*
* *
Linh Chi trở lại làng Cuội ngay đêm đó. Những công việc Hiếu giao, cô chỉ cần phôn đi các nơi và giao cho chú “em” của anh Hiếu, một nhân viên của Vụ có trách nhiệm thúc đẩy mọi việc đúng theo dự kiến. Hầu như không có gì trục trặc, cô trở về ngay để anh yên tâm và cũng phải chăm lo cho anh trong lúc căng thẳng.
Hơn một năm nay, không biết bằng cách nào anh đã làm cho bố cô tuy buồn nhưng không bao giờ nhắc đến chuyện của cô. Còn mẹ thì vẫn chưa biết gì, bà đặc biệt kính nể, quý trọng thủ trưởng. Vì thế cô càng thấy yêu anh nhiều hơn. Dù ngày nào cũng ở cạnh nhau trong buồng làm việc, đi sân bay, ăn tiệc, tiếp khách, thỉnh thoảng lại đưa nhau đi “công tác” dăm bữa nửa tháng mà lúc nào cô cũng thấy chưa đủ. Chỉ có những chuyến công tác nước ngoài, chỉ có thủ trưởng và phiên dịch mới thực sự “hết mình” với anh trong một khung cảnh hoàn toàn tự do. Đã quá. Phải nói tài tổ chức và sự bao dung của anh ấy là tuyệt vời. Các nhân viên của Vụ, bao giờ cũng được ban phát ân huệ bằng những chuyến đi nước ngoài. Dù không vào tiêu chuẩn nào cũng được anh tìm cho một cái “cớ” để đi. Nhưng phải tuyệt đối bí mật. Không thể để cho người ngoài, kể cả bố mẹ, vợ con biết ai đi đâu, làm gì, với ai. Họ sẽ so đọ thiệt hơn, ghen tị, bình phẩm làm mất cái không khí gia đình đầm ấm thương yêu nhau của nội bộ cơ quan. Chẳng hạn, một lần thủ trưởng đi công tác với cháu phiên dịch đều có ba bốn nhân viên mặc com lê xách cặp đến nhà đón thủ trưởng, chào hỏi, chia tay với chị và các cháu rồi mới đến đón cháu phiên dịch. Sau đó những người ăn mặc bảnh choẹ ấy xách cặp túi ra khỏi xe để đi bộ về cơ quan. Linh Chi cũng “chú cháu, con con” với Vụ trưởng và “cô cô cháu cháu” với vợ thủ trưởng rất thành thục, tuyệt vời, không mảy may một kẽ hở nào để cho kẻ khác, kể cả vợ anh nghi ngờ gì mối quan hệ hết sức trong sạch đàng hoàng của anh với cô cháu phiên dịch.
Đêm nay cô đi cùng xe làm lạnh chở hàng mấy khối đá trở về lúc nửa đêm làm cho vợ Hiếu cũng phải cảm động kêu:
- Cháu vất vả quá.
- Việc của gia đình cô chú cũng như việc của bố mẹ cháu. Các anh ở cơ quan khác người ta còn nhiệt tình với cô chú. Cô chỉ anh lái xe và kĩ thuật lạnh – huống hồ cháu là con cháu trong nhà.
Cái xe lạnh chở đá mà dân chúng đồn nhau là máy ướp xác đã về. Hàng mấy chục xe con của huyện, tỉnh, trung ương chạy đi chạy lại rầm rầm. Cơ man là vòng hoa, vàng hương đến viếng. Tất cả tạo ra cảm giác cái chết của bà lão 80 lại có thể làm cho làng Cuội đang mệt lử, thiếp đi, bỗng chốc chồm dậy chạy lăng xăng, tất tưởi niềm hãnh diện.
- Giời ơi, không ngờ cuộc đời bà cụ Đất lại hoá sướng.
- Có con cái làm to vẫn cứ hơn. Cả tổng, cả huyện phải hỏi thăm phúng viếng. Người các nơi đổ về cứ là đông như kiến cỏ.
- Nghe đâu cả Tây, Tàu cũng về làng Cuội đưa ma bà cụ Đất nhá.
- Lúc 10 giờ đêm nay làng này đã ai nghe thấy gì chưa? Trên đài người ta nói tin bà cụ Đất chết cho cả nước biết rồi đấy, lâu lắm làng Cuội mới được lên đài. Cũng sướng.
Hiếu không những cảm được những lời thì thào trong dân chúng, anh còn được các ông già bà cả nắm lấy tay thầm thì:
- Thôi thì ai tránh nổi cái chết. Ông hết lòng hiếu thảo với bà cụ thế này là để cái phúc lớn về sau đấy.
- Ông ở xa không biết. Ở nhà chúng tôi vẫn phải dạy dỗ các cháu rằng là phải ngẩng mặt lên mà trông ông Hiếu đấy. Người ta làm lên đến tận “trung ương” vẫn hết lòng phụng dưỡng mẹ già.
Gặp ai, ở chỗ nào, nói gì anh cũng ngượng ngùng, chắp hai tay như vái người nói làm cho các ông già, bà cả trong làng lại càng thán phục cái đức khiêm nhường của anh. Vì sự ngưỡng mộ quá lớn đối với anh, người ta kéo đến đám ma nghìn nghịt. Suốt mấy ngày này lúc nào cũng chật ních nhà, ngoài sân vườn ra đến tận ngõ, kéo đến tận đường cái. Lúc 10 giờ đêm bác Văn Yến về nhắc Hiếu làm sao đừng để ảnh hưởng đến lao động, công tác và học tập của bà con. Hiếu vội vàng đứng lên nói vào chiếc mi cờ rô không có dây rằng hết sức đa tạ tấm lòng của các cụ, các ông các bà xa gần đã đến chia sẻ nỗi đau đớn không gì bù đắp nổi của gia đình chúng tôi. Bây giờ đã khuya...
Đấy là cách nhắc nhở khéo để mọi người ra về. Nhưng ngủ cả năm cả đời, lo gì. Có bao giờ làng Cuội được xem đám ma to. Lại nghe có máy ướp xác sắp về, phải xem nó đầu đuôi ra sao. Hàng trăm, hàng nghìn con người ra khỏi nhà đám, “tụm năm túm ba” ở các đường ngang ngõ dọc ở gốc tre hoặc vào uống nước hút thuốc ở nhà ai đó. Người háo hức chờ đợi xem một việc gì đó, người chả chờ, chả thích xem gì nhưng cũng vẫn thấy cả đêm thổn thức không ngủ được. Khoảng 11 giờ đêm tiếng xe nặng ì ì và đèn pha quét loang loáng làm cho cả người lớn trẻ con reo lên như ong vỡ tổ: “Xe ướp xác”. “Xe ướp xác về rồi”. Cả làng, cả xã vùng dậy xô đẩy, chen chúc nhau chạy theo cái xe ướp xác. Nhưng oái oăm thay, xe to quá không vào được trong sân, mà mang quan tài ra để trên xe đá đêm nay, lại là điềm gở. Ông Thống Bứt được sự khích lệ của ông Từ, ông Mỡ đem luật nhà trời ra. Xem xét thì làm như thế độc lắm không ai mang thi hài đi rồi lại mang về nhà. Chả hoá ra nhà có hai người “đi” hay bà lão ấy phải chết hai lần? Lẽ thứ hai là: đêm nay phải thổi kèn thờ, tế vong, và con cháu quây quần quanh bà. Mang bà lão ra đút vào cái xe để con cháu ngồi “suông” phường kèn, phường trống đi ngủ hay chõ ra ngõ mà thổi. “Sống dầu đèn, chết kèn trống”, thử hỏi đêm nay không có tiếng kèn tiếng trống nó sẽ lạnh lẽo thế nào! ấy là chưa kể để bà lão vào cái xe đá thì bằng đưa đi đầy ở nơi sương rơi, tuyết phủ chứ còn gì. Tội tình gì phải đày đoạ bà lão như thế. Cho nên cái xe “ướp xác” thì hiện đại thật, uy tín của Hiếu lớn thật, lại có cả bác Văn Yến nguyên là bí thư tỉnh uỷ ở cạnh mà chịu không sao thuyết phục nổi lí luận đơn giản của ba con nông dân làng Cuội. “Từ xưa đến nay không ai đưa người chết vào chỗ băng giá lạnh lẽo như thế! Bây giờ cũng không được làm như thế. Thế thôi”. Gần nửa đời người vật lộn, giành giật với cuộc sống ở làng này, từ làng này ra đi, đến lúc này Hiếu mới hiểu thế nào là sức mạnh của quần chúng. Rất ngang ngạnh, khó chịu nhưng không bằng cách nào lay chuyển nổi. Dưới ánh điện, những cây đá vô dụng bốc hơi nghi ngút trong xe. Hiếu uất giận vì bao nhiêu công lao và những dự tính bị phá vỡ. Anh quyết định cho đem tất cả ra khỏi xe, đập nhỏ, pha nước chanh, cho vào các ấm nước trà, những nồi chè đậu đen và bà con ai thích cứ lấy thả cửa. Không ngờ, khi những miếng đá đầu tiên bắn toé ra bọn trẻ đã lao vào cướp nhau rau ráu và lật vạt áo lên đựng những miếng khác. Rồi chúng lấy gạch đập, chân đạp. Chen lấn, đè ép xô đẩy giành giật tranh cướp vừa quyết liệt vừa hào hứng. Tiếng cười ré lên cùng với tiếng kêu tục tĩu khoái chí. Những anh chủ xe phải vội vã vần hết hàng chục cây đá lăn xuống đất rồi “đánh xe chạy” ra khỏi vùng “chiến sự”. Sự om sòm ồn ã của đám trẻ con lan tới cả người lớn. Cả làng, cả xã mang rổ rá nồi niêu, xoong chậu chạy ào ào đi “hôi đá” rậm rịch tưng bừng cả đêm. Mỗi cây đá được đập vỡ, hàng trăm người tranh cướp xong để vào rổ và rá, nước chảy tong tong vẫn đứng đợi đập cây khác, lại xô vào. Đợi cho đến khi cướp được miếng đá ở cây cuối cùng thì miếng đá cướp đầu tiên đã thành nước chảy đi, ướt hết quần áo và đám đất dưới chân đã nhão thành bùn nhưng không ai chịu về, ai cũng tiếc của giời, thấy thua thiệt nếu không chờ đợi cướp cho đến tận phút chót. Cướp xong người nào người ấy reo hò, chạy như ma đuổi về nhà kẻo chảy ra nước hết. Cướp được đá về đánh thức nhau dậy. Nhà nào cũng đầy đủ lớn bé già trẻ nhai, mút xuýt xoa thưởng thức của lạ. Tưởng là béo bở gì. Thì ra đá làm bằng máy cũng chỉ như những cục đá rơi xuống trong trận mưa đá tháng ba vừa rồi. Ngày ấy chả ai thèm nhặt lấy một viên, bây giờ lại đi chầu chực tranh cướp nhau mang đá về giấu vào đống quần áo, vào vại ngô giống, đỗ giống để giành. Khi ăn hết phần chung, những đứa trẻ đi tìm của riêng thì không còn. Chúng ngờ vực cãi cọ nhau, bố mẹ mới biết nó đã làm hỏng hết ngô đỗ giống mùa sau. “Nó hại mình rồi. Đ. mẹ nó, thằng con nào sinh ra cái trò này để nó làm hại ông. Khốn nạn cái thân ông rồi”.
Cái chuyện “hôi đá” còn đang rộn ràng thì ở nhà đám lại xô xát quyết liệt khiến cả xóm cả làng lại ào ạt chạy đi trong những cái tin đồn thổi không biết thực hư.
- Chị Huyền chết rồi.
- Chị Huyền hoá điên rồi.
- Ông Hiếu đánh con toé máu ra nhá.
- Con bà vợ cả của ông Hiếu bị ngất phải đem đi cấp cứu rồi và.v.v...
Người ta xúm đen, xúm đỏ ngoài đường còn đông hơn cả lúc xe ướp xác về. Lại thì thào đơm đặt một thành năm, năm thành mười, mù mịt, rối rít. Trong khi ấy Huyền được lôi sang nhà ông cụ Từ. Ở đây vừa không có trẻ con, vừa là chỗ ông Văn Yến nghỉ và ông yêu cầu đem nó đến để còn nghe xem chuyện gì dẫn đến sự liều lĩnh của nó. Phải đến một tiểu đội dân quân tin cẩn do Nạc trực tiếp lựa chọn canh gác thật nghiêm chỉnh quanh nhà ông Từ. Người ta cũng theo lệnh của cụ Văn Yến, kéo Hiếu sang nhà ông Mỡ để anh trấn tĩnh lại.
