Mẹ Ghẻ, Con Ghẻ
Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 24 trên tổng số 24 bài trong đề mục
NuHiepDeThuong 31.01.2006 01:50:31 (permalink)
Chương 16


Cách vài bữa sau, lúc tảng sáng, Quí rủ Sen đi ra chợ Càng Long coi cuộc buôn bán bây giờ có thạnh vượng hơn hồi trước hay không. Hai anh em thay đồ đi chơi. Quí mặc bộ đồ khác bằng bố xám, nhưng cũng cũ mèm, trên bâu cũng như hai cửa tay đều xười rách, đầu đội nón, chưn mang đôi giầy đen mòn gót.

Sớm mai tự nhiên có nhiều người ở trong Dồng đi ra chợ mua ăn, đàn bà con gái xách giỏ hoặc bưng rổ đi xung xăng, đàn ông con trai đi bộ cô độc, hoặc cỡi xe máy rung chuông reng reng. Người lạ thì ngó Quí trân trân, không biết Quí ở đâu mà ăn mặc không giống người trong xứ. Còn người quen biết hồi trước thì chào hỏi, hỏi thăm mạnh giỏi, hỏi về bao giờ, hỏi lơ là rồi bỏ mà đi, dầu nói ốm đau họ cũng không làm sao, dầu nói về bữa nào họ cũng không cần nhớ.

Ra tới bến xe đò, mặt trời vừa lú mọc, chiếc xe chạy Trà Vinh đã bóp kèn lìa bến, còn chiếc xe đi Sài Gòn nằm đó chờ ba bốn hành khách đem đồ lên xe rồi mới đi.
Quí đứng lại coi chơi, nhớ 12 năm trước, cũng giờ nầy, mình lên xe theo quan Kinh lý La-Co mà đi Sài Gòn, có chị Mỹ với cô Hường ra đây tiễn hành, hai cô đứng chậm nước mắt, làm cho mình héo gan, lạnh ruột.
Sáu Trừ ở trong căn phố gần đó bước ra coi xe chạy, anh ta ngó thấy Quí đứng gần xe thì kêu mà hỏi:
- Quí, em đi Sài Gòn hay sao?
Quí lắc đầu.
Sáu Trừ ngoắc mà nói:
- Không đi thì lại đây chơi, Mới nghe nói em về mà không gặp. Lại đặng hỏi thăm một chút.
Quí đi lại tiệm Sáu Trừ. Sen đi theo sau. Xe Sài Gòn rút chạy.
Sáu Trừ biểu anh em Quí vô tiệm chơi rồi hỏi:
- Nghe nói em về đã mấy bữa rồi, sao không thấy đi chợ chơi vậy?
- Về tới nhà tôi thấy nhà cửa bỏ u tệ như nhà hoang. Tôi buồn quá nên không muốn đi đâu, để ở nhà cuốc cỏ, hốt rác, đặng coi cho sạch sẽ vui vui một chút. Mấy năm nay anh ở nhà bình an mạnh khoẻ phải hôn anh Sáu?
- Ừ bình an, cám ơn.
- Tôi về, thấy ai còn mạnh giỏi tôi mừng.
- Ừ, em đi lâu quá. Mấy người già phải chết chớ sao. Rất đỗi là ông Bồi không già gì lắm, mà ông chờ em cũng không nổi. Em đi đâu mà lâu quá không về thăm nhà vậy?
- Nói thiệt với anh, thân tôi ra đi chẳng khác nào một lá cây rụng giữa đường. Gió thổi bay qua bên nầy tôi nằm bên nầy. Người đi đường hất qua bên kia thì nằm bên kia. Nằm chỗ nào cũng có, không biết ở đâu mà nói được.
- Em đi như vậy mà khá hôn? Có vốn liếng chút đỉnh hay không??
- Làm ra đồng nào lủm [9] hết đồng nấy. Ra đi tay không trở về cũng vậy. Mà có tiền hay không tôi không cần lo, thân trơ trọi một mình, tay chơn đầy đủ, dầu thế nào mỗi bữa cũng có được vài chén cơm dằn bụng, đói điếc gì mà lo.
- Té ra em chưa có vợ con hay sao?
- Chưa. Quyết lập thân mà chưa lập được, thì đâu dám nghĩ tới gia đình.
- Thấy đi lâu quá tưởng khá lắm chớ.
Quí cười rồi đứng dậy từ giã Sáu Trừ, dắt Sen đi, nói đi lại chợ xem coi buôn bán thế nào.
Hai anh em đi giáp vòng chợ gặp Mỹ. Quí dỡ rổ coi Mỹ mua những vật gì để nấu ăn, rồi móc túi đưa cho Mỹ hai đồng bạc mà nói:
- Chiều hôm qua tôi thấy trong bụi tre sau nhà có một mụt măng ngon lắm. Chị trở lại mua vài cái giò heo đem về rồi tôi xắn mụt măng đó hầm ăn chơi.
Mỹ trở lại mua giò. Quí với Sen đi thủng thẳng [10] mà chờ, rồi một chị với hai em hiệp nhau mà về một lượt, hòa thuận thương yêu, nên vui vẻ vô cùng.

Thị Mùi cũng không đi đánh bài nữa, bây giờ cứ ở nhà phụ với Mỹ lo nấu cơm nước, vá may, Quí rất vui lòng, nên ban ngày hiệp với Sen giúp chú Tiền làm lo sạch sẽ trong vườn, chiều mát anh em dắt nhau thăm mấy nhà trong xóm, rồi tối lại Quí lựa những chuyện Á Rập trong bộ sách “Một ngàn lẻ một đêm” mà thuật cho dì ghẻ với chị và em nghe chơi, cả ba đều mê hết, ngày nào cũng trông cho mau tối, đặng nghe Quí nói chuyện đời xưa của Á Rập.
Quí về chưa được một tháng tình cảnh trong nhà ông Bồi Bái Tồn đều đổi khác hết.
Nhà cửa bây giờ coi khoản khoát vui vẻ, trong ngoài đều sạch bốc, không có cái vẻ u tệ điêu tàn như trước nữa.
Sen cứ đeo theo anh luôn, biết cung kính anh chị, không thèm đi chơi, mỗi ngày tự kiếm công việc trong nhà hoặc ngoài vườn mà làm, không đợi anh biểu.
Mỹ thì lúc nầy sung sướng chẳng có lúc nào bằng, trên mẹ ghẻ đã bỏ những lời mắc mỏ đắng cay, dưới được hai em tỏ tình thương yêu kính mến.
Còn Thị Mùi vì cô thân thất thế nên phải nhẫn nhịn con ghẻ, nhưng không đi đánh bài được thì không thể nào vui. Mà có phiền giận thì phải dấu kín trong đáy lòng, còn ngoài mặt thì phải bải buôi cho an thân phận.
Chú Tiền thấy bây giờ cả nhà đều thuận thảo thì chú rất vừa lòng, nên chú nỗ lực mà giúp công, cực mà vui, nên không nệ.

Một bữa đương ăn cơm, Thị Mùi nhắc mùng 10 tới đây là ngày giỗ ông Bồi.
Quí nói:
- Chị Hai tôi có nói bữa hổm. Khi cha tôi mất tôi không có nhà, mà báo hiếu cho cha được. Nay tôi về đây, nhơn dịp giỗ, tôi tính mua một con heo đặng cúng cha tôi, rồi mời bà con trong làng đến ăn uống chơi một bữa. Để tôi đưa tiền cho chị Hai tôi kiếm mua một con heo để bữa đó làm thịt mà cúng. Mua heo chừng vài ba chục, không cần phải mua heo lớn lắm.
Mỹ nói:
- Heo bây giờ rẻ. Heo 30 lớn cả tạ, chớ phải nhỏ sao?
Thị Mùi làm lơ, để cho chị em Quí tính sao tự ý.
Ăn cơm chiều rồi, Quí đưa cho Mỹ một trăm đồng bạc biểu cất đặng mua heo, còn dư thì mua đồ nấu cúng. Thị Mùi tưởng Quí nói mình góp huê lợi hương hỏa, mình phải chịu tiền làm đám giỗ, té ra thấy Quí đưa tiền thì chị ta rất vui lòng, nên sốt sắng bàn tính với Mỹ coi mua heo rồi phải mua thứ gì nữa. Chị ta lại hỏi Quí muốn mời ai. Quí nói việc đó cho Quí lo, Quí sẽ đích thân đi mời hương chức trong làng, còn bà con lối xóm thì biểu Sen đi mời cũng được.
Chạng vạng tối, Quí đi vô ngã ba Suối cạn đặng thăm dì Ba Thới, vì hổm nay mắc lo dọn dẹp nên không có trở lại mà nói chuyện với dì.
Tại ngã ba vô Suối Cạn chỉ có ba cái nhà nên chiều tối ít có con nít tụ tập ngoài lộ mà giỡn chơi.
Trong tiệm dì Ba Thới, cô Hường thấy trời đã tối, cô quẹt đốt cái đèn gọi là tọa đăng, bưng để trên bàn giữa và ngó mẹ nằm trên bộ ván lót phía trong mà nói:
- Anh Quí về hổm nay cả tháng mà ảnh trốn mất, không thấy ảnh vô đặng hỏi thăm coi ảnh sắp đặt việc nhà của anh xong hay không.
Dì Ba Thới nói:
- Bữa hổm má đi chợ, má nghe họ nói, nó về nó quậy trong nhà thất kinh hết thảy. Ba Mùi hết dám xách đít đi đánh bài. Còn thằng Sen thì tối ngày phải cuốc cỏ hốt rác, hết thả rểu như hồi trước nữa. Quí không muốn vô chơi cũng phải. Nó đương làm hùm làm hổ, nó sợ tới lui nhà mình rồi Ba Mùi nghi má cấm cán, xúi giục, nên nó tính tránh tiếng cho mình đó chớ gì.
Mẹ con nói chuyện tới đó thì Quí ở ngoài bước vô, Hường mừng nên vừa cười vừa nói:
- Mới nhắc anh thì có anh liền. Bộ anh rình đâu ngoài cửa hay sao anh Quí?
Dì Ba Thới ngồi dậy.
Quí kéo ghế ngồi chống tay lên trên bàn má hòi:
- Em nhắc anh hay sao? Có việc chi hay không?
Hường ngồi cái ghế phía bên kia mà đáp:
- Có việc chi đâu. Anh về rồi anh biệt cả tháng nay, không thấy tăm dạng gì hết, nên em hỏi má em chớ.
- Mắc dọn dẹp nhà cửa, nên anh chưa đi đâu hết. Cách vài bữa có ra chợ một lát coi bây giờ cuộc buôn bán thế nào vậy thôi.
- Ngoài chợ người ta nói con về rầy rà mẹ con thằng Sen xếp ve hết. Con hăm, đuổi hết đi ra khỏi nhà, rồi mặc sức mà đánh bài, đá gà. Con làm Ba Mùi nằm co ở nhà hết dám thả đi đánh bài nữa. Còn thằng Sen dọn dẹp trong vườn tối ngày với chú Tiền, hết dám ló ra khỏi nhà. Quả có như vậy hay không con?
- Không biết chừng dì con thêu dệt với người ta sao đó, rồi họ thêu dệt thêm một mớ nữa, thành ra con mang tiếng tàn bạo, chớ lẽ nào con dám nói nặng lời vời dì con. Dì con là bạn trăm năm của cha con, dầu không tình cũng nghĩa, còn thằng Sen là máu thịt của cha con, tức thị nó là em cuả con, có lẽ nào con nỡ xua đuổi. Việc thiệt như vầy -- con về nhà, con thấy nhà cửa như nhà hoang, chị Hai con cực khổ rách rưới như con mọi. Dì con thì đi đánh bài, còn thằng Sen thì đeo trong trường gà. Thấy tình cảnh như vậy con đau đớn quá, chịu không nổi.
Chiều thằng Sen về, nó thấy con nó làm lơ như thấy người hàng xóm, không lộ vẻ cảm tình chút nào hết. Con giận, con có rầy nó. Con buộc nó từ rày sắp lên nó phải dọn dẹp trong nhà, cuốc cỏ ngoài vườn như con. Con cấm nó không được đi chơi, không được bài bạc. Sáng hôn sau, con ra cuốc cỏ, đốn cây, con buộc nó phải làm với con. Ban đầu coi bộ nó giận con lắm, nhưng con làm oai với nó một buổi, rồi con bôm ngọt nó, nên nó hết giận và từ đó tới nay nó siêng năng lắm, không thèm đi chơi nữa, còn dì của con, đi đánh bài, chiều về như thường.
Sáng bữa sau, ăn cơm rồi lấy dù ra, tính đi nữa, chừng đó con mới cản ngay. Con dùng lời hết sức êm ái mà chỉ tác hại của tật bài bạc cho dì con thấy, con nói vì thói đó mà ruộng đất của cha con tiêu hết, làm cho cha con buồn rầu đến nỗi phải chết. Thiệt con có trách dì con, con chỉ cái lỗi của dì đối với cha con và đối với chị Hai con, rồi con khuyên nếu muốn con cứu chữa gia đạo lại thì phải nghe lời con, đừng có bài bạc nữa. Còn như muốn chuyên nghề đó, không chịu hiệp với con mà cứu chữa gia đạo của các con, thì phải cất nhà mà ở riêng. Con nói ngay ra, từ đây với quyền đích tôn thừa tự, và quyền trưởng nam trong gia đình, con làm chủ hương hỏa và nhà thờ để lo sửa chữa nhà cửa, cúng quải ông bà, giúp cho chị hết khổ, dạy cho em khỏi hư. Con nói êm ái nhưng cương quyết, làm cho dì con khó chịu, nên dì khóc mà la trời la đất, kêu vong linh cha con mà méc con đuổi xô. Con cứ giữ thái độ cứng cỏi, con không xiêu lòng. Dì con giận không thèm nói tới con nữa, nhưng thiệt cũng không dám đi đánh bài.
- Con làm cứng nên con mẻ sợ chớ gì?
- Chưa sợ đâu. Nằm dàu dàu vài bữa, rồi một buổi chiều lén con đi ra đâu ngoài chợ, chắc là đi nói hành nói tỏi, nói cho thiên hạ ghét con. Té ra nghe họ cắt nghĩa lý luật sao đó không biết, mà chừng về ăn cơm chiều dì con giã lã kiếm chuyện nói với con, không làm giận làm hờn nữa, cứ ở nhà mà phụ với chị Hai con mà lo cơm nước, vá may. Dịu ngọt với chị Hai con lắm, lại theo o bế con, xin con dạy dỗ thằng Sen cho nó biết làm ăn như người ta, đừng lo chơi bời nữa. Dì con nói, vườn lớn, đất rộng, làm sạch cỏ rác rồi, vậy thì mưa xuống đây trồng cà, cải, bắp, khoai, bán lấy tiền xài trong nhà không hết.
- Dữ hôn! Đến bây giờ mới biết lo! Chớ chi thuở nay lo như vậy thì ruộng đất làm sao mà tiêu được.
- Hồi chiều nầy dì con nhắc mùng 10 tới đây là ngày giỗ cha con.
- Chà chà ! Còn nhớ ngày giỗ. Vậy thì khá thiệt mà.
- Thưa, bây giờ đổi tánh khác hẳn, chớ không phải như hồi trước đâu. Con mời dì bữa nào rảnh dì ghé nhà con chơi. Bây giờ trong nhà đầm ấm vui vẻ, từ trước ra sân sau vườn đều sạch bóc.
- Ừ, để bữa nào rảnh dì ghé chơi.
Hường nói:
- Vuông đất rộng hơn một mẫu, nếu trồng cho giáp hết thì huê lợi lớn lắm.
Quí ngó Hường vừa cười vừa nói:
- Em giỏi trồng thì ra đó mà trồng.
Hường mạnh dạn nói:
- Anh nói thiệt hay là nói chơi?
- Nói thiệt chớ.
- Nếu nói thiệt thì chừng trời sa mưa anh gieo trồng, em sẽ trồng với anh chơi cho vui.
Dì Ba Thới ngó hai trẻ mà cười. Quí hỏi dì:
- Hổm nay con về con chưa đi đâu. Nhưng mà con dòm coi dường như người trong làng, trong xóm, thấy con nghèo họ lãnh đạm với con lắm. Dì có tiệm. Người ta hay tới chơi. Dì có nghe họ dị con, họ chê khen thế nào hay không dì Ba?
- Ối, thiên hạ hễ thấy giàu thị họ bợ đỡ, thấy nghèo thì khinh khi, hơi nào mà lo con.
- Thưa không. Con hỏi cho biết nhơn tình vậy thôi chớ con có lo chi đâu. Giàu hay nghèo đều là việc riêng của con, con giàu họ không hưởng được, con nghèo họ cũng không giúp được, thế thì sự giàu nghèo của con có can hệ gì đến ai mà con lo.
Hường nói:
- Có nhiều người lại đây uống rượu họ nói lén anh lung lắm.
Hường vừa nói vừa ngó Quí mà cười. Quí bình tĩnh mà nói lại:
- Qua rất tiếc, em không nói ngay với qua, đặng qua có thể đàm luận với họ chơi. Đâu, họ nói lén qua về việc gì đâu, em thuật lại cho qua nghe chơi.
- Thôi thuật cho anh nghe, anh thêm buồn, chớ có ích gì.
- Không buồn đâu. Ở đời qua cần phải biết chỗ nào người ta chỉ mà tránh, chỗ nào người ta khen mà làm, chê hay khen qua cũng vui hết, chớ sao lại buồn mà em ngại.
- Người ta nói anh bỏ xứ mà đi mười mấy năm, tưởng đi làm ông làm thầy gì, té ra trở về lang thang lưới thưới, không bằng một tên trùm ở trong làng, vậy mà đi làm gì. Nhà sẵn có ruộng có đất. Vậy ta ở nhà, ta làm ruộng, làm rẫy cho khoẻ tấm thân, đã được lành lặn mà còn dư dả nữa.
- Thiệt họ chê qua như vậy hay sao em?
- Họ chê như vậy.
- Qua nghi em chê quá, chớ không có họ nào hết.
- Không mà. Em nghe họ nói, em thuật lại thôi. Em đặt chuyện làm chi.
- Qua muốn biết coi như em chê thì qua cắt nghĩa cho em hiểu. Còn như thiên hạ chê thì để cho họ thong thả mà chê, qua không cần cãi lẽ làm gì.
- Sao lại không cần? Người ta nhạo báng, anh phải trả lời chớ. Anh cắt nghĩa cho em nghe đi, đặng có ai dị nghị anh nữa, thì em sẽ thay mặt cho anh mà trả lời với họ.
- Ạ ! Em muốn như vậy thì qua phải nói cho em hiểu. Dì Ba với em đều biết ngày trước qua ra đi là vì sự bất đắc dĩ, chớ không phải qua mê chức “Bồi của quan Kinh lý” nên bỏ xứ mà đi. Từ nhỏ qua quyết chí học cho giỏi, cho tột bực, đặng lập thân. Vì gia đạo ép buộc, chận bít đường, không cho qua đi tới nữa được, qua bực tức nên phải tìm ngã khác mà đi.
Ra đi, qua quyết đi đặng kiếm thế lập thân, đi đến 12 năm qua mới trở về được. Qua về với hai bàn tay không, quần áo lang thang, bạc tiền không có thiên hạ chê cười qua là phải phải lắm, họ có chê bậy đâu em. Qua xách cái nghèo ra đi, chừng nghèo qua cũng đem cái nghèo mang về, thế thì người ta cười qua không đáng hay sao em? Nhưng mà qua nghèo tiền bạc người ta thấy được, còn qua giàu cái khác người ta không thể thấy được. Đây, em coi cặp mắt của qua đây…
Quí đưa tay vạch cặp mắt mà nói tiếp:
- Cặp mắt nầy thấy nhiều cái quý giá lắm em, dầu người ta có tiền đến bao nhiêu cũng thể không thấy được. Còn em coi cái bụng của qua đây nữa….
Quí dỡ vạt áo lên vỗ bụng và nói tiếp:
- Túi thì nhẹ, nhưng mà cái bụng nầy có chứa đủ thứ hết, chứa dại chứa khôn, chứa xấu chứa tốt, không thiếu gì, nên nó quý báu lắm, không có bụng nào dám bì đâu. Người ở xứ mình họ chỉ thấy Trà Vinh, Vũng Liêm, có giỏi lắm là Vĩnh Long, Sa Đéc, họ có thấy xa hơn nữa đâu. Trong bụng họ trạo trực có hai vật là lợi với danh, nghĩa là bạc tiền với chức tước, chớ chẳng có thứ gì khác. Mà chính thứ khác đó mới quý chớ. Qua đi 12 năm, bây giờ qua trở về, bề ngoài thì qua nghèo thiệt, mà bề trong qua giàu lắm, qua có đủ những cái người ta chê không chịu mua, với những cái người ta muốn mà không được. Để thủng thẳng rồi họ sẽ thấy những cái họ không thấy nổi, chừng đó họ mới bối rối, không biết phải chê hay là khen.
Hường chúm chím cười mà nói:
- Anh đi xa, anh học nói cái điệu úp mở kỳ cục quá. Ai mà hiểu cho nổi. Người ta thấy anh đi không về không, người ta tiếc chớ chi anh ở nhà cày ruộng làm rẫy cho khoẻ thân lại có tiền.
- Hay là cái đi đó đa. Em không nên tiếc. Để qua nói thí dụ cho em hiểu -- trời mưa nước đọng trong mấy ao mấy vũng. Nước ấy ngọt thiệt, nhưng cứ đọng một chỗ hoài, lâu ngày phải cạn nên nổi bùn đục ngầu, rồi còn thúi hôi nữa. Còn nước trong sạch không phải vậy. Nhờ có nước ròng, nước lớn, sông vận chuyển vô tận chân núi cánh đồng, rồi rút ra tới vàm to biển cả. Được vận chuyển như vậy nước sông mới có đủ mùi mặn lạt chớ không bao giờ có đục có hôi. Vì vậy nên thiên hạ ưa tắm nước sông hơn là tắm nước ao nước vũng. Em hiểu hôn?
- Anh nói cao kỳ quá ! Nghe bắt mệt.
- Thiệt quá nói minh mông, bóng dáng một chút, nhưng nếu em chịu khó suy nghĩ thì em sẽ hết tiếc 12 năm lưu linh của qua.
Dì Ba Thới:
- Con Hường nó thiệt thà. Con nói chuyện cao xa quá, làm sao nó hiểu cho nổi. Nhưng dì hiểu. Tuy con đi không về không, con không lập được công danh, không gây được sự nghiệp, song nhờ có đi xa, đi nhiều nơi, con mới nghe đủ thấy rộng, mới hiểu thế thái nhơn tình, mới biết dại khôn cao thấp. Tuổi con còn nhỏ, đời con còn dài, có chí thì lo gì giàu nghèo, hễ trời giúp vận thì tiền bạc ở đầu ngón tay chớ đâu. Họ khen hay chê mặc kệ họ, kể làm chi con.
Quí nói:
- Thưa, con nghe em con nói, con phải cắt nghĩa xa gần mà chơi, chớ con đã từng lội lặn trong biển khổ, trong đời tục, con xá gì miệng thiên hạ. Nếu nói ra thì con mang tiếng nói phách, nhưng trước mặt dì cũng như mẹ của con, bởi vậy con phải nói thiệt, con coi người đời rẻ lắm dì à. Con coi thiên hạ ở trong làng mình đây chẳng khác nào bầy chim se sẻ đậu trên hàng rào kiếm ăn kêu chót chét, bầy chim ấy sao mà hiểu nổi tấm lòng thơ thới của mấy con diều, mấy con hạc, bay liệng trên mây xanh.
Hường đứng dậy và nói:
- Anh khinh bỉ thiên hạ quá.
Nói rồi Hường vô trong bưng bình trà với cái tách đem ra rót mời Quí uống. Dì Ba Thới hỏi Quí muốn ăn bánh ngọt hay không. Quí lắc đầu bảo không hảo ngọt rồi bưng tách nước trà mà uống.
Nghe trống canh ngoài quận đánh 9 giờ, Quí mới nói:
- Hồi nãy con có nói mùng 10 tới đây là ngày giỗ cha. Hồi cha con mất, không có con ở nhà mà báo hiếu. Năm nay con về đây nhơn dịp giỗ con có đưa tiền cho chị Hai con kiếm mua một con heo, đặng con làm thịt mà cúng cha con. Vậy trước khi mời bà con trong làng, con đích thân vô đây mời dì với em Hường trưa mùng 10 ra nhà chứng kiến cho con cúng cha mẹ và ở ăn một bữa cơm ở nhà con.
Dì Ba nói:
- Con cúng anh Bồi bái thì dì phải ra chớ. Dì sẽ ra sớm. Còn con Hường, cha chả, không biết nó đi được hay không. Dì có một đứa em gái, tên con Điệu, ở Láng Thê. Nó kêu dì bằng cô. Nó có chồng, rồi cha mẹ nó khuất hết, vợ chồng nó dắt nhau qua bên Ngã Bảy ở làm ruông mấy năm nay. Dì mới nghe chồng nó chết, để lại một đứa con sáu bảy tuổi, nó đem con về Láng Thê, mà bơ vơ không có nơi nương tựa. Dì có nhắn biểu nó đem con lên ở với dì. Nếu nó lên trước mùng 10 thì nó coi tiệm cho con Hường đi với dì. Còn nếu nó lên chưa kịp thì con Hường mắc coi nhà không đi được.
Quí nói:
- Còn tới sáu bữa nữa, chắc lên kịp mà.
- Nếu nó lên kịp, thì con Hường sẽ đi đám giỗ vời dì. Mấy bữa rày con Hường trông nó dữ lắm, trông lên coi nhà để dì dắt Hường đi Trà Vinh.
- Có việc chi dưới Trà Vinh hay sao?
- Nó đi coi đền đài gì mới cất đó, họ trầm trồ khen tốt. Người ta rủ nhau đi coi. Nó nờm nợp đòi đi hổm nay. Ngặt bỏ nhà không được nên nó trông con Điệu lên coi nhà đặng dì dắt nó đi.
- Ạ! Té ra em Hường muốn đi coi! Chị Hai con bữa hổm đi chợ về, chỉ cũng thỏ thẻ nói người ta đồn đền đài gì đó. Chỉ không có đòi đi coi. Nhưng chỉ nói chuyện đó, chắc ý chỉ cũng muốn đi. Vậy để đám giỗ xong rồi tôi dắt hết đi với tôi. Tôi nghe nói, nhưng chưa biết cất lối nào ở đâu.
- Người ta nói cất dựa bên đường trên mình xuống, còn không đầy một ngàn thước thì tới chợ. Xe đò biết hết. Mấy cậu lơ quảng cáo quá, nên thiên hạ đi dập dìu.
- Được, tôi cũng đi chơi cho biết. Nhơn dịp tôi kiếm nhà thăm ông thầy cũ của tôi luôn thể.
- Con muốn thăm thầy Nhứt Vĩnh phải hôn?
- Thưa, phải.
- Thầy hưu trí. Nghe người ta nói thầy cất một ngôi nhà nhỏ mà đẹp lắm ở dựa đường đi ra vàm.
- Biết như vậy thì xuống đó dễ kiếm.
Quí từ giã mẹ con dì Ba mà về.
Hường đưa ra cửa mà nói:
- Vài ba bữa anh vô nói chuyện chơi. Bộ anh nghèo anh thẹn sao mà không dám ló ra khỏi nhà.
Quí đứng lại ngoài sân mà nói:
- Qua ngó từ trên trời xuống dưới đất qua không thẹn với cái gì hết em à. Hổm nay qua không đi đâu là vì qua mắc sắp đặt việc nhà. Bây giờ coi mòi đã xong rồi. Vậy có lẽ từ bữa nay qua có thể vô thường mà thăm dì với em.
Quí xoay lưng đi.
Hường trở vô đóng cửa.

Cô Mỹ lãnh một trăm đồng bạc của em rồi thì bữa sau cô cậy chú Tiền đi hỏi coi có ai bán heo đặng trả giá mà mua.
Chú Tiền vô Sóc Quan nghe người ta nói bà Các có một con heo đen gần một tạ bà muốn bán. Chú lại coi thấy con heo ú lắm. Chú hỏi giá. Bà các nói nếu muốn mua thì phải trả 30 mươi đồng bà mới bán. Chú Tiền trả 25 đồng. Bà lắc đầu. Chú về nói lại cho công Mỹ hay và xin cô vô coi như chịu thì trả thêm mà mua.
Đến xế Ba Mùi với cô Mỹ đi xem con heo. Mẹ con đều ưng bụng mới trả giá thêm từ đồng, đến 28 đồng thì bà Các chịu bán. Cô mỹ trả tiền đủ rồi về bảo chú Tiền với thằng Sen vô bắt heo khiêng về nuôi.
Quí thấy con heo thì khen rẻ. Tối lại anh ta đưa thêm cho chị một trăm đồng bạc nữa, dặn mua đồ làm đám giỗ coi cho được, vì anh ta về mới cúng cha lần đầu, anh ta tính mời làng xóm đông, nên phải nấu đồ nhiều mới đủ mà đãi khách.
Quí bàn tính với mẹ ghẻ coi đám giỗ phải mời ai. Mẹ con mới chia phần -- Quí lãnh đi mời Hương chức, Hội tề với mấy ông Hương chức cựu. Sen lãnh đi mời mấy nhà trong xóm, còn Ba Mùi thì mời mấy người ngoài chợ, lúc ông Bồi mất họ có đến điếu bái phân ưu.

Bữa mùng 8, Quí ăn cơm sớm mơi rồi mới đội nón đi mời mấy ông già và Hương chức. Đi giáp hết đến nửa chiều mới trở về. Trời nắng lại đi bộ nên đổ mồi hôi và khát nước.
Trong Suối Cạn về ngang tiệm dì Ba Thới, Quí ghé vô đặng xin nước uống.
Hường ra chào mừng và nói:
- Hồi trưa em thấy anh đi vô cầu Suối, em biết anh đi mời đám giỗ và chắc bận về anh sẽ ghé, nên hồi trưa em không kêu.
Quí nói:
- Ừ, qua đi mời đám giỗ. Nực và khát nước quá. Em cho qua một tô nước lạnh đi.
Quí cởi áo bành tô máng trên ghế, rồi lại nằm trên võng, lúc lắc đưa cho mát.
Hường bưng ra một ly nước lạnh đi ngay lại đưa cho Quí. Quí ngồi dậy tiếp ly nước uống liền rồi hỏi:
- Dì Ba đâu?
- Má mới lên xe đò đi ra ngoài chợ.
- Buổi chiều chợ có bán gì đâu mà đi mua?
- Má đi mua gì đó không biết.
Quí trả cái ly cho Hường, thấy có một chị đàn bà lấp ló trong cửa buồng thì hỏi:
- Ai kia? Phải chị Điệu mà Dì Ba nói bữa hổm đó hay không?
- Phải. Chỉ mới lên hôm qua.
- Vậy thì mốt, mùng 10 em ra đám giỗ được.
- Được, có chị Điệu coi nhà rồi.
- Em làm ơn sáng mốt ra sớm đặng tiếp tay với chị Mỹ.
- Còn má thì trưa má sẽ ra sau. Hồi hôm má đã tính với em như vậy rồi.
- Em đi cất cái ly rồi lại đây nói chuyện chơi.
Hường đem ly để trên bàn rồi trở lại ngồi tại đầu ván gần cái võng. Quí nằm cứ ngó Hường mà cười, nhưng không nói gì hết. Hường cũng chúm chím cười và ngó Quí cười mà hỏi:
- Anh muốn nói chuyện chi? Sao không nói lại cứ ngó em mà cười?
- Qua ngó em là vì qua muốn lấy cặp mắt lưu lạc của qua mà dòm thấu ruột gan em, coi hiện giờ em ao ước việc gì hơn hết.
- Vậy hả? Anh thấy rồi hay chưa? Nếu anh chưa thấy thì để em nói phứt cho anh khỏi kiếm. Hiện giờ em muốn gắt có một chuyện, là đi Trà Vinh xem đền đài gì đó mà thiên hạ đồn quá, làm cho em nôn hết sức.
- Chuyện đó có khó gì đâu mà ao ước. Muốn đi thì bữa nào leo lên xe đò, đi chừng nửa giờ, tốn có vài cắc, em sẽ thấy được. Mà qua tưởng họ cất nhà tốt vậy thôi tại mấy anh lơ xe đò quảng cáo để rù quyến khách đi xe mà thủ lợi, chớ có gì lạ đâu mà em nôn.
- Người ta đi coi dập dìu, đến người Vĩnh Long Cần Thơ cũng qua coi. Ai đi coi về cũng trầm trồ khen ngợi dữ quá, chớ nào phải mấy anh lơ bày chuyện đặng quyến khách. Bây giờ có chị Điệu coi nhà rồi. Vậy bữa nào rảnh, anh dắt má với em đi coi một bữa.
- Không gấp gì lắm.
- Em nôn quá, mà anh nói không gấp. Tại sao anh không muốn đi? Em bao [11] tiền xe cho mà. Anh khỏi tốn hao chi hết.
- Đi chơi mà khỏi tốn hao thì qua có ngại gì đâu mà không chịu đi. Sỡ dĩ qua không sốt sắng là vì cặp mắt của qua đã thấy xấu tốt đủ thứ, như qua đã có nói với em bữa hổm. Cặp mắt nầy không còn thấy khao khát cái gì hết, cũng như cái bụng nầy không còn ham hố vật gì nữa vậy.
- Anh đi mấy năm nay chắc anh cực khổ lắm nên anh chán đời phải hôn?
- Không cực chi lắm. Mà đời có phụ qua đâu mà qua chán. Trái lại qua muốn giúp đời lắm chớ. Nếu bộ qua lơ lửng ấy là vì qua đương tìm kiếm một người bạn trăm năm đồng tâm đồng chí để cùng qua chia cay đắng, chung ngọt bùi, mà qua tìm chưa ra, nên qua chưa biết vui.
- Người bạn đồng tâm đồng chí là người thế nào? Anh nói rõ cho em hiểu rồi em sẽ tìm dùm cho anh.
- Qua muốn có một người vợ từ đầu óc cho tới ruột gan thảy đều giống như qua là -- không nhiễm thế tục, không kể nhơn tình, không ham bạc tiền, không chịu gian dối, biết thương người nghèo khổ, biết trọng kẻ thẳng ngay, dám chê việc bất công, dám binh việc oan ức.
- Cha chả, cưới vợ mà anh kén gắt quá, em chắc trong nước Việt Nam mình không có người vừa con mắt anh đâu.
- Nếu chưa có thì một cô gái nào đó làm gan ưng qua, rồi về nhà qua sẽ ráng tập luyện tánh tình theo các điều kiện qua buộc đó cũng được.
- Nếu người tập không được thì làm sao?
- Hễ muốn thì phải được. Tục ngữ của người Pháp có một câu như vậy. Nếu một người vợ thành thiệt thương chồng, cứ làm theo tâm chí của chồng thì xong.
- Anh tính việc minh mông làm chi cho mệt trí. Anh còn 12 mẫu ruộng hương hỏa với một sở đất giống lớn hơn một mẫu. Bây giờ anh cứ cưới một người vợ biết tiện tặn ham làm ăn, rồi vợ chồng ra công cày cấy sở ruộng và gieo trồng đất giống, trong ít năm nhà sẽ dư dả thảnh thơi chớ có gì đâu.
- Ừ, phải, làm cho có tiền rồi mua thêm ruộng. Vợ chết buồn đi đánh bài. Cưới vợ khác đem về cho nó phá của, lại hành hạ con. Nó làm cho nghèo, rồi con đi ở đợ. Em muốn xúi qua diễn lại cảnh đời giống như cảnh đời của ông già qua hồi trước vậy phải hôn?
- Mình ở ruộng giống, thì tính làm ruộng giống chớ sao. Tại mạng cậu Bồi khiến cậu phải chịu tai họa nên mới có việc chẳng may như vậy. Mạng của anh khác, có lẽ nào lại bị như cậu Bồi hồi trước mà sợ.
- Qua muốn bay nhảy, bay cho xa, nhảy cho cao kia. Qua muốn tách khỏi thế tục mà làm theo chí hướng của qua, đặng qua đạt được mấy mục đích nói hồi nãy đó. Em hiểu không?
- Hiểu.
- Em hiểu rồi, em dám lãnh tuồng làm người vợ qua, đặng vợ chồng đâu lưng sát cánh mà mạnh bước trên đường đời với chí hướng đó hay không?
Hường lặng thinh ngồi suy nghĩ.
Quí ngồi dậy ngó ngang Hường mà nói:
- Từ hôm qua về đến nay, qua muốn hỏi em một chuyện, nhưng chuyện không gấp nên qua chưa hỏi. Bữa nay sẵn dịp, qua phải hỏi luôn. Qua xin nói trước việc nầy là qua lấy lòng thành thiệt mà hỏi, thì em cũng phải lấy lòng thành thiệt mà đáp, đừng sụt sè, đừng dấu diếm.
- Anh muốn hỏi việc chi cứ hỏi. Em sẻ trả lời ngay.
- Qua đi 12 năm. Em ở nhà, em không lấy chồng. Phải em chờ qua hay không? Nói thiệt đi.
- Phải.
- Cám ơn em, cám ơn em về cách thành thiệt. Qua nhớ khi qua đi, em bịn rịn, em hỏi đi chừng nào về. Qua nói không định trước được. Qua không có hứa hẹn. Tại sao em chờ?
- Tại em thương anh, nên em quyết chờ hoài.
- Như qua chết mất, hoặc sống mà qua không về, rồi em làm sao?
- Em chờ đến chết thì thôi.
- Như qua về mà qua có vợ rồi, thì em làm sao?
- Em ở độc thân mà nuôi má em.
- Vậy thì tình cảm của em đối với qua nặng lắm. Tình đó không dễ kiếm được, dầu em chưa tập chí như qua, nhưng đã có sẵn tình yêu ấy, thì tự nhiên làm vợ qua, em vì thương mà làm theo qua được. Em chịu làm vợ qua đặng tập theo chí hướng của qua hay không?
- Để tập thử coi.
- Được biết tình em rồi, bây giờ qua mới buồn.
- Sao mà buồn?
- Qua nghèo lắm em ơi. Em yêu qua đến nỗi dám thí khoảng đời xuân xanh mà chờ qua. Té ra qua về mà qua lại đem túi nghèo về hiến cho em, không có bạc tiền chi hết!
- Anh đã lập tâm không ham tiền bạc thì làm sao mà giàu được. Giàu nghèo không cần, miễn vợ chồng yêu nhau thì trong nhà vui sướng.
- Em vì tình mà không chê qua nghèo. Còn dì Ba, biết dì Ba có bằng lòng cho em lấy thằng chồng nghèo hèn rách rưới hay không?
- Thuở nay má xem anh cũng như con của má đẻ. Anh nghèo má lại càng thương thêm, có lẽ nào má chê.
- Tuy vậy mà bữa nào có dịp qua cũng phải nói ngay vói dì coi dì bằng lòng hay không.
- Anh muốn nói bữa nào thì tối vô mà nói. Ban đêm không có khách.
- Thôi, để qua về cho em nấu cơm chiều. Việc hôn nhơn để thủng thẳng rồi sẽ tính. Em nhớ sáng mốt ngày 10, em ra dùm sớm sớm.
- Em nhớ.
Quí bận áo ra về.
Chiều mát, đi trên lộ, trong mình khoẻ khoắn vô cùng. Quí nhớ chừng câu chuyện mới nói với Hường thì chàng nhếch miệng cười, không dè một cô gái sanh sống trong chốn thôn quê, không có học, không đi xa, mà cũng gây được một khối tình chắc chắn bền dai, khối tình ấy nếu biết sử dụng thì nó có thể đưa con người lên tận mây xanh, còn nếu dẫn nó đi sái đường thì nó cũng có thể đưa con người xuống địa phủ.
Mà khối tình của phụ nữ có một ám lực mạnh mẽ đáng ghê đáng sợ. Nó chịu nhẫn nhịn mà điều hòa để cho người sử dụng hay là nó sẽ làm cho tâm hồn người phải mê muội rồi nó điều khiển lại người.
Đó là một vấn đề cần phải suy nghĩ.

