Đọc kỹ hướng dẫn trước khi dùng...tại sao phải làm thế?
Hiện nay trên các phương tiện thông tin đại chúng , khi quảng cáo thuốc điều trị cho các bệnh nhân người ta thường khuyến cáo " Hãy đọc kỹ hướng dẫn trước khi sử dụng ". Không ít người thắc mắc tại sao phải làm thế , trước khi kê đơn chẳng phải Bác Sỹ đã hướng dẫn rồi sao? và đọc để làm gi? Nhân tiện với câu hỏi của một người bạn tôi xin phép đưa ra đây vài điều cần thiết phải đọc kỹ hướng dẫn trước khi sử dụng thuốc nhằm tránh dùng sai gây nên hậu quả đáng tiếc.! Thuốc là sản phẩm đặc biệt đòi hỏi phải sử dụng đúng và người dùng chỉ có thể sử dụng đúng khi có những hiểu biết, những thông tin cơ bản về từng loại thuốc. Thông tin về thuốc quan trọng đến nỗi có một số nhà khoa học đã cho rằng "Thuốc chính là dược chất cộng với thông tin" (có thể viết thành công thức: thuốc = dược chất + thông tin). Nếu thuốc đến tay người dùng mà người đó hoàn toàn mù tịt, chẳng biết một chút gì về nó thì đó không kể là thuốc nữa, có nghĩa là không nên dùng. Ta có thể thu nhận thông tin về thuốc thông qua đơn thuốc của bác sĩ điều trị và lời dặn dò của người dược sĩ hướng dẫn sử dụng, nhưng sẽ đầy đủ hơn khi đọc kỹ tờ hướng dẫn sử dụng thuốc.
Tờ hướng dẫn sử dụng thuốc nếu ghi đầy đủ các đề mục sẽ rất dài, chi chít các chữ. Một số tờ chỉ ghi đơn giản và vắn tắt. Ðối với người dùng thuốc, cần đọc kỹ các phần sau:
- Thành phần: Ghi tên hoạt chất và các tá dược. Thí dụ thuốc có tên biệt dược là Zentel, trong thành phần ghi hoạt chất chính là albendazole, là thuốc trị giun sán và khá nhiều tá dược để tạo thành thuốc viên nén.
Ta cần biết tên hoạt chất vì đây chính là tên thuốc dùng cho việc điều trị. Có nhiều cụ cao tuổi tự ý dùng nhiều loại biệt dược khác nhau cùng lúc, tưởng là các loại thuốc khác nhau, nhưng thực chất chúng lại chứa cùng một loại hoạt chất, do đó có thể dẫn đến ngộ độc vì quá liều.
- Chỉ định: Là phần ghi những trường hợp nào cần dùng thuốc. Có thể ghi trường hợp bệnh (điều trị cơn cao huyết áp), hoặc ghi trị tác nhân bệnh (trị giun đũa, giun kim, giun móc), hoặc dùng để dự phòng (dự phòng cơn đau thắt ngực). Ta cần đọc phần này để xem thuốc sẽ dùng có phù hợp với bệnh đang được điều trị không.
- Cách dùng - liều dùng: Ghi cách dùng thuốc như thế nào như: ngậm dưới lưỡi, uống hoặc tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch... Còn liều được ghi: liều dùng cho 1 lần, liều dùng trong 24 giờ (tức trong một ngày), liều cho một đợt điều trị. Thí dụ: Thuốc được ghi: 500mg x 3 lần/ngày trong 10 ngày, có nghĩa là mỗi lần dùng 500mg thuốc (thường là uống 1 viên chứa 500mg hoạt chất) dùng 3 lần trong ngày, dùng trong 10 ngày liên tiếp.
- Chống chỉ định: Là phần ghi những trường hợp không được dùng thuốc. Thường là một số đối tượng như: phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú, trẻ em dưới 15 tuổi, người bị suy gan, suy thận, người bị mẫn cảm dị ứng với bất cứ chất nào trong thành phần của thuốc... Hoặc trường hợp bị các bệnh như nhược cơ, hôn mê gan, loét dạ dày tiến triển...