Ở nhà đám, Nạc ra lệnh cho trống cái, thanh la, não bạt, chũm chọe, nổi lên át tiếng ồn ã và nơi đặt thi hài người cô ruột của anh đỡ bị trống trải, gượng gạo. Sau trống tế là kèn thờ. Sau kèn thờ là kèn tây của xóm đạo bên Ngoại Trung. Tất cả đều cho bắt vào mi cờ rô, phát ra chiếc loa thùng năm mươi oắt đã được đem ra đặt trên bàn ở đầu ngõ, quay ra đường cái. Hai tốp phường kèn, phường trống ở hai thôn nguyên là đội hiếu được “quân sự hoá” trước kia do Nạc xã đội trưởng chỉ huy nay đi làm “kế hoạch ba”. Họ rất chểnh mảng trong nhiệm vụ, nói đúng ra, “đội hiếu” chỉ còn cái tên, sự hò hét của Nạc hoàn toàn vô giá trị nếu không có nhiều tiền. Người chỉ huy còn chút uy tín khiến họ phải vị nể hiện nay là thống Bứt. Riêng hôm nay, trước đám tang lớn của mẹ ông Hiếu, họ tự nguyện theo thống Bứt đến “phục vụ”. Cả các đội bát âm và đội kèn đồng xóm đạo của Ngoại Trung cũng xin đến “giúp vui”. Tất cả đều thống nhất một đầu mối do anh Nạc “chỉ huy”. Đến ba giờ sáng mới có “sự cố”. Khoảng thời gian trước đó Nạc đã “chỉ huy” được tiếng “ò í e” tấu lên nỗi đau đớn chia lìa rước cho tiếng khóc của họ hàng con cháu thêm thảm thiết bi ai. Nhưng ngồi bên đám phường kèn gục đầu xuống, nhắm mắt lại, nghiêng tai ra phía quan tài. Nạc nghe dến dăm sáu loại khóc. Có loại khóc như là khóc “ngoại giao” thì lên bổng xuống trầm chỉ thấy “ới... hờ... hợ” nghe nhạt hoét. Loại khóc vì không thể không khóc nghe đều đều khô khốc. Khóc cốt cho phải đạo. Còn loại khóc “cạnh khoé” cốt rỉa rói người sống. Nhưng sợ nhất loại khóc giả. Anh còn lạ quái gì con Hiền vợ thằng Hiếu. Nó khóc:
- Ới mẹ ơi, mẹ chết đi con biết lấy ai mà dạy bảo cho con biết làm người mẹ ơi... hơ hơ hợ hợ.
Nghe nó khóc cứ thấy sường sượng ở mặt mình. Còn loại khóc như vợ anh thì kể lể con cà con kê, kiểu khóc như trình bày với uỷ ban:
- Ới cô ơi, vừa mới tháng trước đây thôi, cháu lên Hà Nội cháu gặp được cô, cháu có bảo cô rằng khi nào cô về nhà dăm bữa nửa tháng để bà con làng xóm cùng anh em con cháu đỡ nhớ cô ngày nào đi làm hợp tác ai cũng bảo rằng, dạo này bà lão ở đâu không thấy về chơi với bà con thì cô bảo rằng là cháu ơi, cô còn phải trông nom cơm nước giặt giũ cho các cháu nó học đến khi nào cháu nó nghỉ hè rồi bà cháu mang nhau về chơi thăm hỏi bà con, thế mà các cháu cô về đây rồi cô lại nỡ bỏ con bỏ cháu cô đi đâu cô ơi là cô ơi!
Rồi đến bà hàng xóm, con đi tây về chưa có việc làm thì khóc: ới chị Đất ơi! Từ thuở chị còn mẹ goá con côi nơi đất khách quê người, mới trở về chị em mình đã đùm bọc cho nhau khi tối lửa tắt đèn, lúc mưa to gió lớn chị vẫn bảo em rằng không bao giờ tôi quên ơn cô, chuyện công tác của các cháu chị sẽ nhờ người lo cho, thế mà bây giờ chị đã bỏ em chị đi. Chị bỏ các cháu bơ vơ chị ơi...ờ... ờ...
Lại có loại khóc như bị “lây” người khác, nước mắt tự nhiên cứ ứa ra như bà cụ bên kia sông, ông Thống Bứt và bác Văn Yến... Không nghe thấy tiếng khóc bao giờ mà chốc chốc Nạc lại thấy những người ấy quay đi lau nước mắt.
Riêng con Huyền thì từ lúc về đến giờ chỉ kêu gióng một: “ới bà ơi, bà ơi” “ới bà ơi, bà ơi” Cho đến tối nay thì người nó lả đi, giọng khàn lại. Nó ngả đầu vào lòng vợ anh giáo Bình, thầy dạy cũ của nó. Tiếng nó thở dốc nghe cứ “hờ... hờ... hợ”. Nạc và cả họ không ai biết họ quen với gia đình này từ bao giờ, chỉ thấy cả hai vợ chồng và hai đứa con mang vàng, hoa và bức trướng về viếng rồi xin phép được chịu tang cụ. Từ khi về, không lúc nào vợ anh giáo rời khỏi con Huyền. Cứ mỗi lần con Huyền gào bà, nước mắt cô ta lại rào ra, cứ như là tiếng kêu quằn quại là của con Huyền, còn nước mắt là cô ta, để rồi hai chị em lại lả đi, phải tựa vào nhau. Những lần anh chồng pha nước cam cho cả hai người, cô đều dỗ cho Huyền uống, còn phần mình, cô đưa cho thằng con nhỏ. Cô bảo:
- Phải cố nén lại Huyền ơi. Em yếu lắm rồi. Tựa vào chị, em chợp mắt đi. Còn ngày mai, ngày kia...
Không hiểu nghe lời chị hay mệt quá con Huyền nằm thiếp từ lúc quá nửa đêm. Chừng mười lăm phút sau, lúc chỉ còn vài tiếng khóc “xã giao”, tiếng khóc giả vờ nghe bơ vơ lạc giữa khuya khoắt bỗng con Huyền nhoài người lên ôm lấy quan tài như ôm lấy bà, không cho bà đi.
- Ới bà ơi, bà ơi. Ai gian dối, lừa lọc bà? Ai giết bà, bà ơi!
- Ới bố ơi, bố ơi. Sao bố lại độc ác thế này bố ơi. Giá bố cầm dao giết bà còn hơn bố làm cho bà chết khổ, chết sở thế này bố ơi.
- Ới ông giời ơi... Bố độc ác quá bố ơi...
Mọi người còn ngơ ngác không ai biết chuyện gì, Hiếu đã chạy xô lại quát:
- Câm mồm con ranh.
- Con không câm.
“Bốp”
Một cái tát làm nảy đom đóm mắt. Con bé ôm lấy mặt kêu:
- Ới bà ơi. Bố con giết bà rồi. Bây giờ lại định giết con.
Hiếu xông vào túm tóc, lật mặt con gái lên tát. Nhưng tiếng kêu càng to hơn, càng làm cho mọi người hoảng sợ vì “bố giết bà”. Nạc hò hét mọi người cùng anh xô lại lôi mỗi bố con đi một nơi rồi ra hiệu cho phường kèn, phường bát âm, đội kèn đồng, trống, thanh la nổi lên truyền qua loa làm cho cả làng, cả xã sửng sốt không hiểu vì sao kèn trống đám mẹ ông Hiếu lại bát nháo không ra thể thống gì, làm náo loạn lúc giữa đêm như thế này.
Ông Văn Yến ngồi dậy ngay từ khi tiếng kêu “Bố giết bà, giết con” và mọi người chạy rầm rập về chỗ ấy. Ông rất muốn biết việc gì đã xảy ra, nhưng thói quen của ông không bao giờ xuất hiện chỗ đám đông xa lạ nhốn nháo. Cần dẹp, cần giải tán và xử lí họ, ông ra lệnh cho người khác. Còn ông, nếu trong số họ có ai giáp mặt thì chỉ thấy ông tươi cười, dịu dàng như không hề biết chuyện gì. Ông là con người đức độ, nhân từ không bao giờ muốn làm việc gì trái với nhân tâm. Nhưng vì ông phải làm việc. Cái công việc buộc ông phải “lạnh” đi, phải đối phó với mọi tình huống phức tạp nên nhiều khi phải có bộ mặt “giả vờ” không đúng với tình cảm và ý nghĩ của mình. Ngay việc ông về đây đêm nay và sẵn sàng ở lại dự đám tang cũng vì tình nghĩa sâu nặng với một người bạn, một cán bộ lớp đàn em đã khuất trong sự sai sót đáng tiếc. Ông cũng trân trọng sự long đong vất vả, hi sinh đến tận cùng của người vợ anh ấy. Sự quan tâm đặc biệt của ông đối với Hiếu là biểu hiện tình cảm hết sức thành thật của ông. Dù dăm bảy năm nay về trung ương giữ trọng trách khác, ông vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp và bao dung, che chở cho Hiếu. Đến lúc này ông lại không thể nào ngờ khi đọc lá thư “tổng” Lỡi gửi cho con Huyền và câu chuyện ông đang nghe kể, nói nghiêm trọng đến thế. Khắp người ông như tê dại đi, đau đớn quá. Nó độc ác và man rợ quá, khiến ông phải tự hỏi: Nó là gì, ở đâu ra? Ông đang ở trong nhà ông Từ làng Cuội vào những năm chín mươi này hay lạc giữa thời hoang dã, giữa nanh vuốt của những bầy thú hung dữ nào?
Hiếu gọi điện thoại cho bố. Từ khi 13, 14 tuổi anh đã nhìn thấy lão ta cúi rạp người chui vào cái lều lá mía làm thân với anh nhưng anh không thèm bắt chuyện với lão huống hồ bây giờ. Anh cũng không thể chấp nhận cuộc sống “quay” đến chóng mặt, làm mửa mật mới giữ được việc làm ở các nước tư bản, anh đã đặt chân đến. Sự văn minh của nền khoa học thực nghiệm, biến con người thành những vật chất biết nói, sống căng cứng trong một cơ chế tinh vi hết sức lạnh lẽo dửng dưng với con người. Biến tình cảm con người thành những hiệu quả có thể sờ nắn được, tính đếm lỗ lãi được. Dẫu một con người thủ đoạn và mưu mẹo “rách giời rơi xuống” như anh vẫn thèm cái tình người chan chứa quê hương. Cứ ở nơi “thừa” tình người mà không thiếu đô la để tiêu xài là tuyệt đỉnh. Đến như anh, đi nước ngoài như đi chợ, giàu gấp trăm lần kẻ khác vẫn cứ thấy hao háo đồng đô la như con vợ trẻ trung, hay đi ngoại tình của anh lúc nào cũng hao háo đàn ông. Anh cần lão ta là cần cái thiếu. Dại dột gì lại cần ở lão cái mình “thừa”. Tìm kiếm hàng chục lần qua các chuyến đi mới dò được địa chỉ. Anh gọi điện thoại cho lão. Gọi nhờ người nước ngoài. Nếu bỏ tiền để gọi điện thoại làm sao có thể nói được dài dòng thoải mái. Bằng không, bắt được liên lạc rồi mình phải bỏ máy xuống, để lão ta gọi lại. Lão bảo lão mừng rỡ không sao kể xiết. Đã 30 năm nay gặp bất cứ người miền Bắc đi “công tác” lão đều nhờ tìm và hỏi thăm. Nhưng kết quả đem lại là lão vẫn thất vọng và thấp thỏm mong đợi vận may. Không ngờ. Thật không ngờ được. Lão tiếc là anh phải về nước, nếu không, lão sẽ bay đến chỗ “thằng con tuyệt vời của cha”. Lão dặn: khi về bảo mẹ viết thư và gửi ảnh của tất cả gia quyến cho lão. Cần những thứ gì cứ nói hết với lão. Bây giờ lão gửi cho mẹ 500 đô ăn quà sáng. Hai cháu nhỏ mỗi đứa 250 đô. Cháu gái lớn và vợ anh mỗi người một cassette và anh một chiếc cặp và máy ảnh du lịch. Chuyến ấy, ngoài bà mẹ, anh không hé răng nói với ai nửa lời. Nhưng bà mẹ cũng chỉ được anh chia cho “cái tin mừng” và anh đọc cho mà viết lá thư gửi đi.
- Thôi, chữ mẹ xấu mà chậm chạp lắm. Con cứ viết cho bố.
- Ông ấy bảo bà viết thư là ý để ông ấy nhận mặt chữ. Chắc ông ta còn “chắc lép” chưa tin.
Làm như thế lão cũng yên tâm mà anh thì không “liên quan”. Trong thư bà cũng chỉ xưng tôi và “con nó”, “cháu nó” và gửi cho lão bức ảnh hai mẹ con chụp ở nhà bà Nhớn từ những năm 40. Có ai kiểm tra cũng không biết đường nào mà lần. Đề phòng những gì liên quan đến mình. Còn bà lão sắp chết ấy ai người ta thèm để ý.
“Ông ơi, thôi thì cái tình của tôi đối với ông chả nói làm gì. Đúng là chỉ tội cho thằng con ông. Kể từ khi ở cái nhà ông cho, suốt mất chục năm ròng đến nay được biết người đã chui vào cái lán lá mía “làm lành” với nó chính là bố của nó thì thằng con ông không lúc nào không hỏi lục vấn về bố nó, không lúc nào nó nguôi nhớ bố. Vì thế cho nên nó cứ bắt tôi phải tìm bằng được bố nó cho nó, mà tôi thì biết lần đâu ra được bố nó hả ông? Làm sao mà tôi giả nhời cho nó rằng là có bao giờ con gặp được bố con không mẹ ơi”.
Bà mẹ cứ cắm như chôn ngòi bút vào trang giấy, bàn tay run lẩy bẩy không viết được những câu anh vừa đọc. Anh gắt:
- Cứ viết đi. Ai khiến bà phải nghĩ.
- Nhưng cứ phải nói cái sự thực con ạ.
- Sự thực là tôi nhớ bố tôi, chứ tôi bảo bà nhớ à? Đã bảo viết thư thì cũng “dấm ớt” vào cho nó xuôi mà nó có khác gì ngày xưa mẹ viết vào quyển vở định để cho ông ấy đọc? Nào thôi, câu cuối đến chữ nào rồi? Tiếp đi.
Bà mẹ lại run run viết những dòng chữ như kiến cánh bò lên bò xuống. Ngày xưa chữ bà cũng vào loại đẹp nhưng bao nhiêu năm có viết lách gì? Nhất là, cái tay bây giờ đã vò quần áo, xách nước quen thì không quen khiển được cái bút theo ý mình.
“Tuy là có đi đây đi đó dưng mà đi cho việc nước có bao giờ sắm nổi cho vợ con cái quần cái áo. Còn vợ nó, con dâu của ông cũng ốm đau luôn, nó lại phải nuôi cả bà mẹ già yếu ăn bám là tôi đây ông ạ. Tất cả sáu miệng ăn trông vào đồng lương tháng của nó chỉ đủ cho ba đứa trẻ ăn quà sáng ấy là nói thế để ông biết chứ cả đời vợ, con, cháu, chắt của ông có ai trông thấy miếng quà sáng là gì, ăn đói mặc rách đã đành một nhẽ, đã quen rồi, đến cái đoạn ở mới thật cực nhọc. Ngôi nhà ngày xưa ông bảo hương Dũng làm cho mẹ con tôi người ta tịch thu hồi cải cách rồi, bây giờ nó ra Hà Nội làm việc đem cả vợ con bà cháu ra ở chui rúc vào một xó bếp của một ông bạn nó phải chịu đựng nắng mưa gió buốt bẩn thỉu hôi hám lại nơm nớp lo người ta đuổi biết dắt díu nhau đi đâu. Ông ơi tôi bảo với ông rằng ông cứ quên tôi đi không phải lo nghĩ quà cáp gì cho tôi nó tốn kém ra ông dành dụm bớt xén được ít nào ông phải nhớ đến hòn máu rơi của ông ở quê nhà để nó đỡ hổ thẹn với chúng bạn. Cả đời nó đã tủi hổ vì không được gọi tiếng “bố” bây giờ lại để con rách nát quá sao đành hở ông. Cho nên rằng nó định làm lấy một chỗ cho bà cháu vợ chồng chui ra chui vào được ấm thân thì tiền lại không có. Ông nghĩ đến con thời hãy lo cho nó cái nhà ông ạ. Không được gặp bố mỗi lần đi đâu về trông thấy ngôi nhà bố cho là cũng như trông thấy bố nó cũng có thể ngẩng lên bảo với chúng bạn là bố tôi lo cho tôi, mấy chục năm biệt tăm tích bây giờ bố con mới liên lạc được với nhau ông cụ thương tôi lắm”.
Có lẽ tuổi già ở nước ngoài quá cô đơn, nên nhận thư người tình cũ ông đã phải nhờ người cầm thư gửi về bảo con: “Làm nhà đi. Đã làm thì làm cho đàng hoàng. Hết bao nhiêu bố lo cho cả”. Bà Đất lại được chép lá thư thứ hai nói là làm cho đàng hoàng theo ý ông phải hết bốn năm trăm nghìn đô la. Nhưng làm to quá cũng không tiện. Thôi hãy làm lấy một chỗ vừa đủ ở mà nó không úi xùi quá. Nghĩa là một cái nhà hai tầng, mỗi tầng độ ba bốn phòng, tính cả tiền mua đất ở Hà Nội bây giờ cũng hết độ năm mươi ngàn đô. “Hãy cứ như thế đã ông ạ”.
Nửa năm sau anh nhận được 9 ngàn đô la và thư của “bố” nói rằng chính sách cấm vận của nước ông đang ở không cho gửi quá 10 ngàn. Đợt đầu ông hãy gửi như thế để mẹ con kịp bắt tay vào xây dựng nhà trước khi bước sang năm mới. Không hề biết những bức thư và tiền gửi về, bà Đất chỉ chép lại những bức thư con gửi đi cũng đã mừng thầm cho con. Cả đời nó phải đi nhận một người bố giả đến bây giờ giời đất xui khiến thế nào, bố con lại liên lạc được với nhau, nó cũng đỡ tủi thân. Bà kề miệng lỗ rồi còn cần gì mà thù giận, trách oán ông ấy. Cốt con cái nó có chỗ nương tựa là phúc đức rồi. Ông ấy biết nghĩ lại lo cho con thì bà cũng đỡ đau xót ân hận về cái số phận không may để bà rơi vào tay ông ấy và đẻ ra nó. Niềm vui cũng như nỗi buồn không phải là cái xác chết, nên bà rất thèm giãi bày san sẻ. Hơn nữa, người ta có thể giấu giếm được nỗi buồn chứ không ai giữ kín được niềm vui. Con cháu Huyền nó cũng phong phanh biết điều gì đấy nên rất nhiều đêm nằm với bà nó lựa lời dò hỏi. Bao nhiêu lần bà cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Nhưng rồi không biết vì phải thanh minh với những câu “bắt nọn” của cháu mà bà đã kể hết đầu đuôi những bức thư gần như bà thuộc lòng, cho cháu nghe. Bà kể cả cái “lai lịch” ngày xưa với cháu.
- Nhưng tuyệt nhiên không được nói lại đến tai người khác cháu nhé.
- Bà yên tâm. Chuyện quan hệ với người nhà ở nước ngoài bây giờ thoải mái có gì phải vụng trộm.
- Nhưng bố con không muốn nó ầm ĩ lên cháu ạ.
- Cháu xin hứa với bà, bà cứ yên tâm mà.
Cô cháu đáo để ấy đã tìm cách lấy được địa chỉ của “ông nội” trong một lần bà viết vào phong bì. Cô viết thư cho “ông”. Sau những lời tự giới thiệu, thăm hỏi, mong nhớ. Cô viết: “Bà cháu, bố mẹ cháu và các cháu rất vui mừng nhận được tin và quà của ông (chắc chắn là có. Nếu không thì cũng sẽ có – cô nghĩ). Nhưng mẹ cháu có tính hay nghi ông ạ. Mẹ cháu cứ nghĩ là bố cháu bớt xén quà của ông để cho ai đó. Nên ông kê cho cháu cái danh sách quà ông gửi về để cháu còn biết. Ông nhớ là chỉ cho riêng cháu biết thôi để cháu tìm cách thanh minh cho bố cháu. Ông hãy gửi cho cháu theo... “Khi nhận được” danh sách” những lần ông gửi tiền, gửi quà cho những ai, cái gì, cô gọi bồ của bố bảo:
- Cái cassette mày đang dùng là của ông bồ bà tao gửi cho tao đấy nhé. Ai bảo tao ư. Ông ấy gửi cái gì về cho bà tao để bà tao đưa cho bồ mày tao chả biết. Nhưng mày cứ dùng tự nhiên. Tao chỉ nói thế để mày bảo ông ấy làm gì cũng phải rõ ràng minh bạch.
