những mẫu truyện nhân vật lịch sử Việt Nam
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 34 bài trong đề mục
Hoàng Dung 03.02.2006 12:28:13 (permalink)
sưu tầm


Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan



Ỷ Lan - có thuyết cho rằng tên thật của bà là Lê Thị Yến Loan - là một cô gái hái dâu, chăn tằm ở ngoại thành Thăng Long thời Lý. ỷ Lan ra đời ở làng Thổ Lỗi (làng Sủi sau đổi là Siêu Loại, nay là xã Dương Xá, huyện Gia Lâm - Hà Nội) - năm nào không rõ, sử sách chỉ ghi lờ mờ: bà mất ở kinh thành Thăng Long vào năm 1117 - trên dưới 70 tuổi - thời Lý Nhân Tông. Sách Mộng khê bút đàm của Thẩm Hoạt có chép "Nhật Tôn (tức Lý Thánh Tông) mất, Càn Đức (Lý Nhân Tông) lên, dùng quan là Lý Thượng Cát (Lý Thường Kiệt) và mẹ là thái phi Lê Thị Yến Loan cùng coi việc nước".

Câu chuyện Yến Loan vào cung vua Lý, đó là một giai thoại người người đều nghe, đều biết.

Thuở ấy vào năm Quý Mão (1063) Lý Thánh Tông đã đến bốn mươi tuổi. Vua chưa có con trai để truyền ngôi báu, đêm ngày triều thần lo ngại. Vua bèn thân hành đi cầu tự khắp các chùa chiền, miếu mạo nhưng không hiệu nghiệm, Lý Thánh Tông lo lắng cho triều đình nhà Lý và xã tắc Đại Việt. Một sớm mùa xuân, vua về viếng thăm chùa Dâu (tổng Dương quang phủ Thuận Thành) dân làng mở hội nghênh giá. Thánh Tông hoàng đế cùng hòa vào dân chúng trong hội làng đông vui. Trai gái, già trẻ các làng đều ra rước vua. Đoàn xa giá của vua đi đến đâu, các làng lân cận nô nức, đổ xô về phía ấy. Duy chỉ cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình. Cô gái vẫn miệt mài bên bãi dâu, mặc cho đoàn ngự diễu qua. Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái có vẻ "kiêu căng" đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung dung nhẹ nhàng tới quỳ tâu: Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ có đâu dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng".

Vua thấy cô gái ăn mặc quê mùa, nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác hẳn những người con gái mà vua đã từng gặp. Vua yêu vì sắc, trọng vì nết, nên cho cô gái theo long giá về kinh đô. Cô gái làng quê được đón về cung vua ấy là Yến Cô Nương xinh đẹp, nết na của làng Siêu-Loại (Sủi). Nhưng Lý Thánh Tông là ông vua chăm việc nước, luôn luôn thân chinh dẹp giặc. Vua ít nhàn rỗi để ngự tới cung ỷ Lan. Đương lúc cung ỷ Lan vắng tiếng đàn, tiếng sáo, thì bỗng một hôm sau khi Thánh Tông đi trảy hội chùa Thổ Lỗi, cung ỷ Lan lại nhộn nhịp hơn xưa. Yến Cô Nương nhờ "thông minh vốn sẵn tư trời" được học tập, trau dồi đã trở thành một cung phi "nổi danh tài sắc một thời" kinh sử làu thông, văn chương uyên bác. Lý Thánh Tông đem lòng yêu mến, phong làm ỷ Lan phu nhân, lấy tên cung ỷ Lan và cũng có ý kỷ niệm cô gái đứng tựa bên gốc lan, khi tuân lệnh đến bệ kiến buổi đầu ở làng Sủi (Siêu Loại).

Sau đó (1066), ỷ Lan sinh hạ được một hoàng tử lấy tên là Kiền Đức. Kiền Đức trán cao, tay dài quá gối, thông minh, tuấn tú, vua càng yêu dấu hơn, Yến Loan được tôn là ỷ Lan nguyên phi - đứng đầu các cung phi, sau thái hậu; con trai được lập làm thái tử.

Năm Kỷ Dậu (1069), Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh giặc ngoại xâm. Trong khi vua cùng Lý Thường Kiệt ở ngoài biên cương, ỷ Lan nguyên phi đảm đang, chăm lo quốc sự, trị nước điều khiển có kỷ cương khiến thần dân thán phục, cõi nước được yên vui. Lý Thánh Tông từ ngoài biên ải đánh trận lâu ngày không thắng, chán nản rút quân quay về. Về chưa đến nơi, nghe dân chúng Châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hải Hưng) ca ngợi nguyên phi ỷ Lan ở nhà trị nước rất giỏi, lòng dân cảm hóa, được suy tôn là bà Quan Âm, vua Thánh Tông tự trách mình: "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là đàn ông há thua sao! Vua lại tiếp tục trở ra đánh giặc, lần này thắng trận. Năm đó, mùa hạ vua đem quân về ca khúc khải hoàn, đại xá cho thiên hạ, giảm thuế khóa, phát tiền lụa, thóc cho dân nghèo. ỷ Lan rất nhân từ dạy con ngoan, đào tạo con trở thành một nhà vua anh minh sau này; lại lo cho dân giàu nước mạnh, yêu thương nhân dân được mọi người kính phục.

Năm Nhâm Tý (1072) tháng giêng mùa xuân, Lý Thánh Tông mất ở điện Hội Tiên. Hoàng thái tử Kiền Đức lên ngôi vua, tức vua Lý Nhân Tông. Khi ấy vua mới lên bảy, tôn mẹ là ỷ Lan nguyên phi lên làm Linh Nhân hoàng thái hậu. ỷ Lan vừa giúp coi triều chính, vừa làm nhiệm vụ bà mẹ dạy dỗ con. Trong khi vua còn thơ ấu, ỷ Lan điều khiển cả quốc gia, cùng tể tướng Lý Thường Kiệt chủ trương đánh quân Tống xâm lược. Hai lần quân Tống đến (1075, 1077) vua Lý Nhân Tông chưa quá 10 tuổi, ỷ Lan đã cùng Thái sư Lý Đạo Thành lo việc binh lương chuyển ra tiền tuyến. Trong lúc Tổ quốc lâm nguy ỷ Lan đã cùng Lý Thường Kiệt giữ vững giang sơn, xã tắc; công ấy đời sau còn nhắc mãi.

ỷ Lan xuất thân là một thôn nữ, nên hiểu thấu những khổ đau của người phụ nữ nông dân vì nghèo khổ phải đem thân gán nợ cho nhà giàu, bà cho xuất của trong kho chuộc về, và xây dựng chồng con hạnh phúc cho họ. Về việc này Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn: "Con gái nghèo đến nỗi phải đợ mình làm mướn, con trai nghèo đến nỗi không vợ đó là cùng dân của thiên hạ. Thái hậu (tức ỷ Lan) đổi mệnh cho họ cũng là việc nhân chính vậy!". ỷ Lan không những sửa sang việc quốc chính, tăng cường quân đội, bố phòng, chăm lo việc mở mang dân trí, việc thi cử học hành và còn ban hành nhiều điều ích quốc lợi dân. ỷ Lan còn khuyên vua làm điều thiện, trị điều ác. Bà hiểu những gian nan của nông dân khi việc nông trang cày bừa không có trâu cày. ỷ Lan bảo vua phạt tội nặng những kẻ trộm trâu và giết trâu bừa bãi; có lần bà đã nói với vua: "Gần đây người kinh thành và làng ấp đã có kẻ trốn đi chuyên nghề trộm trâu. Nông dân cùng quẫn. Mấy nhà phải cày chung một trâu. Trước đây, ta đã từng mách việc ấy, và nhà nước đã ra lệnh cấm. Nhưng nay việc giết trâu lại có nhiều hơn trước". Nhân Tông bèn ra lệnh phạt rất nặng những người trộm và giết trâu, phạt cả vợ con và hàng xóm vì tội không tố giác.

Sống trong lầu son, gác tía mà lúc nào ỷ Lan cũng không quên đến người nghèo, ỷ Lan vẫn chăm sóc đến đời sống cùng cực của nông dân lao động. Cũng như Lý Thánh Tông, ỷ Lan thường phát chẩn thóc lúa cho kẻ nghèo. Bà sùng đạo Phật, ưa làm việc từ thiện lập nhiều đình chùa.

Bà thường lui tới các đình chùa, trao đổi với các tăng ni thuyết giáo đạo Phật. Năm 1096, bà bày cỗ chay ở chùa Khai Quốc (tức sau là chùa Trấn Quốc ở Thăng Long) thết các sư. Tiệc xong, bà ngồi kê cứu đạo Phật với các vị sư già học rộng. Bà hỏi về nguồn gốc đạo Phật ở các nước và ở ta. Bà có óc phán đoán đòi hỏi các sư "nói có sách mách có chứng". Chính nhờ câu chuyện giữa bà và các vị sư thời Lý (sách Thiên uyển tập anh ngữ lục đời Trần còn ghi lại tường tận chuyện này), mà đến nay ta còn biết gốc tích sự truyền bá đạo Phật vào nước ta. Có lần bà đến chùa Phổ Minh (Từ Liêm) tranh luận với sư Thông Biến về những điều của Phật giáo. Bà cũng có làm những bài kinh, có câu kệ còn truyền lại đến ngày nay:

Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không
Sắc? Không? thôi mặc cả,
Mới thấu được chân tông (*)

Là một nữ nông dân nghèo, được hưởng phú quý vinh hoa, bà vẫn cho là điều "sắc sắc, không không", đó là phù vân... Bà là một người phụ nữ vương giả, ngọc ngà vàng son không làm vẩn đục tâm hồn bà, cũng là một phụ nữ hiếm có trong lịch sử nghìn năm trước.

Ngày 25 tháng 7 năm Đinh Dậu, Hội tường đại khánh năm thứ 8 (1117) đời Lý Nhân Tông, bà mất, được hỏa táng, dâng thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng thái hậu, mai táng ở Thọ Lăng phủ Thiên Đức. Hiện nay còn miếu thờ bà ở hai xã Cẩm Đới và Cẩm Cầu huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương
_________________
#1
    Hoàng Dung 03.02.2006 12:33:06 (permalink)
    TRẦN THÁI TÔNG (1218-1277)

    Hoàng đế khai nghiệp nhà Trần. Tên thật là Trần Cảnh; miếu hiệu Thái Tông (1225 - 1258). Là con của ông Trần Thừa và bà Lê Thị Phong. Sinh ngày 17/07/1218. Quê làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, Nam Định.

    Ông lên ngôi vua từ năm 1225, do vợ là Lý Chiêu Hoàng trao nghiệp nhà Lý cho ông kế thừa dưới sự giúp đỡ, sắp đặt của người chú là Thái sư Trần Thủ Ðộ.

    Triều đại ông việc chính trị, văn hóa, tôn giáo đều cực thịnh. Ông là người chuyên tâm nghiên cứu Phật học và sùng mộ đạo Phật, nhưng không hề xem thường cái học của các trường phái khác. Học thuật nước nhà do đó phát triển. Năm 1257, cùng cả nước ông đã đánh thắng quân Nguyên-Mông xâm lược để lại tiếng vang trong lịch sử dân tộc.

    Ðất nước hòa bình, nhân dân an cư lạc nghiệp phần nào giúp ông thư thái trong tâm hồn. Ông có đủ thời giờ để lo tu niệm, trước tác nhiều kinh sách về Phật giáo; và là người có ảnh hưởng rõ rệt trong đời sống Phật giáo thời Lý-Trần.

    Ông mất ngày 04/05/1277, làm Vua được 33 năm.

    Tác phẩm chính:

    "Khóa hư lục"

    "Thiền Tông chỉ nam tự"

    "Lục thì sám hối khoa nghi"...
    __________
    #2
      Hoàng Dung 03.02.2006 12:36:27 (permalink)
      sưu tầm

      HOÀNG DIỆU


      Mậu Tí 1828 - Nhâm Ngọ 1882)

      Chí sĩ yêu nước, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam (nay tuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Trước vốn tên Hoàng Kim Tích, sau mới đổi là Hoàng Diệu. Ông sinh ngày 10 tháng2 năm Mậu tí 1828, đỗ cử nhân khoa Mậu thân 1848 và phó bảng khoa Quý sửu 1853, lúc 25 tuổi.

      Sơ bổ Tri huyện Tuy Phước (Bình Định), rồi thăng Tri phủ Tuy Viễn cũng trong tỉnh Bình Định. Sau đó ông phải giáng, đổi về Tri huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. ít lâu thăng Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), án sát Nam Định, rồi Bố chính Bắc Ninh. Ông nổi tiếng công minh và thanh liêm. Suốt 30 năm làm quan nhiều nơi, cảnh nhà vẫn thanh bạch, nghèo túng.

      Đến năm Đinh sửu 1877, ông về Huế làm Tham tri bộ Hình, qua Tham tri bộ Lại, coi viện Đô sát và dự vào viện Cơ mật. Năm sau, làm Tuần vũ Quảng Nam, rồi làm Tổng đốc An Tịnh. Chẳng bao lâu ông được triều đình ủy nhiệm chức Phó toàn quyền Đại thần để hiệp thương với sứ bộ Y Pha Nho (Tây Ban Nha).

      Canh thìn 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh, gồm coi cả việc thương chính.

      Đầu năm Nhâm ngọ 1882, đại tá Pháp Henri Rivière đem quân ra cướp miền Bắc, lấy cớ bảo vệ sinh mạng và tài sản Pháp kiều. Ông bất bình, chuẩn bị đề phòng và sẵn sàng đối phó mọi bất trắc, đột biến do quân Pháp âm mưu gây ra.

      Quả nhiên, lúc 5 giờ ngày 8 tháng 3 Nhâm ngọ (25 tháng 4 -1882) H. Rivière sai thông dịch viên tên Phong đưa tối hậu thơ, yêu sách 3 điều:

      - Phá các tạo tác phòng thủ trong thành

      - Giải giới binh lính.

      - Đúng 8 giờ các vị tổng đốc tuần phủ, bố chính, án sát và chánh, phó lãnh binh phải thân đến trình diện tại dinh đại tá. Sau đó, quân Pháp sẽ vào thành kiểm kê. Xong sẽ giao trả thành lại. Ông tiếp tối hậu thư, phẫn uất sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15 Rivière tấn công với số quân 450 người và một ít thân binh, có 4 tàu chiến yểm trợ: La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội).

      Trước hoả lực của quân cướp nước, Hoàng Diệu quyết liệt đối phó. Ông chỉ huy quân sĩ chống cự ở cửa Bắc. Trong khi ấy Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo giặc.

      Một lát sau, kho thuốc súng trong thành nổ, do Pháp thuê Việt gian đốt (có sách nói là Tôn Thất Bá đã làm nội tuyến cho địch).

      Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung.

      Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 50 tuổi. Sĩ tử Hà thành điếu ông.

      Hoàng Hữu Xứng, Võ Trọng Bình, Trần Đình Túc đều có thơ, liễn cảm niệm ông và ngậm ngùi thân phận họ. (X. Hoàng Hữu Xứng, Trần Đình Túc,Võ Trọng Bình).
      _________________
      #3
        Hoàng Dung 03.02.2006 12:38:53 (permalink)
        sưu tầm


        PHÙNG HƯNG (BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG)


        Năm Đinh Mùi (767) quyền thống trị của nhà Đường trên đất Việt bắt đầu suy yếu. Năm Đại lịch thứ hai đời Đường Đại Tông có giặc Côn Lôn và Chà Và vào quấy nhiễu. Quan Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi chỉ còn biết cách đóng chặt cửa thành chờ cứu viện. Vua Đường sai Cao Chính Bình đem quân sang đánh tan giặc ở Cửu Chân, sau đó y được giữ chức đô hộ An Nam. Cao Chính Bình ỷ thế ra sức tàn sát, cướp bóc, vơ vét của cải của dân ta, khiến người người đều căm giận. Nhân cơ hội đó Phùng Hưng cùng hai anh em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh hiệu triệu dân Việt nổi lên chống nhà Đường.

        Phùng Hưng xuất thân từ dòng dõi cự tộc, hào trưởng của đất Đường Lâm (Ba Vì, Hà Nội). Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài đức độ, từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan. Sau đó ông trở về quê, chí thú làm ăn trở nên giàu có, nuôi trong nhà hàng ngàn nô tỳ. Phùng Hạp Khanh có người vợ họ Sử, một lần sinh 3. Phùng Hưng khôi ngô, khác thường. Trong 3 anh em, Phùng Hưng có sức khỏe và khí phách đặt biệt. Ông được sử sách và nhân dân lưu truyền về tài đánh trâu, giết hổ ở Đường Lâm. Kể rằng có lần ông đánh được hai con trâu mộng đang húc nhau. Lần khác, bằng mưu kế, ông đương đầu với con hổ dữ khét tiếng trong vùng, giết chết mãnh thú, trừ được họa cho dân. Vì được dân sẵn lòng mến phục, nên khi Phùng Hưng trương cờ dấy nghĩa mưu việc lớn, nhân dân theo về đông. Chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân lên tới vài vạn người. Quân giặc ở châu Đường Lâm và các vùng phụ cận không đương nổi những cuộc công phá sấm sét phải tháo chạy. Phùng Hưng xưng là Đô Quân, Phùng Hải xưng là Đô Bảo, Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng chia quân đi trán giữ các vùng hiểm yếu. Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Khi tiến công, khi thế thủ, cuộc chiến diễn ra hơn 20 năm. Năm Tân Mùi (791), Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ An Hàn, Bồ Phá Cần chia ra làm 5 đạo bất ngờ vây đánh thành Tống Bình. Cao Chính Bình đem 4 vạn quân ra nghênh chiến. Sau 7 ngày đêm xung sát, quân giặc núng thế phải rút lui vào thành trấn thủ. Nghĩa quân Phùng Hưng thừa thắng reo hò bủa vây khắp 4 mặt thành. Thấy quân mình bị chết nhiều, Cao Chính Bình lo sợ phát ốm rồi chết. Phùng Hưng chiếm lĩnh thành trì, vado phủ đô hộ điều khiển việc nước được 7 năm thì mất. Con trai là Phùng An lên nối ngôi, thể theo lóng mộ của nhân dân tôn hiệu cha là Bố Cái Đại Vương, Phùng An nối nghiệp được 2 năm thì bị vua Đường cử Triệu Xương đánh bại.

        Phùng Hưng mất nhưng nhân dân không nguôi nhớ tiếc ông. Truyền thuyết dân gian kể: Phùng Hưng rất hiển linh giúp dân lúc hoạn nạn. Dân làng cho là linh ứng, lập miếu để thờ tự tại Đường Lâm. Sau này, Phùng Hưng cũng hiển linh giúp Ngô Quyền đánh thắng giặc sông Bạch Đằng. Vì Vậy, Ngô Quyền cho lập đền thờ ông rất lớn. Ở Quảng Bá ( Hà Nội), Triều Khúc (Hà Sơn Bình). Ở Đại ứng, Phương Trung, Họach An ( Thanh Hóa, Hà Sơn Bình)v.v.. đều có đền thờ ông.
        ____________

        #4
          Hoàng Dung 03.02.2006 12:41:17 (permalink)
          sưu tầm


          Thái sư Trần Thủ Độ


          T rần Thủ Độ là nhân vật trụ cột của triều Trần. Ông là công thần sáng lập triều Trần và là người thực tế nắm quyền lãnh đạo đất nước những năm đầu triều Trần, khoảng gần 40 năm (1226-1264). Sử chép: "Thái Tôn lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua". (*)

          Trần Thủ Độ cũng là nhân vật bị các sử thần thời phong kiến chê trách nhiều. Dưới ngòi bút của họ, Trần Thủ Độ hiện ra như một quyền thần vô học, có tài mà không có đức, có công với nhà Trần, lại có tội với nhà Lý. Nhưng khi chép về việc "Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý" trong Đại Việt sử ký toàn thư; Ngô Sĩ Liên cũng chú trong ngoặc đơn là "việc này chưa chắc đã có thực".

          Nhân dân lại đánh giá ông với cách nhìn khác quan điểm Nho giáo. Trong đền thờ ông trên đồi Lim (Tiên Sơn, Hà Bắc) có hai câu đối treo ở trước bàn thờ như sau:

          Công đáo vu kim, bất đán Trần gia nhị bách tải.
          Luận định thiên cổ, kỳ tại Nam thiên đệ nhất lưu.

          (Công đức của ông để mãi đến ngày nay, không chỉ bó hẹp trong hai trăm năm đời nhà Trần.
          Sau nghìn đời, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc thứ nhất dưới trời Nam). (**)

          Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) ở làng Lưu Xá, huyện Ngự Thiên, lộ Long Hưng, nay là xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Tổ tiên ông vốn nối đời làm nghề đánh cá, từ Yên Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh) về vùng sông nước Hiển Khánh, Tức Mặc ven bờ sông Hồng (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), rồi sang ở vùng Bát Xá - Tam Nông (tám làng Xá, ba làng Nông) cạnh dòng sông Luộc. Đến đời thân phụ của Trần Thủ Độ và nguyên tổ Trần Lý của nhà Trần thì họ Trần trở nên giàu có, người ở quanh vùng quy phụ, "...nhân có nhiều người cũng nổi lên làm giặc". Nhất là từ khi Trần Lý có người con gái là Trần Thị Dung lấy Hoàng Thái tử Sảm (sau là vua Lý Huệ Tông) thì thanh thế càng lớn. Trần Thủ Độ cùng với những người con ưu tú khác của họ Trần sớm tham gia lập các đội hương binh đi đánh dẹp các thế lực cát cứ khác, lúc đầu nhằm khôi phục cơ nghiệp cho nhà Lý. Năm 1224, ông được nhà Lý phong làm Điện tiền chỉ huy sứ, quản lý các đạo quân bảo vệ kinh thành. "Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn".

          Ông mất tháng Giêng năm Giáp Tý (1264), thọ 71 tuổi. Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục: "Trần Thủ Độ sau khi chết, chôn ở địa phận xã Phù Ngự, huỵện Ngự Thiên, nơi để mả có hồ đá, dơi đá, chim đá và bình phong bằng đá, chỗ đất ấy rộng đến hai mẫu, cây cối um tùm. Về tư điền, trước vẫn liệt vào hạng thượng đẳng, các quan phủ, huyện, huấn, giáo đến kính tế".

          Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh và cá tính khác thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, thường quyết đoán theo ý chí của mình, ít chịu để cho tình cảm sai khiến. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Thủ Độ gắn liền với nghiệp đế của họ Trần. Nhưng hiệu quả lịch sử những việc ông làm đã đưa nước nhà qua khỏi cuộc suy vong cuối triều Lý và khởi dựng nên thời đại Đông A rực rỡ những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm và những thành tựu xây dựng đất nước.

          Cuối triều Lý, chính quyền trung ương bất lực trước cuộc suy thoái về kinh tế và hỗn loạn về chính trị. Thiên tai, mất mùa, đói kém xảy ra liên tiếp. Các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi đánh giết lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Ngoài biên thùy, Chiêm Thành và Chân Lạp thường xuyên quấy phá. Đế quốc Mông Cổ cũng đã tung vó ngựa sang phía Đông đánh Kim, diệt Tây Hạ, chiếm Triều Tiên, chuẩn bị xâm lược Tống và các nước phía Nam.

          Trong lúc ấy, vua Lý Cao Tông vẫn mải mê rong chơi, say đắm thanh sắc, thích xây dựng cung điện, đền miếu, không thiết gì đến chính sự. Vua Lý Huệ Tông thì nhu nhược, bệnh hoạn, năm Giáp Thân (1224) truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 6 tuổi rồi đi tu ở chùa Chân giáo.

          Trần Thủ Độ đạo diễn cuộc chính biến tháng Chạp năm ất Dậu (tức tháng 1-1226), xếp đặt việc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh với lời lẽ trong chiếu nhường ngôi rằng: "...Trẫm là nữ chúa, tài đức đều thiếu, không có người giúp đỡ, giặc cướp nổi lên như ong, giữ thế nào nổi ngôi báu nặng nề".

          Làm cuộc đảo chính thay đổi triều đại mà không xảy ra đổ máu và đảo lộn lớn trong nước, Trần Thủ Độ tỏ ra là một nhà chính trị sáng suốt, khôn khéo.

          Ngay sau khi lên làm vua, Trần Thái Tông phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ nắm giữ mọi việc cai trị thiên hạ. Năm sau lại phong Trần Thủ Độ làm thái sư giữ tất cả việc hành quân, đánh dẹp trong nước. Ông là một nhà lãnh đạo tài giỏi và tận tụy chăm lo việc nước. Phàm công việc gì làm cho đế nghiệp Đông A vững mạnh, ông đều cương quyết làm bằng được. Năm 70 tuổi, trước lúc chết 5 tháng, sử còn chép việc ông đi tuần ở vùng biên giới Lạng Sơn. "Thủ Độ tuy làm tể tướng mà phàm công việc, không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương nghiệp, giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất".

          Ngay từ những năm đầu triều Trần, ông đã đánh dẹp được các thế lực cát cứ ở các địa phương và tổ chức lại bộ máy hành chính từ trung ương đến cấp xã. Ông đặt ra sổ trướng tịch ghi chép danh sách dân gian trong xã, thôn, từ quan văn, quan võ, binh lính, hoàng nam, trung lão, tàn tật, người ngụ cư... để nắm chắc hộ khẩu trong nước. Có lần duyệt định hộ khẩu, bà Linh Từ quốc mẫu muốn xin riêng cho một người làm câu đương (một chức dịch trong xã). Ông gật đầu, rồi ghi tên họ, tên quê quán. Khi xét đến xã ấy, hỏi tên ấy đâu, người ấy mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ nói: "Ngươi vì có công chúa xin cho được làm câu đương, không thể ví như những câu đương khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt". Người ấy kêu van xin thôi, hồi lâu mới tha cho. Từ đấy không ai dám đến thăm vì việc riêng nữa.

          Ông đề cao tư tưởng pháp trị, định ra luật lệ, quy chế hành chính và gương mẫu thực hiện. Sử còn chép chuyện Linh Từ quốc mẫu có lần ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm bị người quân hiệu ngăn lại. Về nhà bà khóc bảo với Trần Thủ Độ rằng: "Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế". Thủ Độ giận sai đi bắt. Người quân hiệu ấy chắc là phải chết. Khi đến nơi, Thủ Độ vặn hỏi trước mặt, người quân hiệu đem sự thực trả lời. Thủ Độ nói: "Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép nước như thế, ta còn trách gì nữa". Rồi lấy vàng lụa thưởng cho người ấy.

          Là người có công dựng nước, có tài trị nước, vua cũng ít khi dám trái ý. Bấy giờ có người đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông, khóc mà nói rằng: "Bệ hạ trẻ thơ mà Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc sẽ ra sao?". Vua lập tức cùng người ấy đến nhà Trần Thủ Độ và nói lại chuyện đó. Trần Thủ Độ trả lời: "Đúng như lời người ấy đã nói", rồi lấy tiền lụa thưởng cho người ấy.

          Trần Thái Tông vì quý trọng Thủ Độ nên muốn dùng anh ruột ông là An Quốc làm tể tướng. Ông thẳng thắn nói với vua: "An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần nên nghỉ việc, nếu cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tể tướng thì việc trong triều đình sẽ ra sao". Vua bèn thôi.

          Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ, Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng. Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1-1258), quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh. Quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ "Nhập Tống" ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời:

          - Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!

          Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu ngày 29-1-1258, buộc địch phải rút chạy về nước.

          Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc.

          #5
            Hoàng Dung 03.02.2006 12:42:44 (permalink)
            sưu tầm

            PHAN BỘI CHÂU


            Phan Bội Châu (tên cũ là Phan Văn San), hiệu Hải Thụ, sau lấy hiệu là Sào Nam (và nhiều bút danh khác) sinh ngày 26-12-1867, quê ở làng Đan Nhiễm (nay là xã Xuân Hòa, huyện Nam Đàn, Nghệ Tĩnh).

            Lúc nhỏ, ông nổi tiếng thông minh. Sáu tuổi đã thuộc hết Tam tự kinh, bẩy tuổi đã hiểu kinh truyện, tám tuổi đã làm thông thạo loại văn cử tử. Mười ba tuổi, đi thi ở huyện đỗ đầu. Mười sáu tuổi, đỗ đầu xứ, nên cũng gọi là đầu xứ San.

            Năm lên chín tuổi, ông đã có ý thức hưởng ứng phong trào của Trần Tấn, Đặng Như Mai, chống bọn thực dân. Mười bảy tuổi, được tin phong trào khởi nghĩa nổi lên ở Bắc kỳ, ông đã thảo bài hịch Bình Tây thu Bắc. Năm 19 tuổi hưởng ứng chiếu Cần Vương của Hàm Nghi, ông tổ chức một đội thí sinh quân gồm 60 người lên đường ứng nghĩa, nhưng chưa kịp hành động thì địch đã về càn quét ở làng. Công việc không thành nhưng chí hướng cứu nước của ông đã rõ.

            Tiếp đó, mười năm Phan Bội Châu làm ông đồ dạy học. Năm 1900, ông đỗ thủ khoa trường Nghệ và chính thức bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng. Phan lập ra Hội Duy Tân (1904), chọn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm minh chủ, chủ trương bạo động và nhờ ngoại viện để khôi phục nền độc lập. Đầu năm 1905, ông sang Nhật rồi quay về dấy lên một phong trào Đông Du vào năm 1905-1908. Ông viết nhiều tác phẩm tuyên truyền cách mạng như Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, v.v...

            Lãnh đạo phong trào Đông Du, Phan Bội Châu đã tổ chức Công hiếu hội, tập hợp 200 lưu học sinh Việt Nam sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự. Những năm cuối cùng trên đất Nhật, ông lập ra các hội có tính chất "đoàn kết quốc tế", như hội Điền, Quế, - Việt liên minh (liên minh giữa những người Vân Nam, Quảng Tây với Việt Nam) và hội Đông Á đồng minh (gồm một số người Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, v.v...) để giúp nhau chống lại bọn đế quốc.

            Khoảng tháng 3-1909, tổ chức Đông Du bị giải tán và Phan bị chính phủ Nhật trục xuất. Trở về ẩn náu tạm thời trên đất Trung Quốc ít lâu, Phan Bội Châu sang Xiêm hoạt động. Hơn một năm sau, khi cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, Phan lại trở về Trung Quốc và thành lập Việt Nam quang phục hội mà tôn chỉ duy nhất là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước "Cộng hòa dân quốc Việt Nam".

            Sau những hoạt động yêu nước, Phan bị thực dân Pháp nhờ bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam ngày 24-12-1913.

            Năm 1917, khi Phan Bội Châu ra tù, thì chiến tranh thế giới lần thứ nhất sắp kết thúc. ảnh hưởng Cách mạng tháng Mười Nga và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sôi nổi khắp thế giới, đã tác động lớn đến Phan Bội Châu. Cụ đã viết báo ca ngợi lãnh tụ Lênin vĩ đại, ca ngợi Nhà nước Công nông của Liên Xô, v.v... Những năm này tuy phải sống bằng nghề viết báo ở Hàng Châu, làm biên tập viên của tờ Bình sự tạp chí, nhưng Phan vẫn không quên lợi dụng báo chí để tuyên truyền chống Pháp và tiếp tục tìm đường cứu nước. Giữa năm 1924, phỏng theo Trung Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, Phan Bội Châu đã cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam quốc dân đảng. Tháng 12-1924, sau khi được tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc, Phan dự định sang năm sau (1925) sẽ cải tổ lại Việt Nam quốc dân đảng theo hướng tiến bộ nhất. Nhưng ngày 30-6-1925, trên đường từ Hàng Châu về Quảng Châu để nhóm họp anh em, Phan Bội Châu vừa đến ga bắc Thượng Hải thì bị thực dân Pháp bắt cóc đem về nước. Chúng âm mưu bí mật thủ tiêu Phan Bội Châu, nhưng việc bị bại lộ, nên phải đưa ra xử ở Tòa đề hình Hà Nội. Tính mạng "bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng" (1) bị uy hiếp, gây ra một phong trào bãi khóa, bãi công, bãi thị rầm rộ khắp cả nước. Trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ đó, thực dân Pháp bối rối, phải tuyên bố tha bổng nhưng bắt Phan phải về sống ở Huế mà không được đi bất cứ đâu.

            Từ năm 1926 trở đi, Phan Bội Châu là người tù bị giam lỏng ở Bến Ngự. Đến đây, cuộc đời hoạt động cách mạng nguyện hiến dâng tất cả cho Tổ quốc của Phan Bội Châu phải bỏ dở. Phong trào cách mạng Việt Nam theo đà phát triển mới của lịch sử tiến như vũ bão. Mặc dù "Ông già Bến Ngự" phải sống cuộc đời "cá chậu chim lồng" nhưng cụ vẫn làm thơ văn để nói nỗi khổ nhục của người dân mất nước, trách nhiệm của người dân đối với nước... Đó là các tác phẩm: Nam quốc dân tu tri, Nữ quốc dân tu tri, Bài thuốc chữa bệnh dân nghèo, Cao đẳng quốc dân, Luân lý vấn đáp, Lời hỏi thanh niên... Phan Bội Châu niên biểu, Lịch sử Việt Nam diễn ca. Đó cũng là các công trình biên khảo hết sức đồ sộ như Khổng học đăng, Phật học đăng, Xã hội chủ nghĩa, Chu dịch, Nhân sinh triết học, cùng với trên 800 bài thơ nôm các loại, mấy chục bài phú, văn tế, tạp văn khác.
            _______________
            #6
              Hoàng Dung 03.02.2006 12:46:17 (permalink)
              sưu tầm


              Việt Vương Triệu Quang Phục



              Triệu Quang Phục là người kế tục sự nghiệp của Lý Nam Đế. Ông là người huyện Chu Diên, là con của Triệu Túc, một thủ lĩnh địa phương có lòng yêu nước không chịu khuất phục nhà Lương. Triệu Quang Phục nổi tiếng giỏi võ nghệ. Sử chép ông là người "uy hùng sức mạnh".

              Cha con ông là người đầu tiên đem quân tham gia cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Triệu Túc là một danh tướng của nước Vạn Xuân, được phong làm Thái Phó trông coi việc binh, hy sinh trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Lương ở vùng ven biển. Triệu Quang Phục lúc đầu theo cha đi đánh giặc, có công. Là một tướng trẻ có tài nên được Lý Nam Đế tin dùng làm tả tướng quân.

              Đầu năm 545, quân Lương xâm lược Vạn Xuân, cuộc kháng chiến của nhà Tiền Lý thất bại. Lý Nam Đế phải lẩn tránh ở động Khuất Lão thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay và giao binh quyền cho Triệu Quang Phục.

              Vốn thông thuộc vùng sông nước Chu Diên, Triệu Quang Phục quyết định chuyển hướng chiến lược, thay đổi phương thức tác chiến cũ là phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch. Ông đưa hơn một vạn quân từ miền núi về đồng bằng, lập căn cứ kháng chiến ở Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Khoái Châu, Hưng Yên).

              Dạ Trạch là một vùng đầm lầy ven sông Hồng, rộng mênh mông, lau sậy um tùm. ở giữa là một bãi phù sa rộng, có thể làm ăn sinh sống được. Đường vào bãi rất kín đáo, khó khăn. Chỉ có dùng thuyền độc mộc nhẹ lướt trên cỏ nước theo mấy con lạch nhỏ thì mới tới được...Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi đất nổi ấy. Ngày ngày, quân sĩ thay phiên nhau vừa luyện tập, vừa phát bờ, cuốc ruộng, trồng lúa, trồng khoai để tự túc binh lương; ban ngày tắt hết khói lửa, im hơi lặng tiếng như không có người, đến đêm nghĩa quân mới kéo thuyền ra đánh úp các trại giặc, cướp được nhiều lương thực, "làm kế trì cửu" (cầm cự lâu dài) người trong nước gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương (vua Đầm Đêm). Nghe tin Lý Nam Đế mất, ông xưng là Triệu Việt Vương.

              Vùng đồng bằng này tuy không có thế đất hiểm như miền đồi núi nhưng có nhiều sông lạch chia cắt, nhiều đầm hồ lầy lội, không lợi cho việc hành binh của những đạo quân lớn. Địa thế như vậy buộc địch phải phân tán, chia quân đánh nhỏ, làm mất sở trường của chúng, đồng thời tạo điều kiện cho ta tiêu diệt gọn từng bộ phận nhỏ, tiêu hao sinh lực địch. Đồng bằng còn là nơi đông dân cư, nơi có nhiều sức người, sức của, cung cấp cho cuộc chiến đấu lâu dài của quân ta.

              Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, từ Lý Nam Đế qua Triệu Việt Vương đã có sự chuyển hướng chiến lược, thay đổi địa bàn và cách đánh. Lập căn cứ kháng chiến ở đồng bằng, đó là kế sách dụng binh hết sức mưu lược và sáng suốt của Triệu Quang Phục. Đưa quân xuống đồng bằng, Triệu Quang Phục không áp dụng phương thức tác chiến phòng ngự, cố thủ hay tập trung lực lượng quyết chiến với địch. Kế sách của ông nói theo ngôn ngữ quân sự hiện đại, là đánh lâu dài và đánh tiêu hao, đánh kỳ lập làm phương thức tác chiến chủ yếu.

              Nhờ sự chuyển hướng chiến lược sáng suốt đó mà cục diện chiến tranh thay đổi ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Quân Lương cố sức đánh vào vùng Dạ Trạch, nhằm phá vỡ đầu não kháng chiến, nhưng âm mưu đó không thực hiện được. Quân của Triệu Quang Phục giữ vững căn cứ Dạ Trạch, liên tục tập kích các doanh trại và các cuộc hành binh của địch. Qua gần 4 năm chiến tranh (547-550) cuộc kháng chiến ngày càng lớn mạnh, địch càng đánh càng suy yếu.

              Viên tướng giỏi của địch là Trần Bá Tiên đã trở về Châu Quảng từ năm 547, làm Thái thú Cao Yên. Năm 548, bên triều Lương xảy ra loạn Hầu Cảnh (548-552). Viên hàng tướng này đã cướp kinh sư, số đông quý tộc nhà Lương bị giết chết, bọn cường hào địa phương nổi dậy khắp nơi. ở phía bắc, triều Tây Ngụy, từ lưu vực sông Vị, tổ chức một loạt các cuộc tiến công đế chế của Lương, năm 553 chiếm Tứ Xuyên, cắt đứt quan hệ giữa Nam Kinh và Trung á, chiếm Trương Dương (Hồ Bắc), xâm nhập tới Giang Lăng trung lưu Trường Giang, lập nên triều Hậu Lương bù nhìn (bị xóa năm 587). Quan tướng các châu - trong đó có Trần Bá Tiên - kéo quân đổ về kinh sư với danh nghĩa "cứu viện kinh sư" dẹp loạn Hầu Cảnh, rồi nội chiến liên miên.

              Chớp thời cơ đó. Triệu Quang Phục, từ căn cứ Dạ Trạch, đã tung quân ra mở một loạt cuộc tiến công lớn vào quân giặc giết tướng giặc là Dương Sàn thu lại châu thành Long Biên, đuổi giặc ngoại xâm, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước.

              Về sau, vì tin lời cầu hòa của Lý Phật Tử (vốn là tướng của Lý Nam Đế, từng nổi dậy chống ông), ông chia cho y một phần đất và kết mối thông gia: con trai Lý (Nhã Lang) lấy con gái Triệu (Cảo Nương). Năm 571, Lý Phật Tử phản bội đem quân đánh úp, Việt Vương thua, chạy đến cửa bể Đại Nha, cùng đường gieo mình tự vẫn.

              Theo Việt điện u linh, cuốn sách xưa nhất (1329) chép về Triệu Quang Phục thì sau khi ông mất, người đời thấy linh dị, lập miếu thờ ở cửa biển Đại Nha. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285, đời Trần Nhân Tông) sách phong là Minh Đạo Hoàng đế. Năm Trung Hưng thứ tư (1288, đời Trần Nhân Tông) ban thêm hai chữ "Khai cơ". Năm Hưng Long thứ 21 (1313, đời Trần Anh Tông) ban thêm bốn chữ "Thánh liệt thần vũ".

              Giáo sư Trần Quốc Vượng
              #7
                Hoàng Dung 03.02.2006 12:47:43 (permalink)
                sưu tầm


                Hồ Quý Ly



                Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ nhà vua Trần, do đó ông sớm được đưa vào triều đình.

                Ban đầu, vua Trần Dụ Tông cho ông làm Trưởng cục Chi hậu (1371), đến vua Trần Nghệ Tông đưa lên làm Khu mật đại sứ, lại gả con gái là công chúa Huy Ninh.

                Ông là người có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa.

                Làm việc trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, ông không chịu nổi. Ông được cử giữ chức cao nhất trong triều. Năm 1395 Thượng hoàng Trần Nghệ Tông chết, ông được cử làm Phụ chính Thái sư, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước.

                Năm 1400, ông truất ngôi vua Trần, lập nên nhà Hồ, chấn chỉnh bộ máy quan lại.

                Chưa được một năm, Hồ Quý Ly theo cách nhà Trần, nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng Hoàng.

                Hồ Quý Ly là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên "vô dật" để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.

                Về mặt xã hội, ông thiết lập sở "Quản tế" (như ty y tế ngày nay). ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là "Thường bình", lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.

                Ông thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tỳ trong các nhà quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không được quá số quy định.

                Hồ Quý Ly cũng là người đề xướng việc phát hành tiền giấy đầu tiên ở Việt Nam.

                Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v...

                Nhìn chung, những cải cách của Hồ Quý Ly là tích cực, với mong muốn xây dựng một nước Việt Nam cường thịnh, tư tưởng đổi mới của ông cũng rất đáng trân trọng song những cải cách của ông chưa mang lại những kết quả đáng kể.

                Triều Hồ thành lập chưa được mấy năm thì quân Minh tràn sang xâm lược. Hồ Quý Ly tổ chức cuộc kháng chiến, song "quân nhà Hồ trăm vạn nhưng không một lòng", Hồ Quý Ly không thể cố thủ bằng cách dựa vào thành quách, cho nên sau 6 tháng kháng cự, ông và con cháu bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc.

                Tuy thất bại, nhưng ông là người có tinh thần tự chủ cao. Đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam, ông tự hào viết nên một bài thơ:

                "Dục vấn An Nam sự
                An Nam phong tục thuần
                Y quan Đường chế độ
                Lễ nhạc Hán quân thần
                Ngọc ủng khai tâm tửu
                Kim đao chước tế lân
                Niên niên nhị tam nguyệt
                Đào lý nhất ban xuân"

                Tạm dịch:

                "An Nam muốn hỏi rõ
                Xin đáp: phong tục thuần
                Lễ nhạc nghiêm như Hán
                Y quan chẳng kém Đường
                Dao vàng cá nhỏ vẩy
                Bình ngọc rượu lừng hương
                Mỗi độ mùa xuân tới
                Mận đào nở chật vườn".

                Khi còn nắm chính quyền, ông cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:

                "Ô đài cửu hỹ, cấm vô thanh
                Đốn sử triều đình phong hiến khinh
                Tá vấn Tử Trừng nhu Trung úy
                Thư sinh hà sự phụ bình sinh"

                Tạm dịch:

                "Đài gián từ lâu tiếng lặng thinh
                Triều đình để phép bị coi khinh
                Tử Trừng, Trung úy sao mềm yếu?
                Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình!"

                Với nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ. Kẻ giáo điều theo chính thống thì cho rằng thế là thoán nghịch, nhưng nhà sử học công minh thì không thể không thừa nhận đó là việc cần làm, nếu đứng trên lập trường vì quyền lợi đất nước, chứ không vì quyền lợi của một cá nhân, một dòng họ. Đối với nhà vua bất tài mà tham quyền cố vị, ông có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân) viết như sau:

                "Tiền hữu dung ám quân
                Hôn Đức cập Linh Đức
                Hà bất tảo an bài
                Đồ sử lao nhân lực"

                Dịch là:

                "Cũng một duộc vua hèn
                Hôn Đức và Linh Đức
                Sao chẳng sớm liệu đi?
                Chỉ để người nhọc sức!".
                (Bản dịch của Tuấn Nghi)
                ___________
                #8
                  Hoàng Dung 03.02.2006 12:52:11 (permalink)
                  sưu tầm


                  Lương Thế Vinh


                  Nhìn khắp lượt sáu dãy học trò ngồi xếp bằng ngay ngắn trên những chiếc chiếu rải xung quanh cái sập cũ kỹ nơi mình ngồi, quan Thám lên tiếng:

                  - Sao mãi tới giờ này vẫn chưa thấy trò Lương Thế Vinh tới? Đám học trò nhớn nhác nhìn nhau không dám trả lời, vì không phải đến lúc này mới biết Lương Thế Vinh vắng mặt. Thiếu Lương Thế Vinh đứa bạn thường gây những trận cười đến đau bụng khi cậu ta pha trò, không khí buổi bình thơ sáng nay như tẻ lặng hẳn đi.

                  Quan Thám lại nhìn bao quát lớp học lần nữa nhưng lần này quan không nói gì. Quan chỉ với cái điếu bát, bần thần lấy thuốc, châm lửa hút liền hai điếu, rồi ngửa mặt, phả khói lên trần nhà, dấu hiệu tỏ rõ quan đang băn khoăn.

                  Nhân dân gọi nhà giáo là quan Thám vì nhà giáo đã từng đỗ Thám Hoa, từng làm quan nhưng lại cáo quan về nhà dạy học lúc chưa quá bốn mươi tuổi. Nay quan đã ngoài sáu mươi, nhưng cái tiếng ông quan thanh liêm, hay chữ khắp thừa tuyên Sơn Nam này ai cũng biết. Học trò vùng Sơn Nam không mấy ai thành đạt mà lại không học quan.

                  Quan Thám tổ chức buổi bình thơ rất chu đáo, vì có đám học trò vùng bên cạnh xin dự. Quan muốn nhân dịp này để học trò thi thố tài năng và kiểm lại kết quả dạy học của mình. Tuy không nói ra nhưng quan hy vọng chẳng trò nào hơn được Lương Thế Vinh, cậu bé mười bốn tuổi có tài ứng đối, xuất khẩu thành thơ này. Chính vì vậy, việc Thế Vinh vắng mặt khiến cho quan băn khoăn đến lo lắng.

                  Đám học trò sau nhưng phút yên lặng lại bắt đầu xì xào. Có học trò quả quyết:

                  - Tính thằng Vinh hay quên. Nó tưởng đến chiều mới học như mọi khi cũng nên!

                  Một trò khác tự nhận ở gần nhà Thế Vinh, cãi lại:

                  - Tính nó hay quên thật nhưng việc học bao giờ cũng siêng. Chiều qua không thấy nó thả diều, tối lại đọc sách rất khuya. Chắc nó soạn bài bình hôm nay mệt nên quá giấc đấy thôi!

                  Quan Thám lắng nghe những lời bình phẩm của đám học trò và suy nghĩ lan man. Đã dạy Lương Thế Vinh ngót bốn năm nên quan hiểu tính nết người học trò này hơn ai hết. Hầu như Lương Thế Vinh chưa bỏ buổi học nào và trong giờ học bao giờ cũng chăm chú nghe quan giảng dạy. Quan vẫn thầm nhủ: Trong gần hai mươi năm dạy học ở cái làng Cao Hương huyện Thiên Bản này, học trò giỏi và đã thành đạt không ít nhưng chưa trò nào chiếm được tình thương yêu sâu sắc của quan như Lương Thế Vinh. Quan Thám yêu Thế Vinh không phải vì Thế Vinh cùng quê, chăm học, có chí đọc thiên kinh vạn quyển. Cũng không phải Thế Vinh hiền lành ngoan ngoãn. Ngược lại, cậu bé rất nghịch, nhiều khi dám pha trò trong lớp; thậm chí có lúc còn vặn lý quan. Quan Thám yêu Thế Vinh vì cậu học đâu nhớ đấy. Hơn thế nữa, cấu tứ các bài thơ, bài văn của Thế Vinh bao giờ cũng một cái gì khác lạ, khiến nhiều lúc quan phải giật mình về sự hiểu biết rộng rãi và ý nghĩa táo bạo trong từng câu, từng chữ chọn lọc của cậu. Điều quan Thám không hài lòng là Thế Vinh quá nghịch đến thành tai tiếng cả vùng. Những trò hay thả diều theo trẻ chăn trâu đi mò cua, tát cá quan không giận, vì Thế Vinh chơi say mê nhưng khi học cũng rất say mê. Cái quan giận hoặc không hài lòng là Thế Vinh hay la cà đi các đình chùa, miếu mạo, nhất là quá say mê xem hát chèo. Mỗi lần đi xem đình chùa, gặp bài thơ nào trái ý, cậu chê bai rồi dùng than viết bài chữa của mình vào bên cạnh. Xem tối chèo nào không hay, cậu bình phẩm từng vai, chê tích này không hay, tích kia không vui. Dân làng cho Thế Vinh là phạm thượng. Quan Thám cũng đồng tình. Thâm tâm quan có lúc thầm phục những nhận xét tinh tế, táo bạo, xem ra có chiều đúng của cậu. Quan quý Lương Thế Vinh đến nỗi, không dấu được thất vọng khi thấy cô con gái út trạc tuổi Vinh, tuy nết na đấy, nhưng lại kém nhan sắc.

                  Lớp học bỗng ồn ào trong giây lát, vì từ xa đám học trò đã nhận ra Lương Thế Vinh đang tới. Quan Thám thở phào nhẹ nhõm nhưng vẫn giữ vẻ mặt nghiêm nghị khi ra lệnh cho học trò trở về chỗ ngồi. Quan định bụng sẽ phạt Vinh vì tội đến chậm, nhân để răn các trò khác.

                  Nhưng kìa, cùng đi với Lương Thế Vinh còn có một ông già lạ mặt, trong cách ăn vận thì không phải là người vùng này.

                  Quan Thám định ra đón khách thì Lương Thế Vinh đã bước qua thềm nhà cúi đầu:

                  - Kính thưa thầy, con có lỗi vì tội đến chậm ạ!

                  Liền đó người khách lạ cũng vào đến thềm, chấp tay vái chào, nói:

                  - Tiên sinh miễn thứ cho sự đường đột này của tôi.

                  Quan Thám cung kính mời khách vào nhà.


                  Tha tội cho Lương Thế Vinh và để học trò ra chơi, quan Thám quay về phía khách, chậm rãi:

                  - Tôi hỏi không phải, chắc ngài ở kinh về, và hạ cố đến đây là để dạy bảo kẻ quê mùa này đều gì?

                  - Tiên sinh quá nhúng nhường. Tôi chẳng qua chỉ là thầy địa lý được hầu hạ trong cung cấm. Nhân qua đây gặp cậu bé có tài năng khác người, hỏi ra mới biết là Lương Thế Vinh, học trò của tiên sinh nên mạo muội tới đây.

                  Tôi đang giận vì tội đến chậm của nó. Chẳng là hôm nay tôi cho học trò bình thơ, mà bài bình mẫu là của nó.

                  Khách lúng túng.

                  - Xin tiên sinh thứ lỗi. Chính là vì tôi mà cậu bé bị tiên sinh quở trách vậy.

                  - Ngài dạy quá lời. Nhưng cũng cứ cho được nghe đầu đuôi câu chuyện.

                  - Tôi quá làm phiền tiên sinh, khách nói to, lúc sáng trên đường về kinh, đến gốc đa đầu làng ta đây, thấy trẻ con tụ tập rất đông đang trỏ vào một cái hố rất sâu bên ven lộ. Tưởng có trẻ bị sa hố tôi dừng lại. Hỏi ra mới biết có một bà gánh bưởi đi bán, vì đường trơn trượt chân ngã nên gần hai thúng bưởi đều lăn xuống hố. Đám trẻ và tôi cùng tìm cách giúp bà nhưng không được. Tôi đang nghĩ chỉ có lấy sào dài vót nhọn chọc từng quả lên, thì vừa may, cậu học trò của tiên sinh tới. Hiểu sự việc và qua một thoáng suy nghĩ, cậu bé giục cả đám trẻ về lấy thùng, chậu chuyển nước đổ vào hố sâu. Quả nhiên bao nhiêu bưởi đều nổi lên hết.

                  Tiếng suýt soa thán phục của đám học trò nổi lên. Khách trìu mến nhìn đám học trò quay quanh mình rồi tiếp, giọng xúc động:

                  - Thấy cậu bé mặt mũi khôi ngô, lại nhanh trí, sáng ý, tôi giữ lại và hỏi chuyện. Cậu bé thật là thần đồng sau này sẽ có tài tinh bang tế thế, giúp ích nhiều cho đời.

                  Quan Thám vừa bối rối vừa sung sướng:

                  - Ngài không chỉ bảo cho thì tôi đâu được biết tường hậu vận. Quả thgật Vinh có tài học xuất chúng. Bài thơ luận về nghề mà Vinh sẽ đọc để bình hôm nay, có một câu thật khác lạ, quan Thám đưa bài thơ cho khjách và đọc: "Thần cơ diệu toán vạn niên sư".

                  Lập tức Lương Thế Vinh được quan Thám gọi tới lý giải ý nghĩa của bài thơ.

                  Vẫn đôi mắt lúc nào cũng rực sáng như đang cười, Lương Thế Vinh trả lời hết câu hỏi này đến câu hỏi khác của quan Thám và thầy địa lý một cách lưu loát.

                  Buổi bình thơ không diễn ra theo ý quan Thám đã định nhưng quan rất hài lòng. Quan định cúi xuống xoa đầu Lương Thế Vinh khi cậu trả lời xong. Nhưng nghĩ rằng con người này sẽ có tài kinh bang tế thế, quan rục tay lại rồi tiếp tục gọi trò khác đọc bài.

                  Phải ở hẳn kinh đô sau khi đỗ trạng nguyên và lĩnh chức Hàn lâm trực họa sĩ, Lương Thế Vinh cảm thấy bị gò bó quá đỗi. Cuộc sống phóng túng ở quê nhà, lòng ham say toán học và cái thú được đi theo phường chèo xem hát vẫn có sức hấp dẫn Lương hơn quyền cao chức trọng của vua ban.