Nếu trong phần này chỉ ghi "chống chỉ định", ta phải hiểu là "chống chỉ định tuyệt đối", tức là không được vì bất cứ lý do nào mà những người mắc phải các bệnh nằm trong diện "chống chỉ định" lại linh động được dùng thuốc. Thí dụ: thuốc được ghi chống chỉ định đối với trẻ dưới 15 tuổi, ta phải tuyệt đối theo đúng điều này, đừng vì thấy trẻ 13-14 tuổi nhưng lớn con, có vẻ già dặn mà cho dùng thuốc.
- Lưu ý - thận trọng: Là phần ghi những điều cần lưu ý, thí dụ có thuốc ghi trong thời gian dùng thuốc phải theo dõi chức năng gan, hoặc thuốc không được tiêm bắp mà phải tiêm tĩnh mạch chậm...
Phần "lưu ý - thận trọng" có thể được xem là "chống chỉ định tương đối". Có nghĩa là vì thận trọng mà có những trường hợp không được dùng nhưng không cấm hoàn toàn. Thí dụ, thuốc được ghi "Người lái xe hay vận hành máy móc cần cẩn thận trong khi sử dụng thuốc do thuốc có thể gây buồn ngủ ngầy ngật", ta nên hiểu là người lái xe hay vận hành máy móc nếu phải làm việc nên tránh dùng thuốc này, còn không làm việc vẫn có thể dùng. Hoặc, khi tờ hướng dẫn thuốc ghi: "Thận trọng khi chỉ định cho trẻ dưới 2 tuổi", có nghĩa là tốt nhất nên tránh dùng cho trẻ dưới 2 tuổi nhưng vì sự cần thiết, bác sĩ vẫn có thể chỉ định thuốc cho trẻ và theo dõi kỹ.
- Tác dụng phụ (tác dụng ngoại ý hoặc phản ứng có hại của thuốc, viết tắt ADR): Là phần ghi những tác dụng không phải dùng trong điều trị, xảy ra ngoài ý muốn. Thí dụ, một số thuốc dùng trong bệnh lý tim mạch uống vào là gây ho khan. Hoặc có thuốc làm cho phân có màu đen, làm nước tiểu có màu vàng, màu xanh, đỏ v.v... Một số tác dụng phụ của thuốc thường hay gặp như đau bụng vùng thượng vị, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, nhức đầu, chóng mặt... Thường các tác dụng phụ này sẽ mất đi khi ngưng dùng thuốc.
- Tương tác thuốc: Là phần ghi nếu dùng thuốc cùng lúc với một số thuốc khác sẽ bị các phản ứng bất lợi. Thí dụ, Aspirin nếu dùng chung với các thuốc giảm đau, chống viêm giống như nó (được gọi là các thuốc chống viêm không steroid) sẽ dẫn đến tương tác thuốc dễ làm tổn hại niêm mạc dạ dày, hay Aspirin nếu dùng chung với thuốc chống đông như Coumarin sẽ gây xuất huyết.
Trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc còn có thể ghi phần Dược động học (tức thuốc sẽ được cơ thể hấp thu, phân bố, chuyển hóa, bài tiết như thế nào), Dược lực học (bằng cách nào thuốc có tác dụng điều trị), nhưng đây là phần chủ yếu dành cho các nhà chuyên môn.
Trong tờ hướng dẫn sử dụng thuốc không ghi hạn dùng. Tuy nhiên, người sử dụng cần xem kỹ hạn dùng được ghi trên bao bì (nhãn thuốc, vỉ thuốc, lọ thuốc hoặc hộp giấy đựng lọ thuốc). Hạn dùng được định nghĩa là "Khoảng thời gian sử dụng được ấn định cho một lô thuốc (thuốc được sản xuất theo lô) mà sau thời hạn này thuốc đó không còn giá trị sử dụng". Như vậy, nếu đọc trên nhãn thuốc hoặc bao bì: H.D (hoặc Exp. Date): 30 tháng 6 năm 2002, có nghĩa là trong suốt thời gian từ lúc thuốc xuất xưởng đến hết ngày 30/6/2002, thuốc vẫn có giá trị sử dụng. Nếu thuốc quá hạn dùng, không còn giá trị sử dụng, nhất thiết phải bỏ đi không được sử dụng.
<Edited by: casanova -- 1/8/2004 10:09:03 PM >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: