những mẫu truyện nhân vật lịch sử Việt Nam
Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 34 trên tổng số 34 bài trong đề mục
Hoàng Dung 04.02.2006 11:19:12 (permalink)
sưu tầm


Nguyễn Biểu


Cuối mùa hạ. Gió đông nam từ biển Đông quạt mát rượi vào đất liền cũng không xua hết cái nóng chiều hừng hực. Hành tung của Trần Trùng Quang im lìm náo trong một vùng gần như hoang vắng. Từ Nghệ An rút vào đây, vua Trần hy vọng có thể nhóm lại lực lượng, rồi từ căn cứ cực nam của đất nước, tung quân đi dẹp bọn xâm lượt nhà Minh, rửa hận cho thần dân, dựng lại cơ nghiệp nhà Trần.

Chiếm giữ được Nghệ An, quân số trong tay còn độ bằng, bốn phần mười, lực lượng khó khăn, cho nên trước sức tấn công ồ ạt của quân xâm lược do Trương Phụ và Mộc Thạch chỉ huy, nhà vua đã cùng bầy tôi chạy vào vùng đất Hóa Châu xa xôi này. Lao đao lận đận nhiều phen vì sự nghiệp chống giặc, trong lúc tình thế lại ngày càng bất lợi, hôm nay nhà vua mở triều hội bất thường để bàn việc hệ trọng. Bên trong hoàng cung Trần Trùng Quang ngồi trên sập. Trước mắt nhà vua là quần thần. Trong đám bầy tôi trung thành của nhà vua người ta thấy mặt Thái bảo Nguyễn Cảnh Dị, Thái phó Nguyễn Súy, Đồng bình chưởng sư Đặng Dung, Điện tiền thị ngự sự Nguyễn Biểu...Nhà vua nhìn quần thần ngặp ngừng. Sau một hồi đắn đo, vua Trần Trùng Quang dè dặt:

- Vì nạn nước, các người cùng ta sống chết có nhau. Khi lênh đênh trên sóng biển, lúc lặn lội núi rừng, ai cũng một lòng lo đáp đền nợ nước. Vua Minh quỷ quyệt, bề ngoài mượn tiếng diệt nhà Hồ lặp lại nhà Trần, còn hạ chiếu khuyên răng, vỗ về, mua chuộc lòng người nhưng bên trong thì tìm cách diệt con cháu nhà Trần, tàn sát những ai chống lại chúng, mưu toan cướp nước ta. Cũng có kẻ cam tâm làm tôi tớ cho giặc, mong có dịp trả thù. Trong tình thế ấy mà chúng ta bây giờ thì quân ít lương thực không đủ. Nhân Minh Thành tổ vẫn rêu rao tìm kiếm con cháu nhà Trần, ta muốn tương kế tựu kế, dâng biếu cầu phong để hòa hoãng tình thế, có thời gian cũng cố lực lượng đối phó với giặc?

Tiếng nói của nhà vua trầm trầm, nhỏ dần rồi dừng lại. Các bầy tôi cúi đầu, yên lặng. Không phải vì sợ gặp giặc, mà ai cũng nghĩ đến quyết định của nhà vua liệu có xoay chuyển được tình thế hay không?

Trong lúc các tướng lĩnh đang suy tính đến một cuộc chiến đấu sống mái nay mai sẽ diễn ra trên vùng đất Hóa Châu này, thì một văn quan gầy gò mảnh khảnh, tóc đã lóm đóm bạc, ngửng đầu chắp tay chậm rãi:

- Muôn tâu hạ thần xin được đem ba tất lưỡi để báo đền nợ nước.

Mọi con mắt điều dồn về con người có giọng nói sang sảng, chậm rải và chắc nịch. Đó là Điện tiền thị ngự sử Nguyễn Biểu, nổi tiếng là người cương trực, đã đỗ thái học sinh, quê ở Bình Hồ, huyện Chi La, phủ Nghệ An. Con người ấy đã từng có mặt ở triều đình nhà Hậu Trần ngay từ ngày đầu của công việc chống giặc...

Bên trong hành cung vừa mới dựng vội, mọi người chìm trong suy tư, như nắng chiều đang đổ xuống miền biên viễn xa xôi cằn cỏi.

Sau mấy ngày dừng lại ở quê nhà để bái yết tổ tiên, Nguyễn Biểu dẫn đoàn tùy tòng rời làng Bình Hồ từ sáng sớm.

