"

                Thơ lục bát vẫn được các bậc Đại Việt thi hào ca tụng vì nó là thể thơ duy nhất có tính BẤT TẬN về không (độ dài của bài thơ, đối tượng độc giả và tác dụng...) và thời gian ("bất tri tam bách dư niên hậu..." đừng nói 3 trăm, chứ 3 ngàn năm và hơn nữa nếu nhân lọai có thể trường tồn như định, thì Kiều của Tố Như vẫn còn hay)...
                Vậy thôi, còn những nội dung liếp theo xin chờ VDN xung phong trước cho đúng lễ.
                Xin mượn thơ Trung Niên Thi Sỹ BÙI GIÁNG để chúc năm mới VDN:
                " Xin chào nhau giữa con đường
                mùa xuân phía trước miên trường phía sau"
                (muốn trọn gói bài thơ thì VDN vào Website: http://zdfree.fr/diendan/HAbuigiang/bz2.html)
                Trân trọng và thân mến.

                Ý chết... chết... !
                Dạ, thưa Thi Sĩ Lê Thường Nhiên !
                Bài "KỸ THUẬT THƠ VIỆT NAM HIỆN ÐẠI"
                của Nhà Thơ Nguyễn Vũ Văn
                Nguồn ở đây : http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=7
                Bởi, VDN đọc thấy hay & hữu ích... - Nên "rinh" bài về dán lên đây.
                Xin chân thành đính chánh cho tất cả ACE rõ.
                Kính mến chúc tất cả ACE đón mừng Xuân Bính Tuất thật vui tươi & AN KHANG THỊNH VƯỢNG.
                Cẩn bút
                Việt Dương Nhân
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.01.2006 06:23:30 bởi Viet duong nhan >
                #8
                  Lê Thường Nhiên 16.01.2006 15:45:53 (permalink)
                  0
                  Trời đất!...mới đầu năm (may mà chỉ là đầu năm Tây) mà LTN đã lầm lộn rồi. Xin thứ lỗi, thứ lỗi!...
                  Tuy nhiên, bản chất vấn đề vẫn còn đó. Mong chuyện-mục nầy sẽ còn tiếp tục. I am right here waiting for you.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 17.01.2006 04:40:45 bởi Viet duong nhan >
                  #9
                    Viet duong nhan 17.01.2006 04:43:13 (permalink)
                    0


                    Trích đoạn: Lê Thường Nhiên

                    Trời đất!...mới đầu năm (may mà chỉ là đầu năm Tây) mà LTN đã lầm lộn rồi. Xin thứ lỗi, thứ lỗi!...
                    Tuy nhiên, bản chất vấn đề vẫn còn đó. Mong chuyện-mục nầy sẽ còn tiếp tục. I am right here waiting for you.

                    Không có sao LTN !
                    Chúc LTN an vui & hồn thơ lai láng
                    Thân
                    Vdn
                    #10
                      vinhsaigon 12.07.2006 10:28:01 (permalink)
                      0
                      Thanks bạn VDN,
                      Bài post rất hay và hữu ích, tuy nhiên (như trong bài post) - một số bài thơ của các thi sĩ nổi danh cũng có những bài lạc vần lạc điệu... nhưng vẫn cứ nổi tiếng hihi...
                      Theo ngu y' thì vần điệu là cơ bản, nhưng khi sáng tác , đôi lúc xuất thần nên vẫn cứ hay!
                      Sẳn đây, xin bà con cho y' kiến về thể loại thơ tự do...có cần vần điệu hay không?Tôi thấy nhiều bải thơ tự do (như của Cao Thoại Châu) khg vần điệu, nhưng đọc lên vẫn thấy hay hay
                      #11
                        Viet duong nhan 12.07.2006 19:06:18 (permalink)
                        0


                        Trích đoạn: vinhsaigon

                        Thanks bạn VDN,
                        Bài post rất hay và hữu ích, tuy nhiên (như trong bài post) - một số bài thơ của các thi sĩ nổi danh cũng có những bài lạc vần lạc điệu... nhưng vẫn cứ nổi tiếng hihi...
                        Theo ngu y' thì vần điệu là cơ bản, nhưng khi sáng tác , đôi lúc xuất thần nên vẫn cứ hay!
                        Sẳn đây, xin bà con cho y' kiến về thể loại thơ tự do...có cần vần điệu hay không?Tôi thấy nhiều bải thơ tự do (như của Cao Thoại Châu) khg vần điệu, nhưng đọc lên vẫn thấy hay hay

                        Chào Vinhsaigon !
                        Theo vdn thì bài thơ hay hoặc không hay... là tùy người chiêm ngưỡng nó đó vsg !...
                        Chúc vui
                        vdn
                        #12
                          VuTuanAnh 15.07.2006 17:30:45 (permalink)
                          0
                          Cứ nôm ra có khi hay, nhiều khi kỹ thật cũng chỉ là một công cụ mà người ta có thể dùng, như lao động vậy. Người dùng máy móc, người dùng dao thuổng gậy gộc, người dùng tay không, nhưng chẳng có ai nói là làm bằng tay không hay bằng làm bằng máy móc cả. Ví dụ một số đồ thủ công, làm bằng máy có khi lại hỏng to. Chuyện kỹ thuật thơ đã nhiều tranh luận, tôi thì thấy rằng cứ bằng lòng mình, có ji ra thế thì hơn, chẳng thà vận ngay cái văn nói vào mà làm thơ nhiều lúc cũng được lắm chứ? đâu cần cầu kỳ mưu mẹo gì?
                          Một vài lời tâm tình, chắc không khó nhọc gì?
                          #13
                            BĂNG NGUYỆT 15.07.2006 18:26:26 (permalink)
                            0

                            Chuyện kỹ thuật thơ đã nhiều tranh luận, tôi thì thấy rằng cứ bằng lòng mình, có ji ra thế thì hơn, chẳng thà vận ngay cái văn nói vào mà làm thơ nhiều lúc cũng được lắm chứ? đâu cần cầu kỳ mưu mẹo gì?
                            Một vài lời tâm tình, chắc không khó nhọc gì?


                            Chào weocom VuTuanAnh đến vui với dd VNTQ nha.... Đồng ý với bạn là ko cần cầu kỳ gì cũng có thể làm được 1 bài thơ hay như nhau.... nhưng ở đây chúng ta xét 1 bài thơ hay trước hết , nghĩa của chữ và cách dùng văn từ cũng là một trọng yếu trong thơ nghiệp dư của vườn thơ tụi mình, ở đây mọi người chỉ tập tành viết lách theo cảm xúc ngày thường và trao giồi câu ngôn, chữ nghĩa...
                            Nếu bạn đã tham gia với tụi mình hy vọng những bài thơ của bạn cũng vậy nha... xin lỗi bạn , bn buộc phải xóa vài bài viết của bạn mà tác giả của vài topic thấy không vui với cách viết của bạn và với cách hành văn đó của bạn buộc bn phải xóa dù là điều bn ko muốn làm đối với bài viết của người khác.
                            Rất vui được chào weocom và mong bạn "hòa nhập" với dd tụi mình... gọi nôm na là nhập gia tùy tục í hihi....(chắc là bạn đã đọc kĩ nội qui trước khi đăng ký, nếu tình trạng này còn xảy ra chắc là bn phải nhờ đến admin vậy).
                            Chào thân ái và chúc vui cuối tuần.
                            #14
                              VuTuanAnh 15.07.2006 18:32:02 (permalink)
                              0
                              Chủ topic không hài lòng thì vô tư rồi, thế tôi cũng không hiểu có bao nhiêu người hài lòng với topic này? Tôi đăng ký ở đây cũng đã lâu lâu, hôm nay mới qua chơi. Thấy bùn cười cho việc này. Tôi xin phép luôn là sẽ mở một topic bàn về thơ kỹ thuật hay không kỹ thuật như kiểu tranh luận của mấy tay photo là PS hay không PS vậy. Thân! Tôi luôn vui nếu ai đó dám đối diện với ý kiến trái mình.
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 37 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9