Chuyện làng Cuội - Lê Lựu - tiểu thuyết
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 24 trên tổng số 24 bài trong đề mục
conbo2 03.03.2006 13:37:37 (permalink)
Phần bốn

Chuyện tình thứ năm

Con Huyền đi đâu về, bảo:
- Bà ơi, nghe tin bố còn sống đấy.
- Ai bảo thế?
- Có người họ đi tàu Thống Nhất chở chuyến khách đầu tiên vào cảng Nhà Rồng bảo có trông thấy ông ấy cầm máy ảnh ra đón. Xem ra có vẻ làm to lắm. Trông béo đen. Ông ấy không biết anh này. Khi anh ta bảo là cùng quê thì ông ấy cũng hỏi thăm tình hình.
- Sao cháu không hỏi anh ta cho kĩ xem có thực sự bố cháu không? Dăm bảy năm không có tí tin tức gì làm sao biết được sống hay chết.
- Chắc là “líp” với cô nào đấy rồi. Nó kẹp chặt quá không rút ra được làm sao còn tin tức được cho bà cháu mình hở bà?
- Bà đã cấm con không được ăn nói bố mẹ như thế. Ai lại con gái cứ gọi bố là ông bô, ông ấy, lão ta, ông via, ông vỉa… gì, nghe nó chướng lắm, bà không chịu được nữa đâu.
- Vâng vâng, cháu xin lỗi bà. Cháu cứ quên mất. Căn bản là bố con đối xử với nhau thế nào chứ gọi nhau thế nào chả được.
- Không có cái kiểu “họ nhà tôm” ấy. Như thế nào cũng là bố đẻ ra mình. Cháu là phận con cái, ăn ở nó phải ra trên ra dưới, nghe ra chửa?
- Cháu chửa rồi, à quên cháu nghe ra rồi bà ạ.
- Mà sao mày đã ra vườn. Dễ như lội cả xuống ao rồi phải không?
- Cháu chỉ rửa chân thôi.
- Thôi chết bà rồi. Bà lại quên không bảo cháu là chưa được rửa chân bằng nước lã. “Giải quyết” mới được hơn hai tháng! Một lần sa bằng ba lần đẻ. Không kiêng cữ cẩn thận về già khổ lắm con ạ. Thôi không được đi đâu nữa. Để bà lấy lá sắc mà uống, rồi tối tối bà pha nước muối ngâm chân. Không thể đùa được con ạ.
- Nhưng bà ơi, con lại “bị” rồi.
Bà trợn mắt lên như người động kinh. Phải dăm phút chết lặng đi, sắc mặt bà mới hoàn lại, giọng hơi run run:
- Cháu bảo thế nào? Có phải...
- Cháu lại thấy quá hạn mười ngày rồi. Mà người lại nôn nao, giống như lần trước bà ạ.
Bà không thể nói được nữa. Vậy là nó mới được khoảng một tháng, lại “bị”. Lần trước nó mang nhau đi Hà Nội “giải quyết” bà có hề biết đâu. Thực ra bà cũng đã ngờ ngợ. Con gái dậy thì mà lông mày dựng ngược lên, cái lưng ngay ra, đứng ngồi, đi lại ngượng nghịu là bà biết có sự chả lành. Phần thương cháu, phần sợ nó buồn bã, đành câm lặng. Vì là nó buồn thì bà lại đau hơn nỗi buồn của nó. Nó mà có sự gì thì y như một lưỡi dao phạt ngang vào thân cây bà đang vin, tựa, bấu víu ở đấy. Cái cây ấy đổ xuống, cái thân già chông chênh vất vưởng của bà biết tựa vào đâu mà sống? Năm năm trước, khi mặt bà phải gục xuống vì miệng tiếng đồn đại xa gần bà là kẻ đã giết mẹ nó “không gươm”, chính nó quả quyết ở bất cứ đâu rằng không ai được vu oan cho bà nó. “Thì giấy trắng mực đen ghi rõ ràng ý kiến của bà mày?”. “Kể cả bà tôi kí hàng trăm chữ, điểm chỉ cả mười đầu ngón tay vào đấy cũng không ai được bảo lòng dạ bà tôi độc địa”. Nó còn nói nó biết hết vì sao bà nó phải làm những việc ấy. Nhờ nó bà đã dần dần ngẩng mặt lên nhìn dân làng. Dù còn gượng gạo nhưng bà con dân làng ai cũng nghĩ “đúng là bà Đất không thể tự nhiên nói ra những lời sai ngoa”. Nó vừa là ân nhân, vừa là người bạn, chỉ có nó như một người lớn từng trải, mới hiểu thấu lòng bà. Không phải là nó, không ai dám bất chấp sự khinh bỉ của cả họ hàng nội ngoại để chăm lo bà hơn hẳn lúc mẹ nó còn sống. Chỉ có nó mới dám có một tình yêu ngược hẳn với đám đông mà không sợ bị tách rời. Mới 17 tuổi đầu nó đã dám nói giữa cuộc họp ở miếu ông Cuội: “Tôi cứ thành thật, có thế nào nói như thế còn hơn vạn lần các ông các bà đem sách ra mà dạy nhau nói dối và đánh lừa. Đang đói nhăn răng ra, không nghĩ cách cứu đói lại cứ tranh cãi nhau hàng tháng trời xem đổi tên Cuội Thượng, Ngoại Thượng, Nhập và Nhằng thành những cái tên gì gọi cho sang, cho hơn hẳn thiên hạ. Lúc nào cũng chỉ muốn đi tiên phong cho thiên hạ theo. Đúng là cái dân học đòi. Bao giờ cũng muốn phải hơn hẳn ông thầy mình học”.Giá bố nó không đi “B”, mẹ nó không vừa chết, người ta đã gô cổ nó cho vào tù rồi. Bà cứ tha hồ lạy van cháu. Cháu lại nhất mực thách đố: “Thì những người đang xoen xoét nói một đằng, làm một nẻo còn khổ hơn ở tù kia. Cháu đi tù về tội nói thật. Cùng lắm chỉ dăm ba năm, còn họ tù cả đời họ như bà ấy, sướng cái nỗi gì”. Nó cứ như thế, rồi cũng thành người. Có người ghét, người hận, người yêu thương nhưng không ai dám coi thường nó. Thành ra, nhiều lúc nghe người ngoài đồn đại chuyện này, chuyện khác bà cũng không tra khảo gì cháu. Cái nhẽ mà bà không dám hỏi khi nó có mang lần trước là thế. Nhưng mà “thằng kia” vì cớ gì lại không lấy cháu bà làm vợ? Cháu bà dưới con mắt bà, nó còn hơn mẹ nó ngày xưa, hơn cả bà nội nó, lại thẳng thắn, không biết thớ lợ, lừa lọc, gian dối, không biết sợ ai, sợ cái gì, ngoài nỗi hoảng sợ bà nội nó ốm đau vì lo nghĩ hoặc đói khổ. Còn bà thì nó giẫm phải cái gai bà đã hoảng lên. Lần trước bà đã phải thuốc thang và nghiêm ngặt bắt nó kiêng cữ. Vậy mà “thằng kia” định làm hại cháu bà hay sao? Mới nhoáy một cái đã hai lần “bị”. Nếu yêu nhau, thương nhau thực sự tại sao nó không báo cáo rồi “tổ chức”. Nó biết bà nó đang nghĩ gì, nó bảo bà:
- Anh ấy có vợ, có hai con. Chưa giải quyết được.
Bà chưa kịp tin vào tai mình, cháu lại giải thích:
- Bà yên trí. Mấy hôm nữa lên Hà Nội, Tiễn anh ấy vào công tác trong Nam, cháu “giải quyết” luôn.
Trời đất ơi, nó cứ nói tông tỗng như là chuyện của ai, như cái bụi bám vào áo phủi đi một cái là xong. Bà nó thì ruột gan cứ như chín nẫu ra. Bà phải cố lấy lại bình tĩnh hỏi cho ra nhẽ:
- Cháu nói bà xem, nó là thằng nào, làm gì, ở đâu?
- Bà định bắt đền người ta à?
Nó cười rồi bảo bà nó không cần biết tên tuổi làm gì. Chỉ biết anh ấy là người Hà Nội về đây dạy học. Cả ba năm học cấp ba nó học toán của anh ấy. Đấy là một bộ óc thần kì nhớ từng chữ, từng con số, từng cái dấu phẩy trong tất cả các sách đại số, hình học và lượng giác từ lớp tám đến lớp mười. Tóm lại, anh ấy là người dạy giỏi kinh khủng. Cô mê. Cô cũng biết anh ấy có vợ, có con từ khi mới học lớp tám. Nhưng với bộ mặt và giọng nói đau khổ của thầy khiến tất cả học sinh gái ở lớp đều tin chắc chị ta là người đàn bà hẹp hòi, ích kỉ. Cử chỉ đầu tiên của chị ta mỗi lần chồng về là móc túi xem “thương vợ”, “thương con” nhiều hay ít. Lần nào hào phóng lắm chị ta mới để lại cho thầy được ba hào vưa đủ vá một miếng săm hoặc ăn một bát mì “không người lái”. Muốn cái gì, chỉ được một thứ. Đạp xe đi về gần một trăm ki lô mét mà có tiền để “ước được cả hai thứ thì viển vông, cao xa quá”. Nghe thầy tâm sự mà cô nào cũng thấy cảm động rưng rưng. Thầy bảo trước sau rồi hai người cũng phải chia tay, không thể hợp nhau. Thương thầy, cũng chỉ biết vậy thôi. Kể cả những lúc đột nhiên bồi hồi nghĩ đến thầy, con gái nông thôn dù đầy đủ sức lực ở tuổi 17 “bẻ gãy sừng trâu” cũng không bao giờ dám nghĩ chuyện đùa cợt giăng gió với thầy. Quan hệ của cô với thầy chỉ sau khi đã tốt nghiệp cấp ba, không thi vào đại học, cô ở nhà với bà và xung phong vào trung đội nữ dân quân của huyện, cơ động bắn máy bay tầm thấp. Trong số 42 chị em, có đến 35 người đã có chồng và quá nửa số ấy mới bén mùi “lửa rơm” đã phải tiễn chồng đi Nam chiến đấu. Họ thèm nhớ những đàn ông đến nỗi phải dồn hết sức lực, tâm trí vào những bộ mặt căng thẳng, cứng nhắc trước anh huyện đội phó và các cán sự huấn luyện, tác chiến để chứng tỏ rằng họ không hề mảy may đòi hỏi, nhớ nhung. Như thể họ là những người sinh ra chỉ biết có tập trung tư tưởng vào việc rèn luyện bắn rơi máy bay giặc. Sự nghiêm trang của họ khiến các anh chàng trai trẻ của huyện đội cũng phải thường xuyên cảnh giác với những ý nghĩ không trong sáng xuất hiện, làm giảm sút ý chí chiến đấu của chị em. Nhưng đến khi nằm riêng biệt hoàn toàn với chỗ ở của các anh huyện đội, họ đã xếp thành 21 cặp “anh và em”. Chỉ trừ vài ba cặp lớn tuổi, còn hầu hết các cặp “anh chị” ngủ chung trong chiếc màn một. Dù có là nóng đầm đìa mồ hôi thì họ vẫn “chung chăn, chung gối” bày ra đủ trò “ái ân chồng vợ”. Cô bé học sinh lớp 10 là người duy nhất của xã Ngoại Thượng được bác Nạc gửi vào đội bắn máy bay của huyện. Cô đã “làm vợ” một “anh”. Lấy chồng được bảy ngày phải tiễn chồng trở lại chiến trường “B”. Sự “chung đụng” với “chồng” đã làm cho Huyền mất khả năng tự vệ là cảm giác thẹn thùng, rụt rè của người con gái.
Giữa những ngày “căng thẳng” ấy cô gặp lại thầy giáo cũ đã từng quan tâm đặc biệt đến cô và vẫn biết từng ngày cô ở đâu, làm gì, kể từ khi thôi học. Nhưng bà của Huyền thì không biết chuyện này. Hai năm Huyền đi lại với anh, vẫn không thấy anh nhắc nhở gì đến chuyện “chia tay” với người vợ mà anh từng nói trước đây. Huyền vẫn kiên trì chờ. Đến khi lên Hà Nội “giải quyết” lần vừa rồi, Huyền mới nhận ra tư cách thật của con người anh. Anh đạp xe đưa Huyền đến chỗ bác sĩ quen. Trông thấy chị ta, lập tức chân tay, mặt mũi của anh như là mượn của ai. Chỉ thoáng một giây nhìn thấy “ruột gan” anh, Huyền thấy cái hèn ở anh không thể chấp nhận. Huyền rẽ vào con đường đến nhà bác sĩ còn anh vội vã đạp xe theo vợ như thể anh và Huyền chỉ là hai kẻ đi cùng chiều. Cô thấy người lạnh đi và mọi cảm xúc về anh cũng nguội đi. Nhưng đến chiều anh đến nhà bác sĩ đón cô thì lại khác. Vì một mình bơ vơ giữa thủ đô? Vì sự hồn hậu tất bật rất khổ sở của anh? Vì thói quen “gái phải hơi trai” hay vì những kỉ niệm mê man về một tài hoa? Vì một tình cảm đã ăn sâu khó có thể dứt bỏ hay vì một hi vọng còn chờ đợi? Anh lai cô đi suốt 50 ki lô mét trong mưa gió, lầy lội! Cô thì mặc áo mưa, đội mũ, đi giày tất, còn anh đầu trần ướt luốt chuốt. Từ đường nhựa ra đến bến đò ba ki lô mét, bùn trơn anh phải khoá xe gửi, cõng cô ra bến đò rồi mới quay lại dắt xe... Có lẽ vì tất cả những cái đó để chỉ chưa đầy ba tháng sau, cô lại đi “giải quyết” lần thứ hai và tiễn anh đi xa với một mệnh lệnh nghiêm ngặt khiến hàng chục năm sau anh còn phải làm theo: “Dù hoàn cảnh thế nào anh cũng phải súc miệng nước muối thường xuyên để chữa cái “họng hạt” đấy. Nào thôi chia tay. Em vẫn coi anh như một người bạn lớn. Không cần đâu. Em tự lo về được. Phải dũng cảm lên, đừng buồn thế”.
Bà lại hỏi:
- Thế cái thằng giời đánh, thánh vật ấy nó định thế nào?
- Sao bà lại nói thế? Anh ấy là người tốt. Cháu chả cần thế nào cả. Chị vợ anh ấy tốt hơn anh ấy nói nhiều. Hiền và đại lượng, đàng hoàng lắm. Cháu có đến nhà để chia tay anh ấy. Cháu hôn anh ấy. Chị ta biết mà vẫn ngơ đi, vui vẻ như không. Chị ta bảo chồng: “Thôi anh cứ vào trong ấy một thời gian đi. Rồi sau này chúng mình xử sự với nhau thế nào cũng được. Nhưng cố giữ để các con nó không biết chuyện bố mẹ”.
Nó cứ nói bô bô, đi lại thoăn thoắt mặc cho bà ngồi thở dài não nuột. Trong khi ấy bác Nạc thì thầm với mấy ông trong đảng uỷ ở đầu nhà rằng con Huyền có quan hệ bất chính thật. Anh nhất trí không thể để một phó bí thư xã đoàn phá hoại hạnh phúc của người khác. Phải thay thôi. Huyền gọi:
- Cứ nói to lên bác Nạc ơi. Cháu nghe hết rồi, việc gì phải thì thầm. Các bác đảng uỷ mà làm việc cứ thậm thà thậm thụt nó thế nào ý.
Nạc quát:
- Còn đẹp mắt lắm đấy hả? Liệu mà viết kiểm điểm, nhận kỉ luật đi.
- Kiểm điểm với ai hả bác?
- Với ban chấp hành của mày, còn với ai.
- Cháu thôi rồi. Còn cái kiểm điểm thì cho cháu chịu bác nhé.
Bà Đất lật đật chạy đến lấy tay bịt mồm nó, van lạy nó để nó im đi.
Đến đêm, khi nó nằm ôm lấy bà, bà mới hỏi:
- Cháu ơi, mày định lấy chồng không hở cháu?
- Có chứ ạ. Không lấy chịu thế nào được hở bà.
- Giời ơi, ăn với nói.
- Bà ơi, thế ngày xưa ông cháu mất, bà mới 19, 20 tuổi, làm thế nào bà lại cứ nhịn được mãi thế hả?
- Đừng nói thế cháu.
Cháu nằm im rồi ngay lập tức nó đã ngủ rất say thì bà lại vật vã nghĩ cách nào van lạy hai bác và anh Nạc để có nhời với mọi người cho chuyện giăng gió của nó khỏi vỡ lở, khỏi chuội mất cái chân cảm tình. Ngày hôm sau bà bảo nó rằng nhà mình cả nội ngoại, dâu rể, ông cháu là 14 đảng viên rồi. Cháu cố phấn đấu nữa là 15. Cả làng cả xã này không có họ nhà ai được như thế. Nó cười phá lên hỏi bà:
- Sao bà không phấn đấu làm cái chân cảm tình hở bà?
Bà đau đớn, chết lặng. Nó nhận ra sự bỡn cợt của nó đụng vào sự kính cẩn linh thiêng của bà, bà không cho ai được phỉ báng, chế giễu. Nó biết bà không thể hiểu hết những chữ ấy và công việc nó phải như thế nào nhưng suốt mấy chục năm nay bà sống được là nhờ tựa vào sự linh thiêng kính cẩn ấy. Nó giống như ngày xưa bà đã tựa vào trời phật, thần thánh và gia giáo. Đến ngày khởi nghĩa, gặp được ông Kiêm bà tin và yêu ông, tin kính cẩn. Không ai có thể phỉ báng được những gì, người chồng của bà đem đến cho bà mấy chục năm nay. Con Huyền biết lỗi nhưng không biết cách nào xin lỗi bà, nó dặn:
- Tối nay bà ở nhà, cháu đi gặp mấy đứa trong ban chấp hành nhá.
- Làm gì?
- Cháu nhờ chúng nó giúp cháu đừng làm to chuyện ra ảnh hưởng đến việc phấn đấu của cháu.
Chả biết nó có đi gặp ban chấp hành thật không, có phấn đấu thật không. Nhưng trông mặt mũi nó nghiêm chỉnh và xăm xắn đi ngay bà cũng thấy đỡ tủi thân, thấy mình không hoàn toàn vô tích sự, thấy được tấm lòng của cháu, chỗ tựa duy nhất của bà còn biết nghe lời bà, một bà già ngây ngô nhưng mà thật lòng, suốt đời đau khổ vì tấm lòng thành thật của mình.
*
* *

Đã định bụng hàng tháng trời, hôm nay mới lựa được lúc chị ấy đi làm, bà đặt cháu, rón rén ra gian nhà ngoài hỏi con:
- Mẹ có chuyện định trình bày với con. Anh xem thế nào hộ mẹ!
Hiếu vẫn ngả mình ở ghế xa lông ngửa mặt nhả khói thuốc hỏi:
- Chuyện gì?
- Dưng mà sáng nay anh có đi làm không đã.
Hiếu là người ưa nói chuyện với mọi người, có thể nói cười hàng nửa ngày liền với bất cứ ai đó, nhưng với mẹ, lúc nào anh cũng tiêng tiếc những lời nói. Dù nói bất cứ điều gì với mẹ lúc này anh cũng cảm thấy khó khăn, nhọc nhằn. Cũng là từ khi anh ấy ra làm việc, nhất là từ ngày ở trong Nam ra. Trước đây anh khác. Trước đây, nhất là những đận gian nan, đêm nào anh cũng rì rầm suốt đêm “bồi dưỡng” cho mẹ nói năng thông thạo. Đến bây giờ như là anh phải cố nén lại để nhẹ nhàng giục bà:
- Bà định nói gì, nói nhanh nhanh lên, tôi còn lo việc khác.
- Mẹ sợ anh phải đến cơ quan!
- Khổ lắm. Thì tôi đang ngồi đây, bà lại tưởng, tưởng cái gì.
- Con biết mẹ sống hay chết cũng là vì các con. Không khi nào mẹ có tư tưởng khác.
- Bà nói thẳng vào việc đi xem nào. Tôi không lúc nào có nhiều thời giờ đâu.
- Thì anh cứ để cho mẹ nói có đầu có cuối.
- Tôi đã bảo tôi không có thì giờ nghe bà kể lể dài dòng.
- Ừ thì mẹ nói vắn tắt thôi vậy. Con biết đấy. Cả hai “lần đò” mẹ cũng chỉ còn có một mình con.
- Tôi đã bảo bao nhiêu lần là đừng bao giờ kể lể những chuyện ấy. Mà bà định nói cái gì thế?
- Mẹ chỉ cốt anh hiểu cho lòng mẹ. Ừ thì thôi mẹ không kể ra làm gì. Mẹ chỉ định nói với con độ này cháu nó cứng cáp gửi nhà trẻ được rồi, anh cho mẹ về.
Phải nói ra điều này vì chỉ khi trốn làng đi đẻ ra anh ấy, còn không bao giờ bà ra khỏi nhà được một tuần lễ. Lần này khi chị ấy sinh cháu bà đã lên tỉnh bảy tháng trời không về nhà. Đúng là hơn cầm tù bà. Ở nhà có ăn nắm dải khoai bà cũng thấy nó thoải mái hơn ở đây ăn cơm gạo trắng, có thịt, có cá. Cái tuổi ngoài 60 của bà, lạy trời còn mạnh chân khoẻ tay, còn chợ búa, nấu cơm, gánh nước, giặt giũ cho chị ấy, cho cháu cứ quần quật như một con ở bà vẫn lo được chu tất không có nề hà gì. Đời bà lam lũ nó quen rồi, có quản gì khó nhọc. Bà cứ âm thầm héo hắt đi, nó ở hai nhẽ. Thứ nhất, bà thèm, bà nhớ cái cảnh tối tăm, lặng lẽ ở làng Cuội chứ không chịu được cái bóng điện nó cứ sáng loé lên soi vào mặt không sao ngủ được. Lại ồn ào quá. Lúc nào ở phố xá cũng như có đám đánh nhau, không mấy khi yên ắng, tĩnh mịch. Xóm làng, sớm tối, trừ khi đấu tranh ra còn quây quần, chào hỏi nhau, đằng này sát tường nhau, ai làm gì kệ người nấy. Nghe nó cứ lạnh lẽo thế nào. Cái nhẽ thứ hai là bà đã cố nhịn nhục cái nỗi nhớ âm u để hầu hạ con dâu, nhưng chị ấy lại không thèm sai bảo quát mắng bà, khiến bà thèm cái thèm của một con chó được chủ quát mắng mà không được. Mỗi khi chị ấy định sai bà làm gì, thì chị ấy sai chồng để chồng sai lại bà. Bà làm cái gì không vừa lòng chị ấy, chị ấy lại chiềng ra trước mặt chồng, để anh ấy đe nẹt, xỉ vả:
- Anh nhìn thấy con muỗi đậu vào bát bột của con không? Nhà này đã lụn bại đến mức không sắm nổi cái chạn để bát bột vào hay sao? Vứt bát bột đấy, con bé ăn vào đi ỉa chảy, kiết lị thì chỉ một mình con này đau đớn khốn khổ chứ ai biết đấy là đâu.
Anh chồng quát:
- Ai để ra đấy hả?
Chị vợ lặng lẽ quay đi chỗ khác. Anh chồng gọi mẹ:
- Bà đâu rồi? Vào đây tôi nhờ một tí. Ai để bát bột của con bé cho ruồi bâu, kiến đậu thế kia?
- Đang ăn cháu nó bậy, tôi vội vàng phải vứt đấy rồi đi rửa cho cháu.
- Vội thế nào thì bà cũng phải đậy điệm vào rồi mới đi chứ. Quen cái thói ma mút ở nhà quê, ăn xó mó niêu.
Hay là:
- Đã bảo làm được thì làm, không để đấy, con này vẫn phải lo. Cùng lắm, bỏ ra vài chục bạc là có tất. Việc gì phải nhờ vả, mang ơn khổ sở thế này.
- Cái gì đấy?
- Mở to mắt nhìn vào cái phuy nước xem cái gì thì biết.
Anh chồng quát:
- Bà đâu rồi. Ai bảo bà xách nước trâu đầm trông khốn nạn thế?
- Thì vẫn hứng ở máy như mọi lần. Nằm nghe thấy máy chảy là phải vội vàng lẻn ra hứng để người khác khỏi tranh mất. Đêm tối, mắt mẹ có biết được nước trong hay nước đục. Thôi để nó lắng xuống xem. Nếu không ăn được mẹ sang giếng công đoàn mẹ gánh.
Hay là:
- Mấy hôm nay anh đã nghe thấy khu tập thể người ta nói gì chưa?
- Cái gì?
- Người ta bảo tôi là con thối thây chỉ có nằm ngửa mà ăn chơi đú đởn để hết mẹ chồng rồi đến chồng nai lưng ra hầu hạ.
- Ai nói kệ xác họ.
- Giá như thằng con nào nó ở ngoài thối mồm, kệ cha nhà nó. Đằng này, tự trong nhà thóc mách ra.
- Cô nói gì thế?
- Tôi nói, tôi đ… cần thằng nào con nào đến đây. Vừa tốn cơm, tốn của, vừa mang tiếng ác vào thân.
- Câm mồm đi, đồ vô văn hoá. Vô đạo đức.
- Tao vô văn hoá nhưng tao còn học hết đại học. Học trường Tuyên giáo có bằng cấp hẳn hoi nhé. Còn hơn cái thằng trưởng ty giao thông chỉ biết bịp người ta bằng cách gương mẫu lặn xuống sông. Có cái bằng đại học tại chức thì đổi bằng gà lợn, gạo nếp, đỗ xanh. Còn đạo đức à? Cái thằng xui vợ tố chú dượng ngủ với con dâu để được tách thành phần, được làm cốt cán. Đến sửa sai lại lấy cớ đó mà bỏ vợ để người ta phải phẫn uất treo cổ chết là đạo đức đấy hả?
- Tiên sư con đĩ, không câm họng đi, ông tống ra khỏi nhà.
- Tao thách đấy. Tao nói cho mà biết mặt nhá, không biết điều, cái chức trưởng ty ấy đừng hòng vào tỉnh uỷ nay mai đâu. Thường vụ “cấu tạo” và cái mác chiến trường để trốn cái tiếng giết vợ chỉ đánh lừa được ông Văn Yến thật thà. Con này mà nói toạc ra mọi chuyện thì mười ông Văn Yến cũng phải bỏ chạy để giữ lấy thân, không có con nuôi, cháu nuôi gì đâu nhá.
Bà Đất khóc âm thầm từ lúc nào, bây giờ chạy đến quỳ trước mặt con dâu, van lạy thề thốt:
- Lạy giời có bóng điện chứng giám, không đời nào mẹ lại đi nói chuyện nhà mình với ai. Thôi mẹ lạy con. Tha cho chồng con nó nóng nảy. Mẹ xin, mẹ xin...
Hiếu im lặng. Hiếu lại đành nuốt hận. Anh không ngờ con mẹ nó, mụ Nho, lại trả thù anh ghê gớm như vậy. Năm ngoái ở miền Nam ra anh và mụ về quê “đi lại” với nhau, mụ ấy bảo: “Con Hiền, anh còn nhớ nó không? Con bé học chạy ở Từ Sơn mà hồi sơ tán em bảo anh mang đường sữa và các thứ cho con đấy. Nó dạy học được ba năm thì bị khớp. Xin đi học xuất bản ở trường tuyên giáo. Bây giờ về làm thư viện tỉnh mình. Anh về đấy quan tâm giúp cháu. Em cứ giao hẳn nó cho thủ trưởng đấy”. Không ngờ chỉ bốn tháng sau khi “thủ trưởng quan tâm” thì Hiền đã có mang và nhất định bắt anh phải cưới. Nếu không, cô ta sẽ báo cáo tổ chức và tự tử ngay tức khắc. Nhưng cưới thì Nho giết anh. Chính Hiền phải về nhà hàng chục ngày khóc lóc vừa van xin vừa doạ mẹ:
- Anh ấy đáng tuổi bố con thật nhưng con đã yêu hàng chục người, năm sáu lần phá thai rồi. Con thiết gì trẻ với già. Nếu mẹ cấm con, con chuẩn bị sẵn con dao đây rồi. Mẹ đâm vào bụng con cho hai mẹ con con chết một lúc rồi mẹ sẽ xỉ vả, chửi bới anh ấy.
Người mẹ cứng ra như chết. Nghe nói chị định đi tự tử mà giời rét quá. Ra khỏi cửa thấy lạnh run nên phải quay về mặc áo ấm. Mặc xong lại ngại không đi nữa.
Hiếu bí mật đăng kí xong, hai người “biệt tăm” một tháng. Tháng sau về Hà Nội bảo cưới ở quê. Về tỉnh bảo cưới ở Hà Nội.
Mụ Nho đã lôi hết “tung tích” của anh do sự thông minh của mụ tổng hợp các tin vặt ở quán nước nói lại với con để cản nó không được lấy “bồ” của mình. Đến khi con gái đẻ, mụ ấy vẫn từ mặt. Còn con gái mụ, con Hiền vợ anh, nó không thể trông cậy vào ai trong những ngày trở dạ và lúc con còn đỏ hon hỏn, nên nó mẹ mẹ con con vui vẻ với mẹ anh. Từ khi con bé biết lẫy, biết hóng chuyện có thể đem gửi nhà trẻ và chồng có thể thay mẹ giặt giũ cơm nước thì Hiền càng ngày càng khó chịu sự có mặt của bà. Hiếu biết điều đó hàng mấy tháng nay nhưng sợ mọi việc lại đổ hết lên đầu mình, nhất là lúc con ốm đau. Quan trọng hơn nữa là sợ mẹ cho rằng lúc cần anh bắt buộc bà lên ở với vợ chồng anh. Khi không cần lại đuổi mẹ về. Cho nên anh cứ lờ đi như không biết đến chuyện đó. Sáng nay mẹ anh nói ra, anh thấy trong người nhẹ hẳn. Song, anh vẫn nói với mẹ như có ý trì hoãn:
- Hãy khoan đợi xem thế nào đã.
Đợi đến tối, lúc vợ chồng vui vẻ anh hỏi vợ:
- Bà định về quê, ý em thế nào?
Cô xoay ngoắt người nói:
- Sao anh lại hỏi em!
- Thì vợ chồng phải thống nhất. Anh muốn bà ở đây thêm ít tháng nữa để con cứng cáp thêm mà em cũng đỡ vất vả.
- Tuỳ anh. Nhưng em nghĩ bà đã định, đừng nên trái ý bà. Vất vả thì vẫn ngần ấy việc. Thêm người, có thêm được việc gì đâu. Lại mang tiếng mẹ già phải hầu hạ.
Hai hôm sau, vào buổi sáng thứ bảy Hiếu mời bạn bè, quan chức ở tất cả các cơ quan xung quanh tỉnh đến uống nước để bà cụ chào mọi người, về dưới quê. Cả buổi sáng, hàng dăm bảy chục người thành mươi mười lăm đợt đến chào bà. Đợt nào bà cũng phải nói cái câu:
- Thôi thì các bác thông cảm cho tôi. Hai cháu thì nó cứ tha thiết bảo mẹ phải ở lại để có bà, có cháu nó vui vầy mà chúng con cũng có điều kiện chăm sóc mẹ. Nhưng tôi thì tôi cứ nhớ nhà quá, không ăn không ngủ được. Tôi xin các bác cho tôi về, dăm bữa nửa tháng lên với cháu tôi lại xin đến chào các bác.
Sau những lời can ngăn của bao nhiêu người bà vẫn nhất mực đòi về.
Hiền nói:
- Em xin báo cáo thật với các anh, bao nhiêu đêm em nói như van lạy cụ: Cháu nó cứng cáp đi nhà trẻ được rồi nhưng bà cứ ở lại đây với chúng con, với cháu. Cả đời bà cụ vất vả rồi bây giờ được lúc con cháu nó chăm sóc, trông nom, tại sao cụ lại cứ khăng khăng đòi về. Nhưng không tài nào lay chuyển được cụ em. Chúng em đành chịu. Mà thật lòng để cụ em về chúng em không thể nào yên tâm được.
Không biết bà cảm động quá hay nghĩ đến cái lúc đau đớn, xót xa mà nước mắt bà ướt đầm má đứa cháu bà đang bế trong tay. Bà vội vàng lấy vạt áo lau. Rồi nhớ ra điều gì bà lại vôi vàng tìm cái khăn riêng của cháu, nhúng nước sôi lau lại cho cháu. Bà cười cười mà khuôn mặt như méo đi, như đang cố kìm tiếng khóc bật ra.

