Tản Mạn Cuối Tuần

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 70 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
Tản Mạn Cuối Tuần - 09.01.2006 16:53:54
Niềm Tin và Cuộc Sống

Có lẽ không gì buồn chán bằng một cuộc sống không định hướng! Không gì thất vọng bằng một cuộc đời không lý tưởng, không lẽ sống! Sống mà không biết tại sao mình sống! Sống mà không biết mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường, khổ đau và thất vọng nhất. Mọi người, bạn cũng như tôi, cần phải có một niềm tin vào một lý tưởng hay một lẽ sống nào đó để mà sống .

Theo một câu chuyện cổ ở nước Anh, liên tục trong 500 năm liền. Cứ mỗi đêm Giáng Sinh dân chúng tại một thành phố nọ đều tụ họp lại ở một thánh đường, không phải để mừng ngày sinh của Chúa mà để chờ đợi Chúa trở lại. Từ 500 năm qua, cứ mỗi đêm Giáng Sinh, mọi người đều đến ngôi thánh đường đổ nát ấy để cầu nguyện theo ý hướng ấy. Nhưng ngày trở lại của Chúa Giêsu vẫn chưa xảy đến. Khi được hỏi: Bạn có thực sự tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại trong đêm Giáng Sinh tại thành phố của bạn không? Một trong những nhân vật chính trong câu chuyện trả lời như sau:
- Không, tôi không bao giờ tin như thế.
- Vậy tại sao bạn lại đến đây mỗi đêm Giáng Sinh?
Nhân vật này mỉm cười trả lời:
- Giả như Chúa thực sự trở lại trong đêm đó và tôi là người duy nhất vắng mặt thì sao?
Nhân vật chính trong câu chuyện trên đây quả thật không có một niềm tin siêu nhiên nhưng ít ra người này còn có một niềm tin nào đó để đến ngôi thánh đường trong đêm Giáng sinh cầu nguyện với mọi người.

Gần đây một vị mục sư, tại một nhà thờ Anh Quốc đã phải công khai xin lỗi các trẻ em vì ông ta đã quả quyết là không hề có ông già Noel. Ông nói với các em rằng: Người tặng quà cho các em trong đêm Giáng Sinh không phải là ông già Noel mà chính là cha mẹ các em. Các em đã khóc sướt mướt, khiến cho cha mẹ các em đã phải lên tiếng phản đối và cuối cùng vị mục sư này đã công khai đính chính.

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, dù ông già Noel chỉ là truyền thuyết nhưng cần thiết cho tâm hồn trong trắng của trẻ em cũng như niềm tin cần thiết cho cuộc sống của chúng ta. Chúng ta cần có niềm tin để tiếp tục sống. Chúng ta cần có niềm tin để vượt qua những nghịch cảnh và thử thách trong cuộc sống.

Nhưng niềm tin là gì?
Có hai quan niệm cơ bản trái ngược nhau về thực chất của niềm tin.
Quan niệm thứ nhất cho rằng, niềm tin có trước ý thức, mở đầu cho ý thức và sau đó các ý thức hệ, tín ngưỡng, tôn giáo... được hình thành từ niềm tin. Quan niệm thứ hai thì ngược lại, cho rằng niềm tin là sản phẩm của ý thức. Việc quan niệm nào đúng sai là một chủ đề rất bao quát và rộng lớn ngoài khuôn khổ của bài viết. Nhưng có một điều chắc chắn là bất kỳ quan điểm nào đúng thì hình như ai cũng "đồng ý" là niềm tin có một giá trị độc lập của nó. Niềm tin giúp con người vượt qua những giới hạn của ý thức để hình thành những khả năng khó ngờ và siêu phàm của con người.

Niềm tin đến từ đâu hay cái gì tạo ra niềm tin? Cảm xúc là nguồn cảm hứng để khơi gợi, xây dựng niềm tin và những cảm xúc - đặc biệt cảm xúc tạo niềm tin - là một phần thiết yếu của đa số tôn giáo. Cảm xúc cũng là cái duy trì niềm tin, lý do này rất quan trọng vì muốn được niềm tin thì tình trạng cảm xúc tạo niềm tin đó phải được giữ vững. Niềm tin đến với chúng ta từ nhiều cơ duyên. Niềm tin có thể phát sinh từ sự trực nhận của ngũ giác quan như mắt thấy, tai nghe, lưỡi nếm, mũi ngửi, tay sờ. Có niềm tin đến với chúng ta do nhận thức và suy luận như khi thấy có khói thì lý trí suy luận và tin là nơi đó phải có lửa, như khi nghe tường thuật tin tức về một án mạng chúng ta có thể suy luận đây là một tai nạn hay là sự cố ý sát nhân. Có niềm tin đến do bối cảnh của truyền thống văn hóa, nền tảng giáo dục và đạo đức nhưng vì khác biệt văn hóa, người Tây phương tin rằng nụ hôn cho nhau lúc gặp mặt là biểu hiện của sự thương mến và quý trọng nhưng người Á đông thì không tin như vậy; như vì nền tảng giáo dục thì sinh ra ở trong gia đình theo tôn giáo nào thì thường con cái sẽ theo đạo đó. Có niềm tin đến với chúng ta từ sự thực nghiệm, cảm nhận, kinh nghiệm của cuộc sống, như lúc còn trẻ tuổi khi nghe nói là lúc già cơ thể bị lão hóa sẽ không còn linh hoạt nữa, hay khi nghe những người lớn tuổi than thở về sự suy giảm của sức khỏe, mệt mỏi, chúng ta không thật sự hiểu và tin cho đến khi bản thân chúng ta trải qua giai đoạn này thì sẽ hiểu và tin; như những lời dạy của Phật, của Chúa, của các bậc thánh nhân hiền triết thì phải qua sự thực nghiệm chúng ta mới thực sự hiểu và tin.

Niềm tin, nói chung có thể chia thành hai loại chính: Loại thứ nhất là loại ngăn trở trí tuệ. Loại này dựa vào kích động, thậm chí ép buộc. Cấm hẳn việc nghi ngờ chủ thuyết hay giáo điều. Chỉ được phép phục tùng. Niềm tin theo loại này không có chỗ cho trí tuệ phát triển. Phải có niềm tin, phải phục tùng, trung thành triệt để và bất chấp lý trí. Loại niềm tin thứ hai là con đường dẫn tới trí tuệ. Loại này kích thích tính tò mò, khích lệ khởi sự việc học tập. Trên thế giới này có quá nhiều điều cần phải biết. Không có niềm tin, chúng ta không biết phải bắt đầu từ điểm nào, đường hướng nào phải theo để học tập, nhưng khi một người có niềm tin, đề tài hay giáo lý sẽ cho điểm khởi thủy. Niềm tin thức tỉnh sự chú ý và khích lệ chúng ta tiến tới đề mục đã quan tâm. Tin tưởng vào con người, đặc biệt, sẽ dẫn đến việc tiếp xúc và học hỏi nơi người khác.

Như chúng ta đều đồng ý, là làm người ai mà không có niềm tin và ước vọng, tin nơi chính mình, tin nơi người khác, ước vọng cuộc đời mình sẽ như thế này hoặc như thế nọ. Một người mà đánh mất niềm tin và ước vọng thì sẽ không còn thấy được ý nghĩa của cuộc đời nữa. Đánh mất niềm tin và ước vọng thì người ta gọi là tuyệt vọng, không còn một chút hy vọng gì cả đối với cuộc đời này. Trong đời sống thường nhật, khi làm bất cứ điều gì chúng ta cũng có niềm tin và ước vọng là sẽ thành tựu và khi thất bại thì chúng ta thường hay có thái độ tuyệt vọng, chán nản, mất niềm tin vào chính mình. Trong số những niềm tin và ước vọng của con người, có một niềm tin và ước vọng rất lớn, rất mãnh liệt, đó là niềm tin và ước vọng vào cuộc sống, vào sự hiện hữu giá trị của mình trên thế gian. Chính niềm tin và ước vọng vào cuộc sống này đã và sẽ dẫn dắt chúng ta đi suốt cả đời người. Vì vậy nếu chúng ta thiết lập niềm tin và ước vọng không chính đáng thì cuộc đời của chúng ta cũng sẽ theo định hướng sai lầm đó. Thế nhưng, xác định được niềm tin đúng theo nhận thức thường nghiệm của thế gian lại là một vấn đề không đơn giản. Một thí dụ cụ thể, là ở vào thập kỷ này hầu hết chúng ta đều tin vào sự chính xác của kiến thức khoa học hiện đại, nhưng khoa học hiện đại thì không như là những gì chúng ta tin tưởng, cái đúng hôm nay có thể bị chứng minh là sai hay thiếu sót ngày mai, không có gì để đảm bảo kiến thức khoa học là chân lý tuyệt đối. Một số các lý thuyết khoa học một thời đã được cho là chân lý khoa học, đã làm nền tảng cho kiến thức khoa học, với thời gian đều tự nó không đủ bảo đảm sự giá trị xác đáng vĩnh viễn. Như hiện nay, thuyết tương đối (General Theory of Relativity) của Albert Einstein, các nhà khoa học đã xem như là không đủ để giải thích toàn vẹn và rõ ràng các hiện tượng vũ trụ và Stephen Hawking, một nhà vật lý học người Anh, đã phải phối hợp thuyết "cơ học lượng tử" (Mecanique quantique) để đề xuất ra một hướng mới cho vũ trụ học. Và với tiến bộ của khoa học, ngay lý thuyết cơ bản về nguyên tử (Atom) cũng đã được giải thích khác nhau. Hiện nay, với khái niệm về "hạt điện tử" (quark) thì ranh giới của cơ cấu vật chất định hình gần như bị xóa mất và tiến dần vào cảnh giới vô hình, vô tướng.

Một nhận xét đáng được nêu ra, là với sự phát triển của khoa học, con người được trang bị những kiến thức khoa học hiện đại, hình như con người đã không còn dựa vào niềm tin tôn giáo như lúc xưa. Nhưng niềm tin tôn giáo cái mà chúng ta gọi là tín ngưỡng và tôn giáo nhân gian thì vẫn còn rất gần và thật với con người. Niềm tin tôn giáo hay tín ngưỡng, vẫn tồn tại như đã có từ bao nhiêu thế hệ. Niềm tin khoa học thì dường như thay đổi với thời gian. Trong lịch sử nhân loại, cũng đã có những người trở thành cuồng tín với một chủ thuyết nào đó, mà một thời thao tác trên thế giới này, rồi cuối cùng lại phát hiện ra rằng đó chỉ là một thứ lý thuyết không tưởng, huyễn hoặc gấp ngàn lần hơn niềm tin, tín ngưỡng và tôn giáo nhân gian. Thí dụ cụ thể là sự sụp đổ và phá sản về niềm tin vào chủ thuyết duy vật, đúng hơn là chủ thuyết cộng sản (Communism) trên thế giới trong hai thập kỷ vừa qua. Gần đây, những nhà khoa học cho biết, trong tương lai, họ có thể biết một người đang nghĩ gì, đơn giản chỉ cần dùng một cái máy, hay phân tích các chất tiết ra từ bộ não. Những việc như vậy có cơ sở khoa học thực tế và có thể thành công, nhưng sự thật của các vấn đề ấy sẽ cho thấy, có giống như Sir Arthur Eddington khám phá "Cái bóng của thế giới các ký hiệu"? Không phải thực sự là chân lý mà chỉ là cái bóng của chân lý?

Và mới vài hôm gần đây, theo tin từ BBC và Livescience, một nhóm các nhà khoa học Thụy Sĩ đã phát hiện ra một loại hormone trong người, tên là oxytocxin, có công dụng làm cho con người tin cậy lẫn nhau. Như vậy thì tương lai con người có thể tìm thêm được "niềm tin chứa đựng trong lọ thuốc" (?). Nhóm nghiên cứu nàyđã dùng chất oxytocxin để thí nghiệm về quan hệ giữa việc tin nhau và trao tiền cho nhau. Tiến sĩ Michael Korsfel là kinh tế gia, tại Viện Nghiên Cứu Mô Hình Kinh Tế đặt tại Zurich, Thụy Sĩ và là trưởng nhóm nghiên cứu cho biết:”Chúng tôi phát hiện công dụng của hormone niềm tin trong một cuộc thí nghiệm, khi chúng tôi yêu cầu những người tham gia giao tiếp với những người khác bằng cách cho tiền. Tức là một người có thể trao tiền cho người khác. Hành động này đo lường mức độ họ tin cậy lẫn nhau vì một người muốn trao tiền thì phải có lòng tin vào những người khác. Những người ngửi hít oxytocin biểu lộ trạng thái dễ dàng tin tưởng vào người khác, theo khía cạnh là họ sẵn sàng trao tiền cho họ”. Để xác định kết quả này có do lòng tin tạo nên, các nhà nghiên cứu đã thực hiện một thí nghiệm thay thế người được ủy thác bằng máy tính. Những nhà đầu tư - cho dù đã được ngửi oxytocin - vẫn không dễ dàng mạo hiểm số tiền của mình cho máy móc. Các nhà nghiên cứu cho rằng kết quả chứng tỏ oxytocin tăng cường niềm tin giữa con người, hơn là đẩy lùi nỗi lo sợ rủi ro của người ta. Antonio Damasio, một nhà nghiên cứu tại Đại học Iowa, nhận định: "Kết quả đã mở ra những khả năng cho việc tìm hiểu các điều kiện mà ở đó lòng tin được tăng lên hoặc suy giảm, như trong trường hợp tự kỷ".
Oxytocin là loại hóa chất do não bộ tạo ra một cách tự nhiên, được thôi thúc bởi một loạt các chất kích thích, trong đó bao gồm chuyện cho con bú và làm tình với nhau. Theo các khoa học gia thì trong tương lai hormone này có thể giúp chữa các loại bệnh về bất ổn tinh thần.

Chân lý hay là cái bóng của chân lý, thì trong thực tế nền văn minh khoa học hiện đại được xây dựng dựa trên những nguyên tắc nghiêm túc, khách quan, thực nghiệm và lý trí. Xa hơn nữa, chúng ta không có ai có thể phủ nhận được các thành quả hữu ích mà khoa học đã mang lại cho loài người, trong đủ mọi lĩnh vực của đời sống và rất là nhiều không thể kể xiết. Một thí dụ cụ thể trước mắt là bản thân tôi, nếu không ở vào thời đại điện toán, thì có lẽ tôi không có dịp để nghe, đọc những cuộc diễn thuyết, phỏng vấn, các bài viết, tài liệu v.v... để học hỏi thêm từ mọi người, ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ mọi nẻo đường đời, để mở mang kiến thức, có nguồn cảm xúc tạo cảm hứng để tôi xây dựng niềm tin, tin ở chính mình hơn chút và tin ở người khác để học hỏi một cách hiệu quả và dễ dàng như thế này. Nói một cách khác, là cơ duyên để niềm tin đến với tôi tăng lên rất nhiều với sự giúp sức của những thành quả khoa học. Lý do đơn giản thôi vì nếu không có mạng lưới internet thì có lẽ rất nhiều bài viết liên quan đến niềm tin, tôi sẽ không bao giờ có dịp để xem và tôi sẽ không có dịp hiểu thêm chút về niềm tin để có đủ tự tin mà viết bài này.

Để kết luận bài viết, tôi xin gởi đến các bạn một câu chuyện về niềm tin: “Nhà bác học thời danh của Pháp là Louis Pasteur không những nổi tiếng vì những khám phá trong lãnh vực y khoa mà còn được nhắc nhở hơn vì niềm tin sâu sắc của ông. Vì niềm tin ấy người ta thường kể giai thoại như sau:
Trên một chuyến xe lửa xuyên tỉnh, một sinh viên trẻ tuổi ngồi gần bên cụ già, chỉ vài phút đồng hồ sau khi đoàn tàu chuyển bánh cụ già liền rút trong túi ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong sự cầu nguyện, người sinh viên theo dõi cử chỉ của cụ già và xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa cho nên mới lên tiếng nói:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông còn tin ở chuyện nhảm nhí ấy?
Cụ già điềm tĩnh trả lời:
- Đúng thế, tôi vẫn còn tin, còn cậu, cậu không còn tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi tin những chuyện nhảm nhí ấy nữa, khoa học quả thực đã mở mắt cho tôi, ông cứ tin tôi đi, hãy quăng cái tràng chuỗi ấy đi và học hỏi những khám phá mới của khoa học, ông sẽ thấy rằng tất cả những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già điềm tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, cậu có cách nào giúp tôi hiểu được những điều đó không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách, ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người thanh niên, người thanh niên lặng lẽ dời chỗ sang toa khác khi đọc xong danh thiếp bởi vì tấm danh thiếp ấy cậu đã được đọc như sau: Louis Pasteur, Viện nghiên cứu khoa học Paris”.

Chúc các Bạn thiết lập được niềm tin và ước vọng vào cuộc sống xác đáng cho bạn .

Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI/14/07/2005)

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 09.01.2006 17:10:38


Hoa Tre: Hạnh Phúc Cuối Đời


Xứ lạnh vào khoảng giữa mùa xuân và giữa mùa thu thời tiết ấm áp. Vạn vật, đặc biệt là thảo mộc, hình như biết là những ngày nắng ấm sẽ qua nhanh nên "trưởng thành", đâm chồi, nẩy lộc, trổ lá, đơm bông, kết trái rất là vội vã so với thảo mộc của miền nhiệt đới. Nếu để ý quan sát, thì chỉ cần một đêm thì cảnh vật chung quanh đã đổi khác rất nhiều. Hay có lẽ đây chỉ là cảm nhận của những người sống nơi cực bắc của trái đất, cũng như thảo mộc, trong lòng luôn chờ đợi, vui đón và tận hưởng những ngày nắng ấm. Từ màu trắng quen thuộc, buồn bả và chán ngấy của tuyết vây phủ bốn phía suốt mùa đông dài thay vào đó đủ màu sắc rực rỡ của cỏ cây hoa lá, một sự thay đổi mà hình như dân xứ lạnh luôn chờ đợi và mở rộng vòng tay đón tiếp mỗi năm.

Chiều qua, đến thăm viếng người thầy cũ. Nhìn khu vườn "quê hương bỏ túi" của thầy, ngoài những giống hoa, cây kiểng bản xứ thì còn vài chậu mai, trúc kiểng, quỳnh ... và những loại hoa kiểng khác mà thầy và bạn bè của thầy đã cho phép chúng "nhập cảnh" lén, vì ở Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) qui định về nhập cảnh các loại thảo mộc lạ rất chặt chẽ . Thầy tôi, ở tuổi về hưu, nên có thì giờ và có lẽ cũng như nhiều người Việt sống lưu vong khác, thầy "mang theo quê hương của mình ra đất khách" như có thể "làm" được. Đây là một điểm đặc thù của dân Việt Nam mà ít có giống dân khác giống. Chữ "quê hương" ở đây bao gồm tập tục, thói ở, nết ăn, tính tình, văn hoá ... Nói chung thì cho đến nay, trên xứ người, thì "quê hương" mà người Việt sống tha hương mang theo có nhiều ưu điểm. Thí dụ như món phở, thì đã đủ sức đương cự với pizza của Ý, sushi của Nhật, chaomien của Tàu ... và đã trở thành một món ăn khá "quen thuộc" với một số dân chúng ở Mỹ, Canada và một số nước ở Châu Âu. Cả tổng thống Mỹ Bill Clinton cũng đã từng "xơi ngon lành" hai tô phở và dĩa gỏi cuốn một lượt, trong một bửa ăn. Lẽ dĩ nhiên "quê hương" của người Việt mang theo ở xứ người cũng không thể tránh được khuyết điểm như vụ "rau muống ở Florida". Rau muống do người Việt tỵ nạn thả trồng trong các lạch mương của vườn riêng đã mọc tràn lan ra các hồ nơi du lịch làm cản trở sự đi lại của du thuyền của du khách. Tiểu bang Florida đã phải bỏ ra hàng triệu đô để dọn và diệt trừ rau muống vì du khách là một trong những nguồn thu nhập chính của tiểu bang. Hiện nay, rau muống đã trở thành món rau "quốc cấm" cho dân Việt ở Florida. Và "tính đi trễ" của người Việt trong các buổi lễ hội của cộng đồng, đặc biệt là đi dự đám cưới, cho đến nỗi người ta đã có câu ví: " không say không phải Mễ, không trễ không phải Việt Nam".

Quê hương người Việt tha hương mang theo là một câu truyện dài. Tôi xin trở lại chủ ý chính của bài viết hôm nay về hoa nói chung và đặc biệt hoa tre. Tre một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời .

Trên trái đất, có muôn vạn loài hoa, mỗi loài có một nét đẹp và hương sắc riêng. Từ trinh nữ, lan rừng ... sinh trưởng nơi hoang dã không cần bàn tay chăm sóc cho đến những hoa hồng rực rỡ kiêu sa trong những vườn hoa, những chậu lan quí được chủ nhân chăm sóc cẩn thận. Mỗi loài hoa, chúng ta biết hay chưa biết, hình như đều ẩn chứa một huyền thoại. Ai đã từng thức đêm ngắm hoa quỳnh nở chắc khó dằn được cảm xúc trước cái đẹp của hoa quỳnh, nhìn những cánh hoa cong trắng nõn nà, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngào ngạt, ngây ngất, và chỉ qua đêm là hương sắc đã tàn phai . Nhìn hoa sen, chợt nhận ra lẽ vô thường của kiếp người, sự thanh cao, trong sạch của các bậc giác ngộ . Ai sẽ không buồn khi nhìn thấy hoa ty-gôn, hình tim vỡ, đỏ như màu máu và liên tưởng đến những câu thơ của TTKH. Như người xưa một lần qua núi, thấy hoa lau nở trắng bạt ngàn, đã phải buông ra một câu hỏi buồn với rặng phi lau : Sao vừa nở ra đã vội bạc đầu thế hở lau ơi?... Và có một loài cây chỉ nở hoa lúc cuối đời, nở xong là chết, nở như biết mình đã đến và sẽ ra đi trong cuộc đời, nở như để dọn đường giã từ sự sống. Tre và hoa tre chết đứng chứ không rủ xuống như bao loài hoa khác, tre và hoa như đang thi gan cùng tuế nguyệt . Một hình ảnh hiên ngang và bất khuất giữa trời đất mênh mông, giữa muôn ngàn giống loài của thảo mộc. Thản nhiên trong cõi đi về tựa như một triết nhân đã ngộ được chân lý về sự sống chết của cuộc đời.

Trên thế giới, Việt Nam không phải là một quốc gia duy nhất có tre. Trừ Châu Âu và một số ít vùng Châu Úc, tre gần như có mặt ở khắp nơi. Tre có tên khoa học là Bambysaceae, lấy từ gốc Mã Lai là Bambu, xếp chung cho các loài tre - trúc. Ở Việt Nam, tre mọc rất nhiều và khắp nơi. Ngoài được trồng ở thôn xóm, làng xã... tre còn mọc tập trung thành rừng từ Bắc chí Nam. Tre gồm hơn 40 loài và 15 giống khác nhau như: Hoa, Bương, lồ ồ, gai, vầu, mỡ, nứa, tàu, mạnh tông, tầm vông, trinh, giang, le, trúc, là ngà v.v... Ở Mỹ, thì có khu Vườn Tre (Bamboo Garden) của trường Foot Hill College, thành phố Los Altos, tiểu bang California. Khu vườn tre này có khoảng 70 loại tre trên thế giới, từ các loại tre ở miền nhiệt đới cho đến các loại tre miền ôn đới . Thông thường thì tre đươc trồng bằng gốc, và một gốc tre được ươm trồng thì hai năm đầu chỉ bén rễ, đến năm thứ ba thì mới có măng (tre non). Vì nhu cầu kỹ nghệ, con người đã nghĩ cách trồng tre bằng hạt, nhưng chu kỳ ra hoa, kết quả của tre thường lâu: từ 5 đến 60 năm 1 lần và sau khi ra hoa tre thường chết hàng loạt. Gần đây, các nhà khoa học Ấn Độ đã nghiên cứu kỹ thuật kích thích tre nở hoa trong phòng thí nghiệm bằng dung dịch gồm có nước dừa, muối khoáng, đường, vitamin. Kết quả sau 15 - 20 ngày, tre đã nở hoa.

Đã là người Việt Nam thì ai cũng biết cây tre, nhưng tôi nghĩ rất nhiều người không có dịp để thấy được "tre nở hoa". Tôi chỉ có dịp thấy hoa tre nở một lần vào giữa thập niên 60, những bụi tre gai ở góc vườn hương quả của tổ tiên, bung nở từng chùm hoa vàng nhạt như màu đất, xen giữa màu xanh của lá tre. Tôi không nhớ là bao lâu, những cây tre từ màu xanh dần chuyển sang màu ngà. Cho đến một hôm nọ thì thân tre đã khô lại. Ở trên cao, những chùm hoa tre khô cong đong đưa trong gió như những bàn tay đang vẫy chào tiễn biệt. Tôi nhớ là Nội tôi thường ra vườn nhìn những bụi tre nở hoa và khe khẽ thở dài. Hình như Nội đã tiên đoán một điều gì đó sẽ xảy ra. Những năm kế tiếp sau đó, thì chiến tranh lan tràn đến làng tôi, bom đạn đã làm cháy hết cả nhà cửa, vườn tược, gia đình tôi đã phải dọn về tỉnh ở. Từ sau 75, thì dịu vợi quan san cách trở, tôi chưa có dịp để trở về thăm lại khu vườn xưa, có lẽ đã đổi chủ . Nhưng hình ảnh của quê nhà và bụi tre nở hoa như vẫn còn khắc đậm trong tâm trí. Ký ức hiện về và rõ ràng như những đoạn phim quay chậm.

Cây tre gắn bó với dân Việt Nam tự ngàn xưa Tôi nghĩ đã là người Việt Nam, dù ở đâu và làm gì, ai cũng mang trong mình một bóng tre của quê hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, nơi quây quần chia xẻ buồn vui của cuộc sống của những cộng đồng người Việt từ hàng bao thế hệ. Hai chữ lũy tre thường gợi cho người nghe hình ảnh tươi mát thân yêu của một làng quê bên nội hay bên ngoại nào đó. Và không biết tự bao giờ, tre đã tham dự vào cuộc sống người Việt như một thành tố không thể thiếu được. Chuyện cổ tích về tre thì cũng có nhiều như trong huyền sử Việt Nam, có truyện Phù Đổng Thiên Vương giúp vua đánh đuổi giặc Ân để cứu nước và giữ nước. Roi sắt bị gãy, Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre hai bên đường làm vũ khí để đánh đuổi giặc Ân. Hễ bụi này tan thì chàng trai làng Gióng lại ném đi và nhổ bụi khác. Cứ thế cho đến khi giặc tan tác, đầu hàng, thì chàng cỡi luôn ngựa sắt bay lên núi Sóc để về trời. Tôi chưa được tới thăm quê Thánh Gióng để chiêm ngưỡng di tích huyền sử. Nhưng theo lời kể lại, của những người đã có dịp viếng thăm, thì hai bên đường lên núi Sóc người ta còn thấy những ao lớn, theo truyền thuyết thì đây là dấu chân của ngựa sắt để lại, và những bụi tre nghiêng ngã tự bao đời là cháu chắt của những bụi tre Thánh Gióng ném ngày xưa. Lại có chuyện đời xưa kể rằng vào một mùa Đông, khi tuyết phủ khắp mọi nơi thì bà mẹ Mạnh Tông trở chứng thèm măng. Mùa Đông làm gì tre có măng, Mạnh Tông thương mẹ quá, đành đội tuyết ra ôm gốc tre khóc lóc năn nỉ xin một búp măng để vui lòng mẹ. Lòng hiếu của Mạnh Tông đã làm cảm động gốc tre già và một mầm măng nhú lên như phép lạ. Phải chăng tre cũng có hồn và tấm lòng để hòa đồng và cảm thông với con người?

Cây tre có mặt trong truyện cổ tích , trong thi văn, trong hội họa, trong âm nhạc. Trong các loại nhạc khí cổ truyền của Việt Nam thì có cây sáo trúc và cây đàn bầu được chế tạo từ họ nhà tre, rẻ tiền, dễ kiếm , cấu trúc đơn giản nhưng âm thanh lại cực kỳ phong phú. Cái khèn của dân miền núi, cái đàn t’rưng cũng từ tre mà ra. Cái mõ ở chùa làm bằng gỗ, thường là gỗ mít, nhưng cái mõ của làng lại làm bằng tre. Dù trong thời buổi kỹ thuật tân tiến hiện đại, tre vẫn là hình ảnh một thành tố quen thuộc thân yêu gắn bó với dân Việt. Hình ảnh là cái đòn gánh bằng tre nhịp nhàng đàn hồi theo bước đi làm nhẹ vai cô thôn nữ gánh nước từ bến sông, gánh hàng ra chợ bán. Hình ảnh chiếc nón lá với mười sáu vành tre che nắng, che mưa của những người mẹ Việt tảo tần ngược xuôi, lo lắng sinh kế để nuôi đàn con khôn lớn. Hình ảnh duyên dáng của những cô gái Việt bẽn lẽn, e ấp dấu nụ cười duyên với người tình dưới chiếc nón lá "bài thơ" . Như nhiều dân tộc Á Đông khác chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, Tết Nguyên Đán của ta cũng bắt nguồn từ phuơng bắc, nhưng với cây nêu tre và bánh chưng, bánh tét (buộc với lạt giang - giang cũng thuộc vào họ nhà tre- ) thì Tết Nguyên Đán đã trở thành Tết Việt Nam . Kể sao cho hết những đóng góp của tre cho đời sống của dân Việt từ ngàn xưa đến nay. Tre thủy chung một mối tình vĩnh cửu với người dân Việt. Tre lặng lẽ hiến dâng cho đời và hy sinh tất cả. Trong hành trình dâng hiến của mình, tre dâng tặng con người âm thanh từ máu thịt của nó. Tre tạo nên tiếng sáo trúc như tiếng Trương Chi đã làm điêu đứng Mỵ Nương, người con gái cành vàng lá ngọc. Tre tạo nên cây đàn bầu khiến cả thế giới phải nghiêng mình trước ngón độc huyền của dân Việt. Tre là vũ khí giúp dân Việt chống đuổi ngoại xâm giữ gìn bờ cõi. Tre lại còn là thực phẩm ngon cho con người (măng tre).

Trong ký ức tuổi thơ của tôi, thì đầy ắp những kỷ niệm với tre, ống thục bằng trúc, cần câu cấm bằng tre gai, cần câu cá sông thì bằng trúc, sườn diều bằng tre hay trúc ... Và nhớ luôn cả cái ngu lúc còn đi học khi đọc bài ca dao "Lính Thú Đời Xưa" và dõng dạc "tuyên bố" giữa lớp là : " bài ca dao trật vì cây mai làm sao có măng?" Đến nỗi ông thầy dạy Việt văn phải bật cười . Vì trong thực tế, ở ngoài Bắc, có một loại tre cũng được gọi là "mai" .
"Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẳn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai?
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa, lấy ai bạn cùng?
Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng!"

Và khi đọc câu ca dao ví von về khó khăn :" Nhất đốn tre, nhì ve gái" thì tôi đã hết hiểu nổi luôn, nhưng im thin thít. Vì ở vào cái lứa tuổi đó (lớp 6, lớp 7) thì "dù nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò", nhưng "ve gái" là một chuyện, ở vào lứa tuổi đó, hầu hết chúng tôi đều xem đây là một chuyện khó khăn nhất. Mãi sau này lớn lên, và có dịp xem đốn tre và kỷ thuật cần thiết để bảo đảm an toàn cho người đốn thì tôi mới hiểu. Vì đốn tre không đúng kỷ thuật thì người đốn có thể bị thương hay mất mạng do "sức bật" của cây tre bị đốn. Còn "ve gái" thì cùng lắm là bị cho "de" hay tệ hơn là bị cho "ăn guốc".

Theo luận án của võ sư Nguyễn văn Sen, môn phái Vovinam, Việt Võ Đạo: " Theo quan niệm đông phương, tre - trúc tượng trưng cho mẫu người quân tử. Cứng mà mềm mại, đổ mà không gãy, lòng rỗng không, biểu tượng cho tinh thần và khí độ an nhiên tự tại, không mê đắm quyền vị, vật chất của mẫu người quân tử Á Ðông. Trúc hợp với Mai để làm một cặp biểu trưng thể hiện phẩm tính Âm - Dương, Cương -Nhu, nói lên tình cảm và hào khí dân tộc Việt. Một dân tộc có tiết tháo, phẩm hạnh vừa kiêu hùng, vừa quân tử. Ngoan cường nhưng hiếu hòa, độ lượng." Và " bắt nguồn từ các quan điểm trên, nhưng phong phú hơn, Vovinam Việt Võ Ðạo quan sát cây tre ở nhiều góc độ để xây dựng một con người vừa cao quí như một bức tượng thần để chiêm ngưỡng, là mục đích để noi theo, đống thời cũng là một con người bình thường gần gũi, hòa nhập với cộng đồng để mưu tìm hạnh phúc bình dị, chấp nhận mọi hoàn cảnh, mọi mẫu người. Coi đó như một tất nhiên và hóa giải các tất nhiên đầu mâu thuẩn bằng nguyên lý cương nhu phối triển. Cho nên, TRE còn là biểu tượng cho yếu lý võ thuật."
Tóm lại, nếu " người ta là hoa của đất" như tục ngữ nói, và tùng bách là biểu hiện của ngươì quân tử ẩn dật, thì tre là biểu tượng của ngươì quân tử dấn thân. Từ khi sinh ra, tre đã sống và trả nghĩa cho đất cho người. Khi tre nở hoa cũng là lúc tre giã từ cuốc sống. Một cái chết hùng tráng, không cho người cảm giác bi ai, não nùng của sinh tử biệt ly. Tre nở hoa trước khi chết. một cách đi vào cõi chết rất đẹp, ung dung tự tại tựa như một triết nhân đã giác ngộ chân lý về lẽ sống chết của cuộc đời.

Chúng ta là hoa của đất đang đi những trên con đường đầy hoa trong cuộc sống. Muốn vội vàng thì cứ vội vàng, muốn la cà thì cứ la cà, muốn dùng dằng thì cứ dùng dằng, muốn vương vấn bước chân thì cứ vương vấn ... Trời đất vần xoay, vạn vật biến chuyển, có lúc nào đường sẽ không hoa chăng? Có hoặc không, chắc không ai có thể trả lời cho bạn và tôi. Thôi thì cứ dấn thân vào vạn nẻo đường đời gần xa của cuộc sống và tự mình tìm cho mình câu trả lời.

Chúc bạn và tôi một cuối tuần vui !

Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI/4/8/2005)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2006 12:57:54 bởi Lý Lạc Long >

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 09.01.2006 17:18:00


HƯƠNG SẮC QUỲNH HOA


Trong tất cả các loài hoa trên mặt đất, có lẽ hoa quỳnh là một trong những loài hoa hiếm hoi đặc biệt nhất. Cây hoa giản dị, ban ngày trông xoàng xĩnh tầm thường nhưng về đêm lại là vua của muôn hoa. Hoa Quỳnh thường được gọi là "Night Blooming Cereus" (Queen of the Night, Moon Cactus, Night Cactus, Orchid Cacti), thuộc họ xương rồng(Cactaceae) có tên khoa học là Epiphyllum grandilobum, Epiphyllum oxypetallum, Phyllocactus grandis, Selenicereus grandiflorus... Sau khi tra cứu, tôi vẫn không biết đích xác danh từ khoa học nào áp dụng cho loại hoa quỳnh màu trắng ở Việt Nam thường chỉ nở về đêm mà thôi. Nhưng thôi chuyện này hãy để dành lại cho những nhà khảo cứu chuyên môn. Hôm nay tôi chỉ muốn mời bạn cùng tôi thưởng thức hương sắc của hoa quỳnh qua những vần thơ, những cảm xúc của thi nhân ghi lại khi ngắm quỳnh hoa - nữ hoàng của các loài hoa nở trong đêm - khoe sắc tỏa hương. Và huyền thoại của hoa quỳnh.

Từ ngàn xưa, hoa được coi là thông điệp của tâm hồn. Chúng ta ai mà chẳng yêu hoa, ai mà chẳng có kỷ niệm đẹp về những loài hoa. Từ cổ chí kim, hoa bao giờ cũng được coi là biểu tượng của cái đẹp. Và các thi sĩ cổ kim từ đông sang tây, hầu hết đều rung động, cảm xúc trước cái đẹp của hoa. Có thi sĩ nào lại không yêu hoa và trân trọng vẻ đẹp của các loài hoa. Đỗ Phủ, một nhà thơ Trung Quốc, đã viết: "Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân" (Mỗi cánh hoa rơi cũng làm giảm đi vẻ đẹp của mùa xuân). Người Á đông có phong cách độc đáo riêng trong sự thưởng thức vẻ đẹp của các loài hoa: Tao nhã, tinh khiết, trầm lắng... một phong cách Á đông.

Ngắm Quỳnh nở hoa được các cụ ngày xưa liệt vào loại thú vui tao nhã bậc nhất trên đời. Mỗi lần biết hoa sắp nở, họ thường mời thêm vài người bạn thân đến để thưởn g hoa. Trong khi chờ ngắm hoa nở, các cụ thường pha một ấm trà ngon, thưởng thức hương vị đậm đà của chung trà nóng trong khi chờ đợi Quỳnh khai hoa nở nhụy. Nhân gian bảo hoa Quỳnh nở vào nửa đêm nhưng không phải vậy. Hoa quỳnh nở sớm hơn rất nhiều. Từ chập tối, nụ hoa đã no tròn chúm chím. Đài hoa mở dần, những đường gân hoa trắng xanh bung ra từ từ. Cuống hoa mới ban ngày còn rất nhỏ, vào đêm thoắt dài ra như cánh tay con gái xanh xao. Thường cứ vào tám giờ là giờ hoa Quỳnh bắt đầu nở. Nhìn nụ hoa mở lòng trinh bạch, thi nhân nghe tim mình bỗng dưng đập rộn. Gió đêm thoảng nhẹ, cuống hoa cứ vươn dài ra, những cánh hoa run run e ấp. Từ giữa lòng hoa, lấm tấm một dãy nhụy trắng đội mũ vàng trạng nguyên tỏa sâu vào lòng đêm. Mùi xạ hương bay ra ngất ngây.

Bên mái trăng non,đêm quá nửa
Muôn hương vườn ngậm cánh mong manh.
Gió mơ, lá ngủ, sương đi lãng,
Bẽn lẽn hoa quỳnh hé ý trinh.
(Đông Hồ)

Ôm ấp dáng tinh hoa của trời đất
Cánh ngọc ngà, hương khép nép lời dâng
Một phút giây tô điểm nét giang san
Một phút giây mà nghìn thu dậy sắc
(Hoàng Ngọc Quỳnh)

Khi hoa nở những cánh trắng tươi nõn nà mềm mại xòe ra, tỏa hương thơm dìu dịu quyến rũ đưa người thưởng hoa vào cõi bát ngát tận cùng của hư không...rồi từ từ khép lại giữa những đài hoa phong kín như ban đầu...

Hoa trăng với lại hồn tôi
Phút giây hư thực đất trời trôi qua.
Đến khi thức dậy nhìn ra
Ánh trăng vừa tắt, sắc hoa vừa tàn
(Tế Hanh)

Lặng lẽ bốn mùa với nắng mưa, hoa có thể nở bất cứ giờ phút nào. Từ lúc bình minh khi những hạt sương óng ánh còn đọng trên cành lá, hay lúc ban trưa dưới ánh nắng gay gắt chói chang của mặt trời, hay trong đêm dưới ánh trăng sao khi đa số chúng ta đang yên giấc. Có lẽ vì vậy mà ít người để ý đến một thế giới huyền bí kỳ ảo của những loài hoa chỉ khoe sắc tỏa hương trong đêm với trăng sao. Và trong thế giới của các loài hoa đêm này, hoa quỳnh đã được tôn là nữ hoàng. Người tây phương nói hoa Quỳnh tượng trưng cho "sắc đẹp phù du" (transient beauty), nở đó để rồi tàn đó, khoe sắc hương tuyệt vời chỉ trong vài giờ phù du.

Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để mà tan
Người gần để ly biệt
(Xuân Diệu)

Nhưng cũng có người nói rằng hoa Quỳnh tượng trưng cho "vẻ đẹp chung thủy" (loyal beauty), vì quỳnh chỉ nở một lần rồi tàn tạ, cũng như một tình yêu đầu tiên nguyên thủy và duy nhất dâng hiến cho người tình trăm năm.

Tóc em ngọn gió trăm nguồn
Chở đầy thương nhớ vây buồng phổi ta
Từ em hơi thở quỳnh hoa
Nụ thơ hàm tiếu ru ta tình đầu
(Vương Ngọc Long)

Có lẽ không có màu trắng nào sánh được với màu trắng của hoa quỳnh. Dường như có chút gì đó rất liêu trai trong hương sắc hoa quỳnh. Một màu trắng trinh bạch, một vẻ đẹp huyền ảo mong manh làm xao xuyến lòng người. Cho nên không lạ khi nhiều người ngắm hoa quỳnh bỗng nghe lẫn trong mùi hương quỳnh văng vẳng tiếng vó ngựa lao xao, tiếng reo hò một thuở và tiếng bật khóc nức nở của ai đó bên ngoài hiên vắng... Từ hoa nở đến hoa tàn chỉ trong vài giờ. Ngắn ngủi kiếp hoa, phù du kiếp người như nhắc nhở chúng ta mọi việc trên đời đều vô thường.

Quỳnh hoa âm thầm nở
Bóng đêm hờ hững rơi
Giọt sương hay giọt lệ
Lặng lẽ trên môi cười
Hương đêm vương lá cỏ
Chuông điểm thời công phu
Chú tiểu lơi tiếng mõ
Hoa lẻn vào kinh thư
Bát Nhã Ba La Mật
Thơm ngát quỳnh hương ơi!
Đời vô thường,
Không thật
Đêm tàn,
Trăng khuyết rồi.
Chú tiểu ngân nga tụng:
"Huyễn mộng bào ảnh thôi"
Vườn trăng.
Hoa quỳnh nở
Vườn trăng,
Hoa quỳnh rơi
Chú tiểu còn tĩnh tọa
Trăng đã vỡ làm đôi
Chú tiểu vừa nhập định
Trăng đã thành mặt trời
(Diệu Trân)

Theo truyền thuyết, vào thời nhàTùy (605-617) ở Dương Châu,Trung Quốc, có Tùy Dạng Đế là ông vua hôn quân vô đạo, chơi bời trác táng, xa hoa, phung phí, một đêm nằm mơ thấy cây trổ hoa đẹp. Và cùng thời điểm ấy, tại Lạc Dương thành có ngôi chùa cổ kính là Dương Ly, vào giữa canh ba, ngoài cửa chùa thình lình ánh sáng rực lên như lửa cháy, hương thơm sực nức lạ lùng, như sao trên trời sa xuống, làm dân chúng bàng hoàng đổ xô đến xem đông như kiến cỏ. Gần giếng nước trong sân chùa chợt mọc lên cây bông lạ, trên ngọn trổ một đóa ngũ sắc với 18 cánh lớn ở phía trên, 24 cánh nhỏ ở phía dưới, mùi thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi nơi, lan xa ngàn dặm. Dân chúng đặt tên là hoa Quỳnh. Điềm báo mộng của vua Tùy Dạng Đế được ứng với tin đồn đãi, nên Vua yết bảng bố cáo:"Ai vẽ được hoa Quỳnh đem dâng lên, Vua trọng thưởng". Không đầy tháng sau... có một họa sĩ dâng lên Vua bức họa như ý. Nhìn đóa hoa trong tranh vô cùng xinh đẹp, tất nhiên hoa thật còn đẹp đến dường nào! Nghĩ vậy, Vua liền quyết định tuần du Dương Châu để thưởng ngoạn hoa Quỳnh. Trong chuyến tuần du cần có đủ mặt bá quan văn võ triều thần hộ giá, nên để tiện việc di chuyển, Tùy Dạng Đế ban lệnh khai kênh Vạn Hà từ Trường An đến Dương Châu. Hàng chục triệu ngày công làm việc phải bỏ ra, hàng vạn con người phải vất vả bỏ mình. Kênh rộng cả chục trượng, sâu đủ cho thuyền rồng di chuyển. Hai bên bờ kênh được trồng toàn lệ liễu đều đặn cách nhau 10 mét một cây (điển tích "dặm liễu" xuất phát từ đó, như trong câu thơ: "Dặm liễu sương sa khách bước dồn" của Bà Huyện Thanh Quan). Kinh đào xong, một buổi lễ khánh thành được cử hành trọng thể, đoàn thuyền giương buồm gấm khởi hành... cả nghìn cung nữ xiêm y rực rỡ, mặt hoa da phấn... thuyền rồng thì được buộc bằng các dải lụa dùng để kéo đi. Vua Tùy Dạng Đế ngồi trên mui thuyền rồng uống rượu nghe đàn hát ca, ngắm cảnh sắc Giang Nam và đàn cung nữ tuyệt thế giai nhân, hễ thấy nàng nào vừa ý thì vua cho vời vào hầu ngay. Chuyến tuần du này của Tùy Dạng Đế vô cùng xa xỉ, hao tốn công quỹ triều đình. Đây là một trong những nguyên nhân đẩy đất nước đến đói nghèo, loạn lạc khắp nơi, đưa nhà Tùy đến sụp đổ, tạo cơ hội cho nhà Đường dựng xây cơ nghiệp đế vương. Trong những quan quân hộ giá, có cha con Lý Uyên. Qua thời gian hơn 90 ngày, đoàn du hành đến đất Dương Châu. Thuyền vừa cặp bến, con của Lý Uyên - phương danh là Lý Thế Dân - cùng bằng hữu rủ nhau lén lút đi xem hoa ngay trong đêm, sợ sáng hôm sau triều thần cùng đi đông thì lớp trẻ như họ khó chen chân lọt vào vườn hoa. Lý Thế Dân là người có chân mạng đế vương (về sau là Vua Đường Thái Tông 627-649) nên khi hoa vừa nhìn thấy chàng, Quỳnh hoa nhún mình lên xuống 3 lần để nghinh đón. Cánh hoa cong trắng nõn, nhụy hoa điểm xuyết màu vàng, hương hoa ngọt ngào. Dưới ánh trăng vằng vặc hoa đẹp tuyệt vời! Lý Thế Dân và bằng hữu xem xong thì một cơn mưa to đổ xuống làm hoa rủ cánh hết. Sáng hôm sau Tùy Dạng Đế xa giá đến xem hoa, chỉ còn thấy chơ vơ cánh hoa úa rũ, tan tác. Vua tức giận, tiếc công nghìn dặm không được xem hoa liền ra lệnh nhổ bỏ, vứt đi. Từ đó hoa Quỳnh chỉ nở về đêm cho những ai có lòng lân ái: "Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên". Sau chuyến tuần du, nhiều cuộc bạo loạn nổi lên khắp nơi Tùy Dạng Đế bị cận thần sát hại dẫn đến nhà Tùy mất ngôi, Lý Thế Dân đứng lên lập nên nhà Đường.

Người ta trồng Quỳnh bằng cách cắm cành và Quỳnh được trồng trong chậu để dễ di chuyển khi xem hoa nở. Kỹ thuật trồng Quỳnh nở về đêm theo Peter Hines (The Oregonian, Home and Garden, October 2, 2003) thì trồng Quỳnh để có hoa nở về đêm được xem là tương đối... dễ dàng (?). Sau đây là cách trồng của Peter Hines về hoa Quỳnh tại Portland (Oregon): Cắt một đoạn lá từ cây gốc, ngâm trong nước đến khi rễ mọc ra từ lá và trồng cây vào chậu có hỗn hợp 2/1 đất "potting" và "peat". Giữ cây đủ ẩm trong mùa hè và khô trong mùa đông. Chăm sóc cây bằng cách tưới phân "Peter" 2 tuần một lần. Khi cây bắt đầu đâm chồi, dùng phân có chứa nhiều "phosphorus" hơn. Trong các tháng 10-11, tùy thời tiết có giá lạnh hay không, chuyển cây vào trong nhà xe để có độ lạnh mát cần thiết thúc cây nở hoa. Đưa cây ra ngoài trở lại vào tháng 4-5 (tùy thời tiết bên ngoài), điều quan trọng là giữ Quỳnh đừng chịu ánh nắng trực tiếp mỗi ngày quá 1 giờ (nắng sáng hay chiều, tránh nắng giữa trưa). Quỳnh sẽ trổ hoa trong tháng 9. Hoa bắt đầu nở khoảng 8-9 giờ tối, tỏa hương thơm và nở trọn vẹn vào nửa đêm... rồi tàn ngay vào sáng hôm sau. Dù chúng ta, ai cũng yêu thích hoa nhưng cuộc sống tất bật vội vã của thế kỷ hiện đại, với quá nhiều nhu cầu khác của đời sống thực tế. Có lẽ đa số các bạn cũng như tôi chưa có dịp hoặc không có thì giờ và điều kiện để thưởng thức cái thú vui tao nhã này. Cuộc đời vô thường, kiếp người phù du, công hầu khanh tướng, giàu nghèo sang hèn... rồi thì khi xuôi tay cũng sẽ trở về cùng cát bụi. Một lần ngắm Quỳnh hoa nở trong đêm nơi xứ người là ước vọng của tôi hiện giờ. Có lẽ nay mai tôi sẽ ươm cho mình một chậu Quỳnh...

Chúc các Bạn một cuối tuần vui!

Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI/ 06/08/05)

Ct.Ly

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 10.01.2006 23:21:43


Trích đoạn: ct.ly

Chào thi sĩ TTL,
Hôm nay thi sĩ cũng có nhả hứng viết văn,
CtLy đọc và thích nhất là chuyện TTL nói về đóa hoa quỳnh,

Theo Ly biết thì hoa quỳnh có nhiều loại, có loại như TTL nói, chỉ nở về đem, và tàn héo vào buổi sáng,
Có loại màu hồng nhạt, ( loại này khg thơm lắm) thì nở cả ngày,
có loại nở được vài ngày, nhưng hoa nhỏ hơn, nhưng màu cũng hồng đậm hơn

Riêng mà trắng là loài hoa xinh nhất, to nhất, đẹp nhất mà tàn nhanh nhất, nhà của ctly cũng có hai bụi, nhưng trồng nó phải dùng loại đất cho cây xương rồng, đừng nên tưới nhiều ,

Nhưng công mình cầy cấy, nưng chìu, mà nhìn nó có 1 đêm, đêm nào mệt ngủ sớm là khỏi nhìn luôn.

Cuộc đời thật dúng là phù du, mới còn gặp nhau đó, sáng đã khg còn gặp nữa, nhưng đó goi là định số của mỗi con người,Đạo Phật đã nói: con người ai cũng phải trãi qua sanh, lão , bệnh, tử, ai cũng phải chịu thôi
Nhưng nói là nói, nhưng mà xảy ra rồi, mơí biết nói thì dể , thực thì khó.

Thấy hoa Quynh , làm ctly thấy thích, vì là loại hoa mình thích, nên vào nói thêm 1 tí, TTL đừng phiền nhé, như cây tre thì ctly hỏng biết nhiều, nên đọc trong lặng lẽ vậy

Những bài Tản mạn cuối tuần, đã được mang vào thư viện

Mong đươc đọc thêm những loài hoa gì của TTL tiếp nối nhé

Thân ái


Hi Ct.Ly,

Cám ơn Ct. Ly đã ghé xem... và làm ơn gọi tên đi (bỏ giùm "...sĩ" đi... ttl là "...sư" mà cứ bị bắt làm "...sĩ" hoài. Buồn thiệt !!! )

Ct.Ly cũng rành về hoa Quỳnh quá hén. Vâng, quỳnh thì ttl cũng đã có thấy nhiều loại... nhưng cũng giống như CtLy, ttl thấy hoa quỳnh trắng là "đẹp" nhất... và "phù du" nhất.

Vòng "sinh tử" của đời người không ai tránh khỏi. Và biết thì ai cũng biết... Rất đồng ý "nói" thì dễ lắm, nhưng đụng chuyện mới biết cái "khó" của vấn đề này. Như Ct.Ly mới vừa "experience" sinh ly tử biệt (ttl biết là khó "take it easy" lắm, nhưng cũng xin chúc Ct.ly thêm nhiều nghị lực để vượt qua.)

Cám ơn đã chia xẻ cảm xúc... và không dám phiền đâu. Ngược lại nữa , welcome Ct.Ly any time.

ttl đăng tiếp bài viết về hoa Mai... quỳnh thì quỳnh trắng, mai thì mai vàng :).

Thân mến,
ttl

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 10.01.2006 23:33:32




Mai Vàng, Mùa Xuân và Việt Nam


Mai, Lan, Cúc, Trúc là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mai vàng, một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp Xuân về, với dân Việt, hoa mai đã trở thành sứ giả biểu tượng cho mùa xuân của vùng đất phương Nam từ nghìn năm trước. Trong văn chương, hoa mai đã có mặt trong thơ của thiền sư Không Lộ, thiền sư Mãn Giác từ thời nhà Lý, thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần, trong thơ của Nguyễn Trãi thời nhà Lê, trong những tác phẩm nổi tiếng như Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, trong Lục Vân Tiên của Nguyễn đình Chiểu ... và rất nhiều những vần thơ, những áng văn của các văn thi nhân khác từ cổ chí kim viết để ca tụng hoa mai . Trong số này, có hai câu thơ, tương truyền là của Chu Thần Cao Bá Quát, mà khi đọc sẽ thấy ngay địa vị của hoa mai trong tâm tưởng của thi nhân Việt .
”Thập tải luân giao cầu cổ kiếm
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.

(Mười năm chu du tìm gươm cổ
Một đời chỉ cúi lạy hoa mai.)

Thiền sư Huyền Quang, ông tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã "phong" cho hoa mai ngang hàng "ngự sử".
"Ngự sử mai hai hàng chầu ráp
Trượng phu tùng mây rặng phò quang"


Mai cũng có mặt trong hai câu thơ khắc trên chiếc dĩa cổ cuả triều Nguyễn, trưng bày ở Huế mà tác giả theo tương truyền là của Nguyễn Du.
"Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen"

Nhưng hiện nay tác giả của hai câu thơ trên là đề tài đang được tranh luận . Giữa Nguyễn Du, Định Viễn Quận Vương và Đông Các Đại Học Sĩ Đinh Phiên, ai là tác giả vẫn chưa có kết luận.( Ðịnh Viễn Quận Vương là hoàng tử thứ 6 của vua Gia Long. Ðông Các đại học sĩ Ðinh Phiên là người đã phụng mệnh vua Gia Long làm phó sứ cho Cần Chánh đại học sĩ Nguyễn Xuân Tình sang Thanh năm 1819) .

Xuân đến- xuân đi, những ngày Xuân trôi qua, nhìn những cánh hoa mai vàng rơi lìa khỏi thân cành như nhắc nhở dòng thời gian đến-đi, hoa nở- hoa tàn, tóc xanh- tóc bạc . Vòng đời luân chuyển, mọi việc trên đời đều vô thường. Vô thường của thời gian, vô thường của cỏ cây hoa lá, vô thường của kiếp người. Một sự chu chuyển tất yếu của thiên nhiên và sinh mệnh. Ai cũng đến đi, ai cũng trẻ già, ai cũng sống chết. Ngắn ngủi một kiếp người, đã là thế nhân làm sao thoát khỏi vòng sinh tử. Phàm nhân tục tử, như hầu hết chúng ta, chắc ai cũng có những cảm giác băn khoăn, nuối tiếc, lo lắng, sợ hãi... khi nghĩ đến thời điểm phải rời xa trại tạm trú trần gian này. Làm sao có thể an nhiên, tự tại, thanh thản, sẳn sàng đón nhận sanh tử vô thường như các bậc giác ngộ ? Dù có chờ hay chẳng đợi, thì con người vẫn phải phụ thuộc theo sự vận hành của đất trời, như một phần tử của bộ máy tạo hóa xoay chuyển và biến hóa mãi không ngừng. Dù vui hay buồn thì Xuân cũng đến và đi . Như tâm sự của Chế Lan Viên khi xuân về :
" Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi tất cả là vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau…"


Mỗi độ xuân về, có lẽ bài kệ thi "Cáo Tật Thị Chúng " của thiền sư Mãn Giác được nhắc đến nhiều nhất vì cái hay, cái đẹp của tứ thơ và phong thái của một bậc giác ngộ đối diện với Sinh, Trụ, Dị và Diệt của vạn vật và con người .

Cáo Tật Thị Chúng
"Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai."


(Xuân đi, trăm hoa rụng
Xuân đến, trăm hoa khai
Đời thoáng ngang qua mắt
Tóc trên đầu bạc phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.)

Xuân đến trăm hoa khoe sắc thắm, xuân đi qua trăm hoa rơi rụng. Xuân đến và đi, với thiền sư, thanh thản, nhẹ nhàng, bình yên và an lạc . Với thời gian, tóc xanh mới đó đã thành bạc thì cũng chẳng có gì vướng bận tâm hồn. Những gì đã qua không nuối tiếc, những gì chưa đến không mong cầu. Bình thản, tự tại và an lạc sống với hiện hữu, trước những cảnh biến đổi của thời tiết thiên nhiên, trước những đổi thay dâu bể của cuộc đời. Nhưng đây là cách ứng xử của một bậc chân tu, đã giác ngộ lẽ sinh tử vô thường của cuộc sống. Còn thế nhân như chúng ta, tâm tư đầy ắp bóng dáng khổ lụy của kiếp người. Lúc được thì vui, lúc mất thì buồn. Khi gần gũi thì hạnh phúc, khi ly biệt thì đau khổ. Được khen thì tươi tắn, bị chê thì ủ rũ. Như ý thì hân hoan, trái ý thì cáu giận ... Tóm lại, chúng ta là phàm nhân, rất khó kềm chế lòng ham muốn của con người nên luôn bị chi phối bởi những cảm giác thương yêu, ghen ghét, lo âu, sợ hãi, buồn sầu, vui vẻ, khổ đau, hạnh phúc ... và làm sao không nao núng tâm thần trước những biến đổi lớn lao của cuộc sống. Nhưng đã sinh ra làm kiếp con người, dù có "Trải qua những (một) cuộc biển dâu; Những điều trông thấy mà đau đớn lòng", dù không đủ khả năng giác ngộ mọi việc như một bậc chân tu, dù phải chân ngắn bước dài, lên cao xuống thấp, thăng trầm theo buồn vui nhân thế thì chúng ta cũng phải sống, và sống cho trọn một kiếp trăm năm. Dù vẫn biết bài thi kệ "Cáo tật thị chúng", thiền sư Mãn Giác có ý nhắn dạy thế nhân về qui luật vận hành tất yếu của thiên nhiên và cái vòng tử sinh luân hồi của kiếp người. Nhưng mùa xuân đã qua mà thiền sư vẫn trông thấy một nhành mai ở sân trước. "Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận; Đình tiền tạc dạ nhất chi mai." Có chăng một cành mai nở muộn lúc xuân tàn? Hay thiền sư đã nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân nơi cành mai tàn có thực trước sân chùa? Theo qui luật thiên nhiên thì cành mai chắc chắn là không có hoa , nhưng sư Mãn Giác đã nhận ra thông điệp của mùa xuân kế tiếp, của thế hệ kế tiếp nơi cành mai không hoa ấy mà nói thế để truyền dạy cho thế nhân thông điệp: Mùa Xuân trường cửu trong vạn vật. Ước mong chúng ta có thể nhìn thấy sự trường cửu của mùa Xuân trong mọi việc đã qua, đang xảy ra và sắp đến. Mùa Xuân là mùa cây lá đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa khoe sắc thắm... Mùa Xuân là mùa của sự sống, là biểu tượng cho sự cát tường của đời sống.

Hoa mai đã đươc tao nhân, mặc khách ưa chuộng bởi cái vẻ đẹp thanh khiết cao quý, hương hoa nhẹ nhàng thanh tịnh . Trời càng lạnh, hoa càng tỏa hương thơm hơn nên hương của hoa mai còn được gọi là "lãnh hương" (hương lạnh). Màu vàng của hoa mai là màu tượng trưng cho sự vinh hiển cao sang, màu tượng trưng và dành riêng cho vua chúa thời xưa. Theo thuyết ngũ hành, thì màu vàng thuộc hành Thổ, nằm ở vị trí Trung Ương của bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Màu vàng cũng là màu biểu tượng cho nòi giống Việt. Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên khi dân Việt phuơng Nam chọn mai vàng để đón Xuân, để đón cái Tết Nguyên đán thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc .

Nhiều quốc gia trên thế giới có một tập quán rất hay, họ gọi tên quốc gia bằng tên của một loài hoa như : Hòa Lan là xứ sở của hoa tulip, Bungari là đất nước hoa hồng, Nhật Bản là đất nước hoa anh đào, lá phong (maple leaf) là biểu tượng của Canada ...v.v Cũng là thảo mộc như bao loài thảo mộc khác nhưng nhưng những hoa, lá đó là biểu tượng của một quốc gia, mang trên mình sứ mệnh của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả một dân tộc. Cũng với định ý này, người Nhật đã vinh danh hoa anh đào là quốc hoa (kuni no hana) của Nhật Bản. ChoViệt Nam, nếu theo tập quán có ý nghĩa, hay và đẹp này thì hoa mai có thừa đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Mặc dù là vậy, ở Việt Nam, hoa mai vẫn chưa được "vinh danh" xứng đáng với tầm vóc và phẩm chất của một loài hoa cao quý. Có lẽ, mọi người dân Việt nên suy nghĩ "dùm" cho hoa Mai . Có thể nói, đây là suy nghĩ cho cả dân tộc và đất nước VN luôn chứ không phải cho riêng hoa mai. Phần của hoa mai thì chắc cũng đã hài lòng với những tước hiệu như "sứ giả của mùa xuân", " ngự sử", "loài hoa cao quý", "bạn song hành với thi nhân" ... mà dân Việt đã dành tặng cho hoa mai qua bao nhiêu thế hệ.

Mỗi độ xuân về, ngoài trời tuyết phủ trắng cảnh vật. Đã bao nhiêu cái Tết chẳng có mùi vị Xuân trôi qua im lặng đến lạnh lùng như khí hậu lạnh lẽo của nơi này. Giao thừa đến không hay, giao thừa đi chẳng biết. Đôi khi có dịp cùng vài người bạn thân cạn vài ly rượu mừng Xuân, cũng thấy ấm áp, khuây khỏa vơi bớt nỗi buồn ngày Xuân xứ lạ đôi chút. Cùng nhau ôn lại quá khứ, nhắc lại những kỷ niệm đã qua. Chợt nhận ra, đã có quá nhiều thay đổi, khác biệt do cuộc sống mang lại . Những giấc mơ đầy nhiệt huyết thuở nào dường như đã bị chôn vùi sâu dưới lớp bụi thời gian. Nhạt nhoà và mất dần dấu tích theo năm tháng trôi qua. Buồn lại kéo về tràn ngập, tát không vơi.

Đón Xuân nơi xứ lạ
Cành mai giả, màu vàng
Ngoài trời tuyết phủ trắng
Những giấc mơ muộn màng
Ngày Xuân đem rao bán
Tiếng tơ lòng ai mua ?
Nỗi lòng người xa xứ
Chờ cơn gió giao mùa .

Thêm một mùa Xuân đang chờ ngoài ngõ, nỗi nhớ quê hương càng thêm da diếc. Tự nhủ lòng : Thôi đừng buồn nữa tôi ơi! Quê hương còn đó, bè bạn còn đây. Rồi sẽ có một ngày đất nở hoa, đón xuân về ngắm huỳnh mai nở hoa sân trước.

Cầu nguyện cho mùa Xuân dân tộc và Việt Nam trường cửu trong lòng người dân Việt ly hương.


Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai


Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/ Xuân 2005)





CUNG CHÚC TÂN XUÂN
CHÚC TẤT CẢ ACE CỦA VNTQ MỘT NĂM MỚI AN KHANG & THỊNH VƯỢNG



Đã mang vào thư viện,

Thân ái
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.01.2006 16:25:57 bởi Lý Lạc Long >

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 22.01.2006 16:03:36



Băng Tửu : Rượu Ngon Xứ Tuyết
( Ice Wine, Vin de Glaciere, Eiswein...)


Có một loại rượu, kết quả của một sự tình cờ, từ Châu Âu, vùng Francoinia thuộc nước Đức. Người Đức gọi loại rượu này là "Eiswein", người Anh gọi là "Ice Wine", người Pháp gọi "Vin de Glaciere". Dịch sang tiếng Việt, sát theo chữ có lẽ là "Rượu Nước Đá", nhưng tôi thì thích gọi loại rượu ngon đặc sản của xứ lạnh này là "Rượu Tuyết" hoặc nếu xài tiếng Hán - Việt thì "Băng Tửu" nghe cũng "xứng". Cái tên diễn tả được nguồn gốc, phẩm chất và như phảng phất đâu đó hương vị của loại rượu tương đối hiếm và đặc biệt này.

Về nguồn gốc của băng tửu, theo tương truyền, vào năm 1794, có một chủ vườn nho (vineyard) ở Đức vì bận công chuyện phải đi xa, đã không sắp xếp được việc hái nho đúng lúc như thông lệ hàng năm. Khi ông trở về thì nho đã chín mùi và thời tiết lạnh của mùa đông đã làm nho đông đặc lại . Nhưng có lẽ vì "tiếc của", ông vẫn quyết định hái những trái nho đã đông đặc và ép lấy nước nho làm rượu . Kết quả, ông đã vô tình sản xuất được một loại rượu đặc biệt mà người ta lúc đó gọi là "rượu mùa đông" (winter wine). Loại "rượu mùa đông" này là một "bí mật" của nước Đức mãi cho tới khoảng thế kỷ 18 thế giới mới biết đến, từ các nhà sản xuất rượu ở vùng Rheingau (Đức). Khoảng năm 1962 thì "rượu tuyết" đã sản xuất thành sản phẩm thương mại phổ biến ở Châu Âu. Và bắt đầu từ đó những tên như Eiswein, Ice wine, Vin de Glaciere ... trở thành quen thuộc trong giới sành rượu.

Ở Bắc Mỹ, theo bước chân của di dân Âu Châu, phương cách và nghệ thuật làm rượu tuyết được truyền bá đến những vùng khí hậu lạnh và có đủ điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc sản xuất rượu tuyết như các tỉnh (provinces) của Canada như British Columbia, Ontario ..., và một số tiểu bang (states) của Mỹ như New York, Michigan, Ohio... Theo tài liệu ghi lại thì Walter Hainle, ở Canada, đã sản xuất được một số lượng nhỏ rượu tuyết vào năm 1973. Nhưng đến năm 1978 thì rượu tuyết do Hainle Vineyards sản xuất mới chính thức trở thành sản phẩm thương mại. Trên thế giới thì ngoài Đức và Bắc Mỹ (Canada, Mỹ) còn có Áo (Autria), Úc (Australia), Tiệp Khắc (Czech Repulic), Tân Tây Lan ( New Zealand) ... cũng sản xuất băng tửu. Nhưng các quốc gia này chỉ sản xuất một số lượng nhỏ của băng tửu, có mặt trên thị trường tiêu thụ. Hiện nay, Gia Nã Đại là một nước sản xuất rượu tuyết dẫn đầu thế giới, vì có điều kiện thiên nhiên thuận lợi nhất để sản xuất loại rượu quý và hiếm này. Ở Canada, giá của một chai rượu tuyết ( 350 ml) trung bình khoảng 45 đô (Can) và cao nhất có thể lên đến 300 đô (Can). Điều ngạc nhiên, theo thống kê, thị trường tiêu thụ tăng trưởng mạnh nhất cho loại rượu này lại là Châu Á, nhất là ở Viễn Đông, tiêu biểu là Nhật Bản và giá rượu tuyết ở Nhật có thể mắc hơn gấp đôi so với giá rượu tuyết ở Canada.

Cái đặc biệt nhất của băng tửu là nho dùng để làm rượu phải để "chín mùi" và đông đặc ngoài trời với thời tiết thiên nhiên của mùa đông. Nho chín được hái bằng tay và thường thì ngay sau trận lạnh đầu tiên (the first frost) của thời tiết hàng năm, vào những giờ rất sớm của buổi sáng (trước 10 giờ sáng) và nhiệt độ lý tưởng để hái nho phải ở trong khoảng trừ (minus) 10 đến trừ 13 độ Celcius. Nho phải được ép lấy nước ngay trước khi tan. Nói cách khác, là người ta không thể đông đặc nho trong tủ lạnh và sau đó ép lấy nước nho để làm rượu và gọi đó là băng tửu được.

Đức và Canada là hai quốc gia có qui định rõ ràng nhất và kiểm soát rất chặt chẻ việc sản xuất băng tửu. Ở Đức, băng tửu phải hội đủ các điều kiện qui định bởi QmP (Qualitätswein mit Prädikat - German wine classification), một cơ quan có trách nhiệm phân loại và theo dõi việc sản xuất các loại rượu có phẩm chất cao. Ở Canada, thì các hãng rượu sản xuất băng tửu phải theo đúng qui định của VQA (Vintners Quality Alliance). Nếu qui trình sản xuất, nguyên liệu và thành phẩm không đạt đủ tiêu chuẩn qui định , hoặc cố ý "gian lận" trong quá trình sản xuất băng tửu như dùng các phương tiện khác hơn để "đông đặc" nho với mục đích rút ngắn thời gian sản xuất...v. v thì sẽ không được dùng nhãn hiệu "băng tửu" cho rượu đã sản xuất hoặc sẽ bị rút giấy phép làm rượu băng tửu. Theo qui định của QmP và VQA thì điều kiện cơ bản và bắt buộc để rượu được dán nhãn hiệu "băng tửu", là nho dùng làm rượu phải được đông đặc một cách tự nhiên bởi thời tiết và nho phải được hái ở một độ lạnh tối thiểu, QmP qui định độ lạnh tối thiểu là trừ 7 độ C, còn VQA thì trừ 8 độ C. Ngoài ra, VQA còn qui định rất chi tiết về nguyên liệu, qui trình sản xuất, và phẩm chất của băng tửu mà các hãng sản xuất rượu tuyết ở Canada bắt buộc phải theo đúng như :
- Nước nho lúc vừa ép xong phải có "Brix" tối thiểu là 32%, và thành phẩm băng tửu phải có "Brix" tối thiểu là 35%. Brix là cách đo "độ ngọt" của băng tửu (Brix is the measure of ice wine sweetness in degree of concentration). Độ ngọt (brix) của băng tửu sản xuất trên thế giới thường ở trong khoảng 29% (ít ngọt) đến 56% ( ngọt giống như mật ong) và brix được ghi ở chai rượu rõ ràng để cho người tiêu thụ có thể chọn theo ý thích .
- Nồng độ đường đọng lại (residual sugar) tối thiểu 125g/ lít và rượu (alcohol) phải hình thành từ chất đường thiên nhiên của nho.
- Không được "hái nho" trước ngày 15, tháng 11 mỗi năm. Và trước khi hái phải ghi chép lại đầy đủ các chi tiết trên "giấy tờ" như VQA qui định.
- Tất cả các nhà trồng nho và hãng làm rượu tuyết phải ghi danh với VQA.
- Các nhà sản xuất rượu phải dự cuộc họp thường niên về tiêu chuẩn của băng tửu (Icewine Standards Seminar) do VGA tổ chức mỗi năm.
...
Vì có những qui định rõ ràng và kiểm soát nghiêm túc như vậy nên băng tửu của Canada và Đức có phẩm chất cao và được ưa chuộng nhất trên thị trường tiêu thụ.

Việc sản xuất băng tửu đòi hỏi sự nhẫn nại, như phải chờ đợi đúng thời điểm để hái nho, giống như chờ đợi một bông hoa nở trọn vẹn. Nho hái sớm quá hay muộn quá sẽ làm giảm phẩm chất của rượu. Trong thực tế thì khó mà biết trước lúc nào là thời điểm "tốt" nhất để hái, việc này tùy thuộc rất lớn thời tiết và may mắn của nhà sản xuất rượu. Ngoài ra chủ vườn nho còn phải coi chừng chim chóc phá hoại. Nên từ khoảng cuối tháng Mười cho đến đầu tháng Ba, vườn nho được chăm sóc rất cẩn thận .

Cả hai loại nho trắng (white grapes) và đỏ (red grapes) đều có thể dùng để làm băng tửu. Qua kinh nghiệm thu thập của những nhà sản xuất băng tửu thì hai loại nho: Riesling và Gewurztraminer là thích hợp nhất để làm rượu tuyết . Riesling, thuộc giống nho trắng, có lớp vỏ dày, nên trái nho bám vững chắc vào cây nho hơn và giữ được toàn vẹn nồng độ đường của nho trong thời tiết khắc nghiệt của mùa đông. Gewurztraminer là giống nho đỏ, mặc dù có tên Đức nhưng nguồn gốc giống nho này lại xuất phát từ Ý (Tyrollean Alps, vùng Alto Adige, Italy), rượu làm từ giống nho này có mùi thơm rất nồng, rất đặc biệt và dù chưa có kinh nghiệm thưởng thức rượu, một người vẫn có thể nhận ra hương vị của nó.

Vì phương cách làm băng tửu tùy thuộc rất lớn vào thời tiết thiên nhiên, lại phải dùng lao động tay chân khá nhiều nên rượu tuyết là loại rượu tương đối khó sản xuất, hiếm và giá cả khá cao so với nhiều loại rượu khác. Có lẽ vì vậy mà rượu tuyết thường được bán dưới dạng "nửa chai" (half bottle, 375 ml) thay vì "một chai" (one bottle,750ml ) như thường thấy ở các loại rượu khác.

Theo một số lớn các chuyên gia ẩm thực thì nên thưởng thức băng tửu ướp lạnh khoảng 10-12 độ C. Băng tửu tự nó đã được mệnh danh là "món tráng miệng trong cái ly" (dessert in a glass). Vì vậy không cần thiết phải có đồ nhấm đi theo, nhưng nếu thích thì có thể dùng trái cây tươi hoặc phó mát (cheese) đi kèm. Lúc đầu người ta thường dùng loại ly thanh nhã và nhỏ để uống rượu tuyết, nhưng những nghiên cứu về băng tửu gần đây thì loại ly lớn (9oz) sẽ làm khuếch đại và làm tăng thêm hương vị của băng tửu với người thưởng thức. Riedel Crystal, một hãng sản xuất ly dùng để uống rượu, đã thiết kế một loại ly để dùng uống băng tửu, loại ly tên là "The Vinum Extreme Ice Wine".

Băng tửu, không những đã thỏa mản những đòi hỏi của người sành điệu và thưởng thức rượu ngon. Nhiều đầu bếp nổi tiếng cũng đã khám phá ra là chỉ với vài giọt băng tửu, họ có thể nâng cấp một món ăn bình thường như món gà nấu rượu đến nổi thực khách sành ăn phải tò mò "hỏi" vì chợt nhận ra những mùi vị thơm ngon khác biệt với mùi vị của "gà nấu rượu" bình thường .

Băng tửu có màu vàng như mật ong, vị ngọt tương tự như vị ngọt hòa trộn giữa các loại cam, quít và tùy theo loại, băng tửu có mùi thơm giống như trái đào (peach), vải (lychee), xoài (mango)... Nhắp một hớp băng tửu, cái cảm giác mát lạnh, êm dịu, mềm mại, ngọt ngào ... của rượu thấm vào từng tế bào lưỡi có thể diễn tả tương tự như "Nắng Sài gòn ... chợt mát ... vì em mặc áo lụa Hà đông". Băng tửu "hấp dẫn" như "em và áo lụa Hà đông" vậy.

Một đêm yên bình nào đó, bên cạnh người bạn đời, một chút nhạc nhè nhẹ, hương vị của băng tửu sẽ làm buổi tối thêm đậm đà. Nếu có dịp, hãy thử thưởng thức, tôi tin là bạn sẽ thích loại rượu ngon, đặc sản của xứ tuyết này.


Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/ 18/01/06)



<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.01.2006 16:24:45 bởi Lý Lạc Long >
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 23.01.2006 10:35:42
Bông Hồng Cho Mẹ
(Thân tặng cho các Bạn còn có được "Bông Hồng Cài Áo")

"Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều."

Ngày xưa khi đọc câu ca dao ở trên, lúc vẫn còn quanh quẩn ở mảnh đất chôn nhau cắt rún, mảnh đất được gọi là quê hương và vẫn còn có mẹ hiền bên cạnh, hiểu thì có hiểu, nhưng tôi đã không cảm được hết tất cả ý nghĩa và cảm xúc của tác giả khuyết danh nào đó, đã gởi gắm tâm tư của mình trong hai câu ca dao lục bát này. Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đây là tâm sự của một cô gái lấy chồng xa và nhớ quê nhà...

Ngày lễ hiền mẫu vừa qua, được người bạn mời đến nhà chơi. Nhìn những tấm thiệp nhỏ vẽ nguệch ngoạc những hình ảnh và chữ, gởi mẹ, gởi bà của những đứa con bạn, bên cạnh những nụ hồng đỏ rạng rỡ. Nhìn người bạn và những đứa con loay hoay sắp xếp những dĩa đồ ăn vừa được nhà hàng đem đến, chuẩn bị cho buổi cơm gia đình. Mừng cho hạnh phúc của bạn mình, gia đình êm ấm và đặc biệt còn có Mẹ để thương yêu, phụng dưỡng nơi xứ lạ quê người. Chợt nghe thèm điếu thuốc lá, tôi mở cửa bước ra ngoài, nhìn khói thuốc tan loãng vào không gian, ngước lên cao nhìn mây trôi lững lờ. Mây trôi về đâu? Một luồng gió bất chợt thổi ngang, đưa ngược khói thuốc vương vào mắt. Dường như mắt hơi cay ! Mẹ và quê hương, tôi đã mất tất cả .

Chiều nay bên hiên nhà người
Nhớ về đất tổ. Mẹ ơi! .... ngậm ngùi.

Ngược dòng ký ức, mẹ tôi, một người phụ nữ nhỏ nhắn, mãnh khảnh, dịu dàng và hiền hòa. Trên đôi vai gầy guộc, mẹ đã bền bĩ, cưu mang những gánh nặng chất chồng của gia đình, của đời sống mang lại và đã vượt qua tất cả. Ba tôi thì cũng thương mẹ và rất lo lắng cho gia đình, nhưng có lẽ do ảnh hưởng của truyền thống phong kiến ngày xưa, Ba tôi ít khi dịu dàng săn sóc hay tiếp tay với mẹ với những công việc lặt vặt trong nhà. Với ba tôi, thì có lẽ vợ là một người thân cận nhất, một nội tướng của ông, và có bổn phận phải lo mọi chuyện trong gia đình. Còn ông thì chỉ lo lắng đến những công việc "lớn". Theo tôi, thì đây là một sự phân công và sắp xếp rất là bất công cho phụ nữ, nhưng trong suốt những năm tháng sống gần gũi với Mẹ, tôi không hề nghe Mẹ than vãn gì về việc này. Có lẽ vì đã lớn lên và được giáo dục trong bối cảnh của thời đại "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu" nên mẹ xem đây là bổn phận của mẹ, của một người vợ. Tôi có cảm giác như săn sóc, lo lắng cho ba tôi không phải là một gánh nặng mà là một niềm hạnh phúc của mẹ.

