Lý Lạc Long
-
Số bài
:
55
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 29.06.2005
|
Một Chút Suy Tư Về Thân Phận Con Người (Con Người: Mi Là Ai?)
-
19.04.2007 19:25:33
Một Chút Suy Tư Về Thân Phận Con Người (Con Người: Mi Là Ai?) Mặc dù ai cũng thấy và nhìn nhận là con người đã và đang trên đường tiến hóa nhưng hành trình tiến hóa của con người có định hướng chăng? Nếu có thì con người sẽ đi về đâu? Cái viễn đích này quá xa xôi và chắc cũng ít người có khả năng nhìn thấy được một cách chính xác nên tạm thời chúng ta cứ để đó "xem". Về cơ bản thì con người cũng là một động vật, nhưng là một động vật thượng đẳng biết tư duy, theo quan niệm Đông phương con người là "linh ư vạn vật", là "thiên địa chi tâm". Con người là một loài vật có tính xã hội nên trong cuộc sống cộng sinh, biết thích ứng với nhau, biết chế ngự bản năng cầm thú để tiến hóa được thành con người văn minh như ngày nay. Nhưng con người có thực sự đã thuần hóa được cái bản năng thú vật man rợ tiềm ẩn đâu đó trong con người và luôn chực chờ nhe răng đe dọa chúng ta. Cởi bỏ cái lớp áo văn minh vật chất thì con người của hôm nay so với con người của hôm qua và ngàn xưa dường như không có gì khác nhau mấy. Hình dạng và thể chất có thể thanh tú và mỹ lệ hơn, trí óc có thể phát triển và hiểu biết hơn ... so với con người thuở ban sơ, nhưng vẫn còn đó y nguyên nỗi niềm khoắc khoải băn khoăn cho thân phận:"Ta là ai ? Ta đến từ đâu? Ta đi về đâu?" Như Trần Tử Ngang, một thi nhân vào thời nhà Đường đã viết những chua xót ngậm ngùi về thân phận của con người : Tiền bất kiến cổ nhân Hậu bất kiến lai giả Niệm thiên địa chi du du Độc sảng nhiên nhi lệ hạ." ”Hỡi người xưa qua rồi Hỡi người sau chưa tới Nhìn trời đất vô cùng Mình ta tuôn giòng lệ.” (Tuệ Chương dịch) “Nhìn phía trước người xưa vắng vẻ, Ngoảnh về sau quạnh quẽ người sau. Ngẫm hay trời đất dài lâu, Mình ta rơi giọt lệ sầu chứa chan.” (Lê Anh Minh dịch:) Hay đã ngao ngán như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) ”Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy, Kiếp phù sinh trông thấy mà đau; Trăm năm còn có gì đâu, Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì." Không phải chỉ có Trần Tử Ngang hay Ôn Như Hầu mới khoắc khoải, băn khoăn về thân phận con người, mà từ ngàn xưa đã có rất nhiều nhà hiền triết, thức giả khác từ đông sang tây đã phải suy tư về "thân phận của con người"... và thậm chí nhiều vị đã "chán sống" và tự kết liễu cuộc đời họ (như Hemingway, Leo Tolstoy, Lý Bạch ...). Và trong chúng ta thì chắc ai cũng đã từng có những giây phút chán nản với cuộc sống và tự hỏi : Ta là ai giữa những thay đổi bể dâu của cuộc đời này? Có rất nhiều "hệ thống tư tưởng", quan niệm về con người, và hình như cho đến nay vẫn chưa có "hệ thống tư tưởng" nào được sự đồng thuận tuyệt đối. Ngày xưa, có một lúc, Nho giáo đã là nền tảng cho các xã hội Đông phương như Trung Hoa, Việt Nam... Nhưng hiện nay, theo đa số, thì "cách sống" theo quan niệm của Nho giáo đã lỗi thời, không thích ứng được với cuộc sống hiện đại của xã hội con người nữa. Mặc dù là vậy, nhưng chúng ta cứ thử tìm hiểu xem cái nhìn và quan niệm cơ bản của Nho giáo về con người và xã hội loài người như thế nào? Cách đây khoảng 2500 năm, Khổng Tử đã nói: "Nhân chi sơ tính bổn thiện". Và con người trở thành xấu hay tốt là do ngoại cảnh chi phối. Nói cách khác là "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng", một người, ở gần những người tốt sẽ trở thành người tốt, ở gần người xấu sẽ trở thành người xấu. Trong xã hội, theo quan niệm Khổng Tử, có những người sống thuần bằng bản năng như các loài cầm thú, đây là những con người hạ cấp, phàm phu tục tử xét về phương diện đạo đức và phẩm cách. Nho giáo "gọi chung" những người này là "tiểu nhân" dù cho họ có chiếm giữ địa vị cao, có quyền thế và giàu có trong xã hội đi chăng nữa. Nếu tiểu nhân là người thô lậu , sống thuần vào bản năng thì ngược lại "quân tử" là người tiến hóa, biết khắc phục bản thân, hiểu đạo lý, hiểu mệnh trời và hiểu định mệnh con người là gì. Những đặc tính của tiểu nhân và quân tử tương phản rõ rệt, nhưng tiểu nhân và quân tử không phải ở vị trí đối lập, không phải là hai vị thế cực đoan mà quân tử là giai đoạn tiến hóa tới của tiểu nhân . Không có tiểu nhân thì không có quân tử và tương đồng giữa họ là họ đều là con người và đều có cái "thiên tính" tốt lành trong người . Theo Nho giáo, "Con người, ai cũng giống nhau vì có bản tính lành, nhưng do tập nhiễm thói xấu nên họ mới khác xa nhau" ( Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn -Tam Tự Kinh-) và "Cái khác biệt giữa con người và cầm thú thì không xa mấy. Kẻ thứ dân thì bỏ mất sự sai biệt ấy, còn người quân tử thì biết bảo tồn nó" (Nhân chi sở dĩ dị vu cầm thú giả kỷ hi, thứ dân khử chi, quân tử tồn chi -Mạnh Tử-). Rất rõ ràng là giữa con người với cầm thú phải có sự phân định khác biệt, nhưng kẻ tiểu nhân đã bỏ mất sự sai biệt ấy cho nên vẫn còn đồng hóa mình với cầm thú, và cư xử theo bản năng thấp kém của cầm thú. Người quân tử thì biết bảo tồn sự sai biệt ấy, khắc phục bản năng thú cầm để vượt lên trên loài cầm thú . Chẳng hạn bản năng ăn uống, sự đói và khát có thể làm hại tâm (đói ăn vụng, túng làm càn), nhưng con người có thể ngăn chặn và khống chế mối nguy hại đó. Thà đói khát chứ không làm điều sai quấy. Nếu người ta có thể ngăn cản mối hại của đói khát đừng hại lây đến lòng dạ mình, như vậy dẫu mình chẳng bằng người nhưng lòng mình chẳng lo buồn" (Nhân năng vô dĩ cơ khát chi hại vi tâm hại, tắc bất cập nhân, bất vi ưu hỹ- Mạnh Tử-). Người quân tử, theo Nho giáo, là người biết mục đích cao cả của kiếp người, biết cái "thiên mệnh" mà trời trao cho con người, nghĩa là biết cái viễn đích (mục đích xa) tối hậu của nhân sinh. Người quân tử có thể tóm ở những chữ : Nhân, Trí, Dũng, Lễ, Nghĩa, Trung, Tín, Thành, Hiếu Đễ, Khoan Thứ, Tự Cường, Hiếu học ... - Vì Nhân (bác ái) nên lòng yêu người tỏa khắp, mong muốn người khác cũng được hạnh phúc. Vì yêu thương nhân loại, nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha. Không nhớ lỗi lầm người khác, mà chỉ chú trọng giáo hóa họ nên người. - Vì Trí nên biết khôn ngoan suy xét điều phải điều trái, biết minh triết bảo thân trong cảnh nguy nan, biết phân biệt, kẻ xấu người tốt trong vấn đề xử lý tiếp cận. Nếu lỡ giao du với kẻ xấu, thì phải tuyệt giao với họ nhưng không nói xấu cho họ. - Vì Dũng nên không biết sợ sệt là gì. Thấy việc nghĩa bèn ra tay hành động. Nếu đã hành động thì phải thiết thực chứ không chỉ ở lời nói suông. - Vì Lễ nên giữ được hòa khí, trong nhà chẳng ai ghét, trong xã hội chẳng ai oán mình. Giữ được lễ nên trong việc giao tiếp với người tránh được sỗ sàng, dù giao du đã lâu. Trong việc