Đã mang vào thư viện

Phần 4 - chương 1
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.03.2006 18:36:15 bởi ct.ly >
#16
    conbo2 06.03.2006 20:32:54 (permalink)
    *
    * *

    Sau đại hội đảng bộ tỉnh, vòng hai Hiếu trúng thường vụ tỉnh uỷ được bố trí về làm bí thư huyện uỷ, huyện “điểm”. Vốn là người năng động nhạy bén lại được tham quan 27 ngày ở nước bạn, anh đã hình thành sẵn một huyện làm ăn lớn ở trong đầu như mô hình của bạn. Một liên hiệp công nông sản xuất theo chu trình khép kín quy mô toàn huyện. Với 19 vạn dân trong 45 ngàn héc ta đất tự nhiên và một cơ sở vật chất kiệt quệ anh chắc sẽ gặp khó khăn lớn lắm. Phải có mấy trăm xe vận tải cơ giới trong khi toàn huyện chỉ toàn xe bò. Phải có dăm bảy nhà máy sản xuất thành hàng hoá những sản phẩm làm ra trong khi không có một đồng vốn, một công nhân. Rồi phải có cả máy bay đi phun thuốc trừ sâu trong khi thường xuyên có hai vạn dân phải đi cứu đói từ bốn đến sáu tháng trong một năm. Số còn lại thì quá nửa bữa đói, bừa no. Phải có hàng triệu ki lô oát/giờ điện với hàng chục tỉ tiền vốn trong khi không có nhà nào có đủ năng lực (hoặc không bao giờ nghĩ đến) mua dầu thắp đèn ngoài tem phiếu. Phải có hàng trăm ki lô mét đường nhựa (chưa kể phải có sân bay và đường băng), trong khi mới chỉ có dăm cây số đường trải sỏi. Phải có... phải có khoản nào cũng hàng tỉ, hàng trăm tỉ. Trước mắt phải có 21 tỉ rưỡi để xây dựng bệnh viện đa khoa, làm nhà văn hoá, xây thêm trường cấp ba, hệ thống thuỷ nông cấp thoát nước, vài chục trạm tưới tiêu, xây dựng trạm biến thế và lưới điện, hàng chục con đường cấp phối liên thôn, liên xã trong khi vốn nhà nước tỉnh cấp 0,22 tỷ bằng 220 triệu và huyện chắt chiu từ hàng chục năm nay được 80 triệu tổng cộng bằng 0,3 tỷ. Nhưng không sao, kinh nghiệm ở xã và những năm ở chiến trường cho anh một kết luận: chỉ cần nhiệt tình là có tất. Có những việc tày trời hàng trăm năm không ai làm được nhưng có nhiệt tình làm, có tinh thần thì chỉ làm trong một vài năm, thậm chí chỉ vài ba tháng. Khi đã có nhiệt tình lớn, quyết tâm cao, ta làm kế hạch báo cáo lên trên. Tỉnh đã quyết tâm xây dựng huyện thành mô hình kiểu mẫu làm ăn lớn, bằng giá nào cũng phải tập trung mọi cố gắng để làm cho kì được.
    Một ý định đã có sẵn trong đầu lại tin vào khả năng giao dịch đầy thuyết phục của mình, chỉ sau ba tháng về huyện anh đã huy động được toàn bộ 6000 người ăn lương nhà nước ở tất cả ngành giới của huyện và các nhà máy, xí nghiệp, các trường học thuộc trung ương và tỉnh đóng trên địa bàn huyện tham gia công cuộc cải tạo, phát triển nền kinh tế lớn của huyện. Toàn bộ công việc được chia thành hai khối lớn. Khối một: gồm tất cả những nhà tri thức, các cán bộ kĩ thuật và chuyên môn tập trung nằm bò ra ở hội trường huyện uỷ, uỷ ban để tính toán thiết kế các sơ đồ quy hoạch cho một viễn cảnh 5 đến 10 năm tới.
    Trên hệ thống sơ đồ của huyện hiện tại được thống kê rất đầy đủ các số liệu toàn bộ cuộc sống xã hội trên tất cả mọi lĩnh vực. Có lẽ quán triệt ý định của bí thư phải làm nổi bật lên viễn cảnh tương lai, hay thực chất nó là thế, mà những con số so sánh về mọi mặt nó chỉ bằng hoặc kém hơn hồi chết đói năm 1945. Chẳng hạn một lao động chính làm quần quật hai sương một nắng từ sáng sớm đến tối nhọ mặt người bình quân giá trị ngày công chỉ mua được bốn phần 10 que kem, nghĩa là đi cày bừa, cuốc đất ròng rã hai ngày rưỡi trời mới được một que kem. Được cái, nông dân không mấy ăn kem và bằng cách nào đó nhiều người vẫn sống đàng hoàng với sập gụ, tủ chè, xe đạp, ra đi ô, xây nhà, xây sân nên không mấy ai xúc động về những con số “đói khổ”. Ngay cả những người quần đụp, nón mê, quanh năm không đủ khoai và dong riềng để ăn, cũng không thấy khổ sở lắm, không cần để ý đến giá trị ngày công, cũng không thấy cần thiết phải thay đổi làm gì. Còn những sơ đồ tương lai, sau khi đã xây dựng thành công thì hấp dẫn tệ. Dù người mù chỉ nghe nói, người điếc chỉ biết xem, đều biết chỗ nào là nhà máy chế biến thức ăn gia súc, nhà máy đay, nhà máy dệt, nhà máy làm chuối hộp, nhà máy làm tinh dầu (Hiện nay chưa có cơ sở nào từng lấy hồi, kinh giới, tía tô nhưng rồi sẽ phân công cho các xã tổ chức làm), nhà máy xay sát, nhà máy đóng hộp thịt lợn, thịt gà, thịt vịt thịt ngỗng xuất khẩu. Ở vùng này về độ tháng tám, tháng chín hàng năm có hàng triệu con cò bay về làm tổ đẻ trứng. Có thể ta bắt cò làm thịt đóng hộp xuất khẩu, là sản phẩm đặc biệt của huyện này mà cả thế giới chưa chắc đâu đã có. Nếu ăn khách ta xây dựng thêm nhà máy chuyên sản xuất thịt cò xuất khẩu theo một dây chuyền hiện đại từ A đến Z, nghĩa là từ khâu nhử cò về đây bằng âm thanh và ánh sáng, rồi nuôi, rồi bắt, rồi làm thịt đóng hộp đều bằng máy móc hiện đại điều khiển tự động. Các nhà máy xây lên để làm việc, chứ không phải để báo cáo thành tích nên nhà máy nào cũng phải có tí khói bay lên. Những con đường xe nối đuôi nhau cũng phải thể hiện “ngựa xe như nước”. Máy bay trực thăng đang phun thuốc trừ sâu ở cánh đồng nào? Ca nô tàu thuỷ bốc dỡ hàng ở những đâu? Chỗ nào là những bể nước khổng lồ phân phối nước cho những hệ thống tưới tiêu ngầm. Những tấm thảm màu xanh tương lai hi vọng cứ là cò bay gãy cả cành.
    Trong khi khối một thiết kế quy hoạch, vẽ sơ đồ thì khối hai gồm tất cả các cơ quan thuộc hệ thống tuyên huấn, thông tin văn hoá, các đoàn thể và sinh viên học sinh, công nhân sưu tầm tài liệu tổ chức học tập cổ động bằng mọi hình thức ở tất cả mọi chỗ, mọi nơi. Tổ chức viết bài cho toà soạn “Bay lên” và Đài phát thanh “huyện ta”. Làm sao cả bề nổi bề chìm, bề rộng, bề sâu đều “đồng thời” tạo nên một khí thế mới, cổ vũ toàn dân một lòng tin tưởng tự hào hăng hái quyết tâm, phấn khởi phơi phới, tiến lên chiếm lĩnh đỉnh cao khoa học kĩ thuật biến huyện nhà từ một nơi nghèo nàn lạc hậu thành tươi đẹp ấm no, giàu mạnh toàn diện, tiêu biểu cho sức mạnh sáng tạo nhất tỉnh nhà (chắc chắn là nhất cả toàn quốc nhưng bà con ta vốn khiêm tốn hay cứ nói thế cái đã), 38 chiếc loa miệng như những cái chảo lớn được ty thông tin “tăng cường” mắc cho 36 xã và thị trấn. Đài truyền thanh “huyện ta” cách đây bốn năm khi có nhân viên vừa lên máy nói: “Đây là đài truyền hình huyện ta” thì từ những chiếc loa phát đi trong toàn huyện có tiếng ồm ồm của người đàn ông: “Không luộc lên, thiu bố nó rồi”. Từ đây người ta gọi đài truyền thanh “huyện ta” là đài “thiu bố nó rồi” mở từ sáng sớm đến hết giờ đài Hà Nội. Bài viết về những gương dũng cảm, tận tuỵ, sáng tạo mày mò ở các nơi rồi nghị quyết, chỉ thị, lời kêu gọi của huyện uỷ, uỷ ban các ngành, các giới cứ là hừng hực. Có lẽ từ ngày cải cách đến giờ mới lại có sự chỉ đạo tập trung thống nhất từng ngày, từng giờ một cách rầm rộ đến thế.
    Ông già mù quơ cây gậy ra phía trước để chuẩn bị một bước chân sẽ bước lên. Rồi lại lẩy bẩy cây gậy lò dò trong khi hai khoé môi cứ nhếch lên như cười rồi nhanh chóng mím lại nghiêm trang, đưa bàn chân run run đặt vào chỗ cây gậy vừa nhấc lên tiến về phía trước. Những bà còng mỏi chân ngồi xuống, tí nữa bị hàng “quân” xô bẹp. Những đứa trẻ cõng em mũi thò lò chen chúc xô đẩy, chửi bới om sòm chí choé... Đoàn quân từ cụ già đến trẻ con “ra trận” hăm hở vào một buổi sáng chủ nhật. Ai cũng có trong tay một thứ gì đó như là xẻng, cuốc, dao thuổng, rổ, sọt, đứng thành hàng, xã nọ nối xã kia ngang dọc, nghìn nghịt người đứng dưới 1850 mét vải được huyện chia đều cho các xã làm băng cờ, khẩu hiệu đỏ thắm rợp trời!
    Chả còn mấy chốc nữa giây phút trang nghiêm sẽ đến. Nghĩa là khi “tình bằng có cái trống cơm” phát ra từ cái loa câm bặt, tiếng trống cà rùng, tiếng hô khẩu hiệu của trẻ con dừng lại. Rồi tiếng ọ ẹ phát ra... Vài giây sau mới thấy tiếng hô nghiêm kéo dài và rất to. Sau chào cờ là ông Hiếu bí thư “kính thưa” ngay. Phải năm, sáu lần “kính thưa” chạy rào rào trên ngọn cây, vị tổng chỉ huy Lưu Minh Hiếu mới đọc mệnh lệnh ra quân:
    - Toàn huyện là một công trường, toàn huyện là một mặt trận. Chiến trường của chiến sĩ hôm nay là mảnh đất quê hương thân yêu mình đang sống. Kẻ thù của chúng ta hôm nay là nghèo nàn lạc hậu, là thiên tai hạn hán, là úng lụt gió bão, là thiếu nhiệt tình cách mạng, thiếu ý chí tiến công. Tôi kêu gọi toàn đảng, toàn dân huyện nhà hãy dũng cảm, tấn công vào kẻ thù nghèo nàn lạc hậu, tấn công vào gió, bão, tấn công vào nắng, vào mưa bắt chúng phải khuất phục, bắt chúng phải đầu hàng để chúng ta chiếm lĩnh đỉnh cao chói lọi trên mặt trận ấm no hạnh phúc. Đồng bào và đồng chí có quyết tâm không?
    Dân chúng từng xã đứng lên “trận địa” của xã mình, không trông thấy người nói tại cuộc mít tinh ở thị trấn nhưng do được phổ biến tập dượt trước cho nên xã nào cũng gào lên rất to ba lần “quyết tâm” đáp lại câu hỏi ở những cái loa treo trên ngọn cây. Chiến dịch ra quân đầu tiên này là mở những con đường liên thông, liên xã ngang dọc trong toàn huyện. Tổng cộng các đường liên xã làm cho ô tô đi là 85 ki lô mét và hàng trăm ki lô mét đường liên thôn cũng phải đắp đủ năm mét rưỡi trên mặt để ô tô đi. Trung bình mỗi xã phải làm năm ki lô mét. Rồi sẽ rải đá và rải nhựa. Cạnh đường là mương dẫn nước, mai kia sẽ đặt hệ thống cống ngầm, sẽ có cột điện cao thế, tức là điện khí hoá hoàn toàn. Tất cả bảy con đường liên xã đều phải thẳng như kẻ chỉ. Công trình hiện đại, làm ăn lớn không thể manh mún. Tất cả đền chùa miếu mạo, nhà cửa chợ búa và vân vân. Ở đâu chạm vào đường đi đã được vẽ và thông qua ở hội trường huyện đều phải phá dỡ, di chuyển. Ai chống lại, dân quân và công an bắt giải lên huyện và cứ phá dỡ để “giải phóng” mặt bằng. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến 18 giờ ngày hôm qua đã có 912 trên tổng số 1327 nóc nhà đã phá dỡ di chuyển. 14 trong số 15 đình chùa cũng đã phá xong. Theo báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm tại buổi tổng duyệt lúc 23 giờ 7 phút ngày hôm qua thì tất cả đều hăng hái phấn khởi, chỉ có 17 trường hợp ngoan cố không đi, có tên lăn ra nền nhà kêu gào. Lực lượng bảo vệ đã kiên quyết cưỡng bức, thậm chí có trường hợp phải vác họ đi hoặc trói lại đưa về huyện. Số hộ còn lại trước khí thế tiến công của chúng ta ngày mai sẽ phải giải quyết gọn 100 phần trăm. Nghe chủ tịch huyện, phó tổng chỉ huy thứ nhất trực tiếp làm trưởng ban giải phóng mặt bằng báo cáo. Hiếu nghĩ bụng “Nói phét. 100 phần trăm dân chúng mếu máo. Quá nửa số phải dỡ nhà nằm lăn kềnh ra kêu gào than khóc, có chỗ nó còn chửi và đánh lại, dân quân phải bắt hàng trăm người giam ở nhà truyền thống!” Phải lên tỉnh họp thường vụ, nhưng anh vẫn biết hết. Anh đã lường trước mọi chuyện nên toàn bộ lệnh phá nhà, bắt người và những phức tạp khác toàn quyền chủ tịch huyện với tư cách chính quyền quyết định. Nếu khó quá thì xin ý kiến tập thể thường vụ do phó bí thư trực chủ trì. Nói tóm lại. Anh sẽ thúc rất mạnh cho họ làm. Tất cả mọi ý định táo bạo của anh cũng đều có tập thể thường vụ thậm chí cả toàn ban huyện uỷ thông qua và chịu trách nhiệm. Bí thư nói:
    - Sẽ vô cùng gian khổ, vô cùng phức tạp như tất cả mọi cuộc cách mạng lớn đều phải có sự hi sinh lớn. Khó khăn càng lớn, vất vả càng nhiều thì ý nghĩa thắng lợi càng sâu sắc lớn lao. Có thể nói việc giải phóng mặt bằng của chúng ta đã cơ bản hoàn thành với khí thế phấn khởi vui mừng và nguyện vọng thiết tha của toàn dân bao đời còn chìm ngập, đến nay chúng ta đã khơi dậy cho nó bùng lên tạo thành sức mạnh ghê gớm. Chỉ qua những ngày chuẩn bị chúng ta đã thấy cái sức mạnh ấy nó ghê gớm như thế nào. Tôi tin là buổi ra quân ngày mai nhất định sẽ bắt đầu một thời kì mới.
    Anh biết rằng nông dân được chi ba ngày công cho buổi “ra quân”, học sinh được cộng điểm đạo đức, cán bộ được 5 đồng ăn trưa, công nhân ở xí nghiệp trung ương được bồi dưỡng “ca ba”, và rất nhiều biện pháp hành chính, nếu cần phải dùng cả lệnh cưỡng bức thì người chạy đi đâu mà không đông đảo, khí thế. Ngừng lại, nhìn mọi người rồi anh tiếp. – Nhất định chúng ta sẽ đóng một dấu son đỏ chót vào lịch sử xây dựng của huyện nhà. Lịch sử đã chọn chúng ta, giao phó cho chúng ta nhiệm vụ trọng đại, chúng ta kiên quyết làm người lính tiên phong trên mặt trận mới tiến công vào...
    Sáng hôm sau, mít tinh nửa giờ xong, chủ tịch huyện, trưởng công an, viện trưởng viện kiểm sát, chánh án toà án có công an, dân quân, bộ đội “hộ tống” chia nhau trên các loại xe to nhỏ, súng ống tua tủa ra lệnh, bắt người đập phá để giải phóng nốt mặt bằng. Bí thư huyện uỷ một mình đạp xe đạp tránh những nơi đó, ông xắn quần, mặc áo “ba lỗ” bốc bùn ở chỗ các cơ quan tỉnh, trung ương và huyện. Sau rồi cứ để nguyên người ngợm lem luốc như thế đến vác đất đắp đường ở một vài xã “to mồm” và bốc phét nhất như Bái Trung, Phù Hoa. Ở đâu, bí thư cũng giữ nguyên nụ cười thường trực và nắm tay, ôm chầm lấy những thanh niên, phụ lão đào mai, bốc đất mò. Còn những người ở xa quá anh giơ hai tay của mình nắm thật chặt vào nhau như là một tay thì của anh, tay kia là của hàng trăm hàng nghìn bà con khiến ai cũng có cảm giác bí thư đang nắm lấy tay mình. Có chỗ anh còn lội xuống nước, ngập đến ngang người để thấy hết khó khăn của những người lao động vất vả. Bao nhiêu máy ghi âm, máy ảnh, máy quay phim và các phóng viên lăm lăm sổ tay mở sẵn xô nhau quây lấy quay, chụp và phỏng vấn và anh rất tươi cười trả lời tất cả mọi câu hỏi một cách thông minh và hóm.
    - Rất là ấn tượng. Báo cáo anh, ấn tượng lắm ạ – Chánh văn phòng huyện uỷ đi cùng với trưởng phòng thông tin văn hoá đến bên nói. Bí thư đột ngột hỏi lại:
    - Cái gì?
    - Báo cáo anh, chỗ nào bà con cũng rất cảm động về sự sâu sát, ân tình của bí thư. Ấn tượng về buổi sáng nay rất mạnh và sâu sắc.
    Biết thừa anh ta nịnh, bí thư vẫn tủm tỉm cười hỏi lại:
    - Họ nói thế nào?
    - Họ bảo không những bí thư có tầm nhìn xa rộng, có lí luận sâu sắc, còn có tác phong miệng nói, tay làm, hoà mình với quần chúng. Đúng là ấn tượng ghê lắm.
    - Thời buổi này mà lí luận suông, chỉ tay năm ngón thì chỉ được những báo cáo rất dài và phong phú nhiều mặt.
    - Báo cáo bí thư, hai mươi năm công tác ở văn phòng huyện uỷ tôi cũng đã có kinh nghiệm về chuyện này. Cho đến hôm nay thực sự không thể nghi ngờ quần chúng lại tự nguyện lao vào cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật một cách phấn khởi, hào hùng hơn cả đi hội.
    Hội hè cái con khỉ. Bầy ra bao nhiêu trò động viên giáo dục, khích lệ và bỏ ra mấy trăm triệu chi phí mới được như thế. Dân chúng bây giờ khôn như ranh, có ai mơ màng ngây thơ gì nữa mà vui được như hội. Chỉ quen cái thói lựa theo ý thủ trưởng là không ai bằng. Bí thư chỉ lim dim mắt như là lắng nghe và nghĩ chứ ông không nói ra. Nói ra làm gì! Phản đối cậu ta thì phản đối tất và phản đối ngay cả mình. Thời buổi bây giờ thằng nào làm được việc cũng đều biết cách dối mình và dối cấp trên, nói dối dân chúng. Chả cứ gì cấp trên, ngay dân chúng cũng ưa nịnh, thích được tâng bốc, thích làm ít, khen nhiều. Chính sách (đa dương, thiểu bình) của cụ Văn Yến là tuyệt vời. Một lời khen sai còn hơn mười lời chê đúng. Khen thì bao nhiêu cũng ít. Nói hơi sường sượng một tí vẫn thấy thinh thích. Còn chê? Nhất là cấp trên bị chê thì một lời nhẹ như bấc cũng nặng bằng cối đá tảng. Các cối đá tảng ấy không bao giờ cấp trên nuốt vào bụng được nên buộc nó phải lăn đi. Lăn ngay vào đầu thằng chê. Đã định “phấn đấu” mà còn đi chê cấp trên, nhất là cấp trên quyết định sinh mệnh của mình, có là thằng đại ngu. Cho nên, chỉ có các cụ về hưu mới tích cực đấu tranh, phê và tự phê, người đương chức, nhất là người không có nghề gì ngoài nghề “công tác” trong biên chế nhà nước, mấy ai họ dại.
    *
    * *

    Cái khí thế tự hào phấn khởi nó đang bừng bừng như lửa cháy, bọn địch đã công khai phá hoại trắng trợn, nếu không “cứng” là phong trào ỉu như bánh đa nước. Mất ngay với chúng chứ chả đùa. Nạc xã đội trưởng, phó tư lệnh chiến dịch trực tiếp điều “quân” và chỉ huy như chức trách của một tham mưu trưởng. Suốt từ đêm qua anh cùng thường vụ đảng uỷ, thường trực uỷ ban, công an, phải họp bàn để bố trí với chúng và củng cố tinh thần cho dân không ai chợp mắt. Sớm ra hô hào, đốc thúc các đơn vị ra quân xong lại phải đạp xe lên huyện tìm Hiếu. Không ai biết anh đến điểm nào nên tìm mãi đến trưa anh đành quay về thì gặp Hiếu cũng đạp xe xuống dốc đê.
    Trông mặt mũi Nạc hốc hác, hớt hơ hớt hải và rất nghiêm trọng, Hiếu hỏi:
    - Lại chuyện gì xảy ra?
    Nạc như dỗi, mặt mũi lầm lầm phải nén sự bực bội đang muốn trào túa ra rồi mới trả lời Hiếu:
    - Chính con bé nhà chú, nó làm tôi bẽ mặt. Tí nữa nó phá tan hết phong trào. Nửa đêm qua, cả đảng uỷ, uỷ ban định kéo lên huyện. Tôi phải thuyết phục mãi họ mới chịu chia nhau đi vừa vận động vừa dùng biện pháp cứng rắn thì sáng nay mới “ra quân” được đấy.
    - Chính con Huyền?
    - Nó làm, nhưng âm mưu là những thằng khác.
    - Nó về bao giờ?
    - Đi thực tập từ một tuần nay ở tỉnh rồi về huyện. Huyện bận tập trung chiến dịch, phòng giáo dục cho chúng nó nghỉ tạm về nhà mấy ngày.
    - Con Huyền liên quan gì đến chiến dịch?
    - Nó tuyên truyền không công cho địch. Tối qua toàn xã “ra quân” thử, chúng đã kéo đến và con Huyền đã nói bô bô ở giữa sân miếu Cuội là làng này không nên lấp đầm ông Cuội. Làm thế thì có khác gì lấp hết những kỉ niệm, những nhu cầu từ tổ tiên ông cha để lại. Bao giờ có nước máy, có nhà tắm sẽ hay. Bây giờ nhân dân cả xã tắm rửa, giặt giũ ở đây sao lại đem “lấp”. Nó lại bảo tại sao lần này nó về quê cứ như vào một trại lính. Toàn xã ai ai mở mồm ra cũng “chiến dịch”, “ra quân”, “trận đánh”, “tiến công”, “xung phong”, “đầu hàng”, nghe cứ rợn cả người. Vùng ta định biến xã hội này thành trại lính. Lúc ấy tôi lại đang trao đổi với bí thư ở trong nhà, anh ấy không biết. Nếu không, tôi đã gô cổ nó, cho người lôi về nhà, còn anh em khác ở đấy ai cũng ngại nó là con chú. Nguy hiểm ở chỗ nó nói, mọi người lại xúm vào nghe. Có người vô ý thức còn hét lên “cô Huyền nói hay quá. Cứ nói nữa đi cho bà con mở mang ra”. Tôi nghĩ là con này quan hệ lăng nhăng bừa bãi có khi bọn địch lợi dụng làm cái loa tuyên truyền không công cho nó mà ta không cảnh giác. Đêm qua tôi đã cho lệnh bắt trói tống giam 5 tên.
    - Những đứa nào?
    - Một thằng dạy ở trường đại học chỗ con Huyền có họ hàng gì với chi nhánh nhà vợ tổng Bạt và thằng Tịnh em trai nhà Bạt đi bộ đội về làm gì ở trên Hà Nội. Thằng thứ ba là vệ sĩ hay lực sĩ gì đấy. Thấy bảo vẫn hát ở trên đài. Còn hai thằng kia thì một là nhà thơ một thằng là châm cứu lí luận, chúng nó đều ở trong nhà thằng Tịnh.
    - Bắt chúng nó về tội gì?
    - Phát ngôn rất bừa bãi. Chính chúng nó có vẻ cổ vũ xúi giục con Huyền nói bậy. Ăn chơi trác táng bậy bạ. Gần mười giờ đêm còn hò hát tán tỉnh cười đùa. Thằng nhà thơ lại đọc thơ của tay Nguyễn Du nào đấy làm thơ ca ngợi con gái dám trèo tường đi quan hệ bất chính. Nghe rất uỷ mị sướt mướt có tính chất khêu gợi chuyện nam nữ lăng nhăng. Hành động của chúng không những sặc mùi phản động mà còn phá hoại tinh thần và ý chí của hàng mấy chục nam nữ thanh niên ngồi nghe. Nếu không ngăn chúng lại thì những anh chị em đó sáng nay không thể “ra quân” được. Vừa tháng trước chú phổ biến phải cảnh giác với bọn trí thức trí ngủ gì đấy nên khi nghe nói đám này đích thị là trí thức tôi phải cho người bám sát theo dõi ngay. Bắt quả tang lúc chúng đang hát hỏng thơ ca hò vè phản động.
    Hiếu nghe vừa muốn bật cười, vừa xấu hổ vì ông anh lớp ba này. Cả tức giận nữa. Khốn khổ ở chỗ, trình độ như thế đã là loại “át” chủ bài của lớp cán bộ được ra đời (từ sau cải cách và sửa sai của xã này) nên anh ấy đã lên lớp giảng bài cho hàng nghìn lượt người của xã về văn hoá tư tưởng về quân sự chính trị, về chủ trương của ta âm mưu của địch. Chuyện gì cũng biết, chuyện gì cũng bàn, cũng “lên lớp” được. Cuối năm 1970 anh ấy đã từng duyệt sách, duyệt nhạc, duyệt tranh, duyệt thơ văn của các nhà văn nhà báo, nhạc sĩ, hoạ sĩ. Viết, vẽ cho xã một quyển đủ tất cả các loại “truyền thống” để xã đi duyệt và cho in. Cái ông “chủ biên” có tên bằng chữ in hẳn hoi ấy lại đi bắt người đọc thơ của Nguyễn Du tác giả truyện Kiều và đề nghị “chú xem tay Nguyễn Du nó công tác ở đâu nên có công văn của huyện uỷ đề nghị trên xử lí tay này không có nguy hiểm lắm”. Lại khốn khổ ở chỗ không có những người như ông ấy thì mọi việc ở xã này lại không xong.
    Hiếu buồn bã nén một hơi thở mệt mỏi bảo:
    - Anh đi mời tất cả các anh em thường vụ về đây.
    Ông anh họ lại tất bật một cách nghiêm trọng đạp xe đi. Đúng là con người “chỉ đâu đánh đấy”, trung thành tuyệt đối. Hiếu ngồi bệt xuống bệ cỏ. Giá không có người qua lại anh đã ngả người xuống vệ đường cho giãn xương cốt và đỡ căng thẳng, rã rời.
    Tất cả mấu chốt để “chữa cháy” những việc đã xảy ra ở xã không khó khăn gì. Làm sao để các “bố” ấy khỏi nhụt chí, “mất khí thế” là được. Nỗi tức giận và giằng xé trồi cộm lên đến tận cổ là chuyện con gái anh. Vừa nghe chuyện nó anh đã muốn lao về nhà túm tóc, tát cho nó tối mặt lại mới hả. Nhưng anh cảm thấy bất lực chính từ mụ vợ anh. Mụ vợ, như một con ma ám ảnh trong tất cả mọi việc. Chuyện con gái anh, mụ ấy yêu cầu hai điều:
    Thứ nhất: Pháp luật đã quy định nộp năm đồng một tháng nuôi con khi nó chưa trưởng thành.
    Bây giờ nó đã quá mười tám tuổi, nhưng nếu xin tôi vẫn cho cái năm đồng ấy. Không thì thôi. Chín sáu đồng tiền lương của anh cũng không đủ nuôi con anh theo “giá ngoài” đâu, đừng sợ phải nuôi tôi. Nên tôi cứ dứt điểm trừ cho anh ăn tiêu mỗi tháng mười lăm đồng. Ăn cơm tập thể tháng có mười ba đồng, tôi cứ để anh tiêu cả mười lăm. Còn lại phải minh bạch sòng phẳng. Nếu mẹ anh ở đây tôi cũng phải nuôi đàng hoàng. Nếu cụ không thích ở đây, cái tiền vẫn nộp cho con Huyền chuyển sang cho cụ.
    Thứ hai: Trước đây anh chửi mắng đánh đập con anh thế nào thì tuỳ. Bây giờ tôi yêu cầu anh không được đánh đập, mắng mỏ nó.
    Tưởng vợ thương đứa con riêng của mình, anh phản đối:
    - Nó mà hư thì phải dạy bảo giáo dục.
    Cô ta hầm hầm bỏ đi. Dăm bảy ngày sau nhân lúc vợ chồng to tiếng, cô ta mới nói toẹt ra:
    - Tôi bảo anh đừng đánh mắng con anh là để tôi khỏi mang tiếng dì ghẻ xui bố chửi mắng con chồng. Nhưng tôi cũng để xem thái độ của anh ra sao. Tôi hỏi anh, nếu một kẻ ở ngoài đường nó làm việc gì xấu anh có dám mắng chửi nó không.
    - Nhưng nó là con tôi chứ không phải là kẻ qua đường.
    - Là con, nhưng nó đủ suy nghĩ để quyết định đời nó, anh không việc gì cứ phải chạy theo lo toan dạy dỗ. Anh còn lo lắng đến con riêng của anh tức là anh không còn thì giờ, tình cảm để “tất cả” cho con như mồm anh vẫn xoen xoét nói với tôi. Anh còn nhớ không?
    #17
      conbo2 12.03.2006 17:34:05 (permalink)
      *
      * *