Đối với con cái, thì tình thương và tấm lòng của mẹ tôi thiệt đúng như câu "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào ..." . Kể làm sao cho hết những nỗi nhọc nhằn, chịu đựng và hy sinh của mẹ tôi cho gia đình, cho con cái qua những đoạn đường thăng trầm của cuộc sống. Con cái thì nhiều và mỗi người một cá tánh khác biệt. Hình như là mẹ tôi biết cách thương mỗi đứa con tùy thời điểm và đúng mức. Nếu căn cứ vào lý lẻ thì nhiều khi thấy không công bằng, nhưng con tim của mẹ chắc có lý lẻ riêng của nó. Và sự thật thì tôi thấy đúng, ít nhất là về mặt tinh thần, như tục ngữ đã nói "mất mẹ liếm lá đầu đường", nếu không có mẹ thì những khác biệt về tính tình, anh chị em của chúng tôi có lẽ đã bị rã đám. Mẹ tôi đã như là chất keo gắn liền mọi người lại với nhau. Tình thương của mẹ cho những đứa con thầm lặng và kín đáo, không ồn ào, và đôi khi phải nhìn và nghe bằng con mắt và lỗ tai vô hình. Nói một cách khác, là dùng trái tim để nhìn và nghe, mới có thể cảm nhận được tình thương từ trái tim của mẹ .

Phần của tôi, nếu không có tình thương và "những giọt lệ âm thầm" của mẹ cảm hóa thì chắc tôi cũng không được như ngày nay. Là con trai duy nhất trong gia đình, được cưng chiều từ lúc nhỏ. muốn gì thì gần như được nấy .Có lẽ một phần là vì vậy nên tôi đã ỷ lại, xem trời đất bằng cái nắp vung, lêu lỏng, ham chơi, bỏ bê, không xem việc học hành là cần thiết cho tương lai. Ba tôi thì rất là nghiêm khắc, nhưng đòn roi và sự cứng rắn của ông, đã không làm cho tôi thực sự "hiểu" sự quan trọng của học vấn đối với tương lai, để chuyên tâm đến việc học hành hơn . Tôi cũng đến trường, nhưng chỉ cho có lệ và mỗi lần ba tôi liên lạc với trường là mỗi lần tôi bị rầy la, bị phạt đòn. Những lỗi lầm, sai trái của tôi lại cũng rơi trên đôi vai của mẹ. Gia đình, họ hàng, người quen biết ai cũng "đổ lỗi" cho mẹ, là sự thương yêu và chìu chuộng của mẹ dành cho tôi là nguyên nhân chính làm cho tôi bê tha, hư hỏng. Nhưng dù vậy, tình thương của mẹ dành cho tôi hình như chỉ thêm chứ không bớt. Có một lần tôi bị phạt đòn khá nặng, mẹ tôi hình như đau lòng lắm, nhưng không dám "can" ba tôi . Tối đó, nửa đêm, tôi giật mình thức giấc thì thấy mẹ tôi đang xoa dầu trên những vết roi. Mẹ không nói gì nhiều và chỉ hỏi: "Có còn đau lắm không?". Nhìn đôi mắt của mẹ, tôi biết mẹ đã khóc trong âm thầm. Suốt đời tôi vẫn nhớ mãi ánh mắt thương yêu, khổ tâm, còn ươn ướt với những giọt lệ âm thầm rơi của mẹ trong đêm đó và tôi tự hứa với bản thân là sẽ làm cho mẹ tôi vui. Năm tôi đậu Tú Tài 2, được nhận vào đại học, mẹ tôi đã tổ chức buổi tiệc ăn mừng. Nhìn mẹ thắp hương tạ ơn tổ tiên, và hãnh diện "khoe" với bà con, cậu Tú "tiểu tặc lì" của mẹ . Cũng với đôi mắt ươn ướt, như đêm tôi bị đòn đau, nhưng lần này thì với lệ mừng, tôi thấy như cả đại dương của tình thương thu gọn lại trong ánh mắt của người mẹ hiền.

Mẹ tôi và tình thương của mẹ dành cho tôi nói riêng, của những người mẹ và tình thương của họ dành cho con cái nói chung, được diễn tả một cách không cầu kỳ, bình dị, gần gũi và đúng mức như trong hai câu ca dao . "Mẹ già như chuối ba hương. Như xôi nếp một, như đường mía lau". Vâng, mẹ và tình mẹ có thể so sánh một cách cụ thể với hương vị ngọt ,thơm, ngạt ngào của chuối ba hương. Dẻo, mềm, ngon của xôi nếp một đầu mùa. Đậm đà, ngọt dịu như đường của mía lau. Mẹ, tượng trưng cho những gì chín nhất, ngọt nhất và quý nhất .

Có lẽ cưu mang và dưỡng nuôi là hai đặc tính thiên phú của phái nữ, cho nên dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình thương người mẹ dành cho con cái cũng không bao giờ cạn và chảy bất tận như nước trong nguồn. Những ai may mắn, được sống và lớn lên, trong vòng tay bảo bọc và che chở của mẹ . Hình ảnh của người mẹ sẽ mãi mãi là một hình ảnh cao quí, thân thương, gần gũi, in sâu, khắc đậm và trường cửu trong tiềm thức của mỗi chúng ta dù cho vật đổi, sao dời. Tình mẹ có thể nói là điểm phát sinh và là gốc của mọi tình cảm thương yêu của một con người. Ngay từ lúc còn bé, chúng ta vừa cất tiếng khóc thì người mẹ đã chạy đến bên cạnh nâng niu, vỗ về . Mẹ như một bà tiên dịu hiền hiện đến để xoa dịu, chăm sóc, làm tiêu tan những lo âu, sợ hãi của chúng ta. Từ lúc chào đời, như một đứa bé, chúng ta chẳng có chút khái niệm gì về tình thương, về phương diện này, thì có thể nói người mẹ cũng là một người thầy đầu tiên dạy chúng ta về thương yêu. Trong trường hợp của tôi, nhờ có mẹ, tôi đã hiểu thế nào là thương yêu, mẹ tôi đã khơi dậy ngọn lửa tình cảm trong tôi, đã khiến tôi làm những việc, mà lúc đó, tôi cũng chưa hiểu là cần thiết cho tương lai của tôi. Như việc cố gắng học để làm cho mẹ tôi vui lòng là một thí dụ . Tôi chĩ nghĩ là cố gắng học để cho mẹ tôi vui. Tôi cố gắng học vì tình thương của mẹ dành cho, và vì tôi thương mẹ tôi . Chứ việc cố gắng học để cho bản thân tôi có một tương lai tốt thì rất là xa vời và mù mờ trong trí óc tôi lúc đó. Có thể nói, những kiến thức và khả năng tôi có được ngày hôm nay, để sinh sống, để đóng góp như một phần tử hữu dụng của xã hội, đều bắt nguồn từ những "giọt lệ âm thầm" của mẹ tôi. Mẹ là tặng phẩm lớn nhất mà cuộc đời đã cho tôi .

"Ví dầu cầu ván đóng đinh. Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi. Khó đi mẹ dắt con đi ..."
Những giọt lệ âm thầm của mẹ, vị nóng, mùi nồng của dầu cù là, và bàn tay dịu dàng êm ái của mẹ trên những vết roi đã xoa dịu cơn đau thể xác, đã dập tắt sự chống đối và nổi dậy ngông cuồng không phân biệt đúng sai của tuổi trẻ, đã dẫn dắt tôi qua những đoạn đường gập ghềnh nhất của cuộc đời . Ở một nơi nào đó, xin mẹ hãy yên lòng, đứa con trai duy nhất của mẹ đã nên người. Điều tiếc nuối nhất trong đời, là ngày tôi có điều kiện và khả năng để đền đáp lại chút đỉnh nghĩa ân trời biển của mẹ, thì mẹ và con đã âm dương ngăn cách. Nhìn cảnh gia đình ấm cúng của bạn, vui mừng cho bạn, xót xa cho mình và chợt nghe thèm quá tiếng gọi: Mẹ ơi!

Ở bất cứ nơi nào trên thế giới, thì hình như tình mẹ cũng đưọc vinh danh, người Âu Mỹ đặt ra ngày Hiền Mẫu để vinh danh tình mẹ . Nhưng có lẽ đúng như nhà văn Trà Lũ đã nhận xét trong cuốn Đất Thiên Đàng : "Ở đây, mỗi năm một lần, con cái mới nhớ tới cha mẹ, mới mua quà, mới mua thiệp, mới mời đi ăn tiệm. Việt Nam mình hơn hẳn họ mặt này. Chúng ta yêu mẹ quanh năm. Từ bé cho đến trưởng thành, chúng ta quấn quýt bên mẹ".

Đời sống của các xứ kỹ nghệ quá tất bật và bận rộn. Người già ở những xứ này, nếu không còn đủ linh hoạt để thích ứng với cuộc sống, thì hình như không được coi trọng lắm như ở quê hương mình và thường bị con cháu bỏ quên. Trường hợp như gia đình của người bạn là một trong những gia đình may mắn, vợ chồng thuận thảo, kính mẹ, yêu cha và có đủ điều kiện để lo lắng. Một số gia đình khác thì kém may mắn hơn, mà nguyên nhân thì có thể do điều kiện kinh tế, hoặc dâu hay rễ bất hòa với cha mẹ của đôi bên… Những bậc cha mẹ chẳng may lâm vào hoàn cảnh này thì thật là khổ tâm và đáng thương. Tưởng qua bên này, thì những tháng ngày lam lũ, nhọc nhằn sẽ là quá khứ. Nhưng thực tế thì khác hẳn với tưởng tượng. An nhàn chỉ là giấc mơ và nay lại gánh thêm nỗi buồn xa xứ. Một số những người mẹ, thay vì an hưởng cảnh thanh nhàn của bản thân, thì vì tình thương, vẫn tiếp tục đem thân xác già nua của họ dãi nắng dầm mưa, tiếp tục đổ từng giọt mồ hôi để kiếm thêm chút tiền. Tôi đã thấy những bà mẹ tóc bạc, chào mời khách mua giúp những bó rau, những củ khoai hay những giỏ trái cây trồng ở vườn sau, nhặt từng cái lon nhôm ... chắt chiu gom góp từng đồng, để gởi về giúp đở, để san sẻ nỗi cơ cực lầm than của con cháu nơi quê nhà, bên kia bờ đại dương . Tình thương của những người mẹ VN này quả thật là vĩ đại .

Bạn thân mến,
Theo tục lệ Âu Mỹ thì trong "Ngày Hiền Mẫu", bông hồng trắng cho những đã mất mẹ và bông hồng đỏ cho những người còn mẹ . Nhân dịp này, dựa vào kinh nghiệm bản thân của một người đã mất mẹ, tôi không dám khuyên, chỉ xin nhắc với các bạn có được "bông hồng cài áo", là đừng quên: Mẹ là "chuối , là "xôi" , là "đường", là "mật" . Mẹ là những gì chín nhất, ngon nhất, ngọt nhất, tuyệt nhất và quý nhất. Hãy thương yêu kính trọng mẹ, hãy làm vui lòng mẹ với hết khả năng, để mai sau với bông bồng trắng cài trên áo, bạn sẽ vẫn nhớ thuơng và nghĩ đến mẹ, nhưng bạn sẽ không có gì để phải ăn năn hay nuối tiếc. Tôi đã mất mẹ, nên hiểu thế nào là nhớ thương, nuối tiếc và ray rứt với những ước muốn, là tôi đã có thể làm cho mẹ tôi được nhiều việc hơn tôi đã làm và tôi đã thương mẹ tôi nhiều hơn tôi đã thương ... khi mẹ tôi còn sống .

Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI/ 8/05/05)


*****

Ngày Giỗ Mẹ

Ngày giỗ của mẹ
Con thắp nén nhang thơm
Con rót chung trà nóng
Trên bàn có vài món mẹ thích
Con của mẹ nấu đó
Mời mẹ ăn !
Con đã gởi tiền vàng bạc ... và mọi thứ khác
Như lời mẹ dặn lúc còn sống
Để mẹ xài khi cần
Chắc vài hôm nữa mẹ sẽ nhận được.

Mẹ mất,
Thắm thoát đã mười năm
"Tiểu tặc lì" của mẹ, tóc cũng đã hai màu
K.D., L.H. cũng đã lớn
Chúng hay nhắc đến mẹ lắm
Hôm nay Ly Hương hỏi :
Sao không có trầu cau cho bà nội?
Nội "ghiền" trầu mà
Con nghe trong lòng xót xa
Phải chi còn ở quê nhà
Sẽ không thiếu cau trầu tươi ngày giỗ mẹ.

Con biết,
Mẹ không trách và sẽ nói:
"Xứ người, như vậy cũng đủ quá rồi"
Với con, mẹ như nước ngọt trong nguồn
Cũng như lúc còn nhỏ
Con làm việc sai trái
Ba phạt roi xong, mẹ lấy dầu thoa
Lau mặt, vuốt đầu
Có đau lắm không?
Đừng giận ba, con trai cưng của mẹ
Ba thương con lắm đó
Mẹ làm sao "cắt nghĩa" đây ?

Mẹ ơi !
Chỉ nhỏng nhẽo với mẹ thôi
Con đã hiểu từ lâu lắm rồi
Ba nghiêm khắc vì muốn con nên người
Công ơn ba lớn lắm
Mẹ không cần phải "cắt nghĩa" đâu
Không có ba, không có con ngày nay
Những lời dạy bảo của ba
Đã và sẽ theo con suốt đời
Con trai của mẹ đã nên người
Mẹ yên tâm đừng lo nữa
Một đời mẹ đã nặng gánh
Hãy để xuống
Con mời mẹ ngồi
Ăn một bửa cơm với con và gia đình.

Lý Lạc Long (TTL/TRT/30/03/2003)
(Kính dâng hương hồn mẹ hiền)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.01.2006 08:37:12 bởi Lý Lạc Long >
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 30.01.2006 16:59:33
Lời Của Tim

Em yêu ...

Hình như đã lâu , anh đã quên mất là đã đến và ở nơi này lúc nào nữa. Đời sống cứ lặng lẽ trôi qua như con nước xuôi dòng theo một nhánh sông để đến một nơi vô định nào đó theo định mệnh sắp đặt . Em và anh, cũng như những con nước xuôi dòng theo những nhánh sông riêng rẽ dẫn về biển . Trên hành trình ra biển, những nhánh sông có thể gặp nhau, họp thành một nhánh , hoặc chỉ gặp ở một điểm nào đó rồi sẽ theo hướng riêng, về biển . Ước mong của anh, mình sẽ là những con nước của cùng một nhánh sông định mệnh, để được cùng một hướng, chung hành trình về biển khơi .

Cuộc sống bận rộn, vội vã ở xứ người, đã làm con người chạy theo những qui trình đã định như những cái máy. Ngày tháng trôi qua, tình cảm dường như cũng lạnh lùng theo thời tiết nơi này, những cảm xúc, rung động ... với ngoại cảnh không biết từ lúc nào đã biến mất. Sống vì phải sống và làm vì phải làm, vì bổn phận, vì thói quen ... những mơ ước, mộng mơ xa vời của tuổi hoa niên môt thời như đã đi dần vào quên lãng. Tập trung và vùi đầu vào việc học, việc làm để tìm vui, để quên những muộn phiền khác của đời sống . Anh ngỡ trái tim mình đã chai đá, khô khan và cằn cỗi như cây mùa đông trụi lá .

Những ngày qua, em chợt đến, như nắng ấm mùa xuân bất chợt về ngang, làm cây khô chuyển mình như muốn đâm chồi kết nụ giữa mùa đông, và nhựa sống bỗng căng đầy. Những giấc mơ hoang, êm ái , nồng ấm đã từng bước trở lại làm đêm thêm dài với những nhớ nhung, ước mơ. Những đêm trăn trở, thả hồn đi hoang và hình như anh đã bắt đầu tìm lại và nếm được hương vị ngọt ngào của cuộc sống. Khô khan, lạnh lùng , chán nản , bi quan ... dường như đã nhường bước và trái tim bỗng đập lại những nhịp tưởng chừng như đã quên lãng và mất từ lâu .

Buổi sáng hôm nay, nơi anh ở, tuyết cũng rơi nhiều và những luồng gió từ cực bắc về thổi ngang, lạnh buốt da như những mùa đông đã qua . Nhưng mùa đông năm này dường như khác với những mùa đông trước, hòa quyện trong luồng gió lạnh như có hơi thở ấm áp của em, và những cánh hoa tuyết như trắng hơn, mịn màng hơn lơi lả bay lượn đùa với gió đông . Mùa đông chợt reo vui và anh chợt thấy cần một ánh mắt thân thương, một bàn tay để những ngón tay tìm nhau truyền hơi ấm và gìn giữ lại những tin yêu đã một thời vuột mất .

Anh đang mơ .... Có lẽ ! Và “trái tim sắt đá” đang trở thành mềm nhão, mong manh như tuyết, sẽ tan thành nước thấm vào lòng đất cho cây trổ mầm, hoa ươm nụ đón chào mùa xuân .

Một giấc mơ hoang? Cũng được, sẽ không hối tiếc, sẽ không ân hận .
Cám ơn em đã mang nắng xuân về làm ấm lại mùa đông .

Anh .

PS:
“Em là sóng, nhưng xin đừng như sóng
Đã xô vào, xin chớ ngược ra khơi “ (Đỗ Trung Quân)
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 30.01.2006 17:02:07
Gửi Em Từ Một Góc Trời Xa



Như Khói Như Sương

Buổi sáng cuối tuần, ngồi nhìn từng giọt cà phê phin rơi chậm vào ly, suy nghĩ vẩn vơ về sự ngắn ngủi, mong manh như sương khói của một đời người. Anh chợt nghĩ đến đời sống của bản thân mình, sẽ từ giã trạm tạm trú trần gian này lúc nào và sẽ đi về đâu? Thiên đàng hay địa ngục, nếu có, và sẽ tiếp tục làm gì ở đó? Toàn những câu hỏi mà có lẽ không ai có đủ thẩm quyền để có thể giải thích một cách rõ ràng được cả . Theo hầu hết các tôn giáo, thì thiên đàng dành người “tốt” và địa ngục thì cho kẻ “xấu”, nhưng ngay cả quan niêm về “xấu” và “tốt”, tự nó cũng đã thay đổi theo từng xã hội, từng phong tục tập quán, từng thời điểm. Hình như, trên đời này mọi việc đều tương đối, không có gì là tuyệt đối cả, ngay cả đúng và sai, cái đúng nơi này có thể là sai nơi khác, và cái đúng ở thời điểm hôm nay có thể bị chứng minh là sai trong tương lai. Nếu ai hỏi anh sẽ chọn thiên đàng hay địa ngục khi chết. Nếu anh được chọn lựa, thì có lẽ câu trả lời của anh hiện giờ sẽ là: Anh chọn nơi nào có bạn bè của anh. Em, theo như định nghĩa của “bạn”, thì em cũng là một người bạn của anh.

Anh chợt nhận ra một điều này hơi lạ, là anh đang suy nghĩ vẩn vơ, nhưng sao vẫn có em trong đó? Dường như dạo này, bằng những con đường không tên, bất định hướng, ngắn hay dài, vô tình hay cố ý, em cũng đến và ngang nhiên chiếm ngự một phần những dòng tư tưởng và suy nghĩ của anh, như một người có rất đầy đủ thẩm quyền. Nhiều lúc anh có cảm giác như là em đang quanh quẩn bên cạnh và rất gần gủi, dù là mình đang cách núi, ngăn sông. Em như ẩn hiện ở giữa vùng ranh giới của thực chân và hư ảo. Với sự giúp sức của em, anh đã và đang dệt ra những giấc mơ để trang điểm cho đời sống hiện tại, làm hành trang trên đường về tương lai. Ngày mai, ai biết được sẽ ra sao? Nhưng những ngày vừa qua là những ngày rất vui vẻ trong cuộc sống của anh. Xin cám ơn em!

Vui Buồn Nhân Thế

Dường như đã lâu lắm rồi, anh đã không nằm gác tay lên trán nhìn trần nhà, không hề để ý đến cái bóng đơn lẻ của mình phản chiếu trên tường mỗi đêm, méo mó và thảm não như đang bị hành hạ vì nhớ nhung và cô đơn. Sự thản nhiên với ngoại cảnh, quên lảng quá khứ, thờ ơ với hiện tại lẫn tương lai đã thay bằng những cảm giác mà có lẽ khi đang yêu người, yêu đời, mới cảm nhận được. Cuộc sống nơi xứ người, trôi qua lặng lẽ, tẻ nhạt. Anh đã không để ý lắm đến sự tươi mát, xinh đẹp của mùa xuân, phong cảnh thơ mộng, mênh mông sương khói của mùa thu. Chỉ cái nóng của mùa hè nhắc anh phải mở máy lạnh, cái lạnh của mùa đông nhắc anh phải xem nhiệt độ của lò sưởi và mặc đủ đồ ấm khi ra ngoài.

Thời gian, thoáng qua mau như một giấc mơ và những ngăn cửa của các khung ký ức đã lần lượt đóng kín một cách vô thức hay hữu tình. Bao nhiêu ước vọng của tuổi hoa niên, những nỗi niềm thầm kín, riêng tư, những hứa hẹn, thề nguyện với chân tình ngày xưa dường như đã ngoài khả năng thực tế, đang từng bước vuột khỏi tầm tay và xa dần. Quê hương mờ mịt xa. Bạn bè ngày xưa phiêu bạt, đứa chân trời, đứa góc biển. Cuộc sống tha hương, xuôi ngược khắp nẻo đường. Tri kỹ, tri âm, người quen biết, gặp gỡ, chung một đoạn đường, rồi cũng rẽ hướng, chia tay. Mỗi người trôi theo một dòng đời riêng của mình. Người đến rồi người đi qua cuộc đời. Ai sẽ là người ở lại?

Anh chợt nghĩ đến em và anh, đến tình yêu của mình trong tương lai, đến việc họp để rồi tan, sớm hay muộn, gần như là một quy luật của đời sống trần thế. Hy vọng, là em và anh sẽ đi chung một ngã đường trong cuộc sống nhân thế và chia tay theo định luật tự nhiên "sinh tử" của tạo hóa. Đời người ngắn ngủi và mong manh như khói như sương. Càng nghĩ xa xôi, càng thấy mình nhỏ bé và bất lực, quá nhiều việc ngoài tầm tay, lại càng bi quan hơn. Do nợ duyên và định mệnh đưa đường, mình gặp gỡ và yêu thương nhau. Anh đã nhủ lòng là sẽ sống với hiện tại. Yêu thương em với tất cả tình yêu anh đang có trong huyết quản, làm hết những việc anh có thể làm. Với anh, dù tương lai là thành công hay thất bại, tốt hay xấu, anh cũng sẽ hoan hỉ đón nhận. Điều chắc chắn, là anh sẽ không bao giờ phải hối hận, ăn năn, nuối tiếc vì anh đã yêu, đã sống, và đã làm hết khả năng của mình. Dù biết đời nguời như khói sương, đời sống vốn vô thường, hôm nay có và ngày mai không . Lòng anh hiện giờ rất thanh thản và yên bình để yêu em, yêu người và yêu đời .

Ước Mơ

Những buổi chiều buồn lang thang dọc bờ hồ, tiếng ca của em hình như đang hòa quyện với tiếng sóng vỗ bờ, với tiếng gió vi vu, văng vẳng bên tai . Nhớ ơi là nhớ! Những nụ hôn vô hình, những vòng tay ôm chân không, những yêu thương, luyến ái, mặn nồng gởi trao mà dư hương như luôn luôn quanh quẩn, ẩn hiện trong mùi thơm của tách cà phê buổi sáng, trong mùi cháy thơm nồng của củi thông trong lò sưởi đêm đông. Như mưa xuân, nắng hạ, gió thu, tuyết đông là của đất trời. Với anh, dường như em là tất cả, là tình nhân để anh yêu thương và được yêu thương, là cái bóng và cảm xúc để anh thơ thẩn, sắp vần, ráp chữ, dệt mộng xây mơ, xẻ chia nỗi niềm tâm sự, là hy vọng và tương lai để anh thấy cuộc đời đáng yêu và đáng sống hơn.

Con đường tình yêu, anh có thể xem mình như là một trong những người may mắn, đã tìm được nửa phần đi lạc của mình. Với em, anh có cảm giác là như vậy. Trong thực tế của cuộc sống, có rất nhiều người đi suốt cuộc đời vẫn tìm không gặp nửa phần đi lạc của họ. Có thể họ cũng có bạn đường, hoặc đang sống dưới mái ấm gia đình, nhưng đồng sàng dị mộng. Sự kết hợp của họ không phải là do tình yêu mà có thể là do những nhu cầu thiết thực của đời sống, của xã hội ... v.v đòi hỏi . Như tâm sự của TTKH:
"Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời .
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi"
Hay như của Phan Thị Thanh Nhàn:
"Người tôi yêu đã đi xa
Người yêu tôi ở lại nhà. Buồn không!"

Yêu người và được yêu đã là một sự may mắn thì được sống chung với người mình yêu mến phải là một hạnh phúc tuyệt vời . Anh hy vọng là con đường tình yêu sẽ dẫn mình đến một cuộc sống hạnh phúc bên nhau. Với anh, chắc cuộc sống sẽ vô nghĩa, mất hẳn lạc thú nếu đời sống tương lai thiếu vắng hình bóng của em. Từ sâu thẳm trong lòng, anh thưong mến em như chưa từng biết thương, thực sự muốn chia xẻ với em mọi buồn vui của cuộc sống, với tấm lòng và khả năng của anh. Đừng hỏi anh tại sao, vì anh không thể nào giải thích rõ ràng, rành mạch và hợp lý lẽ bằng ngôn ngữ bình thường được đâu. Hãy nhìn vào mắt anh, và lắng nghe nhịp đập của trái tim, em sẽ hiểu.

Bên này mùa Xuân cũng đã về, sân cỏ trước nhà đã xanh tươi, cây cũng bắt đầu nẩy mầm kết nụ. Buổi sáng, đã có tiếng chim hót ríu rít, líu lo đón chào bình minh, những đàn chim về phương nam trốn cái lạnh khắc nghiệt của phương bắc hình như cũng đã trở về. Sáng này anh pha hai ly cà phê, và đã uống dùm em một ly đó. Ước chi, mỗi buổi sáng có thêm nụ hôn của em đi kèm, thì cà phê chắc sẽ thơm ngon hơn và ngày sẽ tràn đầy nắng ấm và vui vẻ với anh, dù cho ngoài trời có đang mưa hay nắng .

Chúc em mọi việc vui vẻ và như ý. Hẹn thư sau .

Anh.
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 12.02.2006 13:03:07
VALENTINE'S DAY
NGÀY CỦA TÌNH YÊU VÀ THÂN ÁI


Hàng năm, vào tháng Hai, đặc biệt ở Âu châu và Mỹ châu, thiệp, kẹo "chocolate", bông hoa và tặng phẩm được trao đổi giữa những người yêu thương nhau như vợ chồng, tình nhân... để kỷ niệm và mừng ngày lễ Tình Yêu (Valentine's Day) vào ngày 14, tháng 2. Ngày nay, phong tục mừng ngày lễ Tình Yêu đã được phổ biến rộng rãi đến nhiều quốc gia khắp năm châu. Một điểm lạ, với cái tên ngày Tình Yêu, nếu chưa biết, một người có thể suy đoán là nguồn gốc của ngày lễ phải liên quan đến một câu chuyện tình lãng mạn ướt át nào đó trong đời sống thực tế hoặc trong huyền thoại. Nhưng không phải như vậy, những nhân vật chánh tạo thành ngày Tình yêu không phải là những cặp nhân tình như kiểu Roméo và Juliette của văn hào Shakespeare hay như câu chuyện thần thoại của thần tình yêu Cupid và công chúa hạ giới Psyche. Nguồn gốc ngày lễ Tình Yêu xuất phát từ tôn giáo, liên quan đến câu chuyện của một vị linh mục Thiên chúa giáo tử đạo, đã được giáo hội phong thánh tên St. Valentine. Nhưng thánh Valentine là ai? Và tại sao người ta lại nhớ và kỷ niệm ngày lễ này?

Mặc dù nguồn gốc và lịch sử ngày lễ Tình Yêu và thánh Valentine vẫn còn che phủ bởi tấm màn bí mật, chưa có xác định được rõ ràng. Nhưng từ xưa, tháng Hai đã được người ta xem như là một tháng của tình yêu, mộng mơ, thi vị và lãng mạn. Ngày lễ Tình yêu như chúng ta biết hôm nay bắt nguồn từ Công giáo và một số những truyền thống của La mã cổ đại. Về tên St. Valentine thì Tòa thánh La Mã đã công nhận ít nhất là ba vị thánh khác nhau có cùng tên Valentine hay Valentinus, tất cả những vị thánh này đều tử vì đạo (martyred). Và trong số ba vị thánh này thì có lẽ truyền thuyết của vị thánh Valentine dưới đây, với những tình tiết được phổ biến rộng rãi, được nhiều người biết đến nhất cho ngày lễ Tình Yêu.

Theo truyền thuyết thì thánh Valentine là một linh mục sinh sống và hành đạo vào thế kỷ thứ ba (270) ở La mã. Cũng vào khoảng thời điểm này, nước La Mã ngăn cấm việc truyền đạo và theo đạo Công giáo rất nghiêm nhặt. Thêm nữa, theo quan điểm vua La Mã, Claudius II, đang trị vì thì thanh niên độc thân sẽ làm những người lính tốt hơn những người có gia đình. Để đảm bảo đủ "nguồn cung cấp" cho quân đội những chiến sĩ độc thân gan dạ, sẵn sàng chết, không vì tình yêu và gia đình mà bị "lạnh cẳng"... để phục vụ cho đế quốc La Mã, bạo chúa Claudius II đã ra lệnh ngăn cấm không cho thanh niên trẻ lập gia đình. Đến thế kỷ 20, thì chúng ta thấy chuyện này được lặp lại ở Việt Nam, qua cái chính sách "tam khoan" (khoan yêu, lỡ yêu thì khoan cưới, lỡ cưới thì khoan đẻ) của đảng cộng sản Việt Nam áp dụng cho thế hệ trẻ miền Bắc thời chiến tranh để có đủ xương máu phục vụ cho "quốc tế vô sản" (?). Lúc ấy, Thánh Valentine đã cho đó là phi lý và bất công, nên ông vẫn bí mật tiếp tục làm chủ lễ phối hôn và ban phước cho những thanh niên trẻ muốn lập gia đình. Vì vậy, nên vua Claudius II đã ra lịnh bắt giam và xử tử Valentine vào ngày 14, tháng 2, năm 270 . Tương truyền trong lúc bị giam giữ trong ngục, thánh Valentine đã quen biết với một bé gái mù, con của người cai ngục và tình bạn đã nảy sinh. Cô bé nghe tiếng vị linh mục hiền lành và nhân từ này rất thương yêu trẻ con và thường hái hoa đẹp trong vườn hoa của ông để tặng các em bé nên cô cũng thường đem hoa đến, ném qua cửa sổ ngục thất tặng ông . Cô tin tưởng một nhà tu thánh thiện như thánh Valentine sẽ có quyền năng cầu xin Chúa giúp cho đôi mắt cô sáng lại. Thánh Valentine chấp nhận lời cầu xin và bắt đầu cầu nguyện cho cô bé. Điều kỳ diệu đã xảy ra, đôi mắt cô bé được sáng lại, nhưng chỉ kịp để nhìn thấy những giây phút cuối cùng của thánh Valentine. Trước khi bị hành quyết, thánh Valentine đã viết gửi cho cô bé mù một lá thư từ giã, cuối lá thư ghi: "Từ Valentine của cô bé" (From your Valentine) ...

Một sự kiện khác nữa là giữa tháng Hai (15/ 2) còn là ngày lễ hội Lupercalia của người La mã, ngày lễ này vinh danh thần Lupercus, vị thần bảo vệ gia súc và mùa màng cho người La mã, cùng với Romulus và Remus, con song sinh của thần chiến tranh Mars, Romulus là ông tổ của dân La mã. Theo tục lệ xưa, trước ngày Lupercalia, các cô gái trẻ viết tên mình trên một mảnh giấy và để vào chung trong cái chum lớn. Đến này lễ, những chàng trai trẻ độc thân sẽ bóc một trong các mảnh giấy ghi tên các cô gái từ cái chum, cô gái có tên trên mảnh giấy sẽ trở thành bạn gái duy nhất của chàng trai trong năm đó. Thường thì các cặp này sẽ thành vợ chồng. Nhưng nếu không hợp thì chàng trai có quyền "từ chối" cô gái, và sang năm lại bóc thăm nữa với hy vọng sẽ tìm được người tâm đầu ý hợp. Tục lệ này sau đó bị giáo hội La Mã ngăn cấm vì không hợp với các quan điểm của Công giáo. Khoảng năm 498, Đức Giáo hoàng Gelasius công bố ngày 14, tháng 2 là ngày của thánh Valentine (St. Valentine's Day). Công giáo đã trở thành quốc giáo của La Mã và người ta dần dần đổi, kết hợp ngày Lupercalia với ngày St. Valentine thành một ngày của mùa màng sung túc và của tình yêu lứa đôi. Vào năm 1969, Giáo hoàng Jean Paul VI đã loại bỏ ngày này ra khỏi lịch nhà thờ. Tuy nhiên sự pha trộn giữa lễ hội của người La Mã và ngày kỷ niệm vị Thánh tử vì đạo, St. Valentine của Thiên chúa giáo vẫn được ưa chuộng và ngày lễ Valentine vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay.

Để tri ân và vinh danh thánh Valentine, hàng năm đến ngày 14, tháng 2, người ta tặng cho nhau những đóa hoa hồng, hay loại hoa Violet tím dại, loài hoa đã mọc trong khe đá bên chấn song cửa sắt của nhà ngục, gửi cho nhau những lời yêu thương, thân ái được nắn nót viết trên những tấm thiệp. Ngày nay, từ "valentine" có thể hiểu như "người quan tâm và thương mến ". Xa hơn, cho những cặp tình nhân, cụm từ "from your valentine" của tiếng Anh còn có nghĩa là "từ một người rất yêu em /anh".

Vào thời đại Trung cổ (Middle Ages), ở Âu châu , người ta tin rằng ngày 14, tháng 2 là lúc bắt đầu mùa tình ái của chim, sự tin tưởng này tiếp sức mạnh mẽ cho cái ý tưởng giữa tháng Hai, ngày kỷ niệm thánh Valentine, là một chọn lựa đúng cho ngày lễ Tình Yêu. Nước Anh, sau khi quân La Mã đặt chân lên đảo, và du nhập vào xứ sở của sương mù này những tập tục cùng các lễ hội truyền thống của La Mã. Lễ Tình Yêu xuất phát từ Ý, nhưng nước Anh lại là nơi phát triển truyền thống này mạnh mẽ nhất. Có lẽ ngày lễ này có sức hấp dẫn hợp với dân tộc tính (đa sầu, đa cảm) của Anh Quốc nên chẳng bao lâu ngày Tình Yêu đã trở thành một cái lễ có ý nghĩa nhất với người Anh.
Vào tháng Hai, ở Anh, thường có một loại chim lông đen về làm tổ trên những mái vòm cao của nhà thờ nên người ta càng tin rằng tháng Hai chính là tháng tình yêu và hôn nhân nảy nở. Các cô thiếu nữ có lệ đi vòng quanh nhà thờ, rải hạt "gai dầu" (hempseed), một loại hạt cho chim ăn và khấn nguyện sẽ gặp được một chàng hiệp sĩ cỡi bạch mã của lòng. Rải hạt và khấn nguyện xong xuôi thì các nàng đi về. Và trên đường chắc các nàng cũng thỉnh thoảng ngoái lại xem có chàng "khờ" nào cỡi ngựa trắng theo sau về "trình diện" bố mẹ không? Ngày nay thì chắc chàng không cỡi ngựa mà là lái xế theo nàng. Xã hội tiến bộ mà, và như vậy có lẽ bảo đảm hơn, tránh được trường hợp các chú ngựa bị tiếng sét ái tình của các nàng ngựa, nổi chứng đình công hoặc "làm dơ" đường phố bất tử. Lại có những thiếu nữ khác tin rằng, trong ngày lễ Tình yêu, chàng trai nào nàng gặp đầu tiên sẽ là phu quân của nàng. Dĩ nhiên là chàng trai "đầu tiên" đó phải hào hoa phong nhã mới lọt vào mắt xanh nàng được. Tục lệ này cũng hay hay vì lỡ gặp chàng đầu tiên mà "xấu xí" quá thì các nàng cứ làm tỉnh, phớt lờ coi như không thấy, và không gặp là xong . Tuy vậy, các chàng độc thân cũng nên "đóng bộ" và "diện" cho ngon lành chút và dạo phố đông xem . Biết đâu gặp may mắn, mũi tên của thần ái tình sẽ bắn trúng tim nàng. Cho những người mà sao Đào Hoa và Hồng Loan chiếu mạng, có nhiều người yêu quá, đến nổi bối rối không biết chọn ai để làm bạn trăm năm. Có gì khó giải quyết đâu ? Cứ theo tục lệ của người Anh thuở xưa, viết tên của từng bạn tình trên mỗi mảnh giấy bỏ chung vào cái chén thả sông, cái chén chìm và mảnh giấy nào nổi lên trước nhất thì người đó là "duyên tiền định" của mình. Dễ dàng quá xá!

Vào thời Trung Cổ và thời Phục Hưng, thiệp chúc chưa có phổ biến, người ta thường tặng nhau hiện vật như hoa, chim, đồ trang sức... Những người giàu có thì gởi tặng các cô những món nữ trang đắt giá. Nhưng chẳng bao lâu thì người ta nhận ra chơi theo cái kiểu trưởng giả này thì cháy túi sớm và lỡ chuyện không thành, nàng quay lưng thì quả là ..." hư hao" thiệt, nên khoảng năm 1760 cái tục tặng nữ trang đã chính thức chấm dứt. Hiện nay, Viện bảo tàng Anh quốc (British Museum) có lưu trữ được một cái thiệp "Valentine" cổ xưa nhất. Tấm thiệp này, do Charles, một quận công người Pháp ( Duke of Orleans) viết vào năm 1415, lúc ông bị quân Anh bắt và giam giữ. Trong tấm thiệp đó, quận công Charles viết những vần thơ tình yêu cho vợ ông và có nhắc đến tên St. Valentine. Theo tài liệu ghi lại thì mãi đến năm 1800, người Anh mới in được tấm thiệp Valentine đầu tiên trên một tấm bảng đồng, các hình trái tim được vẽ và sơn bằng tay, chung quanh tấm thiệp được viền với ruy băng (ribbon) lụa. Đến năm 1925, với sự ra đời của công ty Sir Adolph Tuck, kỹ nghệ in thiệp Valentine nước Anh đã đi đến chỗ hoàn chỉnh và phát triển đa dạng theo tiến hoá của kỹ thuật cho đến ngày nay.