Ngồi trên lưng ngựa, Nguyễn Biểu đưa mắt nhìn về hướng đông nam Hóa Châu thăm thẳm. Nguyễn Biểu thầm nghĩ không biết lúc này nhà vua và triều đình đang làm gì? Chắc chắn mọi người đang mong đợi tin của sứ giả. Lúc chia tay nhà vua, Nguyễn Biểu đã gởi gấm nỗi lòng của mình trong bài thơ họa:

"Tiếng ngọc từ vân trước bệ hoa
Ngóng tai đồng vọng thuở âu ca
Đường mây vô kỷ lần lần trải
Ải tuyết cờ mau thức thức pha
Há một cung tên lần chí trẻ
Bội mười vàng sắt đúc gan già
Hổ mình vả thiếu tài chuyển đổi
Dịch lộ ba ngàn dám quàn xa".

Lúc này, mỗi bước một xa quê hương, Nguyễn Biểu cảm thấy lòng nặng trĩu. Trên đất Chi La này, năm năm về trước, Nguyễn Biểu đã cùng các chiến hữu tôn nhà vua lên ngôi và tự nguyện đứng dưới cờ dấy nghiệp cứu nước. Cũng trên dải đất này, hôm nay cảnh vật đã trở nên điêu tàn, xơ xác dưới lưỡi gươm của giặc. Ôi! Quê hương đất nước! Vì quê hương đất nước, Nguyễn Biểu xin hiến dâng cả cuộc đời. Và giờ đây Nguyễn Biểu đang ung dung đi vào thành giặc mà không phải không biết rằng mình đang nhận một trọng trách.

Nguyễn Biểu nhớ rất rõ mấy năm trước, nhà vua đã từng sai Hành khiển Nguyễn Nhật Tư và thẩm hình Lê Ngân sang nhà Minh, hai người này đã bị giặc hạ ngục rồi giết chết. Năm Tân Mão (1411) lại đến lượt Hành khiển Hồ Nghiện Thần và Thăm hình Bùi Nội Ngôn sang Yên Kinh Hai người này về nước, nhưng vì hèn kém không giữ được quốc thể nên Hồ Nghiện Thần đã bị chết nhục. Phen này đến lượt mình. Trong lúc giặc như hổ đói, Nguyễn Biểu dùng lời nói để cản thế giặc, để nhà vua và triều đình có thời gian cũng cố lực lượng, đủ sức quét chúng ra khỏi bờ cõi.

Sự thể rồi sẽ ra sao, chưa biết được. Nhưng Nguyễn Biểu tin chắc rằng dãy Hùng Lĩnh kia, dòng sông Lam cùng với dải này sẽ mãi là con cháu mai sau.

Mãi suy nghĩ, Nguyễn Biểu không để ý đến điếm canh của giặc trên bờ sông Lam đã hiện ra trước mắt.

Tên lính canh thấy đoàn người nghi vệ đường hoàng ung dung đi trên đường cái cũng lấy làm lạ. Không dám thét lác, hắn cắp giáo đứng hỏi:

- Các ngài ở đâu đến?


Nguyễn Biểu dừng ngựa. Viên quan tùy tùng đứng lên quát bảo:

- Sứ giả của nhà vua đến Thành Sơn yết kiến Trương tổng binh.

Đoàn sứ giả thúc ngựa lao xuống bãi cát trãi dài im lìm dưới nắng sớm. Tên lính ngơ ngác nhìn theo. Nhe nói đến nhà vua lại thấy nói gặp Trương Phụ, hắn rụt đầu, không dám đòi tiền mãi lộ như hắn vẫn thường làm đối với khách qua đường.

Đứng trên đò, Nguyễn Biểu nhìn dãy thành lũy đá hiện ra ngoằn ngoèo trên núi. Đường ngang ngõ dọc vùng này đối với Nguyễn Biểu không xa lạ.

Trong những năm tháng lăn lộn vì việc nước, Nguyễn Biểu đã từng đặt chân khắp vùng đồi núi này. Hai tháng trước đây, vùng núi non thấp nhỏ này còn là nơi đồn trú của quân triều đình, bây giờ đã trở thành sào nguyệt của giặc. Từ khi chiếm được một phần đất Nghệ An Trương Phụ đã biến nơi đây thành dinh lũy của chúng. Hằng ngày chúng cho quân lính đi lùng sục, bắt nhân dân quanh vùng nộp người của và gây ra bao nhiêu tai họa, tang tóc. Nhìn bầy người đói rách đang cật sức khuân đá đào hào ở lưng núi dưới roi vọt của giặc, Nguyễn Biểu rất đau lòng. Nghẹn ngào và câm giận, Nguyễn Biểu ước chi trong tay có binh hùng tướng mạnh quét sạch lũ giặc tàn bạo để rửa nhục cho giống nòi. Nhưng lúc này Nguyễn Biểu chỉ đến đây với đoàn tùy tùng ít ỏi, không có vũ khí mà chỉ có một tờ biểu cầu phong và mấy hòm cóng phẩm!