      Đã có lúc ngồi một mình anh thốt lên chửi những con đàn bà ích kỉ đểu cáng. Vậy mà mỗi khi gặp sự tức giận định mắng mỏ, dằn hắt con điều gì, lập tức lời đe nẹt của mụ vợ lại như cái bóng ma vờn vỡn ở sau gáy, như hai hàm răng của mụ đang nghiến lại, rít lên: “Tôi biết mà. Anh còn thương đứa con riêng của anh hơn con tôi”. Thế là anh thấy chờn chờn. Dù mụ ta ở cách xa hàng trăm cây số vẫn thấy chờn chờn. Mà thực ra càng ngày anh càng thấy bất lực trước đứa con bất trị của anh. Song, cũng do mụ ta nanh ác với bố nên con bé đanh đá bất trị ấy có phần “dịu dàng” với bố hơn. Anh về đến nhà lúc nó đang ngồi với bà. Không thể tránh mặt được nó trong lúc bực tức nó, anh đành ngồi lại. Anh hỏi nó trước:
      - Huyền, về lúc nào? Nghỉ phép hay có công việc gì?
      - Con về làm ăn nhớn với bố đây.
      - Thế thì tuyệt vời. Huyện ta đang rất cần người vác đất khoẻ như con.
      Bà sợ hai bố con lại sắp sửa “vặc” nhau, vội vàng vun vào:
      - Nào thôi, Huyền đi nấu cơm cho bố ăn đi con.
      - Bà toàn ăn khoai làm gì có gạo.
      - Cái con bé này, toàn trêu bố. Gạo của bà ở vại ấy sao lại không.
      - Liệu có còn nổi một cân không bà?
      Hiếu:
      - Thôi ăn khoai cũng được, mẹ.
      Huyền:
      - Thì con đi nấu đây. Chưa chi bố đã tự ái.
      - Thôi, con ngồi đấy bố nói chuyện đã. Mẹ mang khoai ra đây cho con, mẹ.
      - Bác Nạc đã thì thọt với bố chuyện tối qua của con chứ gì?
      - Bố chưa biết. Bố hỏi con được nghỉ mấy ngày?
      - Con đi thực tập. Bố định cho con xung phong lặn xuống nước bốc bùn phải không bố?
      - Thực tập hả? Khoan. Để bố tính xem thế nào. Hay là thế này. - Anh dừng lại. Mẹ anh chờ đợi. Con Huyền giả vờ nghiêm trang. Anh nói tiếp:
      - Con có thích ở nhà với bà không?
      - Nhất bố ạ. Nhưng hết thời gian thực tập bố chỉ thị cho phòng giáo dục cho điểm mười và nhận xét con loại giỏi đặc biệt nhé.
      - Bậy nào. Phòng giáo dục đã mời bố mấy hôm nữa sẽ gặp mặt các giáo viên trong toàn huyện. Chắc là có đoàn thực tập. Bố sẽ đề nghị đoàn tham gia chiến dịch làm giàu của huyện. Nhưng không phải là vác đất. Tất nhiên nếu ai có tinh thần xung phong cũng rất hoan nghênh và không từ chối. Vì hàng mấy ngàn giáo viên, học sinh người ta cũng tham gia lao động quên mình cơ mà.
      - Thế thì chúng con làm gì?
      - Sẽ về các xã tổ chức các lớp học buổi tối. Toàn bộ các giáo viên trong huyện cũng chia theo từng cụm. Có đoàn thực tập về nữa, tốt lắm. Ngày lao động. Đêm học. Có lớp chỉ mười lăm người cũng dạy. Quan trọng là học sinh hiểu bài, hết chương trình là xong. Các giáo viên cũng luyện khả năng dạy toàn diện.
      - Người ta chia chuyên khoa là thừa hả bố? Con xin nói ngay là nếu bắt con đụng vào những môn văn sử địa là con “good bye” bố ngay đấy.
      - Thế mới phải rèn luyện. Các giáo viên ở đây họ đã tập huấn cả rồi. Mỗi môn, mấy chục tiết cơ mà. Riêng đoàn thực tập vẫn dạy theo chuyên khoa mình học. Thế là con yên tâm chứ gì?
      - Tiến tới học sinh huyện ta không cần xem xét kết quả học tập mà xem nó lao động vác đất có tốt không?
      - Kể cả như thế cũng chẳng làm sao. Những người anh hùng chăn nuôi, trồng đay, trồng lúa và thuỷ lợi của huyện này không ai học hết lớp năm, người ta vẫn có sáng kiến, có kinh nghiệm hơn hàng chục ông kĩ sư như những con mọt sách mà chả phát huy được sáng kiến, cải tiến kĩ thuật ở khâu nào. Nhiều khi còn cản trở khả năng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của quần chúng.
      - Vì thế nên bác bí thư tỉnh uỷ trước đây mới lớp ba đã viết hàng đống sách dạy về kĩ thuật trồng lúa xuân lúa mùa, nông nghiệp tám, chín, gì đấy?
      - Từ thực tiễn người ta đúc kết thành kinh nghiệm cũng được chứ sao?
      - Lớp ba mà đòi đúc kết khoa học. Bác ấy có làm gì đâu mà bảo có thực tiễn. Thôi bố cứ đợi sau này có người người ta viết hộ rồi kí tên bố. Không cần nhờ xin thêm cái bằng kĩ sư thuỷ lợi nữa bố ạ.
      - Tao có việc của tao, không việc gì đến mày. Đừng giở trò ăn nói mất dạy.
      - Bố lại nổi nóng rồi. Con chỉ thấy nó buồn cười thế nào ấy. Giá bố cứ học từ lớp một, lớp hai cho con tử tế có khi...
      - Mày câm mồm đi. Đồ vô ơn bạc nghĩa.
      - Con không như bố nói đâu. Bà đây này. Bà không hề kể công, không bao giờ đòi phải trả ơn trả nghĩa. Nhưng nếu bà cần bảo con: cháu ơi, cháu hãy chết đi để cho bà được yên vui tuổi già, cho bà bớt được nỗi tủi nhục, con cũng không chần chừ sống thêm một giây nữa đâu.
      - Một kẻ phản động còn độc ác hơn kẻ bội bạc. Tối qua mày nói những gì ở xã này mày còn nhớ không?
      - Con nói sự thật. Không bao giờ con quên kẻ độc ác nào lại cho lấp đầm Cuội. Nếu cần, bố cho bắt con như bắt năm người tối hôm qua đi.
      - Mày còn ăn nói độc địa rồi sẽ có người gô cổ mày lại, còn bây giờ tao tát cho vỡ mặt mày để mày không thể làm giặc ở nhà này.
      Hai tiếng “bốp bốp” báo hiệu những câu nói của người cha có hiệu lực mười đầu ngón tay hằn đỏ hai má con gái. Cô bé đứng im, không né người, không chống đỡ, hai mắt cô trừng trừng nhìn bố và hai hàng nước mắt lặng lẽ chảy xuống. Bà Đất bê rổ khoai từ bếp lên. Thấy con sấn lại cháu, bà vội vàng vứt rổ khoai xuống bậc cửa chạy lại giữ lấy tay Hiếu khi anh đã tát con xong. Trước hai bàn tay run rẩy của mẹ, cái nhìn chằm chằm của con vào mặt mình. Hiếu thấy như chính mình đã tát vào mặt mình làm cho nó nóng bừng lên, máu trong đầu anh chạy giần giật, giần giật. Anh không còn đủ sức đứng lại. Lặng lẽ cúi mặt đi ra cửa, bước qua những củ khoai lăn lóc và tiếng nói lầm rầm của bà mẹ:
      - Sự thể làm sao, lại ra thế này? Cả hai bố con cùng đói. Có khổ không?
      *
      * *

      Ở nhà Nạc, Hiếu niềm nở bắt tay các uỷ viên thường vụ đảng uỷ Đại Thắng.
      Thực ra việc làm của các anh đêm qua là rất ngu xuẩn. Nếu vào lúc khác tôi đã trị cho các anh vỡ mặt. Nhưng lúc này tôi phải để các anh hí hửng là có tinh thần trách nhiệm, ý thức cao, quyết tâm sắt đá. Anh vào việc ngay khi mọi người vừa ngồi xuống.
      - Tôi đã nghe anh Nạc nói tình hình. Muốn gặp các anh trong thường vụ. Trước hết thay mặt cho bộ Tư lệnh chiến dịch và thường vụ huyện uỷ, biểu dương sự vững vàng, không gì lay chuyển nổi của đảng bộ ta. Trước những sự cố xảy ra đột xuất của đêm qua, các anh vẫn giữ được tinh thần cho bà con, huy động lực lượng “ra quân” hùng hậu như sáng nay là cố gắng rất lớn. Bây giờ có hai việc phải làm ngay.
      Một, cho giải năm tên phá hoại lên huyện. Nói với công an đợi tôi về trực tiếp hỏi cung rồi tuỳ theo thái độ của chúng, huyện sẽ xử lí. Nhớ mang đầy đủ mọi tài liệu và tư trang của chúng. Khi giải đi, không cần trói, không cần đánh đập và có bất cứ lời lẽ nào sỉ nhục chúng. Nói với các anh ấy là tôi dặn: cứ cho chúng nó ăn uống no nê. Tinh thần cảnh giác của các anh rất cao, nghiêm túc bảo vệ nghị quyết của huyện uỷ. Nhưng đối với bọn này phải làm kín kẽ, không có nó lại be lên là địa phương chúng ta đối với con người như con vật, mất tự do, không có nhân quyền.
      Việc thứ hai: chuyện con Huyền nhà tôi. Tội của nó nguy hại, gây ảnh hưởng xấu, còn ghê gớm trực tiếp hơn mấy thằng kia rất nhiều. Thú thật với các anh, về đến nhà, tôi đã không thể giữ nổi bình tĩnh, xông vào tát cho nó đến vỡ mặt mà trước khi sang đây các anh đã nhìn thấy mặt nó còn hằn bàn tay của tôi. Trong trường hợp này, các anh bình tĩnh hơn tôi. Bắt nó vào lúc này, lập tức tiếng tăm đồn ầm lên, con bí thư huyện uỷ chống lại nghị quyết của huyện uỷ. Nếu như thế thì tác hại đến chiến dịch sẽ không ai lường nổi. Tôi không chỉ cảm ơn các anh là cái tình đối với tôi. Tôi đang nói với cương vị của một bí thư, tổng tư lệnh chiến dịch, biểu dương các anh có tầm suy nghĩ sâu sắc, đã không xử lí nóng vội, biết hi sinh cái riêng của xã mình phục vụ cho cái lớn của toàn huyện.
      Cả năm đồng chí thường vụ đều cảm thấy như bí thư ám chỉ sự tỉnh táo bình tĩnh của chính mình nên tất cả các cánh mũi đều nở ra phập phồng nghe bí thư hướng dẫn cách xử lí tiếp. Lúc ra về ai cũng gật gù khen bí thư huyện uỷ quả là cao tay. Bố đánh con là tình cảm riêng trong gia đình. Còn việc chung của xã lại khác. Tối hôm đó, bí thư đảng uỷ đến nhà coi như không hề biết chuyện gì xô xát của gia đình. Ông bảo Huyền:
      - Tối qua, nghe cháu nói, bác định gặp cháu nhưng bận quá, bây giờ mới đến được.
      - Có nguy hiểm lắm không bác?
      - Hay lắm. Nghe cháu nói cứ như nhà văn, nhà báo ý. Bác định đến bàn với cháu như thế này. Hàng ngày các bác tổng hợp kết quả lao động hăng say của nhân dân xã ta rồi cháu thêm văn vẻ, dấm ớt vào gửi cho đài phát thanh huyện người ta phát thanh cho mình thì quý hoá. May cháu về đây, cố làm sao cho xã ta không thua kém xã nào. Bác sẽ xin với huyện để cháu ở lại đây. Cháu cứ làm nhà báo còn sau này huyện khắc lo khi cháu hết thời hạn thực tập. Cháu phải làm sao cho xã mình mở mày, mở mặt ra. Mấy năm nay làm bao nhiêu mà không được lên đài lên báo cũng vứt.
      Con bé đỏ mặt bẽn lẽn, mồm nói: “Cháu không biết làm đâu”. “Để cháu suy nghĩ xem thế nào”. Nhưng rõ ràng trong bụng thì thích quá. Giao cho nó làm “nhà báo” tức là bịt mồm nó lại. “Cô nói giỏi thì cô cứ viết đi”. Viết lên, thấy rắc rối phức tạp không đúng ý chỉ đạo của huyện, không đọc thì thôi bắt bò nhau à? Bố nó nói đúng thật. Cứng bao nhiêu, thì giòn bấy nhiêu. Những con bé càng đanh đá, càng bất cần thì càng dễ phỉnh. Từ người đầu bạc răng long, đến một đứa hỉ mũi chưa sạch ai chả thích được phỉnh, được hơn người. Chính những con “cứng vỏ” ấy là rất thích hơn người. Chỉ cần cho nó chức tổ trưởng chỉ huy một tổ viên, là nó đã thích. Dù không thích làm, vẫn thích được có vai trò hơn người. Nhất là “không có cháu, công của xã mình như công cốc không ai thèm biết đến”. Thế là cháu thấy mình quan trọng quá. Quả là bố mày cáo thật. Nhưng dao sắc không gọt được chuôi, phải nhờ ông trị mày đấy cháu gái ạ.
      Cũng vào lúc chập tối hôm nay bí thư huyện uỷ bước vào phòng khách sang nhất của huyện. Trên bàn bày đầy bánh kẹo, bia, thuốc lá như tiếp khách quan trọng của bộ. Ngồi quanh đấy là năm bảy anh tuyên huấn, văn hoá thông tin, giáo dục và năm vị “tù nhân”. Bí thư bỏ qua những cán bộ trong huyện, anh tươi cười nắm tay như vồ lấy từng vị khách quý. Anh nói rằng việc làm của xã Đại Thắng đã làm anh xấu hổ về sự thất thố và thiếu hiểu biết của chính cái xã mình. Nghe báo cáo, anh đã ra lệnh cấp tốc phải đưa những người bạn anh, anh đã vinh dự được biết tên mà chưa hề biết mặt về huyện. Anh cũng xin lỗi vì đang bận đi kiểm tra bây giờ mới về để gặp mặt các anh được.
      - Thôi thì, dù sao cũng là lỗi của chúng tôi. Xin các anh tha thứ vì từ nay chúng ta như những người bạn quý của nhau! Lúc nào các anh cần, cứ điện cho tôi và anh em tuyên huấn, văn hoá giáo dục cùng ngành với nhau ở đây. Chúng tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được phục vụ cho công việc nghiên cứu sáng tạo của các nhà văn nghệ sĩ và nghiên cứu, giảng dạy.
      Những lời ngọt hơn kẹo, say hơn cả bia Trúc Bạch làm các “nhà” đều chếnh choáng cảm động ôm chầm lấy bí thư mà hứa hẹn, mà “nhất định sẽ kéo nhau về đây làm một việc gì đó chứng tỏ sự khâm phục sâu sắc của chúng tôi với những việc làm lớn lao, đầy sức thuyết phục, tầm cỡ thế kỉ cả. Nhất định huyện này sẽ đi vào thế kỉ 21 như đi lên Thiên Đàng”.
      Cái Thiên Đàng đã bắt đầu hé mở lúc 11 giờ đêm. Tất cả các cụm đều báo về kết quả ngày “ra quân” đầu tiên đều tăng năng suất từ 200 đến 270 phần trăm so với kế hoạch. Cứ khí thế này, phát huy nó lên, “đồng thời nổi dậy” vừa quy hoạch ruộng đồng, đường sá, vừa quy hoạch các thôn xóm (bây giờ phải gọi là đường phố cho nó quen dần đi) vừa xây dựng cơ bản cho các nhà máy sản xuất chế biến. Chỉ cuối năm là có điện sáng trưng, máy cầy máy bừa, máy gặt, máy đập lúa, máy chặt đay là cứ chạy ầm ầm suốt đêm. Cẩn thận nghe không quen là đinh óc lên đấy. Những con đường trước mắt chỉ rải nhựa đủ cho ô tô tránh nhau, mai kia sẽ thành đường một chiều cho bao nhiêu xe đi mà không phải tránh nhau, mất thì giờ. Nhà cửa người ta cũng làm ở chỗ khác, mang về đây chỉ việc lắp lên, muốn bao nhiêu tầng cũng được. Lúc ấy tha hồ mà cao ráo mát mẻ không còn ruồi muỗi, chuột bọ, giun dế, dĩn, bọ mạt.
      Có lẽ trên đời này, không ai có đầu óc mơ mộng hoang tưởng phong phú bằng bà con nông dân. Do khổ cực lâu, thiếu thốn nhiều quá, long đong chờ đợi quá nhiều nên người nông dân thèm thuồng, ước muốn nhiều quá. Để thoả mãn, có khi chỉ cần hạt tấm nhưng bao giờ người ta cũng ước những cái đình. Nghĩa là, phải ước cái lớn lao nhất, hoàn hảo hơn tất cả bàn dân thiên hạ, khắp bàn dân thiên hạ không thể có, không thể trông thấy. Những cái đó chỉ có trời và thánh có phép thần thông biến hoá mới tạo ra được. Nó không cần đến cái vật chất cụ thể, cái hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. Nó không cần cả những quy luật tự nhiên và tình cảm con người.
      Quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi của tỉnh uỷ là phải xây dựng bằng được hình mẫu nông thôn mới, bắt gặp cái mong ước, mơ tưởng ngàn đời của bà con nông dân cộng với sự thèm khát trở thành kẻ tiên phong hơn người của Hiếu là những yếu tố quyết định đẻ ra được cái huyện làm ăn lớn đã ba năm rồi. Gần mười năm sau, những cây cột điện bằng xi măng vẫn xếp hàng đứng giữa cánh đồng như những bàn tay cụt quyết tâm đâm lên trời kiên nhẫn chờ đợi những tấn dây tải đã được duyệt cấp phát từ mười năm trước mà không biết nó còn nằm ở đâu? Những nhà máy ầm ầm ì ì suốt ngày đêm? Quên đi. Từng đàn máy bay phun thuốc sâu? Quên đi. Những đường nhựa xe chạy một chiều cũng quên đi. Chỉ còn lại những con đường liên thôn liên xã vẫn lầy lội gồ ghề, có chỗ mặt đường chỉ còn bằng hai bàn chân đặt ngang. Có chỗ được xẻ rãnh ngang qua vừa để tháo nước vừa cho các cháu đặt một miếng gỗ làm “di vu”. Người đi qua “nộp thuế” thì không bị lội. Cái chiến dịch hàng năm giời với hàng chục người chết vì kiệt sức, vì tai nạn, hàng trăm người bị đánh trói, cầm tù vì chống đối cũng đã quên. Hàng nghìn ngôi nhà bị phá dỡ đều có thể quên đi. Chỉ còn bà Đất là người ta nhớ: “Mẹ ông Hiếu làm ăn nhớn đấy”. Những người nông dân vốn tiếc của, không thể để mất một xu, nên có hai chuyện nữa mang tính triệt để như mệnh lệnh thời chiến, làm toàn dân thiệt hại đồng loạt không nhiều lắm nhưng đến hết đời họ còn ấm ức, còn không thể quên.
      Chuyện thứ nhất. Ông Hiếu ngồi gãi chân sồn sột ở quán nước. Hai thanh niên lai sọt không, vứt xe nằm nghiêng ở bờ, chỗ con đường đi xuống đò rồi vào ngồi đối diện với ông Hiếu. Hai bên không biết nhau. Hai anh uống rượu nhắm đậu sống chấm mắm tôm, chanh và bàn bạc tính toán với nhau. Hiếu biết đám này đang chờ đò sang quê mình mua chuối, sáng mai lai lên thành phố bán. Hôm nay đã là 20 ta. Dân mua chuối rất nhiều, nói chung là đắt hàng. Hiếu hỏi, làm thân.
      - Tết nhất người ta mua chuối làm gì, các chú?
      Một người hơi nghiêng mặt tỏ vẻ khinh thường. Người kia nuốt xong miếng đậu hỏi lại:
      - Ông bác ở đâu, nghe như trên trời rơi xuống phải không? Em nói bác biết, tất cả các tỉnh thành, đặc biệt ở Hà Nội có hàng chục triệu gia đình cần chuối bày mâm ngũ quả. Cứ gọi cho mỗi gia đình cần một nải thì đã phải có hàng chục triệu nải chuối. Rồi còn bao nhiêu hàng bún ốc, hàng lươn, hiệu bê thui, dê tái, bao nhiêu người thèm ăn thịt lợn ba chỉ luộc cần đến chuối tiêu. Nhà ông bác ở đâu, có chuối không? Nhiều à? Có đến hàng nghìn buồng không? Chúng em xong tất cho. Trả tiền ngay bác một lúc. Hai thằng mỗi chuyến tám buồng khoảng năm sáu chục nải một ngày, hết veo. Chúng em làm ăn “nhớn” cứ công khai đàng hoàng. Ông bác cứ phát biểu đi. Chúng em “vô tư” ngay.
      Thật khốn nạn cho bọn “ngựa non háu đá”, không biết người biết ta. Ngồi trước mặt hắn là người đang trăn trở tìm tòi những cung cách làm ăn tập trung có quy mô lớn. Mấy năm nay mất bao nhiêu công sức xây dựng nề nếp “quân sự hoá” chỉ huy thống nhất toàn huyện qua hệ thống truyền thanh. Mọi việc cứ răm rắp. Vậy mà cái “đặc sản” chuối của huyện lại để cho nơi khác xen vào, làm ăn manh mún từ bao giờ? Anh đang ghét cay ghét đắng sự manh mún cá lẻ thì hai thằng đến “khai thác” nguồn chuối ở quê anh lại “lạy ông tôi ở...”.
      Đêm đó, vào lúc chín giờ, chương trình sân khấu cải lương tối thứ bảy được ngắt lại ba lần để đọc lệnh của chủ tịch huyện cho các xã phải cấp tốc lập các trạm kiểm soát ở tất cả các bến đò ngang đò dọc, bến áp mạn ca nô, các thuyền bè đang đỗ cạnh bờ sông, các chợ, bến xe, các đường mòn, lối tắt. Nghĩa là tất cả mọi con đường ra khỏi huyện đều phải có trạm kiểm soát trong vòng ba tiếng đồng hồ tới. Kể từ không giờ ngày hôm nay tất cả chuối tiêu, dù chỉ một nải không được ra khỏi địa phận của huyện. Ai đã bán mà chuối chưa mang đi thì trả lại tiền. Huyện sẽ mua theo giá thị trường. Cả đêm hôm ấy từ các cơ quan huyện đến các xã rậm rịch như bài “ghi nhanh” của đài truyền thanh “huyện ta” đã nói. “Mùa xuân đến sớm. Tết đã đến với bà con nông dân huyện mình”. Các cơ quan thương nghiệp chủ trì chính trong công việc này đã tính xong một dự toán: Một nải chuối mua ba đồng bán 15 đồng. 45 nghìn hộ, bình quân mỗi hộ 5 buồng. Toàn huyện có 18 triệu nải chuối. Lãi 180 triệu đồng bằng 36.000 tấn gạo theo giá ngoài. Trong một tuần làm lợi 36.000 tấn gạo bằng cả một vụ thu hoạch, đâu phải là nhỏ. Cử người đi thuê sà lan, ô tô lên Hà Nội thuê bãi, làm “kho”. Huyện đội, công an tổ chức lực lượng bảo vệ, áp tải. uỷ ban huy động xe bò, xe cải tiến, xe công nông chuyển chuối ở những nơi ô tô không đến được, ra tập kết ở bờ sông. Tất cả mọi công tác chuẩn bị chỉ được phép triển khai trong hai ngày, hai đêm. Đúng sáng ngày 23 đã có mẻ chuối đầu tiên xuống sà lan và nội nhật trong ngày hôm sau, “triển khai” bán luôn. Cả huyện nô nức chặt chuối khiêng vác, đùn đẩy vận chuyển ra sông. Đài truyền thanh “huyện ta” suốt ngày đêm biểu dương các cá nhân, các ngành các xã đi đầu trong chiến dịch. Những bài học lớn chỉ đạo, tổ chức, kế hoạch cũng kịp thời được tổng kết. Tất cả mọi thứ đều hoàn hảo, đều đạt tới đỉnh cao của sự nhất trí trên dưới, đều nhanh gọn tuyệt vời. Chỉ có một khuyết điểm nhỏ thuộc về khách quan là cho đến 27 tết vẫn không ai mua một nải nào. Cán bộ thương nghiệp mặt mũi sớn sác chạy về báo cáo lí do: Bọn gian thương buôn bán trốn lậu thuế vô tổ chức, không hề có chỉ đạo, quản lí. Chúng để chuối trong sọt ở hai bên xe đạp, bày ra mẹt, ra thúng, đặt lên miếng vải nhựa, thậm chí bày ngay ra cả đất trông rất manh mún, lộn xộn ở tất cả các chợ, các ngã ba, ngã tư ở lề đường. Chưa có ai mua, chúng đã nhao nhao mời chào rất mất trật tự. Chúng đã tranh hết khách của chúng ta. Từ tối 27 trở đi đài “huyện ta” chỉ thấy hát cải lương, tuồng và chèo không thấy đả động gì đến chuối. Đến tối 29 tết, bằng sự quen biết và khả năng giao dịch của mình, Hiếu bí thư huyện uỷ đánh xe “lồng” đi khắp các công ty rau quả van nài để họ nhận cho tất cả số chuối của huyện. Trừ giập nát, hư hao trộm cắp, rơi vãi thất thoát mất gần một phần năm. Số còn lại bán chịu. Tính bình quân cũng được hào rưỡi một nải. Mua ba đồng bán được hào rưỡi, chưa kể tiền thuê xe, thuê sà lan, công bốc vác và mấy trăm cán bộ các ngành chạy ngược chạy xuôi hàng tuần lễ. Ban chỉ đạo chiến dịch quyết định lấy các khoản tiền khác như kinh phí đắp đê, thuỷ lợi, điện khí hoá “đập” cho chuối, cũng đủ trả cho mỗi hộ một phần bảy giá bán. Còn lại, nhà nước “chịu”. Gần 10 năm trời chưa thấy ai nói lại cái khoản nợ đó và không biết đòi ở ai khi những cán bộ chủ chốt, lúc bấy giờ không ai còn ở huyện. Nghe đâu chuyện đó có được thường vụ và uỷ ban “rút kinh nghiệm”. Thế là hết chuyện thứ nhất theo cách nói của anh đội Quyền thì: “Đấy, nó là như thế”.
      Gần hai năm sau lại có chuyện thứ hai. Chuyện tiêu tiền lẻ. Chuyện này không biết anh nghe được ở đâu đó trên thường vụ hội đồng bộ trưởng, văn phòng quốc hội hoặc ở tài chính, ngân hàng gì đấy. Với một bí thư tiếng tăm lừng lẫy như anh, lại là nơi tập trung thí điểm của tỉnh, có bao nhiêu người muốn áp lại làm quen, để đi lại thân thiết và mách bảo những điều còn là bí mật mà rất nhiều quan chức cao cấp của nhà nước cũng chưa thể biết. Cái tin ấy dù sớm hay muộn nhất định sẽ xảy ra.
      - Sắp đổi tiền đấy. Liệu mà làm ăn.
      - Tiền cũ được đổi bao nhiêu?
      - Số lượng và tỉ giá chưa quyết định nhưng chỉ đổi tiền chẵn thôi.
      Vậy là sắp đổi tiền. Phải tích trữ hàng, thóc và thực phẩm! Tất nhiên phải hạn chế việc bán ra. Còn mua vào? Lượng tiền mặt của huyện cũng không đáng kể. Không cẩn thận lại hoá ra mình tàng trữ! Không sao. Ta có cách của ta. Họ đổi tiền chẵn. Ta tiêu tiền lẻ. Chuẩn bị sẵn thật nhiều tiền lẻ tiêu dần. Khi có lưng vốn trong tay mặc kệ thiên hạ xáo động, lên xuống. Đây là chuyện tày trời không thể tuỳ tiện, buông thả. Anh chỉ gặp riêng chủ tịch, vốn là “cánh tay” đắc lực của anh, người sẵn sàng ra lệnh, kí vào tất cả mọi quyết định hệ trọng. Anh nói lại cái tin tuyệt mật ấy với những chữ “hình như”, “xem ra”, “có thể”... Rồi hỏi:
      - Anh thấy thế nào. Bằng cách gì đó để ta không bị động, lệ thuộc.
      - Chắc nhất là ta cứ tiền lẻ ta tiêu.
      - Ý anh hay. Anh về đi. Nếu sáng mai không thấy tôi bàn lại gì, anh cứ quyết định rồi trao đổi riêng với ngân hàng tài chính, thương nghiệp. Chú ý: Coi như chuyện này anh nghe loáng thoáng ở hàng nước, ở bến xe bến tàu họ nói giá cả sẽ tăng, đời sống cán bộ công nhân sẽ khó khăn, bấp bênh. Chúng ta cần tiền lẻ 20 đồng, 50 đồng để phát lương, phụ cấp và mua bán thuận lợi hơn: “Tiền lẻ hơn thẻ thương binh” mà. Ta phát tiền lẻ cho anh em, họ có điều kiện chi tiêu dè sẻn, chắt chiu. Cầm tiền trăm, tiền nghìn dễ phung phí lắm.
      Thế là có một “chiến dịch” thì thào từ bà bán bánh đúc riêu cua đến ông hoạn lợn, từ cô mậu dịch viên đến anh răng vàng hàn dép nhựa. Ở tất cả mọi chợ, mọi hàng quán, mọi xó xỉnh đều lặng lẽ “quán triệt” cái ý thức tiêu tiền lẻ. Kể cả khi bán con trâu, con bò, cái cát xét, ti vi phải mang quang thúng đi gánh tiền lẻ cũng nhất quyết không tiêu tiền chẵn. Bao nhiêu người không hiểu tại sao. Nhất là người ở huyện khác đến đây họp chợ không tài nào hiểu nổi sự quái gở, dị dạng khác thường ở đây. Kệ. Huyện này là thế. Ai không thích mời đi chợ khác mà họp, mua bán ở nơi khác. Ngạc nhiên mãi rồi cũng phải quen. Kêu ca, chửi bới chán rồi cũng thấy nhàm. Đã họp chợ ở đây là phải mua bằng tiền lẻ. Thế thôi. Một tháng sau có lệnh đổi tiền thật. Tiền chục không đổi thật. Huyện này tài thật. Không biết ai nghĩ ra hoặc được báo trước, hoặc ai phán đoán mà biết trước hàng tháng, tài thật. Coi như đi trước một bước. Nhưng một chục chỉ còn bằng một đồng. Chỉ vài tháng sau thì không ai mua bán bằng cái giấy hai chục và trông thấy đồng năm chục rơi, ngại không muốn nhặt. Những đồng tiền lẻ chỉ tiêu loanh quanh trong huyện với nhau, rất khó tiêu ở ngoài. Nhất là những người ở tỉnh thành họ trông thấy mướt mả mồ hôi, khệ nệ khoác từng ba lô, gánh từng bao tải, chở hàng ô tô tiền lẻ đi mua hàng, họ lăn ra cười gọi nhau xô đến xem, như đi xem thằng hề ở rạp xiếc... Mặc cả xong xuôi rồi, người mua giở tiền ra trả. Trông thấy toàn tiền lẻ, lập tức người bán hàng giật lấy hàng của họ lại, buông ra những câu khinh miệt lạnh lùng. “Đợi nhé”. Mua bằng thứ tiền ấy có ma nó “rây” vào các ông. “Nào thôi “gút bai” lấy chỗ cho tôi bán hàng”. Nhưng đấy là cảnh ngộ của cấp dưới, của dân chúng. Còn các người chủ chốt của huyện thì họ bận đi họp, đi báo cáo điển hình không biết chuyện gì. Mà các anh ấy có tiêu tiền đâu. Các anh chỉ thị phải tiêu tiền lẻ nhưng lương đem đến cho vợ con các anh toàn tiền chẵn. Các chị ấy tính toán, chi tiêu, ăn uống theo cách của người tiêu tiền chẵn, chứ có phải nhem nhếch như những người đã nghèo lại tiêu tiền lẻ? Còn các anh, cần gì đã có người phục vụ, thậm chí chưa nhớ hết mặt những đồng tiền mới. Mấy năm sau chủ tịch vẫn được điều lên làm trưởng ty công nghiệp. Còn bí thư lên làm phó chủ tịch thứ nhất, chuẩn bị thay thế chủ tịch. Anh đi điều dưỡng ở Đồ Sơn rồi sau đó đi nghỉ ba tháng ở nước ngoài. Nhưng có người lại bảo anh long đong về chuyện vợ con nên phải đình chỉ công tác và “đá lên”. “Đấy, nó là như thế”.
      #18
        conbo2 25.03.2006 10:55:36 (permalink)