Ở Bắc Mỹ, dù thế kỷ 17 đã có khá nhiều di dân Châu Âu đến Bắc Mỹ sinh cơ lập nghiệp, nhưng có lẽ vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn của đời sống vào thời buổi khai phá và lập nghiệp, vì cái tính thực dụng của di dân là phải lo cho cái bao tử trước rồi mới lo cho trái tim sau, nên mãi đến thế kỷ 18 thì dân Bắc Mỹ mới bắt đầu đón nhận và kỷ niệm ngày Valentine. Lúc này thì kỹ nghệ in của Bắc Mỹ còn thô sơ nên thiệp Valentine chỉ là những tờ giấy cắt thành những hình đơn giản biểu tượng tình yêu như hình trái tim, với những dòng chữ diễn tả, ca tụng và vinh danh tình yêu, viết bởi những nghệ nhân có nét chữ đẹp và bay bướm. Lịch sử phát triển của thiệp Valentine ở Mỹ bắt nguồn từ Esther Howland, một cô gái sinh trưởng ở thành phố Worcester, tiểu bang Massachusetts. Trong lúc tiếp gia đình trông coi tiệm bán sách, Howland có dịp thấy thiệp Valentine nhập cảng từ Anh và thường những tấm thiệp này rất đắt giá, cô liền nảy sinh ý định tự làm lấy thiệp Valentine bằng những phương cách thủ công của cô. Với năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh, giá bán vừa phải, nên thiệp Valentine Howland làm ra được khách hàng ưa chuộng và đơn đặt hàng tăng. Howland phải mướn thêm bạn bè và nghĩ ra cách làm "dây chuyền" để sản xuất thiệp cho đủ số lượng. Nếu căn cứ vào việc này thì Esther Howland mới là người đầu tiên áp dụng phương cách sản xuất dây chuyền chứ không phải "vua xe hơi" Henry Ford. Việc làm thiệp của Howland phát triển thành công ty làm thiệp lớn do chính cô làm chủ, đến năm 1880 mới bán lại cho Whitney Company (công ty này ngưng hoạt động vào năm 1942). Hiện nay, Hallmark Carlton là những công ty sản xuất thiệp nổi tiếng của Mỹ. Ở Hoa kỳ, Esther Howland được xem như "Người Mẹ của thiệp Tình Yêu" (Mother of the Valentine).

Ngoài "trái tim màu hồng", một biểu tượng cho tình yêu, không thể thiếu được trên thiệp Valentine. Người ta còn thấy các biểu tượng khác như: Hoa hồng (được mọi người xem như là hoa tình yêu). Hoa violet tím - theo truyền thuyết St.Valentine, violet tím là hoa tình thương- nở giữa những song cửa sắt của ngục thất. Hình ảnh đôi chim quấn quýt, thường là đôi chim sẻ, mà người Á đông gọi là chim uyên ương, người Tây phương gọi là "the love birds" – theo tiếng Anh - Hình thần tình yêu Cupid, một thiên thần nhỏ, xinh xắn, mũm mĩm như một cậu bé có đôi cánh trắng, luôn mang theo bên mình cây cung với những mũi tên tình ái. Ai bị trúng tên này thì trái tim sẽ đập loạn xạ không theo những quy trình bình thường nữa. Thổn thức, nức nở, nhức nhối, thao thức suốt năm canh... là những triệu chứng cho biết trái tim bị trúng thương nặng.

Nhưng Cupid là ai vậy? Theo chuyện thần thoại, thì Cupid là con của Mars (thần Chiến Tranh) và Venus (thần Vệ Nữ hay thần Sắc Đẹp). Cupid được Thượng đế ban cho một bộ cung tên mầu nhiệm để lo chuyện kết nối tơ duyên cho người nhân gian ở hạ giới, nên được xưng tụng là thần Tình Yêu. Nhưng chính bản thân vị thần Tình Yêu Cupid, trái tim cũng bị "nhức nhối" như người trần gian khi bị "cú sét ái tình" đánh trúng. Đến nổi Thượng đế cũng cảm động, mũi lòng chịu hết nổi phải ra tay can thiệp tác hợp lương duyên cho Cupid và người yêu.

Tương truyền thần Vệ Nữ, một hôm chợt khám phá ra một chuyện động trời là dưới hạ giới có nàng công chúa tên Psyche, mang sắc đẹp kiều diễm mà theo lời đồn đãi, có thể lấn lướt, hơn cả sắc đẹp của Venus, một vị thần Sắc đẹp. Không thể chấp nhận được cái chuyện có người đẹp hơn mình, Venus bèn sai Cupid xuống hạ giới giết Psyche. Cupid lãnh nhiệm vụ mẹ mình giao, vác cung tên hăm hở bay xuống hạ giới tìm Psyche để giết . Nhưng khi Cupid gặp Psyche thì tim đập loạn xạ, tay chân bủn rủn ... Mũi tên tình ái đã bắn ngược trúng ngay tim thần Tình Yêu. Thay vì giết Psyche, thì Cupid hóa phép đem nàng về cung điện của chàng ở thượng giới để kết duyên chồng vợ. Nhưng Cupid chỉ có thể đến với Psyche lúc ban đêm thôi . Psyche tò mò muốn biết mặt phu quân của mình, nên thắp đèn để nhìn Cupid cho rõ trong lúc chàng ta đang ngủ, mãi say mê ngắm nhìn khuôn mặt thiên thần của trượng phu, Psyche vô tình làm một giọt dầu rơi trúng mặt Cupid, chàng giật mình thức dậy và tức giận bỏ đi biệt tích (dĩ nhiên là với trái tim nhức nhối và rỉ máu). Psyche nhớ thương Cupid, lặn lội tìm kiếm khắp nơi, nhưng bóng chàng như... "bóng chim tăm cá". Cuối cùng hết cách, Psyche phải đến nhờ vả mẹ chồng. Venus được dịp "đì" nàng dâu cho "bỏ ghét". Để thỏa lòng ghen tức, Venus buộc Psyche làm những việc rất khó khăn, nhưng với sự giúp đỡ của chim muông, thú vật và côn trùng, Psyche đều hoàn thành vẻ vang.

Thách đố cuối cùng, là việc đi trộm cái "hủ kem thoa mặt" của nữ hoàng Proserpina, vợ Diêm vương Plutto kèm theo lời dặn: "Lấy được cấm mở ra xem" thì Psyche có "trộm" được hay không cũng thua chắc. Chuyện "thách đố" này quả thật chỉ có đàn bà như Venus mới nghĩ ra được, đồng thời nó cũng cho chúng ta thấy cái thông minh, cái thâm hiểm và cả cái vô lý của quý bà luôn . Venus là thần Vệ nữ, người đẹp số một trong vũ trụ rồi thì cần chi mỹ phẩm thoa mặt để làm đẹp thêm nữa? Proserpina, thì ở dưới vùng âm phủ tối thui, chỉ có dân "ngưu đầu mã diện", không trang điểm cũng chắc chắn là đẹp hơn họ và trang điểm để chi? Vì âm phủ tối thui thì chắc trắng cũng như đen. Có lẽ bởi vậy mà ở trần gian, kỹ nghệ mỹ phẩm và làm đẹp cho quý cô, quý bà cũng là cái ngành "hốt ra tiền" nhất. Chuyện xảy ra đúng như Venus dự đoán, Psyche thành công và trộm được "hủ mỹ phẩm" của Poserpina, nhưng lại không nén được tò mò phải mở ra xem tí. Xém chút nữa là Psyche ngủ một "giấc thiên thu" luôn nếu không có Cupid vì nhớ thương vợ, tìm đến và đánh thức nàng dậy. Cuối cùng, Thượng đế thấy bất nhẫn, phong Psyche làm một vị thần, và ra lệnh cho thần Vệ nữ (Venus) phải chấp nhận mối lương duyên này . Chuyện tình của Cupid và Psyche có lẽ là một trong những mối tình đẹp trong những chuyện tình thần thoại. Cupid tượng trưng cho Tình Yêu, Psyche tượng trưng cho Tâm Hồn và sự Thủy Chung. Nên cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi hình ảnh thần Cupid trở thành biểu tượng rất phổ biến trong ngày lễ Tình Yêu.

Cũng như thánh Nicholas qua hình ảnh của Ông Già Noel, (Santa Claus) truyền thông điệp về giá trị của niềm tin, lòng nhân ái, sự chia xẻ trong ngày lễ Giáng sinh thì thánh Valentine qua hình ảnh của trái tim, của thần Tình Yêu (Cupid) cũng đã để lại cho nhân loại món quà của Tình Yêu và Tâm hồn Thủy Chung, hay Tình Thân Ái, hay Tình Yêu Thương giữa người và người.

Hãy gõ, cửa sẽ mở. Hãy gọi, sẽ có trả lời. Hãy khởi hành, sẽ có lúc đến đích. Hãy mở lòng ra "trò chuyện" cùng người, cùng cỏ cây, cùng vạn vật. Với tình yêu và tình thân ái mọi việc đều có thể "đạt được".

Chúc tất cả một ngày Lễ Tình Yêu như ý.

Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/Valentine 2006)






V. Cho Hồ Điệp

Về thăm lại khu vườn xưa cổ tích
Anh ngồi đây ôn lại kỷ niệm xưa
Lưu luyến mến thương nói mấy cho vừa
Em vẫn đó trong hồn thơ nét chữ
Nắng đầu xuân thoảng dư hương ngày cũ
Từ phương xa con bướm đã về thăm
Im lặng bay qua vườn cũ âm thầm
Nghiêng đôi cánh rắc phấn hương tình ái
E ngại đã gây ra nhiều ngang trái
In vết hằn ngực trái khổ lòng nhau
Lời của tim gởi cánh bướm hôm nào
Yêu! Ghi khắc trong tâm lời ước hẹn .
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.02.2006 01:04:38 bởi ct.ly >

Ct.Ly

TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 14.02.2006 16:54:30
Cám ơn Ct Ly.

Nhân tiện.... TTL XIN CHÚC CT LY " A HAPPY VALENTINE'S DAY"




BẤM VÀO ĐÂY!

<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2006 16:14:22 bởi TTL >

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 15.02.2006 16:42:29
Hành Trình Đi Tìm "Phân Nửa"

Trong cuộc sống hầu hết chúng ta đều mơ ước tìm được "phân nửa" của mình. Nhưng trong thực tế thì có bao nhiêu người đã tìm được phân nửa của mình như đã mơ ước? Câu hỏi chắc hơi khó có trả lời chính xác. Nhưng căn cứ theo thống kê thì tổng cộng con số của ly dị và số người chọn cuộc sống độc thân ( mặc dù có đủ điều kiện để lập gia đình) có lẽ không dưới 50 % của những người trong lứa tuổi có thể lập gia đình. Lý do ly dị hay chọn cuộc sống độc thân thì rất nhiều và khác nhau tùy theo hoàn cảnh của mỗi người . Nhưng tóm lại thì chúng ta có thể nói những người này đã không tìm được hay cảm thấy hạnh phúc trong đời sống gia đình, đời sống lứa đôi. Họ thất vọng và không vừa ý với người "bạn đường" của họ . Nói một cách khác thì họ vẫn chưa tìm được "nửa phần đi lạc" của họ .

Có người nói, cuộc sống là một cuộc hành trình tìm kiếm tình yêu và mỗi người sẽ tìm thấy ba người . Người mình yêu nhất, người yêu mình nhất và người bạn đồng hành hay bạn đời của mình. Nhưng trong cuộc sống thực tế thì rất hiếm hoi là ba người này sẽ cùng là một người. Người mình yêu nhất có thể không yêu mình, người yêu mình nhất thì mình lại không yêu và người bạn đồng hành thì không phải là người mình yêu nhất hay người yêu mình nhất mà chỉ là một người xuất hiện vào lúc thích hợp nhất. Cho những người may mắn "yêu và được yêu" thì vì hoàn cảnh này nọ khiến họ không thể là bạn đời được thì quả là một điều rất đau khổ. Cái câu "tạo hoá trêu người" rất là đúng cho quá trình tìm kiếm tình yêu trong cuộc sống của đa số chúng ta.

Chúng ta thường nghe những lời thề non hẹn biển của những đôi bạn tình. Hai người đang yêu nhau thì thích nghe và nhiều khi còn yêu cầu người bạn tình "thề hẹn" như thế, nhưng trong thực tế thì làm gì có những chuyện đó. Trong tình yêu thì có lẽ nói là một chuyện và làm là một chuyện khác. Người nói có thể không tin những gì mình nói và người nghe thì có lẽ cũng không tin những điều mình nghe. Cái điều thực tế nhất là ... Bạn đã tìm được người thứ mấy cho bạn? Hay ngược lại bạn là người thứ mấy trong cuộc sống của người yêu của bạn . Không ai muốn thay đổi tình yêu của mình cả nhưng đây là một chuyện thực tế . Khi yêu thì là yêu, khi không yêu thì là không yêu và rất khó mà giả vờ . Khi một người không còn yêu mình và muốn rời xa mình thì bạn đừng nên tìm cách ngăn cản dù bạn còn yêu hay không yêu người đó nữa . Vì nếu bạn còn yêu thì bạn sẽ mong cho người đó có cuộc sống hạnh phúc với người mà người đó yêu. Và nếu bạn cũng như người đó không còn yêu nữa, thì càng không có lý do gì hay tư cách gì để trách hay ngăn cản người đó.

Tóm lại, chuyện tan vỡ trong tình yêu thì hầu như ai cũng từng trải qua ít nhất một lần trong đời, và không nhất thiết là phái nữ là người bị tổn thương nặng nề như quan niệm của đa số người. Nếu phải đối diện với tình huống khó khăn này, chúng ta nên cố gắng đừng để mình ngập chìm trong bi lụy, mà nên nghĩ rằng cánh cửa này đóng lại thì cũng có cánh cửa khác đang mở ra và biết đâu đây là một cơ hội tốt cho tình yêu, hạnh phúc và cuộc sống của bạn . Đừng nên nhìn quá lâu vào cánh cửa đang đóng bạn sẽ bỏ lỡ cơ hội nhìn những cánh cửa đang mở ra . Khi người yêu của bạn muốn chia tay, xác xuất rất lớn là người ấy đã yêu người khác. Đó là kết luận từ khảo sát của các nhà tâm lý học hiện đại. Vậy, chẳng còn lý do gì để bạn phải luyến tiếc một trái tim đã đổi thay. Tình yêu cần có sự tự nguyện của cả hai bên. Giữ người muốn ở lại chứ ai giữ chi kẻ muốn ra đi để làm gì? Bạn hãy tự an ủi rằng, ít ra người ấy cũng không muốn lừa dối bạn.

Là con người thì ai cũng mơ một mái ấm gia đình và một số người phải đối diện với sự chọn lựa : Lấy người yêu mình hay lấy người mình yêu? Hai quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau . Những người theo quan niệm " lấy ngươì mình yêu" thì cho rằng : Được sống với người mình yêu thì còn gì sung sướng bằng, dù người ta không yêu mình nhưng vẫn chấp nhận bổn phận làm vợ ( hay chồng), vẫn đáp ứng những đòi hỏi chính đáng của mình là đủ rồi . Chỉ những việc như : được ở cùng nhà, ăn cùng mâm, ngủ cùng giuờng, được tự do kề cận, được thoải mái ngắm nhìn, được quan tâm, được săn sóc, được chiều chuộng .... người mình yêu cũng là niềm hạnh phúc và đâu phải ai cũng có được. Nhưng người theo chủ trương "lấy ngươì yêu mình" thì lại cho rằng : Khi người ta yêu mình, thì chắc chắn họ sẽ hết lòng săn sóc phục vụ mình, luôn săn đón những ham muốn của mình để mà chìu chuộng. Như thế chẳng sướng một đời ư? Và biết đâu, sau một thời gian chung sống, thấy người ta quá tốt với mình, làm cho mình cảm động, mình lại cũng yêu người ta thì còn hạnh phúc nào bằng.

Cho những người chưa có kinh nghiệm với cuộc sống gia đình, mới nghe qua lập luận của hai trường phái, thì thấy cũng rất thực tế và khó bác bỏ. Và thường thì phái nữ chọn lấy người yêu mình hơn để được thương yêu chiều chuộng, sự chọn lựa này có lẽ phần lớn bắt nguồn từ bản chất chân yếu tay mềm của phái nữ . Còn phái nam thì có lẽ do sức dài vai rộng, muốn đóng vai người hùng, bảo bọc che chở người mình thương yêu nên thường chọn lấy người mình yêu. Hai lập luận này có thể đúng nếu cuộc sống chung chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, và có thể những người trong cuộc chưa kịp nhận ra những ước mơ thực sự, những nỗi đau thầm kín buốt lòng của "đồng sàng dị mộng" , của tình yêu chỉ có từ một phía, của tình một chiều hay còn gọi là tình yêu đơn phương.

Như người ta thường nói : "cuộc sống là một quá trình đi tìm tình yêu" và "không yêu, không phải là sống mà chỉ là tồn tại" thì lấy người mình yêu và người đó không yêu mình thì chẳng khác chi lấy một người "không sống" mà chỉ đang tồn tại.. Tương tự như bạn đang sống với cái xác không hồn, chẳng thương yêu hay quan tâm gì đến bạn. Thì thử hỏi bạn có thể hạnh phúc với cái xác không hồn như vậy suốt đời không? Có thể bạn đang yêu người đó quá nên nghĩ : Thế cũng được, thế còn hơn cuộc sống không có người đó. Đây là cách suy nghĩ của một người đang đói, đang chỉ cần ăn thôi, và nghĩ rằng họ không cần thêm gì nữa cả. Nhưng cuộc sống thực tế thì sẽ không có đơn giản như vậy. Và con người thì ai cũng phải yêu. Người đó không yêu bạn, thì bạn có chắc là họ không yêu người khác không? Và bạn có chấp nhận được "chuyện như vậy" không? Cái gì khác thì chắc có lẽ bạn có thể sẽ chia xẻ . Nhưng tình yêu thì chắc chắn là không. Ghen tuông, nghi kỵ, theo dõi rình mò, ăn không ngon, ngủ không yên ... Và một cuộc sống như thế làm sao có hạnh phúc?

Ngược lại, những ai chấp nhận lấy người yêu mình để được chìu chuộng, dù mình không yêu người ta, chẳng lẽ cả đời bạn sẽ không không yêu ai? Lẽ nào bạn từ chối sống, không sống chứ chưa nói là sống hạnh phúc? Bạn nghĩ rằng cứ được người khác săn sóc, chìu chuộng là hạnh phúc ư? Nếu nghĩ thế, bạn có thể lầm lẫn . Sự săn sóc, chiều chuộng chỉ đem lại hạnh phúc cho ta khi ta chờ đợi nó. Nếu bạn không thể yêu nổi một người nào đó chắc chắn bạn phải có lý do. Nói khác đi, bạn không thích người đó. Một khi bạn không thích ai thì chắc có lẽ bạn cũng chẳng muốn người đó chiều chuộng, săn sóc mình. Và xa hơn nữa nếu bạn nhận sự thương yêu, chìu chuộng , săn sóc của người này nhưng tâm hồn lại hướng về người khác thì trên phương diện đạo đức của con người thì không thể chấp nhận được. Nói một cách khác là bạn đang lợi dụng người khác hay tệ hơn nữa là bạn đang lừa mình và gạt người.

Rõ ràng lấy người yêu mình hay lấy người mình yêu đều sai lầm. Và nếu cần một hình ảnh để dễ so sánh, có thể so sánh câu hỏi: "Lấy người mình yêu hay người yêu mình?" với câu: "Nếu phải què một chân thì nên què chân phải hay chân trái?" Tại sao ta lại phải chọn một trong hai chuyện bất hạnh đó, trong khi không ai bắt buộc mình?

Có lẽ những phương châm dưới đây sẽ giúp bạn và tôi trong hành trình đi tìm kiếm phân nửa của mình và thưởng thức những điều kỳ diệu của tình yêu :
"- Nếu ta yêu một người mà người ấy không yêu lại mình, hãy cứ dịu dàng với bản thân vì ta đã không làm điều gì sai trái cả. Tất cả chỉ vì tình yêu đã không chọn chỗ dừng chân nơi trái tim người ấy mà thôi.
- Nếu một người nào đó yêu ta nhưng ta lại không yêu ngừơi ấy, hãy tôn trọng điều đó vì tình yêu đã đến gõ cửa trái tim ta, nhưng hãy nhẹ nhàng từ chối nhận món quà mà mình không thể đáp lại. Đừng nhận để không gây đau khổ. Cách ta cư xử với tình yêu chính là cách ta cư xử với chính mình, mọi con tim đều có cùng cảm nhận về nỗi đau và niềm hạnh phúc ngay cả khi cách sống và con đường chúng ta đi có khác nhau.
- Nếu ta yêu một người và họ cũng yêu ta , nhưng rồi tình yêu lại ra đi, thì cũng đừng nên níu kéo hay đỗ lỗi mà hãy để nó ra đi. Mọi lý do đều có ý nghĩa riêng của nó và rồi ta sẽ hiểu. Hãy nhớ rằng ta không lựa chọn tình yêu. Mà là tình yêu chọn lựa ta. Tất cả những gì mà chúng ta thật sự có thể làm là hãy đón nhận tình yêu với tất cả những điều kỳ diệu của nó khi tình yêu đến. Khi tình yêu ngập tràn trong tâm hồn ta, hãy cảm nhận từng hơi thở của nó nhưng cũng phải sẳn sàng buông tay và để cho nó ra đi một khi tình yêu đã muốn thế. Hãy mang tình yêu đến cho những người đã làm sống lại tình yêu trong ta, mang đến cho những ai thiếu thốn tình cảm trong tâm hồn, mang đến cho thế giới xung quanh mình bằng mọi cách mà ta có thể làm được. Có những người đang yêu đã sai lầm. Sống một cuộc sống không tình yêu lâu ngày, họ cho rằng tình yêu chỉ là một nhu cầu. Họ ngỡ rằng con tim là một chỗ trống mà tình yêu có thể lấp đầy, họ bắt đầu nhìn tình yêu như một điều sẽ phải đến với họ, hơn là một điều xuất phát từ chính bản thân họ. Họ quên đi điều kỳ diệu nhất của tình yêu , đó là – tình yêu là một món quà – và chỉ có thể đâm chồi nảy lộc khi được trao tặng đi . Hãy nhớ lấy điều này và giữ gìn nó trong trái tim mình . Mãi mãi tình yêu là một điều bí mật. Hãy tận hưởng niềm hạnh phúc khi tình yêu đến ngự trị trong ta dù chỉ một khoảnh khắc của cuộc đời mình "

Lại thêm một cuối tuần sắp qua trong cuộc sống, trong cuộc hành trình tìm kiếm phân nửa của chúng ta . Chúc tất cả , bạn và tôi , một cuối tuần như ý .

Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/15/9/05)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2006 12:13:29 bởi Lý Lạc Long >

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 15.02.2006 16:46:15
DU HÀNH VÀO TÌNH YÊU

Từ xưa đến nay, hình như chưa ai có thể định nghĩa một cách thỏa đáng về tình yêu. Tình yêu vẫn là một chủ đề được đem ra phân tích, diễn tả, bàn cãi... có lẽ từ thuở tạo thiên lập địa, từ lúc loài người xuất hiện trên quả đất cho đến giờ vẫn chưa kết thúc và sẽ mãi mãi là một đề tài hấp dẫn với tất cả mọi người. Những người đã yêu, đang yêu và kể luôn cả những người chưa yêu đều có chung một cảm giác về sự huyền bí, quyến rũ và thú vị của tình yêu. Tình yêu là một thế giới mênh mông, bí ẩn, khó hiểu và có một điều mà ai cũng thừa nhận là: Trong chúng ta, mỗi người đều có một tình yêu thật sự và chỉ một. Và "tình yêu", đề tài này đã có rất nhiều người nói đến, về đủ mọi phương diện, nhưng những chủ đề liên quan đến tình yêu thì dường như không bao giờ lỗi thời . Nên tôi muốn mời bạn cùng tôi làm một cuộc du hành vào tình yêu, thử "khám nghiệm và tìm hiểu" một vài khía cạnh của tình yêu.

Màu Của Tình Yêu
Hầu hết các thực thể, hay khái niệm hiện hữu trong đời sống này đều có màu tượng trưng. Thí dụ cho hy vọng, hòa bình thì là màu xanh, chiến thắng thì được khoác cho màu đỏ, lòng chung thủy thì được gán cho màu tím, sự quý phái mang màu vàng, sự thơ ngây trinh trắng thì màu trắng, thời gian thì màu cà phê phin, tương lai thì màu hồng hay xám, tội ác được tô màu đen, sự phản bội thì màu tím tái, sự vô ơn bạc nghĩa thì màu bạc v.v... Còn tình yêu có màu tượng trưng không? Sống ở xã hội Bắc Mỹ chúng ta thường nghe câu nói giỡn này "honey, money". Tình yêu có là màu xanh như những tờ giấy bạc Mỹ? Hay màu lấp lánh của những viên kim cương? Hay màu vàng ngà của những bằng cấp?... Chắc chắn là những trả lời này không đúng rồi vì màu của tình yêu dựa vào những tiêu chuẩn này sẽ thay đổi nhanh như chong chóng quay theo chiều gió và bất định và nếu thử đi vào thế giới của văn thi sĩ tao nhã để xem "tình yêu màu gì ?" trong mắt các vị ấy, có lẽ chúng ta càng bị lẫn lộn hơn nữa. Nào là "đỏ rực như lửa mặt trời", "sáng như trăng rằm", "xanh như nước biển", "vàng như lá mùa thu", "trắng như bông tuyết", "đen như suối tóc"... và như vậy thì tình yêu màu gì? Còn đi vào thế giới của các vị chuyên gia khoa học kỹ thuật thì có thể chúng ta sẽ được trả lời: "Tình yêu, giống như điện, không màu sắc, không mùi vị nhưng đụng vào sẽ bị giật tê người... và còn "dữ dằn" hơn điện nữa là tình yêu có thể sôi ở chỗ lạnh và đông đặc ở chỗ nóng, không có hao hụt và biến mất, mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác..." Có thể chấp nhận được định nghĩa này không? Chắc chắn là không rồi. Và nếu có đồng ý thì cũng chẳng đi tới đâu, chẳng giúp chúng ta "thấy" màu của tình yêu mà lại làm cho chúng ta hoang mang thêm. Hay là chúng ta cho hết những trả lời của "con nguời" ở trên vào những máy siêu điện toán (super computer) phân tích xem sao? Chuyện không tưởng! Nhưng nếu thực hiện được thì máy siêu điện toán chắc cũng sẽ bị vỡ mạch điện tử, chịu thua và ngưng làm việc luôn nữa.

Như vậy thì không có câu trả lời à? Vậy chúng ta thử đặt ngược lại vấn đề là có "tình yêu" hay không xem sao. Nói một cách khác, là tình yêu có hiện hữu không? Thì câu trả lời sẽ là: Tình yêu không thấy được, chưa hiểu đủ để định nghĩa được như điện, nhưng hiện hữu giống như điện. Vì nếu không có tình yêu thì loài người tìm đâu ra lý do để cưới hỏi và ly dị? Một số cảm giác hạnh phúc, sung sướng, đau khổ sẽ không có nguyên nhân và lý do. Phải có lửa thì mới có khói! Xa hơn nữa, nếu không có cái gọi là tình yêu thì văn thi sĩ xưa và nay, viết về tình yêu tìm đâu ra cảm xúc để sáng tác trong văn chương?

Tuy nhiên, một điều rất chắc chắn, là dù chưa được định nghĩa thỏa đáng nhưng tình yêu hiện hữu và màu tình yêu phải ở đâu đó trong khoảng giữa dãy quang phổ tập họp các màu đỏ, xanh, lục, lam, chàm, tím… chỉ có điều là chúng ta chưa tìm thấy mà thôi. Cũng giống như các câu hỏi chưa có được trả lời: Có sự sống ở ngoài trái đất không? Có thuốc trường sinh bất tử hay có phương pháp cải lão hoàn đồng không?... thế nào cũng có ngày, chúng ta có được định nghĩa thỏa đáng về tình yêu và sẽ có câu trả lời cho màu tình yêu. Cũng như ngày nay, chúng ta có thể nói chắc chắn là mặt trăng không có sự sống. Cung Quảng, Hằng Nga, Chú Cuội, Ngọc Thố... chỉ là truyền thuyết. Hiện giờ, tạm thời mỗi người chúng ta cứ tự chọn lấy một màu cho tình yêu của mình và nhớ giữ riêng cho mình, đừng cho ai biết. Vì như vậy sẽ không ai thắc mắc hỏi bạn "tại sao". Bạn sẽ không phải trả lời và khỏi phải bàn cãi.

Tình Yêu và Cuộc Sống
Tại sao trong cuộc đời, tình yêu lại quan trọng đến nỗi không thể không có nó? Trong cuộc sống chúng ta có cần tình yêu không? Chúng ta hãy xem cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nghĩ thế nào về cuộc sống và tình yêu: "Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài quy luật cả. Nhưng tình yêu hình như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc nhận chìm kẻ háo hức. Tôi không tin những người quá lạc quan khi nói về tình yêu bằng thể khẳng định. Người ta có thể tin rằng mình được yêu và cũng có thể hiểu nhầm mình không được yêu. Tôi không thể nói về một vấn đề mà chính bản thân mình cũng chưa hiểu hết. Chưa hiểu hết là nói theo kiểu đại ngôn chứ thật sự là hoàn toàn không thể hiểu. Nếu có người nào đó thách thức tôi một trò chơi nghịch ngợm thì tôi sẽ mang tình yêu ra mà đánh đố. Tôi e, không ai dám tự xưng mình am tường hết nội dung phong phú và quá phức tạp của tình yêu. Có người yêu thì hạnh phúc; có người yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc thì con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì thế mà tồn tại. Con người không thể sống mà không yêu. Hàng nghìn năm nay con người đã sống và đã yêu - yêu thật lòng chứ không phải giả. Thế mà đã có không biết bao nhiêu là tình yêu giả. Cái giả mà rất thật trong đời. Sự giả trá đó lúc biết được thì làm khổ lòng nhau biết bao nhiêu mà kể. Người giả, người thật nhìn nhau lúc bấy giờ ngỡ ngàng không biết thế nào nói được. Người thật thì nằm bệnh, người giả thì nói, cười huyên thuyên. Đời sống vốn không bất công. Người giả trong tình yêu thế nào cũng bị thiệt thòi. Người thật thế nào cũng được đền bù. Tình yêu thời nào cũng có. Nhưng có tình yêu kết thúc bi thảm đến độ có khi con người không dám yêu. Yêu mà khổ quá thì yêu làm gì. Có người đã nói như vậy. Tôi đã có dịp đứng trên hai mặt của tình yêu và dù sao chăng nữa, tôi vẫn muốn giữ lại trong lòng một ý nghĩa bền vững: Cuộc sống không thể thiếu tình yêu".

Tình Yêu Là Gì ? Cho Hay Nhận?
Tình yêu là sự kết hợp với "phân nửa" của mình để giữ toàn vẹn được mình. Là sức mạnh hoạt động của con người, làm cho con người chiến thắng được cảm thức cô đơn. Có thể nói yêu là điều kiện để thực hiện việc nghịch lý: "Mình với ta tuy hai mà một", "Ta với mình tuy một mà hai". Ta sẽ nghĩ thế nào trước mệnh đề "Tình yêu là hiến tặng"? Thông thường hiến tặng ai một cái gì, có nghĩa là mất đi, là một sự hy sinh. Trong ý nghĩa ấy, sẽ có lập luận cho rằng bản chất của tình yêu và vô điều kiện. Nghĩa là yêu không cần đáp trả. Nhưng yêu không cần đáp trả chỉ là một hình thức của tình cảm đơn phương. Trong trường hợp này, tình yêu chỉ mới thực hiện được có một nửa. Bởi vì bản chất của tình yêu phải là sự cộng hưởng. Khi ta nói yêu nhau, tức là yêu cầu cả hai người và về cả hai phía. Do đó, hiện tượng yêu không cần đáp trả là sự biến dạng của tình yêu chứ không phải là tình yêu trọn vẹn. Điều đó, chứng tỏ rằng khởi điểm của tình yêu là cho, là hiến tặng. Mà điều tối quan trọng của cho không phải chủ yếu thuộc về vật chất. Sự kết hợp nào, tình yêu nào đặt cơ sở trên vật chất sẽ không tồn tại. Vậy thì cho cái gì? Đó là mạng sống, con người, tâm hồn, cái gì quý giá nhất của chính mình. Tóm lại tặng hiến của tình yêu quý giá nhất là cái gì thuộc về phạm vi nhân bản, là niềm vui, sự hiểu biết, sở thích, óc hài hước, sự buồn khổ và tất cả những gì làm cho người yêu "giàu" hơn lên, sống động hơn lên, làm sản sinh ra một đời sống mới, một thế giới mới. Như vậy, "cho", tự bản chất là một niềm khoái lạc. Và chỉ có người thật sự làm chủ, thật sự "giàu" mới có khả năng cho và muốn cho. Từ đó, ta sẽ hiểu yêu là một sức mạnh, một năng lực tuyệt đỉnh sản sinh ra hạnh phúc, niềm vui, khoái lạc. Cho nên ý nghĩa cao cả của tình yêu không phải là yêu không cần được đáp trả mà là đem tới cho người kia niềm vui, sở thích... nghĩa là "cho" cái gì quý giá nhất của mình đồng thời từ đó mở ra hướng để "kẻ cho lẫn người nhận đều có cái thú là mình đã cho ra đời một cái gì mới". Đó chính là tình yêu đích thực, trọn vẹn, tự do và tự nguyện.

Khởi sinh của tình yêu là hiến tặng, là cho. Đi từ cái cho thuộc về tình cảm, thuộc về tâm hồn chuyển hóa thành của cải cho có tính cách vật chất, tình yêu bao gồm trong bản thân nó trái tim và thân xác, tinh thần và vật chất. Có ai đó đã từng nói: "Tình yêu là sự kích thích, đồng thời là một ý niệm chịu tác động ở phía bên ngoài. Nếu quả thật như vậy thì khi nào bạn thiếu thốn tình yêu, có nghĩa là bên ngoài không còn tác động gì đối với bạn, và chính bạn, bạn đã không còn khả năng kích thích phía bên ngoài. Đó là một hiện tượng "nghèo nàn không thể ban tặng gì cho ai và mất hiệu lực hòa nhập với con người. Cho nên, trong suốt cuộc tình của mình, không phải yêu một lần là đủ, cho một lần là xong. Muốn giữ cho tình yêu bền chặt, hạnh phúc lứa đôi không vơi cạn, mỗi người phải "cho" không ngừng để làm sản sinh ra tình yêu. Người nào chỉ thích thú khi "nhận" mà không cảm thấy thích khi "cho", người đó sẽ không có tình yêu. Theo như một nhà tâm lý học đã viết: Tình yêu tuổi thơ đi theo nguyên tắc: "Tôi yêu vì tôi được yêu". Tình yêu trưởng thành thì ngược lại: "Tôi được yêu, vì tôi yêu". Tình yêu chưa đủ trưởng thành thì: "Tôi yêu bởi vì tôi cần em (anh)". Tình yêu đã trưởng thành thì: "Tôi cần em (anh) vì tôi yêu em (anh)". Như vậy, bản chất của tình yêu là Cho hay Nhận? Và có phải tình yêu phát sinh bằng cách yêu (cho) thì "hay đẹp, tốt" hơn là bị lệ thuộc (vì nhận) tình yêu ? Giải quyết được điều này sẽ giúp chúng ta dù đang ở trong bất cứ giai đoạn nào của tình yêu: Nếu chưa có tình yêu, vẫn còn cô đơn ta sẽ có thể tìm gặp được đối tượng và tìm thấy tình yêu. Nếu đang yêu, sẽ giữ được tình yêu và người yêu. Nếu đã là bạn đời với nhau, ta sẽ củng cố được hạnh phúc gia đình, làm cho cuộc sống lứa đôi mãi mãi có hương vị quyến rũ như thuở nào.

Tình yêu là con dao, có thể cắt nát con tim hay có thể khắc sâu vào tim ta những vết khắc diệu kỳ và sẽ theo ta đến cuối đời. Tình yêu là một tặng phẩm tuyệt vời mà tạo hóa dành cho con người, có thể đem đến cho ta niềm hạnh phúc và sức mạnh. Nhưng cũng có thể đem đến cho ta nỗi đau, có nhiều tình yêu kết thúc bi thảm đến độ có người không dám yêu nữa. Cũng như sống là đương đầu, rủi ro với cái chết. Hy vọng là liều lĩnh với sự thất bại. Yêu là mạo hiểm vì có thể bị từ chối. Nhưng không mạo hiểm thì đã là thất bại rồi vì trong cuộc sống điều nguy hiểm nhất là không thử thách điều gì. Để đạt được cái kế tiếp, bạn phải dám mạo hiểm với những gì liên quan. Bộc lộ cảm xúc là chính bạn đang nói lên sự thật. Thử thách trong tình yêu chính là bạn yêu mà có thể không được đáp trả. Làm thế nào để định nghĩa tình yêu như: Vấp ngã nhưng không suy sụp, kiên định nhưng không cố chấp, chia xẻ và công bằng, đồng cảm và không đòi hỏi, tổn thương nhưng đừng bao giờ giữ lại nỗi đau.

Như người ta thường nói : "Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ".
Cho tôi, có lẽ dù có khổ thì cũng " yêu". Còn bạn thì thế nào?

LÝ LẠC LONG (TTL/TCT/MAI/ 19-5-2005)

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 15.02.2006 16:49:42
Tình Yêu và Hạnh Phúc.

Tình yêu là gì?
Theo tự điển thì tình yêu được định nghĩa là tình cảm, sự yêu thương, luyến ái ... của người và người như tình cảm của đôi lứa, của bạn bè, của gia đình ... hay nói một cách tổng quát là tình cảm của người dành cho "vạn vật" chung quanh cuộc sống. Trong cuộc sống, thì ai chắc cũng đã nghe qua những câu quen thuộc này như : "Tôi yêu em (anh)"; "Tôi thương bạn "; " Tôi yêu thương cha mẹ "; "Tôi yêu tổ quốc quê hương" ... v.v. Hôm nay xin "bàn phiếm" với các bạn chút về tình yêu lứa đôi và theo nhà thơ Xuân Diệu thì : "Làm sao định nghĩa được tình yêu". Tình yêu đôi lứa là một chủ đề mà văn thi sĩ đã tốn không biết bao nhiêu là bút mực đề cập đến, tự ngàn xưa và vẫn sẽ còn tiếp tục cho đến ngàn sau. Tình yêu đôi lứa sẽ luôn luôn là một chủ đề hấp dẫn và thích thú với hầu hết mọi người, ở mọi lứa tuổi .