Sang sông, Nguyễn Biểu lặng lẽ dẫn đoàn tùy tùng về phía cổng thành. Từng toán giặc nghênh ngang đi trên đường ngơ ngác nhìn đoàn người lạ mặt. Chúng không biết rằng đây là những người thề không đội trời chung với chúng, nhưng vì việc nước phải dấn thân vào sào huyệt của giặc. Vượt qua đoạn đường dóc thoai thoải, Nguyễn Biểu dừng ngựa. Đoàn tùy tùng chờ lệnh. Suốt dọc đường từ Chi La đến đây, bây giờ đứng trước thành giặc họ mới thấy quan Ngự họ Nguyễn lên tiếng. Đưa mắt nhìn về phía cổng thành, vẫn giọng nói chắc nịch và chậm rãi, Nguyễn Biểu nói với mọi người:

- Đã đến thành giặc, các người phải cẩn thận, chỉ làm việc theo lệnh của ta. Phải tỏ cho giặc biết rằng ta không sợ chúng, kẻ nào hèn nhát ta sẽ nghiêm trị.

Gần gũi quan Ngự sử, lại cùng đi với nhau hàng nữa tháng ròng, mọi người càng hiểu thêm thêm vị sứ giả của nhà vua. Quan Ngự sử ít nói, nhưng mỏi khi đã lên tiêng về việc gì thì thái độ rất kiên quyết đến nhà vua cũng phải kính nể ông. Cũng chính vì thế, nhà vua đã cử ông đi thương thuyết với tướng giặc. Nhìn đôi mắt sáng ngư sao, nổi bật trên khuôn mặt gầy gầy khổ của quan Ngự sử, mọi người cuối đầu vâng lệnh.

Ngồi đợi lâu trong quán địch, Nguyễn Biểu sốt ruột đứng dậy bước ra hàng hiên, nhìn theo con đường đá rộng dẫn thẳng vào trại trung quân. Trên khu đất rộng rãi nhưng cằn cõi nhiều dãy nhà thấp lè tè tụ thành từng khóm. Nổi bật lên là hai ngôi nhà đồ sộ mái cong, ngói đỏ tươi. Nguyễn Biểu đoán đây là hành dinh của Trương Phụ. Thấp thoáng ở đằng xa, từng đoạn thành đá màu xam xám nối nhau vây bọc. Cả tòa thành vừa mới dựng, mặt đất còn nham nhở, ngổn ngang gạch đá, đang quằn quại dưới nắng hè gay gắt. Từng bầy lính giặc mặt đỏ gay, gào thét nối nhau kéo ra cổng thành. Nguyễn Biểu châu mày trở về chỗ củ. Một viên ngụy quan quần áo chỉnh tề bước vào vái chào Nguyễn Biểu:

- Kính thưa ngài, quan Tổng binh xin mời ngài vào yết kiến.

Không trả lời, Nguyễn Biểu đứng dậy. Như đội quân ra trận, đoàn tùy tòng răm rắp bước theo. Tên ngụy quan ngăn lại:

- Không được, tôi được lệnh mời một mình ngày.

Nguyễn Biểu quắc mắt:

- Sao? Ngươi có mang được cho ta những hòm phẩm vật này không?

Tên ngụy quan cúi đầu. Nguyễn Biểu chọn hai người đi theo mình. Những người ở lại nhìn theo quan Ngự sử, lo ngại.

Không đợi tên ngụy quan dẫn đường, Nguyễn Biểu sửa lại khăn áo, khoan thai đi thẳng vào hành dinh của Trương Phụ. Đi giữa hai hàng lính cắp gươm đứng thị uy, Nguyễn Biểu bước lên thềm. Trong dinh, Trương Phụ ngồi ngả mình trên kỷ, đặt chân trên vai hai nữ tỳ quỳ lom khom. Bộ võ phục dát đồng làm cho thân hình của hắn nhìn bề ngoài như pho tượng. Nguyễn Biểu đến trước mặt Trương Phụ, đứng thẳng người, cất giọng sang sảng:

Điện tiền thị Ngự Sử Nguyễn Biểu tôi kính chào ngài tổng binh.

Trương Phụ không động đậy. Hắn đưa mắt liếc nhìn viên ngụy quan đang chắp tay đứng hầu phía bên tả. Tên ngụy quan vội lên tiếng:

- Thưa ngài, yết kiến quan tổng binh mà không quỳ lạy, tôi e ngài làm cho quan nổi giận.