        Những chuyện tình cuối cùng

        Anh mặc bộ pi-ja-ma màu nâu, đội mũ lá, đi dép cao su. Vừa ở xã Tây Kết lững thững đi ra đường nhựa lên tỉnh. Tính anh thích đi bộ và hay ngồi ở quán nước. Trời chưa tối hẳn, mọi người còn trông rõ khuôn mặt dầu dãi vất vả của anh. Nó có dáng dấp của ông lão chăn vịt vừa lùa chúng vào dàng, ra ngồi khểnh ở quán làm tợp rượu. Một người đàn ông chừng trên dưới 40 tuổi ngồi ở ghế đối diện. Anh ta ngước mắt nhìn lên, rồi hơi cúi, cố che giấu một nụ cười. Có lẽ cảm thấy cử chỉ của mình có phần thiếu lịch sự, mặt anh hơi đỏ lên. Vốn có tác phong quần chúng, bao giờ Hiếu cũng chủ động bắt chuyện với người mới gặp. Anh hỏi người kia:
        - Chắc anh chờ xe lên Hà Nội?
        - Từ giờ đến tối còn chuyến nào nữa không bác?
        - Nếu bình thường, khoảng hơn tiếng nữa còn chuyến cuối.
        Im lặng vẻ sốt ruột. Rồi anh ta lại hơi cúi quên cả câu “cảm ơn”. Một lúc, anh ta ngẩng lên với chiếc điếu cày, vỗ vỗ cho xái thuốc bật ra, đột ngột nói:
        - Bác có điều không hay sắp xảy ra.
        - Tôi?
        - Ngay trong đêm nay. Xem nào. Đúng rồi, chuyện nó phải xảy ra trước sáng ngày mai.
        - Chắc là có mấy đồng tiền lẻ trong túi bị móc?
        - Nghiêm chỉnh. Việc hệ trọng xảy ra trong gia đình nhà bác, có thể dẫn đến sự tan vỡ.
        Anh bắt đầu thấy chột dạ. Thằng con thứ hai của anh mới được ba tuổi đi kiết lị đã nửa tháng nay. Anh đã phải cấp tốc đưa mẹ lên bệnh viện tỉnh trông con đỡ cho vợ đi làm. Anh gọi điện cho bệnh viện và nghe anh em các cơ quan đi thăm cháu về đều bảo đã biến chuyển tốt. Người kia từ từ nhả khói thuốc và mơ màng nhìn theo cái bối khói đang tan ra. Anh sốt ruột hỏi:
        - Chuyện gì, anh có thể biết được không?
        - Biết.
        - Chắc là chuyện các cháu?
        - Không. Thằng con thứ hai của bác bị trong vòng mười ngày nay rồi. Bà cụ nhà bác đang ở đấy. Cứ ở đấy rồi sẽ khỏi. Đây là chuyện tình cảm của bác gái nhà ta.
        - Vợ tôi?
        - Có một người tình cũ vốn là bạn của bác đêm nay lại trở lại ân ái với bà nhà.
        - Anh nói cái gì thế?
        - Nếu những điều tôi nó từ nãy đến giờ không đúng xin bác bỏ qua và coi như không có chuyện gì.
        - À, không không. Tôi xin lỗi anh. Anh cứ tiếp cho. Tôi thấy tại sao... nó lại đúng cả. Xin anh có thể nói qua về người đó được không?
        - Người đó hào hoa hơn bác. Ăn nói dịu dàng và rất biết chiều đàn bà. Vào loại “mày râu nhẵn nhụi...”
        Ai? Võ hay Phiên, Tịnh hay Phát? Trong hàng chục người tình của cô ta có đến quá nửa vẫn là bạn của anh và thằng nào ăn nói chả lịch sự, dịu dàng, rất biết chiều chuộng. Nhưng ở gần cô ta bây giờ chỉ có Phiên là thư kí khoa học của cơ quan cô ta mà những người làm khoa học thực sự bảo nó là con chó dái đeo cái bằng phó tiến sĩ ở cổ nên ngoài luận cứ về... đàn bà nó có biết gì đâu. Đã có lần qua cánh cửa khép vội anh bắt gặp Phiên ghì riệt lấy vợ anh ở trong phòng làm việc. Khi anh gõ cửa bước vào, hai người mới chỉ kịp buông tay ra, hai cơ thể cứng đờ đang sát lại và vành môi cô ấy còn hằn vệt răng đỏ lựng. Nhưng vợ anh bảo: “Em đang thắc mắc với hắn tại sao lại bắt em làm thêm phần tư liệu tiếng Nga?”. Về đến nhà, anh hỏi vợ:
        - Sao môi em lại có vết răng?
        - Tôi tự cắn vào môi tôi để đỡ khô đấy. Thắc mắc gì!
        - Em giỏi thật. Răng mình tự cắn được lên sát mũi mình thì em đi làm trò ảo thuật tốt quá.
        - Này, tôi nói cho mà biết nhá. Nó chỉ đáng tuổi em của tôi đấy. Đi thắc mắc với một thằng trẻ con không biết nhục. Đồ đê tiện, hèn mạt. Quen thói bậy bạ lăng nhăng, tưởng ai cũng lăng nhăng bậy bạ như mình. Thế mà cũng là bí thư với tỉnh uỷ?
        Thằng phó tiến sĩ “chó dái” ấy “mắt sâu, râu rậm” mà áo quần cũng chẳng “bảnh bao”. Cốt cách nói năng dịu dàng, biết chiều chuộng đàn bà và “mày râu nhẵn nhụi” ấy là của Võ. Nhưng đã ba năm nay mình không gặp hắn và vợ mình có quen thuộc gì hắn đâu? Hắn đang làm việc ở Hà Nội, cũng là phó tiến sĩ kinh tế học ở nước ngoài về. Một phụ nữ làm ở vụ tuyên huấn cùng bộ vốn táo tợn bảo: “Một con bò dắt qua biên giới rồi quay lại trở thành phó tiến sĩ Võ ở bộ ta”. Nhưng là người luồn lọt giỏi, anh ta vẫn làm viện phó viện nghiên cứu của bộ. Khả năng nổi trội nhất, như là bẩm sinh, như là sức mạnh của ông cha truyền lại cho hắn là tài ghẹo gái nhanh như chớp. Từ giọng nói ẽo ợt, dáng đi điệu đà cho đến mọi cử chỉ đều rất “cải lương” rẻ tiền, gượng gượng, giả giả, không thể chấp nhận ở người đàn ông. Khốn khổ cho những con đàn bà như vợ anh luôn luôn chứng tỏ là người sâu sắc, từng trải, tưởng có thể nhìn thấy tận “tim đen” của mọi thằng đàn ông và cái bộ mặt lạnh, rất cao ngạo, coi thường tất cả bọn đàn ông, khinh bỉ sự tầm thường của nó thì lại rất thèm được đàn ông biết giả vờ phỉnh nịnh, ve vuốt, tỏ lòng trân trọng mình. Anh biết Võ qua một nhà báo chuyên viết về ngành lâm nghiệp. Lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng anh đi với nhà báo đến nhà Võ trong một khu tập thể năm tầng ở phía đông nam thành phố. Vợ hắn, một người đàn bà trông già như mẹ hắn, hắn đưa từ quê ở Nam Định lên làm thợ dệt vải ở Hà Nội. Khi anh và bạn đến, hắn đang hôn chùn chụt vào hai má rồi vuốt khuôn mặt khô đét của người vợ. Giọng hắn đờn đợt õng ẹo:
        - Độ này công việc nhiều, tối mắt lại chả được ở nhà ngồi bên em xem ti vi, nghe ca nhạc. Buồn quá. Nào, em yêu, hôn anh lần nữa rồi anh đi nhé, nghe em!
        Mụ vợ đỏ bừng mặt tưởng phải úp mặt vào tường vì xấu hổ. Mà xem ra vẫn cứ thinh thích. Nhà báo và anh đứng quay mặt ra ngắm cảnh đợi. Hắn xong việc đi ra bảo hai người: “Đi, con bồ nó đang đợi tôi ở cuối đường Lò Đúc”.
        Xuống hết cầu thang anh cứ ngớ người ra trước những lời nói tỉnh bơ như không hề có cái cử chỉ hắn cố tình cho mọi người nhìn thấy vợ chồng hắn “tình cảm” phía trong các cửa sổ và cửa chính đều mở.
        - Đàn bà là con chó cái. Yêu chó, chó liếm mặt. Các cụ bảo rồi. Cho nên vờn nó, vuốt ve nó như một ông chủ đùa rỡn với con vật. Nó mà quá trớn phải đập ngay vào mặt nó. Bao giờ cũng phải giữ khoảng cách của một ông chủ với con vật, không thể để nó lờn mặt. Có như thế mình mới sai khiến được nó, bắt nó phải thờ phụng mình, chầu chực mình như con chó chầu chực ông chủ. Còn ông chủ thì thả cửa mà ngược xuôi. Hí hí. Đàn ông mà.
        Chính cái thằng đàn ông đốn mạt ấy đêm nay lại vờn rỡn vuốt ve vợ anh? Người anh như mê đi. Hai mắt người trẻ tuổi long lên dữ tợn như hai ngọn lửa đốt người anh nóng ran.
        - Bác phải trấn tĩnh lại. Nếu không, cả sự nghiệp và công danh của bác tan tành.
        - Anh bảo tôi phải làm gì.
        - Bác là người có bản lĩnh. Nhiều mưu mẹo. Biết dối mình và dối người trong mọi trường hợp. Bác không việc gì phải chột dạ cái điều tôi vừa nói. Sự dối trá lừa lọc của bác là kinh tởm. Nhưng hôm nay ta khuyên bác hãy tự dối mình rằng chuyện ta nói là không có thật.
        - Anh đã bịa đặt để khủng bố tinh thần tôi.
        - Phúc cho nhà ngươi còn có một người không dòng dõi, huyết thống với ngươi nhưng lại coi ngươi như con. Người đó đã chết oan uổng nhưng không hằn học lấy oán trả oán như ngươi. Người đó xui khiến cho ngươi được gặp ta, ta báo cho ngươi biết điều dữ để ngươi không bị đột ngột, sinh ra mù quáng làm hỏng hết việc lớn ngươi đang đeo đuổi.
        Cách xưng hô tự nhiên thay đổi! Cách nói năng nghiêm khắc, quả quyết như sự phán bảo của bề trên! Anh chưa hề tin vào bất cứ điều gì. Thần thánh, lễ bái lại càng không. Ngay đến đình và chùa khác nhau cái gì, trong mỗi nơi cúng bái ấy cung cách bày đặt, nghi lễ ra sao anh cũng không biết. Đơn giản là những nơi ấy anh chưa hề đặt chân đến. Vậy mà lúc này anh cứ thấy rờn rợn về những điều anh ta nói ra. Anh trấn tĩnh rút thuốc lá mời, dè dặt nói:
        - Có thể những điều anh nói chưa xảy ra nên tôi không thể biết thế nào. Xin cho biết rõ về người ở nhà tôi đêm nay. Có được không ạ.
        - Ta nói rồi. Người đó trắng, cao to, tóc dày và rất đen, nói năng ngọt ngào, dễ nghe. Ở nơi khác, không phải người cùng nơi vợ ngươi làm việc. Người này là bạn của ngươi chứ không phải bạn của vợ ngươi.
        Đúng là thằng Võ. Mồ hôi anh toá ra.
        - Nếu chưa tin, nội nhật đêm nay ngươi về nhà sẽ gặp người đó. Nhưng nếu ngươi làm ầm ĩ thì chính vợ ngươi sẽ đứng về phía người đó, làm hại ngươi với cấp trên. Ngươi sẽ bị hại ngầm.
        - Thưa. Ngoài ba kẻ là bạn tôi, còn có nhiều người khác quan hệ với vợ tôi nữa không ạ?
        - Ta không cần biết ngươi là ai. Chỉ nghe nhà ngươi hỏi như thế ta biết về việc vợ con, ngươi là kẻ cạn nghĩ: Những người bạn của ngươi còn ăn ở với vợ ngươi, huống chi những người chỉ “thân” với vợ ngươi mà không “thân” với ngươi, thậm chí càng không biết ngươi là ai, càng tốt. Cái câu hỏi của ngươi, ta có trả lời cũng không để làm gì. Cái chính là vợ ngươi có thể dừng sự đòi hỏi ở bao nhiêu người đàn ông?
        - Thưa... Có thể tả hình dáng, tính nết của vợ tôi?
        - Ngươi vẫn còn nghi hoặc những điều ta nói? Ta biết khi ta nói đến tận cùng mọi điều, cái khi chất tiểu nhân trong ngươi sẽ giảm đi. Ngươi sẽ khinh bỉ, kinh tởm hơn là sự uất hận, điên loạn... Vợ người có dáng khoáng đạt “Trường túc bất chi lao”. Loại người này đã có thơ rằng: “Những người chân cẳng làng nhàng, một đêm chấp cả mấy làng trai tơ”. Dáng người ấy hợp với bản mệnh. Nhưng toàn bộ con người ấy chỉ nên để ý đến hai con mắt: hai con mắt dài. Mi cũng dài ươn ướt rất quyết rũ. Bao nhiêu người “chết” ở đôi mắt ấy. Hai con mắt nói với ta nhiều điều:
        Một: Tâm người này không tĩnh. Vẻ chán chường rầu rĩ triền miên ở đôi mắt nói rằng sự thèm khát ở người này không lúc nào được thoả mãn. Lúc nào cũng cảm thấy thiếu hụt, hao háo. Nỗi thèm khát quá nhiều mà cái được luôn luôn cảm thấy quá ít, luôn luôn thấy trong người dấm dứt mà cứ phải đeo đẳng nó mới sinh ra cắn cảu, chán chường với chồng con.
        Hai: Người này quỷ quyệt điêu xảo, tinh quái đến khôn lường. Trông thì hiền. Tâm lại ác. Khi một người ở cạnh mà không được việc gì cho bà ta thì kể cả bố đẻ cũng đuổi ra khỏi nhà. Trông thị e lệ, rụt rè và nghiêm khắc, có thể tát vào mặt kẻ nào dám tán tỉnh bờm xơm. Đặc biệt là người này không biết nói đùa, nhất là những câu nói nhạt nhẽo vô duyên của kẻ khác. Nhưng có thể ngả ngay ra với kẻ mới quen, chỉ cần kẻ đó biết kính nể những giá trị tuyệt vời, có một không hai ở một con người đã không may mắn là bà ta, phải sống với một thằng chồng vũ phu, ngu si, cục cằn thô lỗ, một thằng chồng khốn nạn vô liêm sỉ. Gặp một ngàn thằng đàn ông thì bao giờ cái cử chỉ đầu tiên là đau khổ, lời nói đầu tiên là sự hành hạ của thằng chồng, và nước mắt của bà ứa ra. Một ngàn thằng đàn ông ấy, thằng nào biết làm ra một khuôn mặt sầu muộn, đau đớn, uất giận và tỏ ra có sức mạnh rất ghê gớm sẵn sàng bóp nát cái thằng chó chết ấy đi, thằng ấy sẽ chiến thắng. Nhưng hiệu quả “ăn ngay” vẫn là cử chỉ khéo léo thò tay vào túi rút khăn mùi xoa của mình, lặng lẽ chấm những giọt nước mắt ở trên má rồi, xiết chặt bà vào ngực mình, che chở, an ủi, sưởi ấm cho nỗi cô đơn của bà. Và sau đó, theo cách nói của đám thanh niên bây giờ thì: “Vô tư”.
        Điều thứ ba: Ta hỏi: Có lúc nào người để ý đuôi tai của vợ ngươi có tật?
        - Dạ, có vết sẹo ở đuôi tai phải do bị ngã từ nhỏ ạ.
        - Đấy là vết tích của một con thú bị thương. Nhà ngươi đã trông thấy những con hổ con báo, lợn lòi chó sói bị thương nó hộc lên như thế nào chưa? Ta biết là đã hơn ba năm nay ngươi phải tìm đến các danh y thượng thặng nhất của nước này để tìm thuốc đặc hiệu, gia truyền chạy chữa cho vợ. Nhưng tất cả đông tây y đều bất lực, đều không thấy thuyên giảm. Sức có hạn, mà ý muốn gặp gỡ lại nhiều. Chửa đẻ chưa kịp kiêng khem đã lại đòi hỏi. Thuốc uống, thuốc truyền, thuốc tiêm chưa kịp ngấm đã phung phí tiêu hao, làm gì thuốc chả giã. Đấy là cái lúc “hộc lên” của con thú có tật, có hiểu không?
        Anh buột miệng kêu và người run lên, lắp bắp:
        - Thưa...
        - Nhà ngươi muốn hỏi tại sao ta lại biết?
        - Thưa vâng. Tất cả những điều ấy đều rất đúng ạ. Xin chỉ bảo cho tôi phải làm gì bây giờ.
        - Không làm gì cả. Ta đã nói rồi. Càng làm càng thua, kể cả nhà ngươi nhìn thấy vợ mình và người kia đang quấn quýt nhau cũng phải lặng lẽ mà quay mặt đi.
        - Tại sao lại phải thế?
        - Nhà ngươi mắc tội hay hỏi. Không cần “tại sao” gì cả. Ta chỉ nói việc đời của người dương cũng phải thế rồi huống hồ cái số của nhà ngươi, các quan đã đóng cái gông vào cổ không thể bỏ ra được. Không bỏ ra được, làm ồn lên làm gì. Ngươi trông thấy vợ mình đang bậy bạ với người khác, vợ ngươi van lạy ngươi, thằng kia cũng van lạy ngươi, nhưng họ mặc quần áo xong, ngươi là thằng vu oan, giá hoạ, một thằng nhỏ nhen đa nghi, ghen tuông vớ vẩn.
        Không ngờ những lời ấy lại diễn ra lúc 12 giờ rưỡi đêm. Tại nhà anh. Chỉ có điều anh lại không đủ sự bình tĩnh để làm đúng như lời dạy của nhà chiêm tinh. “Không được làm gì?” Tại sao không được làm gì?” Anh gợi ra tất cả mọi điều đều chính xác đến kinh ngạc ấy để làm gì? Trời ơi! Sao lại “không được làm gì”. Anh đã lấy chân đạp thình thình vào cánh cửa khoá trái trong ngôi nhà, anh chắc chắn có một thằng đàn ông đang ở đấy, lúc nửa đêm.
        *
        * *

        Một tay bế cháu, một tay mẹ kéo chiếc khăn dù phủ lên đầu và hai cánh tay cho con. Người con lặng lẽ để mẹ lo toan cho mình như thuở còn lên năm, lên mười. Người mẹ tưởng nỗi vất vả mệt mỏi đang làm cho đứa con ngủ thiếp đi ở cuối chân giường như một kẻ hành khất. Nhưng con thì làm sao mà ngủ được. Lặng lẽ để cho mẹ trùm chăn lên, che kín khuôn mặt méo mó hèn mạt của mình, một kẻ đứng đầu cái huyện tiếng tăm lừng lẫy đã trở thành kẻ nhục nhã, một tên thất trận chạy về ẩn náu ở cuối chân giường bệnh viện, nơi người mẹ đã gần một tháng ròng rã bế cháu vò võ thâu đêm.
        “- Anh không được đụng đến anh ấy.
        “- Cô bênh nó hả?
        “- Thì đã sao?
        “- Không ngờ cô là một con đĩ trơ trẽn.
        “- Anh muốn nói gì, cho anh nói, đây không thèm chấp. Nhưng để đến mai. Bây giờ để cho con bé ngủ đã. Anh Võ lấy xe đạp của em về đi. Mai em vào cơ quan lấy.
        Võ lặng lẽ dắt chiếc xe đạp “mi pha” của vợ do chính tay anh mua. Anh xô ra giữ lấy xe quát:
        - Đứng lại đây. Không được mang xe đi.
        Vợ anh một tay bế con, một tay giằng tay anh ra khỏi xe. Anh gạt vợ ra, chị hơi chúi người đi. Đứa con gái năm tuổi mới thức dậy lúc anh đạp cửa vợ anh đã bế thốc dậy làm nó khóc ầm lên, bây giờ nó lại kêu thét như bị đánh. Hiền bế con nhao ra khỏi cửa kêu:
        - Ối bà con tập thể ôi. Anh Hiếu về giết mẹ con tôi. Ối giời ơi. Anh tưởng anh làm to rồi anh muốn giết ai thì giết hay sao. Ối giời ơi, giời ơi.
        Lập tức cả khu nhà sáng loà lên. Các cửa sổ, cửa chính bật tung nghe thình thình. Mọi người đã thức dậy và lắng nghe từ tiếng đạp cửa đầu tiên, tiếng cãi cọi xô xát từ lâu. Ai cũng lặng lẽ chầu chực sẵn sàng, chỉ chờ đợi có dịp như thế này là lao ra ào ạt, vừa háo hức vừa hớt hải lo sợ như cháy nhà giết người đến nơi. Chả mấy chốc hành lang và khoảng sân trước của nhà Hiếu chật ních người. Mọi người đang thì thào nghiêng ngó người đàn ông lạ mặt, mấu chốt của sự ầm ĩ này. Một ông già tóc bạc như ông tiên đi từ tốn và hỏi cũng từ tốn:
        - Nào có chuyện gì mà ầm lên thế này?
        Hỏi xong, ông cứ đi giữa đám người đã lặng thinh, tự rẽ ra lấy lối ông đi vào tận nhà, từ tốn ngồi xuống ghế sa lông. Ông Văn Yến, bí thư tỉnh uỷ. Ông ở một căn hộ hai tầng, có vườn cây, ao cá ở đối diện với khu tập thể của tỉnh qua một con đường nhựa, hai bên là ruộng rau muống. Ông mặc bộ quần áo ngủ kẻ sọc xanh trên nền trắng, đi guốc mộc. Với địa vị của mình cộng thêm sự giản dị, đức tính liêm khiết mẫu mực của ông khiến ông như một ông tiên để người già, người trẻ đều kính phục và nghe ông mỗi khi có sự “phức tạp” trong gia đình. Từ lúc ông xuất hiện, cả người lớn, trẻ con trật tự như một cuộc họp. Trước khi “làm việc” ông yêu cầu các cháu bé và cả thanh niên chưa vợ chưa chồng nhà nào về nhà nấy. Không cháu nào được làm ồn ảnh hưởng đến giấc ngủ của bà con. Đợi cho đám trẻ ra khỏi sân (thực chất chúng rình rập nghiêng ngó ở ngoài hàng rào), “ông tiên” bắt đầu hỏi từ tốn:
        “- Nào, chuyện đầu đuôi ra sao, anh Hiếu nói đi.
        Hiếu như không thể kìm được nỗi uất hận, anh nói rằng anh về nhà gọi cửa đến 10 phút mà đèn mới bật sáng. Vợ anh vội vàng chạy vào giường trong buồng bế thốc con ra mở cửa. Loay hoay mãi không mở được, nhưng thực chất đợi cho anh này (Võ) vớ vội lấy đồng hồ, và giấy tờ rơi ra giường rồi cô ấy mới “mở được” cửa.
        “- Anh điêu toa vu cáo thế không sợ giời đánh, thánh vật à?
        “- Chị cứ bình tĩnh lại. Anh Hiếu còn thấy gì nữa không, trình bày tiếp đi. Tôi yêu cầu không ai được làm ồn. Nói đủ nghe thôi.
        “- Báo cáo chú. Đây không phải là lần thứ nhất. Hai năm trước vợ cháu quan hệ với anh này phải đi phá thai.
        “- Anh nói thế không sợ tội lòi mắt ra à?
        “- Cô giấu tôi. Sau bị nhiễm trùng phải đi viện, chính cô phải thú nhận với bác sĩ, còn nhớ không?
        “- Cứ đào mả bố cái thằng nào nó hành tôi hùng hục như trâu húc mả rồi lại vu vạ cho tôi.
        “- Cô có nhớ ngày ấy tôi đi học ba tháng không về nhà không.
        “- Đi đâu thì lúc anh về tôi mới chửa.
        “- Thật không? Tôi mang giấy tờ ngày kết thúc của tôi với giấy cô đi viện nhá.
        “- Bây giờ anh muốn giấy gì mà chả có.
        “- Thôi nhé. Chuyện cũ qua rồi nhắc lại không để làm gì. Hai người, không ai được đả động gì đến chuyện cũ nữa. Bây giờ tôi yêu cầu anh chị phải hết sức bình tĩnh. Lúc này là lúc phải hết sức tỉnh táo không hỏng hết mọi việc. Nào đến chị Hiền trình bày.
        “- Vâng ạ. Thưa, bác bận nhiều việc đi suốt ngày đêm không biết chứ bà con tập thể đây ai cũng thấy cháu khổ cực như thế nào. Chồng biền biệt nằm một nơi, có lúc nào nhìn ngó gì đến gia đình vợ con. Mình cháu, một nách hai đứa con ốm đau quặt quẹo thay nhau vào viện. Hầu hai con rồi còn phải hầu hạ mẹ chồng. Rồi lại việc cơ quan sấp sấp, ngửa ngửa chạy như ma đuổi từ sáng sớm đến tối mịt vòng quanh bệnh viện, rồi cơ quan, rồi về nhà giặt giũ, cơm nước cả cho bà, cho cháu. Người cháu cứ ốm đau gầy còm đi cũng chỉ vì khổ sở vất vả, đầu tắt mặt tối, còn hơi sức đâu mà nghĩ đến chuyện bậy bạ. Cháu chỉ thấy tủi nhục với chị em, mang tiếng lấy được chồng cũng ông nọ bà kia, tưởng được nhờ vả sung sướng không ngờ một mình còm cõn nuôi con, hầu hạ mẹ chồng mà thỉnh thoảng chồng lại gây hết chuyện này đến chuyện khác. Lúc nào anh ấy cũng hành hạ, xỉ vả vợ hơn cả con ở ngày xưa. Hơ hơ... hơ... Hu hu... u... hu. Trời ơi, làm sao mà cháu lại khốn khổ khốn nạn đến mức này.
        “- Bình tĩnh. Chị cứ phải bình tĩnh lại.
        “- Bác bảo cháu bình tĩnh làm sao được với một con người vong ơn bội nghĩa, sấp mặt với cả bạn mình. Anh Võ đây là người vất vả hàng bao nhiêu ngày nay để giúp cho em gái con nhà cô cháu. Tuy là em cháu nhưng cũng là nể tình bạn với anh Hiếu thì anh ấy mới phải lặn lội vất vả hao công tổn lực mà lại giở mặt với người ta. Chỉ có loại người ăn cơm đổ xuống đất mới như thế.
        “- Thôi, chị phải bình tĩnh. Bây giờ xin mời đồng chí.
        “- Vâng! Trước hết tôi thành thật xin lỗi bác và bà con về việc của tôi và anh Hiếu bạn tôi đã làm bác và bà con mất giấc ngủ và phải nghe những lời nói không được văn minh lịch sự cho lắm. Thật lòng với bác và bà con, tôi cũng không ngờ “làm phúc” mà “phải tội” như thế này. Như chị Hiền nói là cô em gái của chị Hiền học kinh tế ở nước ngoài về muốn xin vào công tác ở viện tôi. Nghĩ là em của chị Hiền cũng như em anh Hiếu, người bạn chí cốt của tôi nên tôi đã phải tìm mọi cách thuyết phục các đồng chí thủ trưởng bộ và vụ tổ chức cán bộ. Cũng xin bác và bà con hiểu cho, thời buổi này để được chấp nhận thêm một chỉ tiêu biên chế ở Hà Nội có khó khăn đến mức nào. Phải gần hai năm trời chờ đợi, kì này chúng tôi mới được phép nhận cô ấy. Vì thế, về tỉnh làm việc và có vinh dự đã được tiếp xúc với bác bí thư, tôi rất là bằng lòng với sự vất vả của mình. Suốt một tuần lễ nay xuống các cơ sở nửa đêm mới về, sáng lại đi sớm, không có lúc nào hở. Ngày mai về Hà Nội rồi. Nên đêm nay tuy đã khuya tôi vẫn cố đi bộ đến để báo cho anh chị biết chuyện của em gái mình. Đến đây hỏi mới biết cụ nhà anh Hiếu không có nhà. Nhưng rất may, chị Hiền với cháu bé đây còn đang thức.
        “- Vâng ạ. Cháu cũng phải giặt giũ mấy đống quần áo của bà của cháu tích lại hàng tuần nay. Đêm nào cũng phải lụi cụi đến quá nửa đêm.
        “Đồ điêu toa. Chưa hề ngày nào cô phải giặt quần áo của mẹ và các con tôi. Chính mẹ tôi phải giặt giũ, cơm nước cả cho cô. Cả bệnh viện người ta biết đấy. Người ta biết cả một mình mẹ tôi phải hầu cô cả ngày, trông cháu cả ngày và cả đêm để cô chỉ có một việc đi đón con bé ở nhà trẻ về ngủ lấy sức rồi sáng mai đi. Việc cơ quan chỉ có chia mấy tờ báo, tạp chí cho các thủ trưởng xong xách túi ngồi sau “em” thư kí khoa học, hoặc các anh ở “cơ quan bạn” chờ sẵn. Hết giờ hành chính về nằm xoài ra thở và ốm. Ngày nào cũng ốm. Tháng nào cũng ốm. Nhưng khi cần đi, đi ngay. Khi cần nằm thì nằm cả tuần, mẹ chồng phải bê cơm mang đến tận miệng”.
        Hiền vẫn không để ý đến những ý nghĩ cháy bừng bừng trong đầu chồng. Chị tiếp:
        - Chả nhẽ bạn của chồng mình đến báo tin nhận cho em mình được làm việc lại không mời vào nhà uống hớp nước.
        - Nếu chỉ thế, khoá cửa vào làm gì? Mà điện lại tắt. Hai người ở một giường. Còn con bé khi nghe tiếng tôi đạp cửa nó mới choàng dậy khóc ở trong buồng?
        - Cho anh thả cửa vu cáo. Tôi chỉ biết là tôi không làm được ra cái cầu chì nên lúc điện sáng quá nó đứt, thì tôi phải nhờ bác ấy đánh diêm nối lại hộ.
        - Sao phải khoá cửa.
        - Không khoá. Chỉ gài vào không có đang xúm chữa điện, kẻ trộm lợi dụng lúc tối tăm.
        - Không ngờ cô xảo quyệt, gian trá đến thế.
        - Thôi. Thế là rõ. Mọi việc có thể kết luận được rồi. Anh Hiếu ngồi xuống. Bình tĩnh. Không bình tĩnh là hỏng hết mọi việc. Phải thông cảm điện đóm bây giờ nó nhập nhèm lúc sáng lúc tối, khi có khi không. Nhà tôi cũng cháy mấy cái cầu chì rồi. Chuyện vặt, không có vấn đề gì. Đồng chí Võ tận tình có trách nhiệm với bạn bè rất đáng hoan nghênh. Còn anh Hiếu nên rút kinh nghiệm. Những việc vợ chồng nhỏ nhặt như thế này, tuyệt đối không được mất thì giờ nghĩ đến nó nhiều, ảnh hưởng công việc chung. Cũng không được làm ầm ĩ lên. Có gì mình thấy chưa thật hiểu nhau, chưa thật nhất trí, vợ chồng bàn bạc góp ý với nhau, có gì mà phải đao to búa lớn mất hết tình nghĩa vợ chồng, mất danh dự, mất uy tín với quần chúng. Tất cả những chuyện không đáng gì này, phải giải quyết trong phạm vi nội bộ. Trong việc này rõ ràng anh Hiếu vội vàng nóng nảy. Thôi, ta rút kinh nghiệm.
        Ông đứng dậy nắm tay Võ thật chặt:
        “Xin lỗi đồng chí nhé”.
        Tất cả những người ở cửa đều thất vọng vì tính tò mò không được thoả mãn và không ngờ càng ngày Hiếu càng tỏ ra thô lỗ, chấp nhặt, hành động đạp cửa là hành động rất du côn, thô bạo. Thiếu hẳn một sự từng trải lịch lãm mà người ta đã thấy ở anh trong mọi việc xã hội. “Ối dào, tưởng là gì. Mỗi tí cầu chì đứt cũng đùng đùng ầm ĩ làm bao nhiêu người mất ngủ”.
        *
        * *