Tình yêu có tuổi không?
Người ta thường nói tuổi trẻ là tuổi của hy vọng và tuổi của yêu đương. Còn trẻ, có nhiều thời gian và đầy đủ tâm lực nên có nhiều hy vọng để thực hiện được những hoài bão ôm ấp trong lòng như mơ ước . Còn trẻ, có nhiều hy vọng để tìm được người bạn đời lý tưởng, để yêu và được yêu. Thi sĩ Bryon ví tình yêu của tuổi trẻ như một vườn hoa có nhiều bông hoa đang bừng nở và khoe sắc thắm trong mùa xuân và theo Thomas Moore thì chẳng có gì ngọt ngào bằng nửa sự ngọt ngào của giấc mơ tình yêu trong thời trẻ tuổi.
Đúng như vậy, tuổi trẻ là tuổi của yêu đương, của hồn nhiên và mộng mơ nên tình yêu trong thời trẻ tuổi là tình yêu lý tưởng, thánh thiện và trong sạch, chưa bị phấn bụi đường đời làm vẩn đục. Yêu chỉ vì yêu, trong chúng ta, nếu ai đã đi qua đoạn đường tuổi trẻ và nhìn lại thì quả thật "chẳng có gì ngọt ngào bằng nửa sự ngọt ngào của những giấc mơ tình yêu trong thời trẻ tuổi". Dù có trải qua bao nhiêu thăng trầm, bể dâu đổi dời của cuộc sống, chúng ta cũng vẫn hoài nhớ những "giấc mơ tình yêu" của thời tuổi trẻ. Đặc biệt là "mối tình đầu tiên", dù có trọn vẹn hay dở dang , cũng sẽ vĩnh viễn tồn tại trong ngăn tủ ký ức. Vì vậy, các bạn còn trẻ hãy "yêu", yêu mình, yêu người, yêu đời như các bạn có thể yêu, thưởng thức sự ngọt ngào của tình yêu tuổi trẻ, và sẽ không phải hối hận, tiếc nuối và thắc mắc về sau . Phải tự hỏi mình những câu hỏi: Phải chi?... Nếu lúc đó ?... v.v.
Những điều ở trên chỉ nhấn mạnh tuổi trẻ là giai đoạn lý tưởng nhất cho tình yêu, nhưng tình yêu thì như N. Karamzine đã nói: " Tình yêu không có tuổi tác, lúc nào trái tim còn đập người ta còn yêu". Câu nói này của N. Karamzine được phản ảnh và chứng minh rất rõ ràng trong văn thơ của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhà thơ Huy Cận cũng có nhận xét giống như N.K về tình yêu và tuổi tác và đi xa hơn một chút thêm vào nhận xét về thơ tình và tuổi tác : " Tình yêu không có tuổi và thơ tình hay càng không tính tuổi được bao giờ". Thực tế thì đúng như N. karamzine và Huy Cận đã nhận xét . Tình yêu không có tuổi tác và có lẽ giới hạn duy nhất là đời sống trần thế của một người và một trong những kết quả của tình yêu là thi ca. Cho thi ca thì có thể nói không có tuổi và bất tử và nói về tình yêu mà bỏ qua thi ca thì là một thiếu sót.

Tình yêu và thi ca
Có thể nói tình yêu là một động lực chính và duy nhất trong thi ca và thi ca là kết quả của tình yêu ( lứa đôi, bạn bè, quê hương ... cho "vạn vật" nói chung). Những áng văn, những bài hát, những bài thơ tình hay là những hoa tình và trái yêu bất tử, vượt thời gian và không có tuổi tác. Tình yêu đã là động lực giúp cho các văn thi nhân sáng tác được những tuyệt tác và ngược lại thì như nhà thơ Từ Huy đã nhận xét : " Thơ ca tình yêu đã làm con người dịu lại giữa cuộc đời, bởi chỉ có tình yêu, con ngươì mới quay về với nhân bản, quay về với bản sắc hồn nhiên khi tạo hóa tạo ra con người". Nhà văn Ý Leopardy thì cho rắng " thơ trữ tình có thể coi như tổng hợp, như tuyệt đỉnh của thơ, và thơ là tuyệt đỉnh của tiếng nói loài người." Đành rằng chỉ một số rất ít trong chúng ta có khả năng viết văn, làm thơ, phổ nhạc, có khả năng dùng chữ để diễn đạt, chuyên chở tâm ý, cảm xúc của chính mình. Nhưng qua những nghệ nhân này chúng ta sẽ tìm được chính mình . Họ đã nói hộ ta những cảm xúc, những suy nghĩ, nhưng buồn vui, khát khao, mơ ước .. của chính bản thân ta. Tôi tạm trích một số câu thơ về tình yêu của một số thi sĩ và tin rằng bạn sẽ tìm thấy chính mình qua một hay nhiều tác giả dưới đây :

Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dăm trường (Nguyễn Du)

Trái tim là một con tàu suốt
Chẳng có sân ga trạm cuối cùng (Kiên Giang Hà Huy Hà)

Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng (Nguyễn Bính)

Hiu hắt lòng ta như thiếu nắng
Như những ngày những tháng không em (Chế Lan Viên)

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm hồ dễ có ai quên (Thế Lữ)

Anh sẽ trầm luân ngàn kiếp nhớ
Cho dẫu ngày mai em lãng quên (Vũ Hoàng Chương)

Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề (Hồ Dzếnh)

Em là sóng nhưng xin đừng như sóng
Đã xô vào, xin chớ ngược ra khơi (Đỗ Trung Quân)

Đưa em về tôi chọn đường xa nhất
Đón em sang tôi lựa ngõ thật gần (Trần Lữ Vũ)

Người tôi yêu đã đi xa
Người yêu tôi lại ở nhà. Buồn không? (Phan thị Thanh Nhàn)


Tình Yêu là đau khổ hay hạnh phúc?
Người ta thường nói "yêu là đau khổ" và có đúng như vậy không? Nếu xuyên qua thi ca thì hình như là vậy vì hầu hết những tình thơ tuyệt tác đều được sáng tác trong lúc tác giả đang ở đỉnh tuyệt cùng của đau khổ vì nhớ nhung, trái ngang, dang dở ... trong tình yêu. Có lẽ đau khổ là cảm xúc cần thiết cho thơ tình tương tự như gạch ngói là vật liệu cần thiết để xây một ngôi nhà đẹp. Và có phải khi được toại nguyện, có hạnh phúc thì thi nhân không sáng tác được thơ tình hay, xuất xắc, gây nhiều xúc động cho độc giả? Nếu nhìn qua thi ca dường như cũng đúng như vậy. Nhưng trong thực tế thì tình yêu có thể đem tới hạnh phúc tuyệt vời và cũng có thể đem tới đau khổ tột cùng. Tình yêu là một tặng phẩm cần thiết mà tạo hóa đã ban cho nhân loại, vì không có tình yêu thì nhân loại sẽ không còn tồn tại nữa trên trái đất. Dù tình yêu dẫn đến đau khổ như nhà thơ Lamartine của Pháp đã nhận xét:
Tình trường là cánh đồng hoa
Đố ai qua đó không sa lệ sầu (Nguyễn Tiến Lãng dịch)

Hay hạnh phúc như Xuân Diệu đã diễn tả :
Từ lúc yêu nhau , hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của lòng tôi .

Thì hầu hết mọi người cũng đã, đang và sẽ phải yêu. Tình yêu là nhu liệu cần thiết cho đời sống của con người, cho sự tồn tại của loài người trên quả địa cầu cũng như chất đốt là nhu liệu cần thiết giữ cho ngọn lửa cháy. Hơn nữa, theo thiển ý của tôi thì đau khổ hay hạnh phúc trong tình yêu cũng tùy vào quan niệm, ước muốn và cảm nhận của một người . Nếu quan niệm tình yêu là cho và nhận chứ không đòi hỏi, những mất mát hay không có được không phải là đau khổ, và hạnh phúc là những gì bạn đang có trong tay... thì một người sẽ tìm thấy hạnh phúc trong tình yêu dù rơi trong bất cứ hoàn cảnh, trạng thái nào trên con đường tình yêu.

- Yêu người và được yêu thì là quá hoàn hảo hảo không có gì để nói nữa .
- Yêu người một chiều, ừ thì hơi thất vọng chút, nhưng ít ra mình cũng đã tìm được đối tượng để trao gởi tình yêu .
- Vỡ tan, ừ thì buồn, đau, và khổ thiệt, như ít ra mình cũng đã có một thời yêu người và được yêu.
- Người không yêu ai, ... có lẽ là người cô đơn, khổ sở, đáng thương và đau khổ nhất.

Tôi thích hai câu thơ về tình yêu của Lê Thị Giáng Vân :
Ai bảo yêu nhau là đau khổ
Xin một đời đau khổ để yêu nhau

Và xa hơn nữa, nếu chúng ta có thể "hiểu" được hạnh phúc như nhà thơ Lý Bạch của Trung Hoa đã nói :" Bạn hỏi tôi đâu là hạnh phúc tuyệt vời trên thế gian này? Đấy là lúc bạn nghe cô bé gái vừa đi vừa hát sau khi hỏi thăm nhờ bạn chỉ đường", thì khi tình yêu không như ước muốn và mộng mơ của mình, chúng ta có thể sẽ thất vọng, nhưng sẽ không bao giờ đau khổ nữa.
Hạnh phúc tuyệt vời với một tâm hồn cao đẹp như Lý Bạch là như vậy, thật giản dị và chỉ có thế thôi. Và hạnh phúc tuyệt vời này chắc cũng có thể đến với bạn và tôi được, phải không? Hy vọng là như vậy !

Lý Lạc Long (TTL,TCT,MAI 20/4/05)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2006 17:15:12 bởi Lý Lạc Long >

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 15.02.2006 16:54:45
"Khúc Xương Sườn" & Tôi

Từ cái ngày tôi bắt đầu "biết" có sự khác nhau giữa con trai và con gái, bắt đầu thích thú tìm hiểu về cái thế giới bí ẩn của những "khúc xương sườn", cũng có lẽ là ngày tôi bắt đầu thực sự nếm những cảm giác vui buồn, khổ đau, hoan lạc… của người đàn ông trong trần thế. Có những lúc, tôi tưởng như mình đã hiểu được khúc xương sườn của mình, nhưng đã nhiều lần phải quay lại điểm khởi hành, và mỗi lần như vậy thì điểm khởi hành hình như đều xa hơn điểm khởi hành trước đó về phía quá khứ. Dĩ nhiên, mỗi lần như vậy là một số tự tin lại biến mất tích. Lại phải tìm hiểu, khám phá, sục sạo học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước. Suốt nửa đời người, kết luận tạm thời của tôi ở vào thời điểm này là tôi không "hiểu" được gì ráo trọi về những khúc xương sườn, và dù là cái khúc gần gũi nhất với tôi . Bạn đừng có vội cười, vì còn tệ hơn như vậy nữa là tôi bắt đầu nghi ngờ, tôi có thực sự hiểu được tôi chưa? Cái câu hỏi: "Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và tôi đi về đâu?", hình như tôi vẫn chưa trả lời được. Và nếu "nhân sinh ngũ thập tri thiên mệnh " thì tôi đã đi gần hết đoạn đường đời này rồi đó bạn ạ. Tôi vẫn chưa hiểu nổi được tôi thì nói chi đến cái thế giới bí ẩn, khó hiểu của nữ giới.

Nhiều khi bí quá, tôi "đổ lỗi" hết mọi việc rắc rối cho ông Adam, ham ăn chi trái táo để những kẻ hậu duệ của ông phải gánh chịu cái hậu quả này. Mà nghĩ xa hơn chút, thì cũng đúng như vậy, nếu ông ấy không mềm lòng nghe theo lời bà Eve thì giờ này chắc họ vẫn nhởn nhơ rong chơi trong Vườn Địa Đàng, ngây thơ vô tội như những đứa trẻ tắm mưa, hồn nhiên đùa giỡn giữa thiên nhiên, đâu có biết gì đến cái trò tí toáy "đúc dân", và trái đất đã không có loài người, không có những người như tôi, ngồi đây suy nghĩ vu vơ, ngớ ngẩn như vầy. Hậu quả của việc ăn một trái táo ghê gớm thiệt và "tội" thì đúng là của ông Adam. Thì thôi, đây là nợ của tiền nhân, hậu duệ phải kê vai chia nhau trả, ai khôn thì trả ít chút, ai dại thì phải trả nhiều chút. Tạm bằng lòng với suy nghĩ đơn giản này của mình và cảm thấy an ủi vì ít nhất là tôi cũng đã biết được "Tôi là ai?" ( là hậu duệ của ông Adam); "Tôi từ đâu đến?" ( từ Vườn Địa Đàng); và "Tôi đi về đâu?" (chưa biết, tới đó sẽ hay, có thể sẽ về lại chỗ khởi hành). Tôi biết trả lời cho những câu hỏi này không có đơn giản như vậy. Nhiều nhà hiền triết đã suy nghĩ suốt cả đời vẫn còn "băn khoăn" với câu hỏi này. Đây chỉ là một suy nghĩ nông cạn đáng giá ba xu của tôi.

Nhiều lúc tôi cũng để ý nghe thử xem hậu duệ của bà Eve suy nghĩ thế nào về phái của họ. Thì ra cũng như phái nam, họ cũng băn khoăn, cũng có những nỗi buồn thân phận, cũng thở than, cũng oán trách ..v.v . Từ những điều nghe và thấy, theo tôi, thì vì cái tội "dụ dỗ" của bà Eve, họ còn bị phạt nặng hơn cái tội "dám ăn" của ông Adam. Công bằng hay không? Đây là "ý", là những tác phẩm của tạo hóa và có lẽ ngoài tầm hiểu biết của hầu hết mọi người .

Tôi tình cờ nghe một câu chuyện vui có liên quan chút đến việc này, tiện dịp xin ghi lại đây để giải trí . Trong một cuộc trà dư tửu hậu, có một ông bạn, không biết ông ta tinh thông sử sách cỡ nào, và căn cứ vào sách vở nào ... mà dám quả quyết là bà Eve bị phạt “nặng” hơn không phải vì tội dụ dỗ, quyến rủ ông Adam ăn trái táo mà là vì bà Eve đã dám ăn đến hai trái táo và dấu tích thì còn "rành rành" ở đó như mọi người có thể thấy !

Câu chuyện ở trên lại gợi cho tôi một thắc mắc là trái táo ông Adam ăn lúc đó có "giống giống" như trái táo bây giờ không? Nếu giống thì mấy ông bà bác sĩ thời nay cũng dám bị phạt về tội khuyên (dụ dỗ) mọi người nên ăn một trái táo mỗi ngày ("one apple a day, keep the doctor away"). Rồi gần đây thì đến trái chuối, các nhà chuyên môn nói, về dinh dưỡng, trái chuối có hiệu quả tốt gấp mấy lần trái táo. Có lẽ vì vậy mà một số các bậc nam nhi đổi sở thích qua "ăn chuối" thay vì "ăn táo" để "giữ gìn sức khỏe". Đây có phải cũng là ý của tạo hóa không? Tạo hóa, con người và xã hội loài người quả thật là quá phức tạp, rối ren và khó hiểu.

Xin trở lại chủ đề chính của bài viết là tìm hiểu một số khía cạnh và bản chất của đàn ông và "khúc xương sườn" của họ trong đời sống thực tế ngày nay. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của loài người , nhưng vấn đề này rất rộng lớn và bao quát . Tạm thời, ta cứ xem nhân loại và xã hội loài người bắt đầu hình thành từ việc ông bà tổ Adam và Eve bị phạt và bị đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng. Trải qua một thời gian rất dài, xã hội loài người phát triển không ngừng về mọi phương diện. Con người ngày nay so với vài thế kỷ trước đây đã khác rất nhiều về cách sống, cách suy nghĩ, cách làm việc, cách suy tư .... và cụm từ "khúc xương sườn" dùng để ám chỉ phái nữ chắc chắn là không còn thích hợp nữa. Mặc dù hình dạng và tư duy của con người hiện đại có thể khác rất nhiều so với con người của thời cổ đại . Nhưng có những cái, về cơ bản, con người hôm nay vẫn "giống" như con người thuở man khai. Như quan hệ nam nữ chẳng hạn, về quan niệm, hình thức và phong cách ... v.v. có thể đổi thay, khác với thời xa xưa rất nhiều và càng khác nhau tùy theo phong tục tập quán của mỗi xã hội, mỗi địa phương, mỗi quốc gia . Từ ông Adam và bà Eve cho đến nay, quan hệ nam nữ vẫn là một nguyên nhân chính để loài người có thể tồn tại trên trái đất. Gia đình, một kết quả của đa số những quan hệ nam nữ, từ nhiều ngàn năm qua, vẫn còn là một đơn vị căn bản của xã hội loài người hiện nay và có lẽ cũng sẽ như vậy trong tương lai.

Đàn bà và đàn ông khác nhau rất nhiều về thể chất, hình dáng, cách suy nghĩ, cách hành xử ..v .v. Tóm lại là có vô vàn những điều khác biệt. Có thể ví, nam và nữ như hai cực nam châm "trái dấu", nên giữa họ có một hấp lực hay một sức hút của từ lực rất mạnh mẽ. Tình yêu là một nguyên nhân chính để gắn bó, để kết hợp các đôi nam, nữ lại với nhau. Nhưng ngay trong tình yêu thì nam và nữ cũng đã có cái nhìn và quan niệm khác biệt, như tục ngữ nói:" Con gái đôi tai, con trai đôi mắt ", phái nữ thường vì đôi tai mà trái tim bị chinh phục, còn phái nam thì thường do đôi mắt mà thần hồn bị đảo điên. Người đàn bà luôn khao khát nghe được câu : "Anh yêu em" từ người đàn ông mà họ thương yêu, còn đàn ông thì ngược lại, luôn trăn trở mãi với câu hỏi "Ta yêu ai?".

Theo các nhà tâm lý, thì với đàn ông, tình dục là một cánh cửa mở ra những cảm xúc, tạo ra nguồn cảm hứng dồi dào. Còn đối với phụ nữ, cảm xúc là yếu tố cần thiết để có được ham muốn tình dục. Chính vì vậy mà đàn ông không ngớt than phiền: "Lúc nào cũng phải nói câu Anh yêu em thì mới khiến cô ấy có cảm hứng". Còn phái nữ thì than thở: "Anh ấy lúc nào cũng muốn làm chuyện đó". Nhưng không hẳn là đàn ông coi trọng tình dục hơn tình yêu, trong thực tế, thì đa số đàn ông luôn muốn có một người phụ nữ của riêng mình để họ yêu thương, chăm sóc, quan tâm và chia xẻ với họ mọi niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. Đàn ông có thể có những giây phút "nỗi loạn", nhưng không phải lúc nào họ cũng hứng thú và chấp nhận các cô sống thác loạn, buông thả, thiếu nề nếp. Trong tình yêu, thường thì đàn ông không có ý định " bẻ khóa vườn đào" nếu phụ nữ không đưa chìa khóa cho họ. Khi yêu, đàn ông cũng có những khát khao cháy bỏng, nhưng họ cũng hết sức tôn trọng mong muốn của người họ yêu. Tuy nhiên, đôi khi phái nữ bằng những trang phục quá bắt mắt, những ánh mắt và cử chỉ gợi tình, và có thể nói, lúc này đàn ông mới là người rơi vào thế bị động, chứ không phải là phụ nữ.

Thường thì đàn ông bị gán cho cái tiếng đa tình, và đàn ông đa tình , do yếu tố bẩm sinh di truyền và do môi trường sống, họ có sinh lực dồi dào và có thể đối tượng của họ không đủ sức nhận lãnh, chứa đựng... hết nên họ phải tìm đến những đối tượng khác hoặc phải yêu nhiều đối tượng một lúc thì trái tim tham lam của họ mới thỏa mãn. Điều này cũng đúng cho đàn ông nhưng không công bằng vì bản tính đa tình không hẳn chỉ có ở phái nam . Phái nữ cũng có rất nhiều người đa tình , họ đang yêu người này nhưng những lời tỏ tình, những ánh mắt nồng nàn, tình tứ từ một người đàn ông khác cũng làm cho họ cảm thấy xao xuyến, rung động, ngây ngất... Họ có thể cũng tự biện luận là yêu chỉ một người,thì thường không hội đủ những đặc điểm mà họ cần, nên họ phải yêu nhiều người. Trái tim có những lý lẻ riêng của nó, vấn đề ở đây có lẽ là sự tự kiềm chế và nhận biết giới hạn nào ta không thể vượt qua. Do bản chất bẩm sinh của đàn ông (male animal instinct), người đàn ông không phải không thích người đàn bà đa tình, nhưng có điều là họ chỉ thích người phụ nữ đa tình riêng với họ mà thôi. Đúng hay sai, công bằng hay không? Đây cũng là một sắp đặt của tạo hóa.

Đàn ông chỉ thích những cô gái đẹp? Nói cách khác, là đàn ông yêu bằng mắt, cũng không đúng hẳn như thế. Đã là con người, dù là nam hay nữ thì đứng trước cái đẹp, có ai lại không trầm trồ ngưỡng mộ? Nhưng quan niệm về cái đẹp rất khó nắm bắt, bởi một lý do đơn giản là "nó không có khái niệm, không tồn tại ở trong sự vật" ( Kant,1724-1804). Cái đẹp thường gây nên sự tranh cãi, vì có người sẽ không tiếc lời khen tụng, tán dương một vẻ đẹp, nhưng người khác lại lắc đầu phủ nhận. Một cô gái "mình hạc xương mai" có thể là cô gái trong mơ của một người đàn ông này, nhưng người đàn ông khác thì lại ngưỡng mộ những người phụ nữ "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang". Và đối với nữ giới , có người thích vẻ đẹp này, có người thích vẻ đẹp khác như : phong thái thư sinh nho nhả, nét phong trần, từng trải kinh nghiệm, hay khí chất mạnh mẽ , hiên ngang, bất khuất của nam nhi ... Vì vậy, các bạn cứ yên tâm, nếu người ấy luôn yêu bạn nồng nhiệt, thì nên tự tin rằng, bạn chính là "Tây Thi hay Tống Ngọc trong mắt người yêu mình".

Khi đã có người phụ nữ của riêng mình, đàn ông thường thỏa mãn, say với men chiến thắng và thấy không cần phải hết lòng "ra sức chinh phục" người mình yêu nữa. Và khi mối quan hệ giữa hai người ngày càng trở nên gắn bó, thường phụ nữ là người đầu tiên mất tự tin là họ còn có đủ sức hấp dẫn và thu phục đối tượng nữa không. Họ cũng chợt nhận ra rằng, người đàn ông họ yêu không còn dành nhiều thời gian cho họ, không "có vẻ" si mê họ như thuở ban đầu. Bên cạnh đó, thì đàn ông chẳng ngần ngại bộc lộ rõ bản chất của họ, và phụ nữ hiếm khi nào hài lòng với những phong cách mà trước đây họ chưa khám phá được ở người đàn ông. Với đàn ông, mọi sự thay đổi không phải là do họ không còn mặn nồng, không còn yêu thương nữa mà đơn giản là họ muốn sống thật với chính mình trong tình yêu. Và đàn ông cũng vẫn phải trăn trở rất nhiều với những lo lắng mơ hồ : "Liệu mình có làm người ấy thất vọng?"; "Hôm nay người ấy không vui, phải chăng mình đã làm gì khiến cho người ấy buồn?".

Ở trên chỉ là những tảng băng nhỏ nổi trôi trong biển đời, tôi góp nhặt lại trong cuộc hành trình tìm hiểu bản thân và "khúc xương sườn" của mình, tiện dịp ghi lại đây để chia xẻ với các bạn. Nói cách khác, là sự khác biệt nhưng thu hút nhau như nam châm đối cực giữa nam và nữ thì còn rất nhiều. Và nói thật thì hiện giờ tôi cũng chưa tự trả lời được một cách chắc chắn và tự tin câu hỏi cổ xưa : "Ta là ai? Ta từ đâu đến? Và Ta đi về đâu?" thì nói chi đến cái thế giới bí ẩn và khó hiểu của tóc dài .

Cuối cùng, lời nhắn nhủ chân thành đến các bậc nam nhi thân mến: Nếu bạn nào còn nghĩ là mình vai hùm lưng gấu, sức khỏe mạnh mẽ , hình dạng to lớn và khả năng chịu đựng đau đớn của bạn sẽ hơn phái nữ "liễu yếu đào tơ" thì bạn đã lầm, đã không hiểu rõ bản thân mình & đối phương rồi. Có thể nói là bạn chưa ra trận đã thua. Kế đến, mỗi khi khúc xương sườn của bạn dịu dàng " Anh yêu, chúng ta cần phải nói chuyện với nhau ! " Và bạn lo lắng : " Mình lại phạm sai lầm gì đây?" Thì hành trình vào thế giới bí ẩn và khó hiểu của phe tóc dài còn dài dằng dặc trước mặt và đầy những bất ngờ .

Chúc bạn và tôi nhiều may mắn .

Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI/27/10/05)

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 17.02.2006 07:34:40
NHỮNG BƯỚC ĐƯỜNG DẪN ĐẾN HẠNH PHÚC

Có lẽ bạn cũng như tôi, thường nghe nhắc đến hai chữ "hạnh phúc".
Nhưng hạnh phúc là gì? Và làm thế nào để có hạnh phúc? Đây luôn là một vấn đề băn khoăn, trăn trở của con người và "hạnh phúc" trở thành một đề tài khoa học đang được nghiên cứu trong thế kỷ hiện đại. Không những chỉ trong tâm lý và kinh tế học mà ngay cả triết học, y học, chính trị học... đều nghiên cứu về hạnh phúc. Chương trình "Dữ liệu thế giới cho hạnh phúc" (World Database for Happiness) ra đời, nhiều tờ báo mở mục nghiên cứu hạnh phúc. Nhà tâm lý học Timothy Sharp, người Úc, lập Viện Nghiên cứu Hạnh phúc ở Sydney (Úc). Mời bạn cùng tôi tham khảo quá trình tiến triển một số nghiên cứu của các nhà khoa học về hạnh phúc.

Năm 1998, nhà tâm lý Martin Seligman - Đại học Pennsylvania, đã mời một số nhà tâm lý học hàng đầu của nước Mỹ đến thành phố Akumal (tiểu bang Mexico) để chia xẻ mục tiêu mới của tâm lý học: Nghiên cứu hạnh phúc. Môn học "nghiên cứu hạnh phúc" sẽ nghiên cứu các yếu tố tạo nên hạnh phúc cho con người. Ba người có công nhất trong việc hình thành môn khoa học này là Seligman, nhà tâm lý Edward Diener thuộc Đại học Illinois, với biệt hiệu "tiến sĩ Hạnh Phúc" và nhà tâm lý Mihaly Csikszentmihalyi, một người Mỹ gốc Hung Gia Lợi. Hiện nay thì trên thế giới chưa có ngành khoa học nào giải thích rõ ràng hạnh phúc là gì? Và ngay cả định nghĩa của danh từ "hạnh phúc" cũng rất khó khăn vì con người là một sinh vật phức tạp và thế nào là hạnh phúc thì có lẽ sẽ tùy thuộc vào quan niệm hạnh phúc của từng cá nhân. Nhưng những phát hiện của các nhà tâm lý học sẽ làm chúng ta ngạc nhiên, vì có những yếu tố chúng ta tưởng là mang lại hạnh phúc nhưng thật sự là không hoặc không đáng kể. Một số thí dụ như :

Hạnh phúc là tiền bạc? Theo nhà tâm lý học Daniel Kahneman, thì tiền không làm con người hạnh phúc vì khi chúng ta có đủ nhu cầu cần thiết rồi, thu nhập thêm chỉ nâng chút ít cho sự hài lòng với cuộc sống chúng ta mà thôi. Daniel Kahnerman thuộc trường đại học Princeton (Mỹ) đoạt giải thưởng Nobel về Kinh tế năm 2003 cho những đóng góp của ông trong việc nghiên cứu nguyên nhân tiền bạc có thể mua được hạnh phúc nhưng không làm con người hạnh phúc. Các nhà kinh tế nghiên cứu những phép tính mang lại hạnh phúc như đặt giá cho hôn nhân, công ăn việc làm, môi trường sống, lạm phát v.v... Mô hình kinh tế làm chuẩn mực để nghiên cứu cho rằng hạnh phúc là sự cân đối giữa công việc (đau khổ) và hưởng thụ (sung sướng). Người hạnh phúc là người được tiêu pha thoải mái và có nhiều thời gian rảnh rỗi.Tuy nhiên, giáo sư Richard Layard, Trường Kinh tế London, phản bác lại rằng xã hội phương Tây thật điên rồ khi cứ tiếp tục tích lũy vật chất trong khi con người cảm thấy không được an toàn và bị áp lực tâm trí (stress) nhiều hơn. Ông phát biểu: "Tâm hồn yên tĩnh và sự an toàn là những điều thông thường phải được tăng lên (chứ không phải giảm đi) khi con người trở nên giàu có hơn". Trong vòng 50 năm qua, mức sống trong các nước phát triển như Mỹ, Châu Âu và Nhật tăng lên không ngừng, nhưng các nghiên cứu về hạnh phúc gần đây cho thấy người dân ở những nước này dường như không cảm thấy hạnh phúc hơn và các nhà kinh tế học giải thích ra sao về hiện tượng nghịch lý này? Điều nghịch lý ở đây là: Một cá nhân sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn nếu cá nhân đó giàu có hơn người khác, nhưng khi toàn bộ xã hội giàu có hơn, dường như không ai cảm thấy hài lòng hơn. Trước đây, người ta thường đánh giá hạnh phúc của người dân qua mực sống của nước đó và các nhà kinh tế học thường sử dụng chỉ số GDP (Gross Domestic Product - tổng thu nhập tính trên đầu người). Nhưng điều nghịch lý này đã buộc các nhà kinh tế phải nghiên cứu khái niệm "hạnh phúc" dựa trên những thước đo mới. Richard Layard, một nhà kinh tế của trường Kinh tế London, đã xem xét vấn đề hạnh phúc dựa trên nhiều yếu tố khác nhau thuộc về tâm lý học, xã hội học và những nguyên lý của riêng ông để trả lời câu hỏi: Tại sao con người không cảm thấy hạnh phúc hơn khi giàu có hơn? Theo Layard, một trong những yếu tố có thể lý giải cho điều nghịch lý này là ''tính thích nghi nhanh chóng'' của con người: Con người thường tự điều chỉnh mình rất nhanh chóng trước những thay đổi về điều kiện sống. Do vậy, những cải thiện về mức sống chỉ có thể làm cho họ vui lên một lúc, nhưng niềm vui này rồi cũng nhanh chóng qua đi. Chẳng hạn, 30 năm trước đây, một hệ thống trung tâm điều hòa không khí cho căn nhà được xem là thứ hàng xa xỉ nhưng ngày nay nó đã trở thành nhu cầu thiết yếu. Một nguyên nhân khác, quan trọng hơn, khiến con người không cảm thấy hạnh phúc hơn khi kiếm được nhiều tiền là do con người thường có "xu hướng so sánh mình với người khác". Thí dụ, khi các sinh viên Đại học Harvard được hỏi sẽ chọn công việc nào nếu: (a) Mức lương họ là 50.000 USD một năm trong khi lương những người khác chỉ bằng một nửa con số này; (b) Mức lương họ là 100.000 USD một năm trong khi mức lương những người khác sẽ gấp đôi con số này. Đa số đã chọn công việc (a). Họ cảm thấy vui hơn khi có ít tiền hơn, miễn là họ khá hơn người khác chứ không coi trọng mức lương tuyệt đối. Điều này chứng tỏ rằng cố làm việc hết sức tích cực hơn, trong thực tế, không đem đến cho con người nhiều hạnh phúc như họ mong đợi. Bởi lẽ, khi họ kiếm được nhiều tiền thì người khác cũng làm được điều đó. Kế đến, điều đáng quan tâm nhất, là con người làm việc vất vả hơn để kiếm được nhiều tiền hơn, nhằm mưu cầu đời sống vật chất khá hơn, sẽ làm cho con người trở nên buồn rầu hơn trước đây nếu như họ không có đủ thời gian rảnh rỗi để nghỉ ngơi, giải trí. Khi các sinh viên Đại học Harvard được hỏi sẽ chọn công việc nào nếu: (c) Họ sẽ có hai tuần để nghỉ phép, trong khi những người khác chỉ có một tuần; (d) họ sẽ có bốn tuần nghỉ phép trong khi những người khác có tám tuần, đa số chọn (d). Layard cho rằng kết quả này phản ảnh một thực tế là ở các xã hội phát triển con người có xu hướng làm việc vất vả hơn để tiêu thụ nhiều hàng hóa vật chất hơn, trong khi thời gian để nghỉ ngơi, giải trí thì giảm xuống và đây chính là nguyên nhân khiến con người cảm thấy không hạnh phúc hơn dù kiếm được nhiều tiền hơn người khác.

Hạnh phúc là tuổi trẻ? Cũng không phải, vì theo nghiên cứu của các nhà khoa học, thật ra người lớn tuổi bằng lòng với cuộc sống hơn người trẻ tuổi. Một thăm dò của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật Hoa Kỳ cho thấy những người trong lứa tuổi 20-24 có trung bình 3,4 ngày buồn mỗi tháng, trong khi những người kho ảng tuổi 65-74 chỉ buồn 2,3 ngày mỗi tháng. Theo Ruut Veenhoven, giáo sư nghiên cứu hạnh phúc thuộc Đại học Erasmus ở Rotterdam (Hòa Lan), đã xuất bản "Tạp chí nghiên cứu hạnh phúc" (Journal of Happiness Studies) và quản lý cơ sở dữ liệu thế giới về hạnh phúc, đây là kho tư liệu về hạnh phúc của toàn thế giới (website www2.eur.nl/fsw/research /happiness), thì người trong lứa tuổi 30-50 ít hạnh phúc hơn người thuộc các lứa tuổi khác, vì trong lứa tuổi trung niên này người ta "có ít tự do hơn và có nhiều trách nhiệm hơn" đối với con cái, việc làm. Con người hạnh phúc nhất trong công ăn việc làm nào đem lại cho họ nhiều tự do và quyền tự quyết định.

Hạnh phúc là lập gia đình? Theo các nhà nghiên cứu, đây là một hình ảnh phức tạp: Người có gia đình thường hạnh phúc hơn người độc thân, nhưng họ chỉ sẽ hạnh phúc hơn nếu luôn khởi đầu cuộc sống chung lại.

Hạnh phúc là có nhiều bạn bè? Theo nghiên cứu năm 2002 của Seligman cho thấy những người phát triển khả năng xã hội, giao tiếp bạn bè nhiều và làm công tác xã hội thường cảm thấy hạnh phúc hơn người ít giao tiếp.

Các nhà khoa học còn nghiên cứu rất nhiều yếu tố khác nữa như thể chất, sức khỏe, ăn uống... mà họ nghĩ là có liên quan đến hạnh phúc. Nhưng vì khuôn khổ giới hạn của bài viết tôi xin dừng lại ở đây. Nếu thích thú, các bạn có thể tìm đọc thêm chi tiết về những nghiên cứu hạnh phúc của các nhà khoa học nêu trên.

Làm sao để đo lường hạnh phúc? Ngay cả những người hạnh phúc nhất vẫn có những ngày buồn bã vô cùng. Và ngược lại những người sầu buồn nhất cũng có những ngày thật hạnh phúc. Điều này chứng tỏ hạnh phúc không là trạng thái tĩnh và đây là một thách đố cho những nhà tâm lý học muốn đo lường hạnh phúc. Họ đã tìm ra nhiều phương pháp đo lường và đánh giá hạnh phúc. Năm 1980, nhà tâm lý Edward Diener tạo ra một trong những công cụ cơ bản và được sử dụng rộng rãi nhất, gọi là "thang hài lòng với cuộc sống". Ông cho rằng thang này phù hợp với các cách đo lường khác về hạnh phúc, chẳng hạn ấn tượng từ bạn bè và gia đình, sự diễn tả cảm xúc tích cực và dấu hiệu sự phiền muộn. Trong khi đó, giáo sư Csikszentmihalyi đề ra phương pháp sử dụng thiết bị kỹ thuật để thăm dò và dùng máy tính để tiếp xúc với đối tượng bất cứ lúc nào, với một loạt câu hỏi như: Bạn đang làm gì, bạn vui thích không, bạn làm một mình hay với ai nữa? Phương pháp này gọi là "lấy mẫu kinh nghiệm", tuy tốn tiền và mất nhiều thì giờ, nhưng cho biết kết quả trung thực về sự hài lòng của một người trong khi làm một công việc. Gần đây, nhà tâm lý Daniel Kahneman, người được giải thưởng Nobel kinh tế năm 2003, đưa ra một công cụ mới đánh giá hạnh phúc gọi là "phương pháp đánh giá ngày hôm trước". Theo phương pháp này những người tham gia ghi lại các việc làm của mình trong ngày trước đó, sống với ai, làm gì với ai, đánh giá mỗi việc làm và mỗi cảm xúc theo mức thang bảy điểm. Theo ông Kahneman, các nhà tâm lý nên chú trọng đến cảm nghiệm của người ta hơn là chỉ thăm dò cảm nghĩ của họ. Trái lại, thì Seligman nhấn mạnh đến việc nhớ lại bản thân, vì nghiên cứu các cảm nghiệm là nhấn mạnh quá nhiều đến vui thú và bất mãn chóng qua. Trong cuốn Authentic Happiness (Hạnh phúc đích thực) xuất bản năm 2002, ông nêu ra ba thành phần của hạnh phúc: Lạc thú, dấn thân (quan hệ với bà con họ hàng, bạn bè, công việc, sự lãng mạn) và ý nghĩa (dùng sức mạnh của bản thân để phục vụ mục đích cao hơn). Seligman nói trong ba con đường dẫn đến cuộc sống hạnh phúc và thỏa mãn, thì lạc thú là ít quan trọng hơn cả và đây là điều mà xã hội và mọi người nên quan tâm bởi vì quá nhiều người xây dựng cuộc sống của họ quanh việc theo đuổi lạc thú.

Làm thế nào để có hạnh phúc? Theo Tiến sĩ Timothy Sharp (Viện Nghiên cứu Hạnh phúc - Sysney, Úc) thì 10 bước dưới đây sẽ giúp bạn đạt được hạnh phúc:
1. Nắm chắc mục đích việc mình làm: Người hạnh phúc phải có mục đích rõ ràng, thiết thực. Nên biết chắc bạn muốn gì và cần làm gì để đạt được mong muốn đó. Mục tiêu của bạn phải hợp lý (cụ thể, vừa phải, dễ thực hiện, thực tế và có giới hạn).
2. Hiểu rõ lý do việc mình làm: Nắm chắc mục tiêu cuộc sống sẽ càng làm tăng cơ hội đạt được hạnh phúc thực sự của bạn. Phải xác định rõ bạn có lý do chính đáng để đi tới mục tiêu đó.
3. Phải mạnh mẽ: Nên hiểu rõ bạn giỏi về lĩnh vực nào để tìm cách thực hiện. Hạnh phúc không chỉ ở chỗ bạn nhìn ra khuyết điểm và khắc phục điểm yếu mà còn phải tin vào tài năng và phẩm chất của chính mình nữa.
4. Không nên đơn thương độc mã: Phải dựa vào sự cổ vũ của gia đình, bè bạn, đặc biệt những người có quan hệ thân thiết với bạn, luôn nỗ lực để cải thiện các mối quan hệ đó. Hãy rủ họ cùng làm với mình, chia xẻ kinh nghiệm và không quên ủng hộ họ.
5. Có thái độ tích cực: Một trong những yếu tố quan trọng của hạnh phúc là phải luôn suy nghĩ lạc quan. Dù bạn không được lựa chọn làm một số công việc nhưng bạn được quyền suy nghĩ về nó. Chính nó sẽ làm tăng khả năng biến bạn thành người may mắn.
6. Luôn năng động: Muốn hạnh phúc bạn phải là người khỏe mạnh. Luôn năng động, tập thể dục đều đặn, ăn uống điều độ, ngủ và nghỉ ngơi đủ.
7. Kiểm soát: Kiểm soát đến mức tối đa cuộc đời của bạn. Học và thực hành cách giải quyết vấn đề,thu xếp thời gian, nghiền ngẫm và trao đổi hiểu biết.Tuy không ai hoàn toàn kiểm soát được bản thân nhưng quan trọng là phải thực tế và chấp nhận cả những lúc bạn không giữ được mình.
8. Tuân theo kỷ luật: Hạnh phúc không gì hơn là giữ kỷ luật hằng ngày. Tránh rầu rĩ hay phê phán sai lầm của mình ngày này sang ngày khác. Dù hôm nay bạn được ưng ý, nên bắt đầu có chiế n lược ngay cho mình. Hãy tập trung vào nó, bạn sẽ thấy vui ngay trước khi sự việc xảy ra.
9. Hãy sống cho hiện tại: Người hạnh phúc thường dành thời gian nghĩ đến hiện tại hơn là đắm chìm trong quá khứ hay lo lắng về tương lai. Rút ra bài học từ sai lầm của chính bạn, vạch kế hoạch cho tương lai nhưng hãy tận hưởng cuộc sống ngay đi.
10. Luôn tiến lên phía trước: Ai cũng gặp rắc rối cả. Người hạnh phúc lường trước và đối phó được với rắc rối khi cần. Phải học tính kiên nhẫn, bền gan. Hạnh phúc sẽ ở bên bạn.