Sáng mùng 10, cả nhà Quí đều dậy sớm. Cô Mỹ sửa soạn đi chợ. Vài chị đàn bà với vài chú trai lối xóm lại lo bắt nước cạo heo. Ba Mùi lăng xăng dặn Mỹ mua đồ. Quí với Sen phụ chú Tiền quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ.
Cô Hường ra tới, có xách theo hai chai rượu chát, một gói trà với một gói bánh, cô sắp lên bàn mà nói với Quí rằng dì Ba Thới gởi trà rượu ra để phụ cúng ông Bồi. Mỹ với Quí tỏ lời cảm ơn, rồi Mỹ cậy Hường phụ với cô đi chợ mua đồ một lát.
Ba Mùi thấy chòm xóm lại giúp dọn đám giỗ, chị ta rất vui lòng, phải làm mặt bà mẹ trong nhà, nên ngon ngọt với các con, bãi buôi với khách khứa.
Ăn cơm sớm mai rồi, dì Ba Thới che dù ra chơi. Mấy bà già ở gần lần lượt cũng tựu lại. Đến xế khách đàn ông mới bắt đầu đi đám giỗ.
Quí không có áo dài. Một người trai ở gần về nhà lấy đem lại cho Quí mượn một cái áo xuyến dài đặng Quí bận mà tiếp khách và cúng lạy cho khỏi thất lễ.
Nửa chiều thì cúng đã xong. Quí mượn mấy người trai bưng dọn trên ván mà đãi khách.
Hương chức còn trai trẻ với bạn đánh bài của Ba Mùi đều tới đủ. Vài ông hương chức cựu cũng tới, duy có chủ cả với mấy ông nhà giàu hôm Quí mời thì xin kiếu, người nói không mạnh khoẻ, kẻ nói bận việc nhà, nên không đến mà thôi.
Tuy đám giỗ làm sơ sài không có gì lắm, nhưng lâu rồi trong nhà không có khách khứa ăn uống đông như vầy, bởi vậy Ba Mùi với cô Mỹ rất vui lòng, mẹ con chăm nom coi đãi khách, không bỏ sót ai hết.
Ă uống xong rồi, khách ra về lần lần.
Dì Ba Thới kêu với Quí với Sen mà khen khéo dọn dẹp trước sân, sau vườn đều sạch sẽ, và khuyên hai anh em, hễ trời mưa xuống thì gieo trồng cho giáp hết sẽ có huê lợi nhiều. Sen được khen nó khoái chí, bây giờ nó mới thấy làm việc tuy cực nhọc, song có cái vui tinh thần, nó làm cho con người thỏa thích vô cùng.
Dì Ba Thới nhắc Quí về sự đi Trà Vinh xem lầu đài. Quí dụ dự. Dì Ba nói:
- Nhà cửa dọn dẹp đã xong rồi, sáng mốt dắt bà con đi coi một lát chơi cho biết với người ta, kẻo con Hường nó nờm nợp [12] đòi đi hoài, chịu không nổi.
Quí không thể từ được, nên phải hứa sáng mốt sẽ đi.
Dì Ba Thới rủ Ba Mùi với cô Mỹ đi một lượt cho vui. Cô Mỹ chịu, còn Ba Mùi nói ít đi đâu rồi quen tánh nên thích nằm nhà cho khoẻ.
Gần tối mẹ con dì Ba Thới mới về. Quí đưa ra tới lộ, dì Ba còn nhắc mốt vô sớm đặng đón đi chiếc xe thứ nhứt cho mát.



Chú thích :


9. ăn, dùng

10. từ từ, chậm rãi

11. trả tiền dùm

12. rất muốn, nôn náo
#16
    NuHiepDeThuong 08.02.2006 19:27:41 (permalink)
    Chương 17


    Tội nghiệp phận cô Mỹ hết sức, từ ngày biết đi chợ nấu ăn thì cô ở nhà cứ lục đục trong bếp, ra ngoài chỉ biết chợ Càng Long. Cô thấy xe đó chạy Trà Vinh, cô không hiểu chợ đó lớn hay nhỏ, ở xa hay gần.
    Gần hai tháng nay, cô nghe người ta đồn dưới Trà Vinh có ông gì đó đương cất đền đài kinh dinh rất đồ sộ, rồi người ta rủ nhau đi xem chơi. Nghe thì nghe vậy chớ cô biết thân phận thiếu phước vô duyên, cô không thảnh thơi như người ta mà dám mơ ước đi xem đền đài như thiên hạ.

    Hôm nay nhờ dì Ba Thới tọc mạch, cô Mỹ được đi Trà Vinh, được xem đền đài như người ta, lại được thằng em cứng cỏi theo dìu dắt, thì cô khoái chí phỉ tình, nên đêm ấy cô trông cho mau sáng mà đi, cứ nằm mơ màng, ngủ mà không được.
    Khuya gà mới gáy hiệp đầu, thì cô thức dậy rửa mặt bới đầu, sửa soạn đồ cho sẵn sàng đặng cô đi Trà Vinh. Cô lấy bộ đồ hàng của cha may cho năm tính gả cô lấy chồng. Cô bận thử thì quần áo như có ngắn một chút, nhưng đồ cất hoài nên còn mới tinh.
    Thấy trời rạng đông, Mỹ mới vô buồng kêu Quí dậy, nên mời Ba Mùi đi chơi cho vui. Chị ta không muốn đi, biểu Quí dắt Mỹ đi cho biết Trà Vinh, để chị ta ở nhà đặng coi cho Sen và chú Tiền làm vườn.
    Hừng sáng Quí mới dắt chị vô dì Ba Thới chờ xe, và hiệp với mẹ con dì mà đi. Quí cũng mặc đồ xập xệ như hổm nay chớ không có đồ khác; mà thấy chị mặc đồ ngắn chủn, đi chưn không, chớ không có giầy guốc, Quí cũng không thèm để ý, hay tỏ lời than phiền.
    Mẹ con dì Ba Thới đã sửa soạn trước rồi, hai mẹ con đều mặc quần lãnh đen, chớ không có chưng diện chi hết, nhưng tóc bới vén khéo, chưn đều mang guốc mà thôi. Cô Hường có đeo dây chuyền với một chiếc vàng.
    Dì Ba ngắm nghía cô Mỹ rồi nói:
    - Con bận đồ ngắn quá coi không được. Dì nhớ một buổi anh Bồi có khoe với dì ảnh có sắm vàng với dây chuyền cho con. Đồ đó ở đâu? Sao đi chơi con không đeo?
    Mỹ tự nhiên đáp:
    - Lúc cha con bịnh, hụt tiền hốt thuốc nên con lén bán mà chạy thuốc cho cha con.
    Quí chau mày, nghe được việc nầy trong lòng rung động. May, chuyến đò thứ nhứt chạy vô gần tới ngã ba bóp kèn vang rân. Ba người đàn bà lật đật đội khăn mà đi, làm rộn hối Quí đi, nên Quí được khuây lãng.
    Chuyến nầy ít có hành khách nên trên xe còn chỗ trống nhiều. Bốn người lên ngồi chung một băng. Anh lơ lại góp tiền. Quí móc túi lấy tiền trả hết bốn người. Dì Ba Thới không cho, dì dành trả. Quí nhịn thua không dám cãi.
    Anh lơ thối tiền và xé giấy đưa cho dì Ba mà hỏi:
    - Mấy bà con đi coi đền đài dưới Trà Vinh phải hôn dì Ba?
    - Phải.
    - Vậy tôi sẽ dặn anh sốp phơ hễ xe tới ngang cửa thì ngừng cho mấy bà xuống.
    - Muốn vô coi phải xin phép hay không?
    - Người ta cho coi thong thả mà. Để tôi cắt nghĩa cho bà nghe. Lúc nầy trong nhà làm xong rồi hết. Tủ bàn cũng chở xuống đủ cả rồi. Nhưng dân còn xẻ đường đi, xây bồn bông, làm đông lắm. Có một người Pháp lai Việt coi xếp. Cửa ngõ sắt đóng luôn luôn, mà có treo một cái chuông nhỏ. Ai muốn vô coi thì nắm dây chuông mà giựt. Chuông kêu tự nhiên có người ra mở một trong hai cái cửa sắt nhỏ kèm hai bên cho mình vô, cửa sắt lớn chính giữa chừng nào có xe vô kia mới mở. Mình vô sân rồi thì có người dắt đi cùng hết cho mình coi. Bà Ba nhớ làm y như lời tôi nói đó, khỏi xin phép xin phù gì hết.
    - Dễ quá há.
    Dì Ba day qua nói với Quí:
    - Con nhớ nghe hôn con. Xuống xe con lại cửa mà giựt chuông. Nhưng người ta ra mở cửa, mình cũng phải nhỏ nhẹ xin phép người ta mà đi coi chớ.
    Quí gật đầu nói:
    - Để cho con liệu. Không sao đâu.
    Hường ngồi cứ chúm chím cười, chớ không nói chi hết. Còn Mỹ mới ngồi xe đò lần đầu, mà đi Trà Vinh cũng lần đầu, bởi vậy cô nhớn nhác lo sợ, lộ cái vẻ quê mùa, nhút nhát, làm cho Quí dòm thấy Quí cảm động vô cùng.

    Xe tới Láng Thê rước hành khách. Mỹ nhờ cô Hường nói mới hay, rồi tới Ba Si cũng vậy. Qua khỏi ngã ba Nguyện Hoá rồi, Hường nói gần tới, Mỹ hồi hộp, dòm ra phía trước, ý muốn coi Trà Vinh ở chỗ nào.
    Thình lình phía trước, bên tay mặt, hiện ra một quang cảnh đồ sộ, đền đài cao ngất, nhơn công lăng xăng làm mé trước rất đông, mà coi lại thì mé sau còn đông hơn nữa.
    Anh lơ xe ngồi trước day lại kêu mà nói:
    - Tới rồi đó bà con, sửa soạn đặng xuống .
    Xe bớt máy, chạy chậm rồi ngừng ngay cửa ngõ sắt đóng kín. Quí để cho ba người đàn bà xuống trước, rồi Quí xuống sau.
    Xe hơi rút chạy.
    Quí chưa chịu giựt chuông, chàng đương ngắm nghía từ ngoài cửa vô trong xa. Bà Ba Thới với Mỹ và Hường cũng đứng một bên mà ngó.
    Quang cảnh nầy ai thấy cũng trầm trồ, rồi đồn dội, nghĩ thiệt phải. Nếu nghi cho mấy anh lơ xe đò bày chuyện dụ khách đi xem cho đông đặng chủ xe thủ lợi thì oan cho mấy ảnh.
    Cuộc như vầy miệt Lục Tỉnh chưa có chỗ nào lập được.
    Một sở đất cao ráo bằng thẳng, nằm dọc theo mé quan lộ hơn 150 thước, còn bề vô hơn 600 thước, nghĩa là đất lớn lối 10 mẫu cách tỉnh lỵ Trà Vinh không tới một cây số. Từ cửa ngõ chạy vô lối 100 thước thì để trống đặng làm hoa viên, rồi dựng lên một cái đền cao lớn nằm ngang, chính giữa thì có hai từng, còn hai đầu xông thì cao tới ba tầng, lại có địch lầu nên coi vừa hùng vĩ, vừa xinh đẹp. Sau cái đền ấy thì có mấy căn nhà trệt, dãy làm nhà bếp, dãy để giao dịch ở, và dãy để chứa xe hơi. Còn phía sau nữa thì bị cái đền cản bít, phần thì đứng ngoài lộ ngó vô xa quán, nên không biết phía sau có vật gì. Trước sân chỉ có ba bốn mươi người đương cuốc đất, bưng đất, làm lăng xăng.
    Một người mặc quần sọt trắng, áo sơ mi xanh, đầu đội nón trắng, ở trong đền đi ra, rồi chống nạnh đứng trên thềm nhà ngó nhơn công làm.
    Dì Ba Thới nhắc Quí giựt chuông đặng xin phép vô coi. Quí mới bước lại giựt chuông reo tới bốn năm chập, rồi bỏ đi lại, cúi mặt ngó xuống đất, coi bộ suy nghĩ lắm.
    Người mặc đồ sọt xanh nón trắng đó bươn bả đi ra. Chừng người ra gần tới, dì Ba Thới với cô hai nhìn kỹ thì là người Pháp. Nhớ lời anh lơ đã nói trên xe, nên ai cũng biết người nầy coi xếp cho thợ với nhơn công làm. Người Pháp dỡ nón chào, miệng lại chúm chím cười. Quí lại xây mặt ngó ngoài lộ, dường như không thấy người ta chào, nên không đáp lễ.
    Tưởng là mở cửa nhỏ cho khách vô như lời anh lơ đã nói, té ra người xếp đó đi ngay lại cửa lớn chính giữa, mà tháo sợi dây xiềng sắt rồi mở bét ra một cánh cửa lớn.
    Quí day lại nói ít câu tiếng Pháp, rồi nói với dì Ba với cô vô, nói rằng mình đã xin phép rồi. Người xếp tiếp mà nói tiếng Việt rõ ràng như người Việt :
    - Tôi kính mời ba bà vô. Tôi sẽ dắt mà chỉ cho ba bà xem đủ hết. Ở đây cho phép người xem thong thả tối ngày. Ba bà đừng ngại chi hết, cứ việc vô.
    Dì Ba thấy ông sếp nói tiếng Việt lanh như người mình, lại nghe ông nói tử tế thì cười mà đi vô cửa. Hai cô theo đi vô rồi Quí vô chót hết.
    Ông xếp với khép cánh cửa sắt lại mà hỏi:
    - Mấy bà ở đâu mà đi xem đây?
    Dì Ba nói ở Càng Long.
    Ông xếp nói:
    - Hèn chi xuống sớm dữ. Mấy tháng nay bà con trên Càng Long xuống coi đông hơn hết. Thôi mấy bà con đi theo tôi đặng tôi chỉ cho mà xem.
    Ông xếp dắt ba người đi trước. Quí thủng thẳng đi theo sau. Vô gần tới chỗ nhơn công làm, ông xếp dừng lại rồi đưa tay ra chỉ mà nói:
    - Người ta đương đổ đất xây một cái bồn bông lớn và tròn tại giữa sân đây. Bồn bông sẽ xẻ hai đường. Một đường dọc, một đường cho xe chạy, Chính giữa chỗ hai đường gặp nhau đó sẽ chừa trống một khoản tròn, rồi đắp vài cái băng xi-măng lớn, để đêm trăng ngồi chơi mà hưởng mùi hoa thơm, ngó vừng trăng cỏ.
    Cô Hường níu cô Mỹ và cười và nói:
    - Ổng người Pháp mà ổng nói tiếng Việt hay hơn chị em mình.
    Ông xếp cười mà nói:
    - Tôi ăn cơm, tự nhiên tôi nói tiếng Việt được. Nếu tôi có nói trật, xin hai cô sửa dùm. Để tôi chỉ tiếp cho bà lão xem. Tại cửa ngõ hồi nãy đó, cũng như trước thềm nhà trong kía, sẽ để trống thành hai cái bùng binh, tại cửa ngõ đó, sẽ làm hai đường xe tẻ hai bên cái bồn bông chính giữa, hai đường vô giáp nhau tại thềm nhà. Còn dài theo hàng rào sắt phía trước kía cũng như dài theo hai vách thành hai bên đây, thì có đường lớn chạy xe vòng được, hai bên đường sẽ trồng xoài, mít, nhãn, mãn cầu, vú sữa, sa-bô-chê. Cây đã đặt chiết sẵn rồi, đợi mưa sẽ trở về trồng liền. Trong ít năm sẽ có đủ thứ trái ăn không hết. Mà từ đường dài theo rào vô tới đường bao bồn bông, hai bên có hai miếng đất nằm dài. Trong hai miếng đó không trồng bông mà cũng không trồng cây, chừa trống trồng vật có ích theo mùa như -- đậu xanh, đậu trắng, gừng, nghệ, rau, cải. Theo ý ông chủ, phải làm như vậy cho người ta thấy tuy chủ nhà thưởng thức cái xinh đẹp của bông hoa, song cũng không quên những thứ bổ ích cho sự sống của con người.
    Dì Ba Thới chận mà khen.
    - Giàu sang đã muốn hưởng sung sướng mà cũng tính lợi ích. Ông chủ là người Pháp hay là người Việt vậy ông?
    - Nửa Pháp nửa Việt.
    - Sao vậy? Lai hả?
    - Để ổng qua rồi bà sẽ biết.
    - Ổng ở đâu mà qua?
    - Ở bên Pháp.
    - Ở bên Pháp mà lập chi một cuộc quá xá như vầy nè.
    - Đợi làm xong ổng sẽ qua mà ở bên nầy chớ.
    - Bộ ổng giàu lắm hả?
    - Nghèo mà làm như vầy sao nổi.
    - Ông làm gì mà giàu dữ vậy? Nhà buôn bán hay là nhờ ruộng đất.
    - Nhờ đủ thứ. Ổng có ruộng bên Rạch Giá, có vườn cà phê trên Ban-mê- Thuộc, có sở cao su trên Biên-Hoà, lại có nhiều phần hùn trong hãng thuốc với hãng bán xe hơi trên Sài Gòn nữa.
    - Quá xá ! Vậy mà không giàu sao được, mà cất nhà sao ổng không cất mấy chỗ ổng có vườn có đất, ổng lại cất tại đây làm chi?
    - Ý ổng tôi biết sao được.
    Ông xếp trả lời lơ là rồi dắt khách đi vô trong; nhưng chưa vô đền lớn, ông dắt đi vòng phía ngoài. Tới đầu xông bên tay mặt ông chỉ cái sân đánh tennis đã làm rồi. Vô phía sau ông chỉ nhà bếp, nhà bồi,nhà xe; ông lại chỉ một khoảnh đất rộng lớn nằm phía sau nữa, có mấy chục người đương đào gốc cây và ban cho bằng thẳng, mà nói với khách:
    - Sở đất lớn đương dọn dẹp đó thì ông chủ định lập một sở nuôi dạy trẻ nhỏ mồ côi. Tiếp với cuộc nầy sẽ cất một cái nhà lầu 5 căn nằm ngang để cho ông hoặc bà quản lý với mấy người phụ sự ở. Từ đó trở vô trong sẽ cất mỗi bên một dãy nhà dài, một bên nuôi con gái, một bên nuôi con trai. Chính giữa thì cất trường dạy chữ, nhà dạy may vá, nhà dạy nấu ăn. Phía trong hết thì đào giếng làm rẫy để cho con trai tập gieo trồng.
    Cô Hường lắc đầu ngó Quí mà nói:
    - Làm việc có ích quá ! Ngặt phải tốn hao dữ lắm. Biết được lâu dài hay không?
    Quí cười mà đáp:
    - Chắc người ta liệu làm được, nên người ta mới định làm đó chớ .
    Ông xếp dắt qua đầu xông phía trái. Ông chỉ miếng đất trống mà nói:
    - Chỗ nầy có một cái giếng sẵn. Thử rồi, nước tốt lại nhiều. Sẽ xây một cái bồn chứa nước trên cao, đặt máy bơm nước lên bồn, rồi làm ống cho chạy cùng hết đặng có nước dùng và tưới đồ trong mùa nắng. Phía nhà mồ côi cũng phải xây bồn nước như vậy nữa mới có nước đủ dùng .
    Di Ba Thới nói:
    - Làm công chuyện quá nhà nước .
    Ông xếp nói:
    - Xin bà lão đừng nói vậy không nên. Bây giờ ông mới dắt đi vòng ra phía trước rồi lên thềm mà vào đền.
    Vừa bước vô cửa thì dì Ba Thới với cô hai vội đứng lại. Một cái phòng -- rộng bề ngang, hiện ra trước mắt, dưới đất có lót gạch bông láng mướt, trên tường và trên trần vẽ vời tốt tươi, đèn ống gắn nhiều màu, ghế bàn dọn hực hỡ. Chính giữa dọn một bộ sa lông lớn, nệm may bằng nhung màu vàng, hiện giờ chưa dùng, nên tròng bao bằng bố xám.
    Bên tay mặt có một bộ sa-lông khác cũng đẹp nhưng nhỏ hơn, nệm may bằng nỉ xanh cũng có bao bằng bố xám. Còn bên tay trái thì lót một cái bàn lớn có thể 24 người ngồi ăn cơm rộng rãi. Mà thiệt có 24 cái ghế lót nệm xanh đậm, chồng để dọc theo vách rồi phủ vải trắng cho khỏi bụi.
    Ông sếp mời vào mà nói:
    - Đây là phòng khách. Nếu đãi tiệc đông thì dẹp hết sa-lông mà đặt bàn thì 120 khách ngồi ăn rộng rãi. Nếu nhảy đầm thì dẹp bàn mà khiêu vũ, mấy chục cặp cũng đủ chỗ.
    Có trổ hai cửa vô phía sau, ông xếp mở mà mời khách vô. Một cái phòng nhỏ có một bộ ván cẩm lai, lại một bên để tủ rượu, một bên để tủ lạnh. Trước bộ ván thì có một bàn ăn cơm, còn dựa vách mỗi bên có một bàn nhỏ với hai cái ghế, để hai người ngồi uống nước hoặc uống trà mà nói chuyện thân mật. Ông xếp nói đây là chỗ gia đình ăn cơm hằng ngày, chỗ tiếp bà con thân thích hoặc người thường. Còn hai bên đây có hai cái phòng ngủ để cho bà con trong thân ngủ.
    Ông xếp dắt qua coi hai cái phòng thì có giường sắt, tủ áo, bàn ghế đủ hết. Mỗi phòng có kềm một giường nhỏ để tắm rửa và trong đó có cầu tiêu máy.
    Xem dưới đất đủ rồi ông xếp mời khách lên. Hai bên có hai thanh lầu xây bằng xi-măng lót đá cẩm thạch trắng, muốn lên bên nào cũng được. Lên mút đầu thang thì gặp một phòng lớn rộng rãi mát mẽ, ông xếp nói:
    - Bây giờ mấy bà bước vào cảnh sống thân mật một gia đình của ông chủ tôi. Cái phòng nầy người Pháp gọi là phòng tiếp khách riêng của bà chủ nhà. Ngày đêm nếu không làm việc gì thì bà chủ thường ở đây đặng thêu thùa hoặc đọc sách, hoặc trò chuyện với chị em. Vì vậy nên đồ đạc trong phòng đều thuộc đồ của phụ nữ dùng.
    Dì Ba Thới vụt nói:
    - Bà chủ ở cái chỗ đẹp đẽ quá há. Sung sướng sang trọng biết chừng nào. Người có phước lắm mới được hưởng như vầy.
    Dì Ba Thới với cô hai ngó chung quanh trong phòng thì thấy có một cái đi văn (divan) thiệt đẹp, vì ba phía có đóng hộc, chạm trổ kiểng thiệt khéo. Có bàn viết nhỏ để viết thơ, có bàn dồi phấn, có ghế xích đu, có một bộ sa-lông nhỏ để ngồi nói chuyện.
    Ông xếp liệu mấy bà xem rồi ông mở cái tủ nhỏ lấy ra một cái chuông đồng cũng nhỏ, ông lắc kêu reng reng, rồi ông bỏ chuông vô tủ mà khép cửa lại. Một anh bồi ở từng dưới chạy lên. Ông xếp nói nho nhỏ vài câu rồi anh bồi xoay lưng đi xuống.
    Ông xếp mới mời khách theo ông vào một hành lang dài từ phòng đó ra tới phía trước. Khách đi mút hành lang rồi đứng ngó xuống sân mà chơi. Ông xếp để cho khách bàn luận, ông đi mở cửa hai cái phòng, nằm hai bên hành lang rồi mời khách lại xem. Ông cho vô phòng bên tay mặt mà nói đây là phòng ngủ của ông chủ, bà chủ. Có giường đồng có ván gõ, có tủ áo, có bàn cẩm thạch, có ghế phô tơi, có phòng tắm rửa, có chỗ ngồi trang điểm. Coi bên nầy rồi ông dắt qua phòng bên kia, thì đồ đạc cũng giống y như vậy, mà ông nói phòng nầy là phòng riêng của chị ông chủ ngủ.
    Cô Hường nghe nói như vậy thì ngó cô Mỹ và chúm chím cười.
    Dì Ba ngó Quí đứng dựa cửa phòng, dì nói:
    - Té ra ông chủ có vợ lại có chị nữa .
    Quí làm lơ.
    Ông xếp cũng không trả lời, mà ông mời liền mấy bà và cô trở lại phòng khách hồi nãy.
    Dì Ba thấy phía sau còn ba cái phòng để làm chi mà nhiều vậy. Quí châu mày ngó lơ.
    Ông xếp bước tới cửa phòng giữa thì thấy có dọn một bàn thờ ông bà, có lục bình, lư hương chưa có đèn đủ chi hết.
    Dì Ba ngạc nhiên nên nói:
    - Ủa ! ông chủ là người Pháp, mà ổng thờ ông bà hay sao?
    Ông xếp bình tĩnh đáp:
    - Người Pháp cũng có nhiều đạo vậy chớ. Ông chủ tôi theo đạo Nho. Còn tôi đây, tôi cũng người Pháp mà tôi thờ đạo phật .
    Ông xếp mở cửa cái phòng bên tay mặt nữa mà nói phòng nầy là phòng đọc sách của ông chủ; rồi ông trở qua mở luôn cái phòng bên tay trái mà nói phòng nầy là phòng của ông chủ làm việc.
    Dì Ba Thới đứng ngoài ngó vô thấy bàn viết, có tủ nhỏ, trên tường lại có treo một khung hình lớn. Dì chỉ hình ấy mà hỏi ông xếp:
    - Phải hình của ông chủ hay không xếp?
    - Không, đó là hình ông già của ông chủ.
    - Trời ơi! Hình đó là hình ông Kinh Lý La-Co. Té ra ông chủ là con của ông La-Co mà.
    Quí lật đật bước vô mà nói:
    - Không phải đâu dì Ba. Tại dì không có gần người Pháp, dì coi họ giống nhau hết nên dì lầm. Con có làm với ông La-Co mấy năm. Mặt ổng khác, chớ không phải vậy.
    Hường với Mỹ nói hình giống như ông La-Co quá. Không biết sao mà nói không?
    Anh bồi bưng lên để tại sa-lông một mâm có lave, mô-nát, nước cam, nước đá, một hộp bánh mì với 5 cái ly.
    Ông xếp mời khách lại giải khát, mời dì Ba ngồi cái ghế ca-na-bê, hai cô ngồi hai cái ghế một phía, còn phía bên nầy thì Quí và ông xếp ngồi.
    Ông xếp gắp nước đá bỏ vô năm cái ly. Dì Ba nói dì với hai cô không biết uống rượu mà sợ say. Ông xếp cười mà nói nước cam ngọt, uống nước đá cho mát, chớ không phải rượu đâu mà sợ say, Ông mở hai chai nước cam rót 3 ly khách đàn bà, còn 2 ly thì ông mở la-ve rót uống với Quí.
    Ông xếp ép mời Quí cũng tiếp mời nữa, nên dì Ba với cô hai mới chịu bưng ly mà nếm thử. Nếm ngon ngọt mà mà không có mùi rựơu, ba người mới dám uống. Quí bưng ly la-ve lại đứng dựa cửa mà uống, có ý muốn để cho mấy người đàn bà thong thả trao đổi cảm tưởng với nhau cho vui. Ông xếp cũng bưng ly lại đứng với Quí. Hai người nói tiếng Pháp với nhau.
    Hường chú ý rình coi, tuy không hiểu hai người nói chuyện gì song thấy ông xếp nói nhiều mà bộ lại bải buôi chìu chuộng. Còn Quí thì trầm tĩnh, ông xếp nói thì lóng tai nghe, mà không thèm ngó, một lát thấy gật đầu một cái, hoặc nói lại ít tiếng mà thôi. Hường không hiểu hai người có quen nhau hay không, nhưng cô nhận thấy chắc chắn mấy điều nầy, là Quí rành tiếng Pháp, hiểu mau, nói dễ, nói chuyện với ông xếp, Quí vững vàng, không sụt sè, không kiêng nể, bộ còn oai hơn nói chuyện với người trong làng.
    Còn dì Ba Thới thì dì khoái quá, vì được ông xếp tiếp rước tử rế, dắt đi xem cùng hết, tới đâu cũng cắt nghĩa rõ ràng, mời ngồi tại phòng tiếp khách của bà chủ, lại còn đãi nước đá nước cam. Dì nói với Mỹ và Hường:
    - Có lẽ mình nhờ Quí biết nói tiếng Pháp, nên ông xếp mới đối đãi với mình một cách tử tế đặc biệt. Mấy tháng nay, trên mình họ đi xem dập dìu mà, chắc không có người nào được biệt đãi trọng hậu như mình vầy đâu.
    Thấy Quí uống hết ly la-ve, dì Ba mới kêu lên mà nói:
    - Con, mình xem đủ hết rồi, thôi mình cám ơn ông xếp đặng đi xuống chợ Trà Vinh một chút.
    Ông xếp nói:
    - Mấy bà muốn xuống chợ, chớ không phải ở đây đón xe đò mà về? Được. Tôi có việc nên tôi cũng phải đi chợ đây. Vậy mấy bà uống cho hết ly nước cam đi. Đợi tôi soạn đồ một chút xíu rồi tôi đem xe ra, tôi đưa mấy bà đi với tôi. Trời nổi nắng rồi. Đi bộ từ đây xuống tới chợ mệt lắm.
    Ông xếp nói rồi liền đi vô phòng làm việc, chỗ có treo khung hình hồi nãy đó.
    Dì Ba ngoắc Quí lại mà biểu ngồi một bên rồi hỏi:
    - Tại sao ông xếp tử tế với tụi mình dữ vậy?
    - Tại con biết nói tiếng Pháp nên ông ưa. Người Pháp đều vậy hết. Ai biết nói tiếng của họ thì họ chịu lắm.
    - Ông đãi rượu, rồi còn mời đi xe nữa. Nên đi hay không con?
    - Sẵn ông có dịp đi xuống chợ, ổng chở dùm mình luôn, có tốn hao gì cho ổng mà mình ngại.
    Hường cười mà nói:
    - Em coi bộ ổng trọng anh lắm. Nếu anh o bế ổng, anh cậy ổng đưa dùm mình về Càng Long, chắc ổng cũng chịu. Thiệt vậy à.
    Quí đứng dậy và nói:
    - Có lẽ ổng vị quá như vậy. Thôi, uống cho hết ly nước cam rồi ổng ra mình đi.
    Ông xếp trở ra, tay có ôm một cặp đựng giấy tờ đầy nhốc. Ông mời khách theo ông xuống lầu đặng ông đem xe ra mà đi với nhau.
    Xuống tới sân sau, ông biểu khách đứng đó mà chờ. Ông vô nhà lấy xe, lấy chiếc xe trắc-xông chạy ra sân. Ông nhảy xuống mở cửa xe, mời dì Ba với hai cô ngồi phía sau, mời Quí lên ngồi phía trước với ông, rồi chạy ra cửa ngỏ. Một người cặp-rằng thấy xe ông xếp ra, lật đật chạy lại mở cửa lớn cho xe ra quang chợ. Quí day lại hỏi dì Ba Thới muốn ghé chỗ nào. Dì biểu lại chợ thì ngừng đặng xuống cho Mỹ xem chợ, rồi sẽ lại xe đò mà về.
    Ông xếp nghe lời chạy lại ngừng ngay nhà chợ, Quí leo xuống mở cửa xe cho dì Ba với hai cô ra. Quí với dì Ba tỏ lời cám ơn ông xếp rồi chào hết bốn người khách, lái xe mà đi.
    Dì Ba Thới dắt hết đi một vòng chung quanh chợ cho Mỹ xem chợ, xem các tiệm lớn thì trầm trồ, khen buôn bán lớn bằng mười chợ Càng Long. Dì Ba Thới mới được xem đền đài, lại được ông xếp hậu đãi, trong lòng dì đương hân hoan, nên nghe nhắc ăn uống, thì dì sẵn lòng đãi con em một bữa cơm khách trú để kỷ niệm cái ngày đi chơi vui vẻ, dầu phải tốn một chục đồng cũng đáng.
    Mấy bà con dắt nhau vô tiệm cơm. Lúc ấy gần 10 giờ. Tốp ăn lót lòng thì họ đã đi hết rồi, còn tốp ăn trưa thì còn sớm quá họ chưa tới, bởi vậy trong tiệm trống trơn, không có khách. Quí lựa một bàn lớn chính giữa mà mời dì Ba với cô hai ngồi. Quí hỏi dì Ba muốn ăn thứ gì. Dì suy nghĩ một chút rồi nói:
    - Lâu ăn mì quá. Vậy nấu cho mỗi người một tô mì ăn chơi rồi sẽ ăn cơm.
    Quí bèn kêu bốn tô mì nước, dặn phải nấu cho ngon.
    Lúc ngồi chờ mì, dì Ba nhắc chuyện xem đền đài hồi nãy, được ngồi phòng tiếp khách của bà chủ, được uống nước đá nước cam, lại được xe nhà đưa xuống chợ. Dì hỏi Mỹ khoái hay không. Dì dặn Hường về hỏi mấy người đi coi rồi có ai được vậy hay không. Dì khen, cuộc rộng lớn, nhà kinh dinh, đồ quý giá. Dì khen hết thảy, không chê chỗ nào.
    Hường với Mỹ cứ ngồi cười, không chê mà cũng không khen, chắc là tại quang cảnh quá trí tưởng tượng của hai cô, nên hai cô không bình phẩm nỗi. Vì đi hồi tảng sáng, đến bây giờ đã đói hung, nên người bưng bốn tô mì lại, mọi người ăn rất ngon.
    Quí biểu nấu một tô canh cải bẹ xanh, lấy một dĩa thịt xá xiếu, một dĩa lạp xưởng đặng ăn cơm, nghe rằng ăn một tô mì đã muốn no rồi, nên không cần kêu đồ ăn cơm nhiều sợ ăn không hết, thiệt quả chừng ăn cơm mỗi người ăn có một chén mà thôi, không thể ăn nhiều được.
    Chủ tiệm tính tiền cả thảy có 2 đồng 2 cắc. Quí móc tiền mà trả. Dì Ba rầy, dì dành mà trả tiền. Dì nói, cô Hường có hứa đi chơi cô bao hết thảy, nên chị em Quí không phép phải trả.
    Uống nước rồi lại bến xe đò, thì xe Càng Long đợi nữa mới có xe mới, nên Quí dắt Mỹ với mẹ con dì Ba đi xem toà án. Toà bố, công sở, phố phường trong châu thành đến gần 12 giờ mới trở lại bến xe.
    Quí xin dì Ba với cô hai về trước, vì Quí phải ở lại kiếm thăm thầy Nhứt Vĩnh, rồi xế chiều Quí sẽ về sau.
    Dì Ba với cô Hai lên xe ngồi trước. Quí xẩn bẩn ở đó mà chơi, cho đến xe chạy rồi Quí mới đi bộ lại Bungalow là nhà của nhà nước cất ra và sắm đồ đạc, rồi giảo giá, giao cho người ngoài cai quản để khách phương xa đến có sẵn chỗ tử tế mà ăn ngủ.