                  Nhưng rồi cũng như mọi con sông sau những đoạn đầu hung dữ, đều phải hiền từ chảy về biển cả, Lương Thế Vinh quen dần với cuộc sống ở kinh thành. Và, ở cái tuổi hai mươi hai tuổi ham hiểu biết. Lương đã nhanh chóng chuyển ước mơ được sống cuộc sống tự do phóng túng thành lòng khao khát công việc để học thêm những điều không có trong sách vở. Lương lao vào các hoạt động phong phú của chốn đế đô. Lương nổi tiếng là người có nhiều thơ hay trong Hội tao đàn của vua Lê Thánh Tông và viết "Thiên nam như hạ tập". Lương cũng đã có dịp đi thăm nhiều chùa chiền nổi tiếng. Mặt dù Lương theo nho học, nhưng mỗi lần đi, Lương thường bỏ lễ phục và chỉ đem theo một tiểu đồng để tiện trò chuyện với các sư sãi. Bằng những chuyến đi ấy, Lương thấy rõ đạo Phật đang suy. Vì vậy, thời gian này, Lương đã soạn cuống "Thiền môn khoa giáo" rồi "Nam tông tự pháp đồ", uốn, gò đạo Phật cho gần với đạo Nho để giảng dạy cho các chùa.

                  Lương giao du rất rộng. Nhưng giới được Lương đặc biệt vẫn là các nhạc công của triều đình. Vốn là người thích xem chèo nào nên duờng như không một tối diễn chèo nào ở Kinh đô lại vắng mặt Lương. Việc gần gũi các nhạc công và diễn viên giúp cho Lương hiểu biết sâu hơn về nghệ thuật này. Cũng vì Lương gần gũi nhiều phường, biết nhiều tích nhiều vai, nên Lương thấy được chỗ yếu, chỗ mạnh của từng phường. Vì thế, Lương bỏ nhiều công phu tìm hiểu, đọc hết các loại sách viết về chèo để viết cuốn "Hý phường phả lục" ghi lại các khoán ước của phường chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống chèo, phương pháp múa hát. Lương cũng đề ra nhiều nguyên tắc như nguyên tắc "Tứ tương" trong múa chèo, luật "Hô ứng tương sinh" trong giao lưu nhân vật sân khấu, quy tắc "Sáu chữ" về tiêu chuẩn diễn viên dùng cho các phường chèo.


                  Tất cả những việc làm của Lương Thế Vinh nhà vua điều biết. Có lần vua cho đòi Lương Thế Vinh tới, hỏi rằng:

                  - Trẫm nghe các phường chèo thán phục sự hiểu biết tường tận của khanh về chèo. Vậy chẳng hay một người như khanh có cần biết hát và biết dùng loại đàn nào không?

                  Đoán được dụng ý của vua, Lương Thế Vinh mỉm cười đáp:

                  - Muôn tâu thánh thượng! Kẻ hạ thần vốn ham mê chèo từ thuở nhỏ nên bản thân biên soạn "Hí phường phả lục" mong các phường chèo xa gần noi theo mà làm, chứ cũng không dám mạo nhận là tinh thông. Ngặt vì phàm muốn biết sâu rộng việc nào thì cũng phải biết làm việc ấy, bởi thế, kẻ hạ thần cũng biết hát, biết đàn sơ qua.

                  Lập tức vua sai gọi phường chèo vào cung diễn một tích ngắn rồi bảo Lương Thế Vinh kéo nhị.

                  Vua chăm chú nghe, thỉnh thoảng gật đầu và khi diễn xong, vua lại hỏi Lương Thế Vinh:

                  - Chẳng hay phường chèo diễn tích vừa rồi có chỗ nào không hợp ý khanh?

                  Lương Thế Vinh đáp:

                  - Người diễn không thể cầu toàn trách bị và người xem cũng cần bỏ qua những sơ xuất nhỏ nhặt. Đó là lẽ thường. Kể như ngụ ý của thần thì tích vừa rồi tuy phường đã dày công luyện tập nhưng cách múa chưa được hoàn hảo.

                  - Khanh nói rõ cho trẫm nghe, vua cắt ngang.

                  - Múa trong hát chèo Lương Thế Vinh phấn chấn tiếp là để cho lời hát cho ý nghĩa, hợp với âm điệu bổng trầm và thần sắc. Lời hát luôn luôn thay đổi. Người sắm vai múa nhiều trong tích chèo vừa rồi tuy đẹp mắt mà trước sau chỗ vui, chỗ buồn, lúc tiến lúc thoái không khác nhau là mấy. Nguyên do là chưa biết tường luật "Tứ tương" trong Múa chèo vậy.

                  Vua đổi giọng vui hẳn lên.

                  - Lời khanh chính hợp ý trẫm. Trẫm đã đọc "Hí phường phả lục" của khanh. Cho khanh xem tích chèo vừa rồi là để nghe lời bình phẩm của khanh đó. Ngừng một lát, vua trầm giọng tiếp, trẫm biết khanh làm việc khó nhọc. Khanh có thỉnh cầu điều gì trẫm sẵn vui lòng.

                  Lương Thế Vinh vội đáp:

                  - Ơn thánh thượng như trời biển, kẻ hạ thần đâu dám nài xin điều gì. Thần chỉ hiềm vì nỗi ít thì giờ.

                  Nghe Lương Thế Vinh nói, vua thầm nghĩ: Con người này bao giờ cũng vậy, không lạm dụng quyền cao chức trọng và lòng yêu của ta để mưu cầu việc vinh thân phì gia. Trái lại, cứ mãi mê với công việc và sống như một viên tiểu quan vậy. Chỉ có một lần vua nhớ lại Lương Thế Vinh làm vua không hài lòng. Hôm ấy, vua và các quan hầu cùng Lương Thế Vinh đi chơi thuyền. Vốn biết Lương thuở bé nghịch ngợm nổi tiếng, lại bơi lội rất giỏi, nên vua giả vờ say rượu, đẩy Lương xuống sông. Không ngờ Lương Thế Vinh rơi xuống sông, liền lặng đi thật xa rồi đến một chỗ vắng lên bờ rồi núp vào một bụi rậm. Vua chờ mãi không thấy Lương lên nên mới hốt hoảng cho quân lính xuống tìm vớt. Nhưng tìm mãi cũng không thấy. Vua hết sức ân hận vì lối đùa quá quắt của mình thì tự nhiên Lương Thế Vinh từ dưới nước ngốc đầu lên cười ngất. Vua ngạc nhiên hỏi mãi, cuối cùng Lương Thế Vinh mới tâu:

                  - Thần ở dưới nước lâu là vì gặp cụ Khuất Nguyên. Cụ hỏi thần xuống làm gì? Thần thưa dối là thần chán đời muốn chết. Nghe qua, cụ Khuất Nguyên tròn xoe mắt mắng thần: "Mày là thằng điên. Ta gặp Sở Hoài dương và Khoảnh Tương vương hôn quân vô đạo, mới phải bỏ nước bỏ dân trầm mình ở sông Mịch La, chứ mày đã gặp được bậc thánh quân minh đế, sao còn muốn chết". Nói rồi cụ đá thần một cái, thần mới về đây.

                  Vua không giận Lương Thế Vinh hóm hỉnh nịnh khéo mình mà giận vì lần ấy vua thưởng cho nhiều vàng lụa mà Lương cố ý chối từ.

                  Chợt nhớ ra ý định của mình, vua trìu mến nhìn Lương Thế Vinh.

                  - Trẫm biết khanh có tài ứng đối, tài soạn thảo, nên trẫm đang muốn giao cho khanh một việc khó nhọc hơn. Bấy lâu nay, do sức ta mạnh mà việc ban giao với các nước được thuận buồm xuôi gió. Song thật là bằng mặt đó mà chẳng bằng lòng. Chiêm thành sợ ta mà phải quy thuận. Nhà Minh ngọt nhạt đó mà vẫn bắt ta triều cống và thường xúi bẩy các bề tôi của ta nơi biên cương mưu gây rối. Giao cho khanh việc lớn là để khanh đền ơn và báo ơn cho trẫm!

                  Ngay ngày hôm sau, Lương Thế Vinh được vua gia phong chức chưởng viện sự kim coi cả Sùng văn quán và cục từ lâm. Lúc đó Lương chẵn bốn mươi tuổi.

                  Hay tin ấy, các quan điều chúc mừng Lương Thế Vinh. Nhưng Lương tỏ ra không ít băn khoăn. Lương băn khoăn vì nhận trọng trách, Lương không còn thì giờ thực hiện hoài bão về nghiên cứu toán học, ý định đã có từ buổi thiếu thời. Nhưng mới được vua gia phong, từ chối sẽ làm vua mất lòng, nên Lương không dám. Ngày tháng trôi đi, bị lôi cuốn vào những công việc bền bộn nên ý định tìm hiểu toán học của Lương cũng sẹp xuống. Vả chăng, tính chất bức thiết của công việc, những bức thư thay vua phải thảo gấp, bản phúc thư đòi hỏi phải đấu trí, phải mềm mỏng nhưng không phải là khuất phục, gởi cho nhà Minh và những buổi đón tiếp sứ, những buổi vào trần tình nghe vua phán truyền, khen, chê, đã lôi cuốn lòng hăng say của Lương như bản chất ưa hoặc động của Lương vậy. Vì lẽ đó, Lương được trên dưới kính nể, người Minh phục là tài giỏi và vua rất yêu mến.

                  Quãng đường làm quan của Lương Thế Vinh thêm dày những trang kỷ niệm đẹp. Ví như lần vua Lê Thánh Tôn đi kinh lý vùng Sơn Nam hạ, ghé thăm làng Cao Hương của Lương, có Lương cùng đi. Hôm đến thăm chùa làng, sư cụ đang tụng kinh thấy vua tới hốt hoảng đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vị sư đưa mắt ra hiệu cho chú tiểu nhặt quạt lên. Nhưng một vị quan tùy tùng của vua đã nhanh tay nhặt cho sư. Vua Lê Thánh Tôn trông thấy liền ra một vế câu đối, rồi trong bữa tiệc hôm đó, thách các quan đối. Vế ấy như sau:

                  "Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ..."

                  Câu này oái oăm ở ba chữ: Sư sử sứ. Các quan đều chịu. Lương Thế Vinh cứ ung dung uống rượu chẳng nói năng gì. Chưa lần nào thấy Lương có thái độ như thế, vua đắc ý bảo đích danh Lương phải đối, với hy vọng Lương sẽ bí.

                  Bị giục giã, Lương cười trừ rồi cho lính hầu về nhà gọi vợ đến. Bà trạng đến, Lương lấy cớ quá say xin phép vua cho vợ dìu mình về.

                  Thấy một người có tài ứng đối sắp chuồn, vua thích chí giục gấp. Lương gãi đầu, gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng:

                  - Dạ! Muôn tâu... Thần... đối rồi đấy ạ!

                  Vua và các quan lấy làm lạ bảo Lương đọc thử xem. Lương cứ một mực: "Đối rồi đấy chứ ạ".

                  Vua gạn mãi, Lương Thế Vinh mới chỉ vào người vợ đang dìu mình, đọc:

                  "Đình tiền túy tửu, phụ phù phu".

                  Vua cười khen và thưởng cho Lương rất hậu.

                  Trong thời gian giữ việc ngoại giao của triều Lê, Lương cũng có nhiều lúc đắc ý. Nhưng đắc ý nhất là những cuộc đón tiếp sứ nhà Minh. Một lần sứ thần của vua Minh là Chu Hy sang chầu vua Lê, nhân tiện thăm dò nhân tài của nước Việt. Vua giao cho Lương Thế Vinh tùy tiện tiếp sứ.

                  Nhân một buổi đi chơi dọc sông Tô Lịch, thấy một con voi lớn. Để thử tài Lương, sứ nhà Minh sai lấy cái cân và bảo Lương Thế Vinh cân xem con voi nặng bao nhiêu. Vốn đã thầm phục tài học uyên bác của Lương Thế Vinh nhưng lần này sứ Minh yên chí sẽ làm nhục được vị trạng nguyên đất Việt.

                  Biết được ý đồ của viên sứ, bất giác Lương Thế Vinh tủm tỉm cười rồi cầm cân, sai quản tượng dắt voi xuống bến sông. Sau khi mời sứ Minh ngồi yên vị trí trên bờ, và như để trả lời cái nhìn lo lắng của những người xung quanh, Lương Thế Vinh cho quân lính ghép nhiều mảng nữa chồng lên nhau rồi sai dắt voi xuống mảng.

                  Sứ nhà Minh và mọi người ngơ ngác nhìn Lương Thế Vinh điều khiển công việc.


                  Voi vừa đứng vững trên mảng thì, theo lệnh Lương Thế Vinh, viên quản tượng lên bờ và đích thân Lương bẻ cây đo độ cao từ mặt thoáng nước đến chiếc mảng bị chìm.

                  Sứ Minh chưa hiểu dụng ý của Lương Thế Vinh thì một hàng lính, theo lệnh Lương sau khi cho voi lên bờ, đã nhanh chóng chuyển những tảng đá lớn xuống mảng.

                  Sứ nhà Minh vẫn chăm chú nhìn Lương bằng đôi mắt dò xét xen lẫn kinh ngạc. Biết thế, Lương đắc ý mỉm cười và hô quân lính làm nhanh tay. Và khi chiếc mảng đã chìm sâu như khi con voi đứng, Lương Thế Vinh cho ngừng chuyển và dùng cân, lần lượt cân số đá chất trên mảng.

                  Chợt hiểu, sứ nhà Minh ngửa mặt lên trời than rằng: "Quả là danh bất hư truyền. Trước khi đi, vua ta đã chẳng từng bảo nhân tài xứ này ít người sánh kịp trạng Lương. Ta đã chẳng lầm lẫn đó sao?".

                  Đợi Lương Thế Vinh trở lại, sứ nhà Minh cung kính đứng dậy:

                  - Xin bái phục! Bản quốc tôi chưa dễ đã có người ăn đứt được tài của quan trạng.

                  Vẫn mỉm cười, Lương Thế Vinh từ tốn:

                  - Dùng một chiếc cân cân một con voi là người xưa đã làm. Ngài đọc chuyện Tam Quốc đã lâu nên quên Tào Thực, con Tào Tháo đã làm cái việc nhỏ đó đấy thôi. Bị Lương Thế Vinh cho ăn đòn theo kiểu lấy "Gậy ông đập lưng ông", Chu Hy tái mặt. Viên sứ nhà Minh bỗng thấy xấu hổ vì trong khi thử tài người khác, lại để lộ sự dốt nát của mình. Hơn thế nữa, lại không biết ngay cả chuyện nước mình bằng viên quan trạng người Việt.

                  Một tháng nay rồi, nhân dân Cao Hương nghe sáo điều đã thành lệ. Cứ về chiều, tiếng sáo điều lại văng vẳng cất lên điều đặn. Những lúc được gió, tiếng sáo vút lên tha thiết, đi vào chiều sâu thẳm của tâm hồn mọi người. Khách qua đường nghe tiếng sáo bất giác ngửa mặt lên trời, thầm cảm ơn chủ nhân của nó khéo tay điều khiển. Còn nhân dân Cao Hương thì yêu tiếng sáo vì nhiều lẽ: Tiếng sáo đã đem lại cho họ sự thanh thản sau một ngày làm việc. Tiếng sáo đã làm rộn lên sức sống của một làng yên tĩnh. Nhưng trùm lên tất cả, họ yêu tiếng sáo bởi vì họ yêu người thả sáo. Trẻ con, người lớn gọi chủ nhân chiếc sáo diều là quan trạng với tất cả lòng thành kính, tự hào của họ. Cùng với chủ nhân của nó, tiếng sáo diều đã làm bừng lên ở Cao Hương nguồn sinh lực mới. Ngay cả đêm tối, tiếng sáo vẫn như vọng về tiếng nói cảm thông an ủi đối với người dân Cao Hương.

                  Nhưng một chiều, trái với lệ thường, nhân dân Cao Hương không nghe thấy tiếng sáo diều của quan trạng Lương Thế Vinh. Mọi người bồi hồi lo lắng đoán già đoán non. Chỉ có đám học trò của Lương là biết được nguyên do.

                  Chiều ấy, theo lệ thường, Lương Thế Vinh vẫn ra chơi quán nước ở hàng bên. Lúc trên đường về, Lương gặp một vụ xô xát giữa hai vợ chồng viên xã quan và vợ chồng một nông dân xã ấy. Lúc Lương đến, viên xã quan đã dùng đòn gánh đánh quỵ người nông dân ngay cạnh đống lúa trên bờ ruộng, còn vợ anh ta thì vừa kêu khóc vừa giành giật từng gồi lúa với vợ viên xã quan, rồi hai người cùng lăn xả vào nhau đánh lộn. Lương Thế Vinh dừng lại can ngăn. Thợ gặt xung quanh cũng dồn lại. Hỏi đầu đuôi câu chuyện, biết rõ là vụ tranh chấp ruộng công và ruộng tư do đo đạc chưa minh bạch. Lương đau lòng lắm. Nhân đó, những người xung quanh cũng tranh nhau nói với Lương tình trạng xô xát do những vụ tranh chấp tương tự gây ra ở các nơi. Không đừng được, Lương quát mắng viên xã quan cậy quyền ức hiếp dân và càng quát mắng, nỗi bực bội càng tăng lên. Chưa ai thấy Lương Thế Vinh cáu gắt như lần ấy.

                  Rồi Lương không về nhà, cũng không thả diều nữa. Một mình Lương lững thững đi dọc theo bờ đê, ngắm nhìn cánh đồng lúa đang giữa mùa thu hoạch.

                  Khi cơn bực qua đi nhường cho nỗi buồn, Lương thấm thía cảm thương vợ chồng người nông dân bị đánh đập. Hơn thế nữa, Lương đau lòng trước thực trạng của xã hội và hối hận vì hơn ba mươi năm làm quan, Lương không hề biết tới thực trạng đó. Lương day dứt không tự tha thứ cho mình lỗi lầm lớn này.

                  Lương đã về hưu. Thực ra thì không phải vì Lương yếu. Lương mới năm mươi lăm tuổi. Lương về hưu vì không chịu được cảnh náo nhiệt của chốn chế đô. Vả chăng, Lương muốn được rảnh rỗi trở về cuộc sống yên tĩnh ở quê hương, làm thêm một việc gì có ích trước khi xuôi tay nhắm mắt. Ý đã quyết, Lương không nghe theo lời nài ép của vua và cũng không nhận quà của vua ban để giữ lòng cho sạch.

                  - Ta sẽ làm gì? Lương tự hỏi, ngay khi mới về hưu vừa vì nể vừa là ý thích, Lương đã nhận lời các bô lão để dạy dỗ con em họ. Nhung nếu chỉ có dạy học thôi, Lương tự thấy còn quá nhàn rỗi. Câu chuyện xô xát được chứng kiến lúc chiều như một gợi ý thôi thúc Lương suy nghĩ.

                  Lương đứng lại dựa mình vào gốc nhãn cho đỡ mỏi rồi lặng lẽ nhìn cánh đồng bát ngát như rải đến tận chân trời. Xa xa, lẫn trong màn sương chiều, dân quê đang hối hả thu dọn để kịp trở về trước khi trời tối. Lương se lòng nghĩ rằng, biết đâu chỗ ấy chẳng đã xảy ra những vụ tranh chấp thương tâm như hồi nãy.

                  Phải ngăn lại sự hỗn độn đó, Lương thì thào nói với mình, sức mạnh từ ý chí bật dậy. Trên đất quê hương, tuổi thơ và ước vọng của tuổi thơ như cùng sống lại. Lương phấn chấn và cảm thấy minh mẫn hẳn lên khi thoáng nghĩ: Toán học có thể giúp cho việc đo đạc ruộng đất được chính xác, ngăn chặn tình trạng xô xát từ đó gây ra. Lương rạo rực mường tượng trình tự của công việc. Vậy là Lương đã quyết. Ý nghĩ viết cuốn "Đại thành toán pháp" bao gồm cách tính diện tích các loại hình của Lương Thế Vinh bắt đầu nảy nở từ đó. Và, cũng từ đó, nhân dân Cao Hương ngày ngày thấy Lương lấy dây rừng làm thước, lấy các thửa ruộng trong làng làm mẫu, say mê ghi chép như say mê dạy học, thả sáo diều vậy. Cái tên "Trạng Lường" nhân dân Cao Hương yêu mến phong tặng càng thôi thúc Lương dốc sức lực làm việc để nhanh chóng hoàn thành công trình nghiên cứu toán học của mình.

                  Đối với Lương, công trình nghiên cứu này không khó nhưng mất công vì phải làm đi làm lại nhiều lần. Ngay cả những loại hình khó tính như hình thang, hình bình hành, hình tròn, Lương cứ cắt nhỏ thành những hình chữ nhật, hình tam giác rồi tính. Trên cơ sở kết quả thu lượm được, Lương tìm ra quy tắt. Tài liệu ghi chép của Lương ngày càng dày. Khi Lương không cần ra đồng làm việc nữa, mà chỉ ở nhà kiêm tra kết quả, là lúc cuốn "Đại thành toán pháp" sắp hoàn thành. Đến lúc giao cho học trò đóng, xén tập sách, Lương nhẩm tính và bàng hoàng thấy gần một năm đã trôi qua.

                  Vùng Cao Hương là nơi đầu tiên ứng dụng quy tắt tính toán trong "Đại thành toán pháp" của Lương Thế Vinh. Trong những ngày này, Lương lại phải thêm một mối bận tâm khác. Bên cạnh việc chỉ bảo viên xã quan tính toán diện tích ruộng đất cho đúng, một vấn đề khác lại đặt ra khiến cho Lương suy nghĩ: Có cách nào giúp cho việc tính toán gọn nhẹ, ít nhầm lẫn không?

                  Xuất phát từ sự thôi thúc đó, sau hơn một năm mày mò tìm hiểu không nản, Lương đã sáng chế ra chiếc bàn tính, một công trình Lương rất đắc ý. Lương sung sướng thấy hoài bão của tuổi thơ đã được thực hiện.

                  Tiếng sáo diều vẫn chiều chiều cất lên ở Cao Hương. Tiếng sáo đã thực sự trở thành nỗi nhớ đối với người dân vùng này từ hơn mười năm rồi. Nghe sáo diều, người ta luôn biết được giờ giấc. Hơn thế nữa, biết được cuộc sống của người ân nhân vui tính, giản dị của họ. Có lẽ vì biết vậy, nên dù có lúc không được khỏe, Lương Thế Vinh vẫn tung bổng cánh diều, say sưa tâm sự với âm thanh quen thuộc đó.

                  Nhân dân Cao Hương yêu mến Lương Thế Vinh. Nhưng yêu hơn vẫn là đám học trò đã và đang học Lương. Cứ đến mùa sen, Lương lại một lần tiễn học trò mình đi thi. Học trò Sơn Nam đến theo học Lương ngày càng đông và không ít người đã thành đạt.

                  Rút bài học từ bản thân mình, Lương rèn cho học trò một cách học thông minh: Khi học ra học, khi chơi ra chơi, không học ngày học đêm một cách sôi kinh nấu sử. Học trò Lương không ai là không biết câu chuyện trước khi thi đỗ trạng của thầy dạy học. Câu chuyện đã lâu mà mỗi lần nhắc lại, đám học trò vẫn háo hức, say mê: Ngày ấy, cách kỳ thi ba tháng, ở nhà buồn Lương Thế Vinh đến thăm Quách Đình Bảo, một học trò cũng nổi tiếng giỏi ở làng Phúc Khê thuộc xứ Sơn Nam Hạ. Mới đến đầu làng Phúc Khê, nhân ghé vào quán hàng nước nghỉ chân, Lương Thế Vinh nghe người ta kháo chuyện với nhau về việc Quách Đình Bảo học ngày học đêm ráo riết lắm. Lương Thế Vinh bàn góp vào, cười mà nói: "Kỳ thi gần đến nơi mà hãy còn cố sức học, anh này chẳng qua cũng chỉ có tiếng hão thôi, chứ trong bụng cũng chẳng có gì uẩn xúc cho lắm". Vinh còn nói thêm: "Tôi cũng định vào thăm bác Quách chơi đây. Nhưng có lẽ cũng chỉ quấy bác ấy mất học, đành về vậy".

                  Lúc Quách Đình Bảo ra chơi hàng, bà chủ hàng kể chuyện lại. Đình Bảo nói: "Người ấy chính là Lương Thế Vinh". Đình Bảo liền sửa soạn hành trang sang thăm Lương Thế Vinh. Đến nơi, Lương Thế Vinh không có nhà. Quách Đình Bảo được người nhà thả diều giấy, nô đùa với trẻ con trong làng. Quách Đình Bảo thất kinh nói: "Thôi, tài học người này ta không tài theo kịp". Nói rồi lủi thủi ra về, không gặp Lương nữa, mà từ đó cũng không dùi mài sách vở khắc khổ nữa. Khoa ấy Lương Thế Vinh đỗ trạng, Quách Đình Bảo đỗ thứ ba.

                  Tuổi ngày càng cao nhưng cũng như cái thích thả diều, hằng ngày Lương Thế Vinh vẫn thường la cà ở các quán nuớc, nhất là quán có cây đa cổ thụ tỏa bóng râm mát cả một vùng rộng ở làng bên. Đối với Lương đó cũng là một cách giải trí có ý nghĩa. Lương Thế Vinh có thể nghe được nhiều điều hay dở để răn dạy học trò, răn dạy người đời và cũng để sửa mình nữa. Đối với việc răn dạy nguời đời, Lương cũng rất hóm hỉnh.

                  Có một lần, vừa từ quán nước làng bên trở về Lương gặp một đoàn người đang thay nhau võng một viên huyện quan, trống kèn inh ỏi. Thấy Lương Thế Vinh không cúi đầu chào, viên huyện quan cho võng dừng lại quát mắng Lương; thậm chí bắt Lương phải vào khiêng quan.

                  Không tỏ thái độ bực bội, Lương Thế Vinh thong thả vào cáng tên huyện quan và nhẫn nhục nghe tên này mắng thêm nhiều điều độc địa.

                  Cáng được một đoạn dài, nhân gặp được một người quen, Lương Thế Vinh xin được dừng lại nghỉ và bảo người đó:

                  - Anh về bảo thằng Thám Bảng, học trò ta ở làng này, ra cáng ngài huyện quan cho ta tuổi già sức yếu.

                  Nghe thấy người đỗ đến Thám Hoa lại là học trò của ông già này, viên huyện quan hoảng hốt, quỳ sụp trước mặt Lương Thế Vinh, cất giọng chua như giấm:

                  - Thưa đại nhân tha tội cho con. Con thực không biết.

                  Thấy viên quan nước da vàng khè như người có chứng đau gan nặng, Lương Thế Vinh bỗng động lòng, nhưng vẫn nói:

                  - Nhà ngươi hãy đứng dậy, đừng có sụp lạy như thế. Ta là thằng Lương Thế Vinh mà ngươi không biết sao?

                  Nghe tên Lương Thế Vinh viên huyện quan tái mặt đi và lại quỳ xuống.

                  - Lạy quan trạng! Con đáng tội chết ạ.

                  Một lần nữa Lương Thế Vinh nhắc viên huyện quan đứng dậy:

                  - Ta chỉ muốn nhà ngươi từ nay trở đi không được hóng hách, sách nhiễu thiên hạ mà thôi.

                  Từ đó viên huyện quan không dám ức hiếp bắt nhân dân võng cáng như trước.