Sau khi tham khảo nghiên cứu của các nhà khoa học, có lẽ bạn cũng như tôi, vẫn chưa thỏa mản, vẫn chưa rõ ràng lắm hay nắm chắc được "hạnh phúc là gì?" và "làm thế nào để có hạnh phúc?". Tạm thời, chúng ta hãy dừng lại đây với định nghĩa hạnh phúc của giáo sư Ruut Veenhoven, sau 25 năm nghiên cứu về hạnh phúc: "Hạnh phúc là yêu mến cuộc sống mà ta đang sống. Người ta có thể sống trên thiên đàng mà vẫn không có hạnh phúc, bởi vì con người cứ bám lấy mọi sự trong cuộc sống của mình". Và có lẽ đúng như Nathaniel Hawthorne đã nói:"Hạnh phúc như một chú bướm, càng cố chộp lấy, càng tuột khỏi tay nhưng nếu bình tâm ngồi lại, nó sẽ đậu lại trên bạn." Để kết thúc bài viết này, tôi xin gởi đến bạn một câu chuyện xưa về "hạnh phúc":

Ngày xưa, có lần một nhóm quỷ Satan họp nhau lại để bàn kế hoạch làm hại con người. Tất cả quỷ Satan đều đồng ý với đề nghị là:"Chúng ta sẽ lấy một thứ gì đó quý giá của con người và giấu đi ". Nhưng lấy cái gì của con người và giấu ở đâu bây giờ? Sau khi suy nghĩ, một quỷ Satan nói:"Biết rồi, hãy lấy đi hạnh phúc của con người, họ sẽ ngày đêm phải khổ sở, ưu sầu, buồn phiền... Nhưng vấn đề là giấu hạnh phúc ở đâu? Phải giấu hạnh phúc ở nơi nào mà con người không tìm được". Một quỷ Satan cho ý kiến:"Hãy giấu hạnh phúc trên đỉnh ngọn núi cao nhất của thế giới ". Nhưng ý kiến đó bị phản đối ngay: "Không được. Con người rất khoẻ mạnh, chuyện leo núi rất dễ dàng với họ". Một Satan khác đề nghị:"Vậy hãy giấu hạnh phúc xuống đáy biển sâu nhất". Nhưng đề nghị này cũng bị phản đối: "Không, con người rất tò mò. Họ sẽ tạo ra những chiếc tàu ngầm hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi con người cũng sẽ biết". Một quỷ Satan khác gợi ý:"Hay giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác". Nhưng ý kiến này cũng bị các quỷ khác bác bỏ: "Không được, con người rất thông minh. Họ sẽ thám hiểm vũ trụ và tìm ra hành tinh đó". Nhóm quỷ im lặng và suy nghĩ. Cuối cùng, thì một quỷ Satan đứng lên đưa ra ý kiến:"Tôi biết, ta nên giấu hạnh phúc ở đâu rồi! Hãy giấu nó ngay chính bên trong con người. Vì hầu hết con người đều luôn cố gắng lùng kiếm hạnh phúc ở khắp nơi khắp chốn và bao giờ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ họ quan tâm. Giấu ở đó con người chẳng bao giờ tìm thấy đâu". Tất cả quỷ Satan đều tán thành giải pháp này và kể từ đó, dường như đúng y lũ quỷ Satan đã nghĩ, đa số con người mải mê đi tìm kiếm hạnh phúc mà không biết nó đã được giấu ngay trong tâm hồn mình.

Chúc bạn và tôi may mắn trên con đường tìm kiếm và gìn giữ hạnh phúc của mình.

LÝ LẠC LONG
(TTL/TCT/MAI/2005)

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 20.02.2006 16:16:04
Một Tình Bạn Cao Cả
(Phỏng dịch theo "No Greater Love" của Col. John W. Mansur )


Một em bé mồ côi, một kết quả bi thảm sau những đợt mọt-chê pháo kích vào trại cô nhi và một việc làm can đảm vì tình thương cho bạn của em bé đó, kết hợp lại với nhau để hình thành câu chuyện này. Tôi không biết chắc chắn có được bao nhiêu phần trăm chi tiết đúng với sự thật mà tôi đã được kể cho nghe, nhưng người kể nói đây là một câu chuyện thật đã xảy ra . Và có thể tất cả mọi chi tiết tôi đã nghe đều đúng như sự thật vì trong chiến tranh thì chuyện lạ gì cũng có thể xảy ra được. Câu chuyện này đã làm tôi rất cảm động, và dù thời gian qua đã lâu, mỗi lần nhớ lại vẫn làm mắt tôi ướt.

Những đợt mọt-chê pháo kích vào ngôi làng nhỏ đó có rơi đúng mục tiêu như kế hoạch đã định của người bắn không? Nhưng dù mục tiêu nào đã được chọn thì cũng không còn dấu vết nào để biết trong cái bối cảnh bi thương của chiến tranh Việt Nam. Sự thực, thì những viên đạn mọt-chê đó đã rớt vào trại cô nhi của một nhóm Công giáo thiện nguyện, không biết rõ tên. Những thiện nguyện viên và vài cô nhi đã bị chết ngay trong lúc pháo kích, một số cô nhi khác thì bị thương tích, trong số này có một em bé gái, khoảng 8 tuổi . Vì những thiện nguyện viên đã chết, không có người để chăm sóc những cô nhi, dân làng đã giúp đở rất tận tâm, họ cho người chạy qua một thị trấn nhỏ bên cạnh, vì nơi này có thể liên lạc bằng truyền thanh với quân đội Hoa Kỳ, để nhờ giúp đỡ về y tế. Nhưng cũng phải vài giờ sau thì người của quân đội Hoa kỳ gởi giúp mới đến nơi .

Đoàn cứu thương của quân đội Hoa kỳ chỉ vỏn vẹn có hai người: Một bác sĩ trẻ và một nữ y tá cũng cỡ cùng tuổi của Hải quân Hoa kỳ. Họ đến bằng xe Jeep và chỉ đem theo với họ những dụng cụ cứu thương cần thiết cho lúc khẩn cấp. Xem xét sơ qua những cô nhi bị thương, họ nhận thấy em bé gái là ở trong tình trạng nguy kịch nhất, có thể chết vì bị mất máu và khích động. Muốn cứu sống em bé là phải tiếp máu nhưng họ không có sẳn "plasma" (huyết tương). Vì vậy, cách duy nhất để cứu em bé gái, là họ phải dùng máu của những người đang ở hiện trường để tiếp máu cho em bé. Sau cuộc thử máu để tìm loại máu thích ứng thì người bác sĩ và cô y tá không có loại máu giống mà chỉ một số cô nhi, không bị thương tích, ở đó có loại máu giống như máu của em bé gái bị thương.

Người bác sĩ thì chỉ nói được chút đỉnh tiếng Việt pha tiếng Anh, cô y tá thì cũng chỉ nói được chút tiếng Pháp mà cô đã học ở bậc trung học, còn các em bé thì không biết tiếng Anh và chỉ biết chút đỉnh tiếng Pháp. Bác sĩ và cô y tá đã cố gắng tìm cách, dùng mọi ngôn ngữ chung mà họ có thể tìm được, kể cả những "điệu bộ" mà họ vừa chợt nghĩ ra, để giải thích với các em cô nhi đang ở trong tình trạng hốt hoảng và lo sợ, hiểu, là nếu không có máu để tiếp máu cho em bé gái thì em bé gái chắc chắn sẽ chết. Và cuối cùng,họ hỏi có em cô nhi nào tình nguyện hiến chút máu để cứu em bé gái không?

Các em cô nhi chỉ im lặng nhìn họ với những cặp mắt mở to và không chớp, trước yêu cầu "hiến chút máu" này. Mạng sống của em bé gái thì như chỉ mành treo chuông, không có máu thì em bé gái chắc chắn sẽ chết, và họ chỉ có thể lấy máu nếu có em cô nhi nào tình nguyện cho. Sau những giây phút im lặng ngột ngạt, thì có một bàn tay nhỏ run rẩy giơ lên, bỏ xuống và giơ lên trở lại.

"Ồ, cám ơn ! " cô y tá mừng rỡ nói to lên bằng tiếng Pháp . Và hỏi : " Em tên gì?"
"Hùng", tiếng của cậu bé lẩm nhẩm trả lời .

Cô y tá vội vã đặt Hùng nằm lên băng-ca, sát trùng một cánh tay của em với rượu cồn và bác sĩ chích một mủi kim vào mạch máu của cánh tay Hùng để lấy máu. Trong lúc đó thì Hùng nằm yên, im lặng và cặp mắt thì mở to không chớp. Một khoảnh khắc sau, thì họ nghe những nấc đứt đoạn từ cậu bé và thấy cậu bé đang vội vã che mặt với bàn tay còn lại.

"Có đau không Hùng ?", người bác sĩ vội hỏi. Hùng lắc đầu,nhưng một lát sau thì họ nghe tiếng nấc khác từ cậu bé nữa và thấy Hùng cũng đang cố gắng che dấu là em đang khóc. Bác sĩ lại hỏi em là mủi kim đang dùng để lấy máu trên cánh tay có làm em đau không thì Hùng cũng lắc đầu để trả lời . Nhưng lúc này thì những tiếng nấc cách quảng đã nhường chổ cho những tiếng khóc thầm liên tục, mắt em thì nhắm kín, và em cho cả nắm tay vào miệng để cố ngăn không cho tiếng nấc thoát ra.

Người bác sĩ và cô ý tá Mỹ rất lo lắng vì họ biết mủi kim không thể nào làm cho cậu bé đau được, nhưng rõ ràng là phải có cái gì không ổn ở đây. Cũng may mắn, ngay lúc đó, một cô y tá người Việt vừa đến để tiếp cứu thương. Thấy Hùng đang khóc và chịu đựng một cách khổ sở, cô liền ngồi xuống nói chuyện ngay với em. Vừa nghe cậu bé nói, vừa vuốt trán, vừa giải thích cho cậu bé bằng một giọng êm ái, bảo đảm. Một lúc sau thì thì cậu bé ngưng khóc, mở mắt và nhìn cô ý tá người Việt một cách hoài nghi. Cô y tá người Việt lại gật đầu và vẻ mặt của cậu bé như đã trút được một gánh nặng nghìn cân.

Ngước lên nhìn những người bạn đồng nghiệp Mỹ, cô y tá người Việt khẽ giải thích : " Cậu bé nghĩ rằng cậu bé sẽ chết. Cậu hiểu lầm hai bạn. Cậu bé tưởng hai bạn yêu cầu cậu cho hết tất cả máu của cậu thì mới cứu sống được bé gái."

"Nhưng tại sao cậu bé lại tình nguyện hiến máu?" cô y tá Mỹ hỏi.

Cô y tá Việt lập lại câu hỏi trên bằng tiếng Việt với cậu bé. Và nghe câu trả lời ngắn gọn, đơn giản từ Hùng: "Vì nó là bạn cháu".

Chúa Jesus đã nói: "Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống của mình cho bạn hữu" (John 15:13).

Lý Lạc Long (15/7/2005)


nhoc_hefo
  • Số bài : 1
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.02.2006
  • Nơi: thành phố biển
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 20.02.2006 16:39:19
Em thích nhất đoạn đầu cảu anh viết. Hợp với suy nghĩ của em bi giờ. Anh ạ, em đang phân vân ko biết mình nên sống hay nên chết. Thật tình em sợ chết lắm anh, chết rất đau mà, nhưng...sống như em bi giờ mệt quá. Đầu óc em cứ suy nghĩ lung tung, nó hỗn độn quá anh à...Anh có thể dzành vài phút giảng giải cho em dzìa ý nghĩa cuộc đời được ko anh?
Thân ái !
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.02.2006 16:40:22 bởi nhoc_hefo >
làm sao mình có thể yêu nhau
bởi chúng minh` khac' nhau nhiều quá
anh không thấy gì khi nhìn chiếc lá
còn anh tin rằng lá cũng đang yêu...
******************************
Thiên Ân + Như Ý

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 21.02.2006 03:30:18


Trích đoạn: nhoc_hefo

Em thích nhất đoạn đầu cảu anh viết. Hợp với suy nghĩ của em bi giờ. Anh ạ, em đang phân vân ko biết mình nên sống hay nên chết. Thật tình em sợ chết lắm anh, chết rất đau mà, nhưng...sống như em bi giờ mệt quá. Đầu óc em cứ suy nghĩ lung tung, nó hỗn độn quá anh à...Anh có thể dzành vài phút giảng giải cho em dzìa ý nghĩa cuộc đời được ko anh?
Thân ái !



Trước hết, cám ơn Hefo đã ghé qua xem và lưu lại cảm nghĩ.

Kế đến, câu hỏi về "cuộc đời" của Hefo là một chủ đề "lớn" mà bất cứ Ai, từ vĩ nhân cho tới người bình thường, từ người giàu sang cho đến người nghèo khó, từ quan cho đến dân, từ người lớn tuổi cho đến thanh thiếu niên ... Mọi người đều PHẢI quan tâm đến (nhiều hay ít, phương diện này hay phương diện khác ... v.v). Không ai có thể tránh né được. Mọi người đều phải đối diện với "vấn đề" này. Có thể nói đây vừa là QUYỀN LỢI, vừa là BỔN PHẬN & TRÁCH NHIỆM của một con nguời.

Tạm thời, ngắn và gọn theo thiển ý của tôi nhé. Cuộc đời có thể nói trước hết là cuộc sống của Hefo, kế đến là Hefo và gia đình, bạn hữu, xa hơn nữa là Hefo và xã hội chung quanh, cuối cùng thì Hefo và nhân loại. Nói cách khác, Hefo là một cá thể riêng biệt và đồng thời là một phần tử của gia đình, của vòng tròn thân hữu, của xã hội, của nhân loại. Việc gì Hefo làm cũng liên quan và ảnh hưởng đến chung quanh ( có thể không thấy rõ ràng, nhưng chắc chắn là như vậy) và ngược lại .

Được LÀM NGƯỜI và được SỐNG là một đặc ân của "TRỜI" ban cho mình. Và theo qui luật tử sinh thì không ai có thể tránh khỏi cái chết ( chuyện này chắc ai cũng "hiểu" và chắc không cần "bàn" hén. Đại khái, Trời kêu Ai thì phải "dạ" và chuyện ngoài khả năng của NGƯỜI).

Có những cái chết "nhẹ như lông hồng", có "ý nghĩa", có "ích lợi" cho dân tộc, cho xã hội, cho nhân loại . Như những cái chết của các bậc anh hùng vì nước, vì dân, vì chính nghĩa ...Rất nhiều " cái chết như vậy" trong lịch sử VN hoặc thế giới. Như hiện giờ thì nhiều người vẫn ghi nhớ, vinh danh và ca tụng cái chết của Chúa Jesus vì nhân loại ( theo Cơ đốc giáo).

Nhưng chết để trốn tránh trách nhiệm ( vì những khó khăn và thất bại ...v.. v ... của cuộc sống) thì là một cái TỘI LỚN với bản thân, với cha mẹ, với gia đình, với bạn hữu ... và với Trời Đất. Vâng, chết có thể là hết cho một người nhưng để lại biết bao ưu phiền, tiếc nuối ... cho những người liên hệ và quan tâm đến mình. Theo tôi, chết như vậy là một SỰ HÈN NHÁT & VÔ TRÁCH NHIỆM.

Hãy gõ cửa sẽ mở, hãy hỏi sẽ có trả lời, hãy khởi hành sẽ có lúc đến đích ... Hãy mở lòng mình ra "trò chuyện" cùng vạn vật ( người và ..v..v) . Với lòng chân thành và quyết tâm, với tình yêu và thân ái thì mọi việc đều có thể " đạt được" . Phần tôi, thì tôi tin là như vậy.

Hãy trò chuyện với gia đình và thân hữu chung quanh Hefo là một bước đi "căn bản" nhất. Kế đến là do chữ "duyên", Hefo là một thành viên của VNTQ, và trong VNTQ còn có rất nhiều ANH CHỊ EM khác với những kinh nghiệm về cuộc sống rất quí báu. Tôi tin là họ sẽ rất sẵn lòng "chia sẻ" với Hefo đó. Cứ chân thành và thẳng thắn "hỏi " họ.

Chúc Nhoc_Hefo mọi việc vui vẻ và như ý.

Tình thân,
LLL


TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 23.02.2006 17:07:07
Tình Bạn

Hầu hết chúng ta đều đồng ý và xem tình bạn là một phần thiết yếu của cuộc sống . Như nhà văn người Ý, Mazoni đã nói : " Một trong những hạnh phúc lớn của đời sống là tình bạn và một trong những hạnh phúc lớn của tình bạn là có người để chia xẻ, để gửi gắm một bí mật, một tâm tư". Và theo sự nghiên cứu của các nhà tâm lý học thì tình bạn là một chỗ trú ẩn an toàn và là một chìa khóa dẫn đến hạnh phúc trong cuộc sống của con người. Ngạn ngữ Anh cũng nói : " Without friends, the wolrd is but a wilderness - Không bạn bè, thế giới chỉ là một nơi hoang vắng".

Tình bạn có thể hiểu một cách đơn thuần như sự kết hợp giữa hai chữ "tình" và "bạn". Nói một cách khác, tình bạn là tình cảm của bạn bè dành cho nhau.

Trong cuộc sống thực tế thì không ai có thể sống một mình được. Vì vậy, chúng ta phải "quen biết" với rất nhiều người như: hàng xóm láng giềng, chung lớp học, cùng sở làm... Và tình bạn có thể sẽ nẩy sinh từ những quen biết này, nhưng không nhất thiết là tất cả những người chúng ta quen biết đều sẽ trở thành bạn. Giữa người quen và bạn thân có sự khác nhau rất lớn.

Người quen là người mà ta có thể biết mặt và nhớ tên, có thể đi ăn chung, có thể mời đến nhà, có thể trò chuyện về một vấn đề nào đó ... Nhưng họ không phải là người để ta chia xẻ cuộc sống, gởi gắm tâm sự. Vì ta chưa hiểu họ đủ và ngược lại thì họ cũng chưa hiểu ta lắm . Bạn thân là người hiểu ta và ta cũng hiểu bạn, thương mến, quan tâm giúp đỡ nhau khi cần thiết, chia xẻ ước vọng, buồn vui của cuộc sống . Bạn thân là chỗ dựa rất cần thiết cho chúng ta trong cuộc sống.

Người quen thì chúng ta có thể có rất nhiều, nhưng để có được một người bạn theo đúng nghĩa của bạn thì không phải là một chuyện dễ dàng. Có những người đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, rất nhiều thử thách để nhận ra được ai là bạn, ai là tri kỷ của mình. Nhưng cũng có những trường hợp vừa quen biết nhau đã cảm thấy tâm đầu ý hợp như Bá Nha và Chung Tử Kỳ, ngày xưa, chỉ qua một khúc đàn, đã hiểu nhau và đã trở thành tri âm, tri kỷ. Chúng ta thử đi sâu hơn một chút để tìm hiểu thêm vài khía cạnh của tình bạn, sự liên hệ và những yếu tố căn bản để có một tình bạn thực sự, ảnh hưởng và tác dụng của tình bạn đối với đời sống của con người .

Tình bạn và giới tính
Tình bạn là sự quan hệ và trao đổi về mặt tinh thần giữa hai con người. Nó hình thành một cách tự nhiên, không tuân theo những quy tắc người ta định sẵn. Không ai bảo rằng hai người một già một trẻ không thể kết bạn, hai kẻ giàu nghèo không thể là tri âm. Vi vậy, cũng không thể nói rằng giữa hai người khác phái không thể có được tình bạn thực sự và đẹp. Nhưng trong xã hội loài người, đặc biệt là Á đông, từ xưa đến nay, chúng ta thường nghe những câu chuyện, những tấm gương sáng chói về tình bạn giữa hai người đồng phái như Lưu Bình và Dương Lễ, như Quản Trọng và Bảo Thúc Nha .. vân vân .. Và dường như trong văn học sử không có ghi lại một câu chuyện "nổi tiếng" nào để tiêu biểu cho tình bạn thực sự và tuyệt vời giữa hai người khác phái. Như vậy thì tình bạn thực sự giữa hai người khác phái có hay không có trong cuộc sống thực tế? Và có điều gì khác nhau về tình bạn giữa hai người khác giới tính so sánh với tình bạn giữa hai người cùng giới tính ?
Thứ nhất, thì có lẽ do của tư tưởng " nam nữ thụ thụ bất thân" từ ngàn xưa trong xã hội Á đông và ảnh hưởng vẫn còn rơi rớt lại, nên nhiều người vẫn còn băn khoăn và hoài nghi về tình bạn thực sự giữa hai người khác phái. Kế đến, thì có lẽ do sự phân biệt hay ranh giới giữa tình yêu và tình bạn của hai người khác phái không được rõ rệt lắm. Những người thuộc nhóm "hoài nghi" thì cho rằng không có tình bạn thực sự giữa hai người khác phái. Theo họ, nếu một nam, một nữ chơi thân với nhau, hiểu nhau sâu sắc và chia xẻ được vui buồn thì sớm hay muộn cũng sẽ yêu nhau. Thực tế thì đúng như vậy, có rất nhiều tình bạn thân giữa nam nữ đã phát triển thành tình yêu lứa đôi . Nhưng nói như vậy, không có nghĩa là phủ nhận sự tồn tại, giá trị hay tác dụng tốt ... của tình bạn thực sự giữa những người khác giới tính trong cuộc sống thực tế. Ở đây, chúng ta chỉ thử phân tích và tìm hiểu nguyên nhân tại sao tình bạn khác giới tính hiếm khi được lấy làm tiêu biểu và đại diện cho một tình bạn thực sự và đẹp đẽ để làm tấm gương sáng cho mọi người và hậu thế.
Một vấn đề khác của tình bạn giữa hai người khác phái là duy trì quan hệ bạn bè với người tình cũ sau khi chia tay. Nói một cách khác, là chuyển từ tình yêu thành tình bạn. Chuyện này không phải là một điều dễ làm. Và nếu mục đích chuyển thành tình bạn xuất phát từ những mối quan tâm chung trên căn bản tôn trọng lẫn nhau thì nên duy trì tình bạn . Còn nếu duy trì tình bạn vì những lý do như: Vì hy vọng người tình cũ sẽ quay trở lại, vì chưa muốn buông tha người xưa, vì tự ái ... thì đừng nên làm. Nếu duy trì quan hệ dựa trên những động lực này thì tình bạn cũng sẽ tan vỡ, và sẽ phiền lòng nhau thêm nhiều nữa.

Tình bạn và tuổi thọ
Căn cứ theo nhóm khoa học gia của Trường Đại học Flinders (Úc) phát hiện, thì bạn bè có thể giúp người già kéo dài tuổi thọ hơn là con cháu hay người thân. Đây là kết quả thu thập được sau 10 năm nghiên cứu, dựa trên các nhân tố như tình dục, tuổi tác, sức khỏe và tình trạng hút thuốc trên hơn 1.500 cụ già đã bước qua tuổi 70. Theo các nhà khoa học này, các mối quan hệ xã hội tốt như có nhiều bạn bè thân thiết có thể giúp người già có một lối sống lành mạnh như không hút thuốc hay uống rượu quá nhiều. Ngoài ra, những tình bạn gắn bó lâu dài có thể tạo những hiệu quả tích cực đến tâm sinh lý của những người lớn tuổi .

Tình bạn và cuộc sống
Xã hội càng phát triển, con người hình như càng bận rộn hơn với công việc làm. Và công việc làm càng nhiều thì sức ép và áp lực của đời sống hàng ngày càng tăng đã khiến nhiều người đẩy bạn bè sang một bên . Đây là một sai lầm lớn trong cuộc sống vì như các nhà chuyên gia đã nói :" Tình bạn là chìa khóa dẫn đến hạnh phúc".
Một cuộc thăm dò ý kiến, do Viện nghiên cứu Bat Leisure ở Hamburg, Đức, tìm thấy là 63% người Đức mong muốn nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ bạn bè của họ. Với những người độc thân và cặp vợ chồng không con, con số tăng lên 73%.
Đặc biệt cho những người trung niên, luôn đặt tiêu chuẩn cao cho bản thân và sự nghiệp, thì việc duy trì tình bạn cũ và làm quen bạn bè mới càng trở nên khó khăn. "Vòng tròn bằng hữu bị thu hẹp lại và nhiều người còn chẳng buồn dành thời gian để gặp bạn bè để uống nước", chuyên gia Hannelore Fritz nói.
Nhưng công việc thì có thể mất, gia đình và mối quan hệ cộng sự có thể tan vỡ, khi đó, bạn bè sẽ trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, tình bạn cần phải được xây dựng một cách hệ thống như xây một ngôi nhà hay sự nghiệp.

Xây dựng và giữ gìn tình bạn
Hoa sẽ nở đẹp, cây non sẽ lớn lên khi được chăm sóc và vun bón thường xuyên. Tình bạn, thì cũng vậy, sẽ đẹp và bền vững khi mỗi người bạn biết quan tâm chăm sóc đến nó. Theo như nghiên cứu của các nhà chuyên gia thì một số nguyên tằc dưới đây có thể giúp chúng ta trong việc xây dựng, phát triển và giữ gìn tình bạn .

- Cùng nhau làm một vài việc: Tình bạn trước hết là một sự trao đổi. Hãy rủ bạn bè cùng làm, cùng thực hiện với nhau một dự định dù nhỏ nào đó, để chia xẻ với nhau. Như thế sẽ làm cho người bạn thấy mình được tin tưởng, bạn ấy sẽ hài lòng. Còn bạn cũng thấy vui suớng, thỏa mản vì bạn có được tình cảm thân thiết của bạn bè.
- Đừng luôn kể những điều phiền muộn, bực mình : Kể cho bạn nghe những gì xảy ra với mình là một việc làm tốt, nó giúp giải tỏa những ức chế trong lòng bạn. Bạn bè có thể là một chỗ dựa cho bạn mà. Nhưng bạn đừng luôn luôn đem những chuyện không vui của mình làm phiền bạn bè, vì bạn sẽ ép người ta nghe, đôi khi vì để tìm một sự động viên, thương cảm mà bạn chẳng còn gì hấp dẫn người ta nữa bởi bạn đã bộc lộ khả năng thiếu kiềm chế, thiếu tự tin của mình.
- Luôn ở bên cạnh bạn bè những khi cần thiết: Ai cũng có những lúc khó khăn và cần đến sự giúp đỡ của người khác, có khi chỉ là một lời thăm hỏi, một ánh mắt khích lệ, một lời nhận xét tế nhị. Hãy luôn thăm hỏi, giữ mối liên lạc với bạn bè, kịp thời nhận ra tình thế của bạn mình để tìm cách giúp đỡ hữu hiệu nhất. "Một miếng khi đói bằng một gói khi no". Nhất là khi bạn mình cô đơn, bạn cần ta lắm đấy.
- Rút lui đúng lúc : Ai cũng cần có những khoảng trời tự do của mình. Khi bạn mình mệt, khi ta đã giúp bạn hoàn thành công việc, hoặc đơn giản thấy bạn không cần đến mình nữa, thì hãy "rút lui có trật tự". Bạn của ta sẽ vô cùng biết ơn một người bạn ý tứ như ta. Hãy lịch sự cáo lui và nói với bạn bè rằng "nếu cần đến mình, bạn đừng ngại ngần, mình sẽ thu xếp được mà".
- Thông cảm cho nhau cả khi vắng mặt: Có những lúc bạn phải dành thời gian cho gia đình, cho người yêu hoặc một công việc gấp rút nào đấy. Và bạn bè của ta cũng vậy. Việc này làm cho quan hệ bạn bè có những lúc sẽ bị lãng quên. Hãy báo trước cho bạn sự vắng mặt của ta, đừng để bạn có cảm giác bị phản bội, mất lòng tin. Thông cảm cho bạn bè, nếu họ quên không thông báo sự vắng mặt của họ.

Sự khác biệt giữa tình bạn và sự quen biết chính là sự đồng cảm và chia xẻ, theo phương châm: "Điều gì ảnh hưởng đến bạn cũng ảnh hưởng đến tôi". Sự thân mật, bao dung và tin cậy lẫn nhau là những yếu tố cần thiết của một tình bạn đẹp. Như nhà tâm lý học Ann Elisabeth Auhagen đã nói : "Bạn cần phải đặt tim mình trong mối quan hệ đó. Khi đó sự cách biệt về không gian cũng không thể ảnh hưởng tới tình bạn" . Hãy nhìn thấy và tìm những điểm tốt của bạn bè cũng như hãy tìm kiếm những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Cuộc sống không ban ơn cho ta mà chính ta sẽ ban tặng cho cuộc sống những món quà từ những hành động và suy nghĩ tích cực của mình. Hãy bắt đầu ngày hôm nay và từ ngay giây phút này. Bởi vì cuộc sống đã là một niềm vui, một món quà vĩ đại nhất mà tạo hóa ban tặng cho ta và tình bạn là chìa khóa dẫn tới một trong những hạnh phúc lớn của cuộc sống.

Xin chúc những điều tốt đẹp đến với cuộc sống của bạn!

Lý Lạc Long (TTL/TCT/ MAI /23/06/2005)

TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 23.02.2006 17:24:33
NIỀM TIN, TÌNH YÊU VÀ SỰ SUY TƯ


Nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã viết hai câu thơ:
"Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì ?"

Như vậy, theo NCT, thì cuộc sống thế gian này dẫy đầy đau khổ cho con người? Và hình như đa số chúng ta đều cảm thấy như vậy. Nhưng bản năng của con người vẫn làm cho chúng ta muốn sống và để bơi qua cái bể trầm luân của nhân gian, theo K. Zung, một triết gia thuộc trường phái S. Freud thì con người dựa vào ba cái phao là Niềm tin, Tình yêu và sự Suy tư để thoát ra khỏi những cảm giác bất an khi đối diện với hư vô, cảm giác nhỏ bé, cô đơn và bất lực khi đối diện với sự bao la vĩ đại và các hiện tượng kỳ bí của vũ trụ, cảm giác lo sợ khi đối diện với cái chết. K. Zung nói có đúng hay hợp lý không? Mặc dù tôi cũng như hầu hết các bạn, chúng ta không phải là triết gia, hay những khoa học gia có đầy đủ hiểu biết và khả năng để chứng minh những gì K. Zung hay các triết gia, hay các bậc thức giả đã nói là đúng hay sai với đầy đủ chứng cớ và thẩm quyền...một cách tuyệt đối, tôi cũng xin mời bạn cùng tôi làm những "triết gia bên lề" của triết học, thăm viếng khu rừng tư tưởng của các triết gia, các bậc thức giả, nhìn vào từ phía bên ngoài với những hiểu biết giới hạn mình, xem như là chút thời giờ giải trí cuối tuần vậy!

Theo như hầu hết các tôn giáo, người nào có niềm tin thì sẽ đi qua cuộc đời một cách thanh thản, cuộc sống của họ như đã được mua bảo hiểm và cái chết đối với họ không còn là một điều lo sợ nữa. Vì họ tin rằng, sau khi nhắm mắt, họ sẽ có cuộc sống bất tử bên người họ yêu kính và tin tưởng vào Đấng toàn năng của họ như:Trời, Phật, Chúa,Thánh, Thần... Nhưng niềm tin là gì? Trong thực tế đây là một chủ đề rất bao quát và rộng lớn. Ở đây, tôi chỉ đề cập sơ lược đến hai quan niệm cơ bản trái ngược nhau về thực chất của niềm tin. Quan điểm thứ nhất thì cho rằng, niềm tin có trước ý thức, mở đầu cho ý thức và sau đó các ý thức hệ, tín ngưỡng, tôn giáo...được hình thành từ niềm tin. Quan điểm thứ hai thì ngược lại, cho rằng niềm tin là sản phẩm của ý thức. Những thí dụ cụ thể có thể rút ra từ các cuộc thánh chiến (chiến tranh tôn giáo), chiến tranh thế giới (chiến tranh về ý thức hệ) hay cả chiến tranh địa phương(chiến tranh về lý tưởng)...Nhưng bất kỳ quan điểm nào đúng thì hình như ai cũng "thấy" là niềm tin cũng có một giá trị độc lập của nó. Niềm tin giúp con người vượt qua những giới hạn của ý thức để hình thành những khả năng không ngờ được và siêu phàm của con người.

Còn những người bám vào cái phao tình yêu thì sao? Có thể cuộc sống của họ có rất nhiều dằn vặt, trái ngang, khổ đau nhưng thật ra đây là hạnh phúc. Đối với những người này, thì dù ở giữa rừng sâu trong đêm tối, giữa biển khơi trong bão giông, thậm chí đối diện với cái chết cũng không làm cho họ sợ, miễn là có người họ yêu bên cạnh. Và không có người họ yêu bên cạnh thì cũng được, miễn là họ biết chắc chắn rằng trên đời này có ai yêu thương họ hết lòng. Cái khó hay nỗi khổ tâm của những người tôn thờ tình yêu là làm sao tìm ra được "phân nửa" của họ hay "người để yêu và được yêu lại như vậy". Một số trong những người này, thì bất cần là họ có được yêu lại hay không, miễn là họ đã tìm ra được "người để yêu". Tình yêu là gì? Từ xưa đến nay, hình như chưa ai có thể định nghĩa một cách thỏa đáng về tình yêu. Tình yêu vẫn là một chủ đề được đem ra phân tích, diễn giải, bàn cãi...có lẽ từ thuở tạo thiên lập địa, từ lúc loài người xuất hiện trên quả đất cho đến giờ vẫn chưa kết thúc và sẽ mãi mãi là một đề tài hấp dẫn với tất cả mọi người. Những người đã yêu, đang yêu và kể luôn cả những người chưa yêu đều có chung một cảm giác về sự huyền bí, quyến rủ và thú vị của tình yêu.Tình yêu là một thế giới mênh mông, bí ẩn và khó hiểuvà có một điều mà ai cũng thừa nhận là:Trong chúng ta, mỗi người đều có một tình yêu thật sự và chỉ một. Có thể nói, tình yêu là một tặng phẩm tuyệt vời mà tạo hóa đã dành cho con người, tình yêu có thể mang đến cho con người hạnh phúc và sức mạnh và ngược lại thì cũng có thể mang đến nỗi khổ đau.

Hai cái phao Niềm tin và Tình yêu là hai chủ đề rất rộng lớn trong cuộc sống thực tế của con người. Đã có rất nhiều sách vở từ văn thơ cho đến những nghiên cứu khoa học nghiêm túc về niềm tin và tình yêu. Vì vậy, phần trên, tôi chỉ tóm tắt những nét đại khái và cơ bản cần thiết trong khuôn khổ của bài viết. Nếu thích thú thì các bạn có thể tìm tài liệu để đọc thêm về hai chủ đề này rất là dễ dàng.

Còn cái phao thứ ba, sự suy tư thì sao? Khi nói đến sự suy tư, thì có một số nhận xét thực tế phải nêu ra ở đây. Dường như trong lịch sử của nhân loại, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đã không có một nữ triết gia nào.Ở vào kỷ nguyên này đã có rất nhiều nữ Khoa học gia, Bác sĩ, Kỹ sư...có thể nói là phái nữ, không nhiều thì ít, đã có mặt trong hầu hết các lĩnh vực chỉ dành riêng cho nam phái trước đây. Nhưng có lẽ, lĩnh vực suy tư, theo phái nữ, đây là một lĩnh vực "vô bổ, vớ vẩn và tầm phào..." nên phái nữ đã nhất định và cương quyết không tham gia? Như vậy,thì đây là một đặc quyền, một sự biệt đãi hay đây là một gánh nặng, một bất công cho đàn ông? Tại sao lại có sự phi lý này là chỉ có đàn ông suy tư? Tạm thời, hãy gác lại việc "trả lời" cho những câu hỏi này qua một bên. Trong thực tế, lĩnh vực suy tư, lại là nơi đàn ông thường rút về sau một thành công hoặc thất bại. Hình như sự suy tư giúp đàn ông tự tin hơn ở khắp nơi,từ ở bàn nhậu với bạn hữu cho đến ngồi một mình giữa rừng. Thật kỳ lạ,trong lịch sử mấy nghìn năm qua, con người đã tích lũy nhiều thứ:Từ của cải vật chất cho đến kiến thức. Và mọi di sản của thế hệ trước để lại,thế hệ sau cứ thế mà xài,chẳng cần kiểm tra lại. Ngoại trừ di sản tư tưởng thì hình như mỗi cá nhân phải thử nghiệm rồi mới chịu chấp nhận.Tóm lại, là con người "tìm cách trả lời" cái câu hỏi cũ rích:"Ta là ai?Ta từ đâu đến và ta đi về đâu?". Mỗi người trả lời mỗi kiểu. Mỗi kiểu trả lời là mỗi quan niệm sống, mỗi thái độ sống quyết định từng hành vi nhỏ nhất của một người. Cuộc sống của những người níu vào cái phao Suy tư, điển hình như Leo Tostoy thì sống lang thang như một nhà tu khổ hạnh lúc gần cuối đời và chết vì sưng phổi (pneumonia) ở một sân ga xe lửa nhỏ và 8 năm sau khi Tostoy chết, vợ ông có nói: "Sau 48 năm chung sống với Tostoy bà vẫn không hiểu nổi Tostoy". Hemingway thì tự sát bằng súng trường, Lý Bạch thì theo truyền thuyết chết vì "tìm trăng dưới đáy sông" và nhiều triết gia, nhà văn thơ khác thì cũng vậy. Các bậc "suy tư lớn" này có thể nói là, lẽ đời các ông đã thông tỏ, lòng người ra sao các ông dò thấu, cái chết không làm các ông sợ, nhưng sự cô đơnthì không thể lấy gì lấp cho hết. Theo triết học, đối lập với sự cô đơn là sự cảm thông. Sự cảm thông được phân ra thành hai loại là cảm thông cộng đồng và cảm thông vũ trụ. Cảm thông cộng đồng không đủ cho các ông và cảm thông vũ trụ thì loài người dường như chưa tìm ra hay chưa có cách để nghe hoặc hòa tan với (trong) vạn vật, vũ trụ. Vì vậy mà họ tìm cái chết?

Ngoài ba cái phao nêu trên thì còn cái phao nào khác không? Như chúng ta thấy trong cuộc sống hàng ngày, hình như hầu hết mọi người làm việc để đạt được Quyền lực hoặc sự Giàu sang, hoặc cả hai. Vậy thì quyền lực và sự giàu sang có thể xem như là một cái phao để con người dựa vào không? Theo K. Zung thì không và còn ngược lại nữa. K. Zung xem quyền lực và sự giàu sang là tảng đá buộc vào cổ người, vì nó khiến cho con người ta sống thì bất an, chết thì sợ hãi.