    ******************

    Đã đưa vào trang thư viện tới Chương 17.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.02.2006 15:34:14 bởi NuHiepDeThuong >
    #17
      NuHiepDeThuong 10.02.2006 15:36:17 (permalink)
      Quyển II - Đoạn kết

      Chương 18



      Nãy giờ Quí ngồi xem ông thầy cũ tỉ mỉ lo cái bình trà, coi bộ ông rất tiêu diêu với cái thú, sách tối, trà trưa, chúm chím cười hoài. Đợi thầy uống thấm giọng rồi Quí mới hỏi:
      - Bẩm thầy, thầy hưu trí rồi, thầy không có lương tháng nữa. Thấy lãnh tiền hưu bổng chắc không được bao nhiêu. Vậy thì làm sao đủ cho thầy sống thong thả được?
      - Ối ! Ở đời biết bao nhiêu là đủ, bao nhiêu là thiếu em. Hễ mình nói đủ thì bao nhiêu cũng đủ, còn mình than thiếu, thì bao nhiêu cũng thiếu. Thầy đã có tiền hưu trí, nếu thầy còn thiếu, thì vô số người, không có tiền hưu trí như thầy, họ mới nói làm sao? Phần của thầy vì thầy biết tự túc, nên thầy được từ lạc. Vậy em khỏi lo. Bây giờ thầy muốn biết coi từ ngày em đi với ông La-Co rồi, em trôi nổi đến đâu mà em bặt tin, không trở về làng, mà cũng không gởi thơ, đến ông Bồi mất em cũng không về cư tăng báo hiếu. Thầy nói thiệt, thầy có nghĩ em chết, nên thầy lo, vì ngày trước em có hỏi ý kiến thầy, khi em đi theo ông La-Co. Thầy không dám xúi, nhưng thầy không cản thì cũng như chịu để cho em đi. Ngày nay thầy thấy em về thì thầy mừng quá, mừng em con sống, thầy khỏi hối hận. Mà em ra đi, em quyết chí lập thân, nhưng mạng em không giúp cho em toại nguyện, em phải gặp nhiều nơi gian truân lắm hay sao, nên ngày nay trở về, thấy bộ em lang thang dữ vậy?
      Quí cười mà đáp:
      - Bẩm thầy, thầy thấy lớp ngoài của em đây là lớp giả. Lớp thiệt của em khác, chớ không phải như vậy.
      - Hứ! Có lớp giả, còn có lớp thiệt nữa! Chi vậy?
      - Bẩm, em muốn thu nhơn tính nên em mang lớp giả mà về làng. Sớm mơi nầy, em phải mang lớp giả mà đi Trà Vinh với người ta, xuống tới đây em nhớ thầy quá, không thể không thăm thầy được, nên em mang luôn cái lớp giả mà đi tìm thầy. Tại như vậy, nên thành ra như em cố ý muốn giả dối luôn với thầy. Kỳ thiệt em kính trọng thầy như người cha thứ nhì của em, em đâu dám loè mắt thầy, xin thầy tha lỗi cho em.
      - Nếu em có cái lớp thiệt, khá hơn thì thầy mừng cho em. Từ ngày em đi với ông La-Co đến nay là mấy năm?
      - Bẩm 12 năm.
      - 12 năm ! Lâu quá ! Em theo luôn ông hay là tách đi làm việc khác?
      - Bẩm, em theo luôn cho đến ngày ông chết.
      - Ổng chết rồi?
      - Bẩm, chết đã 3 năm, rồi để em thuật rõ đời sống của em trong 12 năm nay cho thầy nghe. Em trở về Càng Long gần hai tháng rồi. Em cứ mang cái lớp giả, em không nói chuyện của em cho một người nào biết, chị em trong nhà em cũng dấu. Nay gặp thầy, em không dám dấu thầy. Trái lại em còn phải bẩm thiệt đặng còn nhờ thầy dìu dắt nữa.
      - Ừ, uống nước đi em, uống rồi nói cho thầy nghe.
      - Em đi theo ông La-Co lên Sài Gòn ở mấy tháng, em lo phận sự làm bồi cho ông vuông tròn. Vì ham học, nên em mua sách, rồi ban đêm rảnh rang em mở mà học thêm. Ông La-Co gặp em học như vậy vài lần. Ông không nói gì, mà ông lại kiếm sách mua đưa cho em và chỉ cách cho em học. Nhiều đêm ông khỏe, ông ngồi dạy em học đến 11, 12 giờ, rồi ông mới nghỉ.
      - Hồi trước thầy đã có nói với em, ông tử tế lắm.
      - Bẩm, em nhớ. Thấy ông tử tế, em càng nỗ lực mà học, em quyết lấy chí háo học mà làm kế lập thân.
      - Hay đa! Thầy khen em, bị bít đường, em biết ruồng mà đi. Muốn nên phải làm như vậy mới được chớ.
      - Em học được mấy tháng, kế ông La-Co được giấy xuống Rạch Giá đo đất. Tự nhiên em đi theo. Ở trong vùng Long Mỹ hai năm, em vẫn tiếp tục học hoài. Ông Kinh Lý có rảnh thì vẫn chỉ cho em học. Hễ có dịp đi Sài Gòn thì ông mua sách thêm cho em. Ðo đất vùng Long Mỹ xong, ông than mệt, bởi vì ông đã lớn tuổi, làm lâu năm, lại qua xứ mình. Lần sau đó ông ở luôn đến bốn năm, nên sức khỏe của ông giảm nhiều. Ông mới xin nghỉ sáu tháng đặng về Pháp dưỡng sức lại. Chừng đó ông mới nói thiệt với em rằng, em ở với ông hơn ba năm, ông thấy rõ tánh tình của em, trung thành, ngay thẳng, ham học, hiền lành, bởi vậy ông thương em, muốn giúp cho em ăn học, đặng lập thân như người. Ông hỏi em như chịu theo ông qua Pháp, thì ông sẽ cho em vào trường mà học, ông chịu áo quần, cơm nước, bánh hàng cho hết thảy.
      - Sướng quá! Em gặp tiên cứu rồi! Chắc em chịu liền hả?
      - Dạ. Em chịu liền. Khi ấy em muốn gởi thơ cho thầy và cho cha em hay. Mà rồi em nghĩ ông Kính lý nói như vậy, song biết ông làm y như vậy hay không. Huống chi em mới thấy có mòi học thêm được, chớ chưa chắc học được hay không, nếu vội cho thầy với cha em hay trước, rủi sau em không được thành công, té ra em ở bồi mà bày chuyện nói dóc.
      - Tánh em khiêm tốn lại cẩn thận quá. Được tánh nết như vậy, thầy chịu lắm.
      - Ông Kinh lý về bển, ông kiếm mua một cái nhà ở ngoại ô Paris, có một miếng đất hơn một mẫu. Em phụ với ông mua đồ dọn nhà ở yên rồi, ông dắt em vào một trường trung học ở gần đó mà xin cho em học. Em đã 19 tuổi rồi, theo phép em phải học lớp nhứt, lớp nhì mới được. Ông Kinh lý nói em là người ngoại quốc,vì thấy em ham học Pháp-văn nên ông nuôi làm con, đặng cho em ăn học, để phổ thông văn hóa của nước Pháp. Có trường hợp như vậy, nên hiệu trưởng mới chịu nhận cho em học, song để em ngồi học lớp thứ tư. Ông kinh lý có mướn một chị nấu ăn với một chú làm vườn nên ông để em đi học, không cho làm việc nhà. Ông cho ăn cơm chung và ngủ phòng kế phòng ông, đặng ban đêm ông dạy em học. Em nỗ lực học đêm học ngày, đặng theo kịp chúng bạn nhỏ tuổi hơn em.
      - Thiệt lớn mà học lớp nhỏ khó chịu lắm.
      - Ông Kinh Lý nghỉ đủ sáu tháng rồi, ông viện lẽ bịnh, xin nghỉ thêm sáu tháng nữa. Em sợ ông mãn phép rồi ông trở qua bên mình, ông bỏ em bơ vơ. Té ra ông nghỉ đủ một năm rồ,i ông hưu trí ở luôn bên Pháp. Em qua mặt chúng bạn hết thảy. Ðến năm 24 tuổi, em đậu đủ hai bằng tú tài, mà tú tài của em về khoa toán pháp. Em học được thành công em mừng hết sức.
      - Năm trước nếu ông Bồi có tiền cho em qua Cần Thơ mà học đi nữa, chưa chắc sau em có bằng tú tài.
      - Bẩm thiệt vậy, mà ông Kinh Lý giúp cho em thành công, ông đắc chí hơn em nữa. Năm đó nghỉ hè ông dắt em ra mé biển nghỉ mát với ông một tháng. Ông buộc em phải kêu ông bằng “Papa”, không cho kêu “ Monsieur” nữa. Ông tính cho em học cao hơn nữa. Ông nói xứ mình là xứ mới, sẽ có công việc kiến trúc nhiều -- tu cầu, đắp lộ, cất nhà, đào kinh. Muốn dễ bề làm ăn phải học theo ngành đó. Ông khuyên em nên vào trường Công Chánh mà học thêm ít năm đặng lấy bằng Kỹ sư.
      - Ông Kinh Lý tính hay lắm. Đời nay học nghề chuyên môn mà làm kỹ thuật gia quý hơn. Chắc em nghe lời ổng hả?
      - Dạ, em nghe lời nên học trường Công chánh ba năm em lấy bằng kỹ sư.
      - Suớng quá! Đi ở bồi, mà nhờ có chí ham học, đặng lập thân, nên lần lên Tú Tài, rồi thẳng tới kỹ sư Công chánh. Ít ai có được vậy. Trong hai người, một người phải có chí cương quyết lập thân như em, còn một người phải có lòng thành nhơn, chí mỹ như ông La-Co mới gây ra được một chuyện kỳ quái như vầy. Tiếc vì thanh niên Việt Nam ít có bồi Phan Văn Quí, mà nguời Pháp cũng chưa nhiều kinh lý La-Co, bởi vậy chuyện kỳ quái như vầy, thầy để ý ao ước từ lúc thầy còn ôm sách vở đi học, mà đến ngày nay thầy già rồi thầy mới thấy được thực hiện. Tuy thấy trễ song thấy được, vậy cũng đủ cho thầy vui lòng. Có lẽ chừng thiên hạ hay cách em lập thân đây, sợ có người nói em nhờ mạng số tốt, hoặc nhờ kiếp trước tu dầy công, nên em mới được hưởng phước. Thầy không muốn tin mạng số, mà cũng không muốn tin kiếp tu, thầy đoán chắc em làm nên, là nhờ em biết cương quyết lập thân, và nhờ em khéo tu dưỡng tâm tánh, nên nguyện vọng của em mới được thỏa mãn. Lời của ông La-Co nói đúng lắm -- ông nói ông thấy em trung thành, ngay thẳng, ham học, hiền lành, ông thương nên ông muốn nuôi em ăn học đặng em lập thân. Ấy vậy ở đời, em muốn tu tâm dưỡng tánh, cư xử cho đúng đắn đàng hoàng, phải nuôi thiện chí, phải ráng kiên nhẫn,đừng gian xảo, đừng tham lam, chịu thanh cao, ghét hèn hạ, ăn ở như vậy, tự nhiên thiên hạ phải thương yêu, quý trọng, dầu không có nguời nầy, thì sẽ có người khác nâng đỡ giúp dùm, không sớm thì muộn, thế nào mình cũng nên danh, khỏi dua bợ ai hết.
      - Em nhờ thầy dạy dỗ nhiều, nên em mới biết ăn ở cho người ta thương mà giúp em.
      - Em biết như vậy thì càng làm cho thầy vui hơn nữa. Thầy có một đứa con, thầy ráng tập cho nó nên người, tuy nó làm giáo sư không cao sang chi lắm, song nó không để hổ với chức nghiệp của nó. Thầy rất hài lòng. Nay thầy được nghe một học trò cũ của thầy, nói nhờ làm theo lời thầy dạy dỗ, nên được thành công, thì thầy thêm nở mày nở mặt với thiên hạ nữa. Hồi nãy em nói ông La-Co chết đã ba năm rồi. Em đã có bằng Kỹ sư, lại ông La-Co chết nữa. Vậy em còn ở bên Pháp làm chi mà tới bây giờ em mới về?
      - Bẩm thầy, tại có chuyện khác nữa. Khi em có bằng Kỹ sư rồi, em muốn kiếm chỗ đi làm cũng như tập cho quen. Ông cha nuôi của em không cho. Ông nói ông già, lại hay có bịnh, nên ông biểu em ở nhà hủ hỉ với ông cho đỡ buồn, vì ông không có vợ con chi hết. Vì em thọ ơn của ông quá nhiều, nên em không dám trái ý ông. Thiệt năm đó ông thường có bịnh, em phải chăm nom các việc trong nhà, nhứt là thuốc men ăn uống cho ông. Tuy ông đãi em như con, song em không hề dám vượt khỏi bổn phận tôi tớ. Từ khi được qua Pháp, em cứ chăm chú lo học, em không muốn tìm hiểu việc nhà của ông. Mà việc nhà của ông thì ông lo, không bao giờ ông nói cho em biết. Năm đó ông hay bịnh nên sức giảm nhiều. Ông viết thơ mời Nô- Te đến nhà đặng ông lặp tờ chúc ngôn. Em không dám dự việc đó, em biết ông không có vợ con, còn trong thân tộc ông có một người em gái kêu ba ông bằng cậu, người ấy có chồng giàu ở dưới Marseilles. Em tưởng ông có tiền bạc gởi băng với nhà đất ông ở đó mà thôi, ông làm di chúc sẽ để hết cho người em gái đó hưởng. Bịnh ông càng ngày càng tăng thêm chớ không bớt. Nhưng tinh thần ông vẫn còn đầy đủ hoài. Một buổi tối, em ngồi bên giường đọc sách cho ông nghe một hồi, ông biểu thôi, để ông nói hết việc nhà của ông cho em hiểu. Ông nói rằng ông qua Nam Việt Nam Kinh lý hai mươi lăm năm, ông có gây ra một sự nghiệp lớn, có ruộng, có vườn và với huê lợi ruộng vườn đó ông có hùn với vài hãng công nghệ thịnh vượng. Ông cũng có tiền gởi băng cũng nhiều. Ông không có vợ con, chỉ có một đứa em gái nó đã có chồng giàu, lại vợ chồng nó mắc lo buôn bán lớn bên Pháp, không thể qua ở bên Nam Việt được. Vậy ông đã rước Nô-Te lập chúc ngôn rành rẽ rồi. Người em gái của ông không cần ông giúp. Nhưng vì tình cậu em nên trong chúc ngôn ông chỉ để cho cô một triệu quan đặng ngày sau cô làm của hồi môn cho đứa con gái của cô. Chị bếp nấu ăn với chú làm vuờn mấy năm nay giúp công cho ông, nên ông cho mỗi người năm mươi ngàn quan. Còn lại các tài sản là ruộng vườn, nhà cửa, phần hùn trong mấy hãng với số tiền bạc còn dư để trong băng thì ông giao hết cho em.
      - Uý! Cha chả ! Nếu vậy thì ông thương em đến nhận em làm con, đặng kế nghiệp cho ông hay sao?
      - Bẩm phải . Nhưng giao tất cả sự nghiệp cho em, ông có buộc ít điều kiện, chớ không phải giao cho em làm chủ đặng lên mặt nhà giàu ăn xài thoả thuê.
      - Ông buộc điều kiện gì? Sự nghiệp của ông đáng chừng bao nhiêu? Thiệt việc nầy ngoài trí tưởng tượng của thầy. Đã nuôi em ăn học thành tài, rồi còn để gia tài sự sản cho em hưởng nữa! Hồi trước thầy biết ông La-Co tử tế, nhưng thầy không dè ông tử tế đến bực nầy.
      - Khi em nghe ông nói tới việc đó, em cũng ngạc nhiên như thầy bây giờ. Ông Kinh lý thấy em cảm động, bối rối, ông nói thêm rằng tờ di chúc với các bằng khoán và giấy tờ về tài sản của ông, thì ông giao hết cho NôTe lãnh giữ. Tài sản đó có một ngàn mẫu ruộng tại Kinh Thị Đôi trong tỉnh Rạch Giá, một sở vườn cao su tám trăm mẩu trong tỉnh Biên Hoà, một sở vườn cà phê năm trăm mẩu trên Ban Mê Thuột,cổ phần hùng ba trăm ngàn trong một hãng xe hơi và ba trăm ngàn trong một hãng thuốc điếu tại Sài Gòn. Còn số bạc gởi tại ngân hàng chia cho em ông rồi, thì còn hơn vài triệu.
      - Quá xá? Ông La-Co giàu như vậy mà thầy không hay chớ!
      - Em cũng không dè. Hồi ở bên mình thấy ổng đi do đất nắng mưa mệt nhọc. Chừng về Pháp thấy ông mua nhà tầm thường với miếng đất nhỏ mà ở, em biết ổng có tiền, nhưng có dè ổng là một triệu phú đâu.
      - Em thấy tâm trí của người ngoại quốc hay chưa? Giàu đến bạc triệu phú, mà người ta không se sua, không lãng phí, cứ lui cui làm việc luôn luôn, chớ không phải như người mình, hễ trong nhà có dư dược chút đỉnh thì lên mặt nhà giàu, cất nhà tốt, sắm xe hơi, áo quần loè loẹt, chơi bời liên miên, bài bạc rượu trà, không làm việc gì hết. Phải ông La-Co ở luôn bên nầy đặng làm guơng cho người mình thấy mà bắt chước.
      - Đối với em, ông tử tế chừng nào, ông càng làm cho em thêm lo sợ chừng ấy. Khi ấy em ứa nước mắt mà nói với ông, ông nuôi em ăn học thành tài, em chưa đền đáp cho ông nữa. Ông mới nói ông để gia tài của ông lại cho em là vì ông muốn cậy em thay thế cho ông mà làm hết một đại nghĩa, chớ không phải để gia tài cho em xài phí thỏa thuê. Số là ông nhờ đất nước Việt Nam mà làm giàu. Bây giờ già rồi, ông không có vợ con, mà lại của nhiều. Ông tính rải của ấy để giáo hoá cho con nhà nghèo. Gần em trót mười năm, ông nhận thấy em là người biết ơn nghĩa trọng danh giá, ham học chớ không ham chơi, sợ tội chớ không sợ chết. Ông thấy em là người đáng mang danh tánh La-Co đặng thế cho ông mà giáo hóa con nhà nghèo Nam Việt, có trí thông minh, có chí ham học, nhưng vì bần hàn nên cha mẹ không đủ sức cho học, đặng hấp thụ văn hoá Âu Mỹ. Ấy vậy trong tờ chúc ngôn, ông nhìn nhận em là con của ông, ông tự quyết giao hết gia tài sự nghiệp của ông cho em thừa hưởng. Ngày nào ông chết rồi thì Nô Te sẽ mời em, người em gái của ông với hai người gia dịch đến đặng đọc tờ chúc ngôn cho biết rồi giao tiền bạc cho ba người kia. Còn phận em, thì em làm tờ chịu nhận ông là cha và chịu lãnh gia tài, rồi giao tờ ấy cho NôTe đem đến toà với di chúc mà xin toà thị chứng. Việc xong rồi thì em mang tên họ là La-Co và hưởng tất cả sự nghiệp của ông.
      - Vậy thì bây giờ em theo quốc tịch Pháp chớ không phải người Việt nữa. Tên em là La-Co, chớ không phải Phan Văn Quí. Phải vậy hay không?
      - Bẩm thầy, phải… Chính việc đó làm cho em bối rối hết sức, không biết nên chịu hay là không nên chịu.
      - Thầy hiểu tại sao em bối rối .
      - Việc quan hệ quá, quan hệ về mặt quốc gia và tông tộc. Em không có ai sáng suốt ở gần mà hỏi ý kiến. Em tính viết thơ hỏi thầy, ngặt viết thơ thì lâu quá, lại không biết thầy còn ở trường Càng Long hay là đổi đi đâu. Em xin với ông Kinh lý cho phép suy nghĩ ít tuần rồi em sẽ trả lời . Ông nói việc ông cậy em đây là việc làm nghĩa, ông giao bạc tiền cho em nhơn danh ông mà làm nghĩa, có chi khó đâu mà phải suy nghĩ. Ông biết em giàu lòng tín nghĩa nên ông mới cậy em. Ông là người Pháp, vì thương người Việt nghèo không học được, nên ông xuất hết gia tài để giúp những kẻ xấu phước ấy hấp thụ văn minh. Em là người Việt có sẵn của, chỉ tốn công mà thôi lẽ nào em không chịu lãnh nghĩa vụ giúp cho đồng bào nghèo của em được tiến hoá cũng như đồng bào giàu vậy.
      - Ông tính đúng quá. Thầy kính phục ổng rồi . Ổng có gia tài lớn mà không có vợ con. Ông tính dùng gia tài đó mà làm luôn hai việc nghĩa một lượt -- giúp cho người Việt nghèo hấp thụ được văn hoá Pháp và yêu mến nước Pháp; đồng thời cũng giúp cho nước Pháp là tổ quốc của ông, gieo rắc văn hoá vào trí não nhiều người Việt nghèo, để gây mối cảm tình thân yêu Việt-Pháp.
      - Chánh đó là ý ông. Nhưng ông thấy em dụ dự ông có nói rõ như vầy -- để gia tài cho em không phải ông buộc em phải để hết mà làm nghĩa, không được xài riêng. Không phải vậy. Em thừa hưởng gia tài em có trọn quyền làm chủ. Em muốn xuất phát làm việc gì tuỳ ý. Ông còn dạy em khi về xứ sở, em phải lựa mua một sở đất giống rộng lớn, gần tỉnh lỵ Trà Vinh để cất một cái đền cho thiệt đẹp đặng em ở, cho thiên hạ gọi “đền của ông La-Co” mà nêu danh ông.
      - Sau cái đền ấy phải lập một cô nhi viện để nuôi trẻ mồ côi trai và gái, có trường cho chúng nó học chữ, học nghề; lựa những đứa thông minh gởi chúng nó đi học trường lớn hơn, rồi nếu coi học phát đạt, thì cho đi luôn qua Pháp để học tiếp. Cũng phải đến mấy trường trung học lựa những con nhà nghèo mà học giỏi, thì cấp học bổng cho chúng nó qua Pháp đặng vào mấy trường Cao Đẳng. Mà cho sinh viên qua Pháp, đừng cho học về khoa hành chánh, nên un đúc kỹ thuật gia tốt hơn, nhứt là nên cho nó học bá nghề như nông phố, thủy lâm, thú y, công chánh thương mãi, cơ khí, công nghệ, hàng hải,…
      - Ông không muốn người mình làm quan thấy hôn?
      - Bẩm phải, ổng muốn quảng khai kinh tế trước hết. Phải có tài chính dồi dào rồi muốn làm việc chi mới được, chớ kinh tế eo hẹp tự nhiên bị ngoại bang yểm chế.
      - Ông già nầy sáng suốt lắm. Ổng lo xa cho nước mình nữa kìa.
      - Ông lại nói các sở vườn và ruộng ổng có đặt sẵn người cai quản. Em chỉ đi kiểm soát, thâu huê lợi gởi vào băng, rồi dùng huê lợi ấy mà làm nghĩa là – Thứ nhất, giúp cho con nhà nghèo học, thứ hai, cứu những người bị tai nạn. Ông nhận thấy em là người biết giữ thanh cao, biết trọng danh dự, ham làm việc công ích, dám chết với nghĩa vụ, nên ông phú thác tất cả tánh danh cùng tài sản của ông cho em khai hóa và giúp đỡ đồng bào nghèo khổ của em. Em đã nhờ ông mới vượt khỏi vùng lầy. Em không được phép co tay, để cho đồng bào nghèo của em cứ làm trâu cho họ cày, làm ngựa cho họ cỡi.
      - Nghe em nói thầy cảm quá. Ông La-Co là người Pháp mà ông dám đem hết tài sản ra làm nghĩa với đồng bào mình. Em là người Việt, lại em nhờ ông mà được thành danh, có lẽ nào em từ chối không chịu đáp nghĩa với ân nhân, không chịu ra tay cứu gíup đồng chưởng.
      - Em dụ dự là vì nếu em lãnh nhiệm vụ ông phú thác thì em mất quốc tịch, mất tánh danh. Một bên là ơn dầy với nghĩa vụ, còn một là tổ quốc với tông môn, em phải theo bên nào, phụ bên nào?
      - Thiệt, người biết quý trọng danh dự bối rối cũng phải. Khó xử quá! Hai bên đều có cái phải, với cái không phải, đồng nhau. Vậy theo ý thầy thì em đứng bên nào cũng được, có cái phải nó bù trừ cái quấy, nên người ta khó mà trách em ham tiền bạc, quên ông cha, hay là vì đạo nhà mà bỏ nghĩa lớn.
      - Em bối rối mà không có thầy cho em hỏi, để ơn nghĩa tràn ngập lòng em, rồi em xuôi xị, hiến cả thân danh cho ân nhân xử dụng. Cách vài tháng sau ông Kinh lý mất, Nô Te mời hết mấy người được hưởng gia tài của ông đến mà đọc tờ chúc ngôn. Nô Te biểu em ký tờ chịu nhìn ông Kinh lý là cha và chịu lãnh gia tài. Người em gái của ông bất mãn, nên mướn luật sư kiện xin huỷ tờ chúc hôn đặng cô hưởng trọn gia tài. Em phải ở lại bên Pháp mà hầu kiện. Trong lúc chờ đợi toà phân xử, em buồn nên em viết thư ký tên La-Co, gởi cho quan Tham biện Trà Vinh cậy ngài hỏi dọ rồi cho em biết – 1. Tin tức về cha em coi còn sống hay đã chết, về ăn ở bây giờ thể nào,vợ con nên hay hư. 2. Tin tức về thầy, coi còn ở trường Càng Long hay không. Như đổi đi thì cho biết địa chỉ mới. 3. Tin tức về vợ chồng Ba Thới với người con gái tên Hường, bán quán tại ngã ba Suối Cạn. Cách vài tháng sau, quan Tham biện Trà Vinh gởi tờ phúc trình của quan chủ quận Càng Long cho em biết rõ các tin tức. Nhờ vậy em mới được biết -- Cha em mất, ruộng đất tiêu hết, chỉ còn nhà thờ với ruộng hương hoả. Mẹ ghẻ em cứ mê bài bạc. Chị em rách rưới cực khổ. Em em không học hành cứ du hí hằng ngày. Thầy đã hưu trí về ở Trà Vinh. Chồng Ba Thới chết. Vợ con tiếp tục bán quán đủ ăn. Cô Hường còn ở với mẹ, chưa lấy chồng.’
      Em ở bên Pháp đợi tới năm ngoái Toà mới xử xong vụ kiện đó, toà bác đơn của tiên cáo, lên án nhận em là con của ông La-Co đủ quyền thừa hưởng gia tài của ông theo tờ di chúc. Em về bên xứ đặng lo thi hành ý định của ông cha nuôi em.
      - Toà xử xong từ năm ngoái, sao em để tới bây giờ mới về.
      - Bẩm thầy, em về từ năm ngoái, nhưng em ở trên Sài Gòn. Em chưa ra mặt là vì em mắc lo ba việc này: 1. Mua đất, cất nhà và lập cô nhi viện theo ý ông cha nuôi em dạy. 2. Sắp đặt lại gia đình của em lại cho đàng hoàng, làm cho người chị em hết cực khổ, và đem bà mẹ ghẻ với thằng em em trở lại người ngay. 3. Dọ coi cô Hường, con gái của Ba Thới có phải cô vì nặng tình với em nên cô ở vậy mà chờ em hay không. Nếu thiệt như vậy thì em phải cưới cô và đáp tình trả nghĩa. Hôm nay cả ba việc đều gần xong. Nhà cửa cất gần rồi. Hôm tháng trước em giả dạng nghèo hèn, ăn bận như vầy về ở Càng Long, chưa nói cho ai biết về việc riêng của em. Em đã cải thiện đạo nhà của em được rồi. Chị em hết khổ. Mẹ ghẻ với em em hết dám bài bạc chơi bời. Em lại nhận thấy thiệt quả cô Hường vì nặng tình với em, nên mười hai năm nay cứ chờ em, không chịu lấy chồng. Nay em trở về quần áo lang thang bạc tiền không có, nhưng cô không chê, cũng vẫn nặng tình như cũ.
      - Nếu vậy thì cuộc nhà kinh dinh đương cất bên ngoài đường châu thành, chỗ cây dầu một đó, là cuộc của em tổ chức phải hôn?
      - Bẩm, phải. Năm ngoái về tới Sài Gòn em cậy người xuống đây kiếm đất. Em có xuống, em coi rồi em mua. Em vẽ bảng đồ, mượn người coi cất nhà và sửa soạn cho thiệt đẹp.
      - Đẹp quá lại lớn quá. Hôm đầu tháng thầy nghe người đồn, thầy có đến coi chơi. Cất theo kiểu đền đài bên Pháp, nên xem hùng vĩ quá. Phía sau còn đất trống lớn dữ.
      - Bẩm chỗ đó sẽ cất cô nhi viện để nuôi trẻ mồ côi.
      - Làm tốn tiền nhiều quá.
      - Phải làm theo ý ông cha nuôi em, cho nên em bỏ ra một triệu mà tạo thành cuộc ở với cô nhi viện. Hôm nay em đến đây, trước thăm thầy và tỏ lời cảm ơn thầy dạy dỗ em, nên em biết đường mà đi, sau nữa em yêu cầu thầy với thím về ở nhà mới đó với em, đặng thầy trò ta hiệp lực đồng tâm mà giáo hoá và nâng đỡ hạng người nghèo khổ. Thầy tuy già, song sức còn khoẻ. Em cất nhà em có kềm hai bên hai cái lầu ba từng. Thầy thím muốn ở bên nào tuỳ ý. Được vậy, thì em có người cố vấn sáng suốt dạy biểu em và quản xuất ở trong, em rảnh rang chạy bận ở ngoài. Thầy đã có cảm tình với ông La-Co. Thầy lại cho sáng kiến của ông ấy là cao quý. Vậy thầy hiệp với em mà tác thành cuộc đại nghĩa theo ý ông, có lẽ ông ở dưới Cửu tuyền, ông sẽ vui thấy người bạn cũ không phụ tình ông tuy là dị chủng.
      Thầy nhứt Vĩnh ngồi tư lự một chút rồi nói:
      - Thầy già rồi nên tính trồng hường mà chơi vậy thôi. Nhưng gặp đại nghĩa mà làm lơ, té ra ích kỷ. Vậy để thầy suy nghĩ lại coi.
      Quí thấy thầy không từ hẳn thì mừng nên nói:
      - Nếu em được thầy đứng sau lưng chỉ huy, thì chỗ ấy hoạt động mạnh lắm vậy. Em còn xin hỏi ý kiến thầy về việc trăm năm của em. Em với cô Hường con của dì Ba Thới, bán quán tại ngã ba Suối Cạn, từ thơ bé đã trìu mến nhau. Em đi 12 năm, cô ở nhà chờ em, không lấy chồng. Em thấy rõ có một dây ái tình buộc chặt cô với em. Xin thầy nghĩ thử coi vợ chồng học thức bất đồng, nhưng tình với nghĩa nặng dầy,có thể kết chặt tóc tơ trăm năm bền vững hay không?
      Thầy nhứt Vĩnh cười mà đáp:
      - Đó là một vấn đề thắc mắc khó giải. Em với cô Hường đã yêu nhau từ nhỏ, nếu bây giờ thầy nói nếu không nên phối hợp vợ chồng, té ra thầy phá đám làm tan rẽ ái tình của hai trẻ. Còn như thầy nói nên phối hiệp, rủi ngày sau vì tâm chí bất đồng, vợ chồng không hòa thuận, thì thầy mang tiếng xúi bậy.
      - Tình với nghĩa có thể bổ khuyết cho học thức được hay không?
      - Nếu tình thiệt nồng, nghĩa thiệt nặng, hai đàng biết chăm chế cho nhau thì được, được về mặt gia đình, nghĩa là ăn ở với nhau trong nhà có thể hòa thuận. Ngặt em mang một nghĩa vụ lớn lao, em phải sống với xã hội nhiều hơn là sống với gia đình. Một vị Kỹ sư với một gái thôn quê, tâm chí khác nhau một trời, một vực. Cái của em hay cô nọ không biết quý, cái của cô nọ hay em không có chỗ dùng. Thầy sợ tâm chí bất đồng, vợ chồng không hiểu biết nhau, không giúp đỡ nhau, mỗi người đi một đường riết rồi lợt lạt làm cho phai cả tình nghĩa. Vậy việc đó em phải suy nghĩ cho kỹ rồi sẽ quyết định. Nếu hai đàng tuy học thức và tâm chí bất đồng, song người vợ biết chuyên lo bề nội trợ, để cho chồng khoẻ trí mà lo việc xã hội, chia trách nhiệm ra làm hai, vợ lo trong, chồng lo ngoài, được vậy thì cũng êm. Thầy nói êm chớ không nói êm ấm, bởi vì ai lo phận nấy, có chia buồn chung vui gì đâu mà nói êm ấm, khỏi sanh rầy rà đó là may. Cái cảnh vợ chồng nó tâm tâm mù mù, nó hay biến đổi trăm hình ngàn tướng không có gì rõ ràng, chắc chắn hết em ôi. Không có vợ thì buồn, mà có vợ cũng không chắc gì vui. Chỉ có người say sưa mê mệt với gia đình, không để ý đến những điều gai mắt, trái tai lặt vặt, thì mới vui được. Vậy em tự liệu, em hỏi em coi thiệt em thích có vợ, có con chàng rang chộn rộn chung quanh em hay không. Như em thích cái cảnh đó, lại em gặp người yêu em, mà em cũng yêu người, thì em cưới đi. Còn như em thích cảnh đời thanh vắng để trí yên tịnh mà lo việc xã hội, nhắm đường tương lai thì thầy khuyên em nên ở một mình thì tốt hơn là cưới vợ, rồi sau chán nản lạnh lùng mà để bỏ.
      Quí ngồi nghe ông thầy cũ nói nhiều quá, mà ông cứ nói phân hai, không chịu kêu phải cưới cô Hường mà cũng không cản trở, thì chàng lơ lửng ở ngã ba đường, không biết bước chưn vào ngã nào. Chàng đứng dậy lấy cái nón ôm trong mình mà nói:
      - Bẩm thầy em xa cách thầy 12 năm, bây giờ được gần thầy, được nhờ thầy rọi đuốc vào cái nẻo đường cho em thấy, đâu là phải, đâu là quấy đặng em liệu mà đi. Em thành thiệt cảm ơn thầy. Về việc vợ chồng để em suy nghĩ lại rồi em sẽ quyết định. Còn về việc em yêu cầu thầy ra công chỉ bảo cho em khai hoang đồng bào mà đáp nghĩa cho ông La-Co, em xin thầy vui long nhận lời em cho em vững bụng mà tiến mạnh trong đường đại nghĩa.
      Thầy Nhứt Vĩnh đứng dậy nắm tay Quí mà nói:
      - Hay em thành thân một cách rực rỡ phi thường, thầy mừng lắm. Việc em nói đó để thầy suy nghĩ ít bữa. Chúng ta còn gặp nhau nữa rồi sẽ bàn thêm.
      Thầy đưa Quí ra tới sau, Quí đứng lại xin thầy đừng tiết lộ công việc của Quí cho ai biết trước, rồi mới từ biệt mà về.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.02.2006 03:59:54 bởi NuHiepDeThuong >
      #18
        NuHiepDeThuong 10.02.2006 15:37:16 (permalink)
        Chương 19

        Quí với Hường gây cảm tình cùng nhau từ ngày còn ngây thơ.
        Theo Quí thì Quí yêu Hường cũng như người anh trai yêu người em gái, xa nhau thì nhớ, gần nhau thì vui. Yêu ấy cũng thân thiết, cũng nồng nàn, nhưng yêu thẳng ngay, trong sạch, không có gian, không vì nhục dục, như thứ yêu nhảm nhí mà hạng thanh niên nam nữ thời nay thường gọi là « ái tình » đó vậy.
        Xa cách nhau đến mười hai năm, Quí mới trở về. Quí với Hường gặp nhau lại. Bây giờ hai người đã lớn rồi. Nhưng mà tình vẫn còn nồng nàn, lòng vẫn còn mừng rỡ như xưa.
        Giả dạng nghèo nàng về ở Càng Long gần hai tháng nay, Quí được biết Hường quyết chờ mình chớ không chê mà đổi ý.
        Thuở nay Quí đặt tất cả tâm trí vào sự tập thân thành danh; lửa ái tình chưa hề có nhen nhóm trong lòng Quí. Cách mấy bữa trước nghe Hường bày tỏ chơn tình với mình thì Quí cảm động vô cùng. Hễ nằm một mình thì Quí cứ tự hỏi thầm trong trí mấy câu này.
        « Mình đã lãnh một nghĩa vụ của ông La-Co phú thác. Mình có nên cưới cô Hường làm vợ rồi tỏ thiệt mọi việc cho cô hiểu mà cậy cô giúp với mình đặng tròn nghĩa vụ ấy hay không? Cô với mình học thức bất đồng, chí hướng cũng bất đồng, hai người có thể hiệp hòa mà lo làm nghĩa vụ ấy hay không? Được lên địa vị cao sang, ở nhà tốt, có tiền nhiều cô sẽ lên mày, lên mặt, đổi tánh tình, rồi dùng ám lực của tình yêu mà hấp dẫn lôi cuốn mình qua đường xa hoa mà bỏ phế nghĩa vụ hay không? »
        Đó là mấy câu Quí tự hỏi mà không trả lời được, bởi vậy mẹ con dì Ba Thới rủ đi tìm xem đền đài, Quí không sốt sắng. Xuống xem rồi, Quí đi tìm ông thầy cũ đặng tỏ tâm sự cho ông nghe, và hỏi ông có nên cưới cô Hường để chia sớt gánh nặng với mình hay không.
        Thầy nhứt Vĩnh thấy cô Hường chứa chan tình nghĩa, song thiếu thốn giáo dục nên thầy cứ nói phân hai, cứ bàn cô Hường có chỗ hay và có chỗ không hay, cứ khuyên Quí phải suy nghĩ mà liệu lấy, chớ vì nghĩa vụ của mình nặng nề nên thầy không dám xúi, mà cũng vì tình nghĩa của Hường tràn trề nên thầy không nỡ cản.
        Cách dè dặt của thầy nhứt Vĩnh đã không rọi vào trí của Quí được một tia sáng nào, mà lại làm cho mù mịt thêm, làm cho càng thêm bối rối. Nếu không cưới Hường thì thành ra là người bất nghĩa vô tình.
        Mà chừng mình đổi dạng thay tên, mang cái danh Kỹ sư La-Co, về ở đền đài nguy nga, thâu xuất bạc triệu, thì thiên hạ họ lại chê cười mình được sang quên hèn, được giàu phụ khó!
        Vì bối rối đó mà buổi chiều, Quí ở Trà Vinh về Quí đi luôn về nhà, không muốn ghé tiệm dì Ba Thới . Mà khi về tới nhà, Ba Mùi hỏi đi xem đền đài tốt lắm phải hay không, thì Quí nói lơ là, coi bộ không thỏa thích, chớ không phải như Mỹ từ hồi trưa cứ tán dương công cuộc kinh dinh đồ đạc Quí báu, ông xếp tử tế dắt đi coi cùng hết, mời uống rượu, lại còn đưa xe xuống chợ Trà Vinh.
        Quí lửng lơ suy nghĩ trót 2 ngày. Buổi chiều ăn cơm rồi, chàng ra đứng ngoài cửa ngõ. Một đứa nhỏ cưỡi một con trâu lớn và dắt hai con nhỏ ở dưới mẫu băng lên dồng, nó cất tiếng mà hát:
        Anh ơi, anh đừng ham đó bỏ đây,
        Được lê anh quên lựu, có trăng anh phụ đèn.
        Câu hát nầy từ nhỏ Quí thường nghe, nên không lạ gì. Nhưng hôm nay Quí nghe rồi xúc động trong lòng.
        Quí ngước mắt ngó vào phía ngã ba Suối Cạn và cương quyết nói trong trí:
        - Tôi không thể bỏ Hường! Tôi không nên phụ Hường! Nếu tôi không chịu đền đáp tình dài nghĩa nặng của Hường thì tôi là một thằng trai vong tình bội nghĩa, xấu hổ lắm! Khiếp nhược lắm! Tôi phải cưới Hường, không được bỏ.
        Quí xăng xớm đi vô tiệm dì Ba Thới. Mặt trời chen lặn. Chim cò đi kiếm ăn, thấy gần tối nên bay về ổ đóng trong mấy lùm cây lớn chung quanh đình An Trường. Dì Ba Thới đứng chơi ngoài sân, thấy Quí lơn tơn vô, thì dì mừng nên nói lớn:
        - Dữ hôn ! Làm gì về hai bữa rày rồi biệt mất, không vô nói chuyện chơi vậy con?
        Quí cười rồi đi thẳng vô tiệm, không trả lời. Dì Ba theo vô nhà và nói tiếp:
        - Con Hường đi coi hổm nay nó khen tốt đã đành, nó cằn nhằn, nó nói họ có tiền bạc nhiều, họ vãi ra làm việc vô ích. Có tiền nhiều thì cất một cái nhà vừa vừa đủ ở, còn dư thì giúp kẻ nghèo nàn thiếu thốn phải có ơn hơn hay không.
        Quí đi ngay lại cái võng vừa nằm vừa nói:
        - Ông xếp có chỉ miếng đất lớn phía sau mà nói sẽ cất nhà mà nuôi trẻ mồ côi, lập trường dạy học chữ, học nghề, vậy thì được lắm, chớ sao lại chê người ta làm việc vô ích.
        Hường ở trong bước ra hỏi:
        - Có anh Quí vô hả? Đi coi rồi về sao trốn mất, không vô nói chuyện chơi vậy anh Quí?
        Quí cười mà đáp:
        - Về rồi mắc có chuyện nhà. Mà coi cho biết vậy thôi, chớ có chuyện chi đâu mà nói.
        - Thiệt việc người ta làm quá trời quá đất, mình đâu dám khen chê. Nhưng coi rồi mình cũng nên bàn luận chơi mới được chớ.
        - Chị Mỹ chỉ khen quá, phải hôn em?
        - Thuở nay chỉ có thấy gì đâu mà không khen. Chỉ được biết chợ Trà Vinh chỉ khoái hết sức.
        - Tội nghiệp chỉ quê mùa quá. Từ rày sắp lên anh ở nhà, anh dắt chỉ đi chỗ nầy chỗ kia chơi cho chỉ biết với người ta.
        - Trời ơi ! Đi chơi phải tốn tiền dữ lắm. Giàu có gì mà đi chơi.
        Dì Ba Thới nói:
        - Thiệt vậy, phải giàu mới đi chơi được chớ, nghèo thì có bạc tiền gì đâu mà đi.
        Hường hỏi:
        - Anh muốn uống nước trà hôn? Như muốn thì em cậy chị Điệu nấu nước.
        Quí lật đật nói:
        - Thôi, thôi, qua ăn cơm uống nước rồi, nên chưa khát.
        Hường cười và nói:
        - Vậy để em đốt đèn cho sáng rồi em hỏi anh ít chuyện.
        Hường lại bàn thờ để bưng đèn toạ đăng đem để trên bàn, rồi ngồi quẹt hộp quẹt mà đốt. Dì Ba Thới nằm trên ván gần đó mà nói:
        - Hổm nầy dì nghĩ không ra. Ông nào đó muốn sắm cuộc ở làm chi mà dữ tợn vậy. Muốn cất nhà tốt đặng ở chơi cho sung sướng, sao không cất trên Sài-Gòn, lại cất chỗ đó? Kỳ quá, hiểu không nổi.
        Hường cười mà hỏi Quí:
        - Anh hiểu tại sao họ cất chỗ đó hay không anh Quí?
        - Làm sao qua hiểu được. Tại sao em hỏi qua như vậy?
        - Thấy anh nói chuyện nhiều với ông xếp, em tưởng ổng có nói với anh.
        - Ổng không có nói. Mà qua cũng không có hỏi. Chuyện của người ta mình được xem là may, tìm hiểu ý của chủ nhà làm chi.
        - Cũng nên hỏi cho biết chớ, hổm nay em trông gặp anh, đặng em hỏi ít chuyện. Anh cho phép em hỏi hay không?
        - Em muốn hỏi việc chi thì cứ hỏi đi.
        - Trước hết em hỏi anh việc nầy -- hôm trước mỗi lần má em hoặc em cậy anh dắt đi coi đền đài, thì anh không được sốt sắng. Rồi bữa nọ, xuống chỗ đó, ai thấy việc kinh dinh, đồ đạc thứ nào cũng đẹp, thì trầm trồ khen ngợi, duy có một mình anh lơ lãng, bộ buồn hiu. Tại sao vậy?
        - Em thấy qua buồn hay sao?
        - Thấy chớ. Má em với chị Mỹ cũng đều thấy anh buồn, chớ có phải một mình em thấy đâu.
        - Qua đã nói với em, qua có cặp mắt khác hơn người ta. Cặp mắt qua đã từng thấy đủ thứ hết, thấy tốt, thấy xấu, thấy dữ, thấy ngay, thấy gian, bởi vậy qua thấy không còn ưa hay ghét thứ gì, khen hay chê ai nữa. Huống chi phận qua nghèo, qua thấy nhà kinh dinh, đồ lộng lẫy, qua vui làm sao cho được mà em biểu qua vui.
        - Mình không thể sắm nổi đồ quý. Mình thấy người ta sắm được thì mình mừng dùm cho người ta. Nếu mình thấy rồi mình buồn, té ra mình có lòng đố kỵ hay sao?
        - Em nghĩ như vậy thì đúng lắm. Đố kỵ là tánh thường tình của con người . Qua buồn có lẽ cũng vì đố kỵ nhiều ít. Mà điều qua chắc chắn là tại cặp mắt qua thấy đủ thứ hết rồi, nên không còn biết chi là đáng vui hay đáng buồn nữa.
        - Anh quen ông xếp ở đó ?
        - Không quen.
        - Không quen sao ra mở cửa, ổng thấy anh ổng dỡ nón ổng chào, rồi hồi uống rượu ổng cứ theo nói chuyện với anh?
        - Tại qua biết nói tiếng Pháp nên ổng ưa nói chuyện với qua chớ sao.
        - Em tưởng có cái gì khác chớ không phải vậy ?
        - Có cái gì?
        - Nói chuyện với anh mà bộ ổng kính nhường anh lắm.
        - Người có lễ giáo hễ nói chuyện với khách thì phải vậy chớ sao.
        - Hứ! Không phải… Mấy bà con em về rồi, anh có gặp ông xếp đó nữa hay không?
        - Không, xe chạy rồi, qua đi kiếm nhà thầy Nhứt Vĩnh qua thăm, ở nói chuyện tới chuyến xe chót mới về.
        - Má em chắc anh về anh ghé, nên biểu chờ anh về rồi sẽ dọn cơm đặng mời anh ăn luôn thể. Té ra xe về mà chạy luôn không ghé. Em thấy anh ngồi trên xe, nhưng chạy ra không kịp mà kêu.
        - Tại qua thăm thầy qua, thầy thuật mọi việc ở nhà cho qua nghe. Qua buồn quá nên qua về luôn. Mấy bữa rồi cũng vì buồn nên qua không đi đâu hết.
        Dì Ba Thới ngồi dậy mà nói:
        - Thì chuyện như vậy đó, dì đã nói đủ cho con nghe hết rồi, có gì đâu mà buồn.
        - Tuy vậy mà nghe thầy con nhắc lại rồi con cũng buồn nhớ.
        - Thôi chuyện đã qua rồi, con nên quên phứt đi, để trí cho vui mà lo chuyện sắp tới. Việc nhà con, con đã sắp đặt lại, dì coi được lắm. Bây giờ con lo làm ruộng trồng rẫy, con gắng công chịu cực là một năm có lẽ con sẽ phục nghiệp cũ lại được, không khó gì đâu.
        - Thưa dì, bữa nay có sẵn dì với em Hường đủ mặt, con muốn hỏi thăm dì một việc coi dì liệu lẽ nào.
        - Hỏi thăm việc gì?
        - Hôm trước đi đám giỗ về, con ghé đây, không có dì ở nhà. Con nói chuyện với em Hường. Em chịu thiệt với con rằng trong 12 năm nay em không chịu lấy chồng là vì em chờ con.
        - Thì nó chờ con chớ sao.
        - Con có hỏi em -- bây giờ con trở về với hai bàn tay không, con nghèo lắm, em có đành làm vợ con hay không, thì em nói nghèo giàu gì em cũng đành hết thảy.
        - Nghèo nỗi gì? Con ở nhà thờ, con hưởng 12 mẫu ruộng hương hỏa sao lại gọi rằng nghèo? Vợ chồng có bao nhiêu đó cũng đủ sống với cảnh đời thong thả. Còn nếu cần kiệm gắng công mà làm, thì cũng có thể thành một nhà giàu nho nhỏ được lắm.
        - Dì cũng bằng lòng gã em Hường cho con hay sao?
        - Sao lại không bằng lòng? Dì đã có ý đó từ khi hai đứa còn nhỏ kìa chớ. Tại con bỏ đi mất nên câu chuyện phải dẹp mà chờ.
        - Con rất cám ơn dì.
        - Con muốn cưới chừng nào cũng được. Nhưng tốt hơn là cưới sớm sớm, đặng mùa mưa sắp tới đây vợ chồng hiệp nhau làm ruộng trồng rẫy cho khỏi trễ.
        - Thưa, hiện giờ con chưa có tiền. Ông chủ cũ của con có hứa gởi tiền cho con, mà con chờ hai tháng rồi chưa thấy gì hết.
        - Đám cưới làm sơ sài cho có lệ vậy thôi. Làm rình rang làm chi cho tốn hao.
        - Thưa, cũng phải sắm áo quần, cũng phải có đôi bông với nữ trang chút đỉnh mới được chớ. Lại đám cưới phải nhóm họ, nếu không mời hết cả làng thì cũng phải mời nhóm vài người thân thiết, chớ làm âm thầm quá cũng tội nghiệp cho phận em Hường.
        - Ôi! Đời nầy mà cần gì. Vợ chồng thương nhau là quý hơn hết. Dì gả dì không đòi gì hết. Nếu con có dư dả thì đi một cặp áo với một đôi bông hột trai đáng năm mười đồng vậy thôi. Còn nếu nhóm họ thì mời năm bảy người cũng được, cần gì phải mời đông.
        - Dì nói như vậy, thôi để chờ ít bữa coi rồi sẽ tính. Nếu con không được thơ, có lẽ con phải lên Sài Gòn ít bữa đặng cậy người ta gởi thơ thúc ông chủ cũ con.
        Cô Hường nghe Quí tính cưới thì cô chúm chím cười mà hỏi:
        - Anh cưới em rồi anh vô đây ở, hay là em phải theo anh về nhà anh?
        - Qua ăn hương hỏa ở nhà thờ, hễ qua cưới vợ thì vợ qua phải về ở nhà thờ đặng lo cúng quảy ông bà. Qua bỏ nhà thờ vô ở đây sao được.
        - Vậy thì em phải bỏ má em, chắc má em buồn dữ.
        Dì Ba nói:
        - Dữ hôn! Về nhà chồng ở một bên, về đây xa xắc gì mà buồn.
        Quí ngồi dậy đi lại gần đèn mà nói:
        - Con gái hễ xuất giá thì phải tùng phu. Qua cưới em rồi, nếu qua muốn đi bên Tây bên Tàu, thì em cũng phải đi theo qua, em mất hết tự do mà không được cãi.
        Hường cười mà nói:
        - Trời ơi! Lấy chồng chớ phải bán mọi hay sao? Sắp lấy chồng mà nghe nói nghê quá.
        Quí cũng cười mà đáp:”
        - Ghê lắm mà. Để thủng thẳng rồi sẽ biết.
        Dì Ba Thới kêu cô Điệu biểu nấu nước đặng chế trà uống chơi. Hường lấy dĩa sắp bánh đãi Quí. Quí ăn bánh ngọt uống trà Tàu, nói chuyện chơi. Hường lập thế hỏi đón hỏi ren, có ý tìm hiểu trong 12 năm biệt tích Quí đi đâu, làm việc gì. Nhưng mưu mô của Hường không nổi. Quí cứ dùng câu pha lửng, mượn cách úp mở mà nói chuyện, chung cuộc rồi Hường cũng không biết gì hết, vẫn tưởng Quí ở đợ với người nầy, giúp công với người nọ, khi ra Bắc, lúc lên Lèo, trôi nổi theo phong trần, lặn hụp trong nghèo khổ. Quí ở chơi đến hết canh một mới về ngủ.
        Mấy bữa sau Quí biểu Sen với chú Tiền đi kiếm hột dưa hột cải, đặng trời sa mưa có sẵn mà gieo trồng cho kịp thời tiết. Quí lại hay vô trong nhà công sở của làng, khi cậy Xã trưởng cho mượn địa bộ mà coi sở ruộng 25 mẫu ở Mỹ Trường bán cho ai, còn sở 13 mẫu ở Mỹ Huê bị thi hành phát mãi bây giờ về ai làm chủ. Quí coi rồi lấy giấy biên hết, biên ngày lập tờ mua bán, biên số tiền đóng cầu chứng qua hộ. Bữa khác Quí đi kiếm Chánh lục bộ xin sao lục khai sanh, khi tử, lục khai sanh của Quí và khai tử của mẹ Quí, mà còn lục luôn khai sanh của Hường và khai tử của dượng Ba Thới nữa. Ban ngày thì Quí đi làm những việc đó, hễ chiều ăn cơm rồi thì thả vô tiệm Dì Ba Thới nằm nói chuyện chơi. Chuyện gì cũng nói nhưng giữ kín công việc riêng của Quí đã làm trong 12 năm rồi, mà lại cũng không nhắc tới việc cưới vợ. Quí tới lui như vậy đã mấy tuần, một bữa Quí đang ngồi nói chuyện với Hường, tình cờ dì Ba Thới vụt hỏi Quí:
        - Hôm trước con nói con đợi ai đó gởi tiền cho con. Vậy mà họ đã gởi tới hay chưa?
        - Thưa, chưa. Con trông quá mà chưa thấy gì hết. Không biết tại sao vậy. Con muốn lên Sài Gòn mượn người quen đánh dây thép nhắc coi. Ngặt đi Sài Gòn tốn hao quá, phần thì con không đủ tiền, nên con phải nằm ụ mà chịu.
        - Nếu con cần đi Sài Gòn thì dì đưa tiền cho mà đi.
        - Nếu dì có tiền dư cho con mựơn thì con mang ơn lắm. Chừng con lãnh tiền được con sẽ trả lại cho dì.
        - Con cần dùng chừng bao nhiêu?
        - Lên Sài Gòn chắc con ở trển mau lắm là mười bữa, còn có trễ lắm là nửa tháng …Ở lâu tốn hao quá…Vậy nếu có thể được xin dì cho con mượn chừng một trăm rưỡi mới đủ.
        - Được mà. Con lấy hai trăm cũng được. Con tính chừng nào con đi?
        - Hễ có tiền thì con đi liền.
        - Vậy thì dì lấy tiền dì đưa cho con sẵn, đặng con sửa soạn rồi mai mốt con muốn đi bữa nào thì đi.
        - Con có đồ đạc gì đâu mà sửa soạn. Nếu dì đưa tiền bây giờ thì sáng mai con đi liền.
        Dì Ba đi vô buồng mở tủ lây tiền. Hường hỏi Quí:
        - Sáng mai anh đi rồi chắc bữa nào anh trở về?
        - Nói chắc ngày thì anh không thể nói được. Anh ráng làm cho mau có tiền đặng về lo đám cưới, càng sớm càng tốt.
        - Anh ra đi em trông lắm. Em muốn anh định chắc ngày để em khỏi trông bậy.
        - Có trễ lắm là mười lăm ngày.
        - Ừ, phải nói như vậy cho em biết, đặng từ nay cho tới mười lăm bữa nữa em khỏi trông.
        Dì Ba Thới đem ra đưa cho Quí hai tấm giấy săng. Quí lật đật trả lại một tấm và nói:
        - Xin dì cất bớt một tấm. Nếu dì có bạc lẽ dì cho con mượn thêm năm chục mà thôi. Mượn nhiều con xài nhiều, rồi làm sao con trả nổi.
        Dì Ba cười mà nói:
        - Dữ hôn! Thêm có 50 mà nhiều nhõi gì.
        Quí cương quyết không chịu lấy hai trăm. Dì Ba phải lấy lại một tấm giấy săng đem vô buồng, mở tủ lộp cộp một hồi nửa rồi đem ra đưa cho Quí 10 tấm giấy năm đồng. Quí xếp hết một trăm rưỡi bỏ vào túi áo rồi nói:
        - Để con đi về rồi, con mới bắt đầu lo đám cưới được. Bây giờ con thấy con có nhiều việc bận rộn lắm -- may áo quần, sắm nữ trang, dọn nhà cửa, đăng bố cáo báo nhựt, mời họ hàng hai bên, đặt cỗ làm đám cưới. Phải lo trước các việc ấy cho xong, rồi mới dám định ngày cưới .
        Dì Ba cười mà nói:
        - Ừ, thì con về cho mau rồi sẽ hiệp với nhau mà lo.
        - Thưa dì, con thấy đám cưới dâu rể đều phải bận áo rộng. Vậy phải mua hàng áo rộng đặng bận hay không dì?
        - Áo rộng mình mượn của người ta bận đỡ được, cần gì phải may cho tốn hao. Bận có một lát rồi thôi, may rồi bỏ chớ có ít gì.
        - Ở Trà Vinh chắc không có hàng tốt. Con tính hễ con lãnh tiền được thì con mua áo cưới trên Sài Gòn mà đem về. Cha chả không biết thợ may dưới này may khéo hay không.
        - Trời ơi! Thợ may Càng Long may khéo thượng hạng mà. Ở Trà Vinh, Ất-Ếch, Tiểu Cần, mấy nhà may lớn đều đem đồ lên đây mướn may luôn luôn.
        - Nếu có sẵn thợ khéo thì dễ chịu.
        - Con có nói cho má thằng Sen hay con tính cưới con Hường hay không.
        - Thưa, chưa nói.
        - Ừ, chừng nào định ngày cưới rồi sẽ nói. Có phải mẹ ruột đâu mà phải trình thưa trước.
        - Để con cho chị Hai con hay.
        - Ừ, với cháu Mỹ, thì con cho nó hay trước được.
        - Thôi, để con về nghỉ sớm đặng khuya con dậy sớm con đi.
        - Quí từ giã ra về.
        Hường đưa ra sân và dặn:
        - Anh ráng về cho mau nghe hôn. Ở nhà em trông lắm.
        Quí về tới nhà thấy trông nhà ngủ hết, duy có một mình cô Mỹ còn đương ngồi vá áo. Quí lại ngồi trước chị và nói nhỏ:
        - Khuya nay em đi Sài Gòn chị Hai à.
        Cô Mỹ buông cái áo, ngước mặt ngó em mà hỏi:
        - Em đi Sài Gòn chi vậy?
        - Đi mua đồ sửa soạn đặng cưới vợ.
        - Vợ ở đâu mà cưới thình lình vậy?
        - Chị không biết hay sao?
        - Em cưới cô Hường phải hôn?
        - Phải. Chị nhắm coi được hôn?
        - Được lắm chớ. Hường thương em, ai cũng nói mười mấy năm nay cô chờ em nên không ưng ai hết. Em có nói với dì Ba rồi chưa?
        - Rồi, Dì chịu gả, không đòi chi hết.
        - Dì Ba với má hồi trước là chị em thân thiết thương nhau lắm. Dì thương chị em mình cũng như con của dì. Vậy em cưới Hường là phải.
        - Em đi rồi, chị ở nhà chị đừng có nói chuyện nầy cho dì hay nghe hôn. Để em về rồi em sẽ nói.
        - Em đi chừng nào em về?
        - Công việc của em nhiều lắm. Em chưa biết chắc ngày nào về được. Hoặc mười bữa hoặc nửa tháng không chừng. Em phải kiếm đồ mua. Chị muốn bận áo màu nào? Nữ trang chị muốn đeo thứ gì? Chị nói cho em biết đặng em mua đem về cho chị.
        - Thôi em. Tiền bạc không có. Em lo làm đám cưới, chớ lo cho chị làm chi.
        - Chị khỏi lo chuyện tiền bạc. Nếu em muốn thì bao nhiêu cũng có. Nay em tính cưới vợ đây, là tính chấm dứt cái đời cực khổ của chị, và đem chị đặt vào một cảnh đời mới cho chị sung sướng, vui vẻ, hết buồn, hết lo. Chị muốn thứ gì em cũng có thể mua cho chị được hết. Chị đừng có ngại về tiền bạc.
        Cô Mỹ nhìn Quí trân trân, tưởng Quí diễu cợt, nên cười mà nói:
        - Chị muốn ở cái nhà như nhà mình coi bữa hôm đó. Em đủ sức sắm nổi hay không?
        Quí cũng cười mà đáp:
        - Chánh em cất cái nhà cho chị ở đó. Em nói thiệt, chớ không phải nói chơi đâu chị Hai.
        Mỹ cười và lắc đầu nói:
        - Chị diễu cợt, thiệt chị không muốn gì hết em à. Chị muốn em có vợ con, làm đủ ăn, chị em được gần nhau vậy thôi.
        Bây giờ Quí mới nghiêm nghị nói:
        - Buồn nói bậy chơi đặng giải khuây. Chị đừng có học mấy lời em nói đó với ai nghe hôn chị Hai. Để em đi ít bữa em về rồi sẽ hay. Khuya em có quên, chị làm ơn kêu em dậy, đặng em đi Sài Gòn cho kịp nghe hôn chị Hai.
        Quí đi ngủ.
        Mỹ ráng ngồi vá cho xong lỗ áo rách rồi cũng dẹp rổ may. Tắt đèn đi ngủ.
        Đến nửa canh năm, nghe tiếng gà trong xóm gáy vang. Quí thức dậy đốt đèn, rồi đi rửa mặt thay đồ. Mỹ nghe động, cũng dậy nấu nước chế trà cho em uống ấm, bụng đặng ra chợ mà lên xe. Quí tom góp đồ đạc của chàng thồn vào cái giỏ mây đặng đem đi hết. Mỹ sợ em đi luôn nên nói:
        - Em đi ít bữa rồi về, để bớt đồ lại nhà, đem theo làm chi cho nặng giỏ.
        Quí nói:
        - Có gì đâu tới nặng mà chị sợ.
        Trời hừng đông, Quí kêu Sen biểu dậy xách giỏ đưa mình ra xe. Sen chưng hửng, hỏi anh đi đâu mà ra xe. Quí nói đi Sài Gòn có chuyện, đi ít bữa rồi sẽ trở về. Sen rửa mặt, bận áo, rồi đi với anh.
        Mỹ đi theo hai em ra tới lộ. Quí đứng lại mà dặn chị:
        - Sáng dì thức dậy, chị thưa dùm cho dì hay em đi Sài Gòn ít bữa, kiếm hột mua cho sẵn đặng trời mưa có mà gieo trồng liền.
        Quí từ chị mà đi, dọc đường còn căn dặn Sen ở nhà cứ dọn dẹp nhà cửa, từ trước sân ra sau vườn, đâu đó đều phải giữ cho sạch sẽ, đừng đi chơi bời chi hết.
        Quí đi Sài Gòn đủ 15 bữa rồi mà chưa về.
        Vì Quí có nói là đi mau lắm là mười bữa, còn lâu lắm là mười lăm ngày, nên hôm mới đi được có 10 bữa thì cô Hường đã bắt đầu trông rồi. Hường biết mỗi ngày có hai chiếc xe chạy đường Trà Vinh – Sài Gòn. Mà chiếc xe Càng Long – Sài Gòn bận về cũng chạy luôn xuống Trà Vinh, rồi mới trở về bến, thành thử mỗi bữa trưa đều có ba chiếc xe Sài Gòn về ngã ba Suối Cạn.
        Hễ nghe Sài Gòn về thì Hường ra cửa đứng ngó chừng. Quá mười lăm ngày rồi, mà không thấy Quí về, thì Hường nóng nảy, đứng ngồi không yên. Hồi trưa lúc xe Sài Gòn về, Hường thường nghểu nghển ngoài lộ, có ý dòm xe Sài Gòn về, có chiếc nào ghé trước nhà ông Bồi bái Tồn hay không, coi chừng đủ ba chiếc rồi cô mới chịu về vô nhà.
        Dì Ba Thới cũng trông không được rồi buồn, thì dì khó chịu. Dì nhớ lại thì Quí đi bữa 20, nói đi lâu lắm là mười lăm bữa, mà nay đã mùng 9 rồi, sao chưa thấy về. Xế bữa đó dì che dù đi ra nhà Ba Mùi đặng hỏi Mỹ với Sen coi Quí có gởi thơ về hay không.
        Ba Mùi vui vẻ tiếp dì Ba Thới, kêu Mỹ biểu coi trầu nước; chị ta lăng xăng, coi bộ mừng rỡ lắm.
        Dì Ba Thới hỏi Ba Mùi:
        - Quí đi Sài Gòn hổm nay nó có gởi thơ nói chừng nào về hay không?
        - Không có thơ từ chi hết. Bữa nó đi, nó cũng không nói trước cho tôi hay, sáng tôi thức dậy, nghe con Mỹ nói lại tôi mới hay. Nói đi mua hột cho sẵn đặng trời mưa mà gieo trồng. Đi mua hột gì mà lâu quá không thấy về.
        - Tối hôm đó nó có vô thăm tôi chơi. Nó nói sang bữa sau nó đi Sài Gòn đặng mượn đánh dây thép, biểu họ gởi tiền bạc gì đó không biết. Nó tính đi chừng mười bữa, lâu lắm là nửa tháng, mà bữa nay đã 19 ngày rồi, sau bặt tin.
        - Thằng Sen nói nó đem áo quần theo hết. Tôi nghi nó đi luôn dì ba à.
        - Không lý. Nếu nó đi luôn thì nó cho tôi biết, chớ nó gạt tôi làm chi.
        - Nó có nói với dì nó đi làm chi và bữa nào nó về hay không?
        - Có chẳng dấu dì nó làm chi, hôm trước Quí có xin tôi gả con Hường cho nó, đặng vợ chồng nó ở đây làm ruộng trồng rẫy chơi. Tôi thương nó từ hồi nhỏ đến giờ nên tôi chịu gả. Nó nói, nó đợi ông gì đó gởi tiền bạc cho nó. Hễ có tiền rồi nó sẽ lo làm đám cưới . Nó đợi hoài sao không được tiền bạc chi hết. Hôm nọ, nó mới mượn tôi chút đỉnh tiền đặng lên Sài Gòn cậy người ta đánh dây thép, nhắc ông chủ cũ của nó gởi tiền cho mau.
        - Chuyện nó cưới em Hường nó cũng không có nói cho hay. Té ra nó có mượn tiền của dì Ba mà đi đó hay sao?
        - Có.
        - Dì Ba cho nó mượn bao nhiêu?
        - Nó muợn một trăm rưỡi. Tôi đưa hai trăm. Nó không chịu, nó lấy một trăm rưỡi mà thôi.
        - Nó muợn tới một trăm rưỡi, đi gần hai chục ngày mà không về, nó làm cho tôi nghi quá.
        - Nghi giống gì?
        - Tôi sợ nó đi luôn, nó không trở về.
        - Không có lý. Nó biết tôi thương nó như con, lẽ nào nó gạt tôi. Ví như nó có bụng gian, thì nó kiếm chỗ giàu có mà gạt đặng lấy cho nhiều, chớ giựt làm chi một trăm rưỡi.
        - Người giàu có ai dám đưa tiền cho mà giựt? Dì Ba quen, chắc dì dám đưa nên mới gạt dì chớ.
        - Không lý. Nếu tính gạt tôi thì đưa hai trăm nó lấy luôn, chớ sao trả bớt năm chục?
        - Làm vậy dì Ba mới tin chớ.
        Dì Ba Thới suy nghĩ, rồi kêu Mỹ với Sen mà hỏi, Quí có nói đi làm việc gì, và đi chừng nào về không. Cả hai chị em đều nói Quí đi mười ba bữa hoặc nửa tháng. Sen lại nói Quí đi Sài Gòn kiếm hột mua đặng gieo trồng. Còn Mỹ dụ dự một chút rồi thỏ thẻ xì ra rằng Quí đi mua đồ đặng cưới vợ, nên có hỏi Mỹ muốn mua thứ gì đặng mua cho Mỹ luôn thể. Dì Ba Thới ngơ ngẩn, nửa tin, nửa nghi, dì nằm buồn hiu, đến chiều mới xách dù đi về.
        Đến tối, dì thấy Hường buồn, dì mới đem những lời Ba Mùi nghi Quí bày chuyện giựt tiền đi luôn mà thuật lại cho Hường nghe. Hường bất bình, nên nổi giận nói lớn:
        - Con mẹ đó tưởng ai cũng như nó, nên nó mới nghi bậy như vậy. Nó không biết con người. Má nghĩ coi anh Quí đi ở bồi 12 năm, ảnh trở về đây, bạc tiền không có, quần áo lang thang, mà ảnh nói một tiếng thì cả nhà đều khiếp sợ, Ba Mùi bỏ nghề bài bạc, thằng Sen hết dám ta bà, chị Mỹ được vui cười, nhà cửa đều sạch sẽ. Đi xem đền đài với mình, ông xếp là người Pháp, mà vừa ngó thấy ảnh, thì lật đật dỡ nón mà chào, đứng nói chuyện với ảnh thì nhỏ nhẹ cung kính. Con người như vậy tất nhiều phải có thần oai, hay là có cái gì đó mà khiến người ta khiếp sợ kiêng nể mới được . Con người như vậy lẽ nào âm mưu mà giựt một trăm rưỡi đồng bạc của mình? Nếu có lòng gian thì giựt năm mười muôn, chớ giựt làm chi chút đỉnh cho mang tiếng xấu. Không có đâu. Ảnh biết con thương ảnh. Nhưng cứ than nghèo, du dự không muốn cưới con. Ảnh gạt con làm chi? Con không thể nghi ảnh gạt. Ảnh hẹn mà ảnh không về, chắc có việc chi trắc trở ảnh không về được, chớ không phải ảnh trốn đâu. Con dám nói chắc nếu ảnh tính đi luôn, thì ảnh cho con biết ngay, chớ sao lại hứa với con làm chi. Còn ảnh nếu không có tiền mà đi, thì ảnh cũng nói ngay với má mà xin, cần gì phải dối gạt.
        Dì Ba Thới thở ra mà nói:
        - Con nói phải lắm. Má cũng nghĩ như vậy. Bởi vậy Ba Mùi có nói mà má không tin.
        Hường nói:
        - Nói bậy mà tin nỗi gì.
        Dì Ba suy nghĩ một chút rồi nói :
        - Quí chưa nói cho Ba Mùi hay sự nó tính cưới con. Nhưng nó có nói với con Mỹ. Nó đi mua đồ về cưới vợ, lại hỏi Mỹ muốn mua thứ gì đặng nó mua cho luôn thể.
        #19
          NuHiepDeThuong 10.02.2006 15:38:40 (permalink)
          Chương 20


          Hường nói:
          - Thấy hôn? Nếu gạt mẹ con mình mà đi luôn, thì nói làm chi với chị Mỹ như vậy.
          Nhờ Hường nói phải quấy, lại nói với giọng lạc quan, nên dì Ba bớt buồn. Nhưng dì đợi trông quá, rồi bứt rứt khó chịu, nên sang bữa sau, ăn cơm sáng rồi, dì che dù đi ra nhà Ba Mùi nữa, định ra cãi lẽ cho Ba Mùi đừng nghi Quí xấu nữa, lại cũng ra nằm chơi mà đón xe Sài Gòn coi Quí có về hay không.
          Quẹo vô cửa ngõ, dì Ba Thới thấy hai cánh cửa mở hết, thằng Sen đương đứng đó mà chơi. Sen chấp tay xá dì Ba. Dì Ba hỏi:
          - Con chờ xe Sài Gòn về đặng rước anh Ba con phải hôn?
          - Thưa, xe Sài Gòn vẫn chưa về đâu Dì Ba. Còn sớm mà. Chưa tới 10 giờ. Thường thường 11 giờ ngoài xe Sài Gòn mới xuống tới.
          - Để dì vô nhà nằm chơi. Con ở chơi ngoài nầy con coi chừng nghe hôn.
          - Có con coi chừng. Mà còn sớm lắm. Chưa về đâu.
          Ba Mùi với cô Mỹ thấy dì Ba Thới ra nữa, thì mẹ con bước ra hàng ba mà chào mừng. Ba Mùi cười mà hỏi:
          - Dì Ba bữa nay ra sớm, tính đón xe Sài Gòn phải hôn?
          - Ừ, ra đón coi. Nằm nhà chịu không nổi.
          - Tôi nghi đi luôn, không về đâu dì Ba.
          - Ê! Đừng có nghĩ quấy như vậy. Chiều hôm qua, tôi về tôi nói, dì nó sợ Quí lập mưu đặng mượn tiền mà đi luôn, thì con Hường nó rầy quá. Nó nói không có lý Quí giả dối như vậy đâu. Tại có việc gì đó nên về trễ, chớ trốn đi đâu, tội gì nên sợ mà trốn?
          Mỹ nói:
          - Con cũng chắc không nay thì mai Quí sẽ về, không có đi luôn đâu. Nếu nó tính đi nữa thì nó nói cho con biết chớ.
          Mỹ nói tới đó liền thấy hai chiếc xe hơi nhà mới tinh, một chiếc lớn, sơn màu xám, đương chậm chậm quanh vô cửa ngõ, còn một chiếc nhỏ hơn sơn màu đen, nối theo sau, cùng sắp quanh vô sân.
          Thằng Sen chạy vô sân la lớn:
          - Anh Ba về ! Anh Ba về! Chị Hai à!
          Ba Thới, Ba Mùi với cô Mỹ còn đứng trên thềm, tại hàng ba, cả ba đều ngó trân trân hai chiếc xe hơi lộng lẫy, sáng ngời, đương ngừng song song ngoài sân, cả ba đều ngạc nhiên không nói được.
          Chiếc xe xám đậu gần thềm. Xe vừa ngừng, thì một người ngồi dựa bên trái tài xế mở cửa bước xuống gọn gàng, mình mặc đồ tây trắng, chưn mang giầy trắng, lật đật bước lại mở cửa xe phía sau.
          Thiệt quả Sen coi không lầm. Quí trong xe bước ra. Nhưng không phải là Quí mặc áo cũ, quần dơ, mang giầy mòn, đội nón rách, như hôm trước. Bữa nay, Quí mặc bộ đồ ga-bạt-đinh trắng, chưn mang giầy vàng sậm, đầu đội nón nỉ xám lợi, tay có xách một cặp da. Quí thấy ba người đàn bà đứng trong hàng ba, thì dỡ nón mà chào và nói:
          - Có dì Ba ra nữa à! Chắc ở nhà dì trông con lắm phải hôn? Có em Hường ở đây hay không?
          Dì Ba Thới nói:
          - Không có. Dì ra có một mình. Mới ra tới đây chưa kịp vô nhà.
          Quí nói:
          - Vậy để biểu Sen vô rước em Hường ra đây chơi.
          Quí liền kêu Sen và chỉ chiếc xe đen đậu phía ngoài mà nói:
          - Em lên chiếc xe nhỏ đó, chỉ đường cho anh sốp phơ chạy vô ngã ba; em mời cô Hường ra đây lập tức. Em nói qua mới về tới, có dì Ba ở đây nữa, nên cho xe rước cô ra đặng nói chuyện. Đi cho mau đi.
          Chiếc xe đó phía trước cũng có một người ngồi với tài xế, người ấy cũng mặc y phục như người bên xe lớn vậy, nhưng phía sau chỉ có hai cái hoa ly chớ không có ai ngồi. Người đó mở cửa phía sau cho Sen lên xe, rồi tài xế quanh mà ra cửa ngõ.
          Quí xách cặp da rồi bước lên thềm, rồi đi thẳng vô nhà. Ba người đàn bà đi theo sau, ngó nhau chúm chím cười, không biết sao mà nói.
          Quí thấy chú Tiền lấp ló chỗ cửa xuống nhà dưới, thì kêu mà nói:
          - Chú Tiền lên đây biểu chút. Ở nhà chú với Sen có cuốc vồng sẵn rồi chưa? Tôi có mua đủ thứ hột đem về cho chú cất, đặng mưa xuống thì gieo trồng liền.
          Quí đem cái cặp da để trên bàn giữa và lột nón để một bên đó.
          Ba Thới và Ba Mùi vô ván mà ngồi. Mỹ bưng trầu cau đem để trước mặt dì Ba rồi đứng xớ rớ, ngó em mà cười.
          Dì Ba Thới nói:
          - Con hẹn dì có đi lâu lắm là nửa tháng con về. Bữa nay là 20 ngày rồi, bởi vậy ở nhà mấy bữa rày ai nấy trông quá.
          - Con mắc mua đồ đủ thứ, nhứt là mua hai chiếc xe phải chạy thử, rồi phải xin số, phải làm giấy tờ, mất ngày giờ nhiều quá nên về trễ.
          - Mua làm chi tới hai chiếc?
          - Hai chiếc mới đủ dùng. Một chiếc để con đi, còn một chiếc để trong nhà ai đi đâu thì có sẵn mà đi.
          - Trời đất ơi! Nói hơi bá hộ quá! Bộ họ gởi tiền cho con nhiều lắm hay sao?
          - Con xin lỗi dì, con nói gạt dì chơi. Tiền của con có sẵn trong ngân hàng,chớ có ai gởi đâu.
          - Vậy mà nó làm bộ mạt, nó mượn tiền tôi chớ.
          - Một trăm rưỡi đồng bạc của dì đưa, con còn cất y nguyên đây.
          Quí móc bớp phơi ra, lấy một trăm rưỡi trả cho dì Ba, dì cười mà nói:
          - Vậy mà hổm nay ở nhà ai cũng nghĩ con gạt dì đặng lấy tiền mà đi luôn.
          - Vậy à! Em Hường có nghi như vậy không?
          - Không. Con Hường nó cãi dữ lắm, nó không nghi. Con Mỹ cũng vậy. Có dì với dì Ba đây nghi lắm.
          - Thấy bộ con bần hàn quá nên nghi cũng phải .
          Trong lúc nói chuyện lăng xăng đây, thì Sen ngồi xe vô ngã ba, thấy Hường đương đứng trước cửa, lật đật mở cửa xe chạy vô mà nói:
          - Có anh Ba tôi mới về tới, ảnh với dì Ba biểu đem xe vô rước chị ra lập tức.
          Hường ngạc nhiên hỏi:
          - Về bằng thứ gì! Xe Sài Gòn chưa về mà.
          - Về xe nhà. Anh mua tới hai chiếc lận. Đó, xe vô rước chị đó là xe nhỏ. Còn chiếc xe lớn nữa, tốt lắm. Đậu ngoài nhà, chị bận áo mau mau đặng đi. Ảnh chờ ngoải.
          Hường cười, đi vô lấy áo xuyến dài mà bận, choàn đầu khăn lụa trắng, dặn chị Điệu coi nhà, rồi theo Sen lên xe mà đi.
          Hường ngồi xe hơi mới mà vì chưa hiểu tình thế biến chuyển thế nào nên trong lòng không an. Chừng quanh vô sân còn thấy một chiếc xe nữa đậu chình ình, thì lòng càng thêm rộn rực. Mà chừng xe ngừng, thấy Quí ăn mặc sang trọng bước ra cửa kêu nói:
          - Vô đây em, vô mau. -- thì cô càng bối rối hơn nữa.
          Người ngồi phía trước nhảy xuống mở cửa. Cô Hường bước ra lúng túng không biết đi đâu; nghe Quí đứng trên thềm kêu nữa, cô bèn đi lại chỗ đó. Quí ngoắc anh bồi đi theo xe nhỏ mà biểu:
          - Anh xách cái hoa ly nhỏ bên xe anh đó đem dùm vô nhà cho tôi.
          Mỹ ra rước Hường vô nhà, chị em ngó nhau mà cười, vì cảm xúc quá độ, không nói được chi hết.
          Quí đợi anh bồi xách hoa ly vô; Quí mới chỉ tay biểu để trên ván. Quí móc túi lấy xâu chìa khoá ra lựa mà mở hoa ly. Thấy chú Tiền đang đứng dựa cửa mà ngó, Quí bèn ngoắc lại và nói:
          - Cái nầy mới gọi là hoa ly, chú thấy hay chưa chú Tiền? Chớ cái bữa hổm đó là giỏ mây, biết hôn? Kêu hoa ly sao được.
          Chú Tiền cười hệch hạc mà nói:
          - Cái nào cũng để đựng quần áo như nhau. Vậy thì kêu hoa ly hết ráo cho dễ.
          Ai nghe nói thiệt thà như vậy cũng tức cười .
          Quí mở hoa ly ra mà nói:
          - Tôi mua hàng để may đồ bận đám cưới đây”.
          Thấy trong hoa ly có tới sáu bảy gói, dì Ba Thới với Ba Mùi xích lại gần mà coi. Mỹ, Hường, Sen và chú Tiền cũng bước tới đứng dựa ván mà ngó.
          Mỗi gói đều có biên chữ phía ngoài, Quí lựa mà đưa cho cô Mỹ một gói và nói:
          - Tôi mua đồ cho chị Hai đây -- Một cặp áo màu để bận, bữa tôi cưới vợ. Còn ngày thường thì tôi mua hai áo đen, hai quần lãnh đen với hai quần hàng trắng. Chị Hai phải mướn may gắp đặng có đồ mà bận với người ta.
          Mỹ mở gói ra. Ai nấy áp lấy coi, ai cũng khen đồ tốt.
          Quí đưa một gói khác cho cô Hường mà nói:
          - Qua mua một mớ ba cái áo cưới đây. Em coi màu đó và hàng đó có vừa ý em không?
          Dì Ba Thới lấy mở ra liền, dì nói hàng nầy ở đây chưa thấy ai bận. Dì khen quá. Quí đưa một gói cho Ba Mùi một gói mà nói:
          - Tôi có mua một mớ cho dì, hai cái áo hàng đen, một quần lãnh đen và một quần hàng trắng đây. Dì mướn may mà bận.
          Quí đưa một gói cho dì Ba Thới một gói mà nói:
          - Phần của dì Ba cũng giống y như vậy, hai áo hai quần.
          Quí lại đưa thêm cho Mỹ hai gói nữa mà nói:
          - Trong hai gói nầy một gói có mười thước lụa trắng. Chị Hai mướn may hai bộ đồ mát cho em Sen bận trong nhà. Còn đồ Tây thì tôi dắt nó xuống Trà Vinh, tôi sẽ đặt tiệm may cho nó. Còn gói kia là đồ của chú Tiền. Trong đó năm thước hàng đen để may cho chú một bộ đồ đặng đi chơi, chú có đồ hàng mà bận, lại có mười thước vải đen để chị Hai may đồ cho chú bận ở trong nhà.
          Chú Tiền khoái chí nên cười ngỏn ngoẻn.
          Còn một gói chót, Quí đưa cho dì Ba Thới mà nói:
          - Đây là hàng con mua để may hai cặp áo rộng, đặng bữa cưới rể dâu có mà bận khỏi mượn của người ta. Nên sắm để trong nhà làm vật kỷ niệm về cuộc vợ chồng phối hiệp. Trong đó có kềm hai vóc áo đàn ông để may hai áo dài cho tôi một cái, cho em Sen một cái, đặng bận lúc đám cưới .
          Đồ lấy ra hết rồi, Quí mới xếp hoa ly lại, đứng ngó Mỹ với Hường mà cười, cười cái bộ vừa kinh ngạc, vừa ngơ ngác của hai cô. Dì Ba Thới khoanh tay ngồi ngó mấy gói hàng bày ra đầy ván thì lắc đầu mà nói:
          - Đồ mua nhiều quá thấy mà ngán, thứ nào cũng tốt, cũng lạ. Tốn mấy ngàn đây chớ phải ít sao!
          Ba Mùi nói:
          - Đàn ông mà sao biết lựa mà mua như vầy, thiệt giỏi quá chớ. Tôi với dì Ba sợ mua cũng không được vậy.
          Quí nói:
          - Có khó gì đâu. Tính mua thứ gì cho ai, tôi biên ra rành rẽ trong một tờ giấy. Tôi cắt nghĩa cho hai bà quen ở Sài Gòn hiểu, rồi tôi đưa giấy đó cho hai bà cầm coi mà mua dùm. Hai bà quen dùng hàng tốt, hai bà quen với mấy tiệm bán hàng, tự nhiên biết lựa đồ tốt mà mua, lại mua giá rẻ nữa.
          Hường ngó Quí mà than:
          - Đồ nhiều quá, mướn may biết chừng nào rồi, với lại ở đây chỉ có một chi thợ khéo mà thôi.
          - Phải may cho mau đặng làm đám cưới chớ.
          - Em sợ may tới hai tháng cũng chưa hết.
          - Không được. Phải may cho mau …Thôi, việc mướn may để rồi sẽ tính. Bây giờ lấy cái nầy cho bà con coi thử đã. Chị Hai với em Hường làm ơn gói dùm hàng lại, sắp lại hoa ly cho khỏi lộn xộn, rồi tôi lấy đồ khác cho mà coi.
          Mấy người đàn bà áp gói đồ và sắp vào hoa ly thứ nào theo thứ nấy. Quí bước lại cái bàn giữa, xách cặp da đem để trên ván, biểu Sen cho một cái ghế, rồi ngồi tại đầu ván mà mở cặp ra. Quí thò tay vào một mép mà lấy ra ba cái hộp với năm gói giấy săng, mỗi gói chừng một chục ghim, có buộc nhợ đỏ chắc chắn.
          Cô Mỹ nói lớn:
          - Trời đất ơi! Tiền bạc ở đâu mà nhiều dữ vậy ?
          Quí vừa bỏ mấy gói giấy bạc vào cặp vừa cười mà đáp:
          - Hôm trước em đã có nói với chị, em đi lấy tiền về đặng lo cưới vợ, bởi vậy em hỏi chị muốn thứ gì, thì em sẽ mua cho chị. Chị nói chị muốn ở cái nhà mình đi coi dưới Trà Vinh hôm trước đó. Vậy em giao cái nhà đó cho chị. Chị phải xuống đó mà ở.
          Mỹ biến sắc hỏi:
          - Té ra nhà đó của em mướn cất hay sao? Tưởng em diễu chơi chớ! Ai mà dè.
          Quí không thèm cãi, ngoắc Sen lại, đưa cho nó một cái hộp nhỏ mà nói:
          - Qua có mua cho em một đồng hồ đeo tay đây, đồng hồ Thuỵ Sĩ, tuy bằng thép, mà hiệu nầy tốt nhứt, hễ đeo thì máy chạy luôn luôn, khỏi lên dây thiều.
          Quí đưa cho Hường một hộp mà nói :
          - Qua mua đồ để đi lễ cưới em đó -- một đôi bông tai với một đôi bông vàng. Em dỡ ra coi được hay không ?
          Quí đưa luôn cái hộp chót cho Mỹ mà nói:
          - Em cũng mua luôn cho chị Hai y như vậy. Đôi bông nhỏ hơn một chút, chớ đôi vàng thì đồng giá như nhau.
          Mấy người đàn bà lo dỡ cái hộp ra coi. Sen cầm cái đồng hồ bộ bối rối. Quí mới lấy lại, mở dây mà đeo cho nó. Nó đứng ngắm nghía. Quí mới nói:
          - Em thấy hôn? Ở đời phải ráng chịu cực như qua lúc còn nhỏ, thì chừng lớn mới có tiền mà làm vui cho mọi người được. Vậy em phải dứt cái thói ham chơi đi, cứ lo làm việc như mấy tháng nay vậy, thì em sẽ được sống trong cảnh đời vui tươi và sung sướng, nhứt là sung sướng về tinh thần.
          Dì Ba Thới kêu mà nói:
          - Quí, con Hường với con Mỹ nó cằn nhằn con đây nè! Hai đứa nói con mua đồ kỳ cục quá, hai đứa nó không dám đeo.
          Quí chau mày mà hỏi:
          - Tại sao mà không dám đeo?
          - Đồ quý quá không xứng với hạng nghèo như chị em nó, nên chúng nó dội chớ sao.
          - Vậy chớ đồ đó phải để cho ai đeo mới xứng?
          - Để cho những người sang trọng.
          - Hứ! Ai sang trọng hơn chị hai với em Hường nầy đâu, xin chỉ thử coi. Chị Mỹ con từ hồi nhỏ cho tới bây giờ, đã ba mươi tuổi rồi, chỉ không có tội lỗi gì, mà thânchỉ cực khổ hơn mọi, không được vui sướng chút nào hết. Vậy phải cho chỉ một phần thưởng, để bù lại các cực khổ của chỉ, cực khổ mà không biết than phiền, không thèm hờn giận. Chỉ phải có cảm tình hiền lành như Phật, chỉ mới được vậy. Theo con, thì chỉ sang trọng hơn các chị em bạn gái hết thảy. Người như chỉ mới đáng đeo đồ quí trong mình. Chỉ có dơ dáy như họ đâu mà sợ xấu hổ. Còn em Hường, em yêu con, tuy con không có hứa hẹn chi với em hết, mà em quyết thí tuổi xuân xanh mà chờ con đến 12 năm. Con trở về, con làm bộ nghèo hết sức, mà em không phụ, cứ vẫn yêu con như cũ, tự quyết chịu cực chịu nghèo với con trọn đời. Thử hỏi trong hạng gái giàu sang được bao nhiêu người có tình, có nghĩa như em Hường vậy đâu? Theo con mắt của con, thì con thấy hai người nầy đáng ở nhà tốt, đáng đeo đồ quý, đáng gọi là sang trọng. Vì vậy nên con mới mua đồ quí giá mà biếu đó.
          - Con mua hết bao nhiêu tiền vậy con? Hột xoàn chắc mắc dữ lắm hả? Con ông Cả trong ấp năm, chồng đi bông nhỏ xíu, mà nói mua tới hai trăm rưỡi. Bông nầy hột trưu trứu, chắc mắc lắm.
          - Hai đôi vàng một giá như nhau. Mỗi đôi năm ngàn rưỡi. Còn đôi bông mua cho em Hường đó ba ngàn hai. Đôi bông của chị Hai con nhỏ hơn một chút nên ba ngàn.
          - Quá xá! Mười mấy ngàn đồng bạc đó ! Mua làm chi vậy không biết!
          - Dì đeo thử cho hai người coi vừa hay không. Tôi mua nhón đặng đám cưới. Sau có muốn gì nữa rồi sẽ mua thêm.
          Ba Mùi với dì Ba Thới phụ đeo bông đeo vòng cho hai cô. Quí với Sen đứng ngó, trong lòng vui vẻ hết sức, còn hai cô đứng trơ trơ, cảm xúc quá, nói không được. Quí bước lại nắm tay hai cô dắt để đứng trước cái tủ kiếng cho hai cô thấy đôi bông tai với vòng.
          Chừng trở lại bộ ván Quí mới nói:
          - Hai người đeo luôn hai bông tai mà chơi. Còn hai đôi vàng thì cởi ra đặng tôi đem về dưới đặng tôi bỏ trong tủ sắt tôi cất cho, đến bữa đám cưới sẽ lấy mà đeo. Bây giờ đeo nhỏng nhảnh, mà nhà óp quá, sợ ăn cắp đánh giựt rồi mang khốn.
          Dì ba đồng ý với Quí, nên dì cởi hai đôi vàng bỏ vô hộp mà trao lại cho Quí để vô cặp.
          Quí đưa tay ra coi đồng hồ vàng đeo tại cườm tay, thấy đã mười một giờ rưỡi rồi nên nói:
          - Bữa nay tôi về ở nhà mới. Tôi đã có ý định mời mấy bà con mình bữa cơm đầu, và ngủ đêm thứ nhứt tại nhà tôi đặng nói chuyện cho vui. Vậy tôi mời hai dì, chị Hai, em Hường với em Sen đi hết với tôi xuống nhà tôi ăn cơm.
          Dì Ba Thới hỏi:
          - Nhà con ở đâu mà mời?
          - Dì quên hay sao? Nhà ở dưới Trà Vinh đó.
          - Nhà nào?
          - Nhà con dắt coi bữa hôm đó.
          - Trời đất ơi! Té ra đền đài cất đó của con hay sao? Thiệt vậy hả?
          - Thưa phải. Con mua đất rồi mướn cất đó.
          Hường vụt nói:
          - Hổm nay tôi nghi quá, nhưng tôi không dám nói ra.
          Cô Mỹ tiếp nói:
          - Em nói thiệt hay là nói chơi vậy em?
          Quí cười mà đáp:
          - Em nói thiệt chớ. Bữa hổm em sửa soạn đi Sài Gòn, em hỏi chị muốn thứ gì em mua cho chị, dầu tốn tiền bao nhiêu em cũng mua được hết. Chị nói chị muốn ở cái nhà như nhà chị đã coi đó vậy. Em mua liền, em mua cho chị ở theo ý chị muốn đó.
          - Chị nói chơi cho vui. Em nói em cất nhà cho chị ở đó. Chị tưởng em diễu chơi, chớ có dè đâu, mà kỳ cục như vậy.
          Quí dạy qua hỏi Hường:
          - Hồi nãy em nói em nghi, nhưng không dám nói ra. Em nghĩ giống gì?
          - Xuống coi đền đài, vùa tới cửa thì em nghi liền. Em nghi anh làm chủ cuộc đó chớ nghi giống gì. Tới chỗ kinh dinh lạ lùng hết sức, mà anh không kiêng nể chút nào. Giựt chuông, anh giựt luôn tới mấy lần, dường như thôi thúc phải mở cửa cho mau. Ông xếp là người Pháp, đi ra, ổng thấy anh thì ổng xăng xóm đi riết, còn ở xa mà ổng dỡ nón chào. Ông không dám mở cửa nhỏ, ông phải mở cửa lớn rồi khép nép mời anh vào. Anh làm lơ, nhưng anh nói tiếng Pháp sao đó mà ổng niềm nở mấy bà con em hết sức. Lúc uống rượu trên lầu, anh đứng nói chuyện với ông xếp, anh lộ vẻ oai nghiêm hơn, như Hương chức của mình nói chuyện với anh Trùm Sốc. Em thấy vậy, em nghi anh là ông chủ của ông xếp rồi, bởi vậy chừng ông xếp lấy xe đưa mình xuống chợ, em có nói anh muốn ổng đưa mình về Càng Long ổng cũng đưa. Anh nhớ hôn?
          - Nhớ. Qua khen em có ý tứ, có cặp mắt quan sát rất sáng suốt. Giỏi thiệt!
          - Em chắc bữa đó anh nói ở lại đặng đi thăm thầy nhứt Vĩnh, mà anh cũng ở lại đặng nói chuyện với ông xếp nữa phải hôn?
          - Đúng. Xe chạy rồi qua trở lại bungalow coi sổ sách của ông xếp đến hai giờ ổng mới lấy xe đưa qua xuống nhà thầy nhứt Vĩnh.
          Dì Ba Thới nói:
          - Con nhỏ này nó sáng trí quá ! Hèn chi hổm rày hễ nhắc tới chuyện đi xem đền đài thì nó múm mím cười hoài. . . Ừ con, Quí, mà sao trong phòng có hình của người Pháp giống ông La-Co, ông xếp lại nói hình cha của ông chủ?
          Quí cười mà đáp:
          - Thưa, phải. Hình cha của con là ông La-Co đó. Cha nuôi, có giấy tờ đủ phép. Bây giờ con là Kỹ sư La-Co, người Pháp, chớ không phải Phan Văn Quí, người Việt nữa. Chuyên dài lắm để con mời hết xuống nhà rồi con sẽ thuật hết công việc của con trong 12 năm nay cho mà nghe.
          Mấy người ngó nhau mà dụ dự không biết có nên đi liền với Quí hay không. Cô Hường mới nói:
          - Bà con đã ăn cơm sớm rồi hết. Lại trời đã trưa rồi, nếu đi liền với anh thì phải sửa soạn thay áo, thay đồ, anh chờ đợi lâu, sợ anh đói bụng.
          Dì Ba Thới nói:
          - Quí nó về nhà mới, nó muốn hết thảy bà con, chị em xuống ăn cơm và ngủ với nó một bữa, nếu mình không chịu đi sợ nó buồn.
          Hường nói:
          - Con tính như vầy má à -- chị Mỹ không có áo quần. Hôm trước chỉ đi Trà Vinh chỉ bận đồ ngắn ngủn, con thấy con chịu không nổi. Con muốn anh Quí đi trước một mình đi. Để con lấy một vóc áo và đi với chị Mỹ ra chợ cậy thợ đo rồi cắt may liền cho chỉ một cái áo dài, may hai bữa phải rồi, đặng có áo cho chỉ bận. Hai chị em con đi thì má ở nhà mà lấy vóc lãnh má cắt dùm cho chỉ một cái quần. Hai con đi một chút rồi trở về ráp may đến chiều cho rồi. Chiều nay anh Quí cho một chiếc xe hơi lên rước bà con mình. Chị Mỹ đã có quần áo mới cho chỉ bận. Còn áo thì con đưa cho chỉ bận đỡ một cái áo xuyến của con. Chắc áo của con chỉ bận vừa. Nếu có rộng chút đỉnh thì không hại gì, chớ bận áo cũ coi kỳ quá.
          Quí vội vã nói:
          - Em Hường tính như vậy thì phải lắm. Thôi thì tôi bắt em Sen đi trước với tôi. Tôi để lại đây một chiếc xe cho hai chị em ra chợ đặng may áo. Xe ở chờ chừng nào may quần xong rồi sẽ rước hai dì với hai cô đi .
          Hường không chịu, cô nói đi xe ra chợ họ hỏi xe của ai rồi phải cắt nghĩa dài dòng cực lắm. Có một khúc đường để chị em đi bộ cho êm. Cô lấy gói hàng của cô Mỹ mở ra lựa đưa một vóc lãnh cho dì Ba Thới mượn cắt dùm một cái quần và lựa lấy để riêng một vóc áo đặng đem đi.
          Quí bỏ đồ vào hoa ly, biểu Sen thay đồ, kêu bồi xách hoa ly ra xe, rồi cùng với Sen từ biệt mà đi hứa bốn giờ chiều sẽ cho Sen trở về rước hết. Hai xe đi rồi thì Hường với Mỹ cũng gói vóc áo đi ra chợ mướn thợ may, căn dặn ráng may gấp, nếu chiều bữa sau rồi thì càng tốt, muốn đòi tiền công mắc hơn cũng được. Chị em dắt nhau lại tiệm mua kim chỉ với một lưng quần rồi về liền đặng có may quần cho kịp.
          Dì Ba Thới ở nhà cắt xong cái quần rồi, hai cô về thì ráp vô may liền. Dì Ba che dù đi về, nói về lựa sẵn một cái áo đặng cho Mỹ bận.
          Ba Mùi giỏi nghề tứ sắc, chớ may vụng về lắm, bởi vậy từ hồi Quí mua đồ đem về đến giờ chị ta hổ thẹn, muốn kiếm việc mà làm thì không biết việc gì, muốn tỏ ý ăn năn thì không đủ lời mà nói. Chị ta cứ chà lết một bên hai cô, coi hai cô may mà thôi.
          Thình lình Mỹ nhếch miệng cười mà hỏi Hường:
          - Không biết thằng ba làm giống gì mà tiền bạc nhiều quá vậy. Mấy tháng nay nó có ló mòi cho cô biết hay không cô Hường?
          - Không. Ảnh nói chuyện với tôi thì ảnh cứ than nghèo lắm, đi 12 năm trở về không có bạc tiền. Hôm ảnh mới về, má tôi hỏi ảnh về thăm rồi đi nữa hay là ở luôn đây, thì ảnh nói nếu ai cho ảnh mượn chút tiền làm vốn ảnh sẽ lập tiệm mua bán, bằng không thì ảnh phải đi chỗ khác kiếm thế làm ăn, chớ ở đây mà không làm gì hết thì chết đói còn gì. Hôm đi xem đền đài thiệt tôi nghi, nhưng nghi bậy vậy thôi, tôi có dè đâu mà tiền bạc nhiều đến làm việc đồ sộ như vậy nổi.
          - Nãy giờ tôi lo quá cô à. Em nó giàu thì tôi mừng chớ sao không mừng. Mà giàu chút đỉnh như người ta, chớ giàu gì mà quá trời đất như vậy. Tôi sợ quá vì không biết nó lấy tiền của ai mà nhiều dữ vậy.
          - Ừ, tối nay chị em mình phải chất vấn chỗ đó cho rành rẽ mới được.
          Bây giờ Ba Mùi mới chen vô mà nói:
          - Thằng ba nó dấu mình, tôi sợ mình hỏi nó không chịu nói đâu. Ôi ! Mà nó làm việc gì mặc nó, mình tìm hiểu làm chi. Nó có tiền, thì mừng cho nó, hơi nào mà lo.
          Mỹ nói:
          - Dì nói như vậy sao được. Như nó làm việc phải mà giàu thì mình cũng mừng cho nó. Còn như nó cắt họng cắt hầu người ta mà đoạt của rồi mình cũng mừng, cũng áp vô mà ăn của bất nghĩa đó hay sao. Tôi không chịu. Nó phải nói rõ cho tôi biết tiền bạc gốc ở đâu mà ra. Nếu gốc không thẳng ngay trong sạch, thì tôi trả đồ cho nó, tôi không thèm lấy thứ gì hết. Thà tôi đi ở đợ cho họ đặng có cơm mà ăn, có áo mà mặc, chớ ăn cuớp người ta đặng ở nhà lớn, đeo hột xoàn, đi xe hơi, mặc áo tốt, không kể người ta khóc than rủa, chưởi, thiệt tôi không thể làm như vậy được
          Hường nói:
          - Chị nói như vậy tôi phục lắm. Tôi cũng vậy. Nếu anh Quí ăn cướp người ta mà làm giàu, thì tôi thà bán quán tôi ăn, tôi không ưng làm vợ ảnh đâu.
          Ba Mùi nói:
          - Hai chị em nói nghe kỳ quá. Đời nầy mà nói như vậy thì làm sao mà giàu. Ở đời cũng như đánh bài đánh bạc. Ngồi sòng mình phải tính ăn. Mà mình ăn thì tự nhiên mấy nguời kia phải thua. Nếu không muốn có người thua thì làm sao mà ăn được. Việc thằng Ba có tiền tôi không ngại gì. Tôi ngại có điều nầy là hôm nó về nó làm bộ nghèo nàn, tôi có ý khinh rẻ nó. Nó không giận; nay nó cũng mua áo quần mà cho tôi; tôi nghĩ tới cái đó tôi mắc cỡ quá.
          Mỹ nói:
          - Ai thấy nó nghèo cũng khinh khi, chớ phải một mình dì hay sao mà mắc cỡ. Dì không nhớ hôm đám giỗ hay sao? Nó bổn thân đi mời, mà chủ cả với mấy ông giàu trong làng không ai thèm tới hết. Lại còn có nhiều người nói đi ở bồi làm chi mà về ăn bận thua Trùm Sóc. Vậy thì ở nhà làm ruộng trồng rẫy mà sống cho khỏi mang tiếng ở đợ, ở bồi.
          Tuy nói chuyện song hai cô ráng may riết. Bây giờ quần đã ráp ống rồi, hai cô chia nhau, Hường đột lai, còn Mỹ may lưng. Hai cô chắc thế nào cũng rồi trước bốn giờ.
          Lối ba giờ rưỡi, dì Ba Thới ôm ra một cái áo xuyến đen của Hường mà biểu Mỹ bận thử. Dì nói áo đó may hồi Hường chưa mập nên chắc bận vừa. Thiêt quả y bận vừa cũng như áo may cho Mỹ, tay với cổ vừa, mà kích với trôn cũng vừa. Hường mừng quá, may riết một hơi nữa, cái quần cũng xong. Cả nhà đều vui mừng đương nói lăng xăng, thì chiếc xe hơi lớn, màu xám, đã lên tới. Sen chạy vô nói:
          - Anh Ba biểu đem xe lên rước hai dì với hai chị.
          Hường nói:
          - Tôi phải về tắm rửa và thay đồ rồi mới đi được chớ.
          Ba Mùi biểu dì Ba Thới với Hường lên xe cho Sen đưa về mà sửa soạn. Ba Mùi với Mỹ hứa ngoài nầy cũng sửa soạn rồi sẽ vô rước mà đi với nhau.
          Sen lên xe, nhi nhô quá, khen nhà lớn đồ tốt, nói không dứt. Vô tới ngã ba, dì Ba với Hường xuống xe, mấy người ở gần đều ra coi, trầm trồ xe mới, không biết xe của ai, cũng không hiểu mẹ con dì Ba đi đâu về đó. Dì Ba biểu Sen đem xe trở về rước Mỹ với Ba Mùi, chừng nào xe vô thì mẹ con dì cũng sửa soạn xong.
          Xe đi rồi, mấy người trong xóm lại hỏi thăm coi xe đi đâu vậy. Dì Ba Thới nói Quí là con ông Bồi bái, mới mua xe nên cho về rước mẹ con dì với mẹ con Ba Mùi xuống Trà Vinh ăn cơm. Tuy thấy có Sen ngồi trên xe, song ai nấy lơ láo dường như tưởng dì Ba diễu chơi, không thể tin Quí mua xe hơi, ngặt dì Ba với Hường mắc tắm rửa thay đồ nên không gạn hỏi cho kỹ được đành phải rả ra đi về.
          Cách một lát, chiếc xe ấy trở lại nữa.
          Bây giờ Sen ngồi trước với tài xế, còn phía sau có Ba Mùi với cô Mỹ.
          Dì Ba Thới với cô Hương ra. Tài xế mở cửa xe cho dì Ba lên nữa, rồi xe chạy, chừng đó người trong xóm mới chưng hửng.
          #20
            NuHiepDeThuong 12.02.2006 03:50:21 (permalink)
            Chương 21