                  Mùa hè năm đó, nhân dân Cao Hương không còn được nghe tiếng sáo diều thân thương nữa. Lương Thế Vinh bị mất sau một trận ốm vài ngày, để lại lòng thương tiếc vô hạn đối với người dân Cao Hương.
                  _________________
                  #9
                    Hoàng Dung 03.02.2006 12:57:00 (permalink)
                    sưu tầm



                    Đức Thánh Tản Viên



                    Trong tâm thức dân gian của người Việt, Tản Viên là một trong bốn vị Thánh bất tử (Tiên Dung Chử Đồng Tử, Gióng, Tản Viên, Liễu Hạnh ). Đây là vị Thánh biểu đạt cho những khả năng to lớn và vĩnh viễn của cộng đồng trong lao động sáng tạo ra nguồn của cải vô tận và trong chiến đấu chống thiên tai (lũ lụt) để bảo vệ cuộc sống chung.

                    Tuy nhiên, đã có hai quan niệm và cách giải thích nguồn gốc của vị Thánh này:

                    - Các học giả thời phong kiến (các sử gia, các nhà trước tác) cho Tản Viên là "hạo khí anh linh của trời đất sinh ra" (Kiều Phú, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc cho "Tản Viên là một trong 50 người con theo cha xuống biển của Lạc Long Quân, Âu Cơ" (Đúng ra thì phải là chắt khoảng đời thứ 19). chàng "từ biển đi vào, qua cửa Thần phù, ngược sông Hồng đến Long Đỗ (Hà Nội), Trấn Trạch, rồi ngược sông Lô, đến Phúc Lộc giang". Từ đấy, " nhìn thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp, lại thêm phía dưới dân chúng thuần phác, thái bình", nên chàng "đã làm một con đường thẳng như kẻ chỉ, từ Bạch Phiên Tân lên thẳng phía nam núi Tản Viên, tới động An Uyên, thì lập diện để nghỉ ngơi" (Trấn Thế Pháp, cũng trong "Lĩnh Nam chích quái", nhưng là một di bản). Các tác giả " Lịch triều hiến chương" (Phan Huy Chú) và "Việt sử thông giám cương mục" ... cũng đều có những quan niệm tương tự.

                    - Trong khi đó theo quan niệm của mọi người, được thể hiện qua các bản thần thích thần phả ở các làng trong vùng Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Tây, Hà Nội, Vĩnh Phú) thì Thánh Tản Viên lại là người có thực, xuất thân từ tần lớp nghèo khổ trong dân chúng.

                    Chúng tôi nhận thấy, quan niệm này phù hợp với những quan niệm chung đã có về các Thánh bất tử trong tâm thức dân gian, bởi vì chính quan niệm ấy đã tạo nên một hình tượng "Thánh Tản Viên" có tính nhất quán và hoàn chỉnh mà nếu so sánh thì cách quan niệm của các học giả thời phong kiến chỉ là rất phiến diện.

                    Dưới đời Hùng Vương thứ mười tám, ở động Lăng Xương bên bờ sông Đà có vợ chồng ông Nguyễn Cao Hạnh, bà Đinh Thị Điên làm nghề đốt than. Đã đứng tuổi rồi mà ông bà vẫn chưa có con, nên đêm ngày mong ước, cầu nguyện có một đứa con trai nối dõi ...

                    Một hôm bà vào rừng kiếm củi, đến trưa thấy nóng bức bèn tìm đến một hồ nước nhỏ ở cạnh để tắm. Nào ngờ đang tắm, bà bỗng thấy một con rồng từ trên cao cũng xà xuống đấy. Thế là bà mang thai, nhưng đến 14 tháng sau, mới sinh ra một đứa con trai trên tảng đá Thạch Bàn (Nay thuộc xã La Phù, Vĩnh Phú). Ông bà vô cùng sung sướng, đặt tên là Tuấn, vì thấy nó mặt mũi trông cũng khôi ngô, sáng sủa.

                    Khi Nguyễn Tuấn lên 6 tuổi thì ông bố già yếu rồi mất. Còn lại hai mẹ con, bà Đinh Thị Điên thấy cảnh làm ăn cơ cực bèn dắt con sang mé chân núi Ngọc Tản (Ba Vì) nương nhờ trong nhà bà họ Ma.

                    Bà họ Ma này vốn là một tù trưởng giàu có. Chồng chết, không có con, nhưng cơ ngơi nhà bà rất lớn, gồm tất cả sông núi, ruộng đất, khe lạch ở vùng Ngọc Tản. Nhà bà lại có rất nhiều gia nhân, đầy tớ và bà cũng là người có saÜn tấm lòng từ bi, đại lượng, nên được mọi người hết sức quý trọng.

                    Lúc đầu, hai mẹ con bà Đinh Thị Điên ở trong nhà bà họ Ma làm gia nhân. Vì bà là người hiền lành, chất phác, lại chăm chỉ công việc, nên được bà họ Ma mến mộ và hay trò chuyện. Chú bé Nguyễn Tuấn, vừa khôi ngô lanh lợi, lại vừa lễ phép, siêng năng, nên cũng được bà hết sức quý mến. Dần dà bà họ Ma nhận Nguyễn Tuấn làm con nuôi, và đối xử với chú hệt như con đẻ.

                    Khi Nguyễn Tuấn đến tuổi trưởng thành thì bà Đinh Thị Điên già yếu rồi qua đời. Chàng ở hẳn với mẹ nuôi, và chăm nom, phụng dưỡng bà chẳng khác nào mẹ đẻ. Lúc ấy, chàng là một chàng trai sức vóc, lại đảm đang, tài tuấn hơn người, nên được bà họ Ma quý mến, tin tưởng, và giao cho cai quản tất cả công việc, từ trong nhà đến ngoài đồng bãi. Ít lâu sau, bà họ Ma già yếu rồi cũng qua đời. Trong lúc lâm chung, trước mặt đông đủ gia nhân, đầy tớ, bà trối trăng lại: giao tất cả sản nghiệp cho con nuôi là Nguyễn Tuấn cai quản. Sau khi làm ma và chôn cất cho bà mẹ nuôi xong, Nguyễn Tuấn nghiễm nhiên trở thành một vị tù trưởng. Tuy nhiên, địa vị này đã không làm cho bản chất của chàng thay đổi.

                    Không như nhiều kẻ nghèo khó sau này, khi được giàu sang thì lập tức quên ngay nguồn gốc xuất xứ, mặt mày vênh vênh váo váo và đối xử tàn nhẫn với đồng loại cứ y như một sự trả thù, trái lại, Nguyễn Tuấn lại là một chàng trai cực kỳ tốt bụng và hay thương người. Trong trang trại, chàng bãi bỏ hẳn chế độ gia nhân, đầy tớ: Từ đây mọi người sẽ cùng ăn cùng làm, còn chàng chỉ là người đứng mũi chịu sào, vừa làm lụng vừa lo toan quán xuyến công việc, mà thôi. Ai siêng năng chăm chỉ được chàng khuyến khích, động viên. Ai khó khăn, cơ nhỡ được chàng chăm sóc, giúp đỡ. Ai chây lười hoặc làm điều gì sai trái thì chàng khuyên nhủ, bảo ban. bản thân chàng là một tấm gương sáng, ai nhìn vào cũng thấy. Do vậy, trong khắp trang trại rộng lớn mà chàng cai quản, mọi người coi nhau như ruột thịt, nhường cơm sẻ áo cho nhau, và tuyệt nhiên không có những chuyện như chây lười, trộm cắp, hoặc chửi bới, gây gổ đánh nhau.

                    Đối với những việc hiếu nghĩa, chàng lại càng đặc biệt coi trọng. Mộ phần của cả ba bố mẹ được chàng thường xuyên chăm sóc gọn gàng, sạch sẽ. Ngày tuần ngày tiếp, ngày kỵ ngày giỗ ... chàng đều đến thắp đèn nhang và dâng lễ vật chu đáo. Trước vong linh của người quá cố, bao giờ chàng cũng đều tóc để xõa, chắp hai tay, khấn vái thật là trang trọng, thành kính.

                    Vào đầu năm mới, hay sau các kỳ thu hoạch lúa, hoa màu và đi săn về, chàng đều cùng mọi người làm lễ tạ trời đất, thổ thần, thổ địa, và cầu mong cho sự yên ấm thịnh vượng đời đời.

                    Lòng thương người của chàng đã làm cho mọi người thật sự cảm phục, kính nể. Còn lòng hiếu nghĩa của chàng thì được mọi người hết sức ca ngợi, noi gương. Tiếng lành đồn xa: những đức tính của chàng được nhiều nơi đến, và đã cảm ứng tới cả đất trời.

                    Một lần, vào đầu năm mới, Ngọc Hoàng Thượng Đế đang cùng triều thần ngồi bàn soạn công việc trần gian ở nơi thượng giới. Chợt thấy mùi khói nhang bay lên từ phía núi Tản. Ngài cho gọi hai vị Nam Tàu Bắc Đẩu lại để hỏi han cho rõ sự tình. Khi được tâu bày, Ngài cảm động, phái thần Thái Bạch Kim Tinh xuống núi Tản để dạy cho chàng chủ trại võ nghệ và các phép thuật thần tiên.Thần Thái Bạch y lệnh, ngay ngày hôm đó xuống trần và ở lại trong thời hạn một năm. Nhờ có thầy dạy võ, Nguyễn Tuấn đã trở thành một người chẳng những võ nghệ cao cường, mà các thuật pháp cũng thực cao siêu chưa từng thấy.

                    Trước khi bay về trời, thần Thái Bạch còn ban cho chàng một chiếc gậy thần có đầu sinh và đầu tử. Một khi đầu sinh chỉ vào người hay vật đang ốm thì lập tức khỏi bệnh, chỉ vào người hay vật đã chết cũng lập tức sống lại. Còn đầu tử thì ngược với đầu sinh, chẳng những người hay vật đang sống phải chết, mà ngay cả núi non cũng phải lở, thành quách cũng phải đổ.

                    Khi đã có thuật pháp và gậy thần trong tay, Nguyễn Tuấn giao nhà cửa, ruộng nương lại cho mọi người, còn mình thì chu du thiên hạ, cứu nhân đôï thế. Bàn chân chàng đặt lên khắp mọi miền quê hương đất nước, chẳng thiếu một nơi nào. Theo địa giới ngày nay, từ Nghệ An, Thanh Hóa trở ra, đến Nam Hà, Hà Tây, rồi Hà Nội, Hà Bắc, Vĩnh Phú ... chỗ nào chàng cũng có mặt . Chàng cứu chữa được rất nhều người, lại bảo ban khuyên nhủ đưọc nhiều kẻ xấu, kẻ ác quay về con đường lương thiện.

                    Vốn tính tình hào hiệp, độ lượng, nên đi đến đâu chàng cũng đều có bạn thân hoặc anh em kết nghĩa. Cao Sơn, Quí Minh ở Tam Nông, Vĩnh Phú, Bảo Công ở núi Sài (Quốc Oai, Sơn Tây), Trần Khánh ở An Duyên (Thường Tín, Hà Tây), Bảo Ngà ở Vụ Bản (Nam Hà), Tuấn Cương, Quế Hoa ở Bạch Hạt (Vĩnh Phú) ... sau này đều là những tướng lĩnh tài ba của Nguyễn Tuấn cả. Còn những người được chàng cứu sống và thân nhân của họ thì nguyện saÜn sàng đi theo chàng để làm bộ hạ thân tín, đã kể như rất đông và nơi nào cũng có.

                    Một ngày kia, trên đường về nhà, chàng đi ngang qua làng Ma Xá, ven sông Tích (huyện Ba Vì), gặp một đám trẻ chăn trâu đánh chết con rắn nước lớn rồi bỏ đi. Chàng lại gần chợt nghĩ rắn nước chỉ quen mò tép thì làm gì nên tội, nên thương tình, cầm đầu gậy sinh chỉ vào cho rắn sống lại. Chẳng ngờ rắn lại là rắn thần, là con cả của Long Vương đội lốt đi chơi xa, nên trong đêm ấy chàng được một vị sứ giả của Long Vương mặc quần trắng áo trắng, lại đội mũ đi giày cũng trắng, đến trao cho một quyển sách ước, để tạ ơn. Chàng vô cùng vui sướng. Nhân dịp trở về nhà sau mấy năm xa cách, chàng đi thắp hương ba cha mẹ, rồi đến thăm hỏi chữa trị cho mọi người trong trang trại, xong, chàng liền mở sách ước, xin một bữa tiệc thật thịnh soạn để tiếp đãi mọi người. Trong bữa tiệc, ai nấy dều vui vẻ, lại được thưởng thức những thứ của ngon vật lạ xưa kia chưa từng có bao giờ, nên chuyện trò cứ vui như mở hội. Cuối buổi tiệc, chàng dứng dậy, nói với mọi người rằng từ nay chàng sẽ đổi tên là Nguyễn Tùng. "Tùng" là cây tùng, chàng giải thích, là bao giờ cũng ngay thẳng quyết chẳng có sự thiên vị nào. Tùng cũng còn có nghĩa là "tòng", là từ nay làm điều gì cũng đều nhất nhất tuân theo lẽ phải và sự công bằng, bởi vì không lẽ, khi đã có gậy thần và sách ước trong tay, lại có thể tùy tiện muốn làm gì cũng được hay sao?

                    Sau bữa tiệc, chàng hỏi han mọi người cách thức làm ăn sinh sống bấy lâu này, rồi mọi người bàn định công việc và giảng giải những cách làm ăn mới mà do đi ra ngoài, chàng đã học được. Từ đấy, chàng ở lại trang trại, cùng làm ăn sinh sống với mọi người. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chàng cũng đi thăm thú và cứu chữa cho dân chúng ở các vùng lân cận. Mọi người do được chứng kiến những gì xảy ra từ các năm trước và gần đây, trong bữa tiệc nên đều một mực còn gọi chàng là "Đức Thánh Tản", là "Thánh Tản Viên", hay còn gọi là"Sơn Tinh" nữa. Và cái tên ấy cứ truyền ra xa, đến tận mọi miền đất nước, và còn mãi, cho đến ngày này ...

                    Chính vào thời gian Sơn Tinh ở chân núi Ngọc Tản cùng mọi người làm ăn sinh sống ấy, thì ở Kinh đô Phong Châu, tại ngã ba Hạc Trì, công chúa Mỵ Nương, con gái yêu của vua Hùng thứ 18, đang cùng nhà vua và các vị đại thần đứng trên lầu cao tuyển kén phò mã ...

                    Vua Hùng thứ 18, hiệu Hùng Duệ Vương, vốn là người thuần phát nhân hậu, nhưng Ngài hiếm hoi chỉ sinh mỗi một cô con gái. Nàng tên là Mỵ Nương, càng lớn lên, nhan sắc lại càng lộng lẫy xinh đẹp.

                    Vua Thục nước láng giếng bấy giờ là Thục Phán, vốn nuôi tham vọng thôn tính nước Văn Lang từ lâu, nay thấy Mỵ Nương đã lớn, bèn sai sứ giả đến cầu hôn. Thục Phán tính rằng: nếu lấy được Mỵ Nương thì sau này khi Hùng Duệ Vương già yếu tất sẽ phải nhường ngôi lại cho con rể, và như vậy thật là một công đôi việc!"

                    Khi sứ giả đến, Hùng Vương có ý phân vân. Mặc dù biết rõ ý định của Thục Phán nhưng nhà vua vẫn muốn gả Mỵ Nương cho, vì nghĩ rằng Thục Phán vốn cùng gốc gác Lạc Long Quân, Âu Cơ, hơn nữa, gả bán như thế cũng là môn đăng hộ đối: Chẳng gì con gái cũng là hoàng hậu của một nước kia mà!

                    Tuy nhiên, đến khi đưa ra để các triều thần tham nghị, thì lại có mấy vị Lạc hầu không đồng tình, cho rằng như thế là mất nước. Một vị đứng lên:

                    - Muôn tâu bệ hạ. Xưa kia ta và Thục tuy cùng chung một gốc, nhưng từ mấy đời nay, biên giới cương vực thật đã rõ ràng. Bệ hạ gả công chúa như thế, chẳng khác nào ta dâng nước không cho Thục. Bệ hạ bao nhiêu năm trị vì đất nước, há không cho rằng tất cả thần dân đều là con cái trong nhà cả hay sao? Vả lại nước ta, đất rộng người đông, hẳn chẳng thể thiếu nhân tài? Nay theo thiển ý của hạ thần, bệ hạ nên kén lấy một người trong nước tài cao đức trọng để làm phò mã cho công chúa. Rồi ra, sẽ tuyển mộ binh mã, củng cố lực lượng. Như thế, cương vực lãnh thổ của ta sẽ được lưu truyền, mà dân chúng đời đời cũng chẳng bao giờ quên ơn Bệ hạ ...

                    Vua Hùng im lặng lắng nghe, rồi gật đầu tỏ ý tán thưởng, và Ngài quyết dịnh thôi không gả Mỵ Nương cho Thục Phán nữa. Theo lệnh Ngài, mấy ngày sau, nội cung và quân lính phải dựng một lầu cao ở ngã ba Hạc Trì, để công chúa kén chồng. Ngài lại cho sứ giả đi khắp trong nước truyền lệnh rằng: Tất cả trai tráng chưa thành gia thất, hễ ai có tài cán gì, hãy cứ đến Hạc Trì để thi thố.

                    Thế là, hầu như tất cả anh tài trong nước đều đã có mặt ở Hạc Trì sau đó. Thật lắm người có tài! Tuy nhiên, đã gần hết một tuần mà chưa có ai lọt vào mắt xanh của nhà vua và công chúa cả. Nhưng đến sáng ngày thứ mười, ngay từ buổi sáng sớm, lại bỗng một lúc, có đến hai chàng trai vào xin ứng tuyển. Một chàng xưng tên là Sơn Tinh, quê ở chân núi Ngọc Tản, còn một chàng xưng tên là Thủy Tinh, quê ở miền biển. Nhà vua nhìn cả hai chàng, thấy đều lực lưỡng, khỏe mạnh và mặt mũi cũng đều khôi ngô tuấn tú. Tuy nhiên, chàng Sơn Tinh thì hiền lành, còn chàng Thủy Tinh lại có vẻ dữ tợn. Nhà vua trong bụng ưng chàng Sơn Tinh hơn, nhưng vẫn bảo cả hai chàng sẽ lần lượt trổ tài của mình.

                    Chàng Sơn Tinh trổ tài trước. Chàng làm lễ bái kiến rồi đi một bài quyền, trông thật đường đường là một võ tướng, một trang phong lưu tuấn kiệt. Xong bài quyền, chàng cầm lấy gậy thần, múa tít, trông bên ngoài chỉ thấy loang loáng như ánh chớp, còn người thì chẳng thấy đâu. Chắc là chàng vừa múa gậy vừa nhẩm sách ước, nên tự nhiên có trái núi hiện ra. Rồi trái núi biến mất, để thay vào đó, lần lượt là đồi đất, rừng cây, khúc sông, cánh đồng ... cho đến cả lâu đài, thành quách. Tất cả vừa thoắt hiện rồi lại thoắt biến, như có phép lạ thần thông vậy ...

                    Nhà vua, các đại thần và công chúa đều vui mừng ra mặt. Còn dân chúng đứng xem thì sung sướng nhảy lên reo hò như sấm dậy, khiến cho chàng Thủy Tinh chân tay bồn chồn, và thái độ giận dữ hiện cả ra bên ngoài. Biết ý, nhà vua phẩy tay cho chàng Sơn Tinh lui ra, thế là ngay lập tức, chàng Thủy Tinh nhảy tới.

                    Chàng vừa nóng vội vừa tức giận đến nỗi quên cả làm lễ bái kiến, mà cứ thế, tay cầm một dãi lụa trắng, múa đi loang loáng. Tài nghệ của chàng quả thực cũng chẳng kém gì Sơn Tinh: Người ta chỉ thấy một vầng hào quang màu trắng, còn người thì dường như đã biến đi mất tăm. Xong bài múa, chàng Thủy Tinh đứng nguyên, tay phất dãi lụa. Thế là, mây đen ở đâu ùn ùn kéo đến, rồi sấm chớp đùng đùng, và mưa đổ nước xuống như trút. Tất cả mọi người đều bị ướt sũng, và tiếng ta thán nổi lên như ong, thế nhưng chàng Thủy Tinh mặt vẫn lạnh băng, lại còn khái chí cười lên khanh khách, như thể vừa trả xong một món nợ thù.

                    Trên lễ đài, nhà vua đứng bật dậy toan nói điều gì. Biết ý, chàng Thủy Tinh lập tức phất mạnh dãi lụa, thế là tự nhiên mưa dứt, bầu trời mặt đất quang đãng như thường.

                    Chẳng biết nhà vua nghĩ gì, nhưng có thể đoán được ý của Ngài định gả công chúa cho ai, qua lời nghiêm phán sau đây:

                    - Ta xe tài năng của hai chàng, thấy đều xứng đáng là rể ta cả. Thế nhưng, ta chỉ có một con gái nên chẳng biết sẽ gả cho ai là hay hơn bây giơ ø ... Thôi hai chàng hãy trở về nhà chuẩn bị đồ sính lễ, nếu ngày mai ai đến trước, ta sẽ gả công chúa cho. Đồ sính lễ quý thế nào ta chẳng biết, nhưng nhất thiết phải có "voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao". Đấy là cái lệ mà các bậc tiên vương từ ngày trước đã định ra, ta đâu dám trái!

                    Nghe thấy thế, cả hai chàng vội hướng lên lễ đài làm lễ cáo biệt, rồi lập tức về nhà chuẩn bị ...

                    Chàng Thủy Tinh tuy pháp thuật cao cường, nhưng vốn xuất thân từ miền biển, nên chỉ có thể kiếm được rất nhiều ngọc trai, đồi mồi, rồi đến tổ yến sào và vàng bạc, chứ voi, ngựa, gà thì chàng bị chậm.

                    Trong khi đó, chàng Sơn Tinh pháp thuật cao cường cũng chẳng kém, lại ở miền rừng núi và có sách ước, nên chỉ trong đêm ấy, mọi thứ chàng đều chuẩn bị xong. Vàng, bạc, ngọc đá các màu tha hồ. Mật gấu, gan tê rồi chim muông lạ và hoa quả quý có đủ. Mọi người trong trại và bạn bè xung quanh kéo đến chỉ việc đóng các thứ vào rương hòm, rồi cho lên xe và lùa voi, ngựa đi cho đúng hướng mà thôi.

                    Mờ sáng hôm sau, đoàn rước dâu của Sơn Tinh đã có mặt tại Kinh đô Phong Châu. Chàng vào làm lễ ra mắt, được vua Hùng đón tiếp nồng hậu và nhận làm con rể. Ngay sáng hôm đó, sau khi tiến hành xong các nghi lễ, chàng Sơn Tinh đưa công chúa Mỵ Nương trở về núi Tản.

                    Đoàn rước dâu của Thủy Tinh, từ cửa sông Hồng đi ngược lên, rồi vào sông Đà đến miền Phong Châu. Các rương hòm đựng đồ sính lễ nổi bập bềnh trên mặt nước do bọn ba ba, thuồng luồng vừa đội vừa bơi. Sóng lớn đập vào hai bên bờ, như đang xảy ra bão lớn. Chàng Thủy Tinh định bụng, sau khi lên bờ sẽ đi tìm bắt voi ngựa, gà ...

                    Nào ngờ, khi chàng cùng đoàn bọn họ ngược lên vùng núi Tản, đã thấy đoàn rước dâu của Sơn Tinh trở về. Chàng điên tiết thét toáng lên một hồi, làm cho đám thuộc hạ sợ quá lặn sâu xuống nước, các rương hòm vì thế liền bị chìm nghỉm. Vô cùng tức giận, chàng giật phắt dãi lụa vẫn quấn tròn trong túi áo, rồi vung lên, vừa múa vừa phẩy xuống liên hồi, làm cho sấm chớp nổi lên đùng đùng và mưa đổ nước xuống như trút. Nước sông Đà dâng cao, rồi dâng cao mãi. Chẳng mấy chốc, cả một vùng quanh núi Tản , chỉ thấy mênh mông những nước ...

                    Chàng Sơn Tinh rước dâu về đến nhà, định dựng rạp mở tiệc ăn mừng thì bỗng đâu cơn mưa ập tới. Rồi mưa mỗi lúc một to và nước dâng lên cao, khiến chàng phải đưa Mỵ Nương và mọi người trèo ngược lên các đỉnh núi. Từ đỉnh núi, chàng thấy cơ man nào là giải, mập, ba ba, thuồng luồng, đang lũ lượt bò lên. Lại nghe thấy cả tiếng của Thủy Tinh vang rền lên như sấm, hò hét bôï hạ xông vào. "À, hóa ra Thủy Tinh đánh đòn ghen định cướp Mỵ Nương đây. Được! Ta sẽ cho chúng biết thế nào là nghĩa lý".

                    Chàng liền mở sách ước, đọc đến đâu thì thấy từng dãy đồi núi hiện ra, làm cho mức nước bị chặn ngay lại. Rồi chàng múa gậy thần, nhảy từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, lại quay đầu gậy chỉ vào đám giải, mập, ba ba, thuồng luồng, làm cho chúng quay ra chết, xác chồng lên xác, rơi trở lại, và trôi lềnh bềnh trên mặt nước sông Đà, do nhiều quá, đã làm một khúc sông bị tắc nghẽn lại.

                    Vừa đau đớn, vừa căm giận đến tím ruột, bầm gan, chàng Thủy Tinh vừa liên hồi quát lên những tiếng sấm hối thúc quân lính, vừa hóa phép, dùng lưỡi tầm sét và những luồng chớp nhằm vào Sơn Tinh mà đánh. Nhưng làm sao đánh trúng được Sơn Tinh! Gậy thần của chàng làm cho lưỡi tầm sét của Thủy Tinh bị bật văng ra xa, chỉ thấy vô số cây cối bị đổ, đất đá sụt lở, rơi xuống nước ầm ầm, còn chàng thì vẫn bình an vô sự.

                    Quân lính của Thủy Tinh càng xông lên bao nhiêu lại càng bị chết bấy nhiêu. Nước mưa của Thủy Tinh càng làm dâng lên thì càng bị đồi núi của Sơn Tinh chặn lại và đồi núi cứ vươn lên, cao hơn mực nước. Rồi chàng vừa hóa phép, vừa cùng mọi người xây đắp cho đồi núi kết thành một dải, hiên ngang và vững chãi như lũy như thành, bủa vây luồng nước và quân lính của Thủy Tinh, chỉ còn để cho một đường rút lui duy nhất là lui ra biển. Cả một vùng rộng lớn, còn lại đến bây giờ, nào núi Chẹ, núi Đùng, rồi núi Mom, gò Cháy, ... đều là những đồi núi do Sơn Tinh và mọi người xây đắp, để chặn luồng nước của Thủy Tinh!

                    Nhưng chàng Thủy Tinh đâu có dễ dàng cam chịu thất bại như vậy. Chàng vừa tung những lưỡi tầm sét cá hiểm, vừa cất giọng ồm ồm tập dợt quân sĩ ở Đầm Đượng (Ba Vì) để củng cố lực lượng. Chàng Sơn Tinh cùng mọi người lập tức tiến đến, dùng chông đá, lưỡi sắt vừa chặn lối, vừa bủa vây. Một trận đánh kinh hàng diễn ra ở đây. Cuối cùng quan của Thủy Tinh thất bại, phải chia ra làm 16 ngã để rút chạy.