Còn một điều đáng nói nữa là ba cái phao nêu trên không bao giờ chịu đi chung nên không thể kết hợp lại thành một cái bè để giúp con người bơi qua bể trầm luân dễ dàng hơn. Anh chàng Niềm tin tuy tôn thờ tình yêu nhưng khi cần cũng sẵn sàng vứt bỏ tình yêu để đuổi theo lý tưởng của mình, còn đối với sự suy tư thì anh chàng chẳng cần bận tâm, mọi điều đã có Trời, Phật, Chúa, Allah... hoặc vị thần, hoặc lãnh tụ tinh thần nào đó lo hộ cho. Cô nàng Tình yêu thì không bao giờ chịu xem mình là kẻ thứ hai nên khi gặp anh chàng Niềm tin, cô nàng thường ngó lơ, gặp lão Suy tư thì cô nàng dễ bị quyến rũ bởi sự trầm tư, sâu sắc, nhưng lâu ngày thì cô nàng sẽ nhận ra là đã lầm lẫn. Lão Suy tư thì xem anh chàng Niềm tin là trẻ con, cô nàng Tình yêu là cứu cánh. Nhưng lòng tham của lão thì vô tận, tình yêu nào đối với lão cũng không đủ, dù cô nàng Tình yêu có là tiên giáng trần thì cũng vậy, lão đam mê đó rồi vứt bỏ đó, lão cứ mãi đi tìm một sự tuyệt đối nào đó mà có lẽ không ai có khả năng làm cho lão thỏa mãn. Và vì thế, trải qua mấy ngàn năm suy tư, đã có rất nhiều bậc thánh nhân, hiền triết đề xuất và thiết lập ra nhiều hệ thống tư tưởng, khám phá và tìm ra rất nhiều sự thật và chân lý. Nhưng con người vẫn giống như thuở ban đầu, thời đại hay giai đoạn nguyên thủy của loài người, vẫn dễ giận dữ và sợ hãi, vẫn băn khoăn thân phận, vẫn cảm thấy cô đơn.

Quay trở lại câu hỏi: Tại sao chỉ có đàn ông suy tư? Và tại sao tạo hóa lại bất công, chỉ đặt gánh nặng suy tư trên vai của đàn ông? Câu hỏi khó, tưởng sẽ không có lời giải đáp. Nhưng gần đây thì Robert Winston trong cuốn "Human Instincts" (tạm dịch: Bản Năng Con Người) đã thử tìm cách trả lời câu hỏi trên. Một cách tóm tắt, theo Winston, thì trong xã hội nguyên thủy của loài người, ở giai đoạn hổn hôn, con cái không cần biết con đực nào là chồng mình, vì con đực nào chiến thắng thì sẽ là chồng của cả bầy đàn. Trong khi các con đực thì khổ sở vì sự đòi hỏi tình dục và sự cô đơn, giống đực luôn phải tìm cách vươn lên vị trí của kẻ chiến thắng để thống lĩnh bầy đàn. Và khoảng vài chục ngàn năm sau, loài người bắt đầu có ý thức về tâm linh, thì vai trò thủ lĩnh của bầy đàn thường là những con đực có được mối quan hệ với thần linh, mà bằng chứng có thể thấy qua xã hội Cổ Hy Lạp. Vì vậy, con đực nào muốn vươn lên vai trò thủ lĩnh thì phải thiết lập được mối quan hệ với thần linh bằng sự suy tư, tu hành... Những điều này dường như vẫn còn tồn tại đâu đó trong não bộ của con người hiện đại, vẫn còn điều khiển các hành vi của con người một cách vô thức khiến con người đôi lúc không hiểu tại sao chúng ta lại làm như vậy, hành xử như vậy.

Nếu đúng như K. Zung nói, thì trong ba cái phao: Niềm tin,Tình yêu và sự Suy tư, Bạn sẽ chọn cái phao nào để bơi qua cái biển đời trầm luân của cuộc sống nhân gian này?

LÝ LẠC LONG
(TTL/TCT/MAI 08/07/05)

Ct.Ly

TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 28.02.2006 23:24:31


Trích đoạn: ct.ly

Đọc qua những đoạn khúc về Tìm tình cảm trong hạnh phúc, thật là bao la và mầu nhiệm quá

Tình bạn có thân thiện , đến với nhau , đưa tình cảm con người đến một chân hạnh phúc

Có những cái ý nghĩ đó, nhưng mấy ai tìm được cho mình

Nói vậy thì nhiều người lầm to, tình cảm chứa đựng trong ta to tát lắm, tại chưa có dịp được đem ra để chia xẻ cùng mọi người mà thôi

Những tản mạn cuối tuần đã được đem vào thư viện

Cảm ơn TTL đã góp sức với thư viện VNTQ

Chúc TTL luôn vui

Thân ái


Hi Ct Ly,

Vâng, Bạn rất cần thiết cho cuộc sống. Người Anh có nói: " Without friends, the wolrd is but a wilderness - Không bạn bè, thế giới chỉ là một nơi hoang vắng".

Ct Ly: "Nói vậy thì nhiều người lầm to, tình cảm chứa đựng trong ta to tát lắm, tại chưa có dịp được đem ra để chia xẻ cùng mọi người mà thôi ".

Tình cảm của Ct Ly to lắm hả? Vậy khi nào Ct Ly "xẻ ra chia" nhớ cho ttl một phần với nha !
(Giỡn chút cho vui vẻ... đừng có phiền nhé Seniorita Ct Ly )

Chúc mọi việc như ý.
Thân mến,
ttl




TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 28.02.2006 23:42:17
Tản Mạn Về Cậu Ông Trời


Nói đến Cóc thì ai cũng nghĩ đến ngay câu chuyện cổ tích dân gian "Cóc kiện Trời" và bài thơ "Con Cóc". Thêm nữa, theo một số người sành điệu, thì thịt cóc còn ngon hơn cả thịt ếch nữa. Dĩ nhiên là phải có gan lớn hơn gan cóc tía mới dám ăn thịt cóc. Vì thịt cóc mà làm không đúng cách hoặc sơ xuất sẽ bị ngộ độc và có thể mất mạng như chơi.

Theo câu chuyện "Cóc kiện Trời" thì Ngọc Hoàng ngủ quên, không có ra lịnh làm mưa nên hạ giới bị hạn hán. Chàng Cóc tía thuyết phục và dẫn đầu các thú vật khác gồm Cua, Cọp, Gấu, Cáo và đàn Ong lên thiên đình kiện Trời. Nhờ sự gan lì và mưu lược của Cóc nên phe chàng Cóc đã thắng được binh tướng của thiên đình . Đến nổi Ngọc Hoàng "sợ hãi" quá phải giảng hòa, nhận đại Cóc là Cậu và hứa hẹn khi nào nào hạ giới cần mưa thì Cóc chỉ cần nghiến răng là Ngọc Hoàng sẽ sai Rồng bay xuống làm mưa ngay. Sự thực là Ngọc hoàng "sợ" và muốn tránh việc Cóc lại lên "kiện" nữa sẽ làm mất mặt thiên đình hết. Vì vậy mà có câu đồng dao: "Con Cóc là câu ông Trời; Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho" truyền tụng đến nay. Và "hình như" Ngọc hoàng cũng giữ lời hứa, nên mỗi khi cóc nghiến răng là trời sắp mưa.

Thât ra câu chuyện "Cóc kiện Trời" không phải đơn thuần là một câu chuyện cổ tích cho trẻ con . Nếu xét cho kỹ sẽ thấy được bản chất và sự "thâm thúy" của tổ tiên ta. Như chúng ta biết, Việt Nam bị Trung Hoa đô hộ từ trước Công nguyên cho đến khi Ngô Quyền (938) mới bắt đầu có được những thời kỳ độc lập, tự chủ lâu dài. Gần một ngàn năm Bắc thuộc, lẽ dĩ nhiên nền văn hóa Việt Nam phải bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Để giữ và phát huy được văn hóa thuần Việt, tránh được sự đồng hóa của Trung Hoa, cha ông chúng ta đã phải nhờ vào nền văn hóa dân gian để loại bỏ tối đa (như có thể) ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Tại sao phải là văn hóa dân gian? Vì nền văn hóa dân gian dựa vào truyền khẩu chứ không lệ thuộc vào chữ viết. Cho nên dù sách vở có bị thiêu hủy, bị ngăn cấm, bị cưỡng bách theo chính sách ngoại bang khi bị đô hộ thì nền văn hóa dân gian vẫn tồn tại. Kế đến, văn hóa dân gian được dân chúng lưu truyền qua các thế hệ không bị ảnh hưởng lắm bởi các yếu tố chính trị của các thời đại. Chuyện cổ tích là một "bộ phận" rất quan trọng của văn hóa dân gian .

Căn cứ theo các nhà khảo cứu, thì có một điểm chung giữa những trống đồng cổ khai quật được là các mặt trống đồng đều có hình mặt trời ở tâm điểm, tỏa tia sáng ra khắp phía. Từ đó suy ra, tổ tiên người Việt có lẽ cũng giống như tổ tiên của nhiều dân tộc khác đã lấy mặt trời làm vị thần biểu tượng cho mình . Mặt trời hay Trời có lẽ là vị thần đầu tiên . Sau này bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên chỉ có vua mới được xem là con trời (thiên tử).

Theo câu chuyện cổ tích truyền khẩu của dân Việt "Con cóc là cậu ông Trời". Con cóc, dù chỉ là một con vật nhỏ, xấu xí, thuộc vào hạng động vật thấp (loại bò sát), không có gì nổi bật so với các loài động vật khác nhưng lại được dân Việt tôn vinh làm "Cậu" ông Trời. Trời, vị thần của muôn loài, lại là cháu của con cóc. Điều này phải làm ta suy nghĩ chứ! Kế đến là đâu phải chỉ có cóc mới báo mưa. Một số loài vật khác cũng có khả năng báo mưa như chuồn chuồn, kiến ... Tổ tiên ta nhất định phải có lý do chính đáng nào đó để tôn vinh con cóc làm cậu ông Trời mà không chọn một con vật khác. Chúng ta thử tìm hiểu xem tại sao ?

Mỗi dân tộc đều có hệ thống giá trị khác nhau, để dễ dàng truyền bá hệ thống giá trị đó thì người ta thường dùng những hình ảnh tượng trưng cho dễ hiểu, thường thì họ linh thiêng hóa những con vật sống xung quanh. Như lịch sử của nền văn minh thế giới cho thấy, đa số các dân tộc đều tôn vinh những con vật để thể hiện giá trị mà họ tôn sùng như sư tử, diều hâu, đại bàng … Có lẽ chúng ta phải "nghiên cứu" đặc tính của loài cóc và đi ngược dòng lịch sử để "tìm hiểu " những mối liên hệ giữa loài cóc và ông cha chúng ta thuở xưa. Một điều chắc chắn là xã hội của VN dưới thời Bắc thuộc (nhà Hán) là một xã hội nông nghiệp và căn cứ vào hoàn cảnh địa lý của nước VN thì phải là thủy nông (trồng lúa nước).

Loài cóc thì có những đặc tính như: Với tốc độ của cái lưỡi lẹ như tia chớp nên bắt sâu bọ rất giỏi nên là một đồng minh tốt của nông dân. Kế đến, ít ai dám đụng vào cóc vì da cóc xấu xí, sần sùi và đầy những mụn độc, tuy không đến nổi chết người nhưng cũng tạo ngứa ngáy khó chịu, và mực độ của chất độc có thể so với rắn. Điều khác nhau là rắn dùng độc để tấn công, có thể đe dọa đến sự an toàn của nông dân, cóc chỉ dùng độc để tự vệ, để đuổi kẻ thù. Mồi của rắn có thể là gia cầm nên đụng chạm đến quyền lợi của nông dân, còn mồi của cóc chỉ là sâu bọ. Đặc tính này của loài cóc giống như tổ tiên của dân Việt. Nhìn lại lịch sử chiến tranh với Trung hoa, ông cha ta tự vệ khi bị xâm lược, chống đuổi ngoại xâm, nhưng luôn chừa đường cho kẻ thù rút chứ không bức sát. Cuối cùng là khả năng làm tình của loài cóc, các cô cậu cóc có thể yêu nhau từ vài ngày đến vài tuần. Và vì cách thụ tinh của cóc ở bên ngoài chứ không ở trong bụng. Cóc cái đẻ trứng, cóc đực "phun" tinh trùng lên trứng. Cách thụ tinh này không an toàn lắm, vì lỡ có chú cóc nào khác ở gần lén "phun ẩu" thì rắc rối. Vì vậy cóc đực thường bám sát bạn tình để bảo vệ và bảo đảm các cóc con tương lai là "nòi giống" của nó. Nhưng muốn cóc cái đẻ trứng thì cần phải có nước. Nếu trời hạn hán thì nước đâu để cóc đực làm cái nhiệm vụ truyền giống được. Cho nên trong cái câu chuyện cổ tích "Cóc kiện Trời", nếu ta để ý, trong số các loài vật tham gia đi kiện (cóc, cua, cọp, gấu,cáo, ong ) thì cóc là loài cần "nước" nhất cho nhu cầu bảo tồn nòi giống của loài cóc. Vì lý do này, anh chàng cóc tía mới hăm hở "mộ quân" và gan dạ cầm đầu đoàn thú ngang như cua, dữ như cọp, mạnh như gấu, gian như cáo, lẹ như ong lên thiên đình kiện....ông Trời . Cũng giống như vậy, hàng triệu con mực biển hàng năm tụ tập với nhau quanh khu vực chúng được sinh ra, làm một vũ điệu luân vũ rồi tất cả đều chết. Hay những con cá hồi ngao du bốn biển rồi cũng phải trở lại nơi đã sinh ra để làm nhiệm vụ cuối cùng trước khi chết. Cái nhiệm vụ cao cả đó là duy trì nòi giống. Để loài tồn tại thì có thể từng cá thể phải chịu những hình phạt ghê gớm. Ngoài mực, cá hồi, còn những giống vật khác như nhện, bọ ngựa ... con đực có thể hy sinh làm mồi cho con cái để con cái có sức chăm sóc nòi giống. Hóa ra sự bảo tồn loài có lúc còn quan trọng hơn sự bảo tồn thân thể của từng cá thể. Cái chết của từng cá thể chưa phải là điều đáng sợ nhất mà điều đáng sợ nhất là sự tuyệt giống của loài.

Qua những sự việc trên chúng ta có thể hiểu được tại sao con cóc lại được chọn cầm đầu "đoàn thú" để kiện ông Trời và được tôn vinh làm "Cậu ông Trời" trong câu chuyện cổ tích. Nói cách khác, cóc là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân Việt thời đó, cần mẫn, hiền lành nhưng không dễ bị ăn hiếp. Cóc lại hữu ích trong việc bắt sâu bọ, nên có lẽ đã giúp cho mùa màng tăng thu hoạch khá hơn, cóc được xem như người bạn tốt của nông dân. Và trên hết, có lẽ người dân Việt lúc ấy đã ý thức rất rõ ràng cái nhiệm vụ cao cả của việc bảo tồn và duy trì nòi giống Việt.

Dù là Cậu ông Trời, ai đụng đến cóc là ông Trời đánh liền, nhưng trong văn chương cóc lại bị ba anh học trò dốt nổi hứng rủ nhau làm thơ vịnh cóc và làm cóc mang tiếng luôn. Câu chuyện có thể tóm tắt đại khái như sau :

Có ba anh học trò dốt, một hôm, nhìn một con cóc, nổi hứng rủ nhau làm thơ vịnh.
Anh thứ nhất đọc: Con cóc trong hang / Con cóc nhảy ra.
Anh thứ hai tiếp: Con cóc nhảy ra / Con cóc ngồi đó.
Anh thứ ba nối lời: Con cóc ngồi đó / Con cóc nhảy đi.
Làm xong bài thơ, tự trầm trồ khen mình giỏi, rồi sực nhớ lời người xưa nói kẻ tài hoa thường mệnh yểu, ba anh rất lo, sai tiểu đồng ra phố mua sẵn ba cái quan tài. Ngoài phố, một khách qua đường, nghe tiểu đồng kể câu chuyện, dặn : - Mày mua luôn giùm tao một cái luôn, để lỡ cười quá, tao chết theo.

Nói đến "Thơ con cóc", thì ai cũng hiểu ngầm là thơ thuộc loại "ngoại hạng" và "dở hơn dở". Nhưng gần đây thì nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc viết một tiểu luận để dẫn chứng bài "Thơ con cóc" là một bài thơ có những cái hay riêng của nó. Bài tiểu luận của NHQ cũng là đề tài tranh luận khá sôi nổi trong văn giới. Nếu thích thú thì các bạn có thể tìm đọc và tự kết luận.

Phần tôi thì thú thiệt không thấy hoặc thưởng thức được cái hay của bài thơ ở chỗ nào. Có điều phải công nhận là bài "Thơ con cóc" hình như ai cũng biết hết. Có lẽ Thơ con cóc giống như trường hợp của Nam Quách trong câu chuyện dưới đây:
Tương truyền và thời Tề Tuyên Vương có Nam Quách là người không hề biết đàn sáo, cũng đút lót để xin cho được vào đội nhạc hợp tấu cung đình gồm 300 người để thổi sáo. Nam Quách chỉ giả vờ thổi sáo, chớ không biết thổi. Đến khi Tuyên Vương chết, con lên nối ngôi là Hổn Vương chỉ thích nghe độc tấu, nên gọi từng người biểu diễn, Nam Quách thấy không xong, bèn cáo bệnh và trốn luôn. Đời sau, chuyện này thành điển tích và hể ai dùng thủ đoạn gian dối thì người ta dùng tên Nam Quách để mà so sánh. Đội nhạc có 300 người mà chỉ có tên anh chàng Nam Quách, một người không biết thổi sáo là còn lưu truyền muôn thuở. Một cách tương tự, bài "Thơ con cóc" có số phận như "tên" của Nam Quách vậy.

Cũng như người Đại Hàn và Nhật Bản thích ăn cá nóc, một số người Việt thích thịt cóc. Cá nóc và cóc có điểm giống nhau là phải biết cách "làm", nếu sơ xuất thì người ăn có thể bị ngộ độc. Ở Nhật Bản và Đại Hàn, với cá nóc, cần phải có giấy phép hành nghề mới được phục vụ khách hàng. Còn ở Việt Nam thì những người làm thịt cóc không được huấn luyện theo một chương trình hay tiêu chuẩn nào cả, không có cơ quan trách nhiệm kiểm soát nghiêm túc để bảo đảm an toàn cho thực khách. Cho nên dù thịt cóc có ngon tới đâu thì cũng không đáng đem sinh mạng của mình ra đùa với tử thần. Hiện nay, ở Việt Nam đã có nhiều trường hợp ngộ độc vì ăn thịt cóc. Trong bối cảnh như vậy, thiển nghĩ, tránh đụng đến "thịt" của cậu ông Trời là một hành động thông minh. Kế đến, nếu hôm nào chàng cóc nghiến răng, trời nổi cơn mưa gió và bạn lỡ có tức cảnh sinh tình, muốn múa bút thì tránh làm thơ con cóc mà nên viết văn con cóc. Vì văn chương VN đã có bài thơ con cóc được giới phê bình chấm nhất rồi, nhưng văn con cóc thì chưa có bài nào được chấm là "nhất" cả. Và đây cũng là một chọn lựa không kém thông minh.

Một gạch là nhất
Hai gạch là nhị
Ba gạch là tam
Một đống gạch là … căn nhà sập vì trời mưa … và đây "chắc chắn" là "lỗi con cóc" : Nghiến răng khiến trời mưa, ướt đất, động nền, sập nhà .

Lý Lạc Long (TTL/TCT/MAI16/2/05)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.03.2006 17:33:26 bởi TTL >

TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 01.03.2006 17:40:53
Tản mạn về Đôi mắt

"Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn" (Eyes are the window to the soul). Câu ví von bất hủ nầy bắt nguồn từ câu nói của nhà hiền triết Marcus Tullius Cicero (106-43 B.C.), cũng là một chính trị gia lỗi lạc, nhà hùng biện đại tài của La Mã: "Utimago est animi voltus sic indices oculi." (The face is a picture of the mind as the eyes are its interpreter) - Khuôn mặt là chân dung của tâm hồn mà đôi mắt làm công việc diễn giải - Tâm hồn con người như căn nhà kín cổng cao tường, ai mà biết được trong đó chứa đựng những gì ? Muốn nhìn thử tâm hồn của một người chất chứa những gì ? Chỉ có nhìn qua "đôi mắt" mới có thể làm được điều đó. Tất cả tình cảm con người: Thương yêu, giận hờn, oán ghét, khổ đau… đều dồn cả vào mắt. Đôi mắt chừng như lúc nào cũng lặng thinh, không nói gì cả, nhưng thật ra đã nói rất nhiều, những lời trần tình "không lời".

Trong văn học, đôi mắt đẹp đã là nguồn cảm hứng cho rất nhiều văn thi sĩ. Từ Á sang Âu, kể không hết những áng văn chương ghi lại cảm xúc của văn thi nhân về những đôi mắt đã gây ấn tượng mạnh và khó quên trong cuộc đời của họ. Khi diễn tả vẻ đẹp một giai nhân, hình như là không thể thiếu hay bỏ sót "đôi mắt" được. Đôi mắt đã được các thi nhân diễn tả bằng những hình ảnh trừu tượng hoặc cụ thể, huyễn hoặc hay chân thật. Dù là hình ảnh diễn tả như thế nào thì mỗi biểu tượng của đôi mắt cũng đều có sức hấp dẫn và âm hưởng riêng biệt. Mỗi hình ảnh tiêu biểu "cửa sổ của tâm hồn" đều mang những nét tinh tế, lúc nhẹ nhàng thanh tao, lúc tê tái não lòng, lúc lặng lẽ mơ màng… đã là nguồn cảm hứng vô tận cho thi nhân. Những đôi mắt được diễn tả trong thi ảnh rất tuyệt vời, rất thiết tha, rất da diết... tùy vào hoàn cảnh tâm sự và cảm nhận của mỗi thi nhân. Nhìn vào đôi mắt, thả hồn phiêu du vào cõi mộng, giao hưởng với sắc màu và âm thanh, dấn thân đi tìm tòi và khám phá những bí ẩn đàng sau cặp mắt đã làm mình rung động.

Trong ngũ quan của con người (lưỡi , mắt, miệng, mũi, tai ), có thể nói mắt hay thị giác là giác quan, quan trọng nhất. Nhờ vào cặp mắt, con người mới có thể nhìn thấy, thưởng thức và chiêm ngưỡng được vẻ đẹp vạn vật chung quanh. Hầu hết những sinh hoạt căn bản của một người ít hay nhiều cũng cần vào sự đóng góp của đôi mắt. Thiếu hay mất đi thị giác, mọi hoạt động căn bản của một người đều bị đình trệ. Giác quan nào cũng quan trọng với con người cả nhưng thí dụ chỉ có thể chọn để có một thì con người chúng ta sẽ chọn giác quan nào trong ngũ quan . M. Beinouk của Romania đã trả lời hộ chúng ta :

Chỉ Cần Đôi Mắt

Hãy cưa đôi chân của tôi đi
Để tôi khỏi lang thang
Hãy xẻo đôi môi của tôi đi
Để tôi không còn hôn em được nữa
Hãy chặt đôi tay của tôi đi
Để tôi không thể ôm em
Hãy đập vỡ trái tim của tôi
Để nó không làm tôi điên dại
Xin hãy để lại cho tôi đôi mắt
Để tôi khóc người tình
Đã mất hút của tôi ... (M. Beinouk - Phạm Viết Đào dịch)

Tôi tạm trích một số thơ về "mắt" dưới đây. Và xin nhường lại cho bạn đọc sự cảm nhận, sự hòa nhịp rung động của mình với cảm xúc các tác giả qua lời thơ tiếng nhạc.

Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh (Đoạn Trường Tân Thanh)
(Làn thu thủy, nét xuân sơn.... bắt nguồn từ câu chữ Hán: Nhỡn quang như thủy, my tự xuân sơn: Mắt trong như nước mùa thu, mày như núi mùa xuân.)

Vẻ phù dung một đóa khoe tươi,
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung.
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khóe thu ba rợn sóng khuynh thành (Cung Oán Ngâm Khúc)
("thu ba" là sóng mùa thu, khóe thu ba chỉ mắt của con gái lấp lánh trong sáng như sóng mùa thu .. )

Đôi mắt em lặng buồn
Nhìn thôi mà chẳng nói
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng… (Lưu Trọng Lư)

Vừng trăng lên mái tóc mây
Một hồn thu lạnh mơ say hương nồng
Mắt em là một giòng sông
Thuyền ta bơi lội trong giòng mắt em (Lưu Trọng Lư)

Buổi chiều vàng như thóc
Gạt xuống từng khe xanh
Đôi mắt nàng long lanh
Chất nồng nàn nắng quái
Nắng chiều như hoa chanh
Lung linh từng sợi tóc
Mắt em, thuyền độc mộc
Chèo lướt trong hồn ta
.........
Ta trở thành cái cốc
Đọng nắng chiều long lanh
Đôi mắt thuyền độc mộc
Em thả xanh hồn ta (Phạm Thiên Thư)

Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỷ niệm trong tôi
Rơi như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ còn xanh
Riêng những bài hát còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước (Văn Cao)

Cuối thu vàng núi quanh bờ
Nước non trong sạch ai ngờ thần tiên
Em cười, đôi ngọc mắt đen
Nửa in sắc nước nửa đen sắc trời (Xuân Diệu)

Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ, đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay (Thâm Tâm)

Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây (Quang Dũng)

Ôi ! cặp mắt của người trong tợ ngọc
Sáng như gươm và chấp chóa kim cương !
Mỗi cái ngó là một vì sao mọc !
Mỗi liếc yêu là phảng phất mùi hương .
Hai mắt ấy chói hào quang sáng ngợp
Dẫn hồn ta vào thế giới thiêng liêng,
Hớp nhiều trăng cho niềm trinh rất ngớp
Say nhạc hường nổi bổng giữa đào nguyên (Bích Khê)

Chuỗi ngọc chàng cho em, mất rồi !
Còn đây một chuỗi Tiếc - thương dài
Và đây, vạn giọt lòng ngưng đọng
Ý ngọc Tình châu chớp mắt rơi .... (Đông Hồ)

Anh nhớ sông có nguyệt lạ lùng
Có trời lau lách chỗ hư không
Em tìm âu yếm trong đôi mắt
Thấy cả vô cùng dưới đáy sông (Nguyên Sa)

Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu, bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con (Bùi Giáng)

Đôi mắt người ngây thơ
Không hề vương vấn tội
Có chở tình ta theo
Tới cõi nào diệu vợi ?(Nguyễn Tất Nhiên)

Ôi mắt xa xôi, ôi mắt dị kỳ.
Ta thấy đó một trời ta mơ ước.
Ta thấy cả một vừng trăng thuở trước.
Cả con đường sao mọc lúc ta đi.
Cả hoàng hôn mây phủ lối ta về.
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ… (Đinh Hùng)

Những con mắt tình nhân
Nuôi ta biết nồng nàn
Những con mắt thù hận
Cho ta đời lạnh câm
Những mắt biếc cỏ non
Xanh cây trái địa đàng
Những con mắt bạc tình
Cháy tan ngày thần tiên (Trịnh Công Sơn)

Trong văn học dân gian thì đôi mắt cũng được nhắc nhở đến rất nhiều. Một số câu ca dao diễn tả đôi mắt như :

Trời sinh con mắt là gương
Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài (CD)

Những người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền (CD)

Chín thương cô ở một mình
Muời thương con mắt có tình với ai…(CD)

Ai buồn ai khóc thiết tha
Tui vui tui cũng chan hoà giọt châu (CD)

Ai làm Nam Bắc phân kỳ
Cho hai giòng lệ đầm đìa nhớ thương (CD)

Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua anh những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề …

Trong lĩnh vực ca nhạc thì đôi mắt cũng đã là nguồn cảm hứng cho rất nhiều nhạc sĩ sáng tác. Một số bài về mắt tiêu biểu như: Giọt Nước Mắt Ngà (Ngô Thụy Miên), Thu Trong Mắt em (Phạm Anh Dũng), Nước Mắt Rơi (Phạm Duy),Trong Đôi Mắt Em (Trần Quang Lộc), Đôi Mắt Người Sơn Tây (Phạm Đình Chương), Mắt Đêm (Hoài An), Mắt Đẹp (Tuấn Khanh), Đôi Mắt Người Xưa (Trúc Phương), Mắt Lệ Cho Người (Từ Công Phụng), Mắt Lệ Cho Người Tình (Phạm Mạnh Cương), Màu Mắt Nhung (Đức Huy), Mắt Biếc (Cung Tiến), Giọt Sương Trên Mí Mắt (Thanh Tùng), Đôi Mắt Nào Mở Ra , Những Con Mắt Trần Gian (Trịnh Công Sơn), Đôi Mắt Thuyền Độc Mộc (Võ Tá Hân, Nguyễn Tuấn), Tình Yêu Mắt Nai (Quốc Dũng), Mắt Em Vương Giọt Sầu (Đăng Khánh), Lệ Đá (Trần Trịnh- Hà Huyền Chi) ...

Trong lĩnh vực hội họa thì nhà danh họa Leonardo da Vinci đã nổi tiếng với bức danh họa Mona Lisa, còn có tên là La Gioconda, mà điểm đặc trưng bức chân dung này là nụ cười và ánh mắt. Điểm khiến chúng ta chú ý và ngạc nhiên là mức độ thật của bức chân dung với nụ cười và đôi mắt có vẻ sống động, như một người thật đang chăm chú nhìn chúng ta. (She really seems to look at us and to have a mind of her own- Nicholas Pioch). Trong lĩnh vực tôn giáo, mắt cũng được dùng làm biểu tượng (như giáo phái Cao Đài). Và trong lĩnh vực khoa học huyền bí thì chúng ta thường nghe truyền tụng về "thuật điểm nhãn hay khai nhãn" của thầy pháp là mở mắt cho một vật nào đó từ vô tri trở nên linh thiêng. Theo giới y học cổ truyền, một vị thầy giỏi chỉ cần nhìn vào đôi mắt, là biết một người khoẻ hay bệnh. Đôi mắt có thể cho biết người đó sắp bệnh, đã bệnh, bị bệnh đã lâu… và bệnh gì...v.v. Nhìn vào đôi mắt, họ có thể biết người đó vui hay buồn, hận thù, đau khổ hay hạnh phúc...

Tương truyền, bốn đệ nhất mỹ nhân của Trung Hoa ngày xưa là Điêu Thuyền, Chiêu Quân, Dương Quý Phi và Tây Thi đều có đôi mắt rất đẹp, quyến rũ mê hồn. Điêu Thuyền thì đẹp lộng lẫy đến trăng nhìn "trăng phải thẹn". Sóng mắt Điêu Thuyền đã làm say mê đắm đuối hai cha con Đổng Trác và Lữ Bố và Lữ Bố vì ghen đã giết chết nghĩa phụ của mình. Đôi mắt nhung huyền của Tây Thi như tỏa ra ngàn sợi tơ tình, điểm tô nhan sắc tuyệt trần của nàng thêm lộng lẫy, cộng thêm tài đàn ca múa hát đã làm cho Ngô Phù Sai mê mệt. Ngô Phù Sai vì say đắm nhan sắc Tây Thi mà bị mất nước và vong mạng. Đường Minh Hoàng cũng vì say mê sắc nước hương trời, "làn thu thủy, khóe thu ba" của Dương Quí Phi mà đất nước loạn lạc và dân chúng khổ đau. Chiêu Quân nổi tiếng với danh hiệu "trầm ngư lạc nhạn" (cá lặn chim sa), cũng có đôi mắt rất đẹp, nhưng bị Mao Diên Thọ vì tư thù cá nhân, đã thêm cái nốt ruồi vào dưới khóe mắt của bức chân dung và xàm tấu với vua Hán rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng có cái nốt ruồi "thương phu trích lệ", mà sách tướng gọi là nốt ruồi sát phu. Vua Hán nghe lời nên chẳng nghĩ gì đến Chiêu Quân, đến khi nàng vào ra mắt vua trước khi đem đi cống Hồ, nhà vua mới thấy và vô cùng hối hận, luyến tiếc nhưng tất cả đều muộn màng. Trong buổi chia ly đau đớn, những giọt lệ long lanh trên khóe mắt của trang quốc sắc thiên hương, nghẹn ngào thương khóc kiếp "hồng nhan bạc mệnh"... Bốn tuyệt thế giai nhân với những đôi mắt "đẹp" đã một thời gây bão tố trong cung đình các triều đại Trung Hoa cổ xưa. Nước mắt là một vũ khí rất là lợi hại của phái nữ và nam nhi thì đã mấy ai cầm lòng được với nước mắt của nữ nhi, nhất là khi người đó lại là người mình yêu thương. Cái câu: "Chí lớn trong thiên hạ không chứa đầy đôi mắt của giai nhân" có lẽ vẫn luôn luôn đúng.

Nếu có những đôi mắt "đổ nước nghiêng thành" thì cũng có những đôi mắt có thể phân định được chính tà. Nguyễn Tịch trong nhóm "Trúc Lâm thất hiền" đời nhà Tấn có đôi mắt rất "lạ thường ". Gặp người hiền lương, đạo đức, tài giỏi, ngay thẳng thì mắt ông chuyển thành màu xanh. Còn gặp kẻ giả dối, lừa đảo, tham ô, ác độc mắt ông sẽ chuyển thành màu trắng. Điển tích "mắt xanh" phát xuất từ câu chuyện này. Ai lọt vào mắt xanh, người đó coi như "đạt tiêu chuẩn" và "xài" được.

Về mặt khoa học, những thập niên gần đây, sự tiến triển của khoa học kỹ thuật giúp con người hiểu rõ hơn về đôi mắt. Làm sao cặp mắt con người có thể cảm nhận chính xác về kích thước, hình dáng, vị trí, chiều sâu và màu sắc của sự vật bên ngoài. Càng hiểu thêm, các nhà khoa học càng hết sức thán phục những đặc tính và cấu trúc kỳ diệu của thị giác con người, một kỳ công của tạo hóa. Hiện nay khoa học đang tìm cách sử dụng những hiểu biết về thị giác để chế tạo mắt nhân tạo thay thế cặp mắt tự nhiên. Nhưng những máy móc tinh vi nhất hiện nay vẫn chưa thể thay thế khả năng thâu nhận, tổng hợp và phân tích của cặp mắt tự nhiên. Về nhiều phương diện chẳng hạn như khả năng phân biệt màu sắc và cường độ ánh sáng, cử động nhanh chậm, hình thể kích thước, khoảng cách xa gần của vật thể, mắt nhân tạo vẫn thua xa mắt tự nhiên.

Đôi mắt quý báu giữ một nhiệm vụ hết sức thiết yếu: Giúp ta nhìn thấy sự vật xung quanh. Nhưng mắt cũng có thể là... nguồn thông tin cho những ai quan sát được chúng, chủ yếu là cung cấp các manh mối trực giác về cảm xúc và... ý định của một người. Gần đây, hai nhà khoa học của trường Đại học Columbia, GS Shree Nayar và TS Ko Nishino, vừa phát hiện thêm một đặc tính khác của đôi mắt mà đến nay chưa một ai biết đến là đôi mắt có khả năng phản ánh lại thế giới xung quanh chúng. Họ đã phát minh một hệ thống thu và phân tích các bức ảnh được thể hiện thoảng qua trên các màng chiếu là... giác mạc (của đôi mắt con người.)

“Hệ thống hình ảnh giác mạc", như cách gọi của họ, khi mới nghe qua chẳng có vẻ gì là sáng tạo: Về cơ bản, họ dùng máy chụp ảnh kỹ thuật số (digital) có độ phân giải cao để chụp cận cảnh khuôn mặt của người họ muốn “đọc ý nghĩ thông qua mắt”. Giai đoạn chính thật sự chỉ bắt đầu sau khi ảnh chụp được chuyển qua máy tính, nơi một nhu liệu (phần mềm - software) tinh vi được dùng để cô lập vùng tròng đen của mắt – nơi một màng rất mỏng của nước mắt phủ trên giác mạc phản chiếu lại hình ảnh của thế giới xung quanh, tương tự cảnh vật phản chiếu xuống mặt hồ. Đến lúc này, ta có thể tha hồ quan sát được tất cả mọi thứ mà người đó nhìn thấy khi bức ảnh được chụp. Tóm lại "chụp và phân tích" các hình ảnh được thể hiện trên giác mạc mắt có thể giúp cho việc đọc được nhận thức của một người .

Bắt đầu việc nghiên cứu này từ tháng 3/2003, Nishino và Nayar đã nhanh chóng nhận ra rằng "bức tranh toàn cảnh hình cầu" được phản chiếu trên mắt là bao quát hơn cái thật sự rơi vào võng mạc cho ta "nhìn thấy". Điều đó có nghĩa: Nếu ta mã số hóa (coding) và lưu giữ hình ảnh mắt của mình trong một thời điểm nào đó, chúng ta có thể xem lại các hình ảnh mắt đó và quan sát được những gì mà ta đã bỏ sót trong khi đang tập trung cái nhìn của mình về một hướng khác. Để xác định được cái mà bạn đang thật sự nhìn vào, các nhà nghiên cứu trường Đại học Columbia sử dụng đặc điểm cấu tạo của mắt và một số thảo trình toán được xây dựng hết sức công phu, để có thể tính toán ra “hướng nhìn chằm chặp" của bạn và xác định được cái thật sự rơi vào trong võng mạc. Khả năng này làm cho những cái liếc trộm và những câu nói dối kiểu "tôi mà thèm để ý vào" của quý ông với vị hôn thê của mình khi đi ngang qua các cô nàng xinh đẹp không thể tái diễn được nữa (!). Sau khi làm việc dự án này, Nishino đùa rằng "Tôi phải tự xét lại mình, chứ có nhiều thứ tôi không được phép nhìn vào đâu”

Quy trình chụp ảnh giác mạc, từ trái sang:

(1) Ổ mắt: Sau khi dùng máy ghi hình kỹ thuật số có độ phân giải cao chụp ảnh của mắt, một phần mềm đặc biệt sẽ được dùng để cô lập phần giác mạc.
(2) Phản ánh toàn diện: Ảnh trên giác mạc phản ánh cho thấy một hình ảnh bao quát của cảnh vật xung quanh.
(3) Phạm vi quan sát: "Bức tranh toàn cảnh hình cầu" cho thấy nhiều sự vật hơn thực tế nhìn thấy.
(4) Tại tiêu điểm: Dựa vào kết quả trên, có thể tính toán cái mà đối tượng đang nhìn vào.

Tiềm năng là kỹ thuật có thể được sử dụng trong lĩnh vực an ninh. Nayar đã tỏ ý là không muốn phát minh này được dùng bởi các chính quyền độc đoán, chẳng hạn họ có thể sử dụng các kỹ thuật của ông lần ra các dấu vết, khi nhìn vào các tấm ảnh chụp mắt, những điều mà một người muốn che giấu. Tuy nhiên, người ta cũng có thể nghĩ tới việc áp dụng kỹ thuật này cho máy quan sát tại các trạm kiểm soát an ninh để theo dõi xem có ai đó đang nhìn quá chăm chú vào các khu vực trọng yếu hay không. Ít rắc rối và ít gây tranh luận hơn sẽ là trường hợp các nhà tâm lý học có thể dùng kỹ thuật này để biết được chắc chắn là đối tượng (thân chủ) đang nhìn vào cái gì trong một thời điểm xác định, nhằm nghiên cứu phản ứng của người này. Bên cạnh đó, các nhà thiết kế giao diện cho máy tính có thể sử dụng phát hiện này để tạo ra một loại phần mềm, có khả năng cung cấp cho người sử dụng thông tin dựa trên cái mà họ đang nhìn vào trên màn ảnh (screen).

Cuối mùa hè này, Nishino và Nayar sẽ chuyển công trình của họ cho Siggraph, thuộc Công ty Woodstock, để thử nghiệm xem hệ thống này có thể trợ giúp đắc lực ra sao cho việc thực hiện phim kỹ thuật số. Trên lý thuyết, theo họ, khi phân tích các hình ảnh được phản chiếu trên giác mạc mắt, chúng ta có thể thêm rất dễ dàng một đối tượng vào một cảnh quay nào đó, hoặc thậm chí có thể thay thế một diễn viên bằng một nhân vật được dựng lên bằng máy tính trong khi vẫn tái tạo lại được chính xác trạng thái ánh sáng gốc. GS Nayar dự tính lật lại các ảnh phản chiếu của mắt từ các bức ảnh cũ và xem lại quang cảnh xung quanh được thể hiện qua cái nhìn của đối tượng được chụp ảnh ra sao. “Bạn có bao giờ tưởng tượng là ngày nay chúng ta có thể khám phá được cái mà mục sư Martin Luther King đang nhìn thấy khi bức ảnh của ông được chụp không?” - GS Nayar hỏi.

Với văn thi sĩ, mắt là cửa sổ của tâm hồn và hiện nay thì khoa học đã chứng minh mắt không những là "cửa sổ của tâm hồn" mà còn là "cửa sổ cả một thế giới "của một người. Mặc dầu còn nhiều bí ẩn, nhưng những khám phá và hiểu biết về hiệu năng của mắt trong nhiều thập niên qua, cho thấy cặp mắt con người không thể nào là một sản phẩm tình cờ của tự nhiên. Đôi mắt, một kiệt tác phẩm của tạo hoá ban cho loài người, một "Cánh cửa vô cùng, xin chớ bao giờ khép lại.... "

LÝ LẠC LONG
(TTL/TCT/MAI/05)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.03.2006 19:50:56 bởi TTL >

TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Tản Mạn Cuối Tuần - 01.03.2006 17:46:57
Tản mạn về Trà & Trà Đạo.


Hầu như mọi dân tộc, mọi xứ sở trên trái đất đều biết uống trà. Theo ước tính, đây là loại nước uống phổ biến nhất sau "nước" và mỗi ngày thế giới tiêu thụ chắc không dưới một tỉ tách trà đủ các loại. Theo sách vở ghi lại thì tục uống trà của nhân loại bắt nguồn từ Trung Quốc. Theo cuốn Trà kinh, của Lục Vũ viết năm 780 (Lục Vũ là một cuồng sĩ đất Hồng Tiệm đời Ðường, thường lang thang ngâm thơ rồi khóc. Ông để lại cho đời sách Trà Kinh gồm ba quyển bàn về trà, gốm trà, cách pha và uống trà, được người đời sau gọi là ông tiên trà, thờ làm ông tổ của trà đạo Trung Quốc) thì uống trà bắt đầu từ thời Thần Nông, truyền sang Chu Công nước Lỗ. Như vậy loài người biết uống trà vào khoảng năm 3300 - 3100 trước Công nguyên. Qua các thời đại Trung Quốc, tục uống trà và tác dụng của cây trà ngày được nâng cao và khai thác triệt để. Cách uống trà cũng theo những con đường buôn bán tơ lụa, đồ gốm và qua sự giao lưu của các thương gia tỏa ra khắp thế giới.

Cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, cùng với thiền, trà ở Trung Hoa tràn sang Nhật. Người Nhật tiếp thu cả hai thứ văn hoá vật chất và tôn giáo này, đem nó hoà quyện với văn hoá bản địa và nâng lên thành triết lý riêng của dân tộc Nhật gọi là Trà đạo. Theo truyền thuyết Nhật, vào khoảng thời gian này, có một vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, sư Eisai mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Phẩm Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà. Những công dụng của trà về mặt y khoa và hương vị hấp dẫn đặc biệt của trà đã thu hút nhiều người dân Nhật đến với cái thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tính Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo. Trà đạo phát triển dựa trên triết lý xem uống trà như là một thú tiêu khiển thanh tao và nghi lễ của việc uống trà do các sư Thiền tông đặt ra để giữ cho họ thức tỉnh. Đến đời thiền sư Senno Rikyu (1521-1591) thì trà đạo ở Nhật thực sự trở thành một nghệ thuật gắn liền với đời sống thiền thông qua việc định nghĩa các yêu cầu của trà đạo như là sự hài hòa, tĩnh lặng, thanh khiết và trang trọng. Như Kakuzo Okakura đã viết trong cuốn "Quyển sách về Trà" xuất bản vào năm 1906: "Trà đạo là một giáo phái được sáng lập dựa trên lòng tôn thờ cái đẹp, cái đẹp giữa những thực tế nhớp nhúa trần ai. Trà đạo bao gồm những nghi lễ thiêng liêng thấm đượm chất tâm linh tôn giáo, biến việc uống trà trở thành một cuộc lễ. Bất cứ một thiền thất nào của môn phái Trà đạo đều có những trà thất. Tuy được xây dựng hết sức giản dị, tự nhiên nhưng được coi là nơi thiêng liêng nhất. Đó là những gian nhỏ được ghép bằng tre, gỗ, lợp tranh rất nguyên sơ. Trong nhà bài trí một vài bức thư pháp cổ, hoặc tranh thuỷ mạc. Một bếp đun nước, một lò hương thơm, một lọ hoa cắm chỉ một bông như mọc lên từ kẽ đá. Ngồi trong căn phòng lặng im nghe tiếng nước sôi nhè nhẹ như tiếng gió. Người ta cảm thấy như ngồi giữa một thảo am nơi sơn dã, chỉ có mây trắng và tiếng nhạc thiên nhiên làm bạn, lòng cảm thấy thanh thoát. Con người như vượt lên trên những giới hạn tương đối và một thoáng nhìn vào vĩnh cửu. Ấm trà được sắp lên toả hương thơm thanh cao, tinh khiết. Uống chén thứ nhất thấy lòng tĩnh lặng, tâm không còn dao động, tự soi được vào cõi tâm mình. Thiền nhân gọi đó là trạng thái vấn tuệ. Uống xong chén thứ hai thấy nơi ấn đường ấm nóng, tư duy thiền sắp được khai thông. Uống xong chén thứ ba cả hai trạng thái trên đều biến mất. Thân xác như hoà vào trời đất. Người ta nói đó là đạt tới thiền và là Trà đạo."

Theo hai cuốn sách “The Empire of Tea: The Remarkable History of the Plant That Took Over the World” ( Đế Quốc Trà ) của Alan Macfarlane and Iris Macfarlane và “Tea: Addiction, Exploitation, and Empire” (Trà: Nghiện, Bóc Lột, và Đế quốc) của Roy Moxham mới xuất bản gần đây thì các tác giả người Anh này thuật lại thì các nhà buôn bán Tây phương để ý đến trà vào khoảng thế kỷ 17. Cuốn “Đế quốc trà” mở đầu với một hồi ký ngắn và cảm động của Iris về nhận thức văn hóa mà bà mang theo cùng chồng đến nông trại trồng trà Assam. Bà viết: "Tôi lớn lên với tất cả những mưu mẹo, những lời nói hoa mỹ : rằng ‘Bên ấy ở Ấn Độ’ có những người da ngăm thấp kém không thể cứu chữa, những người rất may mắn được chúng ta cai trị". Sau đó thì tác giả kể lại những tình trạng đối xử tàn bạo đối với những công nhân làm việc trong các nông trại trồng trà, những hồi tưởng buồn bã. Cuốn "Đế quốc trà" phân tích một cách dí dỏm sắc nước của trà và qua đó suy luận về vai trò của trà trong việc duy trì một hệ thống trật tự xã hội theo đẳng cấp ở Anh. Tác giả còn tìm cách trả lời một câu hỏi : Có phải quả thật trà đã thuần hóa người Anh? Có phải trà làm cho những người da trắng, thích ăn thịt đỏ và uống bia trở thành những người hiền lành hơn và dễ mến hơn? Không! Đó là câu trả lời. Những người Anh, chủ đồn điền trà, khinh miệt công nhân người bản xứ, họ cho đó là những cu-li (coolies). Họ đối xử tàn bạo đối với những phu người địa phương và gây cho cái chết cho hàng trăm ngàn người. Theo thống kê của Moxham, cho đến năm 1900, hơn 200 ngàn mẫu trà được khai khẩn và trồng trong rừng Assam, và nó làm mất đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người phu Ấn Độ nhưng chỉ vài mạng người Anh. Đó chỉ là một thảm nạn trồng trà ở vùng Assam; nhiều thảm nạn còn xảy ra ở Darjeeling, Tích Lan (Ceylon), và nhiều nơi khác. Quy trình sản xuất trà ở Ấn Độ được mô phỏng theo cách tổ chức sau cuộc Cách mạng kỹ nghệ: giờ làm việc dài, điều kiện làm việc cực xấu, và thiếu an toàn. Macfarlane viết: “Công nhân trở thành một phần của bộ máy sản xuất khổng lồ. Trong bộ máy đó họ là những con người làm việc không hồn. Cái giá nhân sinh mà con người phải trả cho những công việc nhàm chán và không cần đến trí óc, đó là chưa kể đến tình trạng công nhân phải đứng hết giờ này sang giờ khác để hái trà. Thật khó tưởng tượng nổi!”

Trà, ngoài là thức uống và những công dụng tốt cho sức khỏe , cái ''lá cây thơm ngát" này đã là đề tài làm say mê nghệ nhân để sáng tạo ra những bình sứ thời xưa ở Việt Nam, Nhật Bản và Trung Hoa. Trà đã là chất xúc-tác khuyến khích các tay thực dân Âu châu ; là chất châm ngòi cuộc chiến tranh Nha phiến; là cảm hứng cho cho những nhà thiết kế thuyền bè vào thế kỷ 19th; và là một trong những nguồn cung cấp sinh lực cho cuộc Cách mạng kỹ nghệ .

Gần đây ở Việt Nam có nhiều "trà quán" mở cửa theo nhu cầu của thị trường, tôi tình cờ đọc một số bài viết so sánh và tỏ ý ngưỡng mộ nghệ thuật uống trà của Nhật và Trung Hoa. Phải công nhận là các nước khác thành công hơn Việt Nam trong việc quảng bá truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ. Trà đạo của Nhật nổi tiếng đã lâu, và Trung Hoa thì cũng vậy. Mặc dù theo truyền thuyết thì Việt Nam đã biết đến trà từ thời Ðông Hán và trà đạo Việt thành hình khoảng vào đời nhà Ðường. Sách Trà Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng "trà là loài cây lớn ở phương nam". Chứng tích trà đạo Việt còn lưu lại trên những bình bát trà gốm Việt Dao từ thời Bắc thuộc, lên đến tột đỉnh thời Lý, Trần, thời Phật giáo thịnh nhất trong lịch sử VN. Trà đạo Việt là đạo mà không đạo, đạo vô môn quan: không cửa vào, không lối ra. Cũng như Việt Nam, lúc bấy giờ Phật giáo ở Nhật bén rễ vào giới thế quyền. Tăng sư là khách quý của các sứ quân và các phú hào. Họ học Phật rồi tiêm nhiễm luôn đạo thưởng trà. Uống trà nhằm luyện con người khu trừ những chướng ngại phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo, hòa đồng với Tự Nhiên, tức là Chân Như. Và uống trà, hành trà đạo phải có các trà khí mà ngành gốm Nhật bấy giờ rất phôi thai. Nên trà gốm từ Cao Ly, Trung Hoa, Ðại Việt đưa sang giá đắt, chỉ được xử dụng giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú. Thay vì hấp thu nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm trò trà dư tiêu khiển, đặt ra các quy tắc kiểu cách (Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Môn Quan. Trà đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ chỗ đền các xa hoa. Trong khuôn viên cung đình nguy nga, các lãnh chúa sai dựng nên trà thất bắt chước lều cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Còn bên nước Việt, đạo đã từ cung cấm ra đi, bỏ phú quý phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của "rừng trúc lắm chim" (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngài Huyền Quang. Các vua Lý, Trần bỏ kinh về núi, thực hiện hạnh tầm đạo, dẫm theo bước chân của đức Phật. Đây là chỗ khác biệt trong lịch sử thiền đạo Việt - Nhật .

Thời đại chúng ta đang sống, kỹ thuật hiện đại cho phép mọi người tiếp xúc với môi trường bên ngoài, với các nền văn hoá khác nhau trên thế giới, tạo điều kiện cho việc học hỏi các điều mới lạ và bổ ích để mở mang kiến thức , để áp dụng cho lợi ích của bản thân và đất nước . Nhưng chúng ta phải biết gạn lọc và đừng quên gốc rễ của mình. Ngưỡng mộ , thích và trân trọng Trà đạo của Nhật Bản hay Trung Hoa thì cũng tốt, nhưng so sánh và chê bai nghệ thuật và phong cách uống trà hay trà Việt Nam là một điều không đúng và nhất là khi dựa vào chỉ mấy "trà quán" phục vụ nhu cầu nhất thời của thị trường. Cái áo Kimono của Nhật, áo sường - sám của Trung Hoa, cái áo dài của Việt Nam.... mỗi cái có những nét đẹp riêng. Ở đời không có gì là tuyệt đối hoàn hảo. Và người ta thường nói " có nằm trong chăn mới biết chăn có rận", và không có một quốc gia nào hoàn hảo hơn một quốc gia nào. Tách trà thơm ở Việt Nam đã từ lâu là quà đón khách, là tâm tình của chủ nhà với khách viếng thăm. Không thể nói là vì người VN không pha chế trà cầu kỳ như người Nhật hay người Trung hoa và vì vậy mà thịnh tình của chủ với khách suy giảm. Phần tôi thì với nghệ thuật uống trà theo Trà đạo của Nhật bản hay Trung hoa thì cũng rất ngưỡng mộ, và áo Kimono hay sường sám, cũng rất đẹp mắt... Nói cách khác là tôi chỉ "cỡi ngựa xem hoa" . Nhưng tách trà Việt nam tôi sẽ pha đãi khách và chiếc áo dài VN vẫn là đẹp nhất , gần gũi thân thương nhất. Lý do rất đơn giản : Vì tôi là người Việt Nam .

Riêng về phong cách uống trà hay thiền đạo thì vô môn quan (Việt Nam) hay hữu môn quan (Nhật Bản) ... "tốt" hơn ? Tôi xin phép gởi đến các bạn câu truyện "Trà Đạo" dưới đây :
"Khách đến viếng một trà thất, chủ nhân tiếp đón theo nghi phong trà đạo Nhật Bản, khách thì lại cứ rót uống tự nhiên không theo luật lệ nào cả. Chủ nhân liền thuyết trình về trà đạo, về cách pha trà và phong thái uống trà … v.v. Nghe xong khách nói:
- À, thì ra trà đạo là vậy. Tôi lại tưởng đạo trà là khát thì uống thôi chứ.
Rồi khách xuất khẩu ngâm:
Xưa nay trà là đạo.
Khát cứ việc uống thôi.
Nghĩ thêm trà với đạo.
Ðầu thượng trước đầu rồi!"

Mời các bạn tách trà thơm (pha kiểu Việt Nam) và chúc tất cả một cuối tuần như ý .

Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI7/9/05)


Đã mang vào thư viện

Thân ái
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.03.2006 04:05:47 bởi ct.ly >

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
HỌA VÔ ĐƠN CHÍ VÀ ĐỊNH LUẬT MURPHY - 18.03.2006 06:52:14
HỌA VÔ ĐƠN CHÍ
VÀ ĐỊNH LUẬT MURPHY


Người ta thường nói " phước bất trùng lai, họa vô đơn chí". Những việc may mắn thường không đến hai lần, không đến cùng một lượt. Ngược lại, những việc không như ý và xui xẻo thường xảy đến dồn dập. Có lúc chuyện rủi ro này chưa giải quyết xong thì chuyện bất trắc khác đã ập đến. Đôi khi, việc không may xảy đến dồn dập và liên tục làm cho chúng ta choáng voáng, tối tăm cả mặt mũi và trở tay không kịp.

Như buổi sáng nào đó bạn thức trễ, sửa soạn gấp để đi làm, lục mọi ngăn tủ ra chẳng kiếm được hai chiếc vớ cùng đôi. Xuống bếp, cái máy pha cà phê thình lình không chịu làm việc, cầm miếng bánh mì điểm tâm ăn thì vuột rớt xuống sàn nhà và cái mặt trét bơ lại rơi úp xuống đất. Ra xe thì vỏ xe bị xẹp. Bạn "nói thầm" là quá đủ cho một buổi sáng và quyết định ở nhà nghỉ. Nhưng vào đến nhà, chợt nhận ra là cái chìa khóa cửa nhà đã bỏ quên trong xe với chìa khóa xe... Tại sao mọi việc không như ý diễn ra liên tục trong một buổi sáng như vậy? Đây là sự ngẫu nhiên hay đây là một sự vận hành của vũ trụ?

Trả lời cho câu hỏi trên có thể làm bạn ngạc nhiên, nhưng bạn cần làm quen với một sự thật không mấy vui là: Vũ trụ luôn luôn chống lại con người. Tương tự như "nhận xét" của phương Đông: "Phước bất trùng lai họa vô đơn chí", phương Tây cũng có quan niệm này và được biết đến như định luật Murphy: "Nếu một việc có thể diễn tiến xấu, nó sẽ diễn tiến đúng như thế." (Murphy's Law : "If anything can go wrong, it will"). Định luật Murphy xuất hiện năm 1949, bắt nguồn từ một thí nghiệm trong một nghiên cứu của không quân Mỹ về ảnh hưởng của quá trình giảm tốc độ trên các phi công. Người tình nguyện được đặt trong chiếc xe trượt tuyết gắn động cơ phản lực, và phản ứng của họ khi xe dừng đột ngột sẽ được ghi lại với hệ thống ghi dữ kiện của bộ ghế mẫu do đại úy Edward A. Murphy thiết kế. Nhưng trong một thí nghiệm chuẩn bị kỹ càng tưởng chừng không có sai sót, Murphy đã không ghi được số liệu nào cả chỉ vì một điện cực bị gắn sai chiều . Sai lầm hy hữu này khiến Murphy phải kết luận: "Nếu có một cách sai - sẽ có người thực hiện cách sai đó". Giới khoa học thường xem đây (giải thích) là kết quả của "ký ức chọn lọc" của những việc " đáng buồn" luôn in sâu trong tâm trí của con người. Nhưng một số các nhà khoa học như Robert Matthews, Đại học Aston, ở Birmingham (Anh), đã dùng kiến thức của nhiều ngành khoa học "tổng hợp" lại để quan sát, phân tích và giải thích. Matthews khám phá ra nhiều thí dụ nổi tiếng của định luật Murphy là có cơ sở . Hiện nay, trong các dự án kỹ thuật đòi hỏi tiêu chuẩn an toàn cao, đinh luật Murphy được các kỹ sư dự án xem như là một giả thuyết cho môi trường làm việc để đạt được sự toàn hảo.

Nhưng không phải chờ đến Murphy người ta mới nhận ra tính bướng bỉnh của các sự kiện xảy ra. Những dạng nhận thức khác của định luật Murphhy đã có từ những thế kỷ trước. Thí dụ như năm 1786, Robert Burns, một nhà thơ người Tô cách Lan (Scotland) đã viết:
"Tôi chưa từng có một mẩu bánh -
Đủ dài và đủ lớn.
Nhưng khi rơi xuống nền cát.
Mặt phết bơ luôn rơi xuống trước".

Vũ trụ luôn chống lại con người? Năm 1994, có một độc giả công bố quan sát và nhận xét của ông ta là, cuốn sách nằm ngửa trên bàn khi bị trượt và rơi xuống đất sẽ luôn bị úp sấp và thắc mắc, hiện tượng đó có gì chung với lát bánh mì trét bơ không? Phản ứng ban đầu của giới khoa học là, khả năng cuốn sách rơi sấp hay ngửa đều như nhau và độc giả đó đã không lặp lại thí nghiệm nhiều lần và đủ để sử dụng các quy luật thống kê giải thích. Tuy nhiên, người ta nhanh chóng nhận ra rằng, hiện tượng sách rơi đó khác xa với sự ngẫu nhiên. Kết luận cuối cùng được đưa ra là, tốc độ quay của cuốn sách quá nhỏ để nó có thể quay trọn một vòng - điều kiện để cuốn sách có thể nằm ngửa như khi trên mặt bàn. Do sức hút trái đất tác động lên các vật hàng ngày như sách, miếng bánh mì khá nhỏ, nên tốc độ quay của những vật này không đủ nhanh khi rớt xuống.

Những nghiên cứu của Matthews đã dẫn tới sự ngạc nhiên thực sự: Có một mối liên hệ sâu xa giữa "hành động" của miếng bánh mì và các hằng số cơ bản của vũ trụ. Rõ ràng là mặt trét bơ của miếng bánh mì sẽ không úp đất nếu chiếc bàn đủ cao (để lát bánh quay trọn một vòng). Nhưng tại sao cái bàn không đủ cao? Vì cái bàn phải phù hợp với chiều cao con người. Vậy tại sao chúng ta lại có chiều cao đang có? Giáo sư vật lý William H. Press của Đại học Harvard giải thích rằng, chúng ta là loài động vật có xương sống đứng bằng hai chân nên rất dễ ngã. Nếu quá cao, chúng ta sẽ bị chấn thương sọ não mỗi khi ngã. Và loài người sẽ diệt vong vì một nguyên nhân khá tầm thường là bị ngã. Để tránh thảm họa tuyệt chủng đó, con người không được cao quá một giới hạn nào đó, và giới hạn chiều cao con người được quy định bằng độ lớn tương đối giữa các liên kết hóa học và vật lý của xương sọ đối với lực hấp dẫn của trái đất. Thêm nữa, cấu trúc của xương sọ lại là kết quả của các hằng số cơ bản khác (những con số được giới khoa học tìm ra để dùng vào việc tính toán đo lường... trong các lĩnh vực khoa học, chẳng hạn điện tích của điện tử ). Và giá trị của mười mấy hằng số cơ bản trong vũ trụ thì được xem là cố định tại thời điểm "big bang" (thuyết vũ trụ bùng nổ) khoảng 15 tỷ năm trước. Từ các giá trị đó, Matthews tính được rằng, chiều cao tối đa của con người chỉ vào khoảng 3 mét, dẫn đến độ cao của cái bàn ( phải phù hợp với độ cao của con người) thấp hơn độ cao cần thiết để cuốn sách rơi ngửa hay để mặt trét bơ miếng bánh mì không úp xuống đất. Nói một cách khoa học, mặt trét bơ của miếng bánh mì úp xuống đất vì vũ trụ "mong muốn" như vậy! Kết luận trên được đăng trên "Tạp Chí Vật lý Châu Âu" và thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng.

Người ta đề nghị Matthews giải thích thêm các thí dụ khác của định luật Murphy như sau:

Tại sao thời tiết thường xấu vào ngày nghỉ, còn xe thường bị "hư" trên đường tới một cuộc họp quan trọng? Có thể trả lời một cách dễ dàng đó chỉ là kết quả của "ký ức chọn lọc". Nhưng trong thí dụ này Matthews cũng thấy nhiều trường hợp khẳng định hiệu lực của định luật Murphy. Thí dụ điển hình là Quy luật bản đồ: "Nếu địa điểm bạn tìm có thể nằm ở những vị trí không thuận lợi trên bản đồ, nó sẽ nằm ở đó". Căn nguyên của quy luật là sự kết hợp lý thú giữa xác suất và ảo giác quang học. Hãy giả định bản đồ hình vuông, khi đó "vùng Murphy" gồm các phần nằm ở rìa và phía dưới bản đồ, nơi hệ thống đường sá dẫn tới chúng phần lớn là bất tiện. Hình học trực quan cho thấy, nếu độ rộng vùng Murphy chỉ bằng 1/10 độ rộng tấm bản đồ thì nó đã chiếm hơn phân nửa diện tích cả bản đồ. Như vậy, một điểm bất kỳ cũng có xác suất rơi vào vùng Murphy lớn hơn 50%. Ngoài ra, còn là ảo giác quang học: Cho dù vùng Murphy khá hẹp, ranh giới của nó được kẻ trên phần lớn tấm bản đồ, khiến ta tưởng nó chiếm một diện tích lớn.

Một thí dụ khác là Quy luật xếp hàng: "Hàng bên cạnh thường kết thúc trước". Tất nhiên, nếu bạn xếp sau một gia đình đông người đi mua sắm đồ cuối năm, sẽ chẳng ngạc nhiên nếu các hàng khác kết thúc trước. Nhưng nếu bạn đứng ở một hàng cùng độ dài và thành phần như các hàng khác thì sao? Bạn có thoát khỏi sức ám ảnh kỳ lạ của quy luật Murphy hay không? Rất đáng tiếc là không. Lấy trung bình thì mọi hàng đều kết thúc như nhau, nhưng các sự biến ngẫu nhiên luôn có thể xảy ra: máy tính tiền hỏng, người thu ngân bấm máy sai, có khách hàng muốn kiểm tra hóa đơn. Nhưng khi xếp hàng trong siêu thị, ta không quan tâm tới các giá trị trung bình, ta chỉ muốn kết thúc sớm. Và xác suất chọn đúng hàng để xếp là 1/N, với N là tổng số hàng trong siêu thị. Trong trường hợp này, thậm chí chỉ so sánh với hai hàng kế bên, cơ may của ta cũng chỉ là một phần ba. Nói cách khác, ta thường thua vì trong hai phần ba trường hợp, ta chọn phải hàng sai! Xác suất và lý thuyết tổ hợp giữ vai trò chìa khóa trong một quy luật Murphy khác: "Nếu tất có thể không cùng đôi, nó sẽ không cùng đôi". Nếu ban đầu bạn có 10 đôi vớ, sau một thời gian bạn mất một nửa, thì khả năng bạn có một ngăn kéo toàn vớ "lẽ đôi" nhiều gấp 4 lần khả năng bạn có hai chiếc "cùng đôi". Chính vì vậy, khó tìm được một đôi vớ hoàn chỉnh trong lúc vội đi làm là lẽ đương nhiên.

Lý thuyết xác suất cũng giải thích được Quy luật mang dù: "Mang dù khi có dự báo mưa khiến mưa ít xảy ra". Với khả năng dự báo thời tiết đạt tới độ chính xác 80%, dường như việc mang dù theo lời khuyên của nha khí tượng sẽ đúng 4 trong số 5 trường hợp. Thế nhưng, lập luận có vẻ chính xác này lại tỏ ra không thích hợp với vùng hiếm mưa. Ở những nơi đó, 80% các dự báo mưa lại có kết quả là trời không mưa. Vì thế mà có một câu chuyện vui về bà vợ của vị giám đốc nha khí tượng với chiếc áo mưa luôn luôn mới vì chẳng khi nào có dịp dùng : Bà mang áo mưa khi chồng bà báo mưa (mà trời lại nắng) và để áo mưa ở nhà mỗi khi trời mưa. Để quyết định có mang dù hay không, cần tính đến xác suất có mưa trong khoảng thời gian bạn đi đường (chẳng hạn 1 giờ đồng hồ). Nó có giá trị đủ nhỏ trên toàn thế giới. Thí dụ như xác suất mưa là 0,1 có nghĩa là khả năng bạn "không mắc mưa" lớn gấp 10 lần khả năng "mắc mưa". Trong trường hợp này, theo lý thuyết xác suất, ngay cả tỷ lệ dự báo mưa chính xác tới 80%, thì khả năng "sai lầm" của dự báo cũng nhiều gấp hai lần khả năng "đúng", khiến việc mang dù của bạn trở nên vô ích. Bản chất của vấn đề nằm ở chỗ, khả năng dự báo với độ chính xác cao cũng chưa đủ để tiên đoán các sự việc ít xảy ra.

Đại úy Murphy có thể không hài lòng vì xu hướng tầm thường hóa các nguyên lý rất có giá trị của ông trong các kỹ thuật đòi hỏi sự an toàn tối cao. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học cho rằng, các phiên bản "bình dân" của quy luật này không hề thiếu sức sống và tiện ích. Và bài học quan trọng nhất từ Định luật Murphy là các hiện tượng tầm thường chưa chắc đã có cách giải thích tầm thường.

LÝ LẠC LONG
(TTL/TCT/MAI/06)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.03.2006 06:53:49 bởi Lý Lạc Long >

Lý Lạc Long
  • Số bài : 55
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.06.2005
Định Mệnh, Duyên Số và Thời Vận - 19.03.2006 03:10:35
Định Mệnh, Duyên Số và Thời Vận

Tại sao có người đẹp, có người xấu? Tại sao có người yếu, kẻ mạnh? Tại sao có người giàu, có người nghèo? Tại sao có người luôn phải sống trong buồn khổ, có người lại luôn sung sướng và hạnh phúc? Tại sao có người hiền lành, thật thà, có người lại gian dối, xảo quyệt? Tại sao có người thông minh, có người lại tối dạ? ... Hàng muôn ngàn câu hỏi tại sao trong cuộc sống thực tế của thế nhân. Tùy theo trình độ kiến thức, vị trí, hoàn cảnh, mong ước, khát vọng .. v.v của mỗi cá nhân dẫn đến những câu hỏi "tại sao" khác nhau cho từng người. Nhưng một điều rất chắc chắn, là con người, về phương diện này hay phương diện khác, ít hay nhiều, ai cũng có những câu hỏi "tại sao" về những sự kiện xảy ra cho bản thân và xã hội chung quanh mình. Những câu hỏi không trả lời được, không giải đáp được thì dường như cách giải thích dễ nhất là "đổ thừa" cho định mệnh, cho duyên số, cho thời vận .

Suy nghĩ theo các nhà khoa học thì mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân hay lý do cụ thể của nó, những "sự kiện" xảy ra chưa giải thích được là vì kiến thức của con người vẫn chưa đủ để giải thích. Nói cách khác, là kiến thức của nhân loại vẫn còn giới hạn chưa đủ để giải thích tất cả những "hiện tượng" xảy ra trong đời sống của con người và thế giới chung quanh. Phật giáo cũng có quan niệm tương tự như vậy, theo luật nhân quả của đạo Phật thì : "Bất cứ điều gì xảy ra là do một hay nhiều nguyên nhân chứ không phải vì may mắn, vì cơ hội hay do định mệnh." Mọi việc phải có mối liên hệ giữa nhân và quả . Chẳng hạn, bị bệnh là có nhiều nguyên nhân cụ thể. Người bị nhiễm vi trùng và cơ thể của họ phải yếu đi vì chính vi trùng đó đã gây ra bệnh. Có một mối quan hệ xác định giữa nguyên nhân (vi trùng và cơ thể yếu) và kết quả (bệnh) vì chúng ta biết rằng vi trùng đã tấn công vào các tế bào và gây ra bệnh. Sự liên hệ giữa các hiện tượng xảy ra hoặc nguyên nhân và kết quả của tất cả hiện tượng là một phạm trù rất phức tạp và bao quát. Bài viết này chỉ đề cập một cách khái quát đến những quan niệm thông thường về định mệnh, duyên số, thời vận và những phương cách giải quyết thực tế trong khả năng của một người bình thường, như hầu hết chúng ta, có thể làm được trong đời sống hàng ngày.

Quan niệm, mỗi người đều có "số trời định sẵn" và không thể đổi khác được, tiêu biểu như của cụ Tố Như Nguyễn Du đã viết trong "Đoạn Trường Tân Thanh" : "Bắt phong trần phải phong trần; Cho thanh cao mới được phần thanh cao". Số mệnh của Thúy Kiều do "thiên định" là phải như vậy. Nhưng tại sao số mệnh của Thúy Kiều phải như thế? Ai tạo ra hay đặt để số mệnh cho Thuý Kiều? Do tiền thân nghiệp chướng? Hay chỉ do "tình cờ" và có thể xảy đến cho bất cứ cô gái nào khác? Câu trả lời nào có lẽ cũng ngoài tầm hiểu biết "chắc chắn" của đa số chúng ta. Trường hợp của Thúy Kiều có thể chỉ là một câu chuyện văn chương, một phương tiện để diễn tả, chuyên chở quan điểm riêng của Nguyễn Du. Nhưng trong đời sống thực tế thì cũng rất nhiều những trường hợp tương tự như của Thúy Kiều, hoặc thương tâm hơn nữa của những nàng Kiều ở mọi thời đại . Dĩ nhiên, làm thân con gái, chắc chắn là không có ai muốn lâm vào cái cảnh túng quẩn đến nổi phải "bán thân". Chắc chắn là chúng ta, ai cũng muốn thành công và có một cuộc sống sung túc. Nhưng có người thành công, đạt được mục đích mong muốn một cách rất thuận lợi và dễ dàng, có người "làm hết sức" vẫn không toại ý và luôn gặp những khó khăn trở ngại ngoài ý muốn. Dường như giàu, nghèo, sang, hèn cũng đều do số trời. Chẳng hạn như việc trúng số "độc đắc", rất khó tìm một lý do nào khác để giải thích cho hợp lý hơn là "vận may" của người trúng số. Người Á đông tin rằng : "đại phú do thiên, tiểu phú do cần". Chữ "may mắn" (luck) trong tự điển tiếng Anh được định nghĩa như: " may mắn là tin tưởng rằng bất cứ điều gì xảy ra, tốt hoặc xấu, đến với một người trong những diễn biến của các sự việc là do cơ hội, số mệnh hay vận may mà có" ( luck as believing that whatever happens, either good or bad, to a person in the course of events is due to chance, fate or fortune ).

Trong lãnh vực tình cảm , người Á đông tin tưởng có duyên nợ mới thành vợ chồng . Có duyên thì dù xa vạn dặm cũng có thể gặp gỡ, còn không duyên thì có ở gần cũng không gần gũi nhau về tình cảm, luyến ái . "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ; Vô duyên đối diện bất tương phùng". Hoặc như câu ca dao : " Phải duyên thì gắn như keo; Trái duyên đuểnh đoảng như kèo đục vênh ". Trong đời sống tình cảm, có thể nói chữ "duyên" có một vai trò quan trọng không những trong tình yêu mà còn trong nhiều quan hệ tình cảm khác nữa như tri kỹ, tri âm, bạn bè, quen biết ... Mặc dù duyên số là quan trọng, nhưng khi có tình cảm với ai đó, phải tận dụng cơ hội, phải tích cực bày tỏ và tranh thủ "chiếm" tình cảm của đối tượng chứ không nên phó mặc cho chữ duyên và thản nhiên ngồi đợi: "nếu có duyên thì sẽ tới". Vì duyên tới thì duyên cũng có thể đi. Đặc biệt, trong đời sống lứa đôi, cả hai phải nỗ lực để chứng tỏ, ngoài " ý trời" còn là "ý người" nữa. Nói cách khác, cả hai người phải làm cho nhau cảm thấy, đây là một sự lựa chọn nghiêm túc và đúng đắn chứ không phải chỉ do "ý trời" không thôi.

Xin gởi đến các bạn vài mẩu chuyện về "định mệnh" để chúng ta cùng xem và suy gẩm.

Có một nhà tu sĩ Ấn Độ tên là Narada trên một chuyến đi hành hương ở đền thần Vishnu. Trên đường đi hành hương, ông được đón tiếp và tạm trú qua đêm trong một chòi tranh của một cặp vợ chồng hiếm muộn. Trước khi ông tiếp tục lên đường, người chồng nói: "Nhân dịp Ngài đang đi thờ phượng thần Vishnu. Ngài hãy xin Thần cho tôi một đứa con." Narada đã cầu xin với Thần Vishnu như sau: " Xin Thần thương xót vợ chồng đó và ban cho họ một đứa con". Thần Vishnu trả lời, với một giọng chắc nịch: "Định mệnh đã an bài, đôi vợ chồng đó không có con được."
Năm năm sau, Narada đi hành hương nữa và cũng được đôi vợ chồng đó đón tiếp cho trú ngụ. Lần nầy, có hai đứa trẻ nhỏ đang chơi đùa ở trước chòi tranh. Narada hỏi: "Con ai vậy?" Người chồng trả lời: "Con tôi đấy." Narada rất ngạc nhiên vì trái ngược với lời Thần Vishnu nói với ông. Người chồng nói tiếp: "Cách đây năm năm, sau khi ngài rời khỏi chúng tôi, một người hành khất đã đến ngôi làng chúng tôi. Chúng tôi cũng đã cho trọ một đêm và ngày hôm sau, trước khi ra đi, ông đã chúc phúc cho chúng tôi. Đây là kết quả của sự chúc phúc của vị ấy."
Khi đến đền thờ thần Vishnu, Narada đã la lớn ngay từ ngoài cổng: "Phải chăng Ngài đã bảo tôi là định mệnh đã an bài cho vợ chồng đó không có con sao? Nay họ có hai mụn con!" Thần Vishnu nghe câu nói đó đã cười lớn tiếng và nói: "Điều đó chắc chắn phải là việc làm của một vị thánh. Các thánh có năng lực cải đổi số mệnh."

Trong một trận chiến, Nabunaga, một đại tướng Nhật Bản quyết định tấn công địch quân. Về quân số, ông chỉ có "một chọi mười" so với đối phương. Dù Nabunaga tin chắc sẽ thắng, nhưng binh sĩ của ông rất lo sợ. Trên đường đi đến chiến trường, họ đã dừng lại ở một đền thờ Thần Giáo. Sau khi đã cầu nguyện trong đền thờ, Nabunaga đi ra và nói: "Bây giờ, tôi tung một đồng tiền lên. Nếu mặt "ngửa" chúng ta sẽ thắng, nếu mặt "sấp", chúng ta sẽ thua". Ông tung đồng tiền lên và kết quả "ngửa". Các binh sĩ nức lòng chiến đấu nên họ đã thắng địch quân. Ngày hôm sau, một sĩ quan phụ tá nói với Nabunaga: "Không ai có thể cải đổi Số Mệnh được.” Nabunaga trả lời: "Đúng thế!” và đưa cho viên sĩ quan phụ tá xem đồng tiền mà cả hai mặt đều "ngửa".

Dựa vào hai câu chuyện trên thì Ai tạo ra định mệnh? Định mệnh có thể "sửa đổi" được không? Với kiến thức giới hạn của một người bình thường, như đa số chúng ta, cũng khó mà trả lời một cách xác quyết được. Nhưng chắc chắn một điều là "khát vọng có con" của cặp vợ chồng hiếm muộn và "niềm tin tất thắng" của quân Nhật đã đóng một vai trò rất lớn về "kết quả" như đã xảy ra ở hai câu chuyện kể trên.

Lẽ dĩ nhiên, trong cuộc sống chúng ta sẽ luôn có rất nhiều câu hỏi “tại sao” chưa trả lời được. Nhưng có lẽ cách đơn giản và hiệu quả nhất để đối diện với định mệnh là làm hết sức mình trước và chấp nhận định mệnh - "tận nhân lực mới tri thiên mênh"- Nói đến vận may và rủi thì trong cuộc sống hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó mà biết được, nên khi được phước không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến, khi gặp điều họa cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, chúng ta nên bắt chước Tái ông mà giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống như trong câu chuyện ngụ ngôn : "Tái ông thất mã, an tri họa phúc" (ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc.)

Chúc tất cả một cuối tuần vui vẻ và như ý .

Lý Lạc Long
(TTL/TCT/MAI/06)

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 70 bài trong đề mục