lễ, quý nhất là ở lòng thành chứ không phải hình thức xa hoa lòe loẹt. Khắc kỷ, phục lễ cũng gọi là nhân vậy. Phục lễ nên tự chủ, không tranh chấp với ai, tuy hợp quần với người nhưng không kéo bè kết đảng. - Vì Nghĩa nên luôn giữ sự công chánh, chẳng tranh giành với ai. Mỗi khi thấy món lợi thì nghĩ đến điều nghĩa mà xét có nên thu nhận chăng? Nghĩa là gì ? Chẳng qua là công ích và lẽ phải, cho nên quân tử không từ nan làm việc gì dù lớn dù nhỏ, miễn là việc ấy hợp nghĩa. Điều phi nghĩa đã đành không phạm, nhưng chính trong ý nghĩ cũng không được tơ tưởng đến nó. Người quân tử dù nghèo, vẫn an vui cảnh nghèo, không vì cùng khốn mà làm điều phi nghĩa. Đã nghèo nhưng không oán than. Đối với người cầm quyền, nếu họ sai lạc (làm điều phi nghĩa) thì người quân tử dũng cảm can gián không sợ mích lòng, thà vậy còn hơn là xu phụ dối gạt họ. - Vì Trung nên giao du với bằng hữu thì hết lòng, làm việc cho người thì hết dạ. Vì trung nên làm việc cho ai hoặc phụng sự ai thì hết lòng, không phản bội. Nhưng cái trung đó không phải là lòng trung máy móc và thiển cận (ngu trung). Bậc quân tử ngay cả lúc phụng sự vua đâu phải vì cá nhân nhà vua, mà chính vì lẽ đạo. Nếu vua mà vô đạo thì trung làm gì. - Vì Tín mà hành xử. Tín là tin mình, tin người. Nhờ chữ tín đó mà thành người. Vì tự tin vào mình nên dù ai không biết tài đức của mình, mình cũng không buồn không oán. Tự tin vào tài đức của mình, càng ngày càng trau dồi, để một mai kinh bang tế thế, bấy giờ người biết mình cũng không muộn. Vì có tin nhau nên việc mới thành tựu, người mà không tín thì không biết ra thế nào. - Vì Thành, nhờ lòng thành ấy mà người khác mới tin tưởng mình. Những lễ lạc cũng chủ yếu là ở lòng thành chứ không phải hình thức xa hoa lòe loẹt bề ngoài. - Vì Hiếu Đễ, Hiếu là cái đạo đối với cha mẹ. Đễ là cái đạo đối với anh chị em. Đó là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, thờ cha mẹ lúc chết cũng như sống, lúc cha mẹ mất mà tưởng như hãy còn, ấy là chí hiếu vậy. Cái Đạo đối với anh chị em là mỗi người phải ăn ở đúng phận mình, anh ra anh, em ra em. Đễ là gì ? Chẳng qua là đạo phụng sự huynh trưởng. Theo Nho giáo, hiếu đễ là đầu mối của lòng nhân (bác ái) nếu ta chẳng yêu cha mẹ ta, chẳng tôn kính anh em ta mà bảo rằng yêu mến tôn kính người và cha mẹ người khác, đó là lừa bịp. - Vì Khoan Thứ, là lòng bao dung quảng đại của bậc quân tử. Bởi lẽ tiểu nhân là "quân tử chưa thành và sẽ thành", cho nên người quân tử chú trọng giáo hóa tha nhân hơn là ghét bỏ họ. Quân tử không nhớ lỗi lầm người khác. Con người phạm điều ác, bởi lẽ họ không nhận ra cái ranh giới phân định giữa con người và cầm thú. Người quân tử không những nhìn ra cái ranh giới ấy mà còn giáo hóa tha nhân để họ phân biệt được cái ranh giới ấy và vươn lên cao hơn loài cầm thú bằng cách khắc phục bản năng tự nhiên. Quân tử khoan thứ cho người, nhưng không khoan thứ cho mình. Lúc nào cũng phải quán xét để tu thân, nếu mình có lỗi phải can đảm cải hối. Việc tu thân đó luôn luôn bền bĩ gắng công, không biết mệt mỏi. - Vì Hiếu Học, người muốn tu thân thì phải hiếu học. Ham học hỏi nghiên cứu thì sẽ khôn ngoan hiểu biết. Học thì phải thực hành. Cái việc học tập của người quân tử cũng giống như công việc của người thợ làm ngọc, luôn luôn mài dũa trau chuốt mới có ngọc quí. Cái học của người quân tử là đem ra giúp dân giúp nước, kinh bang tế thế. Cho nên khi người quân tử cầm quyền thì tôn chỉ phải là sửa đổi con người và sửa đổi xã hội. Sửa đổi con người để xã hội hoàn thiện hơn, đồng thời sửa đổi xã hội để con nguời được hạnh phúc hơn. Đó là hai công việc song hành và phải được tôn trọng như nhau. Cho nên bậc cai trị phải luôn tu thân mới đủ tư cách dẫn đạo dân chúng. Nhờ tu thân mà tâm hồn trong sạch, tác phong hợp lễ, đạo đức tràn đầy. Nhà cai trị lẫn nhân dân đều phải xem việc tu thân làm gốc. Người ta rất dễ dàng nhận ra đâu là tiểu nhân, đâu là quân tử. Người quân tử thì chú trọng vào nghĩa, kẻ tiểu nhân chú trọng vào lợi. Tiểu nhân chỉ lo trau chuốt bề ngoài, trọng hư danh, lời lẽ xảo trá. Sở dĩ như vậy vì họ mong dối gạt người. Họ sợ người khác phê phán nên phải tạo cái vỏ bọc đó để che đậy lòng dạ xấu xa. Còn quân tử hiểu giá trị của mình (dù ai không biết, không hiểu mình cũng không sao) nên tự trông cậy vào chính mình. Tiểu nhân thường kiêu căng hợm hĩnh nhưng trong lòng không bao giờ thư thái, còn quân tử lòng dạ thư thái mà không kiêu mạn. Tiểu nhân thích a dua bè đảng cho nên dẫu chung đụng với mọi người nhưng luôn tạo mối bất hòa. Quân tử thì ngược lại, dẫu chung đụng với nhiều người nhiều tầng lớp nhưng luôn giữ hòa khí. Quân tử là người nhân nghĩa nên lúc nào cũng cảm thấy an tâm thư thái, tiểu nhân thì ngược lại. Quân tử làm cho người được tốt đẹp, tiểu nhân chỉ mong gieo điều ác cho người. Tiểu nhân mà nắm vận mệnh quốc gia, thì là đại họa. Quân tử có hoài bão cao đẹp, tiểu nhân thì không. Về mặt xã hội loài người, theo Nho giáo thì bậc cai trị phải có lòng nhân, tức là phải yêu thương dân, vui cái vui của dân và lo cái lo của dân. Thực ra là phải lo trước cái lo của dân và vui sau cái vui của dân. Bậc cai trị phải lấy dân làm gốc và phải tâm niệm rằng: quý nhất là dân, sau đó là quốc gia, và thấp nhất là nguời cai trị (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Cho nên người cai trị phải mưu cầu hạnh phúc cho dân. Muốn vậy, phải biết trọng hiền tài, vời họ ra giúp dân giúp nước. Nếu không tin vào bậc hiền tài thì nước trống không, nếu không có lễ nghĩa thì nước sẽ loạn. Nhờ chính sách chiêu hiền đãi sĩ, kẻ sĩ trong nước không bỏ mà đi, kẻ hiền tài ở xa xôi hâm mộ mà quy phục, như vậy quốc gia mới mau phú cường, dân mới chóng hạnh phúc. Đã dùng người hiền tài thì phải trao thực quyền cho họ, đừng khiến cho họ chỉ có hư vị. Và thận trọng đừng chọn lầm mà khiến kẻ tiểu nhân ti tiện vượt lên trên người tôn quí (quân tử). Một chính quyền tốt phải áp dụng nhân trị (dùng nhân đức để thu phục người dân), nếu dùng bạo lực cường quyền thì dân bất đắc dĩ phải tuân theo nhưng lòng dân chẳng phục. Như vậy Nho giáo quan niệm rất rõ ràng về con người xã hội. Mỗi cá nhân chính là phần tử bất khả phân của xã hội. Cho nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm với xã hội. Rõ ràng cuộc sống con người đâu phải là rỗng tuếch vô vị, một mặt con người phải tự sửa đổi mình (tu thân). Chính sự tự sửa đổi đó đưa con người đến một giá trị tôn quí siêu việt hơn cầm thú. Và chính sự sửa đổi đó là nguồn gốc của văn minh. Nhưng mặt khác, con người phải sửa đổi xã hội, bằng cách sửa đổi lẫn nhau, sao cho những con người chỉ biết sống bằng bản năng (tiểu nhân) tiến hóa lên con người văn minh (quân tử). Nếu được vậy, thiên hạ thái bình. Trở lại vấn đề đã nêu ở trên: Sự tiến hóa của con người rõ ràng trước mắt là làm cho xã hội hoàn thiện hơn, hạnh phúc hơn. Nhưng sự tiến hóa ấy còn đi về đâu nữa ? Sự tiến hóa ấy rõ ràng là có định hướng vậy cái viễn đích xa xôi tối hậu ấy là gì? Theo quan niệm của Nho giáo, con người không chỉ là con người xã hội (tiểu nhân và quân tử) mà còn là con người siêu xuất xã hội. Con người siêu xuất ấy gọi là "thánh nhân". Thánh nhân cũng là con người như chúng ta, nhưng thánh nhân đã vượt ra khỏi đồng loại, siêu xuất trên xã hội người đời, và là kẻ siêu quần bạt tụy. Thánh nhân là người đạt đạo, là Trời được nhân cách hóa , tức là đã Phối Thiên (phối hợp với trời ). Như vậy trong cái nhìn của Nho giáo, con người không phải đơn thuần là con vật hai chân. Cái sinh vật ấy tiềm ẩn trong lòng thiên tánh cao đẹp, toàn thiện, toàn mỹ. Nếu cái thiên tánh ấy chưa được nhận chân, con người vẫn còn giống với cầm thú (tiểu nhân). Nhận ra cái thiên tánh ấy và tu tập để nâng cao phẩm cách con người, để thành con người tiến hóa thì gọi là quân tử. Nhưng định mệnh con người không dừng lại ở chỗ vị trí quân tử (dù rằng vô cùng gian nan khó nhọc mới đạt được vị trí này) mà còn tiến hóa tới cái viễn đích là phối thiên và đó là ngôi vị thánh nhân. Thành quân tử đã khó, thành thánh nhân lại càng khó hơn. Theo quan niệm của Mạnh Tử, khoảng 500 năm mới có một thánh nhân ra đời. Thôi thì chúng ta hãy tạm gác lại quan niệm về con người thánh nhân này, mà hãy nhìn lại con người xã hội theo Nho giáo. Với phương Tây thì ảnh hưởng của Nho giáo không có gì đáng nói lắm, có thể nói là "xa lạ". Chỉ một số ít học giả Tây phương nghiên cứu về Nho giáo và vài học giả điển hình như James R. Wave đã nhận xét : "Việc nghiên cứu kỹ lưỡng Luận Ngữ có thể giải quyết vấn đề đạo đức sâu thẳm của người Tây phương. Đọc sách về Nho giáo có thể giúp ta xác định lại những niềm tin tôn giáo truyền thống và có thể giúp ta nhận thức lại giá trị tình cảm và lý tưởng con người." Tôi không phải nho gia và kiến thức về Nho giáo rất là hạn hẹp. Nhưng là con người thì có lẽ ai cũng có đôi lúc băn khoăn khoắc khoải về "thân phận và định mệnh của con người", với cái câu hỏi cũ rích từ ngàn xưa: "Ta là Ai? Ta đến từ đâu? Ta đi về đâu?" Nói cách khác là tôi chỉ đọc "lung tung" với mục đích tìm hiểu và tìm "trả lời" cho riêng bản thân tôi và ghi chép lại những lời dạy của cổ nhân và những nhận xét thô thiển của mình để chia xẻ với đọc giả. Cảm nhận của tôi khi đọc những tiêu chuẩn để trở thành "con người quân tử" của Nho giáo thì quả thật "quân tử" đúng là cái mẫu một con người "hạnh phúc, văn minh, lịch sự, toàn thiện, toàn mỹ" dù là trong xã hội hiện đại của con người như ngày nay, " một con người đúng thật là NGƯỜI". Và con người này, cách đây hơn 2500, đã được Khổng Tử diễn tả và dạy cách tu tập để trở thành. Nhưng nhìn vào thực tế, thì mẫu người quân tử này của Nho giáo hình như còn rất hiếm và có thể nói là gần giống như một động vật quý trên đường tuyệt chủng trong xã hội hiện đại của con người ngày nay. Tại sao lại như vậy? Nếu quan niệm "nhân chi sơ, tính bổn thiện" và con người là "linh ư vạn vật", là "thiên địa chi tâm" là đúng thì đa số con người chắc ai cũng sẽ ao ước và muốn trở thành " người quân tử". Bỏ hay loại các xã hội Tây phương và các xã hội mà Nho giáo không có ảnh hưởng ra. Chúng ta cứ nhìn vào xã hội của Trung Hoa và Việt Nam nơi mà Nho giáo đã có ảnh hưởng sâu đậm từ nghìn năm qua... Đáng lẽ trong hai xã hội này, theo lý lẽ thông thường thì qua một thời gian mấy ngàn năm, số lượng con người "quân tử" phải tăng thêm lên chứ tại sao lại giảm và có thể đang trên đường biến mất. Hãy tưởng tượng là chỉ 1/10 dân số (TQ có hơn 1 tỉ người và VN có hơn 80 triệu) của hai nước này đạt đến trình độ "quân tử" thì chắc xã hội Trung Hoa và Việt Nam đã là những xã hội con người "mẫu mực" của cộng đồng thế giới. Chủ thuyết Cộng sản và xã hội Cộng sản sẽ không có cơ hội hình thành (chúng ta không cần đi sâu vào lý thuyết hay chi tiết, cứ căn cứ vào thực tế của xã hội như đang thấy ở trước mặt. Đã là người Trung Hoa và Việt Nam thì chắc không ai lạ gì về giá trị của con người trong xã hội Cộng sản ở những nước này (- đấu tố cha mẹ, phản bội bạn bè, mưu mô, gian dối, xảo trá, bè đảng, vây cánh... lừa bịp, gạt gẫm nhau .... vì quyền lợi riêng tư hay của một tập thể nhỏ). Ranh giới giữa con người và cầm thú không còn rõ rệt, và nếu so sánh thì con người có thể còn tệ hơn cầm thú trên một vài phương diện nữa. Dã thú "giết" vì nhu cầu tối cần thiết để "sinh tồn" và hiếm có loài vật nào giết đồng chủng để sinh tồn. Xét về phương diện này, căn cứ vào những sự kiện thực tế và lịch sử, thì con người Cộng sản còn thua cả các loài cầm thú. Ở Việt Nam chúng ta có thể nhìn vào những sự kiện lịch sử như: Cuộc cải cách ruộng đất, đánh tư sản, trại cải tạo, kinh tế mới , lùa dân ra biển ("đăng ký" vượt biên) và bây giờ thì "bán dân" ra xứ người làm nô lệ ... Chưa kể đến những cuộc thanh toán khốc liệt trong nội bộ đang được bưng bít . Tôi không có thắc mắc gì về phẩm chất của người quân tử theo quan niệm Nho giáo mà cái thắc mắc chính của tôi là những người "quân tử" của Nho giáo của thời đại này đang ở đâu? Và không lẽ mẫu người "quân tử" của Nho giáo chỉ có thể có trên lý thuyết mà thôi sao? Vì bằng chứng hiển nhiên trước mặt là trong hai xã hội TH & VN này, con người và xã hội con người đang đi ngược dòng tiến hóa của con người. Thay vì tiến đến con người tốt hơn con người ngày hôm qua ... thì những người Cộng Sản đang hướng dẫn con người quay ngược trở lại với bản năng cầm thú trong con người. Và gần 1/3 nhân loại ( với ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo) đang cúi đầu khuất phục "nhắm mắt bịt tai" đi theo sự hướng dẫn dù bằng miếng ăn nhỏ, lợi lộc lớn, hay vũ lực... thì cũng là một bằng chứng hùng hồn là số lượng "con người quân tử" rất ít hoặc đã biến mất trong xã hội Cộng sản. Tại sao lại như vậy? Vì tiêu chuẩn quân tử quá cao và đại đa số con người không có khả năng tu tập để trở thành quân tử? Hoặc con người vốn "Nhân chi sơ tính bổn Ác"? Hoặc tại "mệnh Trời" ... và Trời muốn trừng phạt dân tộc Trung Hoa và Việt Nam ? Xứ lạ, ngoài trời tuyết đang rơi, vẫn còn tự hỏi: "Tôi là Ai? Tôi đến từ đâu? Tôi đi về đâu?" Và đang tự an ủi mình: "Tôi ơi, đừng tuyệt vọng !". LÝ LẠC LONG (22/11/05) Ghi chú : Phần luận bàn về “Con người, Tiểu nhân, Quân tử và Thánh nhân” theo quan niệm Nho giáo một phần lớn được tham khảo và trích lại từ bài viết “ Con người trong cái nhìn của Nho giáo” của tác giả Lê Anh Minh làm cơ sở để diễn đạt thêm chút suy tư của tôi về con người.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.04.2007 21:57:25 bởi Lý Lạc Long >
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
|