        Tuy không biết tường tận tất cả những gì đã xảy ra ở nhà con giai nhưng bà hiểu được nỗi khổ sở, thiểu não của nó. Bế cháu ngồi nhìn con nằm như kẻ chết rồi ở cuối chiếc giường một của bệnh viện, lòng bà quặn lại. Cũng là phận đàn bà, mà bà không thể ngờ đàn bà thời nay lại táo tợn, trơ tráo, chả còn biết đến nhân tâm, luật lệ là gì. Cũng là vì phải giữ cái danh cho con, bà phải cắn răng chịu nhục suốt từ khi chị ấy về “làm dâu” nhà này. Mỗi lần chị ấy đẻ, con cái ốm đau quặt quẹo bà lại được đưa lên tỉnh bốc cứt bốc đái, giặt giũ, hầu hạ con dâu, nâng giấc ôm ấp các cháu. Khi con dâu hết kiêng cữ, đi lại cứng cáp, các cháu chơi đùa khoẻ mạnh, bà lại như thừa ra, vướng víu, như cái của nợ, như con hủi trong nhà. Chị ấy nói cạnh khoé, đá thúng đụng nia nhưng chưa được con trai cho về bà vẫn phải ở lại chịu đựng. Mỗi lần như thế, bà lại bó sẵn quần áo bằng cái dây ni lon xanh anh Hiếu cho từ ngày ở Sài Gòn ra, bỏ vào cái ba lô con cóc chuột khoét cũng của anh Hiếu cho, sẵn sàng: “Thôi mẹ xin các con cho mẹ về dưới quê”. Chị ấy vui vẻ bảo: “Cái thể không ở lại được với cháu, bố nó xem thế nào để bà về khỏi khổ bà”. ấy là những lần sau này. Còn “ngày xưa” khi chị ấy cần đuổi bà thì chị ấy chửi cháu bà mới được dăm bảy tháng là: “Tiên sư cái giống nhà mày ngu. Tao có nợ nần gì mà định hành tao. Thời buổi này miếng ăn có ai nó đổ ra vệ đường mà tưởng cứ há mõm ra là đớp được, mà bắt con này hầu không thiếu bữa nào”. Không những bà chỉ ngu mà còn phải câm và điếc để đợi anh Hiếu về xem đã cho phép bà được đi khỏi hay chưa. Sau này bà mới biết, không lần nào con trai bà làm trái ý vợ nên hễ thấy chị ấy khác ý là bà lấy sợi ni lon xanh buộc quần áo là vừa. Cái số kiếp của bà nó phải như thế là biết phàn nàn, oán giận ai! Đến những cảnh tượng xảy ra gần đây bà thấy đau đớn tủi nhục cho con bà quá. Bà chỉ muốn kêu thấu tận trời cao, đất dày xem làm sao lại có sự ngang trái trớ trêu? Lần đầu tiên bà biết được điều sỉ nhục với con bà mới cách đây mươi ngày. Gần trưa, chị ấy về nằm với con để bà đi nấu ăn. Vừa đặt mình xuống chị ấy đã ngủ mê mệt. Bà cắm nồi cơm điện rồi xách cái túi cước xanh chị ấy vẫn mang theo để mua thức ăn. Mua thịt xong, bà lấy miếng ni lông trong túi ra bọc. Ba bốn cái túi con ở trong ấy rơi ra khiến mọi người kêu rú lên vì kinh tởm. Bà ngơ ngác không biết cái gì định nhặt lên xem. Một bàn tay cầm tay bà, bảo những của nợ ấy là những túi tránh thai vừa dùng xong và giằng lấy miếng ni lông to ở tay bà vứt vào đống rác. Người ta dồn hỏi bà cái túi cước xanh bà mượn của ai. Nó vội vàng hay bất chấp? Chưa tiện chỗ để “phi tang” hay một sự chơi khăm đểu cáng, bẩn thỉu? Bà phải nói dối là bà vừa nhặt được nó ở giữa đường, định khi mua được miếng thịt, con cá, bìa đậu thì gói vào đấy khỏi giây ra túi cước.
        Chồng ở xa, con cái ốm đau phải cấp cứu, sao chị ấy còn nỡ làm điều khuất tất? Ban ngày đầu tắt mặt tối lo cho cháu ăn, cháu bậy, lo giặt giũ cơm nước, đêm đến lại vò võ ôm cháu suốt năm canh đã bao lần bà khóc thầm thương phận con lận đận, đau phận mình bị phỉ báng. Ấy vậy mà đêm nào chị ấy cũng gọi điện thoại xuống huyện xem chồng có cầm lấy máy trả lời hay vì sao chậm trễ. Hỏi xem ngày ấy chồng đi những đâu, làm gì, họp hành với ai và hỏi ngay những người ấy xem chồng có nói đúng không. Cứ làm như thằng chồng là kẻ trộm cắp, gian giảo đàng điếm còn chị ấy là người chính chuyên chỉ biết có yêu thương chồng. Thì ra người lành thì chỉ biết chí cốt làm ăn và nghĩ ai cũng tu nhân tích đức, giữ đạo làm người như mình nên ít ngờ vực kẻ khác. Còn kẻ đàng điếm giấm dúi thì lúc nào cũng hốt hoảng ngờ vực. “Gái đĩ già mồm” là thế... Mỗi lần thấy chị ấy nói vào cái máy cho chồng, bà chỉ muốn quát vào miệng cái máy rằng: Vợ anh nó là con đĩ, ngày nào cũng đi ngủ với giai đấy. Công tác, công tộ gì cứ biền biệt suốt năm suốt tháng để cho nó tha hồ ngược xuôi, không ai biết đấy là đâu. Nghĩ đi thì thế. Nghĩ lại, bà sợ có chuyện gì xảy ra khổ thân hai đứa cháu. Mà anh ấy sẽ “ảnh hưởng”. Vì thế cho nên bà cứ phải câm miệng lại, không dám hé răng nói nửa lời, để mọi chuyện khỏi vỡ lở. Có nhẽ chị ấy biết cả hai mẹ con bà đều sợ vỡ lở. Nên ngày càng ngang nhiên bày cái sự bẩn thỉu ấy ra trước mắt bà không cần che giấu. Rồi gặp bất cứ ai, bất kì lúc nào chị ấy cũng ủ rũ, chán chường, đau khổ ốm yếu. “Vì cái thằng chồng khốn kiếp nó hành”. Kêu ca, riếc móc chồng trước mặt thằng đàn ông, có khác gì như bảo thằng kẻ trộm là buồng nhà tôi lúc nào cũng để ngỏ. “Muốn vào lúc nào thì vào, thích gì thì cứ việc. Mạnh bạo mà đi vào nhá. Tôi để sẵn mọi thứ ở đấy”. Có lần con Huyền bảo bà:
        - Tại sao bố cháu lại sợ cái mụ đĩ thoã, hợm mình ấy đến thế? Đầu óc thì rỗng tuếch, lúc nào cũng ra vẻ đăm chiêu trí thức. Giữ mấy tờ báo, dăm quyển tạp chí mà cũng khinh khỉnh coi thường tất cả mọi người. Để cháu bảo ông ấy bỏ quách đi.
        “- Kìa cháu, mình là phận con cái, ai lại nói như thế. Từ nay bà không cho cháu được ăn nói với người bề trên như vậy đâu.
        “- Nó mà là bề trên của cháu à? Hơn mấy cái tuổi bọ. Không sợ bà buồn, sức mấy cháu gọi bằng cô. Đợi đấy. Nghỉ cho “eo” nhé.
        “- Huyền! Không được nói nữa mà.
        Đột nhiên Hiếu vứt chiếc chăn dù, ngồi dậy hỏi mẹ.
        - Bà có thấy thằng nào thậm thụt với con Hiền ở đây không?
        - Nào mẹ có thấy gì đâu.
        - Hết giờ làm việc nó có về nhà ngay với cháu không?
        - Vưỡn.
        - Bà để ý thấy nó có dấu hiệu gì của việc giai gái không?
        - Anh bảo, có chuyện gì ai người ta mang đến chỗ mẹ. Còn những chỗ khác thì mẹ có đi đến đâu mà biết.
        - Tại sao, đêm nó không ở đây trông con để bà về nhà với con bé lớn?
        - Thì chị ấy còn phải nghỉ lấy sức ngày sau công tác. Mà mẹ cũng ít ngủ, trông cháu nó thuận hơn.
        - Con này mất dạy lắm. Không thể chịu được nữa.
        - Theo mẹ, có chuyện gì con cứ bình tĩnh thu xếp cho ổn thoả. 50 tuổi đầu rồi. Nếu số kiếp nó như thế, phải chịu thế, bới móc ra làm gì để người ngoài người ta cười cho.
        - Nhưng mẹ có bảo đảm là nó không có chuyện gì không?
        Tuy nói thì thầm với mẹ, giọng anh vẫn rin rít qua hai hàm răng như nghiến lại. Người mẹ vẫn một mực không hề thấy gì, biết gì. Thực ra anh hỏi để mà hỏi. Hỏi như để thoát vợi ra cái làn hơi cộm đầy trong lòng, như để có người chia sẻ nên anh rất cần được nghe trả lời như thế. Đã bao nhiêu lần anh chứng kiến hoặc nghe kể lại chuyện này chuyện khác, anh đã cố công làm cho đến tận cùng mọi nhẽ. Nhưng càng tìm ra nhiều chuyện, càng làm ầm ĩ lên thì anh càng mang tiếng, càng để người ta cười cợt đàm tiếu với nhau. Chỉ vì anh sợ mất danh dự với nhân dân, mất uy tín với cấp trên “cái chuyện riêng tư lặt vặt, đáng gì” mà mất hết. Cái khả năng đặc biệt nhạy bén của đàn bà chỉ ở chỗ cảm nhận trực tiếp những thay đổi tình cảm của người đàn ông. Hiền đã cảm nhận thấy chỗ yếu, cái vết “lõm” của anh để tì xoáy vào đó một cách ác độc, man rợ, buộc anh phải chấp nhận tất cả những mối quan hệ bừa bãi của cô. Càng ngày cô càng bất chấp, càng “công khai hoá” để anh chỉ việc “nhìn ngắm” mà tự nuốt nỗi cay đắng nhục nhã vào lòng. Anh rất thèm có được cái giây phút bất cần! Chả cần bất cứ một thứ gì để con người anh được thoát ra khỏi nỗi sợ. Thèm muốn được sống như mọi con người bình thường khác. Khốn nỗi, anh đã nghiện tất cả những thứ kia rồi làm sao mà “cai” được. Mặc khác, cái thói quen sống giấu giếm vụng trộm suốt năm chục năm nay bây giờ có cho anh được công khai phơi bày tất cả mọi ý nghĩ và hành động, đố anh làm được. Mong mỏi đấy. Thèm khát đấy. Nhưng bỏ đi những thói quen, anh không tài nào chịu nổi. Giống như con chim nhốt trong một cái lồng chỉ tìm cách bay ra. Đến vài ba chục năm sau người ta mở lồng cho nó bay nhưng thể nào nó cũng bay lại cái lồng cũ. Nếu cái lồng đó không còn, nó lại bơ vơ, lại phải loay hoay kiếm tìm cái lồng khác mà chui vào để tìm lại thói quen, tìm lại nỗi nhớ.
        Bà Đất nhìn mặt con mỗi lúc một đờ đẫn, dại đi, bà vội vàng ôm cháu đứng sát lại mếu máo nói như van lạy con trai.
        - Bố nó nằm giường mà nghỉ đi. Đừng nghĩ ngợi gì nữa. Con mà có chuyện gì thì làm sao mẹ sống được con ơi.
        #19
          Ct.Ly 25.03.2006 17:12:45 (permalink)
          #20
            conbo2 04.04.2006 09:51:34 (permalink)
            *
            * *

            Đến ba giờ chiều, mọi sự chuẩn bị “bắc cầu” cho hồn bà Đất lên bờ đã xong. Nghĩa là, vẻ mặt thống Bứt bắt đầu nghiêm trang. Ông trịnh trọng đội khăn xếp và mặc chiếc áo the nhàu nhĩ ngắn cũn phủ đi một nửa cái quần bộ đội màu cỏ úa đã bạc. Sửa soạn tư trang xong ông ngồi xuống chiếc chiếu trải trên nền đất phù sa sát bờ sông, dưới chân người quá cố. Một cái bát sứ và chiếc đũa làm dùi để cạnh quyển sách chữ nho đã ố rách phải can, dán những miếng vá hầu hết các trang. Ông đã bỏ nghề từ rất nhiều năm, nói đúng ra ông phải tập trung cải tạo nhiều lần vì làm lí trưởng tề và tội mê tín “lừa bịp”. Mấy năm nay việc lễ bái được phục hồi nhưng phần già yếu, phần nơm nớp sợ “độp” một cái ông huyện, ông xã lại thay đổi chính sách, thân già không thể nhịn đói lao động cải tạo nên là chỗ thân thiết vị nể lắm ông mới giúp. Dân làng cũng nhìn thấy mấy năm nay sức của lão xuống quá. Tính nết lại sinh ra đồng bóng thất thường nên cũng ít người nhờ. “Mà có nhờ ông, ông cũng không thèm đi nhá”. Hôm nay, ngoài tình cũ nghĩa xưa với bà lão, đồng chí Hiếu còn trực tiếp bảo ông phải làm đủ mọi thủ tục thì ông phải chu tất. Nhưng lùng mãi không được mõ và thanh la, ông đành phải nghiêm mặt. Ông phải hò hét túi bụi mọi thứ mới được đúng như ý ông. Tất cả mọi việc lúc này phải đúng theo ý ông. Ông cần gì phải có ngay tắp lự. Chẳng hạn ông quát:
            - Cành tre làm cành phan.
            Phải có ngay cành tre đúng như ông muốn.
            - Lấy hai dọc chuối gài que vào làm “thang” cho hồn!
            Phải có ngay các thứ đó. Rồi bát cơm, quả trứng, đũa bông phải thay đi. Ba miếng trầu không vôi (người chết không ăn vôi). Vải làm cầu. Có ngay. Nhưng đến mâm bột gạo thì khó quá. Cả xã ăn ngô, khoai, dong riềng, trẻ con cũng không ăn bột gạo. Cối xay bột không có. Giã bao giờ mới được mâm bột có ngọn.
            - Kệ nhá. Bảo gì, làm nấy không được cãi nhá. Phải có mâm bột để hồn ngự cho khô ráo nhé.
            - Có thể thay?
            - Không nhá. Từ cổ kim xưa nay vẫn thế không thể thay được nhé. Nếu không làm được à? Thì ông thôi.
            Ông quát tháo ỏm tỏi về chuyên vô lối, coi thường quy cách của trời phật. Ông dỗi, định bỏ về làm bao nhiêu người hoảng. Ngay ông Cu Từ cũng không giữ nổi nếu không có mâm bột gạo. Cũng bái, tụng niệm cốt cho hồn được khô ráo. Nếu hồn lên bờ mà sũng nước, run rẩy thì cứ ở dưới nước, gọi lên làm gì. Cái luật nó thế từ xưa đến giờ không ai có thể làm khác được. Hiếu từ tỉnh trở về bảo:
            - Nó khó quá, ta làm mâm gạo cũng như bột, câu nệ làm gì.
            Thế là ông lại quát:
            - Đi lấy gạo thay bột. Tôi quyết dứt khoát phải gạo mới thay được bột nhá. Không ai được bàn luận nữa nhá.
            Khi ông đã ngồi xếp bằng ở giữa chiếu, một bà lão bạn của bà Đất từ hồi đi làm thuê ở bên kia sông bảo còn thiếu chín đồng xu nữa. Ông quát:
            - Không thiếu gì đâu cụ nhá. Tôi làm nghề từ khi để chỏm đến bây giờ rụng hết tóc rồi thiếu, đủ tôi biết, không ai phải dạy khôn tôi nhá.
            - Ấy là cháu cứ xin ý kiến cụ như thế. Không đủ là tội cho bà cháu lắm. Không nên đâu ạ.
            - Bà lão lẩm cẩm đừng nói bừa. Tôi bảo không thiếu, nghĩa là đủ rồi nhá. Ai còn chõ mõm vào lúc này là không xong với tôi đâu nhá.
            Bà lão chống gậy ra chỗ Hiếu yêu cầu phải đủ lệ bộ: “Không có đồng xu nào bà lão lấy gì mà tiêu pha. Tội là tội bà lão chứ ông ấy mất gì”. Hiếu vội vàng chạy lại. Ông đã đeo hai cái dây “gọng kính” vào tai, cúi xuống quyển sách chữ nho “hẹ hẹ” soạn giọng thì Hiếu bảo ông phải thêm chín đồng xu. Ông “vâng vâng” rồi chống chiếc đũa xuống chiếu quát:
            - Ai đi lấy ngay cho tôi chín đồng xu. Phải đủ chín, không được thiếu một xu đâu nhá. Nhanh lên. Đã ai đi chửa? Tôi bảo là phải có xu mới bắt đầu được nhá.
            Lại chính bà lão cởi ruột tượng lấy ra những đồng trinh có lỗ vuông ở giữa đưa cho ông. Hai mắt lừ lừ, ông cầm lấy những đồng tiền ở tay bà lão để lên mâm gạo rồi mới ngồi ngay ngắn lại. Với vẻ trang trọng linh thiêng hết mức, ông nhổm người cầm bó hương châm sẵn cắm lên “bát” hương bằng đoạn chuối, cắm vào mâm gạo và tất cả xung tạo nên một vùng khói um tùm, mới ngồi xuống hắng giọng, một tay gõ đũa “lanh canh” vào miệng bát, tay kia giở sách. Giọng ông vót lên:
            - À... Việt Nam Quốc, Hồng Hà xứ, Quan Châu huyện, Đại Thắng xã, Ông Cuội thôn, Kim thần tín chủ Lưu Minh Hiếu cung thỉnh Hà Bá Đẳng quan cai trị xứ Hồng Hà cho được chân linh chính hồn thân mẫu Bùi Thị Đất, thác tại Hồng Hà xứ, Hành Canh thất thập lục tuế, hưởng thọ khảo. À... à... con cháu, trai hiền gái thảo thương đi gọi, nhớ để đi tìm à... à... à...
            Đang tụng bỗng giọng ông hạ hẳn xuống lẩm bẩm:
            - Lên rồi... Bà lão khôn thiêng thật.
            Ấy là lúc ở dưới nước có một con ếch cốm nhảy lên bờ. Ông bảo đấy là hồn đã lên. Ông quát:
            - Nào, con cháu đâu? Bà lão lên được rồi đây. Khóc đi.
            Tiếng con Huyền kêu thét lên. Ông lừ lừ mắt có vẻ không bằng lòng. Ông nhìn sang Hiếu ý muốn xem đồng chí Hiếu đã cho khóc chưa? Hiếu lại tưởng ông ngầm hỏi: “Dâu hiền, cháu thảo đâu”, để đỡ cho lời khấn của ông khỏi ngượng. Hiếu ngước mắt nhìn ra ngoài. Không thấy gì. Anh lách đám người đứng ngồi vây quanh đi ra. Ai cũng biết anh đang sốt ruột ngóng vợ con. Phải có vợ con anh về mới liệm được. Như thế thì vong linh bà cũng thanh thản mà con cháu cũng đỡ ân hận. Anh đã cho xe về đón vợ con ngay từ 11 giờ trưa, không hiểu vì sao lúc này lại chưa thấy ai. Phần sốt ruột, phần không thể chịu đựng nổi tiếng kêu như xé ruột của con Huyền, anh đi xuống lội nước ngóng sang bờ bên kia. Anh nhờ người gọi cô bé cùng đi với Huyền và gọi Huyền bằng chị đến. Khi cô bé đến bên cạnh anh bảo:
            - Em chuẩn bị về Hà Nội. Đi xe của huyện uỷ trực ở bên kia. Có một số việc em phải làm gấp: Đến Luditromex (tên đầy đủ của nó phải là Tocoxiluditromex) điều một xe làm lạnh để đưa quan tài vào xe giữ thi hài cụ. Đưa tin đăng các báo, đài phát thanh và truyền hình. Em dặn họ là làm khẩn trương đúng yêu cầu, xong việc anh sẽ gặp tất cả. Đặt 10 vòng hoa lớn, cỡ “bộ trưởng”. Em mở tủ lấy máy vi đi ô và hai máy ảnh, máy ghi âm nhỏ. Nhưng em không sử dụng. Em đưa tất cả cho các cậu ở vụ, bảo các cậu ấy mang về. Mọi việc chậm nhất chín giờ đêm nay phải có mặt ở đây.
            Hỏi:
            - Những vòng hoa ấy đặt, là của...
            - Của các sứ quán và các bộ mình có làm việc.
            - Em hiểu.
            - Nhiều việc quá đấy. Em phải huy động thêm bạn bè và anh em trong cơ quan họ giúp nhé.
            - Đừng lo. Em sẽ tìm cách. Anh phải ăn cái gì và ngả lưng chợp mắt một tí. Không cẩn thận sau đợt này anh ốm mất. Em sợ lắm.
            Giá như ở chỗ khác, theo thói quen, anh đã thưởng cho cô một cái hôn nồng nàn. Nhưng ở đây trống trải, lại là lúc tang tóc, ở chỗ quê mùa. Anh nhìn cô đắm đuối khiến mặt cô bé đỏ lên, hai mắt nhìn anh như một lời hẹn. “Thôi để khi về Hà Nội”. Anh quay lên gọi người lái xuồng máy “cho cháu nó sang bên kia”. “Cô cháu” Linh Chi lên khỏi đò gặp vợ và hai con Hiếu.
            - Tình hình thế nào rồi cháu?
            - Đang cúng để “đưa cụ lên bờ”. Chờ cô và các em về là liệm cô ạ. Có đò, cô và các em sang là kịp đấy.
            - Ờ ờ. Cô đang tìm mua chục hoa huệ và mấy thẻ hương. Lúc đi cuống quýt không kịp làm một việc gì. Chả nhẽ về chôn mẹ lại đi tay không. Cháu lên đê đi. Đi xe của nhà mình cho nó nhanh cháu ạ.
            Thực ra Hiền và các con về bến đò đã gần một giờ rồi. Chị rất sợ nhìn mặt người chết, nhất là chết đuối. Lại sợ hơi lạnh. Chị lại đang “ốm”. Chị bảo lái xe đỗ lại trên đê, đang quanh quẩn “mua hoa” thì gặp được Linh Chi. Biết tin tức để còn liệu xem xuống đò vào lúc nào. Chị thầm cảm ơn cô bé phiên dịch, như cháu của cơ quan chồng. “Con bé thông minh, nhanh nhảu rất được việc mà ý tứ ngoan ghê”. Cứ xem cái ý nghĩ của chị về “cô cháu” thì đủ biết đàn bà dù nanh nọc, ma mãnh, gian ngoan đến đâu cũng có những khoảng ngu rất ngớ ngẩn. Chị đã từng tạo ra được cái trò đêm đêm gọi điện xuống huyện cho chồng vừa để kiểm tra, vừa đánh lừa cảm giác của anh về một người vợ lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chồng, lo cho chồng, vừa để nắm chắc đối phương, chủ động để mình sống thoả thích với bồ. Một người như thế lại không hề biết tí gì về “con cháu” nhãi ranh cỡ đàn em Linh Chi đã ăn ở như vợ chồng không chính thức từ bốn năm nay với chồng mình.
            *
            * *

            Sau cái đêm gặp Võ ở nhà mình, anh đã tự rút ra một bài học cho riêng mình: “Thật là ngu hơn bò mới tin con vợ đi ngoại tình hứa hẹn, thề thốt thuỷ chung khi nó còn sức lực và lúc nào cũng thiêu thiếu, hao háo đàn ông”. Sáng ấy, anh trở về huyện mang theo cái hình ảnh lúc tảng sáng vợ chồng “làm lành”, chị đã ngoan ngoãn gật đầu “giữ hộ anh”. Vừa đúng lúc một tuần sau mẹ anh đã bỏ về. Gặp con trai, bà nghẹn lặng đi, nước mắt giàn giụa chảy theo các nếp nhăn như những rãnh cầy ngang dọc trên mặt. Lục vấn mãi, gắt gỏng mãi mẹ mới chịu nói rằng việc làm của chị ấy như phỉ vào mặt bà. Bà đưa cháu ra viện từ lúc trưa. Đến tối mịt chị ấy mới về. Cơm nước xong, bà đưa cháu vào phòng trong, còn chị ấy với cháu gái nằm phòng ngoài, chỗ của anh mỗi khi trở về. Khoảng 10 giờ thì có anh tên là Phiên hay Phiện gì đấy làm cùng chỗ chị ấy đến. Cũng là nghe chị ấy nói thế, bà biết thế, có biết mặt mũi người ấy ra sao. Nghe tiếng gõ cửa, bà định ngồi dậy, chị ấy đã bật đèn ra mở. Thấy hai người ở ngoài hiên thì thào cái gì đấy nên bà nằm yên. Chừng nửa giờ, hai người lặng lẽ vào nhà, đóng cửa, tắt đèn. Rồi tiếng chiếu xô, giát giường chuyển răng rắc rồi tiếng thì thào của chị ấy.
            - Chiều nay làm em lỡ, bây giờ phải đền em đến sáng đấy.
            Trời đất. Bà gần như tắc thở. Không thể thở được. Xương sườn, xương sống đau nhức nhối, buốt thót đến tận đầu mà không dám cựa, không dám giở mình. Đã mấy lần định dậy bật đèn ngó xem mặt mũi nhà anh nào mà “vuốt mặt không nể mũi”. Thế này thì có còn ra cái thể thống gì nữa. Làm sao nó lại quá lắm thế này? Nghĩ đi, nghĩ lại hàng giờ đồng hồ, cuối cùng bà lại nằm im. Chị ấy có thể đuổi bà ra khỏi nhà giữa đêm như bỡn. Bà cũng rất cần ra khỏi nhà vào lúc này. Sợ gì nữa. Nhưng rồi đem lại tích sự gì hay chỉ khổ thân con trai mình. Bà đành nín lặng. Sự nín lặng căng thẳng ấm ách như người buồn đi ngoài cứ phải nằm đợi cho trời sáng mới có chỗ. Đến sáng ra bà lại phải buộc cái ni lông xanh vào bộ quần áo nằn nỉ:
            - Cháu nó chơi được. Mẹ xin chị, mẹ về dưới quê không có nhớ quá. Không thể nào chịu được nữa.
            Mỗi lời mẹ tấm tức kể như một mũi dao đâm nát ruột gan con trai. Không kịp mời mẹ ăn trưa, anh “trúng cảm” đột ngột phải mang đi tận Hà Nội cấp cứu.
            *
            * *

            Tốt nghiệp đại học, Huyền ở lại trường làm nghiên cứu sinh rồi đi học tiếp ở nước ngoài. Về nước được nửa tháng biết tin bố nằm viện, cô vào chăm sóc bố rồi mới đón bà về. Bà rối rít mừng, mếu máo hỏi cháu:
            - Được một tháng sao hôm nay mới về với bà?
            Cô bảo là cô phải “trông” bố, chờ lấy hàng, bán hàng, mua nhà. Việc nào cũng cấp thiết không thể bỏ đi được. Hôm nay cô về đón bà lên thăm bố và ở hẳn với cô.
            - Cháu có nhà mới rồi. Hai bà cháu mình ở với nhau, chả cần phải liên luỵ đến ai. Bà có thích thế không bà?
            - Cháu ơi, bà không chịu được đâu. Còn ổ chó đẻ, nạ gà ấp bà bỏ cho ai được.
            Vừa nói đến phải xa chúng, nỗi nhớ đã rầu rầu khuôn mặt bà. Ngay con gà đang ấp, bà ghét cái thói của nó cứ mỗi lần tòi ra cho bà được quả trứng lại quang quác như là khoe khoang om xòm. Nhưng bà cũng biết nó báo cho bà là nó đã làm xong một việc hệ trọng nhất, đang đói và mệt mỏi, bà phải cho nó nắm ngô, vài củ khoai luộc để nó mổ “tệch tệch” và “cộc cộc” trong cổ họng vẻ mãn nguyện. Bây giờ bà đi để nó ăn uống thất thường, gầy rạc, xơ xác làm sao bà đành lòng. Còn ổ chó đẻ nữa. Con mẹ nó có tình nghĩa với bà lắm. Những ngày bà lên tỉnh trông các cháu ốm, bà gửi khoai, gửi cám nhờ người cho ăn hộ nhưng làm sao người ta nhớ đều đặn. Con mẹ nó ăn uống bữa đực bữa cái, người lả đi, héo hắt. Mỗi lần trông thấy bà về nó vẫy đuôi mừng rối rít mà hai mắt lại rơm rớm nước như là tủi thân, như trách bà sao nỡ bỏ nó đi lâu thế. Đấy, từ lúc thấy bà cháu mừng rỡ xoắn xuýt lấy nhau nó lừ lừ bỏ đi xem ra có vẻ dỗi vì bà mải chuyện trò vui vầy với cháu mà quên nó. Lúc cháu chạy đi chào hỏi, biếu quà mọi người bà phải gọi nó vào. Nó mừng, chạy xuống nằm ệp dưới chân bà, lim dim mắt như thiu thiu ngủ để bà vuốt trên lưng, trên đầu nó. Bà bảo:
            - Chị Huyền về đón bà lên Hà Nội ở, mày có bằng lòng không?
            Nó ngẩng đầu lên, rùng mình lắc lắc rồi kêu “ắc ắc” như ức nghẹn ở cổ. Bà lại phải dỗ dành nó:
            - Thôi, cứ vào với các con đi, bà chỉ đi ít ngày rồi bà về.
            Nó nghe bà, đi vào buồng mà xem ra vẫn còn vướng mắc không muốn bà đi.
            Con Huyền biết bà lo cho ổ chó, nạ gà, nó gửi tiền bác Nạc mua ngô và đong hàng yến gạo nấu cháo cho đàn chó con. Thời buổi túng đói, thóc cao gạo kém, cả làng không ai ăn gạo không, người ta lại bỏ tiền ra đong gạo nấu cháo cho chó của bà mà các con nhà bác lại ăn toàn dong riềng, bánh đúc ngô? Dù là tiền cháu gửi nhưng nó cứ nghịch cảnh thế nào. Thôi, cháu đã nhanh nhảu làm mọi việc cốt để bà yên lòng nên bà chả nói lại làm gì.
            - Nhất thiết, dăm bữa nửa tháng phải cho bà về một vài ngày trông thấy đàn chó, nạ gà ấp bà mới đỡ nhớ.
            - Bà cứ yên tâm. Cháu xin chiều bà tất tật mọi thứ. Nhưng vừa đi được một đoạn bà đã kêu:
            - Nhưng cháu ơi, bà không ngồi vào cái “hông đa” của cháu nữa đâu. Cho bà xuống đi ô tô.
            Huyền giảm ga. Kim đồng hồ chỉ còn chỉ đến con số 15. Mỗi lần trông thấy ô tô đi ngược chiều bà vẫn tưởng nó lao sầm sầm vào mặt mình. Bà run bần bật hai mắt nhắm lại, ôm chặt lấy ngang người cháu gọi:
            - Tránh xa ra ngoài rìa cháu ơi. Đừng để nó đè lên người.
            Cháu thì cười sằng sặc trêu bà, mà bà thì cứ thót ruột lại. Cố nhắm mắt nhắm mũi, lên đến Hà Nội bà mới biết là mình thoát chết. Thôi, cứ là kệch. Từ nay, một bước bà cũng không ngồi vào cái xe của cháu nữa. Đi ô tô hàng trăm lượt bà cứ đứng một chân vẫn còn hơn một lần bà để cháu “lai”. Chột dạ đến cả năm. Sợ quá. Ở với cháu tận sát chợ Ngọc Hà, vào bệnh viện Việt Xô thăm con, bà cứ đi bộ. Chỉ cần cháu ngồi xích lô cùng bà một lần là những lần sau bà nhớ. Đi thẳng một mạch từ chợ xuống đến Cửa Nam, đi theo đường Bông Nhuộm ra Trần Hưng Đạo. Theo đường Trần Hưng Đạo đến bờ sông là đến bệnh viện. Rồi đi một đoạn nữa thì đến bến Phà Đen. Ngày xưa bà đã đi tiếp tế cho ông ở bến Phà Đen nên cứ đến bờ sông là bà biết hướng đi. Thấy con đỏ đắn, đi lại khoẻ mạnh, bà mừng nghĩ bụng: Trong hoạ có phúc. Do chị ấy ăn ở hai lòng làm con bà nghĩ ngợi lao lực mà lâm bệnh. Con Huyền về thấy bố thế, nó thương. Bố con nó “đoàn kết” được với nhau là nhất. Bà chả mong gì hơn. Bây giờ bà chỉ còn lo chuyện chồng con của nó. Đêm, hai bà cháu nằm ôm lấy nhau thì thầm “tâm sự”. Bà hỏi. Cháu bảo:
            - Còn rắc rối lắm bà ơi. Có lẽ cháu ở vậy một mình.
            Bà lại thấy ruột gan mình cộn cạo. Cháu hỏi:
            - Bà biết hai chị em cháu bé buổi chiều đến mời bà sang nhà nó ít hôm không?
            - Mấy đứa cháu con nhà ai ngoan ngoãn quý hoá quá.
            - Con nhà thầy giáo cũ, là người yêu của cháu ngày xưa, bà biết rồi đấy.
            Lại như có một mũi kim đâm nhói vào tim bà. Bà cố hỏi lại giọng tự nhiên:
            - Thế ngày ấy vợ con anh ta có biết không?
            - Có chứ.
            Thật là khổ. Hàng chục năm nay bao nhiêu người đến tìm hiểu cháu, xem ra anh nào cũng hoà nhã đứng đắn, nghe nói là đảng viên cả. Cháu không ưng ai lại đi lao đầu vào chỗ ấy. Bà hỏi:
            - Mấy năm đi như thế, cháu không gặp được ai vừa ý?
            - Không. Nói đúng ra cháu cũng có gặp mấy anh. Nhưng yêu nhau ít bữa lại chán, chẳng thấy ai bằng anh ấy.
            - Nhưng anh ta mà quyết chí với cháu, vợ con lại khổ.
            - Kệ. Cháu thừa sức gạt tất cả ra ngoài và cháu tin anh ấy cũng sẵn sàng làm như thế.
            - Như thế dễ mang tiếng ác. Người ta nghĩ mình là người ăn ở thất đức cháu ạ.
            - Ai muốn khoác, muốn choàng bao nhiêu thứ khinh bỉ, kinh tởm lên đầu cháu, cháu đâu có ngán. Cháu yêu cho cháu, cháu sợ gì ai mà không giành lấy anh ấy. Anh ấy là của cháu.
            Trời đất! Thế thì còn nói làm gì nữa. Đêm như chết lặng. Phải mấy phút sau sự “lặng chết” ấy bà mới hỏi:
            - Những đứa cháu nó sang mời bà đến nhà với bố mẹ nó là thế nào? Sao cháu lại nhận lời đưa bà đến đấy.
            Gần như là một trò ú tim, cô trêu bà để bà đau đớn hoảng hốt, lo rối lên rồi cô mới kể cho bà nghe câu chuyện cô tìm đến nhà gặp vợ anh ấy.
            “- Xin tự giới thiệu với chị. Tôi là...
            “- Không cần đâu, tôi biết cô rồi.
            “- Lâu chưa?
            “- Cô xơi nước đi. Nhà tôi sắp về rồi đấy. Gặp lại cô, anh ấy mừng lắm đấy.
            “- Chị định bắt đầu câu chuyện với tôi ngay phải không?
            “- Tôi chỉ muốn mời cô xơi nước chờ anh ấy. Nếu cô không thích thế. Tuỳ cô.
            “- Chị biết tôi đến đây để làm gì không?
            “- Biết. Tôi cũng báo để cô yên tâm là tôi đã kí vào đơn của anh ấy gửi cho toà rồi. Ít ngày nữa họ sẽ giải quyết thôi.
            “- Mẹ nói gì đấy? Chúng con phản đối.
            “- Mẹ cấm các con được tham gia chuyện của người lớn. Mang nhau đi chơi, nhanh. Mấy năm nay tôi cứ nghĩ thương các cháu nên không chịu li hôn. Cốt để anh ấy bình tĩnh lại. Nhưng càng ngày các cháu càng khổ và hư hơn. Tôi lại nghĩ: thôi, “giải quyết” sớm được ngày nào hay ngày ấy.
            “- Chị có nghĩ là tại tôi?
            “- Cơ bản là anh ấy. Còn phận đàn bà chúng mình ai mà chả mong được sống với những người mình yêu.
            “- Nhưng khi sống với họ rồi thì lại tầm thường hoá con người mình yêu?
            “- Cô cứ nói đi.
            “- Chị đã không tôn trọng anh ấy. Xin lỗi chị. Tôi cứ nói thật nhé. Tôi nghe người ta nói: Chị cần tiền hơn cần tình cảm của anh ấy. Nếu không đúng như thế. Chị thứ lỗi cho.
            “- Cô không có lỗi gì. Xin cô cứ hiểu về tôi như thế.
            “- Nghĩa là trong thực tế, chị không yêu anh ấy?
            “- Không, không. Tôi hoàn toàn không giận gì cô. Tôi chỉ thấy nhớ lại và tiếc cái thời sôi nổi, hồn nhiên như cô. Không ngờ mới mươi mười lăm năm đã thành người của thời khác.
            “- Tôi hỏi thật chị nhé. Nếu tôi và anh ấy sống với nhau, tất nhiên là sau khi anh chị ra toà xong xuôi. Chị có định trả thù tôi không?
            “- Bây giờ đang còn được luật pháp công nhận là vợ anh ấy, tôi cũng không hề làm bất cứ việc gì, nói bất cứ câu nào xúc phạm đến cô, huống hồ...
            “- Chị thật lòng như thế chứ?
            “- Cô hỏi như thế cũng đúng. Dăm năm nay biết chuyện quan hệ giữa anh ấy với cô, thật lòng tôi đã căm thù cô. Tôi chỉ muốn thuê người, xin lỗi, đổ a xít vào mặt hoặc lấy dao rạch vài ba vạch ở mặt cho mặt cô không còn ra gì nữa. Nhưng những ngày ấy cô lại ở nước ngoài. Nghĩ bao nhiêu? Căm giận uất ức bao nhiêu, rốt cuộc lại chỉ có mình mình là mất ăn mất ngủ hao gầy đi. Nhà cửa tanh bành, con cái thì hư, học hành chểnh mảng. Hoá ra mất cả chì lẫn chài. Bao nhiêu vụ xảy ra giống như ý định của mình, gần như trăm phần trăm bỏ nhau mà con cái sau này nó cũng nhục.
            “- Tôi vẫn sợ chị dùng lí trí để cố nén. Trong thực chất tình cảm của chị thì...
            “- Thôi đừng hỏi nữa. Cô buồn cười lắm. Cô muốn gì ở tôi nữa? Có cần tôi ra toà xin giải quyết nhanh nhanh lên để cô còn kịp tổ chức không? Tôi sẽ làm giúp cô việc ấy. Thế cô đã yên tâm chưa?
            “- Liệu có một khả năng, xin lỗi chị. Liệu biết rằng không còn khả năng níu kéo anh ấy, chị đã chuẩn bị sẵn một phương án nào đấy nên mới sẵn sàng kí đơn cho anh ấy bỏ và hôm nay chị nói chuyện với tôi bình tĩnh như thế?
            “- Tôi nghĩ là cô cần đạt được mục đích của cô là xong rồi. Cô còn muốn kiểm soát nốt cuộc đời còn lại của tôi nữa hay sao?
            “- Xin chị hiểu cho, tôi cũng là người phụ nữ như chị. Tôi chuẩn bị cho cái giá phải trả nó ghê gớm hơn thế này nhiều. Nhưng đến đây không ngờ sự liều lĩnh của tôi lại đem lại đến kết quả dễ dàng đến nghi ngờ. Những lời nói thành thật của chị đã làm tôi phải nghĩ đến các cháu và cuộc sống của chị sau khi chia tay với anh ấy.
            “- Cảm ơn cô. Nếu cô đã nói thế, tôi xin nói thật là, tôi có phương án đấy. Tôi đã ngồi rất nhiều đêm để tìm cách nào cho ba mẹ con vẫn sống được và các cháu phải tiếp tục đi học. Tôi cũng tự nghĩ là không còn mình nữa. Chỉ có các cháu nên đã phải cắn răng lại chịu đựng mọi nỗi đau đớn uất giận để xử sự với anh ấy yên thấm. Anh ấy không bị căng thẳng ức chế, sẽ dịu dàng, vui vẻ với các cháu, làm cho các cháu nó đỡ kinh sợ về sự tan vỡ của bố mẹ, nó đỡ căm thù người lớn.
            “- Tôi xin phép hỏi chị câu cuối cùng. Chị đã nói sẵn sàng cùng anh ấy ra toà giục “giải quyết” sớm để giúp tôi. Nếu bây giờ anh ấy về, ta bàn luôn và sáng mai chị và anh ấy đi làm việc đó có được không?
            “- Cô vừa khen tôi thành thật sao lại nghi ngờ tôi dối trá nhanh thế. Cả ông tôi và bố tôi đều là những nhà giáo nghèo sống ở Hà Nội, chúng tôi không biết ăn nói sai ngoa. Cô đừng sợ. Không cần đợi đến ngày mai đâu. Ngay bây giờ anh ấy về, cô bảo anh ấy. Nếu anh ấy đồng ý, tôi có thể đi ngay. Chỉ yêu cầu cô, đừng bao giờ cô nói với các cháu nhà tôi là tôi đã đi giục toà xé đôi bố mẹ của các cháu ra.
            Cô cháu ngừng lại. Bà sốt ruột hỏi:
            - Rồi thế nào hả cháu?
            - Nói rồi, chị ta chạy vội ra cửa ôm mặt khóc. Một lúc sau anh chồng chị ấy về.
            - Cháu bảo thế nào?
            - Cháu không còn đủ sức để nói gì nữa. Cháu bỏ về. Hai hôm sau cháu yêu cầu anh ấy cùng cháu ra toà rút đơn li hôn với chị ấy.
            - Thế là cháu để phúc lại cho con cho cháu sau này đấy. – Bà kéo chăn vào lòng khen. Cô cháu đanh đá vẫn cay độc trêu bà:
            - Thế bà ăn ở phúc đức cả đời, sao không để phúc cho bố cháu?
            - Kìa cháu. Ai lại ăn nói như thế. Dẫu thế nào cũng phải thương bố, có phận sự với bố như đận vừa rồi cháu vào viện với bố là quý hoá lắm cháu ạ.
            - Thương thì cháu thương ít thôi. Nhưng cháu biết xử sự thế nào cho nó đúng nghĩa vụ của một đứa con bị bỏ rơi.
            - Chết thật. Sao cháu lại ăn nói như thế.
            - Công bằng mà nói, cũng nhờ cái danh của bố cháu, người ta cũng đỡ “diệt” cháu về tội ăn nói bạt mạng, sinh hoạt bừa bãi. Nên cháu cũng phải trả công bố cháu.
            - Ai lại tính như tính công thuê thợ ấy hả cháu?
            - Như bà thì không bao giờ cháu hoặc bất cứ ai dám nghĩ thế. Nhưng bố cháu làm việc gì cho bà, cho mẹ cháu và cho cháu đều có tính cả đấy bà ạ.
            - Giời ơi, cháu ơi. Nói thế phải tội chết. Thôi đừng bao giờ nói bố cháu thế nữa. Bây giờ bà hỏi: Nhà này của cháu hay ở nhờ.
            - Bà ơi. Thời buổi này lại có nhà, cho người khác ở nhờ? Cháu mua đấy. Ba “que” đấy bà ạ.
            - Que, cọc là cái gì bà biết thế nào được. Bà chỉ nghĩ cháu đi học làm gì có tiền.
            - Cháu đi buôn là chủ yếu, học hành là mấy.
            - Chết, chết...
            - Bà đừng lo. Cháu bảo vệ “bằng đỏ” cơ đấy.
            - Ừ, bằng gì là tuỳ cháu. Bà chỉ dặn, đừng làm gì ảnh hưởng đến “vi tín” của bố để bố còn làm việc cháu ạ.
            - Cháu chỉ không dám làm việc gì quá đáng vì cháu sợ bà buồn. Còn bố cháu ạ? À mà thôi, ngủ đi bà nhé. Kệ bố cháu.
            Cứ bốp chát vậy mà, hơn ba tháng sau, bố đi nghỉ mát ở nước ngoài, cô lại viết thư dặn dò cô bạn, nói đúng ra là “đứa em” mới quen hiện đang học ở nơi bố sẽ đến. Sau này khi biết quan hệ của “em” và bố, cô rất đột ngột và giận nó. Nhưng vì mụ dì ghẻ, vẫn quý nó là con bạn tốt, hồn nhiên nên cô bảo: Cứ để thế cho nó vui. Sự đời không có “cái nọ, cái kia” vênh váo, khập khiễng thì buồn chết đi được.
            #21
              conbo2 04.04.2006 09:52:30 (permalink)
              *
              * *

              Thực ra, sau khi bị cảm, anh chỉ cần điều dưỡng và nghỉ ngơi mười lăm ngày. Anh cũng đã yêu cầu bệnh viện và cấp trên cho anh về. Hàng núi công việc ngổn ngang của một huyện đang “bung ra” chờ người chủ trở về. Tất cả mọi đề nghị của anh đều được chú ý nhưng anh cứ phải nằm bệnh viện một tháng, cứ phải đi an dưỡng trong và ngoài nước vài ba tháng nữa. Cả anh và tổ chức đều ngầm hiểu “phải có thời gian” để anh bình tĩnh lại “trước sự việc tai tiếng” ồn lên cả tỉnh về người vợ của anh. Cả khi gia đình các cơ quan xung quanh tỉnh nhìn vợ anh, họ đều ngượng, thì thào lấm lét như chính họ là kẻ vụng trộm khuất tất. Còn vợ anh thì vênh mặt, không thèm nhìn ai. Sự đời thế đấy. Vì vậy tổ chức mới phải thu xếp cho ổn thoả. Vừa phải góp ý giải thích tư tưởng cho mọi người, vừa phải có biện pháp quản lí theo dõi xem có hiện tượng gì lạ đối với chị ấy mà có kế hoạch ngăn chặn cho kịp thời. Nói tóm lại, việc này phải giải quyết nội bộ không để anh chị nôn nóng đưa nhau ra toà hoặc có bất cứ hành động nào thiếu cân nhắc.
              Chính những ngày tổ chức cố sức tạo ra cái hạnh phúc “êm đẹp” của gia đình anh, anh lại bùng lên cái ý định đã cố nén lại: Trả thù. Nó giống hệt như đêm chạy ra đầm Cuội không để chết mà để xuất hiện và nuôi dưỡng cái ý chí: Trả thù con vợ phản bội. Chỉ có điều, sự trả thù lần này ở cương vị một anh bí thư huyện uỷ khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều. Làm sao “nó” phải ngậm đắng nuốt cay mà mình lại không ảnh hưởng gì đến “công tác”. Chưa hình dung ra “việc làm” cụ thể, nhưng nhất định không thể để nó sung sướng hơn mình. Từ đấy, mỗi khi nói đến chuyện vợ con, khuôn mặt anh lại rầu rĩ đau khổ lắng nghe sự động viên an ủi của bất cứ ai. Nhưng anh mặc xác tất cả, để tự tìm kiếm ra sự sung sướng hơn hẳn con vợ phản bội của mình. Tuy nhiên, anh chỉ xuất hiện ý nghĩ chiếm đoạt Linh Chi khi đã “tìm được lai lịch” của “cháu”. Những ngày biết tin anh sắp đi an dưỡng ở Liên Xô, con Huyền hỏi: “Bố có biết một người tên là Lăng, ngày trước công tác ở làng ta không bố?” -“Có phải Lăng chột mắt ở Hà Nam không?” -“Con không biết có chột không, ông ta ở huyện Bình Lục bên Nam Hà” -“Sao con lại hỏi thế?” -“Con bạn con nó bảo ngày xưa bố nó ở nhà ông Hiếu, bà Xuyến. Nó vẫn đang học ở bên ấy” -“À, à... ừ... ừ. Thế thì ông ta là bạn của bố. Con có thể viết thư giới thiệu bố với nó được không? Nếu được gặp nó, bố đỡ bỡ ngỡ trong hoàn cảnh...”.
              Với một tình yêu “dối già”, anh quyết chí cùng một lúc trả thù được hai con vợ ngoại tình của mình. Cô bé đọc thư chị kết nghĩa và theo cái địa chỉ ngoài phong bì cô tìm đến chỗ chú ở. Dù đã có thói quen phóng túng của một lưu học sinh, ở Đông Âu, cô vẫn giữ được sự lễ phép kính nể của một đứa con dành cho cha. Lần đầu tiên ôm hoa đến tặng chú, và ngủ lại chỗ chú một đêm kể chuyện cho chú nghe rất “vô tư” và chú coi cô như một đứa con. Nhưng cớ sao chỉ một tuần sau cô đến, chú đã “có chuyện” với cô? Lần này cháu mang áo khoác, mũ lông, khăn quàng và giày đến cho chú “chống tuyết”. Hai chú cháu đi xem phim, đi xếp hàng mua nồi áp suất và phích “lưỡng tính” rồi đóng kín các cửa nấu cơm Việt Nam để hơi khỏi lọt ra ngoài. Tất cả đều diễn ra rất hồn nhiên đầm ấm như hai bố con. Đến khi cháu ra về chú đứng lặng, hai mắt như muốn nuốt chửng lấy cháu. Mặt cháu đỏ dậy lên, phải hơi quay đi nói lí nhí:
              - Thôi cháu xin phép chú, cháu về.
              Bất thình lình chú nhoài lại ôm ghì lấy cháu hôn như đớp vào khuôn mặt của cháu đang oằn đi vì giẫy giụa. Cháu cố sức gạt chú ra, nổi khùng.
              - Từ lần sau cháu không đến nữa. Tại sao chú lại có thể như thế. Chào chú. Cháu về đây.
              - Đứng lại một phút, chỉ xin một phút để tôi được quỳ xuống chân xin lỗi Linh Chi.
              Rồi chú quỳ hai gối xuống, khuôn mặt ủ rũ gục xuống chân cháu nói như khóc rằng không ngờ trong lúc mê muội về quá đau đớn vì nỗi mất mát suốt cả đời như thư Huyền đã kể cho Linh Chi vì sao tôi phải đi cấp cứu và tôi đã kể cho Chi nghe trong lúc nấu cơm, khi đi giữa trời tuyết trắng nơi đất khách quê người. Những con vợ nó ác quá. Cuộc đời độc địa, tàn nhẫn quá. Tưởng đã phải chết nhiều lần rồi. Mấy lần định tự tử nhưng nghĩ đến mẹ già, nghĩ đến Huyền chưa dám chết. Chưa thể chết được. Nhưng mà sống cũng như chết. Một cuộc đời rách nát như cái giẻ lau xe đạp đến đây lại gặp được Linh Chi mới được sưởi ấm cái tình của con người, mới như sống lại, mới nhận thấy ở con người Linh Chi toát ra một cái gì hết sức lớn lao hơn cả tình mẹ với con, hơn cả những bạn bè chí cốt có thể chết cho nhau, hơn cả tình yêu lớn, trời đất đã phú cho con người.
              -...
              - Vì thế. Không ngờ... vì thế... tôi không ngờ rằng mình đã mê muội đi như kẻ mất hết hồn vía để cho Linh Chi khinh bỉ, chỉ muốn phỉ nhổ vào mặt tôi mà chạy trốn. Tôi chỉ xin Linh Chi rộng lòng tha thứ cho tôi rồi Linh Chi về đi. Linh Chi đi ngay ra khỏi đây đi.
              - Chú làm sao thế? Chú đuổi cháu đấy à?
              - Vâng. Bây giờ tôi phải mời Linh Chi đi ngay để tôi... Anh vớ lấy con dao để ở mặt bàn. Linh Chi vội giữ lấy tay anh.
              - Một kẻ bị khinh bỉ, một kẻ sống thêm ở đời này chỉ như một cái ống nhổ để người ta nhổ vào mặt mình, thì sống làm gì nữa. Linh Chi cứ kệ tôi.
              - Chú đi mặc thêm áo ấm, quàng khăn, không có cảm lạnh.
              - Linh Chi kệ tôi. Không còn cần thiết gì lúc này nữa.
              - Không được.
              Cô bỏ đi và lấy áo và khăn quàng cho chú. Còn chú thì lấy bút dạ viết vào giấy để ở mặt bàn: “Cái chết này do chính tôi tạo ra xin đừng nghi ngờ điều gì”. Ngày 23 tháng 11 năm... Lưu Minh Hiếu”. Rồi chú cứ phong phanh áo sơ mi mở cửa đi ra ngoài. Linh Chi quay ra đọc mấy chữ đó rồi nhào ra hành lang đứng chặn lối chú vào thang máy.
              - Tại sao chú lại định liều lĩnh như thế?
              - Xin đừng hỏi tôi điều gì nữa.
              - Tại cháu thì cháu xin lỗi. Từ tuần sau cháu sẽ không đến để làm khổ chú.
              - Từ mai tôi cũng không cần biết Linh Chi có đến nữa không? Chỉ xin Linh Chi coi như không biết bất cứ một điều gì xảy ra với tôi... Bây giờ Linh Chi xuống phòng thường trực lấy thẻ và hỏi bà ta xem mấy giờ. Hỏi thế cốt cho bà ta nhớ là Linh Chi đã ra khỏi đây lúc 17 giờ. Sau đó mọi việc mới xảy ra.
              - Chú đừng nói nữa. Ghê ghê là. Cháu bảo nhá. Chú có nghe cháu không?
              - Linh Chi cứ nói đi.
              - Bây giờ chú khoác áo và quàng khăn vào rồi quay lại phòng.
              - Để làm gì.
              - Để chú không được nghĩ đến những chuyện vớ vẩn nữa.
              - Nhưng tôi cũng không thể tiếp tục sự nhục nhã, bơ vơ ở nơi lạnh lẽo này.
              - Cháu sẽ đến thăm chú.
              - Để lại nhìn thấy sự khinh bỉ coi thường.
              - Đã bảo chú đừng nghĩ vớ vẩn nữa. Thôi quay lại phòng đi. Người chú lạnh toát đi rồi. Không khéo lại ốm đấy.
              Hai người trở lại phòng. Linh Chi khoác áo ấm, quàng khăn cho chú rồi bắt chú vào giường nằm nghỉ và không được nghĩ ngợi gì nữa. Chú lại nắm lấy tay cháu, hai mắt nhìn như chườm lửa vào mắt cháu. Cháu lại phải hơi cúi nói li nhí:
              - Cháu về nhá.
              - Cho tôi được hôn Linh Chi một lần thôi.
              Vừa nói, chú vừa ôm lấy người Linh Chi hôn ráo riết lên khắp người. Lần này thì cô gái chiều chú rồi quay mặt đi cười.
              - Thôi nhé, cháu về đây.
              - Linh Chi có hứa ngày mai đến với tôi không?
              - Có.
              - Không có bất cứ một lí do gì để sai hẹn?
              - Nhưng... Chú phải hứa... đây làm lần cuối cùng...
              - Xin hứa... Linh Chi cho tôi được hôn lần cuối cùng.
              Cặp môi cười cười của cô chờ đợi, chiều chuộng như là sự ban phát, như là cho qua đi cái phút không bình thường, trong hoàn cảnh không bình thường này để nhanh chóng ra về. Chú không những chỉ hôn nồng nàn như nhai ngấu nghiến cả hai làn môi cô, còn nhanh chóng luồn tay vào khuôn ngực bừng cháy rừng rực và ôm xiết chặt làm cô đến ngạt thở làm cho cô hốt hoảng kêu: “Thôi, thôi. Đừng đừng”. Nhưng cô gái 25 tuổi đã từng nếm trải những ngọt bùi, cay đắng của những mối tình không dẫn đến kết quả và hiện đang là người cô đơn thì sức chống đỡ không thể nào hung hăng quyết liệt như lần đầu tiên gặp gỡ người đàn ông. Vả lại, cái tình cảm chú cháu thiêng liêng đã trở nên nham nhở, sàm sỡ ở một ông chú vừa thèm khát tình yêu, vừa nuôi chí căm hờn lớn, với tất cả mọi thủ đoạn, mẹo mực, quyết giành lấy thắng lợi bất cứ một giá nào thì việc chống đỡ cũng là vô cùng khó khăn. Đã không kháng cự nổi cái sự “lấn chiếm” ban đầu thì không có sức nào chống đỡ nổi những lần sau. Đã không kiên quyết tiêu diệt ý định mới nhen nhóm trong người đàn ông sẽ không thể nào yên ổn. Nếu cứ để niềm hi vọng của họ về mình như những nọc độc của con rắn sau mùa đông thì nó sẽ cắn chết mình lúc nào không thể biết. Tóm lại, một cô gái từng va chạm, lại thừa thãi sức lực như Linh Chi thì việc dẫn đến cuộc tình như một người vợ thứ ba của chú “Hiếu” là hoàn toàn lô gíc. Từ lúc chiều chuộng một cái hôn cho đến cuộc tình chí cốt làm nhục mạ bố mình vốn là kẻ tình địch của “chú Hiếu” hoàn toàn dễ hiểu.
              Linh Chi về nước sau “chú” năm tháng. Cô được nhận ngay làm phiên dịch cho đoàn chuyên gia thuỷ lợi của tỉnh, mà chú là phó chủ tịch phụ trách công trình quai đê. Vì “công việc” quá nhiều cô chia tay luôn người yêu về nước trước cô một năm. Đã bán hết nồi hầm, phích đá, mai so, bàn là, ca cao, sữa hộp mà anh ta vẫn chưa có việc làm. Nhưng đứng trước đám đông, bao giờ “chú” Hiếu cũng giới thiệu “lai lịch” và hết lời khen ngợi người chồng sắp cưới của cháu. Khi vỡ đê do làm ẩu và tham ô, thiếu trách nhiệm làm thiệt hại hàng tỉ đồng, chú về Trung ương “xơi nước”, cháu cũng về nghỉ với chị Huyền ở Hà Nội. Mấy tháng sau, chú được làm vụ trưởng vụ đối ngoại của một bộ, “cháu” về làm nhân viên của “chú”. Ngay sau khi mới ổn định công tác chú đã bảo: “thu xếp, lúc nào chúng mình về quê thăm bố”. Linh Chi rất thích như thế. ấy vậy, phải gần một năm sau mới “hở” ra được một ngày để về quê Linh Chi. Ô tô qua ga Đồng Văn thì xuống. Mỗi người xách một quai chiếc túi du lịch “dung giăng” theo bờ mương ra phía đê sông Hồng. Mới hơn tám giờ. Nắng óng ánh ở những vạt lúa dưới chân đê, nơi tận cùng của dòng mương sáng như mặt gương, cạnh lối đi của hai người. Một già, một trẻ nhưng là “cái tuổi” đang yêu nên họ cùng nhỏng nhảnh như nhau. Chỉ có điều, ở cô con gái cười nói oặt oẹo, lả lơi. Còn “ông” con giai thì nói bằng đôi mắt đĩ ngầm. Đứng giữa cánh đồng vắng vẻ chỉ có lúa xanh ngăn ngắt, “ông” người yêu hôn đánh chụt vào môi cô gái, như thằng ăn cướp giật. Cô gái cười, nhìn người yêu đắm đuối.
              - Về đến nhà phải “chú cháu” nghiêm chỉnh nghe chưa?
              - Rồi. Nhưng tuyệt đối không được gọi tên thật của anh đấy.
              - Cứ gọi. Không thì gọi bằng gì. Chả nhẽ gọi “anh dề” ơi à?
              - Cứ thủ trưởng mà gọi. Lúc giới thiệu cũng chỉ cần nói: Đây là thủ trưởng của con.
              - Nhỡ bảo thủ trưởng ở trên em thì sao?
              - Thì phạt.
              - Cho phạt đấy.
              - Về nhà nhá.
              - Có dám không?
              - Sợ gì?
              - Nhớ nhá. Một tuần nay chắc mụ ấy kèm chặt, “quên” chứ gì?
              - Để dành đến hôm nay đấy.
              - Chắc không?
              - Rồi xem.
              - Xong, nào ngoắc tay.
              Ngôi nhà ba gian cao ráo rộng thoáng, gian đầu hồi đổ mái bằng và “thò” còn hai gian kia lợp ngói “thụt” để một cái hè rộng trải vừa chiếc chiếu đôi. Sân gạch, tường hoa nhưng bể thì không “cạn”. Một vườn cây quang mát, xanh xum xuê những cam, táo, hồng xiêm, na, bưởi... Ngăn cách giữa vườn và lũy tre là ao để thả cá và đến cuối năm thì lấy đất vượt lên vườn cây. Trông cơ ngơi biết ngay một gia đình nông thôn biết làm ăn và có “viện trợ” của bên ngoài, nó thật sự trở thành một gia đình “VAC” kiểu mẫu hiện nay ở nông thôn. Hai người đi vào cảnh tĩnh mịch yên ả, gợi cho họ cảm giác thư thái. Cô gái gọi: “Thầy ơi, u ơi”. Chưa dứt câu đã có tiếng đáp lại âu yếm:
              - Linh Chi về hả con?
              Từ góc vườn, dưới gốc cây cam sành, một người đàn ông gầy đen, trông như lùn xuống, không hề ăn nhập gì với khả năng tổ chức và thẩm mĩ chứng tỏ ông ta là người chủ của ngôi nhà và vườn cây này. Nhưng chính là ông ta, người đã “vẽ” ra một “bức tranh” rất hài hoà và sinh động, khác xa cái thẩm mĩ loè loẹt rắc rối một cách rẻ tiền ở các nhà có của, học làm sang vẫn thường thấy ở thôn quê. Nghe con gái giới thiệu “thủ trưởng”, ông luống cuống đập hai bàn tay lấm đất vào nhau rồi đưa cánh tay cho “thủ trưởng” nắm và một bên mắt chột của ông nhướng lên cùng với tiếng xuýt xoa:
              - Quý hoá quá. Xin mời thủ trưởng. Vâng. Báo cáo thủ trưởng. Dạ thưa. Để xin mời thủ trưởng vào nhà. Nếu không có cái mắt chột và tiếng “bố” thoát ra từ Linh Chi thì anh không thể nào nhận ra con người oai phong lẫm liệt rất tài hoa xưa kia. Nhìn kĩ mới nhận ra ông, nhưng một con người hôm nay đã tóp lại bé bỏng, chỉ hơn Hiếu dăm bảy tuổi mà trông như đã gần bảy mươi. Nhìn dáng người và phong cách ăn nói của ông, Hiếu thoáng một nỗi buồn về kiếp người ngắn ngủi. Mới thế đã tiều tuỵ, dụi dọ, dù là người có của, có trình độ mà “rúc” mãi ở “một xó” cũng thành dị mọ, lúi xùi như “người rừng” trước con mắt nhìn “nhân loại” của anh. Cái thoáng chốc ngậm ngùi chưa đủ làm dịu đi nỗi nhục của một con chó ra khỏi bờ giậu nhà mình. Đêm đó cái kẻ nhục nhã ấy chưa thể đâm đầu xuống đầm Cuội chết chỉ vì... “Nếu không giết được mày...” Rồi anh chưa giết hắn là chỉ vì ngày ấy những vinh quang đem đến dồn dập, những háo hức đang mở ra thênh thang. Từ ngày ấy chưa lần nào sa xuống vực sâu, chưa có con đường cụt trước mắt, nghĩa là từ ngày ấy đời anh chưa có chỗ tận cùng, nói đúng ra Lăng đã “mở mắt” cho anh để tìm ra cái lối đi, không có chỗ tận cùng. Đã không là con đường cùng thì không thể đánh đổi bất cứ một cái gì để chỉ lấy sự thoả mãn là trả thù một kẻ yếu hơn mình. Nhưng kẻ tiểu nhân bao giờ cũng phải nuôi hận lớn. Chỉ có điều, cái hận ấy trả bằng cách nào, vào lúc nào thì phải tính toán. Mình đang có rất nhiều cơ hội để tính toán, việc gì phải vội vàng. ý thức về sức mạnh hoàn toàn thuộc về mình, công việc “rửa hận” của Hiếu như một trò chơi, anh cứ nhẩn nha cười cợt vui vẻ đút tay vào túi quần hút thuốc lá trước sự cung kính của người cha cô “bồ nhí” rất “cốm” của anh. Chủ nhà múc nước giếng lên rửa mặt và chân tay. Dù bể nước mưa hàng chục khối nước, có vòi như máy nước ở thành phố và đang mùa mưa, nước trong bể có cạn đi hàng khối, sau một trận mưa lại đầy giàn giụa chảy ra ngoài, ông vẫn múc nước giếng tắm giặt rửa ráy. Để nước chảy ra ngoài đỡ tiếc hơn múc nó để dùng, giống như đun lại một siêu nước sôi đã nguội lạnh đỡ tiếc hơn là đổ nó đi để đun siêu nước lã. Ông lên nhà, khom người thả hai ống quần xuống rồi mở cửa, pha nước mời thủ trưởng. uống chưa cạn chén nước ông đã “báo cáo” “xin phép thủ trưởng” để chạy đi tìm bà cháu. Cô con gái gàn:
              - Bố cứ ở nhà, con đi tìm mẹ rồi đi chợ luôn. Mẹ làm ở đồng nào?
              Cô gái chưa nói hết câu đã nhìn thấy đôi mắt của “thủ trưởng” hướng cô vào gian đầu hồi có giường gối và chiếc màn tuyn vẫn mắc, chỉ vắt ngược các cánh màn lên đỉnh. Cô vừa nói vừa đỏ mặt mỉm cười và nói xong cô lại bảo bố:
              - Nhưng làng xóm bây giờ thay đổi nhiều quá. Bố có nói con cũng chả biết chỗ nào mà lần. À, mấy bức điện của Béclin ngày mai về dịch có được không thủ trưởng?
              - Sợ muộn. Lẽ ra cháu phải làm xong trước khi đi.
              - Báo cáo thủ trưởng, cháu có mang theo đây.
              - Thôi để bố cháu đi cho nhanh. Con ở nhà làm việc với thủ trưởng khỏi lỡ việc.
              Cô đưa tiền và dặn bố mua thức ăn luôn. Bố bảo “nhà vẫn còn tiền” nhưng lại cầm tất cả mấy chục tờ năm ngàn con đưa.
              Dù cánh đồng gần hay cánh đồng xa? Dù ông đi thủng thẳng hay chạy hối hả thì Hiếu vẫn “chờ” để khi ông trở về nhất định sẽ nghe thấy tiếng rên hối hả của con gái ông. Qua chấn song cửa sổ không kéo ri đô, nhất định ông sẽ nhìn thấy hai thân thể trần như nhộng đang dồn dập đưa nhau đến tận cùng chỗ... “mả mẹ nhà nó” khiến ông không thể nào kìm giữ nổi sự lịch thiệp, sự vị nể cấp trên của con mình. Ông quát gọi tên con như một tiếng sét:
              - Chi!
              Cô gái vội vàng ẩy người phía trên chồm dậy vơ lấy quần áo chạy vào xó. Thằng đàn ông thì thản nhiên trơ tráo làm mọi việc một cách công khai, từ tốn như không hề có chuyện gì xảy ra. Tiếng chạy uỳnh uỵch, tiếng gậy tre va chan chát vào cửa.
              - Tiên sư nhà mày. Thì ra mày rước giai về làm nhục ông. Chi! Ra ngay! Mày có ra không?
              Cô gái đi ra cửa. Ông bố vác cái gậy vừa giật ở giàn mướp xuống, xô lại phang con gái. Hiếu nắm lấy tay ông khi chiếc gậy chưa chạm đến người yêu.
              - Tôi không ngờ anh là thằng khốn nạn. Thủ thỉ gì nhà mày. Chi. Mày muốn yên muốn lành bước ngay ra khỏi nhà tao.
              - Bố đuổi con hả?
              - Đuổi. Mày bước đi cho khuất mắt tao.
              - Nhà này của bố hả? Bố lấy tiền đâu mà làm đấy?
              - À mày kể công kể nợ hả? Mày gửi cho ông được thùng hàng thì ông chạy vạy, nợ nần bao nhiêu để sắm sửa cho mày đi, mày có biết không? Tiên sư đồ con đĩ ra khỏi đây ngay.
              - Con không đi đã sao?
              - Mày không đi ông chém.
              Ông bỏ gậy đi tìm dao. Hiếu đưa mắt cho người yêu tránh đi và túm lấy tay lão khi lão vừa cầm dao ra khỏi cửa bếp. Lão văng tục ra chửi Hiếu bằng lời lẽ bẩn thỉu.
              Hiếu:
              - Em xách túi ra cổng chờ anh để anh nói chuyện với bố.
              Anh nắm tay lão ghìm con dao xuống:
              - Có một chuyện này tôi sẽ nói với bác, hệ trọng hơn nhiều. Xin bác đợi cho cô ấy đi ra ngõ là tôi nói ngay và tôi tin bác sẽ hiểu ra tất cả mọi điều.
              Lão định kêu nhưng nghe lời nói của Hiếu, lão ghìm lại để cho con gái xách túi đi ra.
              Đợi cô bé đi khuất, Hiếu nói:
              - Ông có biết tôi là ai không?
              - Tao biết mày là thằng lưu manh đểu cáng.
              - Nhìn kĩ đi.
              Cách nói lành lạnh, nghiêm trang của Hiếu làm cho lão rờn rợn. Hiếu kéo lão lên nhà, rồi ngồi vào ghế xa lông đối mặt, Hiếu bảo:
              - Đã nhận ra ai chưa? Khó hả? Một mắt chắc khó nhìn ra hả?
              - Mày đừng thối mồm rủa ông. Có chết ngay ông cũng không thể tha tội mày đã làm hại con gái ông. Ông sẽ kêu làng nước để người ta đến gô cổ mày lại.
              - Mày muốn thế cũng được. Nhưng trước khi kêu la phải ngồi im để tao nói cho mày mở mắt ra đã. Tao biết mày không thể nhận ra tao nên tao đành phải nói cho nhanh để con gái mày khỏi chờ lâu. Tao là Hiếu đây, Lưu Minh Hiếu làng Cuội, chồng của con Xuyến đây.
              Lão Lăng há mồm kinh ngạc. Lão bắp bắp:
              - Cô ấy... chết rồi... ồi...
              - Chính mày là thủ phạm đấy.
              - Tôi?
              - Mày còn nhớ trước ngày bắn ông Kiêm không? Còn nhớ trước khi ra miếu Cuội bồi dưỡng khổ chủ, mày và cô ấy làm gì ở cái lều của tao để cô ấy kêu: “Đội ơi cho em chết nữa đi”. Còn nhớ không?
              Mặt lão Lăng dại đi, cắt không ra hạt máu. Hai tay lão bấu vào thành ghế như để khỏi giật bắn người lên.
              - Mấy chục năm nay tao vẫn nhớ và tâm niệm thế nào cũng có dịp gặp lại “nói chuyện” với mày. Lẽ ra mày phải cảm ơn con gái của mày. Từ khi gặp nó, tao mới tha tội chết cho mày. Công bằng mà nói, mày cũng có công dạy tao làm người, nói chính xác là mày đã dạy tao cái ý thức ăn thịt người có bài bản chứ không thể bột phát, manh động. Tao đã không thể chết trong cái đêm ấy, tức là tao đã phải tìm được cách sống của một “cốt cán” như mày đã bồi dưỡng cho tao. Nhờ những cái đó mày vừa được nhẹ tội, vừa là bố của một cô cán bộ quan hệ quốc tế của một bộ. Mày còn muốn gì? Hôm nay “xong việc” với con gái mày, đáng lẽ tao dùng vợ mày luôn. Nhưng trông mày còn nhem nhếch thế này, vợ mày còn cóc cáy hơn cả mày, tao giây vào bẩn người tao ra. Đấy là phần cao thượng, phần nhân đạo của tao đối với mày, hiểu chưa? Tao cũng không thèm nói ra mọi điều với vợ con mày để phá tan tành gia đình của mày. Tao làm như thế, con gái mày nó kinh tởm mày. Nó cũng sợ cả tao. Mà tao thì còn muốn sống lâu dài không chính thức với con gái mày. Đấy là điều tao muốn nói để mày liệu cư xử như thế nào khỏi lộ cái mặt nhơ bẩn của mày mà cũng không hỏng việc của tao, hiểu chưa? Đồ ngu. Cứ mỗi lần hình dung đến cái mắt chột của mày máu trong người tao lại sôi lên. Tao chỉ muốn băm vằm mày ra. Tao ngủ với con gái mày thì mày lồng lộn lên. Còn mày ngủ với vợ tao thì tao lại phải bò như chó chạy đi xa kẻo mày biết. Chà! Ngày ấy! Lăng! Ngửa mặt lên nhìn tao đi.
              Hiếu đứng dậy, Lăng phải ngửa mặt nhìn hắn, run rẩy chờ đợi. Hiếu nói thanh thản:
              - Bây giờ tao chỉ nhổ vào cái mặt chột của mày. Chứ không thèm đánh mày.
              Hiếu nhổ toẹt một bãi nước bọt vào cái mặt chột của lão Lăng rồi quay ra.
              - Thôi tao đi. Hãy nhớ lấy lời tao dạy dỗ.
              Linh Chi đã ra đến đường nhựa. Trên đường ra bến ô tô Hiếu bảo mọi việc “bố” đều thông cảm cả. Bố thấy ân hận, rất muốn chúng mình ở lại ăn cơm khỏi mẹ về lại thắc mắc.
              Linh Chi đã khóc. Đã lặng thinh, dỗi.
              - Tất cả tại anh đấy. Lúc nào cũng “tranh thủ” vội vội vàng vàng.
              Hiếu cười hiền lành thú nhận. Cũng cái thời điểm này lão Lăng vẫn ngồi như trời trồng ở ghế xa lông. Một bên nước bọt của Hiếu và một bên nước mắt của lão cùng chảy xuống hai bên má. Không hiểu vì uất giận quá hay vì không thể ngờ cuộc đời này lại có ngay cái luật “bù trừ” trừng phạt lão, khiến lão không thể nhúc nhích. Đến khi vợ lão tất tưởi xách gà, đậu, thịt và các thứ về, không thấy con và thủ trưởng của nó, mụ dồn hỏi “tại sao”, lão mới quát lên: “Đẻ ra nó mà không giữ được nó, để nó bỏ đi với thằng thủ trưởng của nó thì tôi khổ sở chứ tại, tại cái gì”.
              - Chắc là công việc cấp kíp nó mới phải đi. Nhất là mình đi theo phục vụ cho thủ trưởng là quan trọng chứ ăn uống là cái gì. Thôi để đến dịp khác bảo con nó mời thủ trưởng.
              Đột nhiên ông quát:
              - Câm mồm đi.
              Rồi ông bỏ vào giường nằm. Cái giường lúc nãy ông nhìn vào qua chấn song cửa, không kéo ri đô.
              #22
                conbo2 04.04.2006 09:54:19 (permalink)
                *
                * *

                Linh Chi trở lại làng Cuội ngay đêm đó. Những công việc Hiếu giao, cô chỉ cần phôn đi các nơi và giao cho chú “em” của anh Hiếu, một nhân viên của Vụ có trách nhiệm thúc đẩy mọi việc đúng theo dự kiến. Hầu như không có gì trục trặc, cô trở về ngay để anh yên tâm và cũng phải chăm lo cho anh trong lúc căng thẳng.
                Hơn một năm nay, không biết bằng cách nào anh đã làm cho bố cô tuy buồn nhưng không bao giờ nhắc đến chuyện của cô. Còn mẹ thì vẫn chưa biết gì, bà đặc biệt kính nể, quý trọng thủ trưởng. Vì thế cô càng thấy yêu anh nhiều hơn. Dù ngày nào cũng ở cạnh nhau trong buồng làm việc, đi sân bay, ăn tiệc, tiếp khách, thỉnh thoảng lại đưa nhau đi “công tác” dăm bữa nửa tháng mà lúc nào cô cũng thấy chưa đủ. Chỉ có những chuyến công tác nước ngoài, chỉ có thủ trưởng và phiên dịch mới thực sự “hết mình” với anh trong một khung cảnh hoàn toàn tự do. Đã quá. Phải nói tài tổ chức và sự bao dung của anh ấy là tuyệt vời. Các nhân viên của Vụ, bao giờ cũng được ban phát ân huệ bằng những chuyến đi nước ngoài. Dù không vào tiêu chuẩn nào cũng được anh tìm cho một cái “cớ” để đi. Nhưng phải tuyệt đối bí mật. Không thể để cho người ngoài, kể cả bố mẹ, vợ con biết ai đi đâu, làm gì, với ai. Họ sẽ so đọ thiệt hơn, ghen tị, bình phẩm làm mất cái không khí gia đình đầm ấm thương yêu nhau của nội bộ cơ quan. Chẳng hạn, một lần thủ trưởng đi công tác với cháu phiên dịch đều có ba bốn nhân viên mặc com lê xách cặp đến nhà đón thủ trưởng, chào hỏi, chia tay với chị và các cháu rồi mới đến đón cháu phiên dịch. Sau đó những người ăn mặc bảnh choẹ ấy xách cặp túi ra khỏi xe để đi bộ về cơ quan. Linh Chi cũng “chú cháu, con con” với Vụ trưởng và “cô cô cháu cháu” với vợ thủ trưởng rất thành thục, tuyệt vời, không mảy may một kẽ hở nào để cho kẻ khác, kể cả vợ anh nghi ngờ gì mối quan hệ hết sức trong sạch đàng hoàng của anh với cô cháu phiên dịch.
                Đêm nay cô đi cùng xe làm lạnh chở hàng mấy khối đá trở về lúc nửa đêm làm cho vợ Hiếu cũng phải cảm động kêu:
                - Cháu vất vả quá.
                - Việc của gia đình cô chú cũng như việc của bố mẹ cháu. Các anh ở cơ quan khác người ta còn nhiệt tình với cô chú. Cô chỉ anh lái xe và kĩ thuật lạnh – huống hồ cháu là con cháu trong nhà.
                Cái xe lạnh chở đá mà dân chúng đồn nhau là máy ướp xác đã về. Hàng mấy chục xe con của huyện, tỉnh, trung ương chạy đi chạy lại rầm rầm. Cơ man là vòng hoa, vàng hương đến viếng. Tất cả tạo ra cảm giác cái chết của bà lão 80 lại có thể làm cho làng Cuội đang mệt lử, thiếp đi, bỗng chốc chồm dậy chạy lăng xăng, tất tưởi niềm hãnh diện.
                - Giời ơi, không ngờ cuộc đời bà cụ Đất lại hoá sướng.
                - Có con cái làm to vẫn cứ hơn. Cả tổng, cả huyện phải hỏi thăm phúng viếng. Người các nơi đổ về cứ là đông như kiến cỏ.
                - Nghe đâu cả Tây, Tàu cũng về làng Cuội đưa ma bà cụ Đất nhá.
                - Lúc 10 giờ đêm nay làng này đã ai nghe thấy gì chưa? Trên đài người ta nói tin bà cụ Đất chết cho cả nước biết rồi đấy, lâu lắm làng Cuội mới được lên đài. Cũng sướng.
                Hiếu không những cảm được những lời thì thào trong dân chúng, anh còn được các ông già bà cả nắm lấy tay thầm thì:
                - Thôi thì ai tránh nổi cái chết. Ông hết lòng hiếu thảo với bà cụ thế này là để cái phúc lớn về sau đấy.
                - Ông ở xa không biết. Ở nhà chúng tôi vẫn phải dạy dỗ các cháu rằng là phải ngẩng mặt lên mà trông ông Hiếu đấy. Người ta làm lên đến tận “trung ương” vẫn hết lòng phụng dưỡng mẹ già.
                Gặp ai, ở chỗ nào, nói gì anh cũng ngượng ngùng, chắp hai tay như vái người nói làm cho các ông già, bà cả trong làng lại càng thán phục cái đức khiêm nhường của anh. Vì sự ngưỡng mộ quá lớn đối với anh, người ta kéo đến đám ma nghìn nghịt. Suốt mấy ngày này lúc nào cũng chật ních nhà, ngoài sân vườn ra đến tận ngõ, kéo đến tận đường cái. Lúc 10 giờ đêm bác Văn Yến về nhắc Hiếu làm sao đừng để ảnh hưởng đến lao động, công tác và học tập của bà con. Hiếu vội vàng đứng lên nói vào chiếc mi cờ rô không có dây rằng hết sức đa tạ tấm lòng của các cụ, các ông các bà xa gần đã đến chia sẻ nỗi đau đớn không gì bù đắp nổi của gia đình chúng tôi. Bây giờ đã khuya...
                Đấy là cách nhắc nhở khéo để mọi người ra về. Nhưng ngủ cả năm cả đời, lo gì. Có bao giờ làng Cuội được xem đám ma to. Lại nghe có máy ướp xác sắp về, phải xem nó đầu đuôi ra sao. Hàng trăm, hàng nghìn con người ra khỏi nhà đám, “tụm năm túm ba” ở các đường ngang ngõ dọc ở gốc tre hoặc vào uống nước hút thuốc ở nhà ai đó. Người háo hức chờ đợi xem một việc gì đó, người chả chờ, chả thích xem gì nhưng cũng vẫn thấy cả đêm thổn thức không ngủ được. Khoảng 11 giờ đêm tiếng xe nặng ì ì và đèn pha quét loang loáng làm cho cả người lớn trẻ con reo lên như ong vỡ tổ: “Xe ướp xác”. “Xe ướp xác về rồi”. Cả làng, cả xã vùng dậy xô đẩy, chen chúc nhau chạy theo cái xe ướp xác. Nhưng oái oăm thay, xe to quá không vào được trong sân, mà mang quan tài ra để trên xe đá đêm nay, lại là điềm gở. Ông Thống Bứt được sự khích lệ của ông Từ, ông Mỡ đem luật nhà trời ra. Xem xét thì làm như thế độc lắm không ai mang thi hài đi rồi lại mang về nhà. Chả hoá ra nhà có hai người “đi” hay bà lão ấy phải chết hai lần? Lẽ thứ hai là: đêm nay phải thổi kèn thờ, tế vong, và con cháu quây quần quanh bà. Mang bà lão ra đút vào cái xe để con cháu ngồi “suông” phường kèn, phường trống đi ngủ hay chõ ra ngõ mà thổi. “Sống dầu đèn, chết kèn trống”, thử hỏi đêm nay không có tiếng kèn tiếng trống nó sẽ lạnh lẽo thế nào! ấy là chưa kể để bà lão vào cái xe đá thì bằng đưa đi đầy ở nơi sương rơi, tuyết phủ chứ còn gì. Tội tình gì phải đày đoạ bà lão như thế. Cho nên cái xe “ướp xác” thì hiện đại thật, uy tín của Hiếu lớn thật, lại có cả bác Văn Yến nguyên là bí thư tỉnh uỷ ở cạnh mà chịu không sao thuyết phục nổi lí luận đơn giản của ba con nông dân làng Cuội. “Từ xưa đến nay không ai đưa người chết vào chỗ băng giá lạnh lẽo như thế! Bây giờ cũng không được làm như thế. Thế thôi”. Gần nửa đời người vật lộn, giành giật với cuộc sống ở làng này, từ làng này ra đi, đến lúc này Hiếu mới hiểu thế nào là sức mạnh của quần chúng. Rất ngang ngạnh, khó chịu nhưng không bằng cách nào lay chuyển nổi. Dưới ánh điện, những cây đá vô dụng bốc hơi nghi ngút trong xe. Hiếu uất giận vì bao nhiêu công lao và những dự tính bị phá vỡ. Anh quyết định cho đem tất cả ra khỏi xe, đập nhỏ, pha nước chanh, cho vào các ấm nước trà, những nồi chè đậu đen và bà con ai thích cứ lấy thả cửa. Không ngờ, khi những miếng đá đầu tiên bắn toé ra bọn trẻ đã lao vào cướp nhau rau ráu và lật vạt áo lên đựng những miếng khác. Rồi chúng lấy gạch đập, chân đạp. Chen lấn, đè ép xô đẩy giành giật tranh cướp vừa quyết liệt vừa hào hứng. Tiếng cười ré lên cùng với tiếng kêu tục tĩu khoái chí. Những anh chủ xe phải vội vã vần hết hàng chục cây đá lăn xuống đất rồi “đánh xe chạy” ra khỏi vùng “chiến sự”. Sự om sòm ồn ã của đám trẻ con lan tới cả người lớn. Cả làng, cả xã mang rổ rá nồi niêu, xoong chậu chạy ào ào đi “hôi đá” rậm rịch tưng bừng cả đêm. Mỗi cây đá được đập vỡ, hàng trăm người tranh cướp xong để vào rổ và rá, nước chảy tong tong vẫn đứng đợi đập cây khác, lại xô vào. Đợi cho đến khi cướp được miếng đá ở cây cuối cùng thì miếng đá cướp đầu tiên đã thành nước chảy đi, ướt hết quần áo và đám đất dưới chân đã nhão thành bùn nhưng không ai chịu về, ai cũng tiếc của giời, thấy thua thiệt nếu không chờ đợi cướp cho đến tận phút chót. Cướp xong người nào người ấy reo hò, chạy như ma đuổi về nhà kẻo chảy ra nước hết. Cướp được đá về đánh thức nhau dậy. Nhà nào cũng đầy đủ lớn bé già trẻ nhai, mút xuýt xoa thưởng thức của lạ. Tưởng là béo bở gì. Thì ra đá làm bằng máy cũng chỉ như những cục đá rơi xuống trong trận mưa đá tháng ba vừa rồi. Ngày ấy chả ai thèm nhặt lấy một viên, bây giờ lại đi chầu chực tranh cướp nhau mang đá về giấu vào đống quần áo, vào vại ngô giống, đỗ giống để giành. Khi ăn hết phần chung, những đứa trẻ đi tìm của riêng thì không còn. Chúng ngờ vực cãi cọ nhau, bố mẹ mới biết nó đã làm hỏng hết ngô đỗ giống mùa sau. “Nó hại mình rồi. Đ. mẹ nó, thằng con nào sinh ra cái trò này để nó làm hại ông. Khốn nạn cái thân ông rồi”.
                Cái chuyện “hôi đá” còn đang rộn ràng thì ở nhà đám lại xô xát quyết liệt khiến cả xóm cả làng lại ào ạt chạy đi trong những cái tin đồn thổi không biết thực hư.
                - Chị Huyền chết rồi.
                - Chị Huyền hoá điên rồi.
                - Ông Hiếu đánh con toé máu ra nhá.
                - Con bà vợ cả của ông Hiếu bị ngất phải đem đi cấp cứu rồi và.v.v...
                Người ta xúm đen, xúm đỏ ngoài đường còn đông hơn cả lúc xe ướp xác về. Lại thì thào đơm đặt một thành năm, năm thành mười, mù mịt, rối rít. Trong khi ấy Huyền được lôi sang nhà ông cụ Từ. Ở đây vừa không có trẻ con, vừa là chỗ ông Văn Yến nghỉ và ông yêu cầu đem nó đến để còn nghe xem chuyện gì dẫn đến sự liều lĩnh của nó. Phải đến một tiểu đội dân quân tin cẩn do Nạc trực tiếp lựa chọn canh gác thật nghiêm chỉnh quanh nhà ông Từ. Người ta cũng theo lệnh của cụ Văn Yến, kéo Hiếu sang nhà ông Mỡ để anh trấn tĩnh lại.
                Ở nhà đám, Nạc ra lệnh cho trống cái, thanh la, não bạt, chũm chọe, nổi lên át tiếng ồn ã và nơi đặt thi hài người cô ruột của anh đỡ bị trống trải, gượng gạo. Sau trống tế là kèn thờ. Sau kèn thờ là kèn tây của xóm đạo bên Ngoại Trung. Tất cả đều cho bắt vào mi cờ rô, phát ra chiếc loa thùng năm mươi oắt đã được đem ra đặt trên bàn ở đầu ngõ, quay ra đường cái. Hai tốp phường kèn, phường trống ở hai thôn nguyên là đội hiếu được “quân sự hoá” trước kia do Nạc xã đội trưởng chỉ huy nay đi làm “kế hoạch ba”. Họ rất chểnh mảng trong nhiệm vụ, nói đúng ra, “đội hiếu” chỉ còn cái tên, sự hò hét của Nạc hoàn toàn vô giá trị nếu không có nhiều tiền. Người chỉ huy còn chút uy tín khiến họ phải vị nể hiện nay là thống Bứt. Riêng hôm nay, trước đám tang lớn của mẹ ông Hiếu, họ tự nguyện theo thống Bứt đến “phục vụ”. Cả các đội bát âm và đội kèn đồng xóm đạo của Ngoại Trung cũng xin đến “giúp vui”. Tất cả đều thống nhất một đầu mối do anh Nạc “chỉ huy”. Đến ba giờ sáng mới có “sự cố”. Khoảng thời gian trước đó Nạc đã “chỉ huy” được tiếng “ò í e” tấu lên nỗi đau đớn chia lìa rước cho tiếng khóc của họ hàng con cháu thêm thảm thiết bi ai. Nhưng ngồi bên đám phường kèn gục đầu xuống, nhắm mắt lại, nghiêng tai ra phía quan tài. Nạc nghe dến dăm sáu loại khóc. Có loại khóc như là khóc “ngoại giao” thì lên bổng xuống trầm chỉ thấy “ới... hờ... hợ” nghe nhạt hoét. Loại khóc vì không thể không khóc nghe đều đều khô khốc. Khóc cốt cho phải đạo. Còn loại khóc “cạnh khoé” cốt rỉa rói người sống. Nhưng sợ nhất loại khóc giả. Anh còn lạ quái gì con Hiền vợ thằng Hiếu. Nó khóc:
                - Ới mẹ ơi, mẹ chết đi con biết lấy ai mà dạy bảo cho con biết làm người mẹ ơi... hơ hơ hợ hợ.
                Nghe nó khóc cứ thấy sường sượng ở mặt mình. Còn loại khóc như vợ anh thì kể lể con cà con kê, kiểu khóc như trình bày với uỷ ban:
                - Ới cô ơi, vừa mới tháng trước đây thôi, cháu lên Hà Nội cháu gặp được cô, cháu có bảo cô rằng khi nào cô về nhà dăm bữa nửa tháng để bà con làng xóm cùng anh em con cháu đỡ nhớ cô ngày nào đi làm hợp tác ai cũng bảo rằng, dạo này bà lão ở đâu không thấy về chơi với bà con thì cô bảo rằng là cháu ơi, cô còn phải trông nom cơm nước giặt giũ cho các cháu nó học đến khi nào cháu nó nghỉ hè rồi bà cháu mang nhau về chơi thăm hỏi bà con, thế mà các cháu cô về đây rồi cô lại nỡ bỏ con bỏ cháu cô đi đâu cô ơi là cô ơi!
                Rồi đến bà hàng xóm, con đi tây về chưa có việc làm thì khóc: ới chị Đất ơi! Từ thuở chị còn mẹ goá con côi nơi đất khách quê người, mới trở về chị em mình đã đùm bọc cho nhau khi tối lửa tắt đèn, lúc mưa to gió lớn chị vẫn bảo em rằng không bao giờ tôi quên ơn cô, chuyện công tác của các cháu chị sẽ nhờ người lo cho, thế mà bây giờ chị đã bỏ em chị đi. Chị bỏ các cháu bơ vơ chị ơi...ờ... ờ...
                Lại có loại khóc như bị “lây” người khác, nước mắt tự nhiên cứ ứa ra như bà cụ bên kia sông, ông Thống Bứt và bác Văn Yến... Không nghe thấy tiếng khóc bao giờ mà chốc chốc Nạc lại thấy những người ấy quay đi lau nước mắt.
                Riêng con Huyền thì từ lúc về đến giờ chỉ kêu gióng một: “ới bà ơi, bà ơi” “ới bà ơi, bà ơi” Cho đến tối nay thì người nó lả đi, giọng khàn lại. Nó ngả đầu vào lòng vợ anh giáo Bình, thầy dạy cũ của nó. Tiếng nó thở dốc nghe cứ “hờ... hờ... hợ”. Nạc và cả họ không ai biết họ quen với gia đình này từ bao giờ, chỉ thấy cả hai vợ chồng và hai đứa con mang vàng, hoa và bức trướng về viếng rồi xin phép được chịu tang cụ. Từ khi về, không lúc nào vợ anh giáo rời khỏi con Huyền. Cứ mỗi lần con Huyền gào bà, nước mắt cô ta lại rào ra, cứ như là tiếng kêu quằn quại là của con Huyền, còn nước mắt là cô ta, để rồi hai chị em lại lả đi, phải tựa vào nhau. Những lần anh chồng pha nước cam cho cả hai người, cô đều dỗ cho Huyền uống, còn phần mình, cô đưa cho thằng con nhỏ. Cô bảo:
                - Phải cố nén lại Huyền ơi. Em yếu lắm rồi. Tựa vào chị, em chợp mắt đi. Còn ngày mai, ngày kia...
                Không hiểu nghe lời chị hay mệt quá con Huyền nằm thiếp từ lúc quá nửa đêm. Chừng mười lăm phút sau, lúc chỉ còn vài tiếng khóc “xã giao”, tiếng khóc giả vờ nghe bơ vơ lạc giữa khuya khoắt bỗng con Huyền nhoài người lên ôm lấy quan tài như ôm lấy bà, không cho bà đi.
                - Ới bà ơi, bà ơi. Ai gian dối, lừa lọc bà? Ai giết bà, bà ơi!
                - Ới bố ơi, bố ơi. Sao bố lại độc ác thế này bố ơi. Giá bố cầm dao giết bà còn hơn bố làm cho bà chết khổ, chết sở thế này bố ơi.
                - Ới ông giời ơi... Bố độc ác quá bố ơi...
                Mọi người còn ngơ ngác không ai biết chuyện gì, Hiếu đã chạy xô lại quát:
                - Câm mồm con ranh.
                - Con không câm.
                “Bốp”
                Một cái tát làm nảy đom đóm mắt. Con bé ôm lấy mặt kêu:
                - Ới bà ơi. Bố con giết bà rồi. Bây giờ lại định giết con.
                Hiếu xông vào túm tóc, lật mặt con gái lên tát. Nhưng tiếng kêu càng to hơn, càng làm cho mọi người hoảng sợ vì “bố giết bà”. Nạc hò hét mọi người cùng anh xô lại lôi mỗi bố con đi một nơi rồi ra hiệu cho phường kèn, phường bát âm, đội kèn đồng, trống, thanh la nổi lên truyền qua loa làm cho cả làng, cả xã sửng sốt không hiểu vì sao kèn trống đám mẹ ông Hiếu lại bát nháo không ra thể thống gì, làm náo loạn lúc giữa đêm như thế này.
                Ông Văn Yến ngồi dậy ngay từ khi tiếng kêu “Bố giết bà, giết con” và mọi người chạy rầm rập về chỗ ấy. Ông rất muốn biết việc gì đã xảy ra, nhưng thói quen của ông không bao giờ xuất hiện chỗ đám đông xa lạ nhốn nháo. Cần dẹp, cần giải tán và xử lí họ, ông ra lệnh cho người khác. Còn ông, nếu trong số họ có ai giáp mặt thì chỉ thấy ông tươi cười, dịu dàng như không hề biết chuyện gì. Ông là con người đức độ, nhân từ không bao giờ muốn làm việc gì trái với nhân tâm. Nhưng vì ông phải làm việc. Cái công việc buộc ông phải “lạnh” đi, phải đối phó với mọi tình huống phức tạp nên nhiều khi phải có bộ mặt “giả vờ” không đúng với tình cảm và ý nghĩ của mình. Ngay việc ông về đây đêm nay và sẵn sàng ở lại dự đám tang cũng vì tình nghĩa sâu nặng với một người bạn, một cán bộ lớp đàn em đã khuất trong sự sai sót đáng tiếc. Ông cũng trân trọng sự long đong vất vả, hi sinh đến tận cùng của người vợ anh ấy. Sự quan tâm đặc biệt của ông đối với Hiếu là biểu hiện tình cảm hết sức thành thật của ông. Dù dăm bảy năm nay về trung ương giữ trọng trách khác, ông vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp và bao dung, che chở cho Hiếu. Đến lúc này ông lại không thể nào ngờ khi đọc lá thư “tổng” Lỡi gửi cho con Huyền và câu chuyện ông đang nghe kể, nói nghiêm trọng đến thế. Khắp người ông như tê dại đi, đau đớn quá. Nó độc ác và man rợ quá, khiến ông phải tự hỏi: Nó là gì, ở đâu ra? Ông đang ở trong nhà ông Từ làng Cuội vào những năm chín mươi này hay lạc giữa thời hoang dã, giữa nanh vuốt của những bầy thú hung dữ nào?
                Hiếu gọi điện thoại cho bố. Từ khi 13, 14 tuổi anh đã nhìn thấy lão ta cúi rạp người chui vào cái lều lá mía làm thân với anh nhưng anh không thèm bắt chuyện với lão huống hồ bây giờ. Anh cũng không thể chấp nhận cuộc sống “quay” đến chóng mặt, làm mửa mật mới giữ được việc làm ở các nước tư bản, anh đã đặt chân đến. Sự văn minh của nền khoa học thực nghiệm, biến con người thành những vật chất biết nói, sống căng cứng trong một cơ chế tinh vi hết sức lạnh lẽo dửng dưng với con người. Biến tình cảm con người thành những hiệu quả có thể sờ nắn được, tính đếm lỗ lãi được. Dẫu một con người thủ đoạn và mưu mẹo “rách giời rơi xuống” như anh vẫn thèm cái tình người chan chứa quê hương. Cứ ở nơi “thừa” tình người mà không thiếu đô la để tiêu xài là tuyệt đỉnh. Đến như anh, đi nước ngoài như đi chợ, giàu gấp trăm lần kẻ khác vẫn cứ thấy hao háo đồng đô la như con vợ trẻ trung, hay đi ngoại tình của anh lúc nào cũng hao háo đàn ông. Anh cần lão ta là cần cái thiếu. Dại dột gì lại cần ở lão cái mình “thừa”. Tìm kiếm hàng chục lần qua các chuyến đi mới dò được địa chỉ. Anh gọi điện thoại cho lão. Gọi nhờ người nước ngoài. Nếu bỏ tiền để gọi điện thoại làm sao có thể nói được dài dòng thoải mái. Bằng không, bắt được liên lạc rồi mình phải bỏ máy xuống, để lão ta gọi lại. Lão bảo lão mừng rỡ không sao kể xiết. Đã 30 năm nay gặp bất cứ người miền Bắc đi “công tác” lão đều nhờ tìm và hỏi thăm. Nhưng kết quả đem lại là lão vẫn thất vọng và thấp thỏm mong đợi vận may. Không ngờ. Thật không ngờ được. Lão tiếc là anh phải về nước, nếu không, lão sẽ bay đến chỗ “thằng con tuyệt vời của cha”. Lão dặn: khi về bảo mẹ viết thư và gửi ảnh của tất cả gia quyến cho lão. Cần những thứ gì cứ nói hết với lão. Bây giờ lão gửi cho mẹ 500 đô ăn quà sáng. Hai cháu nhỏ mỗi đứa 250 đô. Cháu gái lớn và vợ anh mỗi người một cassette và anh một chiếc cặp và máy ảnh du lịch. Chuyến ấy, ngoài bà mẹ, anh không hé răng nói với ai nửa lời. Nhưng bà mẹ cũng chỉ được anh chia cho “cái tin mừng” và anh đọc cho mà viết lá thư gửi đi.
                - Thôi, chữ mẹ xấu mà chậm chạp lắm. Con cứ viết cho bố.
                - Ông ấy bảo bà viết thư là ý để ông ấy nhận mặt chữ. Chắc ông ta còn “chắc lép” chưa tin.
                Làm như thế lão cũng yên tâm mà anh thì không “liên quan”. Trong thư bà cũng chỉ xưng tôi và “con nó”, “cháu nó” và gửi cho lão bức ảnh hai mẹ con chụp ở nhà bà Nhớn từ những năm 40. Có ai kiểm tra cũng không biết đường nào mà lần. Đề phòng những gì liên quan đến mình. Còn bà lão sắp chết ấy ai người ta thèm để ý.
                “Ông ơi, thôi thì cái tình của tôi đối với ông chả nói làm gì. Đúng là chỉ tội cho thằng con ông. Kể từ khi ở cái nhà ông cho, suốt mất chục năm ròng đến nay được biết người đã chui vào cái lán lá mía “làm lành” với nó chính là bố của nó thì thằng con ông không lúc nào không hỏi lục vấn về bố nó, không lúc nào nó nguôi nhớ bố. Vì thế cho nên nó cứ bắt tôi phải tìm bằng được bố nó cho nó, mà tôi thì biết lần đâu ra được bố nó hả ông? Làm sao mà tôi giả nhời cho nó rằng là có bao giờ con gặp được bố con không mẹ ơi”.
                Bà mẹ cứ cắm như chôn ngòi bút vào trang giấy, bàn tay run lẩy bẩy không viết được những câu anh vừa đọc. Anh gắt:
                - Cứ viết đi. Ai khiến bà phải nghĩ.
                - Nhưng cứ phải nói cái sự thực con ạ.
                - Sự thực là tôi nhớ bố tôi, chứ tôi bảo bà nhớ à? Đã bảo viết thư thì cũng “dấm ớt” vào cho nó xuôi mà nó có khác gì ngày xưa mẹ viết vào quyển vở định để cho ông ấy đọc? Nào thôi, câu cuối đến chữ nào rồi? Tiếp đi.
                Bà mẹ lại run run viết những dòng chữ như kiến cánh bò lên bò xuống. Ngày xưa chữ bà cũng vào loại đẹp nhưng bao nhiêu năm có viết lách gì? Nhất là, cái tay bây giờ đã vò quần áo, xách nước quen thì không quen khiển được cái bút theo ý mình.
                “Tuy là có đi đây đi đó dưng mà đi cho việc nước có bao giờ sắm nổi cho vợ con cái quần cái áo. Còn vợ nó, con dâu của ông cũng ốm đau luôn, nó lại phải nuôi cả bà mẹ già yếu ăn bám là tôi đây ông ạ. Tất cả sáu miệng ăn trông vào đồng lương tháng của nó chỉ đủ cho ba đứa trẻ ăn quà sáng ấy là nói thế để ông biết chứ cả đời vợ, con, cháu, chắt của ông có ai trông thấy miếng quà sáng là gì, ăn đói mặc rách đã đành một nhẽ, đã quen rồi, đến cái đoạn ở mới thật cực nhọc. Ngôi nhà ngày xưa ông bảo hương Dũng làm cho mẹ con tôi người ta tịch thu hồi cải cách rồi, bây giờ nó ra Hà Nội làm việc đem cả vợ con bà cháu ra ở chui rúc vào một xó bếp của một ông bạn nó phải chịu đựng nắng mưa gió buốt bẩn thỉu hôi hám lại nơm nớp lo người ta đuổi biết dắt díu nhau đi đâu. Ông ơi tôi bảo với ông rằng ông cứ quên tôi đi không phải lo nghĩ quà cáp gì cho tôi nó tốn kém ra ông dành dụm bớt xén được ít nào ông phải nhớ đến hòn máu rơi của ông ở quê nhà để nó đỡ hổ thẹn với chúng bạn. Cả đời nó đã tủi hổ vì không được gọi tiếng “bố” bây giờ lại để con rách nát quá sao đành hở ông. Cho nên rằng nó định làm lấy một chỗ cho bà cháu vợ chồng chui ra chui vào được ấm thân thì tiền lại không có. Ông nghĩ đến con thời hãy lo cho nó cái nhà ông ạ. Không được gặp bố mỗi lần đi đâu về trông thấy ngôi nhà bố cho là cũng như trông thấy bố nó cũng có thể ngẩng lên bảo với chúng bạn là bố tôi lo cho tôi, mấy chục năm biệt tăm tích bây giờ bố con mới liên lạc được với nhau ông cụ thương tôi lắm”.
                Có lẽ tuổi già ở nước ngoài quá cô đơn, nên nhận thư người tình cũ ông đã phải nhờ người cầm thư gửi về bảo con: “Làm nhà đi. Đã làm thì làm cho đàng hoàng. Hết bao nhiêu bố lo cho cả”. Bà Đất lại được chép lá thư thứ hai nói là làm cho đàng hoàng theo ý ông phải hết bốn năm trăm nghìn đô la. Nhưng làm to quá cũng không tiện. Thôi hãy làm lấy một chỗ vừa đủ ở mà nó không úi xùi quá. Nghĩa là một cái nhà hai tầng, mỗi tầng độ ba bốn phòng, tính cả tiền mua đất ở Hà Nội bây giờ cũng hết độ năm mươi ngàn đô. “Hãy cứ như thế đã ông ạ”.
                Nửa năm sau anh nhận được 9 ngàn đô la và thư của “bố” nói rằng chính sách cấm vận của nước ông đang ở không cho gửi quá 10 ngàn. Đợt đầu ông hãy gửi như thế để mẹ con kịp bắt tay vào xây dựng nhà trước khi bước sang năm mới. Không hề biết những bức thư và tiền gửi về, bà Đất chỉ chép lại những bức thư con gửi đi cũng đã mừng thầm cho con. Cả đời nó phải đi nhận một người bố giả đến bây giờ giời đất xui khiến thế nào, bố con lại liên lạc được với nhau, nó cũng đỡ tủi thân. Bà kề miệng lỗ rồi còn cần gì mà thù giận, trách oán ông ấy. Cốt con cái nó có chỗ nương tựa là phúc đức rồi. Ông ấy biết nghĩ lại lo cho con thì bà cũng đỡ đau xót ân hận về cái số phận không may để bà rơi vào tay ông ấy và đẻ ra nó. Niềm vui cũng như nỗi buồn không phải là cái xác chết, nên bà rất thèm giãi bày san sẻ. Hơn nữa, người ta có thể giấu giếm được nỗi buồn chứ không ai giữ kín được niềm vui. Con cháu Huyền nó cũng phong phanh biết điều gì đấy nên rất nhiều đêm nằm với bà nó lựa lời dò hỏi. Bao nhiêu lần bà cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Nhưng rồi không biết vì phải thanh minh với những câu “bắt nọn” của cháu mà bà đã kể hết đầu đuôi những bức thư gần như bà thuộc lòng, cho cháu nghe. Bà kể cả cái “lai lịch” ngày xưa với cháu.
                - Nhưng tuyệt nhiên không được nói lại đến tai người khác cháu nhé.
                - Bà yên tâm. Chuyện quan hệ với người nhà ở nước ngoài bây giờ thoải mái có gì phải vụng trộm.
                - Nhưng bố con không muốn nó ầm ĩ lên cháu ạ.
                - Cháu xin hứa với bà, bà cứ yên tâm mà.
                Cô cháu đáo để ấy đã tìm cách lấy được địa chỉ của “ông nội” trong một lần bà viết vào phong bì. Cô viết thư cho “ông”. Sau những lời tự giới thiệu, thăm hỏi, mong nhớ. Cô viết: “Bà cháu, bố mẹ cháu và các cháu rất vui mừng nhận được tin và quà của ông (chắc chắn là có. Nếu không thì cũng sẽ có – cô nghĩ). Nhưng mẹ cháu có tính hay nghi ông ạ. Mẹ cháu cứ nghĩ là bố cháu bớt xén quà của ông để cho ai đó. Nên ông kê cho cháu cái danh sách quà ông gửi về để cháu còn biết. Ông nhớ là chỉ cho riêng cháu biết thôi để cháu tìm cách thanh minh cho bố cháu. Ông hãy gửi cho cháu theo... “Khi nhận được” danh sách” những lần ông gửi tiền, gửi quà cho những ai, cái gì, cô gọi bồ của bố bảo:
                - Cái cassette mày đang dùng là của ông bồ bà tao gửi cho tao đấy nhé. Ai bảo tao ư. Ông ấy gửi cái gì về cho bà tao để bà tao đưa cho bồ mày tao chả biết. Nhưng mày cứ dùng tự nhiên. Tao chỉ nói thế để mày bảo ông ấy làm gì cũng phải rõ ràng minh bạch.
                Một tuần sau Huyền mang cho bà cái đài để nghe cải lương. Vừa tới nhà, trời mưa ập xuống, cô định xộc vào chỗ bà nằm trong cái chái nhà lợp ngói vừa “vẩy” thêm ra cạnh cổng sắt. Nhìn qua khe cửa sổ giấy dầu vào phía trong thấy bố đang hầm hầm ngồi trước mặt bà. Cô nép mình ở giàn hoa giấy phía ngoài xem điều gì đang xảy ra.
                Từ khi bố về công tác ở Hà Nội, chuyển cả hộ khẩu của bà và Huyền nhập vào hộ của bố. Vì đơn giản là phiếu dầu, bìa gia đình và các tiêu chuẩn khác của 6 người nhiều hơn hộ 4 người. Ba năm nay bố bắt bà ra ở hẳn Hà Nội lại cũng đơn giản là các em nó đi học, không có người coi nhà, giặt giũ, cơm nước. Bà ở được với cô Hiền cũng lại đơn giản ở chỗ lúc cô ấy không cần, bà lại sang ở với cháu Huyền. Khi cô ấy có việc, bà lại về “phục vụ”. Cô thấy bố quát:
                - Ai bảo bà nói với nó?
                - Thì con cháu trong nhà cả.
                - Nhưng bà đã biết mồm miệng nó như thế nào, bà lại đem mọi chuyện của tôi nói với nó tức là bà có ý định hại tôi có phải thế không? Tôi cho bà suy nghĩ rồi trả lời tôi đi.
                Mặt bà như rúm lại, nước mắt chảy lặng lẽ vào các “rãnh” chằng chéo trên mặt. Bố nó nhẹ nhàng:
                - Nói đi. Bà nói tôi nghe đi.
                -...
                Bỗng giọng bố giật lên làm cho bà như nảy khỏi giường
                - Nói đi. Nói. Sao câm mồm thế.
                - Thôi mẹ đã trót nói rồi. Anh muốn bắt tội thế nào mẹ chịu thế.
                - Bà chịu cái gì? Bà có biết cái con mất dạy ấy nó sẽ toe toe chuyện này lên, rồi tôi sẽ như thế nào không? Bà có biết con bé ấy nó điêu toa gian giảo như con mẹ nó không?
                - Anh nghĩ ai cũng đi đặt điều, gian dối cả ư?
                - Bà nói gì? Nói gì? Thời buổi này có đứa ngu nào nó lại không biết đặt điều vu oan giá hoạ cho kẻ nó không ưa. Huống hồ con bé này. Nó đã vu cho tôi bao nhiêu chuyện bà biết không?
                - Lạy trời, lạy phật con cháu nó bốp chát thế dưng nó biết thương người. Tính nết thật thà, thẳng băng.
                - Tôi biết bà đã vào hùa với nó để hại tôi. Tại sao bà lại độc ác với tôi như thế? Chỉ có loài súc vật nó mới ăn thịt con nó, bà hiểu không? Mai kia mà ai biết thằng tổng Lỡi là bố tôi, tôi thư từ liên hệ với hắn thì bà cứ liệu hồn. Tôi nói cho bà biết: nếu có bất cứ một sự nghi ngờ rắc rối gì trong công tác của tôi thì bà không yên thân với tôi đâu. Nhưng còn giữ làm sao được. Giời ơi, sao số tôi lại khốn nạn thế này. Bà Đất! Bà Đất!
                - Anh gọi mẹ?
                - Mẹ con cái con... tôi hỏi bà. Tại sao bà có ý định làm hại tôi.
                - Lạy con, mẹ trót dại, mẹ cắn cỏ mẹ lạy con. Mẹ không bao giờ bụng dạ nào...
                - Bà còn nhớ tôi dặn bà phải như thế nào không?
                - Có. Mẹ vẫn nhớ, dưng...
                - Nhưng bà là con lợn phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi.
                - Thôi, anh không phải ra tay... ra chân gì nữa, để mẹ tự liệu.
                - Bà liệu cái gì?
                - Cả đời mẹ tối tăm oan khuất, bao nhiêu lừa gạt sỉ nhục mẹ chịu được tất. Mẹ chỉ nghĩ còn có con, như ngọn đèn soi sáng cho cái thân phận nhục nhã của mẹ để mẹ nương tựa. Nhưng đến con cũng đối xử với mẹ thế này, mẹ không thể nào sống được nữa.
                - Bà định doạ tôi hả? Nếu chết được, bà cứ chết đi để tôi đỡ tốn công hầu hạ. Bà tưởng tôi cần bà lắm đấy hả? Nhưng mọi chuyện vỡ lở ra, có chết bà cũng không yên với tôi đâu.
                Hiếu sầm sầm ra cổng. Sầm sầm đi đâu đó. Huyền đứng nép vào chỗ bóng tối ở một góc khuất của nhà khác. Đợi bố đi khuất cô định vào thu xếp mọi thứ đưa ngay bà về nhà mình, nhưng áo quần ướt sũng và người đang rét quá. Cô đạp xe về nhà thay quần áo và lấy xe máy. Đến khi trở lại thì... Cô bổ ngay đi tìm bà cùng vợ chồng Bình mà lại không thể ngờ bà đi ra phía bờ sông, đến bến Phà Đen!
                *
                * *

                Ông Văn Yến vẫn ngồi lặng lẽ trong bộ quần áo ngủ màu trắng, cùng màu với mái tóc bạc của ông. Dưới ánh sáng của bóng điện in hình ông lên tường quét vôi ve trông im lặng như một bức tượng. Một anh dân quân “gác” nhà ông Từ cạnh chiếc máy nổ phát điện phía nhà Nạc chạy sang báo cáo, anh Hiếu xin phép gặp ông.
                - Gặp gỡ cái gì? Thôi.
                Giọng ông nhỏ nhưng đầy nỗi uất giận chứa chất trong người ông chưa thể nào thoát ra được. Một lòng tốt bị phản bội! Một nhân tâm bị chà đạp! Một chân lí bị vò xé? Tại sao nó lại đến mức này? Nó sa đoạ từ bao giờ? Những chuyến đi nước ngoài ăn phải bả bọn xấu hay từ khi nào? Bố đẻ ra nó là một chiến sĩ cách mạng hay tên Lỡi, một kẻ phản động đàn áp phong trào cách mạng khét tiếng của tỉnh này. Kẻ nào đã âm mưu đánh ngã một cán bộ đầy năng lực và trong sáng mà ông đã biết từ khi cải cách ruộng đất, nói đúng ra từ lúc mới khởi nghĩa ông vẫn giữ một ấn tượng về một đứa bé chỉ huy đội thiếu niên đoạt giải nhất mọi mặt trong cuộc thi của những xã ngoại bối trong ngày Tết Độc Lập! Là một người cha đỡ đầu của nó, chịu trách nhiệm toàn bộ nhân cách của nó, chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của nó từ xã lên huyện, từ Nam ra Bắc, từ tỉnh đến Trung ương, sao bây giờ ông mới biết chuyện này! Nếu thực sự anh là kẻ phản bội mẹ anh, phản bội quê hương, đất nước thì thủ phạm của nó ở đâu? Phải bằng mọi cách lần tìm cho ra những kẻ luồn sâu leo cao phá hoại tận gốc những ý đồ tốt đẹp của chúng ta. Nhưng từ một tháng nay, ông đã giao việc cho các phó ban để chuẩn bị nghỉ hưu. Ông cũng vừa được hỏi ý kiến về việc đề bạt cấp tổng giám đốc một Tổng công ty xuất nhập khẩu cho cậu ta. Nếu ông phanh phui chuyện này để “phanh” việc đề bạt, mọi người sẽ nghĩ về ông như thế nào? Cả cuộc đời ông lo toan cho mọi người không hề sai phạm gì, đến lúc sắp về hưu mới “bục” ra chuyện tày đình liên quan trực tiếp đến uy tín và sự cống hiến của ông và bao nhiêu đồng chí khác. Ông còn đủ sức để tự “phơi mình” ra trước công chúng và lịch sử không? Thôi. Bằng cách nào cũng phải “khoanh” chuyện này lại. Phải tìm cách theo dõi, khống chế, “dẹp” cho nó êm đi. Nếu không, mọi người hoang mang, không có lợi cho việc bảo vệ uy tín của cán bộ mà kẻ địch lại khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ của chúng ta, sẽ không lường hết sức phá hoại của nó. Ông lấy hai ngón tay cái day day ở hai bên thái dương, đứng dậy đi đi lại lại ở hàng hiên trước nhà như có ý chờ đợi đứa con gái của anh ta để nói một điều gì đó hết sức hệ trọng.
                Nhưng con bé cháu vẫn gục xuống thành ghế xa lông trong gian tiếp khách của nhà ông Từ, nơi ông vừa bước ra, đi bách bộ ở trước cửa. Đầu nó như đè lên cái bóng của nó đang lả thiếp.
                Sau những tiếng nấc nghẹn đau đớn day dứt tự trách mình: “Tại sao cháu lại không vào ngay với bà?” cộng thêm nỗi vất vả long đong hốt hoảng suốt năm ngày đêm cùng vợ chồng Bình đi tìm bà, lúc này Huyền như một cái xác không hồn. Cô miên man trong những cơn mê sảng. Ông Văn Yến vẫn đi đi lại lại rất nhẹ nhàng chứ ông không gõ cửa. Mà cửa có khép đâu. Đúng rồi, cửa vẫn mở.
                “- Ai đấy cứ vào đi. Cửa không khoá đâu.
                “- Bà đây. Bà về với cháu đây. Có phải nhà ta không hở cháu? Cái giường của bà đâu rồi?
                “- Ơi bà ơi, bà đi đâu suốt mấy ngày nay để cháu đi tìm bà khắp nơi. Thôi bà vào đi, vào nhà đi. Sao bà lại ướt luốt chuốt thế này. Để cháu lấy quần áo cho bà thay rồi bà nằm nghỉ đi. Cái giường của bà cháu kê lùi vào trong này để các ông phường kèn ngồi. Thôi đuổi họ đi. Họ thổi tí toét cái gì cứ chói cả tai.
                “- Kệ, cho họ ngồi đấy cháu ạ. Cháu lấy gì đựng quần áo đi. Bà mang về cho cháu đây này.
                “- Giời ơi, bà lấy đâu ra mà bao nhiêu quần áo đủ các mốt, các màu đẹp thế này? Cháu lôi mãi không hết. Sao cái tay nải của bà đựng được lắm thế hả bà?
                “- Bà đi xem hội. Cơ man nào là người, ăn mặc đủ kiểu cổ ngày xưa và lối ăn mặc tân thời ngày nay, đẹp quá cháu ơi. Lại đủ các loại cờ dân, cờ thần, cờ ngũ phương, cờ đuôi nheo, cờ vẩy, cờ lệnh, lọng, tàn, quạt... cùng với bát bửu, gươm, giáo, chuỳ, mác, long mã đi bên kiệu nhất, kiệu nhị, kiệu long đình, long mã, rước cạn rồi rước nước vui lắm cháu ơi. Bao nhiêu giai tài gái sắc khiêng kiệu, cầm lọng, cầm cờ, đội tiền vệ, hậu vệ, đội múa dâng hương, phường trống, phường kèn, phường bát, phường trò, oai phong lẫm liệt, trông như hoa tươi nhưng khi hết hội họ bỏ quần áo ra người nào cũng đen như nhọ nồi, đầu trắng hếu như có hàng ngàn, hàng vạn con ma hiện hình, bà khiếp đảm quá nhưng vẫn cố nhặt lấy quần áo mang về cho cháu bà đấy, cháu ơi...
                “- Sao cái túi của bà lắm ngăn thế này hở bà? Ối ối. Còi báo động. Báo động. Bà ơi! Bà đâu rồi? Đâu rồi bà ơi.
                Cháu vừa kêu, vừa sấp ngửa xách túi chạy xuống hầm. Ôi... căn hầm tối quá. Mà không phải hầm.
                Cô thấy mình đã chui vào cái quan tài vụn hết cả thịt, xương, đặt chân xuống thấy thùm thụp như gio, bước đến đâu bụi bay mù mịt đến đấy. Cô định kêu nhưng bụi bay vào đầy mồm không kêu được. Có tiếng gọi “Cháu ơi” của một ông già. Cô vùng lên định chạy thì hiện ra ông già trông giống như ông Văn Yến.
                - Ông chỉ là người bạn của ông Văn Yến thôi, có một thời cũng cùng công tác với ông ấy nhưng bây giờ ông già quá rồi. Nào thôi, đừng nghĩ gì nữa. Cháu nghĩ gì ông biết hết cả không giấu được ông đâu. Nước đây lau mặt rồi súc miệng đi.
                “- Ông ơi, sao ông lại ở đây?
                “- Đây là chốn riêng của ông rồi đừng sợ. Cháu cứ ở đây với ông.
                “- Không đâu. Cháu phải đi tìm bà cháu.
                “- Bà cháu ở xa lắm rồi. Không còn ai ở đây. Chỉ còn hai ông cháu mình thôi. Phải đùm bọc rau cháo, hai ông cháu nuôi nhau mà sống cháu ạ.
                “- Cháu không thể ở đây được.
                Cô nhào ngay vào, một tay vặn tay ông, tay kia nhặt lấy chiếc chìa khoá chạy lao đi. Nhưng dưới chân cô cứ thùm thụp lún sâu xuống, bàn tay chới với, không biết túm vào đâu. Cô ngã sấp, ngã ngửa, phải lấy cả hai tay, hai chân vừa đạp vừa bơi, nhoài mãi mới ra được đến cửa. Đã lại thấy ông già ngồi quay mặt đi và những cái “đầu lâu” oai vệ cầm giáo mác chéo “gạc gầu” ngay trước mặt cô. Cô ẩy cái “gạc gầu” ra, xô đến ôm lấy cái khoá ở cửa. Nhưng bàn tay run rẩy chưa kịp cho chìa vào ổ khoá thì những bàn tay của “đầu lâu” như những cái kìm, kẹp chặt lấy tay cô. Cô nắm chặt chìa trong bàn tay, tay kia đấm túi bụi, đầu húc, chân đập và kêu gào:
                “- Cứu tôi, cứu tôi với. Ối làng nước ơi cứu tôi, cứu lấy tôi. Tôi chết. Tôi chết. Ối... ối... ối bàn dân thiên hạ ơi”.
                Cô ngồi bật dậy. Mồ hôi ướt đầm chân tóc và thấm đẫm chiếc áo “bà ba”. Ông Văn Yến đang đi đi lại lại ngoài cửa chạy vào hỏi:
                - Làm sao thế cháu. Còn sớm, cứ chợp mắt nghỉ đi. Cháu mệt quá hay sao mà cứ kêu ú ớ mấy lần rồi.
                Hai mắt Huyền trừng trừng nhìn vào ông rồi bỗng nhiên cô chạy lao ra cửa ôm lấy vợ của Bình cũng vừa đến đấy. Người cô vẫn run lên bần bật.
                - Làm sao thế em?
                - Chị ơi. Có thật là chị không?
                - Thôi chết. Em ốm rồi. Huyền ơi. Mồ hôi em thế này mà người lạnh toát đi.
                Ông Văn Yến cũng bảo:
                - Cháu mang em vào nhà cho nó uống thuốc. Nó bị cảm rồi đấy.
                Huyền được chị dìu vào nhà, pha nước chè đường đập gừng uống cùng với những viên thuốc của ông Văn Yến đưa. Nằm một lúc ở giường phía bên kia, cô tỉnh ra hỏi:
                - Chị đến đây lâu chưa?
                - Thấy em kêu ú ớ mê sảng, ông Văn Yến cho người gọi chị.
                - Chị có nghe thấy em nói gì không?
                - Đã bảo chị vừa chạy đến đây thì em chạy lao ra.
                - Không biết ông Văn Yến có nghe thấy em nói gì không?
                - Chắc em nói gì xúc phạm đến ông hả?
                - Không. Nhưng em nằm mê.
                - Ông già phúc hậu như ông tiên ai lại đi chấp chuyện con cháu. Mà lại nằm mê thì sợ gì.
                - Có thật không chị? Em sợ ông lắm.
                - Ông thương em và giận bố đấy. Suốt từ lúc ngồi nói chuyện với em xong, ông buồn lắm, cứ đi đi lại lại ở trước cửa kia.
                - Thế chị biết hết mọi việc à?
                - Thì em thế, chị ngủ làm sao được.
                Cô bảo người cô đã khoẻ lại rồi, chị cho cô ra đường một lúc để bớt ngột ngạt. Hai chị em ra phòng khách, mặt cô đỏ lên nói lí nhí:
                - Cháu đỡ rồi, cháu xin phép ông ra ngoài này.
                Ông Văn Yến bảo người chị:
                - Cháu lấy cái khăn, cái mũ gì đấy quàng vào cổ hoặc đội lên đầu cho em. Tránh sương sớm. Mà đi từ từ cho quen dần đừng ra gió đột ngột là cảm lại, nguy hiểm đấy các cháu nhé.
                Huyền:
                - Cháu cảm ơn ông. Chị cháu đưa mũ cho cháu rồi đây ạ.
                Hai chị em ra khỏi bờ tre thì tiếng kèn đôi lại cất lên não nuột cùng với tiếng trống bung, bung bung cầm trịch. Từ lúc xẩy ra sự xô xát đến giờ hầu như liên tục phường bát âm và kèn đồng thay nhau vang lên ở loa để nó át đi tất cả những tiếng kêu khóc, tiếng ồn ào cãi cọ, quát mắng nhau ở trong nhà, ngoài sân. Ai cũng bảo tiếng trống đánh rất nhảm và tiếng kèn đồng thổi toe toét lúc đêm hôm là rất vô lối nhưng phải làm thế chứ còn biết thế nào. Chỉ có mấy ông kèn ta thổi lâm khốc là đúng với cảnh đau thương chia lìa của người chết, nhưng về khuya các ông ấy phải ngủ lấy sức cho ngày hôm nay. Vì nếu ngày hôm nay không có cái tiếng trống bung, bung, bung cầm chịch với tiếng kèn ò é e, e í ò... ò thì còn ra gì cái đám ma. Cũng vì thế mà tiếng kèn cất lên lúc này lại làm cho Huyền khựng lại, hai hàng nước mắt lặng lẽ giàn ra. Có lẽ lúc này cô mới thấy ngấm nghía nỗi đau mất bà. Bà mất thật rồi! Không còn gì nữa rồi. Tiếng khóc lại bật lên và hai bàn tay cô ôm lấy mặt, người rung lên từng chập. Người chị giữ chặt lấy vai cô, để cô tựa hẳn vào mình, đợi cho em vợi đi nỗi đau đớn chị mới bảo:
                - Bà thì không thể nào lấy lại được nữa. Em cứ thế này, chị không còn biết làm thế nào.
                Một lúc sau Huyền nén tiếng nấc lại, cô lau nước mắt hỏi:
                - Chị ơi, chị có bỏ em không?
                Người chị ghì chặt lấy vai Huyền bằng bàn tay của mình bảo:
                - Thôi đừng nói gì nữa. Chị chỉ tính thế này. Từ nay con cháu lớn sang ở hẳn với cô và ngày nào chị cũng đến ngủ chỗ em khi nào em hết giật mình.
                - Chị ơi, thế thì em cảm ơn chị lắm lắm. Chị ở đây đợi em cúng “ba ngày” bà rồi cùng về chị nhé.
                - Em làm bất cứ việc gì, cũng sẽ có chị Huyền ạ.
                Hai chị em họ ôm lấy nhau, dìu đỡ nhau đi giữa cánh đồng buổi sớm ở làng Cuội lúc mới có một vài bóng người nhập nhoà trong sương.

                Xong lúc 6h ngày 31-10-1991
                Tại đoàn an dưỡng 295 Đồ Sơn
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.04.2006 09:55:27 bởi conbo2 >
                #23
                  conbo2 04.04.2006 09:56:43 (permalink)
                  Phù, thế là đã hết được tác phẩm này
                  #24
                    Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 24 trên tổng số 24 bài trong đề mục
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9