Một tuần sau Huyền mang cho bà cái đài để nghe cải lương. Vừa tới nhà, trời mưa ập xuống, cô định xộc vào chỗ bà nằm trong cái chái nhà lợp ngói vừa “vẩy” thêm ra cạnh cổng sắt. Nhìn qua khe cửa sổ giấy dầu vào phía trong thấy bố đang hầm hầm ngồi trước mặt bà. Cô nép mình ở giàn hoa giấy phía ngoài xem điều gì đang xảy ra.
Từ khi bố về công tác ở Hà Nội, chuyển cả hộ khẩu của bà và Huyền nhập vào hộ của bố. Vì đơn giản là phiếu dầu, bìa gia đình và các tiêu chuẩn khác của 6 người nhiều hơn hộ 4 người. Ba năm nay bố bắt bà ra ở hẳn Hà Nội lại cũng đơn giản là các em nó đi học, không có người coi nhà, giặt giũ, cơm nước. Bà ở được với cô Hiền cũng lại đơn giản ở chỗ lúc cô ấy không cần, bà lại sang ở với cháu Huyền. Khi cô ấy có việc, bà lại về “phục vụ”. Cô thấy bố quát:
- Ai bảo bà nói với nó?
- Thì con cháu trong nhà cả.
- Nhưng bà đã biết mồm miệng nó như thế nào, bà lại đem mọi chuyện của tôi nói với nó tức là bà có ý định hại tôi có phải thế không? Tôi cho bà suy nghĩ rồi trả lời tôi đi.
Mặt bà như rúm lại, nước mắt chảy lặng lẽ vào các “rãnh” chằng chéo trên mặt. Bố nó nhẹ nhàng:
- Nói đi. Bà nói tôi nghe đi.
-...
Bỗng giọng bố giật lên làm cho bà như nảy khỏi giường
- Nói đi. Nói. Sao câm mồm thế.
- Thôi mẹ đã trót nói rồi. Anh muốn bắt tội thế nào mẹ chịu thế.
- Bà chịu cái gì? Bà có biết cái con mất dạy ấy nó sẽ toe toe chuyện này lên, rồi tôi sẽ như thế nào không? Bà có biết con bé ấy nó điêu toa gian giảo như con mẹ nó không?
- Anh nghĩ ai cũng đi đặt điều, gian dối cả ư?
- Bà nói gì? Nói gì? Thời buổi này có đứa ngu nào nó lại không biết đặt điều vu oan giá hoạ cho kẻ nó không ưa. Huống hồ con bé này. Nó đã vu cho tôi bao nhiêu chuyện bà biết không?
- Lạy trời, lạy phật con cháu nó bốp chát thế dưng nó biết thương người. Tính nết thật thà, thẳng băng.
- Tôi biết bà đã vào hùa với nó để hại tôi. Tại sao bà lại độc ác với tôi như thế? Chỉ có loài súc vật nó mới ăn thịt con nó, bà hiểu không? Mai kia mà ai biết thằng tổng Lỡi là bố tôi, tôi thư từ liên hệ với hắn thì bà cứ liệu hồn. Tôi nói cho bà biết: nếu có bất cứ một sự nghi ngờ rắc rối gì trong công tác của tôi thì bà không yên thân với tôi đâu. Nhưng còn giữ làm sao được. Giời ơi, sao số tôi lại khốn nạn thế này. Bà Đất! Bà Đất!
- Anh gọi mẹ?
- Mẹ con cái con... tôi hỏi bà. Tại sao bà có ý định làm hại tôi.
- Lạy con, mẹ trót dại, mẹ cắn cỏ mẹ lạy con. Mẹ không bao giờ bụng dạ nào...
- Bà còn nhớ tôi dặn bà phải như thế nào không?
- Có. Mẹ vẫn nhớ, dưng...
- Nhưng bà là con lợn phải không? Rồi bà sẽ biết tay tôi.
- Thôi, anh không phải ra tay... ra chân gì nữa, để mẹ tự liệu.
- Bà liệu cái gì?
- Cả đời mẹ tối tăm oan khuất, bao nhiêu lừa gạt sỉ nhục mẹ chịu được tất. Mẹ chỉ nghĩ còn có con, như ngọn đèn soi sáng cho cái thân phận nhục nhã của mẹ để mẹ nương tựa. Nhưng đến con cũng đối xử với mẹ thế này, mẹ không thể nào sống được nữa.
- Bà định doạ tôi hả? Nếu chết được, bà cứ chết đi để tôi đỡ tốn công hầu hạ. Bà tưởng tôi cần bà lắm đấy hả? Nhưng mọi chuyện vỡ lở ra, có chết bà cũng không yên với tôi đâu.
Hiếu sầm sầm ra cổng. Sầm sầm đi đâu đó. Huyền đứng nép vào chỗ bóng tối ở một góc khuất của nhà khác. Đợi bố đi khuất cô định vào thu xếp mọi thứ đưa ngay bà về nhà mình, nhưng áo quần ướt sũng và người đang rét quá. Cô đạp xe về nhà thay quần áo và lấy xe máy. Đến khi trở lại thì... Cô bổ ngay đi tìm bà cùng vợ chồng Bình mà lại không thể ngờ bà đi ra phía bờ sông, đến bến Phà Đen!
*
* *
Ông Văn Yến vẫn ngồi lặng lẽ trong bộ quần áo ngủ màu trắng, cùng màu với mái tóc bạc của ông. Dưới ánh sáng của bóng điện in hình ông lên tường quét vôi ve trông im lặng như một bức tượng. Một anh dân quân “gác” nhà ông Từ cạnh chiếc máy nổ phát điện phía nhà Nạc chạy sang báo cáo, anh Hiếu xin phép gặp ông.
- Gặp gỡ cái gì? Thôi.