                    Khi tàn quân chạy về đến xã Minh Quang, chàng Thủy Tinh cho quân lính đào Ngòi Lạt, dẫn nước từ sông Đà vào để đánh úp Sơn Tinh ở phía sau núi Tản. Lập tức Sơn Tinh cho mỗi người một cái lạt, rồi cùng ném xuống đấy. Thế là trong chớp mắt, lạt đã biến thành tre, rồi tre liên kết với nhau thành từng lũy dày đặc, ngăn dòng nước của Thủy Tinh.

                    Quân lính sống sót của Thủy Tinh chạy đến xã Tản Lĩnh, ở đó có một hồ nước lớn. Thủy Tinh cho hội quân, gọi là ao Vua. Nhưng ngay sau đó, Sơn Tinh cùng mọi người đã có mặt. Mỗi người cầm một nắm hạt mây rắc xuống xung quanh hồ, và cũng chỉ trong chớp mắt, một rừng mây hiện ra, trùng trùng lớp lớp, vây chặt quân lính của Thủy Tinh vào giữa.

                    Những tên lính gan góc, liều lĩnh nhất của Thủy Tinh, mặc dầu sầy vẩy, bầm da, hay toạc đầu, gãy vây, vẫn liều chết chui qua đám gai mây nhọn sắc, vượt ra đến ngoài sông Đà. Khi đến Đầm Gà ở huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình), đang trong đêm tối, Thủy Tinh định củng cố lực lượng phản công thêm một lần nữa, nhưng lại nghe thấy tiếng vỗ tay rồi tiếng gà gáy của Sơn Tinh, chàng ta tưởng là trời sáng, nên hoảng sợ, bèn vội vàng cho quan lính giải tán, mỗi tên mỗi ngã, cùng bơi đi thục mạng. Tàn binh cuối cùng của Thủy Tinh xuôi theo sông Đà, ra sông Hồng, tản đi các ngã, hoặc đi mãi ra biển ... và thế là chấm dứt trận đầu giao phong giữa hai chàng Sơn Tinh và Thủy Tinh.

                    Mặc dù Thủy Tinh biết rằng yêu thuật và bộ hạ của mình chẳng những không hạ thủ được Sơn Tinh, cướp được Mỵ Nương, mà trái lại, còn phải chuốc lấy thất bại thảm hại. Nhưng chàng ta vẫn nuôi mối ghen tức và lòng thù hận đến mãi muôn đời.

                    Năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng tháng sáu, tháng bảy và tháng tám âm lịch khi có khi muộn hơn hoặc sớm hơn một tháng, chàng lại nổi cơn thịnh nộ, gào thét vang trời rồi làm mưa làm bão xuống địa bàn mà chàng Sơn Tinh cùng đồng bào của chàng đang sinh sống. Vì vâïy, năm nào cũng như năm nào, các con cháu chút chít, hậu duệ của chàng Sơn Tinh, đều phải cùng nhau tập hợp lại, xây đắp và củng cố những con đê cao ngăn chặn dòng nước lụt mà chàng Thủy Tinh cố tình gây hại. Chẳng có năm nào Sơn Tinh thất bại, cũng như chẳng có năm nàoThủy Tinh thất bại hoàn toàn. Chính vì vậy mà các hậu duệ của chàng Sơn Tinh sinh sôi phát triển đông đàn dài lũ, có rất nhiều cánh đồng phì nhiêu, làm ra những nguồn của cải vô cùng vô tận, để duy trì nòi giống của mình.

                    Thế nhưng, cũng có năm, do chểnh mảng không đề phòng kỹ lũ mối cánh, tay sai tận tụy của Thủy Tinh, nên đã có một hoặc vài đoạn đê bị vỡ, để cho nước lũ của Thủy Tinh tràn vào đồng ruộng, gây ra thiêït hại. Tuy nhiên, đấy chỉ là những thất bại nội bộ. Tựu trung, con cái cháu chắt của Sơn Tinh, vẫn đời đời chiến thắng Thủy Tinh.

                    Sơn Tinh cùng Mỵ Nương tuy phải hàng năm chống đỡ với Thủy Tinh, nhưng họ vẫn sống yên ổn và hạnh phúc ở núi Tản. Con cái cháu chắt của họ rất đông, tỏa ra các miền xung quanh, và đến sinh sống cả ở nhiều miền xa xôi khác nữa. Người con gái đầu tên gọi La Bình, lúc nhỏ thường được bố cho đi thăm thú các nơi. Đến tuổi trưởng thành, La Bình trở thành một phụ nữ tài giỏi và thông tuệ khác thường. Khi Sơn Tinh, Mỵ Nương về già, được Ngọc Hoàng thượng đế triệu về Thiên đình, trao cho phép trường sinh bất tử, trông nom nhiều công việc giúp Ngài, thì La Bình ở lại, cũng được ban phép trường sinh, trở thành bà Chúa Thượng ngàn, trông nom tất cả 81 cửa rừng của nước Nam ta ...

                    Nhưng đó là chuyện về sau ...

                    Còn lúc bấy giờ, khi vừa chiến thắng xong Thủy Tinh hiệp đầu thì cũng vừa lúc hay tin Thục Phán điểm binh mã sang đánh Văn Lang. Thục phán hiện đang là vị vua trẻ tuổi, dũng mảnh can trường và đầy duệ khí. Nhưng đấy cũng là một người nông nổi, sau này sẽ để mất nước về tay Triệu Đa ø ... Khi quân của Thục Phán rầm rầm tiến đến Phong Châu, vua Hùng phải tức tốc triệu hội Sơn Tinh về Kinh, giao cho cầm quân chống Thục. Mặt khác, nhà vua cũng cho sứ giả đi khắp nước, truyền lệnh tòng quân. Chỉ trong vòng một tuần, số quân lính đã đông tới hàng vạn. Các bè bạn cũ và anh em kết nghĩa của Sơn Tinh cũng có mặt. Sơn Tinh giao cho Cao Sơn, Quí Minh hai người anh em kết nghĩa tài ba nhất, chỉ huy đạo quân tiên phong, còn tự mình đi thống lĩnh trung quân. Các tướng: Bảo Công chỉ huy tả quân, Trần Khánh chỉ huy hữu quân, tỏa ra hai gọng kiềm, còn các tướng khác, vốn là họ hàng con cháu vua Hùng, như Lang Bút, Lang Mao, Lang Lôi ... được giao cài chông, đặt bẫy phục kích quân Thục.

                    Khi quân của Thục Phán tiến vào Phong Châu thì thế trận của Sơn Tinh cũng bày đặt xong. Ý định của Sơn Tinh là đánh cho Thục Phán một trận thua nhớ đời, không còn bao giờ dám đem quân tới xâm lấn nữa. Vì vậy, chàng đã không mở sách ước và gậy thần ra, bởi vì nếu không, Thục Phán và quan quân đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi.

                    Tuy vậy, trận chiến đấu giữa hai bên vẫn cứ diễn ra vô cùng dữ dội. Lúc đầu, quân Thục chạm trán với đạo quân tiên phong của Cao Sơn , Quí Minh đã bị tổn thất khá lớn. Về sau, khi gặp trung quân của Sơn Tinh thì hoàn toàn bị núng thế, Thục Phán phải vừa đánh vừa rút lui. Sau một hồi, các cánh quân khác của Sơn Tinh cũng đồng thời ập tới bao vây.Thế là quân Thục Phán đại bại, Thục Phán phải mở đường máu mới khỏi bị bắt làm tù binh. Quân Sơn Tinh tiếp tục truy đuổi. Tuy không bắt được Thục Phán nhưng cũng bắt được hai tướng là Hùng Nỗ và Đà Gia, sau khi đuổi vào đến tận làng Hội Thống (thuộc Nghi Xuân Hà Tĩnh ngày nay).

                    Cuộc chiến tranh Hùng Thục chấm dứt, Thục Phán phải cầu hòa, từ đấy vĩnh viễn từ bỏ ý đồ xâm lược. Sơn Tinh được vua Hùng hết sức quý mến, rồi nhà vua quyết định nhường ngôi cho chàng, vì cảm thấy mình đã già yếu. Từ chối mãi không được, cuối cùng Sơn Tinh đành phải nhận lời ...

                    Sau khi lên ngôi trị vì đất nước, Sơn Tinh hết lòng chăm lo đến đời sống của dân chúng. Tuy nhiên, do bận nhiều công việc triều đình, nên chàng cũng không trực tiếp đến được nhiều nơi. Rồi lại còn phải lo chống những toán giặc nhỏ hay sách nhiễu ở các vùng biên giới, như giặc Hồ Xương, giặc Hồ Tôn, giặc Man và giặc mũi đỏ. Dưới thời chàng trị vì, đất nước luôn được thái bình và như thế, kéo dài suốt ba năm ...

                    Vốn bản tính không thích làm vua mà chỉ muốn sống cuộc đời dân giã, nên khi nghe trong đám Lạc hầu LaÏc tướng dòng dõi các vua Hùng, có người dị nghị, cho rằng chàng không phải Hoàng tộc mà cũng được làm vua, thì chàng hoàn toàn tự ái, một mực đòi trả lại ngôi báu cho vua Hùng thứ mười tám.

                    Không thuyết phục được Sơn Tinh nên nhà vua lại đành phải vời các triều thần đến để thương nghị. Sau khi bàn soạn kỹ lưỡng, mọi người cho rằng nên nhường ngôi cho Thục Phán là hơn. Thục Phán tuy có ngông ngạo gây chiến, nhưng dù sao cũng là cháu chắt của các vua Hùng và nay cũng đã biết hối lỗi rồi.

                    Sau khi nhường ngôi báu cho Thục Phán, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương lại trở về vùng núi Ngọc Tản. Vua Hùng thỉnh thoảng cũng về đấy ở với con rể và con gái. Còn Thục Phán sát nhập hai nước Thục và Văn Lang thành nước Âu Lạc, rồi xưng An Dương Vương. An Dương Vương lúc đầu xây dựng cung miếu ở vùng núi Nghĩa Lĩnh (Vĩnh Phú), sau đó một thời gian mới chuyển xuống Loa Thành (Đông Anh, Hà Nội). Để ghi nhớ sự kiện Sơn Tinh nhường ngôi cho mình, và cũng để tỏ lòng biết ơn, An Dương Vương cho lập ở Nghĩa Lĩnh một cột đá thờ rất lớn, rồi tới các ngày tuần tiết, đều tự đến đây thắp đèn hương dâng lễ vật và đọc lời thề nguyện.

                    Sau khi nhường ngôi, Sơn Tinh cùng Mỵ Nương trở lại vùng núi Tản, lúc ấy họ còn rất trẻ. Vừa lo xây dựng kinh tế và chăm sóc đời sống của các thành viên trong trang trại, Sơn Tinh vẫn còn nhiều thời gian để đi thăm thú các vùng xung quanh. Đi đến đâu chàng cũng mang những điều hiểu biết của mình, do thu thập được ngay từ hồi trai trẻ chưa lấy vợ, để chỉ bảo cho dân chúng.

                    Đến vùng Cẩm Đái (huyện Ba Vì) chàng rất ngạc nhiên thấy mọi người ở đây vẫn còn chưa biết cách lấy lửa, do vậy vẫn đang phải sống trong cảnh tối tăm. Sơn Tinh cho gọi tất cả các cụ già thổ dân lại, rồi bày cho họ cách lấy lửa như thế nào.

                    Trước các cặp mắt sững sờ và đầy thán phục của các cụ, chàng làm các động tác thật chuẩn xác và điêu luyện, khiến cho từ đấy mọi người cứ một mực gọi chàng là thần và thưa bẩm thật là cung kính. Sự thực thì những động tác này cũng khá đơn giản và ai học xong cũng đều có thể làm ngay được.

                    Trước hết, cần có một đống bùi nhùi khô và hai ống nứa hay hai ống giang già cũng thực khô. Đặt hai ống vào giữa đống bùi nhùi rồi kéo nhanh chúng cọ xát vào nhau vài lần, thế là thành lửa!

                    Đến vùng rừng Mãng (nay là xã Sơn Đông, Ba Vì) Sơn Tinh thấy đám đông thợ săn đang chạy theo một con thú. Người ném đá người phóng lao, rồi reo hò vây đuổi mà cũng không bắt được nó. Con thú chạy nhanh quá. Chàng gọi mọi người lại, bày cho họ cách làm hầm đặt chông rồi ngụy trang ở trên hoặc gài bẫy để bắt các loại thú lớn. Đối với thú nhỏ hoặc gà rừng, công phượng ... thì cũng gài bẫy đặt mồi hoặc căng lưới để bủa vây mà bắt khi chúng bị sa lưới.

                    Khi qua vùng sông Tích. Thấy cả môït vùng rộng lớn đất đai phì nhiêu (nay là xã Liệp Tuyết, Quốc Oai) mà tịnh không có cây lúa nào, chỉ thấy lau lách mọc đầy. Sơn Tinh cho gọi dân làng lại, bày cho họ cách đắp bờ giữ nước rồi phát hoang cỏ dại. Tiếp đến, chàng lại cho họ một ít hạt giống dao mang theo saÜn bên mình, và bày cho họ cách gieo mạ. Đến khi mạ lên xanh, chàng lại cho họ làm theo mình: nhổ mạ rồi chia ra từng vài dảnh một, cấy xuống các thửa ruộng đã be bờ, vơ cỏ, cày cuốc trước kia.

                    Đến mùa thu hoạch, dân làng cho người đi mời chàng đến để dự tiệc mừng. Thấy mọi người chỉ biết ăn uống và chuyện trò, cười đùa không có trò vui nào cả, Sơn Tinh gọi trai gái làng lại, bày cho họ cách múa hát. Trước khi về nhà, chàng lại dặn hàng năm cứ đến sau kỳ thu hoạch thì lại mở hội và múa hát mừng mùa như thế này. Lâu dần rồi thành lệ, bây giờ ở đấy gọi là hội múa Rô.

                    Cũng ở vùng sông tích, nơi mà Sơn Tinh vẫn thường hay qua lại, tôm cá có rất nhiều, nhất là vào những tháng lũ lụt, nước sông dâng lên cao. Bấy lâu, dân chúng trong vùng này mới chỉ biết mò cá bằng tay hoặc cùng lắm dùng nom để úp. Sơn Tinh, cho biết cách kiếm cá bằng lưới đan của người vùng biển, nên đã bày lại cho dân ở đây. Trước hết chàng bảo mọi người đi tìm cây gai là loại cây có ỏ mềm và dai về trồng. Đến kỳ cây lớn, chàng bảo họ tước lấy vỏ cây và xé nhỏ ra thành những sợi nhỏ và bền. Đem đan các sợi này vào nhau tạo thành các loại vó và lưới, sẽ đánh bắt được nhiều cá.

                    Nhờ các loại lưới và vó ấy của Sơn Tinh mà dân ở vùng sông Tích đánh bắt được rất nhiều cá các loại. Sau này, để tưởng nhớ công ơn của chàng, ở vùng này có tục đánh cá thờ hàng năm để cúng. Tất nhiên, đấy phải là các loại cá quý hiếm và thật lớn, bởi vì lòng thành kính đòi hỏi phải được biểu lộ ra như vậy.

                    Công ơn dạy dân biết thêm nhiều nghề mới để sinh sôi phát triển của Sơn Tinh kể ra còn thêm nhiều nữa, mà trên đây là một ví dụ.

                    Ở khắp vùng truyền thuyết Sơn Tinh, chỗ nào cũng thấy ghi công đức của chàng, và lưu truyền đến tận ngày nay.

                    Lại kể về nàng Mỵ Nương, vợ của chàng Sơn Tinh khả kính, cũng là người đã để lại nhiều công đức với dân chúng và được lưu truyền.

                    Ấy là việc nàng dạy cho các bà các cô trong vùng núi Tản quê chồng biết nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa, để may quần áo. Trước đó, nghề này mới chỉ lưu truyền ở vùng Phong Châu, vốn là Kinh đô của nước Văn Lang cũ. Đây là nghề tuy rất thiết yếu, nhưng chỉ các bà Hoàng hậu, công chúa và cung tần thân tín mới được chỉ dẫn cách thức và các bí quyết hành nghề. Lụa là, do vậy, mới chỉ được dùng trong hoàng tộc và nhà các đại thần (Lạc hầu, Lạc tướng), còn dân chúng và quân lính chỉ mới biết dùng các loại vải bằng xô gai lấy từ vỏ cây mà thôi.

                    Mỵ Nương vốn là nàng công chúa của vua cha và hoàng hậu, nên ngay từ bé đã rất thành thạo nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa. Nàng dạy lại cho các bà các cô ở vùng này biết được ghề đó. Những nương dâu bạt ngàn mọc lên ở ven sông. Nhà nào cũng có người chăn tằm, dệt lụa. Lụa ở vùng này, ngay từ thời đó, đã nổi tiếng khắp cả nước. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", hàng năm Mỵ Nương đều cho chọn một vài xúc lụa đẹp nhất, để đưa về Kinh, cung tiến vua cha và hoàng hậu.

                    Dân chúng trong vùng vốn chăm chỉ, lại thấm nhuần sâu sắc ý thức ơn nghĩa, nên vẫn duy trì đến mãi sau này hội tiến lụa có từ thời Mỵ Nương vậy. Đám rước diễu hành theo thứ tự: Một người đầu mang nong ké, vừa đi vừa múa hát. Theo sau là những cô gái óng ả mặc toàn đồ tơ lụa, tay cắp rổ lá dâu, cũng vừa đi vừa múa hát. Thứ đến là một chiếc kiệu chất đầy lụa quý, do16 chàng trai lực lưỡng ăn mặc đẹp đẽ, khiêng. Dân chúng theo sau, vừa đi vừa reo hò để hôï tống.

                    Sự tích, và nhất là công đức của Sơn Tinh Mỵ Nương đến nay vẫn còn được lưu truyền và in rất đậm trong tâm thức dân gian của người Việt. Cả một vùng truyền thuyết rộng lớn với nhiều nghi lẽ hội hè đã nhắc lại quá khứ vinh quang của hai ông bà. Ngoài danh vị " Thánh bất tử", hai ông bà còn được tôn xưng là "Đệ nhất danh sư" trong "Bách nghệ tổ sư" của nước Nam ta.

                    Cao Biền là viên quan cai trị gian ngoa xảo quyệt, biết thiên văn địa lý lại tinh thông tướng số. Khi vua Đường sai sang dẹp quân Nam chiếu rồi ở lại làm Tiết độ sứ (866 - 874), y đã từng đi khắp nơi trong nước ta, thấy chỗ nào "địa linh" là tìm cách yểm bùa để diệt "nhan kiệt". Pháp thuật của y là bắt một người con gái mười bảy tuổi chưa chồng, đem mổ bụng vứt ruột đi, rồi lấy cỏ bấc nhồi vào, đoạn, mặc quần áo cho tử thi, đặt ngồi trên ngai. Y đem các thứ đó đến huyệt định yểm, rồi tế bằng trâu bò và đọc thần chú. Hễ khi thấy tử thi động đậy, tức là thần linh ở đấy đã nhập vào tử thi, là y dùng kiếm chém đầu để diệt, tức là đã trừ yểm xong.

                    Khi đến chân núi Tản Viên, y cũng làm như thế, vì biết ở đây có vị thánh bất tử linh thiêng vào bậc nhất của nước Nam. Nhưng khi tế lễ, đọc thần chú, bắt quyết ... Biền thấy tử thi cứ trơ trơ ra chẳng cử động gì.

                    Đấy chính lúc Thanh Tản Viên cưỡi ngựa trắng ngồi trên mây bay ngang qua, nhìn thấy. Để tỏ ý khinh bỉ trò khôi hài của Biền, Ngài bèn nhổ xuống một bãi nước bọt, rồi bỏ đi, không thèm nói năng.

                    Cao Biền thấy vậy cả sợ, bèn dẹp ngay trò quỷ thuật lại, rồi than rằng: "Linh khí phương Nam không thể lường được. Vượng khí ở đây không bao giờ dứt. Ta phải về thôi". Về sau, quả nhiên Cao Biền được lệnh phải triệu hồi về nước, rồi chết sau đó mấy tháng.
                    _________________
                    #10
                      Hoàng Dung 03.02.2006 13:00:27 (permalink)
                      sưu tầm


                      Mẫu Thoải


                      Ở điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, đều giống nhau ở gương mặt, tư thế ngồi, và chỉ khác ở trang phục, thì ở bên phải là Mẫu Thượng ngàn, ở giữa là Mẫu Liễu, còn bên trái là Mẫu Thoải.

                      Sau đây là truyền thuyết về Mẫu Thoải.

                      Mẫu Thoải là Mẫu ở miền sông biển. Thoải tức là Thủy, do đọc trệch. Mẫu thường mang trang phục màu trắng.

                      Có thuyết nói Mẫu là vị thần lưỡng tính. Lưỡng tính với cái nghĩa: Mẫu là phụ nữ, nhưng được Ngọc Hoàng Thượng đế ban tặng cho sức mạnh và tài năng, nhất là tài sông nước, như ở nam giới.

                      Mẫu là vợ của vua Thủy Tề, là Hoàng hậu ở dưới Thủy cung.

                      Vua Thủy Tề trông coi các việc ở biển, còn Mẫu trông coi các việc ở sông, ở suối. Sông, suối có ở các nơi nên mẫu cũng có mặt ở các nơi, tại các bến sông lớn ...

                      Ở làng Viêm Xá, huyện Yên Phong, tỉnh Hà Bắc, đã thờ Mẫu là Thần Thành hoàng, vì làng này xưa kia chuyên nghề sông nước, nổi tiếng khắp vùng. Sắc thượng phong của Mẫu có đề "Nhữ Nương Nam nữ Nam Hải Đại Vương", chính là vì lẽ đó.

                      Cũng có thuyết nói Mẫu, không phải một, mà là ba. Ba mẫu này là con gái của Lạc Long Quân và Âu Cơ, hai vị thủy tổ khai sáng của nước Văn Lang.

                      Vua hùng thứ nhất, là con trai trưởng của Lạc Long Quân, Âu Cơ, bắt đầu lên ngôi trị vì thiên hạ. Còn trước đó Lạc Long Quân, Âu Cơ đã chia hai ngã, " 50 người con theo cha lên núi, 50 người con theo mẹ xuống biển", như sử sách ghi chép. Và Hùng Vương thứ nhất là trong số những người con theo cha và lên làm vua, ở miền rừng núi và trung du.

                      Ba người con gái, trong số " 50 người con theo Âu Cơ xuống biển" ấy, được chọn để cai quản công việc về sông nước: Chế tạo thuyền bè, đan các thứ lưới bắt cá, trông coi các luồng lạch và chế ngự các vị thần mưa, thần gió mỗi khi các vị này lạm công, xâm hại đến hạ giới. Đó là công việc hàng ngày của ba Mẫu Thoải này.

                      Ba Mẫu còn có phép thần thông biến hóa, xua đuổi và tiễu trừ yêu ma, thủy quái mỗi khi chúng đến sách nhiễu hoặc tàn sát ngư dân.

                      Ba Mẫu đặt đại bản doanh ở sông Nguyệt Đức, chia nhau mỗi người một phần công việc. Dưới quyền các mẫu còn có các thủy thần và các tướng lĩnh, quân sĩ, sẵn sàng chờ lệnh.

                      Mẫu thứ nhất có tên hiệu là "Thủy Tinh Đông Đình Ngọc Nữ Công Chúa".

                      Mẫu thứ hai có tên hiệu la "Hoàng Ba Đoan khiết Phu nhân".

                      Còn Mẫu thứ ba có tên hiệu là "Tam giang Công chúa".

                      Trong sử sách của các thời trước, chỉ ghi chép kỹ các sự kiện chống giặc,và chính yếu là tuyên dương công trạng của các vị vua chúa, tướng sĩ. Cả các việc trong cung vua phủ chúa cũng được ghi chép kỹ càng, vì quan niệm đấy là Ngọc phả. Còn về chuyện làm ăn sinh sống của dân chúng, thường chỉ được ghi rất sơ sài. Cả những sự khốn khó, những nỗi tai ương mà dân chúng phải gánh chịu, cũng chỉ ghi rất qua loa, đại khái.

                      Tuy vậy,những sự khốn khó, những nỗi tai ương ấy, như những trận bão lụt khủng khiếp thì chẳng những dân chúng mà cả vua chúa cũng phải hứng chịu, cho nên sử sách cũng đã ghi chép về các sự kiện loại này. Chính vì thế, đến ngày nay chúng ta còn được biết những sự kiện có liên quan đến mẫu Thoải khi trước.

                      Khi Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về Thăng Long thì miền đồng bằng Bắc bộ thường xuyên có nạn lũ lụt. Vị vua khai sáng của nhà Lý đã bắt tay ngay vào công việc trị thủy. Công việc tiến hành phải đến đời vua sau, đời Lý Thái Tông, mới căn bản xong: Các khúc đê được nối vào nhau và có quy môgần như ngày nay. Trong những năm tháng đang tiến hành công việc đắp đê ấy, nạn lụt vẫn thường xảy ra. Chính vì vậy, mẫu Thoải đã phái các thủy thần, tướng lĩnh của mình đến các làng ven kinh thành Thăng Long để âm phù, giúp dân đắp đê chống lụt. Đó là các làng Nhật Chiêu, Quảng Bá, Tây Hồ, Yên Phụ ... mà đến nay, thần thích vẫn còn ghi lại.

                      Đến thời Lê, ở niên đại Vĩnh Thọ, nước sông Hồng dâng lên rất cao, tràn cả vào Yên Phụ. Nhà vua phải thân hành làm lễ Nam giao ( Lễ tế cáo trời đất), và các mẫu Thoải cũng lập tức ứng hiệu. Các mẫu đã âm phù giúp dân chống lụt và xua đuổi bè lũ thủy quái.

                      Đời Lê Thánh Tông, nhà vua thống xuất quân sĩ đi đánh Chiêm thành, khi thuyền đi qua vùng Phú Xuyên, Kim Bảng thì một trận cuồng phong hung dữ nổi lên. Vua lập tức sai dọn đàn tràng để cầu xin các vị thần thánh. Mẫu Thoải hay tin, phái Nguyệt Nga công chúa đến giúp, thế là bão tan. Khi thắng trận trở về, nhà vua nhớ công ơn, sai đại thần đến tế lễ và mang sắc phong của nhà vua đến phong tặng Nguyệt Nga công chúa.

                      Đấy là một vài sự kiện sử sách còn ghi lại và mọi người ở một vài địa phương đã thờ Mẫu Thoải làm Thần Thành hoàng, như ở phần trên đã nói. Còn ở các nơi khác, thì thờ Mẫu ở các điện vì Mẫu đã có mặt để âm phù ở khắp mọi nơi.

                      Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước. Do vậy, mỗi khi bước xuống đò, qua một khúc sông rộng, mọi người thường lẩm nhẩm cầu khấn, xin Mẫu phù hộ độ trì.

                      Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa.

                      Còn khi bão lụt, Mẫu lại hóa phép để gió yên, mưa tạnh.

                      Các loài thủy quái, thủy tặc, do có các thần tướng của Mẫu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái.