            Cuộc nhà của Phan Văn Quí, con trai lớn của Bồi bái Tồn, mướn cất dựa trên đường vào tỉnh lỵ Trà Vinh, mà mấy tháng nay thiên hạ gọi là đền đài, rủ nhau đến xem nườm nượp đó, đã dọn dẹp trong ngoài sau trước đều hoàn thành rồi hết.
            Trên cửa ngõ sắt, vừa đẹp đẽ, vừa hùng hồn, đã có thượng một khuôn sắt hình bán nguyệt, chạm thiệt khéo, trong khuôn có gắn 4 chữ, trên hai chữ “ Biệt Thự” vừa vừa, dưới hai chữ “La-Co” rất lớn.
            Cửa với khuôn đều sơn dầu màu xám, duy bốn chữ thì sơn dầu màu đỏ, nên ở xa ngó thấy rõ ràng.
            Trước nhà thì sân đã dọn xong, bồn bông đắp rồi, đường ngang đường dọc cũng xẻ rồi, chỉ chờ trời mưa gieo bông hoa, đặt cây trái.
            Trong nhà bàn ghế tủ giường cũng đã dọn đủ rồi hết, có máy đèn riêng để cho điện chạy khắp trên dưới trong ngoài.
            Đám nhơn công làm mấy tháng nay ở phía trước, bây giờ dồn hết vô phía sau, đương rần rộ kiến trúc cô nhi viện.
            Buổi chiều đó trong bếp người ta nấu nướng lộn xộn, trong nhà mấy anh bồi sắp đặt lăng xăng.
            Cửa ngõ mở bét cả hai cánh. Cửa lớn cửa sổ trong nhà cũng mở hết.
            Quí đầu chải láng mướt, mình mặc quần túc so dài ống với áo sơ mi lụa ngắn tay, chơn mang giầy da vàng, đương đi bách bộ trước thềm nhà mà nói chuyện với ông xếp Marc, mặc quần sọt với áo sơ mi xanh. Hai người bàn về sự chọn lựa giống hoa mà trồng, bỗng thấy chiếc xe xám của Quí về tới, xe quanh vào cửa ngõ rồi vòng theo bồn bông mà ngừng dưới thềm êm ru.
            Hai anh bồi, mặc đồ trắng, trong nhà chạy ra, xe vừa ngừng thì hai anh liền mở cửa xe cho khách xuống. Quí với xếp Marc ở lại đứng một bên chờ tiếp khách.
            Dì Ba Thới xuống trước, ngó thấy ông xếp, dì chúm chím cười. Ba người kia tiếp tục xuống sau; Ba Mùi xuống chót, coi bộ bợ ngợ hơn hết.
            Quí chờ xuống đủ hết rồi mới bước tới mà nói:
            - Bữa nay tôi chánh thức cầm quyền làm chủ biệt thự La-Co nầy rồi. Vậy tôi lấy danh La-Co kính cẩn chào hai dì, mừng chị Hai và tiếp em Hường. Tôi xin mời hết vào nhà rồi sẽ nói chuyện.
            Cô Mỹ thấy em mặc sang trọng chớ không như mấy tháng về ở trên nhà, cô muốn trách em đã giàu muôn hộ rồi sao lại dấu diếm chị em làm chi, nhưng cô chưa kịp nói, thì ông xếp Marc nói trước:
            - Hôm nọ bà với hai cô thình lình xuống viếng nhà ông kỹ sư, mà ổng không cho tôi biết trước, rồi chừng tôi ra mở cửa cổng lại dặn tôi làm bộ như tôi không biết ổng. Vì vậy nên tôi tiếp bà với hai cô không được trọn lễ. Tôi xin bà với hai cô vui lòng tha lỗi cho tôi.
            Dì Ba Thới cười mà nói:
            - Ông tiếp bà con tôi như vậy là đủ quá rồi. Còn lỗi gì đâu mà tha. Ông làm bộ không biết, mà con nhỏ tôi nó nghi lắm.
            Sen bước lại nói nhỏ với Ba Mùi:
            - Đồ đạc tốt lắm má ơi. Má không thể tượng tượng được. Để vô nhà rồi má coi.
            Quí mời vô nhà. Quí đi giữa, hai dì đi hai bên. Hai cô tiếp theo đó, rồi ông xếp với Sen đi chót.
            Bữa nay bàn ghế sắp ra đủ hết, nên coi lộng lẫy hơn hôm trước một phần. Ba Mùi khiếp sợ nên lúm khúm đi không được.
            Quí dắt đi một vòng từ dưới đất lên trên lầu cũng như hôm trước nhưng bữa nay khỏi cắt nghĩa nữa nên đi mau. Ba Mùi càng coi càng kiêng nể cách giàu sang của Quí, nên không dám hó hé một tiếng.
            Coi đủ rồi, Quí dắt trở xuống tầng dưới, mời ngồi hết tại bộ sa lông lớn phía trước đặng giải khát. Quí sắp ba người ngồi tại ca-na-pê phía trong, cô Mỹ ngồi giữa, hai dì ngồi hai bên. Còn bàn ghế ngoài thì một bên cô Hường và Quí ngồi, phía bên kia thì ông xếp với Sen.
            Bồi xách lại để trước mặt mỗi người một cái bàn vuông nhỏ đặng để ly, vặn đèn điện phựt cháy, rồi rót nước cam, nho, cho mấy bà mấy cô, còn đàn ông thì rót la-ve.
            Quí ngó cô Mỹ cười mà nói:
            - Hôm trước chị Hai nói với em chị muốn ở cái nhà như vầy. Em sắm cho chị rồi đó. Chị có phòng riêng trên lầu cũng như em. Vậy chị ở luôn dưới nầy với em và thằng Sen đặng giúp em làm đám cưới.
            Cô Mỹ cũng chúm chím cười mà đáp:
            - Chị nói chơi với em, chớ ở sao được.
            - Sao lại không được?
            - Không quen nên khó chịu chớ sao.
            - Thì ở ít bữa rồi quen chớ gì. Thằng Sen chịu ở luôn dưới nầy với em rồi.
            - Để thằng Sen nó ở với em.
            - Chị cũng phải ở nữa. Em không cho chị về. Chị ở ít bữa tới đám cưới rồi có vợ em thì chị vui chớ gì.
            Cô Hường nói tiếp:
            - Nhà dọn xong hết. Vậy chị ở luôn chị Hai.
            Cô Mỹ lặng thinh mà suy nghĩ
            Dì Ba Thới hỏi:
            - Con cất nhà kinh dinh, con dọn đồ hực hỡ như vầy, mà trở về Càng Long con làm bộ ăn mày chi vậy Quí?
            - Thưa con muốn thử nhơn tình chơi.
            - Con gạt, con làm cho dì với con Hường cũng lầm, tưởng con nghèo lung lắm chớ.
            - Thiệt vậy hay sao dì?
            Cô Hường nói:
            - Thiệt vậy chớ. Anh giả dạng coi nghèo khổ quá, người ta không lầm sao được. Anh biết họ nói anh thế nào hay không? Họ nói theo ở bồi với Tây tưởng sau nầy được làm ông nầy hay thầy gì, té ra bỏ xứ mà đi mấy năm, chùng trở về coi bộ không bằng Trùm Sốc. Vậy thì ở nhà làm ruộng chắc no ấm hơn. Đi làm chi.
            Quí cười mà nói:
            - Mấy lời họ chê đúng lắm. Tôi phục họ ngay. Tôi không phiền đâu. Trái lại tôi rất vui mà thấy tôi giả dạng thiệt hay, nên ai nấy đều lầm hết.
            Bây giờ Ba Mùi mới dám nói:
            - Giả dạng hay quá, không lầm sao được. Đến dì với con Mỹ ở trong nhà mấy tháng, mà cũng không biết giả, nên cũng phải lầm như thiên hạ.
            Quí nói:
            - Thôi, để đám cưới, tôi làm tiệc tôi mời hết bà con trên Càng Long xuống tôi đãi một bữa đặng tôi xin lỗi về sự tôi gạt gẫm bà con.
            Đồng hồ gõ 7 giờ. Quí thấy mấy bà mấy cô uống cạn ly rồi, mới hỏi mấy anh bồi coi ăn cơm được hay chưa. Mấy anh trả lời rằng đầu bếp mới cho hay đồ ăn đã nấu xong rồi hết.
            Quí bèn đứng dậy mời khách vào nhà ăn.
            Bồi dọn bàn ăn, sắp mỗi bên ba người, còn một người ngồi đầu bàn. Quí mời cô Mỹ ngồi giữa, hai dì ngồi kề hai bên. Còn phía bên nầy Quí ngồi giữa, để cô Hường bên tay mặt và ông Marc bên tay trái. Sen ngồi đầu bàn.
            Khách ngồi xong Quí mới nói:
            - Tôi xin lỗi hai dì, tôi về ở nhà nầy tôi mang cái tên La-Co, chớ không phải tên Phan Văn Quí. Mà tôi là người Pháp, chớ không phải người Việt như hồi trước. Vậy bữa cơm đầu tiên tôi đãi bà con trong nhà nầy, tôi phải đãi cơm tây cho hợp với tình cảnh, rồi bữa khác bà con muốn ăn cơm nào tôi sẽ làm vừa ý luôn luôn.
            Cô Mỹ nói:
            - Ăn cơm Tây là ăn làm sao. Chị có biết đâu.
            Quí nói :
            - Cũng ăn thịt cá rau cải như ăn cơm Việt vậy, duy khác mấy điều này là -- bánh mì thế cho cơm; đồ ăn bưng lên từ món cho mình sớt, chớ không dọn hết một lượt trên bàn, và để chung ai muốn ăn thứ gì tuỳ ý; không có chén mà có dĩa bàn cho mình sớt đồ ăn. Dao với nĩa thì thế cho đũa. Khác có bấy nhiêu đó. Để rồi chị coi tôi với ông xếp làm sao chị làm theo vậy. Ăn vài dĩa chị sẽ quen chớ không khó gì đâu.
            Bồi bưng súp lên. Quí chỉ đem cho dì Ba Thới và khuyên dì lấy muỗng múc đỗ vào đĩa. Đợi dì múc được hai phần đĩa, Quí bảo thôi và chỉ dì Ba Mùi cho bồi đem lại. Ba Mùi làm y như Ba Thới nên khỏi dạy. Tới cô Mỹ và cô Hường thì hai cô đã biết rồi. Quí biểu mấy người đàn bà lấy khăn trải lên bắp vế đặng rủi đồ ăn có rớt thì khỏi dơ áo quần. Rồi Quí lấy muỗng múc xúp mà ăn cho đàn bà coi đặng làm theo.
            Tới mấy dĩa sau, cá, thịt, đậu, rau, Quí cũng chỉ cách cho mấy bà sớt mà ăn với bánh mì, xắt thịt thì cầm dao, múc đồ ăn thì dùng nĩa, ăn một dĩa đầu rồi ai cũng biết hết không khó gì.
            Cô Mỹ cứ ngó cô Hường mà cười, không dè mà ngày nay được ăn cơm Tây, lại ăn trong nhà sang trọng, đèn điện sáng trưng, nắp khăn trắng nõn, muỗng nĩa bằng bạc, trên bàn có chưng hai bình bông, ly dĩa thứ gì cũng tốt, thưở nay chưa từng thấy. Cô Hường cứ ngồi lo ra, làm cho Quí phải nài ép, sớt thêm đồ ăn cho cô hoài.
            Duy có hai bà dì, nhứt là dì Ba Thới, vui cười ngã ngớn, nói đồ ăn ngon thì phải ăn no; tuy đồ Tây mà mình ăn nó, chớ phải nó ăn mình hay sao nên sụt sè sợ sệt. Dì Ba Thới cứ theo diễu cợt chọc ông Marc nói tiếng việt; mà ông Marc lanh lợi bặt thiệp, ông đủ lời đối đáp luôn luôn, làm cho bữa cơm gia đình hôm nay vừa thân yêu, vừa vui vẻ, không có một điểm nghi nan, lo ngại nào nữa hết.
            Đến chừng ăn bánh tráng miệng và uống cà phê rồi, Quí biểu bồi dọn trầu cau, trà thuốc trên phòng khách đặng khách lên đó nói chuyện chơi. Ông Marc biết ông chủ muốn bày tỏ việc riêng trong gia đình, nên ông cáo từ về phòng mà nghỉ sớm vì ông phải coi làm tối ngày mệt nhọc, nên ông không thể thức khuya được.
            Dì Ba Thới hỏi phòng ông xếp ở đâu thì Quí nói hai bên nhà lớn có kềm hai căn lầu ba từng, trong đó ngăn làm nhiều phòng để cho khách ở. Ông Marc lấy một phòng từng dưới mà ở đặng vô cho tiện. Sỡ dĩ làm phòng nhiều như vậy là vì rồi đây sẽ mở cô nhi viện, sẽ có ký lục làm việc giấy, nên phải có chỗ ở cho nhơn viên trong sở ở mà giúp việc.
            Ông Marc đi rồi, Quí mới mời hết bà con lên lầu.
            Hai bà dì lấy làm lạ mà thấy trên một bàn nhỏ có để trầu cau, thuốc xỉa, thuốc điếu đủ hết, lại có hai ống nhổ bằng đồng bạch mới tinh, còn trên cái bàn lớn thì có bình trà, sáu cái tách với dĩa bánh tây và một dĩa trái cây là nho tươi, trái bôm, xá lỵ, cam sành, quít đường, xoài voi, vú sữa.
            Quí mời khách vô, ai muốn ngồi đâu tuỳ ý. Hai bà dì ngồi hai cái ghế phía ngoài cho gần bàn trầu cau. Sen ngồi trái bên bàn viết. Còn hai cô Hường với Mỹ thấy ghế ca-na-pê trong bèn ngồi lại đó.
            Quí biểu Sen rót nước trà và mời hai dì uống rồi sẽ ăn trầu. Quí đốt một điếu thuốc rồi hút phì phà, rồi chen ngồi lại ca-na-pê, ngồi giữa để hai cô ngồi hai bên.
            Dì Ba Thới vừa têm trầu vừa ăn vừa hỏi:
            - Nầy con Quí, tại sao hồi tối con nói bây giờ tên con là La-Co chớ không phải Phan Văn Quí nữa? Lại còn làm việc gì mà con giàu quá, cất cơ ngơi nhà cửa đồ sộ như vầy? Bây giờ chỉ có bà con trong nhà thôi. Vậy con phải nói thiệt mà nghe, đừng dấu diếm nữa.
            Quí cười mà nói:
            - Chánh con mời hết xuống nhà mà ăn cơm cho đặng nói rõ việc ấy cho bà con hiểu.
            Quí bèn thuật lại rõ ràng trong 12 năm đã qua, Quí đi theo quan Kinh Lý La-Co mà làm việc gì, ngồi chậm rãi nói hết cũng như nói với thầy nhứt Vĩnh nghe hôm trước không bỏ sót một điểm nào. Chàng nói khi ở Càng Long lên Sài Gòn rồi, ông La-Co thấy thấy chàng hễ ban đêm rảnh rang thì thức mà học, ông đem lòng thương, ông mới kiếm sách mua cho chàng và lúc nào ông rảnh thì ông dạy dùm nữa. Ông dắt theo vô Rạch Giá ở hai năm cho ông đo đất, ông cũng dạy tiếp như mấy tháng ở Sài Gòn. Chừng ông về Pháp mà nghỉ, ông biểu chàng đi theo ông, vì thấy chàng ham học nên ông hứa hễ qua Pháp ông sẽ nuôi chàng ăn học cho thành công để lập thân danh với thiên hạ. Thiệt quả về bên Pháp ông mua đất mua nhà mà ở, mướn người làm vườn và người nấu ăn, để chàng ở không đặng mỗi bữa đến nhà trường mà học.
            Ông cho chàng ăn cơm chung với ông, cho chàng ngủ một cái phòng khít một bên phòng ông, ban đêm ông giúp chỉ cho chàng học nữa. Ông nghỉ phép được một năm rồi ông xin hưu trí ở luôn bên Pháp. Nhờ vậy chàng mới học tiếp được, học năm năm lấy đủ hai bằng tú tài. Ông La-Co lấy làm hài lòng, ông buộc chàng phải kêu ông bằng Papa, chớ không cho kêu mông-xừ nữa và ông cho chàng vào trường công chánh học thêm ba năm lấy được bằng kỹ sư. Chàng nhờ ông mà lập được thân danh, không nỡ bỏ ông mà về xứ sở. Chàng xin ông cho chàng đi làm đặng lập sự cho quen. Ông không cho. Ông nói rằng ông đã già yếu nay hay có bịnh, vậy chàng phải ở nhà hủ hỉ với ông cho ông vui và săn sóc dùm ông khi ông đau ốm.
            Nghe Quí thuật đến đây dì Ba Thới chận mà nói:
            - Nếu vậy thì tấm hình treo trong phòng làm việc mình thấy bữa hổm đó quả thiệt là hình ông La-Co mà. Phải hôn con?
            - Thưa phải, cha nuôi của cháu đó.
            - Sao hôm đó con cãi với dì, con nói không phải?
            - Vì cháu chưa muốn cho dì biết.
            - Thôi con nói tiếp đi. Ông La-Co bây giờ còn ở bên Pháp hay ổng có qua bên nầy với con?
            - Ông chết rồi, chết đã hai năm nay.
            - Ổng chết lâu quá, sao con còn ở làm chi bên Pháp đến giờ nầy con mới về?
            - Tại có việc rắc rối, để thủng thẳng tôi nói hết cho bà con nghe. Năm tôi thi đậu bằng kỹ sư công chánh mà người mình gọi là quan Bác vật Trường Tiền đó, thì ông La-Co hay đau ốm. Ông không có vợ con, chỉ có một người cháu gái kêu bằng cậu, có chồng là một người buôn bán giàu có lớn. Thấy sức càng ngày càng nguy, ông La-Co mới mời Nô Te đặng lập tờ chúc ngôn. Cháu không muốn biết việc nhà của ông, nên cháu không tìm hiểu ổng tính việc chi. Còn chừng một tháng nữa ổng mất, ổng mới nói cho cháu biết ổng làm việc bên xứ Nam Việt mình trót 25 năm, ổng có sắm tài sản nhiều thứ. Nay ổng già, mà không có vợ con, nếu ổng để lại tài sản cho cháu gái của ổng thì không có ích gì, vì chồng nó đã giàu, lại mắc buôn bán nên không thể qua Nam Việt, ở hưởng tài sản của ông được. Vì vậy ổng có lập tờ chúc ngôn cho người cháu gái ổng một triệu bạc gởi trong nhà băng, và cho người nấu ăn với người làm vườn mỗi người năm mươi ngàn quan. Còn lại số tiền chỉ tồn lại trong nhà băng, nhà đất mà ổng mua nhà ở bên Pháp đó với tài sản của ổng bên Nam Việt thì ổng giao cho tôi kế nghiệp mà hưởng hết.
            - Trời ơi, ông thương tới vậy lận sao?
            - Thưa phải. Ổng giao hết gia tài cho tôi hưởng, mà ổng có buộc mấy điều kiện làm cho tôi phải khổ tâm hết sức. Ổng buộc tôi phải làm con nuôi ổng, đặng mang tên ổng, rồi chọn con nhà nghèo siêng năng ham học, như tôi hồi nhỏ, ngặt không có tiền đi học được, đặng tôi xuất tiền cho qua Pháp ăn học cho thành tài. Ông nói ông giao nhiệm vụ đó cho tôi là vì ông biết tôi có ở trong hoàn cảnh khổ đó hồi nhỏ, nên tôi mới biết thương kẻ nghèo muốn học mà không học được. Tôi sẽ sốt sắng cứu vớt hạng người đáng thương đó, như ổng đã cứu vớt tôi, mà giúp tôi lập thân thành danh. Ổng chắc tôi sẽ sốt sắng lãnh nhiệm vụ ấy, thứ nhứt để đền ơn đáp nghĩa cho ổng, thứ nhì để giúp cho đồng bào tôi ham học vì nhà nghèo nên không vượt khỏi địa vị thấp hèn, thứ ba giúp gieo rắc văn hóa của nước Pháp là văn hoá tôi ái mộ từ hồi nhỏ, giúp gieo rắc trong dân gian xứ Nam Việt mình, với tiền bạc ổng giao sẵn trong tay tôi.
            - Ông La-Co thiệt là tử tế. Vậy mà mình có dè đâu.
            - Tôi cũng không dè. Tôi tưởng ông biết tôi nên thương thân phận tôi mà thôi, té ra vì tôi mà ổng nghĩ đến số phận của các con nhà nghèo khác nữa. Ổng giao cho tôi làm hai việc. Thứ nhứt, nuôi cho con nít mồ côi được ấm no. Chừng khôn lớn chúng nó biết nghề làm ăn mà nuôi thân cho thong thả. Thứ nhì, lựa con nhà nghèo thông minh mà ham học, gửi cho qua Pháp học mấy ngành kỹ thuật để đào tạo nhơn tài mà kiến thiết nước Việt Nam. Ổng thương nước mình mà cũng không quên được nước Pháp của ổng, bởi vậy ổng buộc tôi phải làm con nuôi của ổng đặng tôi mang tên La-Co mà giúp người Nam Việt để gây tình thân thiết Pháp – Việt đời đời. Ổng muốn như vậy làm tôi bối rối hết sức.
            - Ổng để gia tài cho con, mà ổng buộc phải để làm hai việc đó, chớ con không được lấy mà xài hay sao mà con bối rối?
            - Thưa không. Con làm chủ sự nghiệp của ổng thì con thong thả muốn ăn xài cách nào và bao nhiêu tuỳ ý. Ông buộc con trước hết phải tạo ra một cơ sở vĩ đại tại tĩnh Trà Vinh là quê quán của con mà người ở đó đều biết danh ông. Vì vậy, nên con mới lập ra cuộc đất nầy đây. Con bối rối là nếu con chịu làm con nuôi ông, thì con mất tánh danh Phan Văn Quí, con có lỗi với cha mẹ ông bà con nhiều lắm, mà con còn mất quốc tịch Việt Nam, nên hổ với quê cha đất tổ của con nữa.
            Mấy người đàn bà này không có học nên không có hiểu nhiệm vụ cao quý của một người con trai đối với tông môn và đối với tổ quốc, bởi vậy ngó nhau, rồi cô Mỹ nói:
            - Được hưởng gia tài dầu em phải mang tên La-Co cũng không hại gì mà bối rối.
            Quí cười mà nói:
            - Chị không hiểu chỗ thắc mắc đó đâu chị Hai. Tôi có học, tôi biết danh dự và phận sự làm trai nên tôi ái ngại lắm. Tôi tính viết thơ về nhà hỏi ý kiến cha và thầy nhứt Vĩnh nên tôi xin đình việc ấy lại một vài tháng cho tôi suy nghĩ. Ông La-Co nói không có việc gì mà phải suy nghĩ. Ông đã lập tờ chúc ngôn nhận tôi làm con và để sự nghiệp cho tôi rồi. Cách có mấy tuần thì ổng mất. Nô te nhóm mấy người được hưởng gia tài mà đọc tờ chúc ngôn, biểu tôi ký tên tờ chịu nhận làm con ông La-Co và chịu lãnh gia tài, đặng Nô te xin tòa lên án cho tôi mang tên La-Co, là công dân của nước Pháp. Tôi buộc lòng phải chịu, chớ ổng chết rồi, còn cãi với ai. Nhưng người cháu gái không bằng lòng nên đề đơn tranh gia tài xin toà huỷ tờ chúc ngôn. Tôi phải ở lại bên Pháp lòng vòng trót hai năm mà hầu toà. Lúc ấy tôi có viết thơ cậy nam biện Trà Vinh cho tôi biết tin tức bên nhà. Nhờ có tờ phúc trình của quan chủ quận Càng Long nên tôi được biết:
            1) Cha tôi mất, ruộng bán hết một sở, sau bị thi hành phát mãi một sở nữa, nhà nghèo chị tôi vất vả, cực khổ, em tôi thì du hí, lưu linh.
            2) Thầy nhứt Vĩnh hưu trí về cất nhà ở dưới Trà Vinh.
            3) Dượng Ba mất, dì Ba bán quán như cũ, còn cô Hường chưa có chồng.
            Tôi được biết rõ hết. Năm ngoái toà có xử xong vụ kiện, bác đơn của tiên cáo và cho tôi có quyền hưởng gai tài của cha tôi ký thác. Tôi mới trở về Sài Gòn thi hành nhiệm vụ của ông La-Co phú cho tôi.
            Dì Ba Thới nói:
            - Té ra con về lâu rồi hay sao?
            - Con về hồi năm ngoái.
            - Ở đâu? Sao không về đây?
            - Con mua nhà ở trên Sài Gòn. Con có xuống Trà Vinh hai ba lần kiếm đất mà mua đặng cất nhà cửa đây. Con có qua lại ngang Càng Long mấy lần, có lần, con thấy em Hường đứng trước cửa.
            - Sao không ghé?
            - Ghé chưa được, vì chưa tới ngày giờ con phải ra mặt. Con đợi cất nhà gần xong rồi, năm nay con mới giả dạng nghèo hèn về Càng Long đặng thứ nhứt, dùng lời ngay lẽ phải, thứ nhì thử bụng em Hường coi có phải em chờ con hay không.
            - Nay con gỡ rối cho gia đình của con đã xong, sắp đặt thi hành nhiệm vụ của ân nhơn con phú thác cũng gần xong rồi, mà tình dài nghĩa nặng của em Hường con cũng đã hiểu rõ, bởi vậy con không còn dấu diếm nữa, con chường mặt thiệt của con ra, là kỹ sư La-Co mà cưới em Hường đặng vợ chồng chung lo nuôi con mồ côi và giúp trẻ nghèo thông minh có thể mở rộng tài năng trí thức được.
            - Ông La-Co để gia tài cho em bao nhiêu mà em làm rình rang quá, rồi còn tiền đâu mà nuôi con mồ côi và cho con nhà nghèo ăn học?
            - Chị Hai đừng lo. Không kể cái nhà và với cái vườn bên Pháp em để làm trụ sở, đặt người ở trông nom các sinh viên của em sẽ gởi qua, ân nhân của em để lại cho em số bạc mặt gởi trong nhà băng hơn hai triệu…
            - Trời ơi! Một triệu là bao nhiêu?
            - Một triệu là một ngàn ngàn…
            - Quá xá !
            - Mua đất cất nhà và lập cô nhi viện tốn hao lối nửa triệu. Còn lại hơn một triệu rưỡi để nuôi mồ côi với sinh viên nghèo.
            Dì Ba Thới hỏi:
            - Hồi nãy con nói ông La-Co còn sự sản gì ở bên nầy nữa?
            - Còn nhiều -- một sở ruộng lúa một ngàn mẫu tại kinh thị Đôi trong tỉnh Rạch Giá.
            - Dữ hôn ! Một ngàn mẫu?
            - Huê lợi mỗi năm từ ba mươi đến bốn mươi ngàn thùng lúa, trừ sở phí rồi.
            - Ghê chưa!
            - Còn một vườn sao su tám trăm mẫu trên Biên Hòa với một sở vườn cà phê năm trăm mẫu ngoài Ban Mê Thuột. Huê lợi hai sở vườn đó mỗi năm tới mấy trăm ngàn, thiếu gì tiền. Vậy mà còn số hùn lớn trong một hãng bán xe hơi và trong hãng thuốc điếu trên Sài Gòn nữa. Hai hãng đó cũng lời lắm.
            - Rồi tiền bạc làm giống gì cho hết.
            Quí thấy cô Hường nãy giờ ngồi lặng thinh, mà bây giờ mặt lại buồn hiu thì day qua mơn trớn nói:
            - Bữa nay qua mới nói thiệt đó. Em nghi qua ăn cướp người ta mà đoạt tiền bạc rồi kiếm chuyện nói dóc hay sao mà em buồn? Qua có giấy tờ đủ. Lại công việc qua làm đây đủ chứng lời cho qua nói nãy giờ chớ. Hôm trước qua xin cưới em, nhưng qua than nghèo, em phải cực khổ với qua. Em nói qua có sẵn một sở ruộng giống rộng hơn một mẫu. Vợ chồng chịu cực gieo trồng cho gíap hết mà lấy huê lợi trong ít năm ắt sẽ giàu. Thiệt gieo trồng rau cải ắt có lợi, nhưng lợi ấy không bằng gieo trồng nhơn tài đâu em. Vậy em ráng hiệp lực với qua để giúp nhơn tài cho nước, rải tài nghệ cho dân, mối lợi ấy cả dân tộc được nhờ, cả quê hương được hưởng. Đó mới thiệt là quý.
            Cô Hường cảm động đến ứa nước mắt, cô muốn nói mà nghẹn ngào nói không được.
            Quí thấy vậy bèn nói:
            - Bây giờ để lo đám cưới đã. Cưới rồi chúng ta sẽ chia phần việc đặng mỗi người lo một mối, lo tổ chức một thớt vườn La-Co để gieo trồng đủ thứ nhơn tài chơi.
            - Không có đám cưới đâu anh.
            - Ủa! Sao vậy?
            - Em xin bãi. Trước mặt má em đây, em xin hủy bỏ lời em đã hứa làm vợ anh đó đi, bởi vì nghe nói chuyện nãy giờ em nhận thấy em không xứng đáng làm người bạn trăm năm của của anh. Em phải nhường địa vị ấy cho một người khác có học thức, có tài năng, thì nhiệm vụ của anh mới được vuông tròn, đời sống của anh mới được vui vẻ. Nếu anh cưới em thì chẳng khác nào anh buộc một viên đá to vào chưn anh. Viên đá đó nó sẽ ngăn trở khó anh bay nhảy, chớ không giúp cho anh được việc gì.
            Ai nấy nghe cô Hường nói như vậy đều ngạc nhiên, Ba Mùi ngó Ba Thới, có ý đợi ý dì coi thế nào. Ba Thới lại đợi coi ý Quí thế nào nên cứ ngồi im lìm.
            Quí chau mày, để cô Hường nói dứt lời rồi nghiêm chỉnh nói:
            - Qua rất cám ơn em lo cho phận qua hơn ham tiền bạc. Bao nhiêu đó đủ cho qua thấy lòng dạ em rồi. Vì em lấy lòng thành thiệt mà đáp lại. Việc em ái ngại đây, qua đã có nghĩ tới rồi, nghĩ nhiều, nghĩ từ bữa qua hay ở nhà em không chịu lấy chồng là vì em chờ qua. Đó là một bằng cớ đối với qua tình em thiệt là dài. Chừng qua than phận qua nghèo hèn, mà mà thấy bề ngoài ai cũng khinh rẻ qua hết, nhưng riêng em lại không chê qua, em vẫn ưng phối hiệp để chia sớt cực nhọc với qua, thì qua thêm nhận thấy đối với qua em sẵn sàng làm một cái nghĩa lớn đó khiến cho qua phải bối rối vô cùng, ngày trước qua chơi dưới mương, dưới vũng, ông La-Co kéo qua lên tắm rửa rồi đặt qua ngồi trên sạch sẽ tốt tươi. Mang nhiệm vụ của ông phú thác qua về đây, thiệt qua không có tính cưới vợ. Qua quyết ở độc thân mà lo công việc của ông để đền đáp ơn nghĩa. Qua sẽ rèn tập cho Sen đặng nó thế cho qua mà nối nghiệp tông môn. Còn phận qua thì chừng gần mãn đời qua sẽ chọn trong đám nhơn tài qua sắp đào tạo, chọn một người đứng đắn mà phú thác lại công việc ông La-Co đã giao cho qua đây.
            Quí nói tới đây rồi ngừng lại. Lấy một điếu thuốc nữa đốt mà hút. Ai nấy đều nín khe, vì việc quan hệ quá, không biết sao là phải, sao là quấy mà dám phân phán.
            Quí nói tiếp:
            - Chừng biết em có tình có nghĩa với qua thì qua không biết phải liệu lẽ nào. Nếu qua ở độc thân không cưới vợ, té ra đối với em, qua là người vô tình bất nghĩa. Còn nếu qua cưới em, thì vợ chồng mà học thức bất đồng, qua tính một đường, em hiểu một ngã, vợ chồng dường ấy tự nhiên phải cắn đắng nuốt cay chớ vui sướng gì mà vợ chồng. Mà còn lại hơn nữa, là nhiệm vụ nặng nề của qua là đạo vợ chồng bận rộn đó mà lãng xao dải đải.
            Hường nghiêm chỉnh cãi lại:
            - Anh cũng phải có vợ như người khác vậy chớ, có vợ đặng trong nhà có sẵn người giúp đỡ cho anh. Song cưới vợ anh phải chọn một cô học giỏi, thông thạo việc đời, thì mới có ích cho anh, chớ em là gái bán quán, quê mùa, dốt nát, không hiểu biết cao xa, không biết xứ nào hết, thì cực lòng cho anh lắm vậy.
            - Vì tình vì nghĩa nên qua mới tính cưới em. Chớ người khác qua cưới làm chi. Phan Văn Quí sẽ có Phan Văn Sen thay thế. Kỹ sư La-Co sẽ có nhiều nhơn viên phụ tá trợ giúp, mỗi người một ngành, không có vợ lại hại gì. Được biết tình nghĩa em, thì qua rất bối rối. Vì bối rối nên em biểu dắt đi xem đền đài, qua dục dặc không muốn đi. Vì bối rối nên qua phải tìm thầy Nhứt Vĩnh mà hỏi ý kiến. Vì bối rối nên nói chuyện với thầy nhứt Vĩnh rồi, qua trở về nhà nằm suy nghĩ mấy ngày, cứ lơ lửng nên không dám vô nhà thăm em. Suy nghĩ kỹ lưỡng lắm rồi qua mới vô xin với dì Ba mà cưới em đó.
            - Anh cũng thấy như em, thấy vợ chồng không cùng bực, không đồng ý thì khó, mà rồi anh suy nghĩ thế nào lại xin cưới em??
            - Qua nghĩ em quê mùa, dốt nát thiệt. Nhưng em có tình nồng nhiệt yêu qua, em lại có lòng thành thiệt giúp qua, thế thì làm vợ qua, dù em không có tài trí mà giúp qua đi nữa, em cũng không nỡ ngăn cản không để cho qua lo nhiệm vụ cao quí của ông La-Co phú thác. Qua sẽ cậy em giúp coi mọi việc trong nhà, chăm sóc cho giấc ngủ, miếng ăn manh quần, tấm áo cho qua vậy thôi, chăm nom cho qua thảnh thơi khoẻ khoắn đặng qua lo việc bảo bọc con côi ấm no, giúp đỡ nhà nghèo học tập, qua tính chừng cưới rồi, nếu em không vui mà giúp tay với qua về việc khác thì giúp bao nhiêu đó cũng đủ.
            Cô Hường ngồi lặng thinh không cãi nữa.
            Dì Ba Thới mới nói:
            - Quí nói như vậy thì phải lắm. Nãy giờ dì cũng bối rối như con Hường . Dì nói thiệt, thấy con đi Sài Gòn về rần rộ, mua đồ bạc muôn, dì lo ngại hết sức, không biết con làm nghề gì mà tiền bạc nhiều dữ vậy. Chừng con nói chuyện ông La-Co để hết gia tài cho con thì dì ghê quá. Con xin cưới con Hường thì dì gả. Bây giờ hay con giàu thì dì mừng lắm, chớ sao lại không mừng. Mà giàu chút đỉnh như người ta thì mừng, chớ giàu gì mà tiền bạc triệu này qua triệu kia, nghe ngán quá, hết mừng được.
            Cô Hường chúm chím cười mà nói:
            - Anh Quí xin cưới. Tôi ưng anh Quí. Việc đó tôi không chối. Bây giờ ông kỹ sư La-Co nói chuyện cưới tôi. Cái đó không được. Tôi không dám ưng.
            Quí cười mà đáp:
            - Em ưng Phan Văn Quí thì Phan Văn Quí đứng cưới. Em bỏ dẹp kỹ sư La-Co đi.
            - Vậy thì phải cưới em về ở nhà thờ.
            - Vậy chớ sao. Phải cưới về nhà thờ đặng lạy ông bà cha mẹ chớ. Nhưng phận gái hễ xuất giá thì phải tòng phu. Chừng Phan Văn Quí ở đâu em phải theo mà ở đó.
            Ba Thới, Ba Mùi với cô Mùi đều cười rộ. Cô Hường cũng cười theo.
            Quí biểu Sen lại phụ bưng bánh trái mời hai bà, hai cô ăn. Ai nấy đều nói ăn cơm Tây no quá, không thể ăn nổi nữa, nên chỉ uống trà mà thôi.
            Bây giờ Quí mới dỡ việc may áo quần ra mà hỏi. Ba Thới với Ba Mùi nói chiều mai thợ sẽ may xong một bộ đồ cho cô Mỹ có mà bận trước. Còn áo quần cho bốn người bận đám cưới, thì vì nhiều quá nên không biết chừng nào may mới rồi.
            Quí suy nghĩ rối nói:
            - Vậy thì tôi tính như vầy, chiều mai chị Hai tôi có một bộ đồ mà mặc rồi. Tôi xin phép hai dì sáng mốt để tôi chở chị Hai tôi với em Hường lên Sài Gòn đặng đặt cho thợ Sài Gòn đo mà may đồ của hai cô, để thợ Càng Long may đồ cho hai dì. Tôi cũng dắt thằng Sen theo đặng đặt luôn đồ Tây cho nó nữa. Ở lâu lắm là một tuần có lẽ họ may xong hết.
            Dì Ba Thới hỏi:
            - Lên Sài Gòn rồi ở đâu mà chờ may?
            - Ở nhà con.
            - Con có nhà trên Sài Gòn nữa sao?
            - Có chớ năm ngoái con về con mua một cái nhà lầu ở phía Nữ học đường, trên hai phòng, dưới hai phòng thiếu gì chỗ ngủ.
            - Trên Sài Gòn đã có nhà mà còn cất nhà dưới nầy nữa, ở làm sao cho hết.
            - Thưa, nhà Sài Gòn là trụ sở chánh của con. Thơ từ của các ruộng vườn và các hãng đều tập trung về đó. Con có đặt người quản lý. Con lên xuống coi chừng vậy thôi. Nhưng phải có nhà đặng con lên có chỗ cho con chớ.
            - Hai đứa nó thuở nay chưa biết Sài Gòn. Lên đó rồi tụi nó biết thợ may ở chỗ nào đâu mà mướn may đồ.
            - Thưa, dì khỏi lo. Có con đây chi. Lên đó con mời mấy bà con quen lại con giới thiệu, rồi con giao cho mấy bà đưa đi làm công chuyện. Có vợ ông xếp Marc, vợ ông quản lý của con, vợ mấy thầy làm với con, thiếu gì người theo mà lo. Hai cô lên đây họ rước đi chơi, họ mời coi hát, mặc sức mà đi.
            - Nhà quê lên Sài Gòn, chắc hai đứa lính quýnh lắm.
            - Tập lần cho quen. Hai dì muốn đi theo chơi hay không? Đem hàng lên trển mướn may luôn hết cho mau. Ở trển có nhiều tiệm may, thợ lại may khéo nữa.
            Ba Thới và Ba Mùi bàn tính rồi nói thôi, để cho Mỹ với Hường đi, hai bà mướn thợ Càng Long may, đặng ở nhà coi nhà, có muốn đi chơi thì đám cưới rồi sẽ đi.
            Nói chuyện chơi đến khuya, dì Ba Thới buồn ngủ, mới bàn tính với nhau đặng chia phòng mà ngủ. Hai bà xin ngủ chung một phòng ở từng dưới. Quí biểu Sen phải ngủ cái phòng gần đó đặng gần hai bà. Còn hai cô thì ngủ chung một phòng lớn ở trên lầu, đối diện với phòng của Quí.
            Quí đưa hai bà với Sen đi nghỉ rồi trở lên thấy Hường, Mỹ vẫn còn ngồi nói chuyện, Quí ráp lại đàm đạo nữa. Quí tính sáng bữa sau sẽ giao cho mấy bà một chiếc xe đặng đi chợ chơi. Trưa, ăn, chơi rồi, xe sẽ đưa về Càng Long cho hai cô sửa soạn đặng bữa sau nữa Quí sẽ lên rước đi Sài Gòn chơi.
            Hai cô thuở nay chưa đi Sài Gòn lần nào, nhớ tới việc đó có ý lo ngại. Nhưng nghĩ đi với Quí, lại lên đó có nhà sẵn cho mà ở, thì cũng có hơi vững bụng.
            Sáng bữa sau, ăn lót lòng rồi Quí dậy đem xe lớn ra cho bốn người đàn bà với Sen đi chợ chơi. Quí đưa cho mỗi người một trăm đặng muốn mua vật gì thì có tiền sẵn mà mua.
            Mấy bà đi rồi thì Quí cầm lái chiếc xe nhỏ một mình đi thăm thầy nhứt Vĩnh.
            Trưa về ăn cơm, bữa nay ăn cơm Việt, Quí rất vui mừng mà nói có gặp đầy đủ vợ chồng thầy nhứt Vĩnh, hai ông bà đều chịu, chừng cô nhi viện tổ chức xong rồi, hai ông bà sẽ dọn về ở làm đốc lý cơ quan phứơc thiện ấy, ông lại lãnh chăm nom phần giáo hoá cô nhi, và chọn lựa sinh viên để gởi qua Pháp mà học thêm nữa. Được thầy nhứt Vĩnh phụ trách thì Quí vững vàng hết lo gì nữa.
            Ăn cơm rồi thì bốn người đàn bà lên xe lớn đi về Càng Long. Quí soạn hai gói hàng của Ba Thới với Ba Mùi mà giao cho hai bà đặng về mướn thợ Càng Long may. Còn đồ của hai cô với áo rộng cùng áo dài của Quí và Sen thì để lại trong hoa ly đặng sáng mai Quí sẽ trở theo lên Sài Gòn mướn may hết.
            #21
              NuHiepDeThuong 12.02.2006 03:55:42 (permalink)
              Chương 22

              Sài Gòn … Sài Gòn …

              Thuở nay Mỹ với Hường nghe hai tiếng Sài Gòn thường hoài. Người thì khoe Sài Gòn tốt đẹp như cảnh tiên. Kẻ thì nói Sài Gòn náo nhiệt như chợ tết, ngựa xe rần rộ, người đi dập dìu, vui chơi ngày đêm, giàu nghèo đủ hạng.

              Sửa soạn đi Sài Gòn, cô Mỹ ngoài kia cũng như cô Hường trong nầy, đêm nay hai cô nôn nóng ngủ không được, trong trí cứ muốn tưởng tượng coi Sài Gòn như chốn nào, nhưng nghĩ không ra, không hiểu nó ở đâu, không biết đi bao lâu mới tới.
              Ở chốn thôn quê người ta đã quen tục đi đâu cũng lo ăn trước vài chén cơm dằn bụng rồi mới đi, vì họ hổ thẹn với cách ngồi quán, ngồi tiệm dọc đường mà ăn uống.

              Ba Mùi bị cảnh giàu sang của Quí làm chóa mắt rồi kiêng sợ, bây giờ lo ngon ngọt với Mỹ để cầu thân, bởi vậy nghe trống ngoài quận đánh canh năm, thì kêu Mỹ thức dậy đặng đi Sài Gòn. Chị ta bổn thân xuống bếp nhúm lửa nấu một nồi cơm nhỏ cho Mỹ ăn. Mỹ dành mà làm. Chị ta không cho, biểu Mỹ lo rửa mặt, gỡ đầu cho đàng hoàng, đợi cơm chín ăn rồi thay quần áo mới mà bận cho sẵn, đặng lên xe thì đi, khỏi bắt Quí chờ đợi.
              Phần thì ăn cơm sớm, phần thì trong lòng rộn rực, cô Mỹ ăn nhanh lắm, nhưng ăn cơm không biết ngon, bởi vậy và cho hết chén cơm rồi cô bưng đem dẹp mà đi uống nước.
              Bây giờ cô mới vô buồng bận bộ đồ mướn thợ Càng Long may cô mới lấy về hồi chiều. Bộ đồ may khéo và bận vừa. Ba Mùi theo vuốt ve trầm trồ, khen hàng tốt nhứt hạng mà thợ cắt khéo cũng nhứt hạng.
              Cô kiếm giấy gói bộ đồ bận đi Trà Vinh bữa trước, là cái áo của cô Hường cho mượn với cái quần cô mới may, mà đem hờ theo, để có đồ thay đổi đỡ ít bữa.
              Mặc quần áo tốt, tóc bới vén khéo, mặt mày tay chưn rửa sạch, tay đeo đôi bông xoàn to, chưn mang đôi guốc mới, tướng mạo cô Mỹ hôm nay cũng đẹp có thua gì chị em bạn gái ơ trong làng. Ba Mùi đứng ngắm nghía cô rồi cười mà nói:
              - Năm đó thầy giáo Lễ hay cha con bán ruộng, rồi thầy thối lui, chê con nghèo nên cưới con Sáu Thị. Dì chắc bây giờ thầy tiếc lắm.
              Mỹ cũng cười mà nói:
              - Con người như vậy nhắc tới làm chi dì. Dì muốn an lòng khoẻ trí, dì đừng thèm nhớ những chuyện đó.
              Trong lúc cô Mỹ sửa soạn đây, thì trong ngã ba Suối Cạn dì Ba Thới cũng kêu Hường với Điệu thức dậy. Dì cũng biểu Điệu nấu cơm cho Hường ăn, Hường cũng thay đồ, cũng gói đem theo một cái áo với một cái quần, rồi mẹ con ngồi nói chuyện mà chờ Quí.
              Trời mới hừng sáng thì xe Quí lên tới, đi chiếc xe lớn sơn màu xám, có đem người bếp nấu ăn theo, ngồi phía trước với Sen.
              Quí xuống xe đi vô nhà móc túi lấy hai chiếc vòng đưa cho Hường mà biểu đeo đặng đi. Dì Ba Thới cũng đi theo ra nhà Ba Mùi chơi.
              Xe vô sân thì Ba Mùi với cô Mỹ đã đứng sẵn tại cửa mà chờ. Quí cũng xuống xe vô đưa hai chiếc vòng cho Mỹ đeo. Quí thấy Mỹ mặc đồ mới thì khen đẹp. Ba Thới với Hường vô đứng ngắm áo quần của Mỹ đều nói may vừa như vậy bận coi mới được.
              Hai cô mặc đồ mới, đeo bông hột xoàn, tay cũng có vòng nhẫn xoàn. Quí đứng ngó, sắc mặt rất vui vẻ.
              Quí cùng hai cô mới từ giã Ba Thới với Ba Mùi mùi lên xe. Quí ngồi giữa để hai cô ngồi hai bên. Còn hai gói áo của hai cô thì để trên cái hoa ly trước mặt.
              Sen cũng từ giã mẹ mà đi, kêu dặn chú Tiền ở nhà coi nhà với mẹ, có ý muốn khoe với chú rằng mình cũng được đi Sài Gòn với anh chị.
              Chú Tiền cười ngỏn ngoẻn, đứng ngó chiếc xe lộng lẫy chở mấy người biết yêu chú, mà chú cũng hết sức mến yêu, lần lần chạy ra cửa ngõ.
              Ba Thới hẹn với Ba Mùi chờ ăn cơm sớm mơi rồi dì ôm hàng ra đặng hai người hiệp nhau ra chợ mướn may quần. Ba Mùi hứa chờ. Ba Thới mới ra về. Hai bà bây giờ thân yêu, không còn cớ chi mà đố kỵ nhau như ngày trước nữa.
              Buổi sớm mơi người ta đi chợ đầy đường, lại nữa trước nhà Dây thép Càng Long, mấy chiếc xe đò sửa soạn chạy, bóp kèn te te, hành khách lăng xăng lộn xộn. Chiếc xe của Quí phải chạy chậm chậm. Ai thấy chiếc xe tốt, lại mới tinh, cũng dòm ngó, người thấy Sen, kẻ thấy Hường hoặc thấy Mỹ ngồi trên xe cũng đưa tay mà chỉ rồi nói với nhau.
              Xe qua khỏi chợ rồi tài xế mới nhấn ga xăng cho chạy mau được. Cô Mỹ hỏi Quí:
              - Ði chừng nào mới tới Sài Gòn?
              - Chừng 10 giờ tới, vì đến đường ngay đây, xe mình chạy đến 90 hoặc 100 cây số một giờ. Nếu đi xe đò thì gần 12 giờ mới tới.
              Cô Hường nói:
              - Xe đò Sài Gòn thường thường lối 11 giờ về ngang cửa tôi.
              - Ừ, ở trên họ chạy hồi 6 giờ. Hồi nãy mình đi đó gần 7 giờ.
              Hai cô mới đi đường Sài Gòn lần đầu nên không biết xóm nào, chợ nào hết, tới đâu Quí phải chịu khó nói cho hai cô hiểu, thành thử có chuyện nói với nhau luôn luôn, làm cho hai cô vui vẻ, và an lòng không còn lo ngại chi hết.
              Lên tới gần Vĩnh Long, Quí dặn tài xế chạy đường trong cho hai cô biết châu thành. Quí hỏi hai cô có đói bụng và muốn ăn uống hay không. Hai cô đồng nói hồi khuya đã có ăn cơm dằn bụng rồi. Quí cười ngất, cười hai cô nhà quê hễ đi ra thì có cơm đắp đầu gối.
              Đến bến đò Mỹ Thuận, hai cô thấy xe đậu cả dọc mà cách xuống đò cũng khác hơn cách xuống đò nước Xoáy hồi nãy. Quí phải cắt nghĩa điểm trọng yếu của Mỹ Thuận cho cô nghe -- chín tỉnh miền tây đi Sài Gòn đều phải qua đò nầy hết thảy, chớ chưa có ngã nào khác, vì vậy nên ở đây có xe dồn dập luôn luôn không ngớt.
              Tài xế đi kỹ, không cho xe chạy mau lắm, nên chín giờ ba khắc thì tới Phú Lâm. Quí cho hai cô hay từ đây xe vào châu thành Chợ Lớn rồi, còn chừng mười phút nữa sẽ tới nhà. Hai cô ngó ra trước, thì trên đường người ta đi dập dìu, chen lộn với đủ thứ xe, xe hơi, xe ngựa, xe bò, xe kéo, xe máy, không thiếu thứ nào hết. Hai cô hồi hộp, mắt ngó hai bên không muốn nói chuyện.
              Xe bỏ đường nầy, quẹo qua đường nọ, rồi quanh lại đường khác nữa, chạy một hồi, thình lình vô sân mà ngừng.
              Quí cười mà nói:
              - Tới nhà rồi.
              Quí vội mở cửa xe, biểu Mỹ xuống trước, rồi Quí với Hường tiếp xuống sau. Phía trước anh bếp với Sen đã xuống rồi, tài xế bóp kèn. Một anh bồi chạy ra xá, Quí biểu coi xách đồ lên lầu.
              Hường với Mỹ đứng ngó vô nhà thì thấy một toà nhà lầu nho nhỏ, nhưng có vẻ êm ấm lại gọn gàng. Một gia đình có vài đứa con nhỏ mà ở chỗ như vầy thì đủ an nhàn sung sứơng.
              Quí mời hai cô vô nhà. Qua khỏi cửa thì liền thấy hai bên, có hai bàn viết, có tủ đứng, có máy đánh chữ, có máy điện thoại. Quí chỉ mà nói:
              - Đây là chỗ người thay mặt cho tôi làm việc, có một thơ ký phụ. Bữa nay chúa nhựt nên hai người nghỉ hết.
              Phía trong có một bộ sa-lông nhỏ, và tiếp theo đó là một bàn ăn, còn hai bên có hai phòng ngủ. Bàn ghế toàn bằng cây thông hoặc cây giá tỵ sơn dầu nên nhẹ nhàng mà sạch sẽ.
              Quí dắt lên lầu. Từng trên cũng có hai phòng ở phía sau, có kềm phòng tắm và rửa mặt, còn phía ngoài cũng có sa lông, có bàn viết, có đi-văn, có tủ sách có cái ra-dô.
              Hai cô Hường và Mỹ đi xem giáp hết, rồi nói sắm nhà gọn như vầy ở cũng xong, cần gì phải làm rực rỡ bề bộn như nhà dưới Trà Vinh. Quí nghe lời bình luận ấy thì cười chớ không cãi.
              Quí biểu anh bồi kêu anh bếp với anh tài xế, Quí nói ngày nay lên trễ không kịp đi chợ, vậy để ăn cơm nhà hàng, rồi mai sẽ bắt đầu ăn cơm nhà. Quí đưa cho mỗi người một trăm và dặn anh tài xế chờ, rồi 11 giờ rưỡi sẽ đưa đi ăn cơm.
              Quí mời hai cô rửa mặt rồi đúng giờ cùng nhau lên xe xuống Sài Gòn vào nhà hàng ăn cơm trưa. Sen với hai cô bây giờ mới thấy rõ sự náo nhiệt của đất Sài thành, náo nhiệt từ ngoài đường vô trong nhà hàng, ở chỗ nào thiên hạ cũng lăng xăng dường như lật đật, sợ bê trễ rồi hư hỏng việc của mình, khác hẳn tư cách của người ở thôn quê, ăn nói cẩn thận đi đứng chậm rãi, dường như không lo ngại việc chi hết.
              Ăn cơm rồi trở về nhà, Quí giao cho hai cô một cái phòng ở trên lầu đặng hai cô nghỉ, còn cái phòng ngang đó thì để cho Sen. Quí thay đồ rồi xuống từng dưới kêu tài xế mà biểu vô đất hộ mời bà xếp Marc sáng bữa sau bà ra đem dùm hai cô đi đặt may áo may quần.
              Quí vào cái phòng từng dưới mà nghỉ. Đến 3 giờ chiều Quí thức dậy tắm rửa rồi thay đồ, và biểu hai cô với Sen sửa soạn đặng đi chơi cho biết Sài Gòn trong buổi chiều chúa nhựt.
              Quí mời mấy chị em lên xe, biểu tài xế chạy chậm chậm khắp châu thành cho mấy chị em xem cho biết, đi vòng các đường lớn, xuống chợ bến thành, qua đường Ca-ti-na, lên nhà thờ, vô cửa sở thú, ra mé sông xem tàu hàng, đi đến gần tối rồi trở lại cầu ông Lãnh do ngã Cầu Kho, Chợ Quán mà vô chợ Lớn. Ghé một cao lâu lớn ăn cơm tối rồi trở về Sài Gòn đi thẳng qua Catina xem hát bóng, đến gần 12 giờ khuya mới về nghỉ.

              Sáng bữa sau bà xếp Marc đi xe hơi riêng của bà xuống thăm Quí. Bà là người Việt, tuổi đã bốn mươi lăm mà sắc vẫn còn đẹp. Bà cũng son phấn như các bà khác, nhưng dồi mài đúng điệu, nên ra vẻ thanh nhã chớ không lả lơi, y phục sang trọng nhưng sắc sảo chớ không loè loẹt.
              Bà Marc thạo đời, biết người, lại có tánh bãi buôi vui vẻ, bởi vậy Quí giới thiệu cô Hường với cô Mỹ cho bà biết nói rằng bà mua hàng dùm hôm nọ rồi đem về Càng Long may, thợ may không thể may hết được, nên đưa hai cô lên đây cậy bà dắt ra tiệm may quen, mà mướn cắt may dùm cho khéo mà cũng cho mau. Bà sẵn sàng chịu liền. Nhờ trí khôn ngoan bặt thiệp của bà nên bà mở hết mấy gói hàng mà coi lại, bà chỉ cái tốt cho hai cô hiểu, bà nói chuyện với hai cô trong một lát thì hai cô yêu bà liền, không còn bợ ngợ nghi ngại điều chi hết.
              Nghe người Pháp với thầy ký lại làm việc, Quí xuống từng dưới nói chuyện với người đó một chút rồi trở lên, thì thấy bà Marc với hai cô nói chuyện vui cười cùng nhau, cũng như chị em quen biết đã lâu rồi vậy.
              Bây giờ mới tính tới việc đi mướn may đồ.
              Bà Marc kêu bồi, biểu ôm hết các gói hàng đem bên xe bà. Bà mời hai cô đi chung với bà. Còn Quí với Sen đi xe riêng theo đặng tiệm may đồ mà may hai áo dài của hai người và may áo rộng cho Quí luôn thể. Bà nhớ còn phải may cho mỗi người một phần hàng trắng đặng bận với áo dài. Bà nói để xuống tiệm họ có hàng rồi đặt luôn cho may.
              Xuống tới tiệm quen của bà Marc ở chợ Mới, Quí xin thợ đo Quí và Sen trước đặng hai anh em còn phải đi đặt đồ tây cho Sen. Thợ đo rồi bà Marc biểu Quí đi đâu thì đi, để bà lãnh hai cô, bà đặt may đo rồi bà sẽ đưa về.
              Quí đem Sen qua Ca-ti-na đặt may cho Sen một bộ đố nỉ xám, một bộ ga-bạc-đinh trắng, với hai bộ đồ trắng. Quí còn mua cho nó hai đôi giầy da, mua sơ mi, mua cà-vạt, mua nón trắng, nón nỉ cho đủ bộ vận. Sen vui sướng vô cùng, nhớ lại bữa anh mới về, mình lợt lạt với anh thì ăn năn hết sức.
              Dắt Sen đi dạo Ca-ti-na, Quí ghé tiệm vàng mua hai chiếc cà rá nhỏ, với hai sợi dây chuyền có mề-đay-dông (médaillon) nhận hột xoàn để cho Mỹ và Hường đeo chơi.
              Đến 11 giờ Quí với Sen trở về nhà mà hai cô vẫn chưa về. Quí ngồi nói chuyện với người Pháp, giở mấy cuốn sổ ra xem, đến 12 giờ mới có xe của bà xếp vô sân.
              Người Pháp đại lý đó với thầy lý ra về, Quí thấy Hường với Mỹ bước vô, còn xe bà xếp thì quanh ra ngõ, thì hỏi:
              - Bà xếp về luôn, bà không vô nhà hay sao?
              Hường cười mà đáp:
              - Không có bà xếp. Bà biểu người con gái lớn của bà đưa hai chị em tôi về đây.
              - Con gái lớn ở đâu mà đưa?
              - Hồi sớm mơi đặt may đồ xong rồi, bà dắt chị em tôi lại mấy tiệm bán hàng coi chơi rồi bà mời lên nhà bà cho biết nhà. Bà ở cái nhà nhỏ mà ngộ quá.
              - Ừ, xóm đó kêu là Đất Hộ. Té ra hai chị em có lên nhà bà Marc rồi. Vậy mà chiều nay tồi tính dắt lên thăm bà chớ. Lên trển có thấy 3 đứa con của bà hay không?
              - Có. Bà có kêu ra trình diện cả ba cô.
              Cô Mỹ tiếp mà nói:
              - Ba cô mặc đồ đầm lịch sự quá. Nhứt là cô lớn hơn hết nói chuyện dễ thương lắm. Cô đó ngồi xe đưa tôi về hồi nãy đó.
              - Ừ, Jeanne dễ thương lắm, học giỏi nữa.
              - Vậy à? Bà mời hai chị em tôi chiều ăn cơm với bà.
              - Chị chịu hay không?
              - Hai chị em tôi dục dặc. Bà nói không biết nhau thì thôi, chớ biết nhau rồi thì là chị em, đừng ái ngại gì hết. Bà biểu chị em tôi coi bà như chị ruột trong nhà vậy. Lên đây có cần dùng việc gì cứ nói cho bà biết đặng bà giúp cho. Mới biết lần đầu mà người thiệt là tử tế, không làm kiểu làm cách gì hết.
              - Tôi đã nói lên Sài Gòn thiếu gì người quen, muốn vật gì cũng có người lo cho. Được lắm, hai chị em cứ làm quen chơi với bà Marc đi. Bà biết điều lắm. Không sao đâu mà ngại.
              - Vợ chồng xứng với nhau quá. Ông xếp vui vẻ, mà bà cũng vậy. Bà nói 5 giờ chiều bà xuống rước hai chị em tôi đi Chợ Lớn chơi. Tối về nhà bà ăn cơm rồi đi coi hát cải lương với bà. Chừng vãn hát bà đưa về.
              - Được. Cứ đi chơi với bà. Đối với mình bà cũng như người trong thân. Ổng làm việc với tôi. Tôi tin cậy ổng lắm. Mà áo quần đặt may xong hay chưa?
              Cô Hường tiếp mà đáp:
              - Họ biểu hai bữa lại bận thử rồi chừng bốn bữa nữa thì may xong hết.
              - Vậy thì trong một tuần lễ mình về được. Một tuần đủ cho chị em biết hết Sài Gòn Chợ Lớn. Để may đồ cho Sen rồi tôi chở hết lên vườn cao su của tôi đặng đi cho biết.
              Anh bồi ra bẩm cho hay cơm đã dọn xong rồi. Quí móc túi đưa cho hai cô mỗi người một chiếc cà rá với một sợi dây chuyền biểu đeo thử. Hai cô đeo rồi. Quí dắt lại đứng trước tấm gương lớn nhắm coi. Hai cô chúm chím cười.
              Ăn cơm rồi Quí vô phòng mà nghỉ. Hai cô với Sen lên lầu, mắc bàn luận về cảnh náo nhiệt của Sài Gòn, về sự rực rỡ của nhà hàng, về trang hoàng của rạp hát, về tàu to tát, về xe dập dìu, về bà xếp Marc bãi buôi, về con của bà ngộ nghĩnh, ba người cứ trầm trồ khen ngợi, cứ nhắc nhở vui cười, không thèm ngủ trưa, mà cũng không thèm nằm nghỉ.
              Lên Sài Gòn, Mỹ thấy đàn bà con gái, từ già chí trẻ đều trang điểm bóng láng, quần áo bảnh bao. Đến xế hai cô mới rủ nhau tắm rửa cho sạch sẽ, chải gỡ cho vẻ vang, rồi thay đồ, đeo nữ trang mang giầy mới, không phải có ý chưng diện làm chi, kỳ thiệt là muốn làm cho người ta đừng chê mình nhà quê, dân ruộng, vậy thôi.
              Quí lên lầu thấy hai cô ăn mặc đàng hoàng, hết cái vỏ quê mùa nữa, thì lấy làm hài lòng. Chàng mở tủ lấy đưa cho mỗi cô một ngàn, biểu bỏ túi đi chơi với bà xếp Marc, cậy mua cho dùm mỗi người một cái bóp để cầm tay như các bà các cô khác.
              Thiệt quả năm giờ chiều, bà Marc ngồi xe ra tới rước hai cô đi chơi. Nhơn dịp Quí mới pha lửng cậy bà làm hoa tiêu lái dùm hai chiếc thuyền quê cho quen lượn sóng Sài Thành, kẻo gió bê nước đạp rồi đụng chạm với tàu hơi tàu khói. Bà Marc vui vẻ chịu lãnh tập cho hai cô quen Sài Gòn, khuyên Quí an lòng, đừng lo chi tiết.
              Cách ba bữa sau, tiệm đã may trước cho Sen được một bộ đồ ga-bạc-đinh rồi, Quí mới mời bà Marc với ba người con gái của bà đi lên Xuân Trường ăn cơm tối một bữa. Sen thấy cô Jeanne thì mê mết, cứ theo nói chuyện với mấy chị em cô. Mà cô Jeanne là gái Sài Gòn, cô không biết nhút nhát sụt sè, nên cô cũng vui vẻ theo chơi với Sen, không ái ngại chi hết.
              Từ đây hễ sớm mai thì bà mai rước hai cô đi thử áo, đi mua đồ. Buổi chiều thì hai cô hiệp lại với bà đi chơi hai xe, khi đi ăn nem Thủ Đức, khi đi ăn cơm Tây Sài Gòn, khi ăn cơm Tàu trong chợ lớn.
              Một bữa Quí biểu anh bếp mua đồ ăn sẵn, rồi rủ nhau đi hai xe lên viếng vườn cao su trên Biên Hòa. Quí mời ba Marc qua ngồi xe bên nầy đặng nói chuyện chơi với hai cô cho vui, để Sen với anh bếp qua xe của bà đi với ba cô gái nhỏ theo sau.
              Mỹ với Hường thuở nay chưa biết vườn cao su, nên lên tới đó thấy vườn minh mông chớn chở, mà đường xẻ ngay thẳng, cây trồng có hàng, đâu đó đều sạch trơn, công việc phân rành rẽ, thì hai cô ngạc nhiên, khủng khiếp trước một công phu sáng tạo đồ sộ như vậy.
              Cô Hường với cô Mỹ đi theo bà Marc mà xem vườn, Hường nói nhỏ với Mỹ:
              - Người làm cuộc chủ vườn như vầy, nên sắm cuộc nhà ở Trà Vinh như vậy, nghĩ cũng phải.
              Còn Sen đi theo ba chị em cô Jeanne mà chơi phía khác, khi đứng rù rì dưới bóng cây, khi đi thẩn thơ trên đường thẳng, ban đầu còn sụt sè, lần lần rồi vui vẻ thân yêu, người yêu sắc đẹp thần tiên, kẻ yêu lời quê chất phác.
              Người Pháp coi vườn lăng xăng lo tiếp đãi ông chủ, mà còn phải chỉ công việc làm cho ông xem. Người Pháp với Quí mắc bận rộn về phận sự nên phải để cho đám đàn bà với sắp trẻ em tự do vui chơi trò chuyện.
              Ăn cơm trưa rồi, Quí với mấy bà con mới lên xe trở về Sài Gòn. Mỹ với Hường rất vui lòng mà được thấy vườn cao su, mà cũng rất kính phục công của người mở rừng mà tạo thành một cuộc kinh dinh đến tám trăm mẫu đất như vậy.
              Quí ở Sài Gòn cho hai cô vui chơi tới tám bữa, tiệm may mới giao đủ quần áo đặt may. Quí đem hai cô với Sen lên nhà bà Marc từ giã mà về Trà Vinh. Quí ân cần mời bà với ba cô nhỏ chừng đám cưới thế nào cũng ráng xuống Trà Vinh ở chơi ít bữa.
              Cô Mỹ và cô Hường lên xe đi về, hai cô được biết những việc thuở nay nghe nói chưa thấy, được thưởng thức những thứ cao sang, những cảnh xinh đẹp thuở nay chưa hề dám mơ ước, bởi vậy hai cô rất mát dạ, rất hài lòng.
              Cô Mỹ cứ khen bà xếp Marc thông thạo mà không kiêu căng, cô nói lên Sài Gòn mà có bà dắt đi chơi thì không sợ gì hết.
              Quí nói trong nhà đã có hai chiếc xe, trên Sài Gòn lại có nhà sẵn cho mà ở, vậy hễ buồn thì lấy xe lên Sài Gòn ở chơi năm mười bữa cho đã rồi về.
              Mỹ nói sau có đi nữa thì mời luôn hai bà dì đi đặng cho hai bà biết cảnh thú Sài Gòn với người ta.
              Trong lúc ba người ngồi phía sau nói chuyện thì Sen ngồi trước gió phất phới mát mẻ, mắt nhắm lim dim, trí tưởng nhớ hìng dáng cô Jeanne, nhớ miệng cô cười có duyên, nhớ tiếng cô nói ngọt xớt.
              #22
                NuHiepDeThuong 12.02.2006 04:05:33 (permalink)
                Chương 23

                Cả tuần nay, ở vùng Càng Long, cái tin đền đài cất đồ sộ dưới Trà Vinh do vốn của Phan Văn Quí, con trai Bồi bái Tồn, chớ không phải của ông nào nào xa lạ. Tin ấy phóng ra rất mau mà cũng rất mạnh, làm cho dư luận sôi nổi xôn xao vô cùng. Từ ngoài chợ vô mấy ấp trong dồng, đi tới đâu cũng nghe người ta bàn luận về chuyện của Quí trở về làng mấy tháng nay cuốc đất phát vườn, ăn mặc lang thang, làm cho ai cũng lầm tưởng nghèo hèn mạt rệp, té ra anh ta giàu quá xá, giàu không thể tưởng tượng.
                Có thể nói hôm trước lên Sài Gòn mua đem về hai chiếc xe hơi mới tinh, vô đậu chình ình trong sân ông Bồi bái, rồi rần rộ đi về nhà mới dưới Trà Vinh. Người khác nói cách mấy bữa trước Quí chở chị em với con gái dì Ba Thới đi Sài Gòn chơi, xe đi ngang chợ Càng Long, ai cũng ngó thấy.
                Người khác nữa lại nói thêm rằng Quí sửa soạn cưới cô Hường, là con của dì Ba Thới, nên đem cô nọ với cô Mỹ lên Sài Gòn đặng may đồ. Chuyện đó chắc chắn như một với một là hai, bỏi vì dì Ba Thới cũng như cô Ba Mùi đem hàng ra chợ mướn thợ may áo may quần đặng làm lễ cưới, hai người đã nói thiệt mọi việc cho ai nấy hay biết.
                Sở dĩ có sự xôn xao bàn luận như vậy là vì hôm nọ Quí chở Hường, Mỹ với Sen đi Sài Gòn, khi xe đi ngang chợ Càng Long có nhiều người ngó thấy rồi đến trưa lại có Ba Thới với Ba Mùi ôm hàng ra chợ mướn thợ may áo may quần. Người quen gạn hỏi bà mua hàng ở đâu mà mỗi bà may tới hai áo hai quần còn hồi sớm mơi Quí đi xe của ai mà tốt quá như vậy.
                Ba Thới với Ba Mùi nghĩ Quí đã chường mặt thiệt, không cần giả dạng nữa. Huống chi Quí đi theo làm bồi cho ông La-Co, vì ham học nên ông thương yêu; ông đem về Pháp ông cho ăn học thi đậu bằng Kỹ sư, ông nhận làm con nuôi, rồi chừng ông chết ông để sự nghiệp cho Quí hưởng, việc như vậy làm vinh diệu cho Quí chớ không xấu hổ gì mà sợ người ta chê cười nên phải dấu diếm, Dì Ba Thới, nhứt là Ba Mùi nói ngay ra hết cho chị em nghe,vì vậy nên thiên hạ mới hay mà bàn tán khắp mấy làng An Trường, Mỹ Cẩm, Mỹ Trường, Trường Định.
                Đến bữa Quí với mấy chị em về xe chạy ngang chợ Càng Long, người ta thấy rồi kêu nhau chỉ chỏ mà nói nữa. Xe vô sân, chú Tiền ngó thấy, chú chạy ra mà mừng. Chú thấy cậu Sen ăn mặc như ông hoàng, thì chú chúm chím cười, coi bộ chú đắc ý lắm.
                Quí dặn Ba Mùi sửa soạn rồi một chút nữa có xe lên rước xuống Trà Vinh ăn cơm và nói chuyện chơi,vì bây giờ xe chật đi một lượt không tiện. Chàng dặn chú Tiền ở nhà coi nhà, để cho Ba Mùi với cô Mỹ ở dưới Trà Vinh ít bữa đặng sắp đặt đám cưới. Chàng cho chú hai mươi đồng bạc đặng ở nhà mua tôm cá mà ăn, rôi cùng với chị em lên xe vô ngã ba Suối Cạn cho dì Ba Thới hay áo quần đã may xong rồi hết, Quí cũng xin dì Ba sửa soạn đặng chút nữa sẽ có xe trở lên rước dì xuống ở ít bữa mà lo đám cưới, có chị Điệu ở nhà coi nhà thì chẳng có điều chi mà lo.
                Xe Quí đi không đầy một giờ thì quả có chiếc xe đen lên rước Ba Mùi với Ba Thới đi nữa.
                Vì Quí đã đánh dây thép cho ông Marc hay trước nên ông dạy bồi bếp sắp đặt dọn bữa ăn trưa này sẵn sàng mà chờ.
                Cô Hường với cô Mỹ gặp ông Marc thì mừng rỡ. Khoe đã quen với bà Marc rồi, khen bà tử tế, khen bà đứa con bà đẹp dễ thương, rồi còn nói bà có hứa chừng nào đám cười bà sẽ đem con xuống ở chơi ít ngày.
                Trong bữa cơm Mỹ và Hường tiếp nối nhau mà thuật chuyện Sài Gòn Chợ Lớn không dứt, khoe được đi dạo khắp đô thành có thấy đủ những ngồi nhà lớn nhỏ, có ăn đủ cơm Tây cơm Tàu, có coi cải lương hát bóng, có đi Xuân trường Thủ đức, có đi viếng vườn cao su, vườn rộng lớn minh mông gần bằng một làng, cây trồng giáp hết, dân làm công cả ngày, có xẻ đường xá thẳng băng, đâu đó dọn dẹp sạch sẽ.
                Câu chuyện còn tiếp luôn buổi trưa đó không nghỉ, Mỹ nhắc nhở mấy mẹ con bà xếp Marc, Hường cười mà nói bộ Sen mê mết cô Jeanne, mà cô nầy thiệt lịch sự lại dễ thương, nên vợ chồng ông Marc chịu gả cho Sen, thì nên cầu mà cưới.
                Cô Mỹ trề môi mà nói cô Jeanne học giỏi lại đẹp như tiên nga, còn Sen lại quê mùa lại dốt nát, không ước chuyện cao xa như vậy.
                Dì Ba Thới nói:
                - Không hại gì. Để mẹ con bà xếp xuống đây, tôi dọ ý thử coi, nếu con nhỏ ưng tôi đứng ra làm mai cho.
                Đến xế Qúi mời hai bà hai cô ngồi ăn bánh uống trà Qúi mới nói:
                - Quần áo và nữ trang sắp đặt xong rồi. Bây giờ nên tính đến đám cưới cho rồi, đặng tôi rảnh lo nhiều việc khác. Để tôi tỏ ý của tôi đã sắp đặt cho hai dì nghe, chánh thức tôi là kỹ sư La-Co, thuộc quốc tịch pháp, theo pháp luật thì hôn thú của tôi ở Sài Gòn về xã Tây lập, còn ở lục tỉnh thì về Tham biện chủ tịch tỉnh lập.
                Khai sinh khai tử đôi bên tôi đã xin sao lục sẵn rồi. Vậy sáng mai tôi sẽ nạp cho Tham biện đặng bố cáo bát nhựt rồi định ngày lập hôn thú. Theo phép đứng hôn thú phải có hai người làm chứng. Về đàng trai tôi nhờ thầy nhứt Vĩnh đứng chứng dùm cho tôi. Còn bên gái tôi muốn cậy ông xếp Marc đứng chứng. Dì Ba với em nghĩ coi có được không?.
                Dì Ba Thới nói:
                - Được lắm chớ. Nếu ông xếp chịu đứng làm chứng dùm cho con Hường thì quí biết chừng nào.
                Qúi nói tiếp:
                - Hễ tôi cậy thì ông chịu. Vì tôi là người Việt mang tên Pháp, nên lễ cưới phải làm lễ hỗn hợp, chớ không phải làm theo tục truyền được. Vậy bữa cưới thân tộc hai bên với dâu rể buổi sớm mới đó phải hội hiệp tại nhà tôi đây. Gần 9 giờ thì lên xe đi hết vào tòa bố đặng lập hôn thú. Mà sớm mai bữa đó hai nhà trên Càng Long cũng mời ít người bà con đến sẵn trong nhà và cũng nấu ít mâm dọn sẵn trên bàn thờ. Hễ hôn thú lập xong thì hết thảy cả đoàn xe chở dâu rể, sui gia với người chứng đi thẳng về Càng Long, đặng dâu rể làm lễ bái từ đường bên trai rồi qua bên gái, cũng như trình diện với ông bà cha mẹ hai bên. Lễ xong thì dâu rể với họ hàng nhập lại ăn chung một bữa cơm tại nhà thờ của tôi. Mãn tiệc thì bà con hai bên lên xe đi hết xuống nhà lớn dưới nầy đặng dự tiệc cưới, tôi sẽ đãi tối bữa đó. Nên xe chở một lần không hết thì chạy lên xuống chở nhiều chuyến, vì trọn buổi xế đó có nhiều thì giờ, không đến nỗi trễ mà sợ.
                Di Ba Thới hỏi:
                - Con sắp đặt như vậy té ra không có rước dâu mà cũng không có đưa dâu?
                - Thưa không. Hai họ nhập chung lại đây đặng đi lập hôn thú, rồi cũng nhập chung về bái yết từ đường hai bên. Nếu muốn buổi mới rước dâu đưa dâu đặng làm lễ từ đường, rồi chiều sẽ đi lập hôn thú cũng được. Nhưng làm như vậy thì thất công tới hai buổi, lại buổi sớm mơi phải nhóm họ hàng đông, rồi đãi trên Càng long, nhà chật hẹp bất tiện. Vì vậy nên con tính chiều bữa cưới đó con làm một tiệc lớn tại nhà dưới nhà nầy. Con mời hết thảy những người quen biết thuở nay trên Càng Long xuống đây dự tiệc. Con cho nhiều xe hơi trực sẵn buổi chiều đó mà rước khách, ai muốn đi thì rước hết, chừng mãn tiệc cũng có xe đưa về.
                - Mời hết, nhu họ đi cả trăm thì làm sao?
                - Đi bao nhiêu cũng được, càng nhiều càng tốt, còn tính mở tiệc từ sáu giờ chiều tới sáng bữa sau, con đãi ăn uống luôn, cho bà con quen biết ở vùng Càng Long vui chơi với vợ chồng con một bữa.
                - Con không tính mời khách Trà vinh hay sao?
                - Mời bữa khác. Tiệc đãi bữa đó là đãi khách Càng Long với bà con hai bên mà thôi. Con nghỉ một bữa rồi bữa sau nữa sẽ có một tiệc khác tổ chức đặng đãi khách xa lạ. Khách quí hơn hết là quan Tham biện đứng lập hôn thú. Con sẽ mời các quan Pháp và Nam trong tỉnh, mời mấy bạn kỹ sư công chánh học một lớp với con, mời chủ mấy hãng con có hùn, mời mấy người thay mặt cho con coi các sở. Tiệc ấy mãn rồi thì nhảy đầm cũng vui chơi sáng đêm.
                - Nhảy đầm là sao?
                - Chừng đó thì dì sẽ thấy.
                - Đãi tới hai tiệc chắc tốn hao dữ lắm.
                - Nhơn dịp con cưới vợ, con khánh thành luôn tổ chức La-Co cho thiên hạ biết, bởi tổn hao chút đỉnh không hại gì.
                - Con liệu coi thế nào phải thì con làm. Tụi nầy có biết gì đâu mà bàn cãi.
                - Sáng mai con xuống toà bố tính việc lập hôn thú. Hễ định ngày cưới chắc rồi thì con sẽ in thiệp mà mời khách. Hai dì ở dưới này chơi với con. Hai cô cũng vậy, ở đặng bàn tính công việc mà làm cho đám cưới được rỡ ràng.
                - Hai dì về đặng lo sửa soạn nhà cửa chớ.
                - Không cần. Còn vài bữa tới đám cưới sẽ về. Muớn người quét trong ngoài cho sạch sẽ vậy thôi, khỏi sửa soạn chi lắm. Còn nấu thì cũng mua một con heo rồi chia hai mà kho nấu. Đãi bà con mấy người không cần làm rình rang. Mướn vài người lối xóm phụ nấu thì xong. Mà quần áo của hai dì đã may rồi chưa?
                - Áo may rồi hết. Còn mấy cái quần thợ hứa chiều nay rồi.
                Quí hỏi Ba Mùi có mướn may đồ cho chú Tiền hay chưa. Ba Mùi nói bộ đồ hàng may rồi. Còn đồ vải mới rồi một cái áo.
                Nhắc tới quần áo dì Ba Thới mới biểu Hường với Mỹ bận thử đồ mới coi đồ mới thợ Sài Gòn may khéo tới bực nào.
                Hai bà với cô dắt nhau vô phòng coi áo quần.
                Qúi với Sen đi xuống từng dưới. Quí giao cho Sen một cái phòng riêng, Sen soạn hết quần áo giầy nón mà để vào tủ rồi giữ chìa khóa riêng đặng tự do vô ra cho tiện.
                Sang bữa sau, Quí cậy ông Marc bữa cưới ông đứng chứng dùm cho bên gái. Ông sẵn lòng chịu liền. Qúi xuống thăm thầy nhứt Vĩnh thuật rõ ý định của mình với cách thối thoái của Hương cho thầy nghe.
                Thầy lấy làm vui lòng mà được thấy một cô gái quê biết xét người ta, biết thủ phận không ham giàu sang một cách mù quáng, như kẻ háo danh háo lợi. Thầy nói Quí có một người vợ như vậy tuy không có tài mà giúp sức hay giúp trí cho Quí về nhiệm vụ, song có đức đủ lo bề nội trợ cho Quí khỏi nhọc trí bận lòng thế thì Quí cũng được hưởng hạnh gia đình rồi vui lòng mà gây hạnh phúc cho xã hội. Vậy thì cưới cô Hường được lắm, vừa đáp nghĩa nặng tình dài, vừa tạo hạnh phúc từ trong ra ngoài, khỏi phải thiếu sót chỗ nào hết.
                Quí cậy thầy chứng dùm trong hôn thú về phía bên trai.
                Thầy sẵn lòng chấp thuận và hứa Quí muốn gì thầy sẽ giúp cho cả thẩy.
                Quí đặt in thiệp mời khách dự hai tiệc khác nhau, khách Càng Long dự tiệc chiều thứ năm thì thiệp mời in Việt ngữ, còn quan khách mời dự tiệc tối thứ bảy thì thiệp in chữ Pháp.
                Quí hỏi Ba Thới với Ba Mùi mà lật sổ biên hết bà con cùng người quen biết ở vùng Càng Long đặng gởi thiệp mời. Quí gạch trong thiệp bữa thứ năm từ bốn giờ chiều luôn luôn có xe đậu một chiếc tại chợ Càng Long và một chiếc tại ngã ba Suối Cạn để rước khách cho tới bảy giờ tối. Chừng mãn tiệc cũng có xe đưa khách về. Quí tính ở nhà có chiếc xe cũ để cho ông Marc dùng đó với hai chiếc xe mới. Bữa đó có xe bà Marc xuống, mượn xe của bà và mướn thêm vài xe lô-ca-xông nữa thì đủ đưa rước, vì mời hương chức tân và cựu trong hai làng Mỹ Cẩm với An Trường, cùng những người thân thích của hai nhà cộng hết chỉ có tám chục người, chớ không nhiều hơn.
                Còn đặt tiệc thì tối thứ năm đặt cho cao lầu Chợ Lớn xuống nấu, đặt mười hai bàn mỗi, bàn mười người, đặng cho bà con trong nhà ngồi nữa, khuya đãi khách một tiệc đồ nguội nữa rồi mới đưa về. Tiệc đãi quan khách tối thứ bảy thì đặt cho nhà hàng Sài Gòn nấu, ăn rồi nhảy đầm chơi đến khuya đãi đồ nguội nữa rồi mới tan.
                Ông Marc viết thơ dặn vợ con trưa thứ tư phải xuống tới ở chơi đến trưa chúa nhựt mới cho về.
                Ba Thới với Ba Mùi thấy công việc sắp đặt xong rồi, cứ đòi về đặng dọn dẹp nhà cửa, Quí phải cho xe đưa hai bà với hai cô và Sen về đặng sửa soạn. Quí đưa tiền để mua heo và mua đồ nấu ăn, căn dặn sáng thứ năm xe lên thì rước hết thảy phải xuống sớm đặng có thì giờ thay đổi áo quần và hai cô chải gỡ điểm trang đặng dự lễ lập hôn thú. .
                Hường với Mỹ để quần áo mới hay lại hết đặng thứ năm trở xuống rồi sẽ bận. Đôi vòng nhận hột xoàn cũng để lại, mỗi cô chỉ đeo đôi bông, sợi dây chuyền với chiếc cà rá mà về.
                Mỹ với Hường trở về Càng Long, chòm xóm tới thăm nườm nượp.
                Sen bận đồ Tây thiệt đẹp đi ra chợ chơi làm náo động thêm nữa.
                Rồi tới thiệp mời sự tiệc tối thứ năm, có xe hơi đưa rước, thiệp ký tên “Kỹ sư La-Co, trước gọi là Phan Văn Quí “.
                Ối thôi! Rần rần náo nhiệt, vì người biết chuyện ai cũng có thiệp mời sự tiệc đám cưới hết, nên mừng rỡ rủ nhau đi hết, đi cho đông đặng vui chơi, có xe rước rồi xe đưa về, sợ gì mà không di.
                Chiều thứ ba, Quí về Càng Long thầm coi hai nhà dọn dẹp thế nào. Sen nghe nói bữa sau sẽ có bà Marc với mấy con xuống thì muốn theo xe xuống Trà Vinh. Quí nói chiều thứ tư sẽ cho xe lên rước Hường với Mỹ xuống ăn cơm với bà Marc, vậy Sen chờ bữa sau sẽ đi với hai chị.
                Thiệt trưa thứ tư, xe của bà Marc xuống tới với ba con, rồi bốn giờ chiều Quí cho xe lên rước cô Hường với cô Mỹ. Ba Thới với Ba Mùi biểu hai cô ở luôn dưới Trà Vinh đặng sáng hai bà xuống tiếp, hai cô đi, Sen đi theo.
                Mỹ với Hường gặp bà Marc mừng rỡ vô cùng, cũng như Sen mừng gặp cô Jeanne với hai em của cô.
                Ăn cơm tối rồi mấy người đàn bà lên lầu mà sửa soạn quần áo. Mấy người nhỏ dắt nhau đi chơi ngoài sân, nhìn bóng trăng lờ mờ, hứng ngọn gió chướng mắt mẻ.
                Quí với ông Marc ngồi trong sa lông sắp đặt các xe đặng sáng đi lập hôn thú rồi đi luôn lên Càng Long lễ bái tơ đường.
                Sáu giờ sáng cho một chiếc xe lên Càng Long rước Ba Thới với Ba Mùi.
                Bảy giờ cho một chiếc xe khác đi rước vợ chồng thầy nhứt Vĩnh.
                Chín giờ đi lập hôn thú, Quí mặc âu phục, cô Hường khỏi mặc áo rộng.
                Lễ lập hôn thú xong rồi, Ba Thới, Ba Mùi, Mỹ và Sen đi trước về Càng Long đặng sửa soạn.
                Mấy chiếc xe khác ghé nhà đặng Quí thay đồ mà mặc áo rộng ở ngoài rồi mới đi một lượt theo sau.
                Ai ngồi xe nào thì Quí sắp như vầy:
                Dâu rể đi xe xám mới.
                Ba Thới với Ba Mùi đi chiếc xe đen mới.
                Mỹ và Sen đi chiếc xe củ trong nhà.
                Vợ chồng thầy nhứt Vĩnh đi một chiếc xe lô ca xông.
                Vợ chồng ông Marc đi chiếc xe nhà của bà một xuống.
                Quí dặn ông Marc tảng sáng phải đi kêu hai chiếc xe lô ca xông cho sẵn, mướn luôn hai mươi bốn giờ đặng chiều phụ rước khách Càng Long và khuya mãn tiệc đưa khách về.
                Mọi việc của Quí liệu định thì sáng thứ năm thi hành như vậy. Gần bảy giờ xe rước Ba Thới với Ba Mùi về tới. Gần bảy giờ rưởi xe rước vợ chồng thầy Nhứt Vĩnh cũng lên tới. Hai chiếc xe lô ca- xông láng bóng cũng đã tới đậu sẵn ngoài sân.
                Từ hồi khuya bà Marc giúp trang điểm cho Hường với Mỹ, nên lúc khách tới thì hai cô phụ với Quí ra tiếp khách.
                Đến tám giờ chủ khách ăn lót lòng, rồi thiếu mười năm phút nữa tới chín giờ, thì hết thẩy lên xe xuống Toà bố. Ai ngồi xe nào y như Quí đã định trước.
                Lễ lập hôn thú xong rồi, đoàn xe trở về. Xe của Ba Thới với Ba Mùi và xe của Mỹ với Sen đi luôn lên Càng Long. Còn bốn xe kia thì ghé lại nhà lầu cho Quí thay đồ, mặc quốc phục, và vợ chồng bận áo rộng, rồi mới tiếp nhau một đoàn lên Càng Long bát yết từ đường.
                Người trong làng trong xóm chực sẵn trước tiệm dì Ba Thới cũng như trước nhà thời ông Bồi bái Tồn đen nghẹt, đón xem dâu rể ra mắt giàu có sang trọng bất ngờ.
                Trong mỗi nhà đều có vài kỵ lão với năm sáu đàn ông và đàn bà thân thích ngồi sẵn mà rước họ và chứng kiến cho dâu rể ra mắt cha mẹ ông bà. Làm lễ ngoài nhà ông Bồi bái rồi mới lên xe vô làm lễ rong nhà dì Ba Thới
                Lễ bái xong rồi, dâu rễ với hai họ nhập nhau ra nhà ông Bồi bái dùng bữa cơm trưa. Ngoài sân sáu chiếc xe hơi đậy hai làng, người ta chen nhau đứng coi đám cưới lớn của ông Kỹ sư cưới con bà quán.
                Quí thấy người ta coi đông mới ra mở cửa vui vẻ tỏ lời cám ơn anh chị em đến mừng cho vợ chồng mới cưới và tuyên bố rằng dầu không có tiếp được thiệp mời lên xe mà đi, tự nhiên vợ chồng Quí đã sẵn lòng tiếp đãi. Người ta hoan nghinh vỗ tay la ó. Chú Tiền mặc bộ đồ hàng đứng một bên Quí chớ cười.
                Tiệc mãn dâu rể họ hàng hai bên lên xe trở về Trà Vinh, hẹn với khách chiều sẽ gặp nhau nữa.

                Chiều bữa đó, trước bốn giờ, thì có xe hơi đậu ba chiếc tại chợ Càng Long và ba chiếc tại ngã ba Suối Cạn.
                Hương chức và bà con anh em ở Càng Long phân từ tốp lên xe đặng đi ăn đám cưới nườm nượp. Ông Hương quản, ông Chủ Tư, Hương bộ Hen, thầy phó, Thầy Ba, Sáu Trừ, vợ chồng Hương quản đề, Cô Năm, thím thợ hai, Hương nhì Út, Phó Hương hào liếm, Tám Thấm, Trùm Sóc đều có đi đủ mặt.
                Hễ có xe nào rước khách về tới, bất luận là khách hạng nào, thì Quí, Hường, Mỹ, Sen y phục sang trọng, hai cô lại đeo xoàn chói sáng, đồng ra tới ngoài thềm mà tiếp rước khách. Khách muốn ngồi đâu thì tuỳ ý, muốn dùng thử rượu nào thì cứ chỉ cho bồi rót cho. Ai muốn đi xem nhà cửa, thì Sen dắt đi, từ dưới lên trên được phép xem cùng hết.
                Thầy nhứt Vĩnh với ông Marc ngồi sa lông giữa mà nói chuyện với mọi người, không phân thấp cao hay lớn nhỏ. Ai cũng kính phục Quí học lực đến bực Kỹ sư, giàu sang đến hạng triệu phú, mà không quên nghĩa cũ tình xưa, không khinh rẻ người nghèo, không làm cao với Hương chức.
                Đến 7 giờ rưỡi, Quí đếm khách đã hơn một trăm, mà thấy xe nhà về không, hết có khách tới nữa mới mời nhập tiệc. Vợ chồng Quí với Ba Mùi, Ba Thới, Mỹ và Sen phân nhau mỗi người ngồi một bàn mà đãi khách.
                Tiệc cưới vui cười hớn hở vì thuở nay chưa từng có dân làng mà được hậu đãi như vầy. Chừng mãn tiệc, Sáu Trừ mới đứng dậy thay mặt cho anh chị em Càng Long tỏ lời khen ngợi Quí có chí lập thân, nhờ ham học nên thành công mỹ mãn. Anh nâng ly rượu mà chúc cho vợ cho vợ chồng Quí trăm năm bền vững tóc tơ, một cửa đông vầy con cháu.
                Thầy nhứt Vĩnh tiếp mà chúc cho vợ chồng Quí do chữ tình chữ nghĩa mà tạo thành đồng chí đồng tâm, để duy trì hạnh phúc gia đình rồi kéo dài ra làm hạnh phúc xã hội nữa. Nhơn dịp thầy tỏ lời khuyên em cháu trẻ tuổi nên noi gương của Quí mà lập thân. Muốn nên người cần phải kiên nhẫn, chơn thành, nghèo đừng nản chí, giàu đừng ham chơi, cứ thương người nên giúp người, đừng ghét chúng mà cũng đừng sợ chúng.
                Sau hết Quí đứng dậy cám ơn hết thảy khách lớn nhỏ tưởng tình nên đến chung vui hôm nay. Chàng nói ngay ra rằng thầy nhứt Vĩnh là ân nhơn thứ nhứt của chàng, vì nhờ thầy dạy dỗ ung đúc tánh tình nên chàng mới biết cư xử ngay thẳng lấy sự ham học lập thân, nhờ vậy mà ông La-Co thương yêu tiếp dạy và giúp sức cho chàng học được. Chàng nhận ông La-Co làm ân nhơn thứ nhì của chàng. Chàng phải lãnh mang tên của ông để đền đáp nghĩa đền ơn, mà cũng để nhơn danh ông cứu với trẻ mồ coi và giúp cho con nhà nghèo thông minh, sẵn chí ham học, có thể đi học đến cùng đặng tạo nhơn tài cho đất nước. Mà dầu mang tên gì dầu có bạc tiền bao nhiêu, chàng cũng không thể quên chàng, là một công dân Việt Nam, lãnh cái chí của một người Pháp thành tâm thân Việt, cái nhiệm vụ cao quí là giáo hóa con nhà nghèo Việt Nam, giúp cho hạng người ấy thâu thập tài nghề Pháp, hấp thụ tư tưởng, đặng leo lên đài văn minh mà đứng cùng với các dân tộc khác trên mặt địa cầu nầy.

                Tiệc mãn rồi mà chủ khách vẫn còn dan díu, đàm luận chơi đến nửa đêm, ăn thêm một tiệc thịt nguội với bánh mì nữa, rồi lần lượt xe mới đưa khác về từ tốp đến 3 giờ khuya mới hết.
                Khách ra về ai cũng vui lòng, mà chủ nhà cùng các nhơn thân ở lại ai cũng vừa ý.
                Khi vào phòng thay đồ mà nghỉ cô Hường cảm xúc cực điểm, nên cô ứa nước mắt mà nói với chồng:
                - Thiệt em không dè em được hưởng hạnh phúc lớn như vầy, bởi vậy em lo ngại quá.
                Quí cười mà nói:
                - Em cứ thành tâm giúp cho qua làm tròn nhiệm vụ của ông La-Co phú thác, thì hạnh phúc của em đáng hưởng. Em chẳng cần phải lo ngại chi hết.
                Qua bữa sau bà Marc rủ Ba Thới với Ba Mùi đi Ba Đông coi bãi biển chơi cho biết. Quí biểu lấy hai chiếc xe mà đi chơi, một chiếc chở mấy mẹ con bà Marc. Còn một chiếc chở Ba Thới, Ba Mùi, Mỹ và Sen. Vợ chồng Quí với ông Marc phải ở nhà đặng sắp đặt cuộc đãi khách tối thứ bảy.
                Sáng thứ bảy mấy bà con đi chơi bên Tiểu Cần và Mặt Bắc nữa, thành ra Ba Thới với Ba Mùi cũng mến tánh nết ôn hòa vui vẻ của bà Marc như cô Mỹ, cô Hường.
                Tiệc tối thứ bảy có các quan Pháp Nam trong tỉnh dự đủ, lại nhiều người Pháp ở Sài Gòn cũng xuống và có đem đầm theo. Bà Marc phải giúp cô Hường tiếp khách. Mãn tiệc rồi khách nhảy đầm chơi đến hai giờ khuuya mới rã mà về.
                Sáng chúa nhựt, ăn lót lòng xong rồi bà Marc nói đám cưới xong rồi, nên bà về. Ông Marc cũng xin theo xe vợ về thăm nhà ít bữa. Quí cho ông Marc về nghỉ một tuần, nói rằng lúc này chàng ở nhà mà nghỉ, nên chàng thế cho ông mà chỉ chừng cho họ làm công việc được.
                Xe của vợ chồng ông Marc đi rồi, dì Ba Thới mới nói:
                - Con gái lớn của bà xếp ngộ quá, tôi thấy nó đồng trang lứa với cháu Sen; tôi muốn làm mai chơi. Tôi nói thử nó muốn có chồng Trà Vinh hay không? Nó hỏi vậy chớ chồng là ai? Tôi chỉ cháu Sen mà nói nếu nó ưng cháu Sen tôi làm mai. Nó cười ngất rồi nói như vầy, -- « Anh Sen không ăn học, mà cũng không biết làm nghề gì hết. Ưng làm vợ ảnh rồi ảnh bỏ con chết đói hay sao? Xin bà biểu ảnh học cho có một nghề nghiệp mà nuôi gia đình được rồi sẽ cưới vợ. » Tôi nghe nói như vậy tôi thối lui.
                Quí nói với Sen:
                - Em thấy hay chưa em Sen? Con người không ăn học, mà cũng không nghề, thì bị người ta khinh rẻ như vậy đó. Lúc nhỏ em không cần học, cứ xẩn bẩn theo mấy trường gà, rồi đi chơi lưu linh, bây giờ làm sao mà cưới vợ cho em được. Trước không lo sau nầy phải hại là vậy đó .
                Sen giận mà nói:
                - Em sẽ đi học. Xin anh ba giúp cho em học nghề thợ máy đi .
                Quí cười mà nói :
                - Để thủng thẳng coi.
                Ba Thới với Ba Mùi đòi về đặng dọn dẹp nhà cửa.
                Quí tỏ ý muốn gom hết về dưới nầy ở chung một chỗ cho vui, tiệm của Ba Thới thì giao cho chị Điệu ở buôn bán tiếp, còn nhà thờ ngoài này thì giao cho chú Tiền gìn giữ chừng nào có đám giỗ sẽ về lo cúng quãi.
                Ba Thới không chịu, nói ở ngã ba Suối Cạn quen rồi, không đành bỏ đi. Để dì về ở đó với Điệu cho thong thả, năm mười bữa có nhớ thì xuống thăm con rể vậy thôi.
                Cô Mỹ cũng đòi theo Ba Mùi mà về. Vợ chồng Quí cương quyết không cho, nói rằng từ nhỏ tới giờ chị cực khổ lung quá, bây giờ phải ở dưới nầy đặng hưởng thanh nhàn sung sướng. Cô Mỹ nhứt định về vì ở dưới nầy chắc nhớ nhà lắm, lại để Ba Mùi ở một mình quạnh hiu tội nghiệp, cô nói thà để cô ở trển rồi cô lên xuống thăm chơi mà thôi.
                Cực chẳng đã vợ chồng Quí phải xuôi theo ý chị, song buộc phải mướn người đi chợ nấu ăn với một người phụ với chú Tiền mà gieo trồng, lại hễ bữa nào có xe rước thì phải xuống chơi đặng chị em sum hiệp.
                Còn Sen thì Quí buộc phải ở luôn dưới nầy cho Quí dạy dỗ. Mà thiệt Sen cũng không muốn về Càng Long, bởi vì về đó không có việc gì làm, rồi buồn thả đi chơi bậy bạ, dầu không hư thân thì cũng vô ích.
                Đến xế mát Quí biểu Sen kêu tài xế đem xe ra rồi Sen đưa hai bà với cô Mỹ về Càng Long.
                Quí với Hường đưa hai bà mẹ với chị lên xe. Xe chạy rồi Quí cười mà nói với vợ:
                - Chị Hai rõ ràng có Phật tâm. Từ nhỏ đến giờ chị bị bà mẹ ghẻ đày đoạ hết sức, mà chị vẫn mến yêu, không phiền, không ghét. Nếu không có lòng từ bi thì làm sao mà được vậy phải không em?
                Hường nói:
                - Thiệt vậy. Vợ chồng mình phải kính, phải yêu chị, phải làm cho chị vui vẻ an nhàn, đặng trừ những năm chị chịu đau khổ .
                Vợ chồng kề vai nhau đi vòng trước sân mà chơi.
                #23
                  NuHiepDeThuong 12.02.2006 04:08:25 (permalink)
                  Chương 24


                  Qua năm sau.
                  Năm nầy cũng như các năm trước, ở đất dồng hễ đến tháng mười một thì ai cũng lo gieo cải ương hầu để gần Tết bán cho họ hàng mua đặng chở đến mấy chợ mà bán lại.
                  Buổi sớm mơi cô Mỹ đi một vòng vườn mà coi chú Tiền với người mướn tháng để phụ với chú mà tưới cải tưới bầu. Cô mới trở vô nhà thì thấy ông Hương sư Bền trong Mỹ Trường đương xăng xớm bước vô cửa.
                  Từ khi cuộc làm mai cho thầy giáo Lễ hư hỏng, Hương sư Bền không tới nhà nữa, bởi vậy hôm nay ngó thấy ông, cô Mỹ ngạc nhiên, không hiểu ông đến có việc chi. Tuy vậy mà cô cũng vui vẻ mời ông ngồi, rồi kêu cô Hai, là đứa nhỏ mướn ở để sai vặt, mà biểu nó nói với chị bếp đặt ấm nước đặng chế trà đãi khách.
                  Ông Hương sư ngồi ngó quanh quất trong nhà rồi hỏi cô Mỹ:
                  - Bà Bồi không có ở nhà hay sao cháu.
                  - Thưa, dì tôi vô nói chuyện chơi với dì Ba tôi trong ngã ba. Bác có việc chi muốn nói với dì Ba tôi hay sao?
                  - Không có. Vì già rồi nên mấy năm nay bác ít đi chợ. Bữa nay có dịp ra nay, bác ghé một chút, trước thăm bà Bồi với cháu, sau coi nhà cửa thế nào mà mấy tháng nay người ta khen nhà cất lại tốt lắm.
                  - Thưa bác, cũng còn nhà cũ chớ đâu có cất lại, duy có chỗ nào hư thì sửa chữa, tu bổ lại cho chắc chắn để thờ phượng ông bà cha mẹ vậy thôi.
                  - Hồi nãy vô sân bác có đừng có ngắm coi, thiệt nhà bây giờ cao ráo, khoảng khoái, tốt hơn hồi trước nhiều. Hèn chi họ khen cũng phải. Còn phía bên kia lộ bác thấy có mấy cuộc mả mới, chắc có làm mả cho ông phải hôn cháu?
                  - Thưa phải. Em tôi nó mướn thợ xây mộ của ông nội, bà nội tôi, với mộ của ba mẹ của tôi luôn nữa. Thợ mới làm xong và cúng tạ mả hôm mùng sáu.
                  - Được quá. Nghe nói ông kỹ sư giàu dữ, giàu thì lo cho tổ tiên như vậy là phải lắm rồi. À, bác nhớ ông Bồi ở với bà sau có sanh được con trai, bây giờ ở đâu? Có vợ con hay chưa?
                  - Thưa, nó đi học bên tây từ hồi năm ngoái. Nó chưa có vợ.
                  - Học giống gì mà qua tới bên Tây?
                  - Thưa, nó muốn học ngành nghề máy móc, nên anh ba nó cho nó qua bển cho mau, vì bên Tây có trường chuyên môn dạy máy móc.
                  - Anh em thương nhau như vậy thì Quí lắm. Anh lớn làm nên rồi thì lo dìu dắt em nhỏ. Còn nghe nói sở ruộng Mỹ Trường hồi trước ông Bồi bán cho Sáu Thi, bây giờ ông kỹ sư chuộc lại rồi phải hôn cháu?
                  - Thưa, vợ chồng Sáu Thi muốn cho chuộc nhưng con rể cứ theo cản hoài nên em tôi phải mua sở ruộng khác mà đổi họ mới được. Em tôi nó nói sở ruộng đó là dấu tích của bà già hồi trước, nên nó nong nã quyết đem trở về, để làm phần hương hỏa cho mẹ cha. Nó đem lại được phải tốn hao nhiều dữ. Khá, may phần ruộng mười ba mẫu của bà chủ Tư mua đó bà sẵn lòng cho chuộc lại, nên số ruộng trở về đủ.
                  - Hết thảy được bao nhiêu ruộng vậy cháu !
                  - Năm chục mẫu, y như số hồi bà già tôi còn.
                  - Giỏi quá … Bác nghĩ như thầy giáo Lễ bậy dữ. Chớ chỉ năm đó thầy cưới cháu thì bây giờ thấy vinh hiển biết chừng nào.
                  - Tại cháu không phải duyên nợ của thẩy, chớ phải thẩy bậy đâu bác.
                  - Tại ham tiền ham ruộng, chớ duyên nợ gì. Bây giờ cháu muốn lấy chồng, thì thiếu gì người sang trọng họ dành họ cưới.
                  - Thôi bác, chồng con làm gì. Cháu có tới hai đứa em trai, cháu ở đây mà phụng sự ông bà; ngày sau cháu có chết thì sắp nhỏ kêu bằng cô chúng nó cúng cháu cũng được. Ham chồng con làm chi. Cháu lấy chồng rồi bỏ dì cháu quạnh hiu cũng tội nghiệp.
                  Ông Hương sư Bền uống nước rồi từ giã cô Mỹ mà về, cô Mỹ nghi ổng muốn làm mai nữa, nên cô ngó theo, miệng chúm chím cười.
                  Ông Hương sư thiệt không có ý đó. Ông đến đây là vì ông nghe người ta đồn kỹ sư Quí giàu có, đã về cất nhà thờ lại và làm mồ mả cho cha mẹ ông bà đàng hoàng, nên ông ghé xem cho tận mắt.
                  Thiệt quả có như vậy. Nhà cửa tu bổ coi rất đẹp. Mồ mả xây tử tế.
                  Ruộng đất đã chuộc lại đủ, để cho Ba Mùi với cô Mỹ cho mướn thâu huê lợi mà phụng sự tổ tiên.

                  Tiệm của dì Ba Thới bây giờ cũng đã cất lại, ba căn lợp ngói đỏ lòm. Trong tiệm có bán tới hàng vải nhiều thứ. Cô Ðiệu đứng mua bán, dì Ba Thới rảnh đi thăm con rể chơi mà thôi.
                  Còn cuộc nhà của vợ chồng kỹ sư Quí ở Trà Vinh thì năm nay trước sân bông hoa rực rỡ. Cây trồng tươi tốt đã lên cao chơi mà thôi.

                  Cô nhi viện cất phía sau đã hoàn thành. Trẻ mồ coi đã được lãnh nuôi gần tới số hai trăm, sắp lớn thì dạy dỗ, sắp nhỏ thì săn sóc, lớn nhỏ đều mặc áo quần sạch sẽ, được ăn uống no đủ, được chổ êm ấm, có chỗ chơi mát mẻ.
                  Vợ chồng thầy nhứt Vĩnh ở căn giữa trong dãy nhà lầu cất ngang ngõ vô cô nhi viện, bà chăm nom trẻ nhỏ, còn có bốn cô nữ y tá tiếp tay, còn ông chăm nom sự học của tốp lớn, có hai cô giáo viên già giúp sức. Giáo viên với nữ y tá phân nhau mà ở dãy nhà lầu đó đặng gần gũi với trẻ em luôn luôn.

                  Kỹ sư La-Co đã có chọn gởi qua pháp được năm sinh viên nghèo rồi, mỗi người đều có bằng tú tài nên cho qua Pháp tiếp học mấy trường chuyên môn về cơ khí, cầu cống, nông phố, thương mãi. Kỹ sư La-Co có đặt một người thay mặt ở tại nhà mình bên Paris để chăm nom sự học tập của sinh viên. Nhơn có người đó, mới gởi em là Sen, qua đặng sắp đặt cho Sen học, ban ngày thì học máy, ban đêm thì học chữ.

                  Nhờ cô thầy nhứt Vĩnh phụ trách, kỹ sư La-Co được thong thả nên hay đi viếng sở ruộng vườn, hoặc lên Sài Gòn dọ kiếm sinh viên nghèo mà có chí ham học. Mỗi lần Quí đi thường đem cô Hường, với Mỹ theo chơi cho biết chỗ này chỗ kia, đặng mở mang kiến thức. Mà lúc nào ở nhà thì năm ba bữa cũng cho xe rước cô Mỹ với Ba Mùi, Ba Thới ở chơi. Ba người này hễ xuống thì mê mết với đám trẻ mồ côi, xẩn bẩn theo bà giáo Vĩnh trong cô nhi viện.

                  Lúc nầy cô Hường có nghén thấy bụng đã trộng rồi. Quí sợ đi xa mệt mỏi, nên đi Sài Gòn hay là đi viếng sở không đem theo nữa. Nhưng để ở nhà thì cậy mẹ vợ với Cô Mỹ thay phiên nhau xuống ở chơi cho cô Hường vui.
                  Ấy vậy mặc dầu vợ chồng Quí với Hường học thức bất đồng, mà giáo dục cũng bất đồng, nhưng nhờ tình nghĩa nặng đầy, thương yêu thành thiệt, nên gia đình cũng đầm ấm.


                  Vĩnh Long tháng 10/1943

                  Hồ Biểu Chánh

                  CHUNG



                  ***************

                  Đã đưa vào thư viện trọn bộ.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.02.2006 04:19:04 bởi NuHiepDeThuong >
                  #24
                    Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 16 đến 24 trên tổng số 24 bài trong đề mục
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9