Giọng ông nhỏ nhưng đầy nỗi uất giận chứa chất trong người ông chưa thể nào thoát ra được. Một lòng tốt bị phản bội! Một nhân tâm bị chà đạp! Một chân lí bị vò xé? Tại sao nó lại đến mức này? Nó sa đoạ từ bao giờ? Những chuyến đi nước ngoài ăn phải bả bọn xấu hay từ khi nào? Bố đẻ ra nó là một chiến sĩ cách mạng hay tên Lỡi, một kẻ phản động đàn áp phong trào cách mạng khét tiếng của tỉnh này. Kẻ nào đã âm mưu đánh ngã một cán bộ đầy năng lực và trong sáng mà ông đã biết từ khi cải cách ruộng đất, nói đúng ra từ lúc mới khởi nghĩa ông vẫn giữ một ấn tượng về một đứa bé chỉ huy đội thiếu niên đoạt giải nhất mọi mặt trong cuộc thi của những xã ngoại bối trong ngày Tết Độc Lập! Là một người cha đỡ đầu của nó, chịu trách nhiệm toàn bộ nhân cách của nó, chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động của nó từ xã lên huyện, từ Nam ra Bắc, từ tỉnh đến Trung ương, sao bây giờ ông mới biết chuyện này! Nếu thực sự anh là kẻ phản bội mẹ anh, phản bội quê hương, đất nước thì thủ phạm của nó ở đâu? Phải bằng mọi cách lần tìm cho ra những kẻ luồn sâu leo cao phá hoại tận gốc những ý đồ tốt đẹp của chúng ta. Nhưng từ một tháng nay, ông đã giao việc cho các phó ban để chuẩn bị nghỉ hưu. Ông cũng vừa được hỏi ý kiến về việc đề bạt cấp tổng giám đốc một Tổng công ty xuất nhập khẩu cho cậu ta. Nếu ông phanh phui chuyện này để “phanh” việc đề bạt, mọi người sẽ nghĩ về ông như thế nào? Cả cuộc đời ông lo toan cho mọi người không hề sai phạm gì, đến lúc sắp về hưu mới “bục” ra chuyện tày đình liên quan trực tiếp đến uy tín và sự cống hiến của ông và bao nhiêu đồng chí khác. Ông còn đủ sức để tự “phơi mình” ra trước công chúng và lịch sử không? Thôi. Bằng cách nào cũng phải “khoanh” chuyện này lại. Phải tìm cách theo dõi, khống chế, “dẹp” cho nó êm đi. Nếu không, mọi người hoang mang, không có lợi cho việc bảo vệ uy tín của cán bộ mà kẻ địch lại khoét sâu vào mâu thuẫn nội bộ của chúng ta, sẽ không lường hết sức phá hoại của nó. Ông lấy hai ngón tay cái day day ở hai bên thái dương, đứng dậy đi đi lại lại ở hàng hiên trước nhà như có ý chờ đợi đứa con gái của anh ta để nói một điều gì đó hết sức hệ trọng.
Nhưng con bé cháu vẫn gục xuống thành ghế xa lông trong gian tiếp khách của nhà ông Từ, nơi ông vừa bước ra, đi bách bộ ở trước cửa. Đầu nó như đè lên cái bóng của nó đang lả thiếp.
Sau những tiếng nấc nghẹn đau đớn day dứt tự trách mình: “Tại sao cháu lại không vào ngay với bà?” cộng thêm nỗi vất vả long đong hốt hoảng suốt năm ngày đêm cùng vợ chồng Bình đi tìm bà, lúc này Huyền như một cái xác không hồn. Cô miên man trong những cơn mê sảng. Ông Văn Yến vẫn đi đi lại lại rất nhẹ nhàng chứ ông không gõ cửa. Mà cửa có khép đâu. Đúng rồi, cửa vẫn mở.
“- Ai đấy cứ vào đi. Cửa không khoá đâu.
“- Bà đây. Bà về với cháu đây. Có phải nhà ta không hở cháu? Cái giường của bà đâu rồi?
“- Ơi bà ơi, bà đi đâu suốt mấy ngày nay để cháu đi tìm bà khắp nơi. Thôi bà vào đi, vào nhà đi. Sao bà lại ướt luốt chuốt thế này. Để cháu lấy quần áo cho bà thay rồi bà nằm nghỉ đi. Cái giường của bà cháu kê lùi vào trong này để các ông phường kèn ngồi. Thôi đuổi họ đi. Họ thổi tí toét cái gì cứ chói cả tai.
“- Kệ, cho họ ngồi đấy cháu ạ. Cháu lấy gì đựng quần áo đi. Bà mang về cho cháu đây này.
“- Giời ơi, bà lấy đâu ra mà bao nhiêu quần áo đủ các mốt, các màu đẹp thế này? Cháu lôi mãi không hết. Sao cái tay nải của bà đựng được lắm thế hả bà?
“- Bà đi xem hội. Cơ man nào là người, ăn mặc đủ kiểu cổ ngày xưa và lối ăn mặc tân thời ngày nay, đẹp quá cháu ơi. Lại đủ các loại cờ dân, cờ thần, cờ ngũ phương, cờ đuôi nheo, cờ vẩy, cờ lệnh, lọng, tàn, quạt... cùng với bát bửu, gươm, giáo, chuỳ, mác, long mã đi bên kiệu nhất, kiệu nhị, kiệu long đình, long mã, rước cạn rồi rước nước vui lắm cháu ơi. Bao nhiêu giai tài gái sắc khiêng kiệu, cầm lọng, cầm cờ, đội tiền vệ, hậu vệ, đội múa dâng hương, phường trống, phường kèn, phường bát, phường trò, oai phong lẫm liệt, trông như hoa tươi nhưng khi hết hội họ bỏ quần áo ra người nào cũng đen như nhọ nồi, đầu trắng hếu như có hàng ngàn, hàng vạn con ma hiện hình, bà khiếp đảm quá nhưng vẫn cố nhặt lấy quần áo mang về cho cháu bà đấy, cháu ơi...
“- Sao cái túi của bà lắm ngăn thế này hở bà? Ối ối. Còi báo động. Báo động. Bà ơi! Bà đâu rồi? Đâu rồi bà ơi.
Cháu vừa kêu, vừa sấp ngửa xách túi chạy xuống hầm. Ôi... căn hầm tối quá. Mà không phải hầm.
Cô thấy mình đã chui vào cái quan tài vụn hết cả thịt, xương, đặt chân xuống thấy thùm thụp như gio, bước đến đâu bụi bay mù mịt đến đấy. Cô định kêu nhưng bụi bay vào đầy mồm không kêu được. Có tiếng gọi “Cháu ơi” của một ông già. Cô vùng lên định chạy thì hiện ra ông già trông giống như ông Văn Yến.
- Ông chỉ là người bạn của ông Văn Yến thôi, có một thời cũng cùng công tác với ông ấy nhưng bây giờ ông già quá rồi. Nào thôi, đừng nghĩ gì nữa. Cháu nghĩ gì ông biết hết cả không giấu được ông đâu. Nước đây lau mặt rồi súc miệng đi.
“- Ông ơi, sao ông lại ở đây?
“- Đây là chốn riêng của ông rồi đừng sợ. Cháu cứ ở đây với ông.
“- Không đâu. Cháu phải đi tìm bà cháu.
“- Bà cháu ở xa lắm rồi. Không còn ai ở đây. Chỉ còn hai ông cháu mình thôi. Phải đùm bọc rau cháo, hai ông cháu nuôi nhau mà sống cháu ạ.
“- Cháu không thể ở đây được.
Cô nhào ngay vào, một tay vặn tay ông, tay kia nhặt lấy chiếc chìa khoá chạy lao đi. Nhưng dưới chân cô cứ thùm thụp lún sâu xuống, bàn tay chới với, không biết túm vào đâu. Cô ngã sấp, ngã ngửa, phải lấy cả hai tay, hai chân vừa đạp vừa bơi, nhoài mãi mới ra được đến cửa. Đã lại thấy ông già ngồi quay mặt đi và những cái “đầu lâu” oai vệ cầm giáo mác chéo “gạc gầu” ngay trước mặt cô. Cô ẩy cái “gạc gầu” ra, xô đến ôm lấy cái khoá ở cửa. Nhưng bàn tay run rẩy chưa kịp cho chìa vào ổ khoá thì những bàn tay của “đầu lâu” như những cái kìm, kẹp chặt lấy tay cô. Cô nắm chặt chìa trong bàn tay, tay kia đấm túi bụi, đầu húc, chân đập và kêu gào:
“- Cứu tôi, cứu tôi với. Ối làng nước ơi cứu tôi, cứu lấy tôi. Tôi chết. Tôi chết. Ối... ối... ối bàn dân thiên hạ ơi”.
Cô ngồi bật dậy. Mồ hôi ướt đầm chân tóc và thấm đẫm chiếc áo “bà ba”. Ông Văn Yến đang đi đi lại lại ngoài cửa chạy vào hỏi:
- Làm sao thế cháu. Còn sớm, cứ chợp mắt nghỉ đi. Cháu mệt quá hay sao mà cứ kêu ú ớ mấy lần rồi.
Hai mắt Huyền trừng trừng nhìn vào ông rồi bỗng nhiên cô chạy lao ra cửa ôm lấy vợ của Bình cũng vừa đến đấy. Người cô vẫn run lên bần bật.
- Làm sao thế em?
- Chị ơi. Có thật là chị không?
- Thôi chết. Em ốm rồi. Huyền ơi. Mồ hôi em thế này mà người lạnh toát đi.
Ông Văn Yến cũng bảo:
- Cháu mang em vào nhà cho nó uống thuốc. Nó bị cảm rồi đấy.
Huyền được chị dìu vào nhà, pha nước chè đường đập gừng uống cùng với những viên thuốc của ông Văn Yến đưa. Nằm một lúc ở giường phía bên kia, cô tỉnh ra hỏi:
- Chị đến đây lâu chưa?
- Thấy em kêu ú ớ mê sảng, ông Văn Yến cho người gọi chị.
- Chị có nghe thấy em nói gì không?
- Đã bảo chị vừa chạy đến đây thì em chạy lao ra.
- Không biết ông Văn Yến có nghe thấy em nói gì không?
- Chắc em nói gì xúc phạm đến ông hả?
- Không. Nhưng em nằm mê.
- Ông già phúc hậu như ông tiên ai lại đi chấp chuyện con cháu. Mà lại nằm mê thì sợ gì.
- Có thật không chị? Em sợ ông lắm.
- Ông thương em và giận bố đấy. Suốt từ lúc ngồi nói chuyện với em xong, ông buồn lắm, cứ đi đi lại lại ở trước cửa kia.
- Thế chị biết hết mọi việc à?
- Thì em thế, chị ngủ làm sao được.
Cô bảo người cô đã khoẻ lại rồi, chị cho cô ra đường một lúc để bớt ngột ngạt. Hai chị em ra phòng khách, mặt cô đỏ lên nói lí nhí:
- Cháu đỡ rồi, cháu xin phép ông ra ngoài này.
Ông Văn Yến bảo người chị:
- Cháu lấy cái khăn, cái mũ gì đấy quàng vào cổ hoặc đội lên đầu cho em. Tránh sương sớm. Mà đi từ từ cho quen dần đừng ra gió đột ngột là cảm lại, nguy hiểm đấy các cháu nhé.
Huyền:
- Cháu cảm ơn ông. Chị cháu đưa mũ cho cháu rồi đây ạ.
Hai chị em ra khỏi bờ tre thì tiếng kèn đôi lại cất lên não nuột cùng với tiếng trống bung, bung bung cầm trịch. Từ lúc xẩy ra sự xô xát đến giờ hầu như liên tục phường bát âm và kèn đồng thay nhau vang lên ở loa để nó át đi tất cả những tiếng kêu khóc, tiếng ồn ào cãi cọ, quát mắng nhau ở trong nhà, ngoài sân. Ai cũng bảo tiếng trống đánh rất nhảm và tiếng kèn đồng thổi toe toét lúc đêm hôm là rất vô lối nhưng phải làm thế chứ còn biết thế nào. Chỉ có mấy ông kèn ta thổi lâm khốc là đúng với cảnh đau thương chia lìa của người chết, nhưng về khuya các ông ấy phải ngủ lấy sức cho ngày hôm nay. Vì nếu ngày hôm nay không có cái tiếng trống bung, bung, bung cầm chịch với tiếng kèn ò é e, e í ò... ò thì còn ra gì cái đám ma. Cũng vì thế mà tiếng kèn cất lên lúc này lại làm cho Huyền khựng lại, hai hàng nước mắt lặng lẽ giàn ra. Có lẽ lúc này cô mới thấy ngấm nghía nỗi đau mất bà. Bà mất thật rồi! Không còn gì nữa rồi. Tiếng khóc lại bật lên và hai bàn tay cô ôm lấy mặt, người rung lên từng chập. Người chị giữ chặt lấy vai cô, để cô tựa hẳn vào mình, đợi cho em vợi đi nỗi đau đớn chị mới bảo:
- Bà thì không thể nào lấy lại được nữa. Em cứ thế này, chị không còn biết làm thế nào.
Một lúc sau Huyền nén tiếng nấc lại, cô lau nước mắt hỏi:
- Chị ơi, chị có bỏ em không?
Người chị ghì chặt lấy vai Huyền bằng bàn tay của mình bảo:
- Thôi đừng nói gì nữa. Chị chỉ tính thế này. Từ nay con cháu lớn sang ở hẳn với cô và ngày nào chị cũng đến ngủ chỗ em khi nào em hết giật mình.
- Chị ơi, thế thì em cảm ơn chị lắm lắm. Chị ở đây đợi em cúng “ba ngày” bà rồi cùng về chị nhé.
- Em làm bất cứ việc gì, cũng sẽ có chị Huyền ạ.
Hai chị em họ ôm lấy nhau, dìu đỡ nhau đi giữa cánh đồng buổi sớm ở làng Cuội lúc mới có một vài bóng người nhập nhoà trong sương.
Xong lúc 6h ngày 31-10-1991
Tại đoàn an dưỡng 295 Đồ Sơn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.04.2006 09:55:27 bởi conbo2 >