                      Nhân dân đã tìm thấy ở Mẫu hình ảnh của các bà mẹ hiền lành, đảm đang, suốt đời lo lắng cho con cho cháu.
                      _________________
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2006 13:12:48 bởi tieu hoang dung >
                      #11
                        Hoàng Dung 03.02.2006 13:03:48 (permalink)
                        sưu tầm

                        Tô Hiến Thành


                        Gió lạnh bên ngoài lùa vào tòa điện Thiên Khánh. Ngoài sân, những chùm lá kim tùng xanh tươi đu đưa trên thân cây khẳng khiu cằn cỗi, khoe sức chịu rét của họ nhà tùng. Trong điện, hơi lạnh như vàng toát ra từ dãy bệ đã chạm rồng, từ những chân tảng chạm hình hoa sen xòe nở và từ hàng cột gỗ sơn son thếp vàng bóng lộn. Chìm trong tòa điện ngăn ngắt lạnh ấy, vua Lý Anh Tông vẫn cảm thấy ấm áp. Chiếc lồng ấp bằng đồng đen đặt trước ngai rồng tỏa hơi nóng dễ chịu. Trước mặt nhà vua, văn võ quần thần, theo chức vụ và thức bậc, đứng vòng tay hoặc quỳ phục trên những tấm thảm đều trải thành hai dãy dọc bên tả hữu.

                        Khác với mọi buổi thường triều, hôm nay lệnh của Thái úy phụ chính Đỗ Anh Vũ truyền ra: Nhà vua thiết triều ở điện Thiên Khánh để luận bàn việc quan hệ đến sự mất còn của xã tắc. Với cái tuổi lên bảy, vua Lý Anh Tông không hiểu được những nét lo âu đang hiện trên khuôn mặt của quần thần. Sau khi phục trước ngai rồng để xin lệnh nhà vua, Thái úy Đỗ Anh Vũ đứng dậy, xốc vành đai nạm ngọc đang trễ xuống ngang thắt lưng, đưa mắt nhìn một lượt khắp bá quan. Quyền uy to của viên quan phụ chính này lại càng tăng lên gấp bội vì cái giọng sang sảng của ông ta:

                        - Đảng nghịch Thân Lợi tiếm xưng ngụy hiệu, đã nhiều năm chiếm đóng vùng Thượng Nguyên, Hạ Nông, mưu cướp kinh sư. Tháng tư năm ngoái, nhờ oai linh của hoàng thượng, ta phá được chúng ở Lang Châu. Triều đình đã chém đầu kẻ đại nghịch Thân Lợi cùng mười chín tên đầu sỏ khác. Nhưng hiện nay vẫn còn gần hai trăm đứa đồng đảng của nó bị giam trong ngục thất. Bây giờ phải tiếp tục trị tội chúng. Theo lệnh của hoàng thượng, chúng được tha tội chết, nhưng phải đầy đi viễn châu, biệt tích khỏi kinh sư để trừ hậu họa!

                        Nghe nói đến đảng Thân Lợi, các quan rùng mình, không phải vì sợ Thân Lợi, mà lo cho cơ nghiệp nhà Lý tồn tại đã hơn một trăm ba mươi năm, vừa trải qua sóng gió vì mối họa tranh chấp, cát cứ, thì nay lại đang nghiêng ngửa trước tệ nạn thao túng của viên quan phụ chính họ Đỗ. Nhà vua còn nhỏ tuổi, Đỗ Anh Vũ được thái hậu chiều chuộng, cất nhắc. Dựa vào thái hậu, cậy thần, cậy thế, Đỗ Anh Vũ làm nhiều điều trái đạo. Mầm loạn phát ra từ đó. Thấy Đỗ Anh Vũ làm việc ngang trái, quần thần không ai dám hé răng. Trong lúc mọi người cúi đầu băn khoăn trước cái lệnh độc đoán hồ đồ, phát ra từ con người đang nắm mọi quyền uy trong tay, thì một viên quan đã đứng dậy, tiến thẳng đến trước ngai rồng. Bộ sắc phục võ tướng lại càng làm cho tấm thân vạm vỡ của ông thêm hùng dũng. Người đó là Tô Hiến Thành. Hàng trăm con mắt của bá quan dồn về ông. Lời phán xử của Đỗ Anh Vũ không làm cho Tô Hiến Thành vừa lòng. Theo ông, bọn phản nghịch kia là ai? Phải chăng đó là những bần dân cùng đường nên phải nổi loạn, đành chịu sự trừng phạt của triều đình. Bây giờ, trừng trị như thế nào để thu phục lòng người mới là khó. Dẹp loạn để rồi lại dẹp loạn. Vì lo nghĩ đến vận mệnh của hàng trăm con dân bị giam trong ngục tối. Tô Hiến Thành bất chấp quyền uy của họ Đỗ, tiến lên tâu với nhà vua:

                        - "Đảng Thân Lợi nổi loạn, giết nhiều quan quân, bệ hạ chỉ hành hình có hai mươi người, thực là có lòng nhân đức. Nhưng xưa kia, vua Nghiêu vua Thuấn truyền nối nhau trong vòng hơn một trăm năm, thế mà số người bị tội chết và bị tội lưu chỉ có bốn tên đầu sỏ hung ác. Ngày nay phát lưu đến hơn một trăm người, có phải là bản tâm của bệ hạ đâu? Tôi xin tha tội cho chúng, để mọi người được thấm nhuần ơn vua, thì lòng nhân đức của bệ hạ không khác gì Nghiêu Thuấn".

                        Lời tâu của Tô Hiến Thành khiến bá quan kinh ngạc. Ngang nhiên chống lại lệnh của Thái úy họ Đỗ, Tô Hiến Thành khó tránh được tai vạ. Quả nhiên, thoạt nghe Tô Hiến Thành tâu bày, viên quan phụ chính đã tái mặt. Thừa biết họ Tô mượn lời tâu với nhà vua để chống lại mình, một ý nghĩ đen tối vụt nảy ra trong đầu óc viên phụ chính nham hiểm: Buộc ngay Tô Hiến Thành vào tội bao dung quân phản nghịch! Nhưng Đỗ Anh Vũ lại chợt nhớ ra rằng chính con người ấy chẳng những ở đâu cũng thế, vẫn có tiếng là cương trực. Chạm đến con người này không phải dễ. Đỗ Anh Vũ đành gượng ngạo đổi nét mặt, nhẫn nhục im tiếng, chờ cái gật đầu vô tình của ông vua nhỏ tuổi đang ngồi trên hư vị.

                        Cũng từ buổi triều hội ấy, văn võ quần thần lại càng thêm mến phục viên võ quan đất Ô Diên, con người chỉ biết nói và làm theo chính nghĩa, bất chấp mọi quyền uy, dù là của thần linh hay của con người có quyền cao chức trọng trong triều đình.

                        Ngọn cờ súy bay phần phật trên lâu thuyền đô tướng. Biển đông bao lao, mặt nước sôi động. Nhìn những đợt sóng hung dữ, Tô Hiến Thanh nhớ lại chuyện cũ. Cái chết oan khốc của Nguyễn Quốc qua rồi, nhưng mỗi khi nghĩ lại, không khỏi làm cho Tô Hiến Thành rùng mình. Cũng chỉ vì để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của triều đình, để ngăn chặn việc lộng quyền của họ Đỗ mà Nguyễn Quốc bị hãm hại. Nghĩ lại điều đó, Tô Hiến Thành còn băn khoăn chưa vừa lòng với mình. Trong những ngày tên hung bạo Đỗ Anh Vũ nấp dưới bóng Thái hậu, gieo tai vạ oan khốc cho biết bao nhiêu người, ông có lưu tâm suy nghĩ, nhưng chưa tìm được cách sớm diệt trừ kẻ nanh độc để cứu vớt người trung lương. May thay, trời đất không dung tha kẻ gian ác! Tên lộng quyền Đỗ Anh Vũ đã chết, việc triều đình cũng đã yên.

                        Giờ đây, trước mắt Tô hiến Thành, cảnh đất nước bao la hùng vũ đang lướt từ từ qua khung cửa của lâu thuyền. Để gìn giữ cho giang sơn yên vũng, Tô Hiến Thành được nhà vua giao cho cầm hai vạn quân đi tuần du phòng bị vùng biên giới Tây nam và vùng ven biển của Tổ quốc. Đối với Tô Hiến Thành, cuộc đời cầm quân đi đánh đông dẹp bắc, phá tan giặc thù, trở về dâng công, lâu nay đã trở thành việc thường. Nhưng riêng lần này, Tô hiến Thành lại được nhà vua Lý Anh Tông thân tiễn ra tận cửa Thần Đầu. Trước mặt Tô Hiến Thành, vua Lý Anh Tông bước ra mui thuyền nhìn vào đất liền, tà áo long cổn và dải vương miện bay lất phất. Tô hiến Thành xốc gươm bước theo. Chỉ tay vào bờ, ông vua trẻ tuổi hỏi viên lão tướng:

                        - Tướng quân có lần nào qua vùng đất này?

                        - Tâu bệ hạ, hồi đầu năm, vâng lệnh của bệ họ đi tuyển duyệt quân lính, thần có dịp kinh lý quan đây. Vùng này là cửa biển Thần Đầu. Người ta nói ở đây có sóng thần hiểm nghèo. Nhưng, Tâu bệ hạ, với những chiếc thuyền vững chắc, hàng chục mái chèo và có tay lái thiện nghệ của ta, điều đó không có gì đáng ghê sợ cả.

                        Lý Anh Tông gật đầu, tỏ ý tán thưởng rồi nói với Tô Hiến Thành như truyền lệnh:

                        - Phen này, giao cho tướng quân cùng Đỗ An Di đi tuần du phương nam. Các ngươi hãy gắng sức làm tròn phận sự, khuyến cáo cho dân miền ven biển ân đức của triều đình mà yên ổn làm ăn để cùng hưởng thái bình, khỏi phụ lòng mong đợi của trẫm.

                        Vua Lý Anh Tông còn trẻ tuổi, chỉ mới nghĩ đến giữ yên thiên hạ, còn Tô Hiến Thành, với chức vụ thái úy tham dự việc triều chính, lại nghĩ điều xa hơn. Mối lo chính hiện nay là từ bên ngoài. Giặc Chiêm Thành thường theo đường biển tràn vào cướp bóc. Nếu không sớm phòng giữ, một khi giặc đến xâm chiếm thì đất nước và trăm họ sẽ ra sao? Cho nên lần này được nhà vua cử đi tuần phòng ven biển, Tô Hiến Thành đã dự liệu mưu kế, nhằm dập tắt việc quấy nhiễu đánh phá nước Đại Việt của chúa Chiêm. Còn để yên tâm dân thì trước hết nhà vua hãy bớt xây dựng đài các, chăm sóc muôn dân, sáng suốt dùng người hiền tài, trừng trị kẻ xu nịnh. Nghĩ vậy, Tô Hiến Thành tâu với nhà vua:

                        - Muôn tâu, bệ hạ giao cho thần cầm quân đi tuần du phương nam, lại thân đi tiễn chân đến cửa biển xa xôi này, ơn trạch vỗ về bệ hạ đối với thần thật đã quá sâu nặng. Nay trong nước đang yên ổn, tuy vậy chưa phải đã hết mối lo. Bệ hạ không nên xa rời kinh thành lâu ngày, xin hãy sớm về với triều đình. Mọi việc ở biên cương thần xin gắng sức lo liệu.

                        Chiếc lâu thuyền đô tướng hướng mũi vào đất liền. Tô Hiến Thành phất cờ lệnh truyền cho đoàn thuyền chiến cập bến, rồi chắp tay với nhà vua:

                        - Thần đã giao cho phó tướng Đỗ An Di đem quân bộ đến vùng này dựng hành cung và truyền cho quân dân nghênh đón xa giá. Hội quân ở đây, thần sẽ chia hai đường thủy bộ đi tuần du phía Nam.


                        Đoàn thuyền chiến của Tô Hiến Thành đưa nhà vua vào cửa biển Thần Đầu. Trên bờ, cánh quân bộ do Đỗ An Di điều khiển đã chực sẵn. Hoàng cung vừa mới dựng, còn tươi màu gỗ mới, thoáng hiện ra sau lùm câu xanh tốt. Cờ xí dập dờn. Và ánh nắng của một ngày mùa đông đẹp trời cũng không xua hết giá lạnh trên giải đất miền ven biển xa xôi này.

                        Đỗ Thái Hậu ủ rũ trong nếp khăn tang, trao thái tử Long Cán cho người nhũ mẫu. Thái tử mới lên ba, thét lên giãy giụa đòi mẹ. Thái tử mới lên ba, thét lên sợ hãi. Nghe tiếng gào thét của con, Đỗ Thái hậu càng xong xuống lo ngại. Quay lại nhìn con, Thái hậu thở dài... Nhà vua vừa mới băng hà, thái tử còn trứng nước. Bà lo cơ nghiệp của dòng họ Lý không khéo đến rơi vào tay kẻ khác, và mẹ con bà cũng khó được toàn tính mạng. Khi nhà vua còn sống nghĩ đến điều này, đã nhiều lần bà xin lập ngay con trưởng của vua là Long Sưởng làm thái tử, nhưng nhà vua không nghe. Thường ngày, nhà vua vẫn nói với tể thần: "Thái tử là cội gốc của nước. Long Sưởng đã làm điều trái đạo, trẫm muốn cho Long Cán được nối ngôi báu, nhưng hắn còn nhỏ tuổi, e chưa gánh vác nổi, nếu đợi đến lúc lớn lên thì trẫm đã già rồi, biết làm thế nào?". Cho đến lúc nhà vua sắp qua đời, bà lại vật mình bên long sàng, khóc lóc cố xin lập Long Sưởng, nhưng nhà vua không nghe, còn phán bảo: "Long Sưởng làm con đã bất hiếu, còn cai trị dân thế nào được". Rồi đó, nhà vua để di chiếu truyền cho đứa con vừa lên ba tuổi. Đó là Thái tử Long Cán đang giẫy giụa, hờn dỗi trên cánh tay người nhũ mẫu. Việc đã rồi, biết tự mình khó xoay chuyển được tình thế, Đỗ Thái hậu chỉ còn trông đợi ở thái độ quan Nhập nội hành khiển khiển hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự Tô Hiến Thành người đã nhận cố mệnh của nhà vua phò giúp thái tử Long Cán.

                        Biết Tô Hiến Thành là người cương trực, từ nhà vua cho đến quần thần ai cũng kính phục, bà thấy không thể dùng lời nói của mình để lay chuyển được. Đỗ Thái hậu đã lập mưu cho người đem vàng bạc đúc lót Lã thị vợ quan phụ chính họ Tô, cậy Lã thị nói với chồng. Bằng kế ấy, bà hy vọng ngôi vua có thể về tay Long Sưởng. Nhưng sự việc lại diễn ra trái với điều mong đợi của bà.

                        Nhận được vàng bạc và lời thỉnh cầu của Đỗ Thái hậu, Lã thị nhằm lúc Tô Hiến Thành đang vui với chén rượu, lựa lời báo cho chồng biết có quý vật của Thái hậu ban cho. Tô Hiến Thành bình thản hỏi vợ.

                        - Thái hậu ban cho vật phẩm? Đưa ta xem!

                        Lần lượt cầm từng nén vàng óng ả lên tay rồi lại đặt xuống, Tô Hiến Thành lạnh lùng đẩy món quý vật ấy ra xa:

                        - Thái hậu có truyền bảo điều gì không?

                        Lã thị dè dặt thuật lại điều Thái hậu nhờ cậy.

                        Không đợi cho vợ kể hết lời, Tô Hiến Thành đã quắc mắt. Nét mặt đang vui tươi hồng hào bỗng xám lại vì giận dữ. Cầm tráp bạc quẳng vào một góc phòng, Tô Hiến Thành quát bảo vợ:

                        - "Ta là bậc đại thần, vâng mệnh tiên đế phò giúp ấu chúa, nếu nay nhận của lót mà làm việc phế lập thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế dưới suối vàng"

                        Suốt mấy ngày liền, Tô Hiến Thành không nói với vợ một lời. Ông chưa nguôi giận người vợ đã mờ tối vì tiền, nhận của phi nghĩa để khuyên chồng làm điều trái đạo.

                        Sự tình ấy có làm cho Đỗ Thái hậu băn khoăn, nhưng chưa phải đã tuyệt vọng. Bà nghĩ thầm: Tiền của, danh vọng, ai mà không ham muốn. Đường đường là bậc Thái hậu, châu báu vàng bạc trong kho bà cho ai chẳng được, chức tước của triều đình bà đặt vào tay mà không nên. Đối với Tô Hiến Thành, tuy cương trực, nhưng năm nén vàng không lay chuyển nổi thì với mười nén vàng, bảo gì ông ta chả nghe. Vì vậy hôm nay bà ra lệnh với Tô Hiến Thành vào hoàng cung để bàn chuyện.

                        Đỗ Thái hậu đang băn khoăn chờ đợi thì người lính thị vệ vào tâu: Quan Nhập hội hành khiển đã đến hầu. Thái hậu quát bảo:

                        - Sao không mời ngài vào đây theo lệnh của ta?

                        - Tâu Thái hậu, quan nhập nội hành khiển truyền bảo: Nhà vua mới băng hà, ngài không có việc gì để vào hậu cung, xin đợi lệnh của Thái hậu ngoài sảnh đường.

                        Đỗ Thái hậu thở dài:

                        - À ra thế! Rồi truyền cho nữ tỳ đem tráp vật phẩm đi theo.

                        Thấy Tô Hiến Thành mặc tang phục, chân đi hài cỏ, Đỗ Thái hậu chột dạ. Nhưng số vàng bạc châu báu đã sửa soạn sẵn trong tay lại làm cho bà mạnh dạn:


                        - Tôi kính chào quan Nhập nội hành khiển!

                        - Tiếp theo là giọng cười đon đả của bà. Tô Hiến Thành vội vã chắp tay vái chào đáp lễ.

                        - Được lệnh của Thái hậu, thần kịp đến hầu, dám xin Thái hậu phán bảo.

                        Đỗ Thái hậu gật đầu tỏ ý hài lòng. Sau khi mời Tô Hiến Thành ngồi yên vị, theo thói quen, bà quắt mắt nhìn quân hầu, khiến mọi người sợ hãi lùi ra khỏi sảnh đường. Trong phòng chỉ còn lại Thái hậu và quan phụ chính đại thần. Bằng một giọng nhỏ nhẹ, dịu dàng nhưng vẫn với phong độ của bậc mẹ thiên tử, Đỗ Thái hậu nói với Tô Hiến Thành:

                        - Quan Nhập nội hành khiển! Nhà vua vừa mới băng hà, việc chọn người cầm giữ nước là hệ trong, chỉ có ngài là người đủ sáng suốt và quyền uy để tham dự bàn bạc. Chẳng hay ngài có thể vì trăm họ mà giúp đỡ mẹ con tôi được không?

                        Nghe lời của Đỗ Thái hậu, nhớ lại điều thỉnh cầu hôm trước, Tô Hiến Thành lo lắng lựa lời ngăn chặn:

                        - Tâu Thái hậu, ngôi thiên tử đã có di chiếu của tiên đế định đoạt rồi. Là phận bề tôi, hạ thần đâu dám tiếc sức để phò vua giúp nước, giữ yên thiên hạ.

                        Đỗ Thái hậu cố giữ vẻ bình thản. Lặng đi hồi lâu, bà từ từ nââng áo tay rộng che ngang mặt như để xóa sạch nỗi đau khổ đang dày vò mình. Nét mặt của người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi ấy trở nên ủ rũ tiều tụy lạ thường. Nhìn thẳng vào vị lão quan phụ chính ngồi đối diện, Đỗ Thái hậu kể lể:

                        - Nếu như vậy thì mẹ con tôi chẳng phải thỉnh cầu đến công sức và quyền uy của ngài. Long Sưởng hay Long Cán cũng đều là con tôi cả. Nhưng Long Sưởng vẫn là con trưởng.

                        Theo tục lệ từ thượng quốc truyền dạy: Ngôi kế vị phải thuộc về con trưởng. Chẳng qua khi còn sống, tiên đế phán quyết không minh, lại thiếu người can gián, nên lầm lạc, để di chiếu truyền ngôi cho Long Cán. Tuy vậy, nay có thay đổi cũng không muộn. Tôi mong ngài giúp tôi lập lại Long Sưởng. Cái ơn ấy mẹ con tôi không bao giờ quên.

                        Tô Hiến Thành tỳ tay vào án thư, ngả người về phía sau, chau mày suy nghĩ: "Lời lẽ của Thái hậu xằng bậy, không thể chấp nhận được. Tiên đế không lập Long Sưởng là vì Long Sưởng không có đức. Vả lại, cứ gì phải con trưởng? Ai có tài đức thì trao ngôi, trưởng hay thứ cũng vậy thôi. Ngày xưa, vua Nghiêu vua Thuấn đã không truyền ngôi cho con mà lại truyền ngôi cho người hiền thì sao? Việc gì cứ phải theo tục lệ của thượng quốc mới được!". Nghĩ vậy, Tô Hiến Thành chợt thấy bực bội. Tuy nhiên, là kẻ bầy tôi, Tô Hiến Thành vẫn không dám bài bác nặng lời. Ông dựa vào di chiếu của nhà vua để từ chối:

                        Tâu Thái hậu làm như vậy còn tờ di chiếu của tiên đế thì sao?

                        Thấy thái độ chần chừ, dè dặt của Tô Hiến Thành, Đỗ Thái hậu mở tráp châu báu và nói ngọt ngào:

                        - Ngài không ngại. Vàng bạc, chức tước của triều đình mẹ con tôi không tiếc đối với công ơn của ngài thì còn tiếc gì tờ di chiếu!

                        Thái hậu ngừng lại. Cặp mắt dài nhọn nấp trên hai gò má dô cao của bà bỗng nhiên mở rộng, sắc sảo lạ thường. Đôi con ngươi bạc mầu đảo nhìn quanh phòng một lượt rồi dừng lại, soi thẳng vào Tô Hiến Thành, Thái hậu nói nhỏ giọng:

                        - Hiện nay di chiếu trong tay ngài, triều đình chỉ nghe nói, làm sao biết rõ được. Ta cứ đóng cửa hoàng thành, mở triều hội làm lễ đăng quang cho thái tử Long Sưởng, rồi sau đó bố cáo cho thần dân biết. Ai dám chống lại? Các quan trong triều, kẻ nào không chấp nhận, bất quá công khố chỉ mất thêm ít lạng vàng và ta ban cho chức tước là trong ấm ngoài êm cả. Như vậy mẹ con tôi cũng yên ổn mà ngài thì sẽ được vinh hoa phú quý trọn đời, còn truyền lại cho con cháu mai sau nữa!

                        Nghe lời của Thái hậu, Tô Hiến Thành tưởng như đối diện một hung thần đang giơ nanh vuốt độc ác, hòng cào xé lương tâm trong sáng củøa mình. Nhưng trước mặt ông không phải là ma quỷ, mà là một con người. Con người ấy chỉ vì lợi ích của riêng mình mà mưu chuyện thay bực đổi ngôi. Đã vậy lại còn dám đem vàng bạc trong công khố, lấy chức tước của triều đình để mua chuộc lòng người, lấp liếm việc làm điên đảo. Thái hậu nghĩ về Tô Hiến Thành như thế nào mà dám đem điều đó ra bàn bạc? Không nén được giận, Tô Hiến Thành buộc phải nói lên tiếng nói của lòng mình. Ông cười khinh bạc, quay mặt đi trả lời:

                        - "Làm điều bất nghĩa mà được giàu sang, có lẽ nào hạng trung thần nghĩa sĩ lại vui lòng mà làm được, huống chi lời tiên đế còn văng vẳng bên tai! Thái hậu chẳng nghe nói về chuyện Y Doãn Hoắc Quang đấy ư? Tôi đây không dám vâng lời.


                        Hơn nữa, không chỉ là chuyện di chiếu mà điều quan trọng là chọn người giao việc lớn nên Tô Hiến Thành không muốn lập Long Sưởng. Giọng nói của Tô Hiến Thành sang sảng, vang rộng cả một sảnh đường. Ông nói dường như không phải chỉ để cho Đỗ Thái hậu nghe, mà còn cho người đã chết và cho người mai sau nghe biết nữa. Từ đó Đỗ Thái hậu mới biết rằng tiền tài danh vọng và cả quyền uy, không phải là điều có thể dùng để sai khiến ai cũng được. Cũng từ đó, ý nghĩ nhờ cậy Tô Hiến Thành lập Long Sưởng lên làm vua dứt hẳn trong đầu óc của bà.

                        Nắng hàng tháng ròng. Vào buổi trưa, nắng hè lại càng gay gắt, đáo để hơn. Thăng Long như ngừng lại trong hơi nóng hầm hập. Cây cối rũ lá, đứng im lìm. Chỉ cò tiếng ve kêu ra rã.

                        Cũng hàng tháng này, Tô Hiến Thành lâm bệnh. Giờ đây ông đang miên man, chợt tỉnh chợt mê trên giường bệnh trong một căn phòng tĩnh mịch, mà theo lệnh của triều đình, quan Thái y đã dành riêng cho ông tĩnh dưỡng. Cạnh giường, quan Tham tri chính sự Vũ Tán Đường cầm quạt lông đang phe phẩy cho người bệnh.

                        Từ khi lâm bệnh, Tô Hiến Thành đã có ý muốn về quê nhà nhưng Thái hậu không nghe, giữ ông lại, giao cho quan ngự y trông nom thuốc thang và còn phái hẳn viên đại thần họ Vũ đến chăm sóc hầu hạ.

                        Hơi gió động khiến cho Tô Hiến Thành giật mình thức dậy. Gió quạt nhè nhẹ có làm cho ông dễ chịu. Mở mắt thấy quan Tham tri chính sự đang quạt cho mình, Tô Hiến Thành khẽ lắc đầu, tỏ ý không bằng lòng. Ông trách móc qua giọng nói yếu ớt:

                        - Quan hầu đi đâu cả, phải phiền đến ngài?

                        Vũ Tán Đường không ngừng quạt, một tay khẽ kéo tấm gối bọc gấm xô lệch dưới món tóc bạc lòa xòa của quan phụ chính và đáp:

                        - Xin ngài đừng bận tâm đến chuyện nhỏ nhặt ấy. Đây là phận sự của tôi đối với ngài. Cả triều đình ai cũng mong ngài chóng bình phục để giúp rập nhà vua trông nom việc nước.

                        Không trả lời, Tô Hiến Thành nhắm mắt, mệt mỏi. Nghe Vũ Tán Đường nói đến việc nước, ông lại băn khoăn lo lắng. Trọn đời lo toan chèo chống giữ gìn và xây dựng đất nước trải ba triều vua, đến nay ông kiệt sức. Về già, bệnh tật ngày một nhiều, ông biết cái chết đã đến gần. Nhà vua còn nhỏ tuổi không biết sau khi ông nhắm mắt, có chọn được người xứng đáng, tin cậy để ủy thác việc lớn hay không? Lần lượt các bậc đại thần hiện ra trong trí ông. Thái sư Đỗ An Di, em ruột Thái hậu, là bậc cao niên, đã từng trải, biết việc nhưng lại hay nể nang, chỉ làm theo ý Thái Hậu, không dám can ngăn một lời. Lý Kính Tu là người học rộng đức cao, thông thạo mọi điều, nhưng lại không quyết đoán, nhiều khi lỡ việc. Chỉ có gián nghị đại phu Trần Trung Tá là người hiểu biết, sắc sảo, dám mạnh dạn nói lên lẽ phải, và khi cần có thể đem thân mình để can gián nhà vua. Con người ấy được cả triều đình mến phục. Còn Tham tri chính sự Vũ Tán Đường... Mệt mỏi vì suy nghĩ, ông thiếp đi lúc nào không biết. Cho đến khi có người lay gọi, ông uể oải mở mắt nhìn. Văn Tham tri chính sự Vũ Tán Đường tay bưng chén thuốc, đang cuối mình trên giường bệnh. Nhận thấy nét lo âu hiện trên khuôn mặt Vũ Tán Đường, Tô Hiến Thành gắng tươi tỉnh cho vui lòng người đang hết sức tận tụy với mình.

                        Từ khi được Thái hậu giao cho việc chăm sóc quan Thái úy phụ chính, Vũ Tán Đường không mấy khi rời phòng bệnh. Không phải chỉ làm tròn phận sự của triều đình giao cho, mà Vũ Tán Đường, trong những ngày săn sóc quan phụ chính, còn biểu lộ tình cảm chân thành của mình đối với người mà ông hằng mến phục vì tài đức. Tô Hiến Thành biết rõ điều đó và càng thêm quý mến, biết ơn quan tham tri chính sự. Tiếc rằng Vũ Tán Đường là người có đức hạnh, nhưng lại không đủ tài cao để đảm đương việc lớn...

                        Cho đến một hôm, bệnh tình của Tô Hiến Thành trở nên nguy kịch, Đỗ Thái hậu đến thăm. Theo sau bà là một đoàn tỳ nữ và quan thị vệ mang tàn quạt hầu hạ.

                        Biết có thái hậu đến, Vũ Tán Đường ra tận thềm đón. Bước xuống võng, như không để ý đến cái vãi dài đến gấp khúc người lại của Vũ Tán Đường, Đỗ thái hậu hất hàm hỏi:

                        - Bệnh tình quan thái úy có thuyên giảm đi chút nào không?

                        - Tâu thái hậu, quan thái úy khó qua khỏi.

                        Một tiếng thở dài, thiếp theo là lời kêu thanh: Trời ơi! Thái hậu đi thẳng vào phòng bệnh. Quân hầu tất cả bước theo, còn thân nhân của thái úy Tô Hiến Thành rụt rèm sợ sệt, đứng núp vào một chỗ.

                        Ngồi lặng đi hồi lâu trên chiếc kỷ bọc gấm cạnh giường bệnh, Thái hậu nhìn viên đại thần già nua, xanh xao nằm bất động dưới làn chăn mỏng. Đã mấy lần bà định vén tay áo lay gọi quan thái úy nhưng lại thôi. Bà không muốn làm khuấy động cái yên tĩnh cần thiết đối với một người mà bà vẫn kính phục, tuy thâm tâm bà không mến lắm. Bà kính nể Tô Hiến Thành vì tính cương trực, đạo đức cao cả của ông, nhưng bà không ưa ông vì ông là người khó bảo. Mặc dù vậy, bà cũng thấy con người đang hấp hối ấy đã hết lòng vì nước. Nhờ có ông, giang sơn và cơ nghiệp nhà Lý mới còn được vững vàng như bây giờ. Con người ấy qua đời, triều đình biết chọn ai làm người thay thế?

                        Thấy Thái hậu dè dặt, Vũ Tán Đường khẽ lay vai người bệnh gọi nhỏ:

                        - Quan Thái úy! Quan Thái úy!

                        Đôi mắt sâu thẳm và mờ đục của Tô Hiến Thành từ từ mở. Thái hậu ghé sát gần Tô Hiến Thành nghẹn ngào:

                        - Quan Thái úy! Ngài có nhận ra tôi không?

                        Tô Hiến Thành gật đầu, cố gượng cất tay để đáp lễ. Nhưng đôi tay của ông như gắn chặt xuống giường. Ông chỉ nói thiều thào qua đôi môi khô ráo:

                        - Tâu... Thái hậu...

                        Đặt tay lên vai Tô Hiếu Thành, Thái hậu muốn nói điều gì, nhưng lại ngập ngừng. Vẫn theo thói quen, bà quắc mắt đảo nhìn mọi người. Khi ai nấy đã rút ra khỏi phòng, Thái hậu nâng tay áo lau nước mắt, rồi cầm tay quan phụ chính hỏi:

                        - Nếu có cơ sự nào, ai là người có thể thay ngài làm Tướng quốc?

                        Khuôn mặt mệt mỏi của Tô Hiến Thành chợt bừng dậy. Sau một lát đắn đo Tô Hiến Thành khe khẽ trả lời:

                        - Trần Trung Tá... Có thể làm được!

                        Đỗ Thái hậu không ngờ Tô Hiến Thành lại nhắc đến gián nghị đại phu Trần Trung Tá viên quan vẫn thường can gián, ngăn trở những việc làm quá đáng của nhà vua và bà. Từ ngày Tô Hiến Thành lâm bệnh, Trần Trung Tá vì bận nhiều công việc niên không lần nào đến thăm ông được, ấy thế mà Tô Hiếu Thành vẫn không quên ông ta. Nghe nói đến Trần Trung Tá, Đỗ Thái hậu không vừa lòng. Bà muốn Tô Hiến Thành chọn cử người khác:

                        - Vũ Tán Đường hàng ngày hầu hạ thuốc thang, sao ngài không nói đến?

                        Tô Hiến Thành cố ngượng cười, giãi bày với Thái hậu qua từng lời đứt đoạn:

                        - "Thái hậu"... Hỏi người có thể thay tôi, nên tôi mới cử Trần Trung Tá... Nếu hỏi người săn sóc... Nuôi dưỡng tôi... Thì không phải Tán Đường còn ai nữa?

                        Vào một ngày tháng sáu năm Kỷ Hợi (1179), Tô Hiến Thành qua đời. Nhưng tiếc thay, lời căn dặn sáng suốt vào lúc cuối đời của người bày tôi trung thành, tài cao đức trọng ấy đã không được Đỗ Thái hậu nghe theo.
                        _________________
                        #12
                          Hoàng Dung 03.02.2006 13:20:33 (permalink)
                          sưu tầm



                          Ngô Thì Nhậm


                          Nhà Ngô Thì Nhậm ở trên bờ sông Nhuệ. Từ đấy về kinh thành, đi cáng đôi, chạy gằn, chỉ mất chưa đầy nửa buổi. Ngô Thì Nhậm vì vậy hay ở quê nhà. Mặc dù ông làm quan to trong triều. "Hàn lâm hiệu thảo lễ khoa cấp sự trung" là một chức quan có tiếng tăm của Ngô Thì Nhậm ở triều vua Lê. Nhưng chức Gia thần và Tùy giảng của thế tử nhà Trịnh mới tạo cho ông một cái thế đặc biệt. Chúa tin cậy, vua nể vì, và thế tử sắp nối nghiệp thì kính sợ. Còn các quan trong triều ngoài trấn, hiển nhiên là phải quý trọng.

                          Nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn không thích ở nơi dinh thự tại kinh thành. Ông thường tìm dịp về quê nhà làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam. Ngôi nhà gỗ lớn mà thanh bạch, chỉ mới được mở mang từ khi Ngô Thì Sĩ, thân phụ của Nhậm, sau một thuở hàn vi dài, nhờ tài học và đức độ, được chúa Trịnh vời vào triều, cho làm quan. Làm quan rồi mới thi đỗ tiến sĩ. Và chỉ chiếm bảng vàng bia đá trước con trai có Chín năm.

                          Ngô Thì Nhậm hẳn là chịu nhiều ảnh hưởng của cha cũng như dòng họ Mình. Gia đình họ Ngô Thì ở Tả Thanh Oai là một gia đình nho học nổi tiếng, liền Bảy đời sản sinh những nho sĩ có tên tuổi trong sử sách và học thuật nước nhà. Ngô Thì Nhậm cũng là một người kiệt liệt trong số ấy. Khoa thi hội năm Ất Mùi (1775), Hai Mươi Chín tuổi, Nhậm đỗ tiến sĩ. Ngay khi ấy, tiếng đồn về học vấn về tài văn chương của quan tân khoa tiến sĩ đã lẫy lừng khắp ngả. Và nho sĩ quan lại, cũng từ khắp ngả tìm đến kết thân. Thơ phú xướng họa, rồi những lời khuyên bảo cặn kẽ, những hành động giúp đỡ hết lòng tài năng, sự chín chắn và thái độ chân tình của Ngô Thì Nhậm đã nhanh chóng chinh phục được các danh sĩ và bạn đồng liêu. Dinh thư họ Ngô ở kinh thành không lúc nào ngớt khách khứa, bạn bè.

                          Nhưng Ngô Thì Nhậm chẳng bao giờ để cho mình bị lôi cuốn vào những chuyện phù phiếm. Chăm việc quan, Ngô cũng chăm cả việc đọc sách và trước thuật. Sở dĩ lưu luyến cảnh quê hương tĩnh mặc mà xa lánh chốn đô hội, có phần cũng vì Ngô Thì nhậm đang say với việc trước thuật của mình. Thêm chương, Thêm bài cho bộ Hi doãn văn tập, đã khá dầy dặn, Ngô Thì Nhậm còn dồn sức vào bộ Hoàng Lê nhất thống chí đang làm cho ông mê mải từ ít lâu nay.

                          Từ ít lâu nay, cuộc đời làm quan dần dần trở nên vô vị đối với Ngô Thì Nhậm. Các cớ chính khiến ông năng tìm dịp lánh mình tìm về ở chốn quê nhà là ở chỗ ấy. Và bộ sách Hoàng Lê nhất thống chí mà ông đang dày công khởi thảo, chính là nơi hóa thân của những việc rối ren đang diễn ra trong cuộc đời làm quan của Ngô Thì Nhậm đó.

                          Viên quan trẻ họ Ngô xử thế thận trọng như tính tình nghiêm cẩn của mình. Nhưng cái chế độ mà ông bỏ tâm sức đắp xây, Hàn gắn, thật đã quá mục nát. Tiếng dân ta thán tưởng đã thấu đến trời. Những cuộc nổi dậy diễn ra ở khắp xứ. Vậy mà trong phủ, ngoài triều, tôn thất, quý tộc và quan lại vẫn chỉ chăm việc hành lạc và tranh chấp thoán đoạt. Tuổi trung niên sung sức làm việc của Ngô Thì Nhậm đã phải mất quá nhiều ngày tháng để giữ mình và đối phó với những âm mưu, cạm bẫy phiền toái như thế.

                          Vụ án lớn mà Ngô Thì Nhậm buộc phải tham gia khi vừa tròn Ba Mươi lăm tuổi, là vụ mưu phản loạn của chính ngay thế tử Trịnh Tông, học trò của ông. Lo ngôi chúa của mình bị Đặng thị Huệ cung phi đang được cha mình hết sức sủng ái lăm le kết bè đảng, đưa đứa em cùng cha khác mẹ là Trịnh Cám ra tranh mất, Trịnh Tông đã ngầm liên kết với các trấn thủ Kinh Bắc, Sơn Tây dấy quân cướp ngôi. Công việc chẳng may bại lộ. Chúa Trịnh nổi cơn lôi đình, giao ngay vụ án cướp ngôi cho Ngô Thì Nhậm xét xử. Lúc ấy Ngô cũng vừa được thăng chức Thị lang bộ Công.

                          Quan tân Thị lang bị đẩy vào một tình thế rất khó khăn. Một bên, Trấn thủ Kinh Bắc Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Sơn Tây Nguyễn Khản, đều là chỗ bạn bè thâm giao. Và Trịnh Tông cũng là học trò. Nhưng Một bên nữa, còn là nhiệm vụ và sự thúc ép của chúa Trịnh, cùng bè đảng của Đặng Thị Huệ. Tài trí đến mấy cũng phải lúng túng trong cảnh ngộ này!

                          Giữa lúc ấy, bỗng có tin từ Lạng Sơn báo về: Trấn thủ Ngô Thì Sĩ bị bệnh mất! Việc tang ma đối với kẻ sĩ là hệ trọng hàng đầu. Ngô Thì Nhậm lập tức xin cáo quan về chịu tang cha...

                          Ma chay xong, Ngô Thì Nhậm vẫn đóng cửa ở lại chốn quê nhà. Người có đại tang phải xa lánh thế sự trọn Ba năm. Thật chẳng có dịp nào tốt hơn để rời bỏ cái sân khấu chính trị đầy bất trắc lúc ấy. Nhưng tin dữ vẫn từ kinh thành lọt qua cửa mà tới tai người ở ẩn: Bọn Nguyễn Khắc Tuân đều đã bị giết; thế tử Trịnh Tông bị hạ ngục. Sau đó chúa Trịnh cũng mất. Phe đảng ĐặngThị Huệ phò Trịnh Cán lên ngôi. Nhưng kiêu binh các trấn Thanh Nghệ phá ngục cứu Trịnh Tông, phế Trịnh Cán, giết phe đảng Đặng Thị Huệ...

                          Ngô Thì Nhậm ôm đầu thở dài. Ông đang cảm thấy có một sự rạn nứt quá lớn. Không, hơn thế nữa, một sự sụp đổ, rã rời. Ít lâu nay, vầng trán hằn những nếp nhăn quá sớm, ông thường suy nghĩ miên man về thế sự. Lại chú ý tra tìm kinh sách nhà Phật. Ông có ý định viết thêm một cuốn sách nữa cuốn sách triết lý Trúc lâm tôn chỉ nguyên thanh...

                          Khói trầm từ chiếc lư đồng nhỏ vờn một làn hương thơm ngát. Ngô Thì Nhậm ngồi im lặng trước án thư. Ông vừa nhận được một phong thư lạ. Khách đưa thư, người bám đầy bụi đường trường, chợt đến rồi lại chợt đi, lặng lẽ nhưng chẳng có chút ngỡ ngàng nào. Quanh đây dường như vẫn có những cặp mắt từ xa chăm chú dõi theo...

                          "Kể từ ngày được cùng Ngài hội ngộ, Kỷ tôi vẫn một lòng tưởng nhớ..." Ngô Thì Nhậm nhẩm khẽ lại lá thư. Phải, Trần Văn Kỷ, danh sĩ đất thuận hóa, mấy năm trước lặn lội từ Đàng trong ra kinh thi Hội, có tìm đến gặp Ngô ở nơi dinh thự. Người khách xa xứ ấy, chỉ một lần sơ kiến mà đã để lại cho Ngô Thì Nhậm những ấn tượng thật sâu... Giờ đây, từ nơi con người ấy, một phong thư đã vượt trăm nghìn đường đất, đến nằm lặng lẽ ở góc án thư kia. Những lời thăm hỏi hàn huyên mà sao như rõ từng đường tơ mối chỉ rối bời ở trong nỗi lòng u uẩn của người ở ẩn. Lá thư, chỉ có đoạn cuối mới có những dòng mang dụng ý những dòng chữ nhắn nhủ: ở ấp Tây Sơn, áo vải cờ đào, một bậc anh hùng cái thế đã xuất hiện, tài trí và sức mạnh xưa nay chưa từng thấy. Nguyễn Huệ, bậc cái thế anh hùng ấy, chí lớn trùm thiên hạ, chẳng bao lâu nữa sẽ thâu tóm giang sơn thành một mối...

                          Ngô Thì Nhậm khẽ thở dài: "Ông ta đã tìm được chân chúa..." thở dài gần đây cũng đã trở thành thói quen đến quá sớm đối với một người chỉ mới Bốn Chục xuân thu như Ngô "Trần Văn Kỷ vậy là đã có phận của ông ta. Nhưng còn ta, trung thần bất sự nhị quân đã đem thân phò chúa Trịnh, thờ vua Lê, làm sao có thể mang lòng dạ khác?" Và, Ngô Thì Nhậm lại khe khẽ thở dài...

                          Tiểu đồng chợt báo tin: Nhà lại có khách! Khẽ chau mày, tuy vậy, Ngô Thì Nhậm vẫn đứng dậy, cẩn thận sửa lại khăn áo rồi mới bước ra thềm.

                          Khách còn trẻ, nhưng bộ mặt và thân hình đã phì nộn trước tuổi, chiếc khăn thư sinh màu xanh không che nổi khoảng tóc trán cũng đã sớm rụng trơ trụi. Chủ nhân còn đang ngỡ ngàng thì khách đã tự xưng tin tuổi: Cậu ấm Đặng Trần Thường vốn nhà hào phú trong miền... Và vừa phân ngôi chủ khách thì cũng lại cậu ấm Thường ấy đã dẻo miệng ngay: Xin được trình đại nhân về đồn của thiên hạ...

                          Câu chuyện từ cửa miệng có cặp môi mỏng, giảo hoạt của Đặng Trần Thường hôm ấy khiến Ngô Thì Nhậm quá đỗi sửng sốt. Có kẻ nào đã phao lên tin chính Ngô là người đã tố giác vụ án cướp ngôi của thế tử Trịnh Tông! Và để được thăng lên chức Thị Lang, như thế làNgô đã giết hại đến bốn mạng người, trong đó có cả cha mình: Ngô Thì Sĩ vì không ngăn nổi con trai đừng làm việc bất nhân bất nghĩa, đã tự vẫn! "Sát tứ phụ nhi Thị lang" Đặng Trần Thường. Nhờ vả, cầu khẩn từ trước, Hẳn đến lúc hữu dụng, việc tiến thân sẽ trôi chảy rất nhanh Thường tính toán như vậy. Và vội vã, thao cung cách của những kẻ mờ mắt vì công danh thời ấy, Thường đã cố tìm cách ton hót thật vụng về...


                          Nhưng không may cho Thường từ sửng sốt đến phiền muộn. Ngô Thì Nhậm tê tái vì miệng lưỡi thế gian bao nhiêu lại càng đau xót bấy nhiêu vì sĩ khí quá thấp kém của những người đường đột, trắng trợn và ngu dại như Đặng Trần Thường. "Quan trường mà đầy rẫy những đứa thế này thì vận nước đến ngày không thể trông cậy vào nữa rồi!". Lặng lẽ, dầm bút vào nghiên mực, Ngô Thì Nhậm viết nhanh vào hàng chữ bỏ dở dang: "Công, hầu, khanh, tướng, vòng trần ai...". Sau đấy, buông bút, ông lui vào buồng trong, gọi tiểu đồng dẫn khách xuống nhà ngang, truyền cho phải tiếp một bài phú, để thử văn tài.

                          Ngô Thì Nhậm đi thẳng ra bờ sông Nhuệ, đi thẳng tới chỗ ngồi quen thuộc trên rễ cây si già gần mé nước. Lơ đãng nhìn những chiếc tăm cá nổi trên dòng nước đục, ông với tay đến cần trúc ngà. Và thả dây câu...

                          Kinh thành Thăng Long bề ngoài lạnh vắng, lỗ đỗ những dinh thự, phủ đệ đổ nát, cháy trụi: Mấy cơn binh lửa và việc báo oán trả thù đã lướt nhanh qua đây. Nhưng bên trong thì ì ầm, sôi sục, kinh thành đang trăn trở chuyển mình.

                          Đại doanh quân Tây Sơn khi ấy đóng ở phía Nam kinh thành, quanh vùng phủ chúa cũ. Đạo quân nông dân khởi nghĩa ấy, chỉ sau mấy trận trúc trẻ ngói tan, một lúc đã lật nhào cả chế độ cũ mà non ba trăm năm tồn tại đã làm mục nát cả mấy chiếc ngai vàng và ngôi chúa Lê Trịnh. Tướng Tây Sơn bách chiến bách thắng Nguyễn Huệ, dựng lều trận ở ngay giữa đại doanh của mình.

                          Từ chiếc lều trận ấy, lệnh truyền đi: Hết thẩy các quan văn võ của triều cũ đều phải tới trực sẵn ở dinh bộ Lễ để theo lễ quan Võ Văn Ước đi yết kiến chúa Tây Sơn!

                          Ngô Thì Nhậm, từ nơi ở ẩn chốn quê nhà, đón nhận lệnh ấy mà buồn vui lẫn lộn. Từ trong nén khổ sở đã mấy năm, con người ham hoạt động, khao khát việc kinh bang tế thế ở trong ông bỗng sống dậy, khắc khoải bồn chồn. Vậy là Nguyễn Huệ, chí lớn trùm thiên hạ, như lời thư của Trần Văn Kỷ đã có lần nhắc gợi, bây giờ đã làm cuộc đổi đời ở đây rồi. Con người ấy đang ra lệnh gọi Ngô Thì Nhậm. Dịp tái tạo đây rồi chăng? Nhưng đã đem thân thờ vua khác, liệu ân nghĩa mới có được vẹn toàn không?

                          Ngổn ngang tâm sự, Ngô Thì Nhậm bước vào dinh bộ Lễ khi trời còn rất sớm. Võ Văn Ước, người đàng trong chưa thạo việc, ngỡ Nhậm là hoàng tử nhà Lê, vội mời ngồi ngang với mình trên sập cao. Trời sáng dần, và già, trẻ, cao, thấp, các bạn đồng liêu cũ của Nhậm lục tục kéo đến. Từ dưới thềm xa, những cựu thần triều Lê ấy phải lạy chào Võ Văn Ước. Ngồi nhận lạy như thế, có cả Ngô Thì Nhậm. Áy náy không yên vì chuyện ngộ nhận ác hại ấy, Ngô Thì Nhậm vội đứng dậy và... Lúng túng đi ra. Võ Văn Ước ngạn nhiên hỏi tả hữu:

                          - "Người vừa ngồi đây là ai vậy? "

                          Có tiếng trả lời:

                          - "Đấy là văn ban Ngô Thì Nhậm!"

                          Cơn giận của Ước bùng ngay ra giữa đám quan lại nhốn nháo:

                          - Ta vâng mệnh cai quản tất cả, sao lại được vô lễ thế!

                          Và một đám quân sĩ được tung ngay đi tìm bắt "Con người vô lễ" ấy!

                          Vậy là cả ngày hôm đó, chỉ vì một chuyện vặt không đâu, Ngô Thì Nhậm đã phải mất công ẩn tránh vất vả. Lo lắng, bực bội, chợt nhớ đến Trần Văn Kỷ mà ông đoán chắc thế nào cũng đã được trọng dụng trong chướng lệnh Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm tìm đường đến thẳng người mà đại quân Tây Sơn đều kính cẩn gọi là quan Trung thư lệnh Kỷ lễ hầu.

                          Xẩm tối, Ngô Thì Nhậm đã có mặt ở Trung thư lệnh Kỷ lễ hầu. Cố tri, tri kỷ tìm được nhau, nhất là trong cảnh ngộ này, sự mừng tủi, vồ vập đằm thắm là hiển nhiên. Trần Văn Kỷ nói ngay với Ngô Thì Nhậm:

                          - "Ông là bậc kỳ tài, không may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn sáu năm nay, những sự tích luỹ hẳn là càng thêm tinh tuý. Nay ra ứng dụng với đời, chính là hợp thời quá! Tôi đã đem tên ông trình với chúa thượng. Người khen tài ông trình với chúa thượng. Người khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. Chính chúa thượng đã sai tôi đi tìm ông. Vậy không phải cần gì đến ông Ước nữa!

                          Câu chuyện rắc rối với Võ Văn Ước qua rồi thì trở thành trò vui. Cười với nhau cho hả, Trần Văn Kỷ sốt sắng dẫn Ngô Thì Nhậm đi thẳng đến chỗ Nguyễn Huệ ngay.

                          Đêm hôm ấy, một đêm tháng năm, Năm Mậu Thân (1788), ánh sáng rừng rực của những cây đình liệu nơi lều trận của Nguyễn Huệ đã soi tỏ cuộc gặp gỡ giữ người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và viên quan văn tài trí mà lận đận Ngô Thì Nhậm.


                          Thân hình to lớn bó gọn trong bộ vũ phục đỏ, tóc quăn da sần, mắt sáng như chớp, tiếng nói như chuông, Nguyễn Huệ thẳng thắn và cởi mở, vỗ về Ngô Thì Nhậm:

                          - "Ngày trước, người vì chúa Trịnh không dong, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến đây, người làm sao thấy được bóng mặt trời? Có nhẽ đó cũng là ý trời muốn để dành người tài cho ta dùng. Vậy người hãy cố gắng mà lo việc báo đáp. Thế là được!"

                          Ngoảnh sang phía Trần Văn Kỷ, Nguyễn Huệ tiếp luôn:

                          - "Đây là người do ta gây dựng lại. Nên thảo ngay tờ chế, phong làm chức Thị lang bộ Lại, tước Tình phái hầu, cùng với Võ Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của triều Lê!"

                          Sức mạnh quả quyết, dứt khoát và thẳng thắn ở con người đứng đầu quân Tây Sơn ấy đã hoàn toàn chinh phục Ngô Thì Nhậm. Đắn đo, băn khoăn đến mấy thì trước sức mạnh tự nhiên mà kỳ lạ ấy, cũng đếu tan biến. Ngô Thì Nhậm chỉ còn biết cúi đầu, tạ ơn...

                          Quả là Ngô Thì Nhậm đã được tái tạo. Con người đã vào tuổi Bốn Mươi Hai ấy như trẻ hẳn lại. Ông làm việc mê mải như để bù lại cho thời gian đã mất đi trong mấy năm qua. Nhưng thật ra, chính là để báo đáp cái chế độ mới, đã gây dựng lại cho ông đúng như lời Nguyễn Huệ đã nói.

                          Người đứng đầu triều Tây Sơn quả là có con mắt tinh đời và có tài dùng người. Ở lại Thăng Long chỉ một thời gian ngắn để nhanh chóng giải quyết những công việc lớn của Bắc Hà. Nguyễn Huệ ngay sau đấy đã lại dẫn quân về Phú Xuân; Đàng trong còn nhiều việc cần thiết đang chờ đợi hơn. Mở tiệc tiễn biệt trước lúc lên đường, Nguyễn Huệ đã cho triệu tập năm viên quan tướng thân tín, cố cựu của mình; Đại tư mã Ngô Văn Sở, Nội hầu Phan Văn Lân, chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Thị lang bộ Hộ Trần Thuận Ngôn. Và thêm vào đấy là Ngô Thì Nhậm. Chúa Tây Sơn nói với tất cả, giọng tin cẩn mà thân thiết:

                          - "Sở và Lân là nanh vuốt của ta; Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta; Tuyết là cháu của ta; lại là dòng văn học Bắc Hà Thông thạo việc đời. Nay ta giao cho các ngươi cả toàn trấn trong toàn hạt. Những việc quan trọng trong toàn nước, đều cho tuỳ tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn thỏa, chớ vì kẻ cũ người mới mà xa cách nhau. Ai nấy phải đồng lòng hiệp sức, lo chung công việc để xứng đáng với sự trông nom của ta. Các ngươi hãy cố gắng nữa lên!

                          Nói rồi, lên đường.

                          Được đặt vào vị trí như thế và với một thái độ như thế của chúa Tây Sơn, giữa những người đã bao năm vào sinh ra tử theo Nguyễn Huệ, Ngô Thì Nhậm càng chỉ còn có một cách hết lòng chăm lo công việc, cảm kích mà phấn chấn.

                          Mà việc lớn đã đến. Cùng với những trận gió rét cuối năm tràn về là tin cấp báo từ quan ải: Tên vua Lê Chiêu Thống cõng rắn cắn gà nhà đã rước hai mươi chín vạn quân Mãn Thanh vượt qua biên giới!

                          Những bầy tôi trung của Nguyễn Huệ chịu mệnh trong nom đất Bắc Hà vội vàng vào cuộc họp bàn. Ý kiến gần như đã thống nhất. Và chưởng phủ Nguyễn Văn Dụng là người đầu tiên nói ra ý kiến ấy:

                          - "Hối cuối đời Trần, người Minh sang lấn nước ta. Bấy giờ Lê Thái Tổ khởi nghĩa vùng Lam Sơn, thế lực không địch nổi họ. Nhưng hành binh theo cách khôn ngoan, lại hay dùng mưu mẹo giỏi giang, rồi nhờ khéo dùng cách mai phục, nhân lúc quân giặc không phòng bị mà đánh úp, cho nên có thể lấy ít quân mà đánh được kẻ nhiều quân. Võ công tuyệt lạ, ngàn thuở ngợi khen.

                          Nay người Thanh ở xa đến đây, trèo đèo vượt suối, ta lấy quân nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước cái nơi xung yếu, cho quân nấp sẵn để chờ, cứ làm theo kế ấy, lo gì không thắng?"

                          Lập luận thật đã rành mạch; lại có cân nhắc cả kinh nghiệm xưa và tình hình trước mắt, nhất là phản ánh đầy đủ tư tưởng truyền thống quyết đánh của quân Tây Sơn! Bởi vậy, Ngô Thì Nhậm càng thấy bồn chồn không yêu. Trách nhiệm của người thông thạo Bắc Hà mà Nguyễn Huệ giao cho cũng càng đè nặng trên ông. Và ông quả quyết phản bác ngay:

                          - "Không phải thế đâu! Việc thiên hạ, tình tuy có giống nhau, nhưng thế lại có khác nhau. Sự được thua do đó cũng khác hẵn. Xưa kia, quân minh luông tuồng làm điều tàn bạo, người trong nước ai cũng muốn đuổi chúng đi, cho nên vua Lê Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần hưởng ứng. Lòng người như thế nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục thì người ta giấu kín cho, khiến giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc, đều bởi cớ ấy.

                          Ngày nay, những kẻ bầy tôi trốn tránh của nhà Lê, đâu đâu cũng có, nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà trông. Sĩ dân trong nước giành nhau mà đón chúng. Quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không, số quân nhiều hay ít, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng. Quân cơ bị tiết lộ, tự nhiên mất hết mọi việc tiện lợi. Ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết. Còn hòng đánh úp được ai?".

                          Tình thế quả là nghiêm trọng. Nhưng đấy lại chính là sự thực! Các tướng lĩnh Tây Sơn đều giật mình trước con mắt nhìn tinh tường của Ngô Thì Nhậm. Ngô Văn Sở gặng hỏi:


                          - Vậy thì nên làm thế nào?

                          Ngô Thì Nhậm lúc ấy mới đắn đo cân nhắc:

                          - "Phép dụng binh chỉ có một đánh, một giữ mà thôi. Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm rất lớn. Những kẻ trong nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều lại phao tin đồn nhảm, làm cho thanh thế của chúng to thêm, để cho lòng người sợ hãi, lay động. Số người Bắc Hà thuộc vào sổ quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền. Đem đội quân ấy mà đánh, không khác gì xua bầy dê đi chọi cọp dữ. Không thua sao được?

                          Đến như việc đóng cửa thành mà cố thủ, thì lòng người đã không vững, ắt thế nào cũng sinh ra mối lo ở bên trong. Thật chẳng khác gì đem một con chạch bỏ vào giỏ cua!

                          Đánh đã chẳng được, mà giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều không phải là kế hay..."

                          Nhìn khắp một lượt những khuôn mặt căng thẳng vì chăm chú lắng nghe của các tướng lĩnh Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm nghỉ một lúc rồi dằn giọng nói tiếp:

                          - "Nghĩ cho cùng thì chỉ còn mợt cách này: Sơm sớm truyền cho thủy quân chở thầy các thuyền lương, thuận gió giươn buồm, ra thẳng cửa biển, đến vùng Biện Sơn mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên đường, lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu, rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu Thống sau khi phục quốc, xếp đặt việc quân việc nước thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen, cũng chưa muộn gì!"

                          Những người dự bàn đều thở ra một hơi nhẹ nhỏm. Thật là một kế sách vẹn toàn mà thần tình, chủ động! Tuy vậy, Ngô Văn Sở vẫn còn băn khoăn:

                          - "Chúa công về Nam, đem thành này giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với giặc, còn mất với thành, trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ chức trách cầm quân. Nếu mới thấy bóng giặc mà đã trốn, bỏ thành cho giặc, thì chẳng những mang tội với chúa công, mà người Bắc còn coi ta ra cái gì?"

                          Đấy chính là điều băn khoăn trước tiên và cũng là cuối cùng của một kẻ cầm quân có trách nhiệm. Cho nên Ngô Thì Nhậm rành rẽ thuyết phục luôn:

                          - "Tướng giỏi đời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tuỳ theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Cũng giống như đánh cờ, trước thì chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước, đừng có đem nước sau làm nước trước mới là tay cao cờ.

                          Nay ta bảo toàn lấy quân lực mà rút lui, không bỏ mất một mũi tên, cho chúng ngủ trọ một đem rồi lại đuổi đi. Nếu có vì thế mà mắc lỗi, tôi xin sẽ bộc bạch với chúa công, thế nào cũng được chúa công lượng xét. Xin ông chớ nghi ngại"

                          Lập luận và thái độ như thế của Ngô Thì Nhậm cuối cùng đã hoàn toàn chinh phục được các tướng lĩnh Tây Sơn. Rút khỏi Thăng Long, quân Tây Sơn sau đấy đã chỉnh tề đội ngũ kéo về Tam Điệp, lựa thế hiểm của núi và biển mà chia quân thủy bộ, dựa vào nhau án ngự...

                          Từ nơi phòng ngự nghiêm ngặt ấy, đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, rạp người trên lưng ngựa, ngày đêm gấp đường về Phú Xuân cấp báo...

                          "Nước cờ Tam Điệp" của Ngô Thì Nhậm quả là lợi hại. Và hiểu được nước cờ ấy, cũng như hiểu được cả người đã đi nước cờ ấy, lại cũng không phải ai khác mà chính là Nguyễn Huệ!

                          Vào những ngày giáp tết Kỷ Dậu (1789), dẫn đầu mười vạn tân binh từ Phú Xuân qua Thanh Nghệ đi đánh giặc Thanh, Nguyễn Huệ đã ra đến Tam Điệp. Ngô Văn Sở và các tướng lĩnh Tây Sơn đi đón chủ tướng, đều mang gươm trên lưng, xin chịu tội. Nguyễn Huệ rất vừa lòng trước thái độ ấy của những tôi trung của mình. Và chúa Tây Sơn bắt đầu quở trách mà chẳng có chút giận dữ nào trong từng lời:

                          - Các ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho cả toàn hạt, lại cho tùy tiện làm việc. Vậy mà giặc đến, không đánh nổi một trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: "Quân thua chém tướng". Tội các ngươi đáng chết một vạn lần!

                          Nhìn khắp mặt các quan tướng, Nguyễn Huệ nói tiếp:


                          - "Song ta nghĩ các ngươi đều là hạng vũ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, còn việc tùy cơ ứng biến thì không có tài. Cho nên ta để Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc với các ngươi, chính là lo về điều đó! Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cứ rõ ràng. Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ làm nội ứng cho chúng, thì các ngươi làm sao mà cử động được? "

                          Bốn bề tướng sĩ im phăng phắc. Cặp mắt lấp lánh những tia sáng thích thú của chúa Tây Sơn nhìn thẳng vào Ngô Thì Nhậm. Nguyễn Huệ thong thả nói:

                          - "Các ngươi đã biết nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là Ngô Thì Nhậm chủ mưu. Sau hỏi Văn Tuyết thì quả đúng như vậy..."

                          Tất cả các cặp mắt của các quan tướng đều dồn vào Ngô Thì Nhậm. Bừng bừng như vừa nhấp một ngụm rượu nặng, Ngô Thì Nhậm sụp xuống, lạy hai lạy tạ ơn, nhưng chính là để tỏ lòng cảm kích đối với người chủ tướng, đồng thời cũng chính là bậc tri kỷ lớn nhất của mình.

                          "Nước cờ Tam Điệp" của Ngô Thì Nhậm như thế là đã được phân tích, đánh giá, từ một đầu óc chính trị sắc nhạy và một cặp mắt chiến lược tinh tường. Nước cờ ấy đã tạo ra cái thế quyết thắng cho toàn bộ ván cờ xuân Kỷ Dậu của Nguyễn Huệ: Quét sạch hai mươi vạn giặc Thanh xâm lược ra khỏi bờ cõi!

                          Nhưng người anh hùng của người nông dân Tây Sơn không chỉ đánh giá và sử dụng Ngô Thị Nhậm ở mức ấy. Dưới chân núi Tam Điệp, chính cũng vào những ngày giáp tết Kỷ Dậu, trước lúc kết thúc ván cờ lịch sử đại thắng hai mươi vạn quân Thanh, Nguyễn Huệ đã nói với tả hữu:

                          - "Lần này ta thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày là có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy?

                          Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nỗi binh đao. Việc ấy, phi Ngô Thị Nhậm thì không ai làm được!"

                          Lại phải có con mắt rất sáng và lòng tin cực mạnh mới có được những lời lẽ phó thác như thế. Và quả nhiên, Ngô Thì Nhậm đã không phụ những lời ấy. Sau giông tố sấm sét từ thanh gươm của Nguyễn Huệ giáng vào quân Thanh, là dịp tấn công tung hoành bằng ngòi bút của Ngô Thì Nhậm. Thảo thư, viết chiếu, nhiều lúc thay lời Quang Trung, liền trong mấy năm sau chiến thắng xuân Kỷ Dậu, đứng đầu tất cả mọi việc giao thiệp với triều đình nhà Thanh khôn khéo, kiên trì, linh hoạt và táo bạo, đứng vững trên cái thế cao của cả một cuộc chiến thắng phục hưng và vĩ đại, Ngô Thì Nhậm chẳng những phá được mưu lược trả thù của nhà Thanh, mà lại còn xoay chuyển tình hình, buộc nhà Thanh phải chính thức công nhận triều đại Tây Sơn là triều đại chính thống của đất nước! Hơn thế nữa, chủ trương tạo ra một phái đoàn Quang Trung Nguyễn Huệ giả mạo, đi sang tận kinh đô nhà Thanh, Ngô Thì Nhậm còn làm cho cả triều đình Mãn Thanh phải tỏ hết thịnh tình và nghi thức ưu đãi, kính nể và cảm thông với những người làm chủ mới của non sông chiến thắng...

                          Những năm sống với Quang Trung Nguyễn Huệ là những năm đắc ý nhất trong toàn bộ cuộc đời Ngô Thì Nhậm. Đấy cũng là những năm mà đất nước trải qua những cơn sóng gió và chuyển mình lớn lao. Đồng thời, đấy cũng là những năm của những chiến công cực kỳ hiển hách của đất nước, gắn liền với sự hưng khởi của phong trào nông dân Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm đã được luyện rèn từ trong một thời như thế. Và ông, chủ yếu là do vạch được một đường đi thẳng băng giữa thời thế ấy; gắn bó với phong trào Tây Sơn và sự nghiệp cứu nước, nên đã tạo ra được những đóng góp thật xuất sắc đối với thời thế lúc ấy. Từ chức Thị Lang bộ Lại, ông đã làm đến chức Thượng thư bộ Binh.

                          Năm 1972, Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc, đồng thời là minh chúa, ân nhân và tri kỷ của Ngô Thì Nhậm, đột nhiên trúng một cơn ác bệnh, từ trần giữa lúc còn đang ôm những hoài bão cao cả của mình, và những kỳ vọng lớn lao đặt ở Ngô Thì Nhậm. Triều đại Tây Sơn từ đấy cũng suy dần.

                          Trong vòng mười năm, từ sau khi Nguyễn Huệ mất đến khi nhà Tây Sơn sụp đổ, người ta thấy Ngô Thì Nhậm, một lần nữa, lại năng tìm dịp trở về sống ở ngôi nhà cũ trên bờ sông Nhuệ, làng Tả Thanh Oai. Mái tóc đã đốm bạc của ông lại cúi nghiêng trên án thư. Bộ óc lớn của ông, sau một thời gian hoạt động căng thẳng và ghi nhận thêm bao bài học và kinh nghiệm, lại tập trung vào việc trước thuật. Ghi chép, tổng kết việc giao thiệp với nhà Thanh, Ngô Thì Nhậm viết các bộ Bang giao hảo thoại và Bang giao tập. Những kiến thức về sử học, những kinh nghiệm chính trị, những suy nghĩ triết học, những cảm xúc sáng tạo về văn học, ông dồn vào việc hoàn thành và chỉnh lý các bộ Xuân thu quản kiến, Kim mã hành dư, Hoàng hoa đồ phả, Yên đài thu vịnh, Cúc đường bách vịnh, Hán các anh hoa, Trúc Lâm tôn chỉ nguyên thoại.

                          Một toán lính sắc phục lạ, ập vào nhà Ngô Thì Nhậm giữa lúc ông đang cặm cụi trước án thư. Chúng đóng gông đeo xiềng, đẩy ông vào cũi và khiêng thẳng về Thăng Long.

                          Từ mấy năm nay, Ngô Thì Nhậm đã lường trước được cơ sự này. Ông rất bình thản, dường như không chú ý đến xung quanh nữa.

                          Triều Tây Sơn thế là sụp đổ. Đương đầu với một kẻ thù gian hiểm là bọn Gia Long Nguyễn Ánh, sau khi Nguyễn Huệ mất, chẳng những nó đã thiếu một người cầm đầu kiệt xuất, mà lại đi vào cái rớp xấu của những triều đại trước: Bè đảng tranh chấp, sao lãng dân tình, ăn chơi sa đọa... Trong khi đó, bọn Nguyễn Ánh ra sức chiêu nạp từ những tên cường hào đến những tên du thủ, lại bám áo bọng người Tây Dương đang dòm ngó đất này, tìm hết cách chiếm lại ngôi chúa tể bằng bất cứ lúc nào...

                          Không còn cơ cứu vãn tình thế, cũng như không còn có dịp để thi thố tài năng, Ngô Thì Nhậm đành cố tìm cách lãng quên trong việc trước thuật. Và ông bình thản chờ đón việc sẽ phải xảy đến với mình. Sẽ đến lúc, chỉ còn ông với tấm lòng cô trung của ông mà thôi.

                          Nhưng đến khi bị dẫn vào dinh "Tổng trấn Bắc Thành" nhác trông thấy một hình thù quen, Ngô Thì Nhậm bất giác khẽ giật mình. Đặng Trần Thường! Phải, chính làcậu ấm họ Đặng, ngày trước đã thân đến tận nhàNgô Thì Nhậm cầu cạnh nhờ vả, để rồi bị cự tuyệt nhục nhã! Tên Đặng Trần Thường ấy, ngày sau ấy đã tìm đường vào Gia Định theo phò Nguyễn Ánh, Thường đã leo được đến chức Phó Tổng trấn Bắc Thành.

                          Tiểu nhân đắc trí, nhớ tới mối hiềm cũ với Ngô Thì Nhậm, Đặng Trần Thường đồng thời tính ngay đến chuyện triệt hậu họa tứ một cận thần tài cán của Quang Trung ngày trước. "Quyền hành mới vào tay y mà đã được dùng vào việc này rồi!" Ngô Thì Nhậm thoáng nghĩ như vậy, và lập tức, lấy ngay lại trong mình sự bình thản, hơn thế nữa, sự tin tưởng vững vàng. Điềm đạm, ông nhìn thẳng vào mặt Thường.


                          Gặp cái nhìn ấy, Đặng Trần Thường mất vẻ giương giương tự đắc ban đầu. Tuy vậy, khóe miệng giảo hoạt chẳng đổi thay của Thường vẫn nhếch lên, hằn học:

                          - Thời thế quả là chóng đổi thay, xoay vần! Thấm thoát vậy mà đãhai mươi lăm rồi! Nhưng ta thì chẳng bao giờ quên cái... đầu bài ngày ấy ông đã ra... Vậy nay, xin hoàn lại cho ông!

                          Từ chiếc án cao, một mảnh giấy cuộn tròn được lính hầu mang tới mở sát ngay mép gông của Ngô Thì Nhậm. Và Đặng Trần Thường cố nhếch mép cười. Liếc nhanh vào cuộn giấy rồi ngẩng lên, Ngô Thì Nhậm thấy cái cười ấy. Một luồng máu nóng hừng hực bốc thẳng lên mặt, Ngô Thì Nhậm mím chặt môi, ngước mắt nhìn lên cao: "Kẻ tiểu nhân đắc chí này muốn mượn chuyện cũ để làm nhục ta sao? Được rồi, để xem..."

                          Thì ra cuộn giấy vừa mở ra trước mắt Ngô Thì Nhậm đó, chính là một vế câu đối. Và hẳn là Đặng Trần Thường đã mất nhiều công phu để nghiền ngẫm nó:

                          "Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai? "

                          Một vế câu đối mượn ngay ý của Ngô Thì Nhậm ngày xưa. Và chữ nghĩa khá hiểm hóc. Nhất là trong cảnh ngộ như thế này.

                          Nhưng tất cả nghị lực, tài năng và sức sống kỳ lạ đã cùng một lúc, vụt trỗi ngay dậy trong Ngô Thì Nhậm, giữa một cơn kích thích cao độ của ý chí chiến đấu. Sự mẫn tiệp của ông bắt nhanh ngay lấy những tiếng vừa luận về thời thế của Đặng Trần Thường. Đôi mắt sáng quắc nhìn chăm chăm vào khoảng không ở cao trước mặt, khuôn mặt căng thẳng, Ngô Thì Nhậm lập tức đảo chữ, tìm ý, đón vần: Ông đã chấp nhận cuộc thách đấu, không đắn đo và coi đó là cuộc chiến đấu cuối cùng của mình!

                          Gian nhà im phăng phắc. Lũ lính hầu kinh ngạc trước cảnh tượng chưa bao giờ từng thấy. Mấy tên thư lại ngồi trơ như phỗng đá. Và Đặng Trần Thường tắt hẳn khóe cười tự lúc nào. Cuộc giao chiến trên trường văn trận bút này rõ ràng lại có điều gì bất lợi xảy đến cho hắn rồi!

                          Đột nhiên, vẫn ngẩng cao, Ngô Thì Nhậm vẫy tay ra hiệu đòi giấy bút. Những nét chữ gân guốc, vùn vụt tràn ra ngay dưới bàn tay quan Binh bộ thượng thư của triều đại Tây Sơn đã thất thế:

                          "Thế chiến quốc, thế xuân thu, dù thời thế thế nào cũng thế!"

                          Hơi văn đi mạnh như gió. Mà ý vững như thành. Và chữ nghĩa đối lại chan chát! Quả là Đặng Trần Thường đã chọn nhầm cách trả thù!

                          Kinh hoàng trước tài trí của đối thủ, Thường vội vả đổi thái độ. Đòn giáng quá đau, hơn thế nữa, hậu quả sẽ còn không lường sao hết được. Thường cố gượng gạo chống đỡ. Quát bảo tả hữu tháo gông, cởi xiềng cho Ngô Thì Nhậm, rồi sau đấy, sai đưa ông sang nhà nghỉ, mấy ngày liền, Đặng Trần Thường ra sức dụ dỗ Ngô Thì Nhậm đi theo chúa mới cùng với hắn, và nhất là... Sửa lại vế đối! Mánh khóe của Thường kể cũng đã khá gian ngoan. Hắn chỉ nài Ngô Thì Nhậm đổi cho những chữ: "Dù thời thế thế nào cũng thế" thành ra "Gặp thời thế thế thời phải thế!". Nhưng rõ ràng, giữa mấy chữ giản đơn ấy, là cả một đại dương về thái độ và tinh thần! Ngô Thì Nhậm trước sau chỉ một mựcim lặng hoặc cười nhạt.

                          Ông đã giữ thái độ ấy cho đến lúc chết. Biết không thể nào lay chuyển Ngô Thì Nhậm, long khao khát trà thù lại nổi dậy trong lòng Đặng Trần Thường. Tên Phó Tổng trấn Bắc Thành của Gia Long Nguyễn Ánh đã sai lính điệu Ngô Thì Nhậm ra trước Văn Miếu. Trận đòn thù đúng một trăm trượng hằn dọc giáng xuống tấm thân tuổi tác đã sáu mươi của Ngô Thì Nhậm, đúng theo "Thể lệ" trừng phạt của chế độ phản động nhà Nguyễn đối với những người có đạo học mà lại mắc "Tội theo giặc" vào lúc ấy.

                          Và Ngô Thì Nhậm đã bỏ mình sau trận đòn như thế.
                          _________________

                          #13
                            Hoàng Dung 03.02.2006 14:46:16 (permalink)
                            Nước Âu Lạc và nhà Thục


                            Theo truyền thuyết và sử cũ thì An Dương Vương tên là Thục Phán là cháu vua nước Thục. Nước Thục này là một bộ tộc đã tới vùng Bắc Bộ từ lâu, sống xen kẽ với người Lạc Việt và người Thái, được gọi là người Âu Việt. Chuyện xưa kể lại rằng: Vua Hùng Vương có người con gái nhan sắc tuyệt vời tên là Mỵ Nương. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ sang cầu hôn. Vua Hùng Vương muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng: Thục muốn lấy nước ta, chỉ mướn tiếng cầu hôn đó thôị Không lấy được Mỵ Nươn, Thục Vương căm giận, di chúc cho con cháu đờu sau thế nào cũng phải diệt nước Văn Lang của vua Hùng. Ddến đời cháu là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bạii quân Thục. Vua Hùng Vương tự ngạo nói: ta có sức thần, nước Thục không sợ hay saỏ Bèn chỉ lo say sưa yến tiệc không lo việc quân chinh. Vì thế, khi quân Thục đánh lại, vua Hùng còn trong cơn saỵ Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất.

                            Năm Giáp Thìn (257 trước công nguyên), Thục Phán dẹo yên mọi bề, xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, (tên hai nước Âu Việt và Lạc Việt ghép lại) đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú.

                            Nguồn: sưu tầm
                            #14
                              Hoàng Dung 03.02.2006 14:53:51 (permalink)


                              CÁCH ĐẶC TÊN ĐỆM CỦA VUA CHÚA NHÀ NGUYỄN

                              Dòng họ Nguyễn làm Chúa, Vua từ 1558 đến 1945, con cháu rất đông. Để khỏi phải nhầm lẫn về thế, thứ, thân, sơ và người trong họ, các Chúa và các Vua Nguyễn đã ban hành những nguyên tắc đặt tên và tên đệm cho con cháu trong họ mình. Việc đặt tên do Vua Minh Mạng chủ trương để áp dụng cho hai mươi đời tính từ Vua Thiệu Trị về sau, chia làm 4 "loại" :

                              1. Từ Vua Minh Mạng trở về trước (tức Vua Gia Long ngược lên thêm 9 đời chúa).
                              2. Những con cháu của chínhVua Minh Mạng.
                              3. Những con cháu của Anh, của Em Vua Minh Mạng
                              4. Họ của một số con cháu khác (Công tính)

                              Ị Những con cháu thuộc thế hệ Vua Minh Mạng trở về trước :

                              Gồm có con cháu 9 đời chúa, anh em Vua Gia Long, anh em Vua Minh Mạng

                              Chúa Tiên (1558-1613) từ ngoài bắc vào, mang họ Nguyễn tức Nguyễn Hoàng. Tương truyền rằng khi bà vợ ông nằm nơ thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy cả chữ Phúc. Nhiều người đề nghị lấy chữ Phúc đặt tên cho con thì bà cho rằng ; " Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng Phúc, còn lấy chữ Phúc đặt làm tên đệm thì mọi người đều được hưởng Phước. Bà đặt tên cho con là Nguyễn Phước Nguyên, nhánh họ Nguyễn vào nam làm chúa đổi thành Nguyễn Phước bắt đầu từ đó. Từ Nguyễn Phước xuống đến vua Minh Mạng đều mang họ Nguyễn Phước (Vua Minh Mạng là Nguyễn Phước Đảm). Những người này cùng họ với vua Minh Mạng được nhà vua đặt là Tôn Thất. Con gái của Tôn Thất gọi là Tôn Nữ.

                              Một số thân tộc thuộc dòng những con trai khác của Nguyễn Hoàng còn ợ lại đất bắc thì đổi ra thành họ Nguyễn Hựụ

                              IỊ Những con cháu của Vua Minh Mạng :

                              Vua Minh Mạng cho làm riêng cho con cháu mình bài Đế Hệ Thi 20 chữ dành cho 20 đời :
                              Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
                              Bảo Qúy Định Long Trường
                              Hiền Năng Kham Kế Thuật
                              Thế Thụy Quốc Gia Xương

                              Con Vua Minh Mạng có tên đệm là Miên như Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương), Miên Trinh (Tuy Lý Vương).

                              Chỉ có những người trong Đế Hệ Thi mới được làm vua : Miên Tông (Vua Thiệu Trị), Hồng Nhậm (Vua Tự Đức), Ưng Chân (Vua Dục Đức), Bửu Lân (Vua Thành Thái), Bửu Bảo (Vua Khải Định), Vĩnh San (Vua Duy Tân), ....

                              Con gái và cháu gái của Vua Minh Mạng có cách đặt tên riêng. Nói chung, con gái hay cháu gái của Vua Minh Mạng nói chung đều áp dụng theo một cách đặt chữ lót sau đây :

                              Con gái của vua là Hoàng Nữ, khi được sắc phong thì trở thành Công Chúa, và có tên hiệu riêng. Ví dụ Hoàng nữ Tring Thận (em ruột Miên Thậm) được phong làm Lại Đức Công Chúạ

                              Công chúa về sau có anh hay em được làm vua thì được gọi là Trưởng Công Chúa (để phân biệt với Công Chúa của Vua đang trị vì), có cháu làm vua (vua tại vị gọi bằng cô) thì được gọi là Thái Trưởng Công Chúạ

                              Con Trai của Hoàng Tử là Công Tử, chị em gái của Công tử là Công Nữ , con gái của Công tử là Công Tôn Nữ, con gái xủa Công tôn nữ là Công tằngTôn nữ, xuống một bặc nữa gọi là Công huyền Tôn nữ, ..... Nhưng để đơn giản đời kế tiếp chỉ gọi là Tôn nữ với ý nghĩa là cháu gáị

                              IỊ Những con cháu của anh và em vua Minh Mạng

                              Vua Minh Mạng có 1 người anh (Hoàng Tử cảnh) và 9 người em trai có con cháụ Những người này là phiên dậu gần gũi nhà vuạ Để phân biệt với các Tôn Thất khác (con cháu của 9 đời chúa Nguyễn), Vua Minh Mạng cho làm 10 bài Phiên Hệ Thi, mỗi bài có 20 chữ dùng làm chữ lót sau Tôn Thất cho 20 đời con cháu của Anh và Em Vua Minh Mạng.

                              Bài I dành cho con cháu Hoàng Tử Cảnh, anh cả của Vua Minh Mạng :

                              Anh Duệ Mỹ Duệ Anh Cường
                              Liên Huy Phát Bội Hương
                              Lệnh Nghi Tàm Tốn Thuận
                              Vị Vọng Biểu Khôn Quang

                              Dòng này đến đời thứ tư có một người rất nổi tiếng là ông Cường Để (Kỳ Ngoại Hầu) giữ cương vị minh chủ của Việt nam Quang Phục hội do nhà cách mạng Phan Bội Châu sáng lập.
                              ________________
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 34 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9