Lúc này Nguyễn Biểu mới nhìn kỹ mặt tên ngụy quan. Chẳng phải là ai xa lạ, chính là Phan Liêu, con Phan Quý Hựu. Thái Bảo của nhà Trần đã đầu hàng giặc. Nay Quý Hựu chết, Phan Liêu được Trương Phụ cho thay cha giữ chức tri phủ Nghệ An. Nhận ra mặt tên bán nước, Nguyễn Biểu quắc mắt:

- Thì ra ông cũng có mặt ở đây à?

Giá như lúc khác Nguyễn Biểu đã vạch mặt bán nước của hắn. Nhưng lúc này, đến đây để đối mặt với Trương Phụ, Nguyễn Biểu nén giận nói cho hắn biết:

- Trương tổng binh là bầy tôi của vua Phương Bắc, ta là bầy tôi của vua Phương Nam. Cùng là bầy tôi cả, cớ sao ta lại phải quỳ lạy?

Nói xong Nguyễn Biểu đưa mắt cho hai người tùy tòng đem hòm lễ vật và tờ biểu cuốn trong hộp sơn son thiếp vàng ra mắt Trương Phụ rồi nói thẳng với tướng giặc:

- Thưa ngài, tôi được lệnh của nhà vua đến dâng ngài chút phẩm vật và nhờ ngài chuyển đệ đến Minh Thành tổ tờ biểu cầu phong của vua nước tôi.

Trương Phụ trừng mắt nhìn. Nguyễn Biểu bước lại trước kỷ phía bên phải án thư, ngồi thẳng người, tì tay trên thành ghế.

Như một con hổ đói, Trương Phụ nổi giận, đạp chân chồm dậy. Hai người nữ tỳ ngã choài dưới chân hắn lóp ngóp bò dậy, lặng lẽ lùi vào một góc nhà. Trương Phụ quát hỏi:

- Vua nhà ngươi là ai?

- Thưa ngài, ngài lại không biết vua Trần Quý Khoáng, cháu Trần Nghệ Tông, lên ngôi từ năm Kỷ Sửu hiệu là Trùng Quang. Vua nước tôi đã từng gặp ngài và quân tướng của ngài ở Bình Than tháng bảy năm Kỷ Sửu, rồi lại gặp ở Hồng Châu, Bình Than tháng năm năm Canh Dần, ở Hải Đông, Vân Đồn tháng tư năm Quý Tị và mấy tháng trước đây ở trên đất Nghệ An này!

Tên tướng giặc hất đầu, phá lên cười man rợ. Lông mày dựng ngược, Trương Phụ tiến lại hỏi Nguyễn Biểu:

- Vua nhà ngươi ở đâu, sao không đem đầu đến nộp mạng?

Thấy thái độ hách dịch hùng hổ của tướng giặc, hai lực sĩ tùy tòng xích lại đứng phía sau quan Ngự sử. Nguyễn Biểu quay lại khoát tay:

- Ta cho các ngươi lui ra, đợi ở quán dịch. Rồi bình thản trả lời Trương Phụ:

- Vua nước tôi đang ở Hóa Châu, vì bận việc nước nên mới sai tôi đến gặp ngài.

Trương Phụ gật đầu, hắn cầm ngang thanh kiếm, chỉ vào các binh khí treo hai bên tường, nói với Nguyễn Biểu:

- Ta sẽ dùng các vật này để nói chuyện với vua tôi nhà ngươi.


Nguyễn Biểu im lặng. Binh khí sáng lòe, thái độ hung hãn của tên tướng giặc có gì lạ đối với Nguyễn Biểu, đáng lạ là những hình trang trí kỳ quái trên tường. Nhìn kỹ, thì ra những hình ấy sắp bằng tai người!. Khi nhận ra điều đó, Nguyễn Biểu trừng mắt nhìn Trương Phụ. Trước mặt Nguyễn Biểu, tên tướng giặc không còn là người nữa. Đúng là một con ác thú. Trương Phụ tưởng dùng những đồ binh khí, những vòng tai người có thể làm cho sứ giả vua Trần run sợ. Nhưng Nguyễn Biểu vẫn không thay đổi sắc mặt. Đáp lại thái độ hống hách của tướng giặc, Nguyễn Biểu ung dung chậm rãi:

- Thưa ngài năm Đinh Hợi, ngài vâng lệnh vua sang nước tôi đánh họ Hồ, tìm lập con cháu nhà Trần. Ấy thế mà vua Trần Giản Định phải vào sinh ra tử, cuối cùng bị các ngài bắt giải về Kim Lăng. Nay đến lượt vua Trần Trùng Quang. Vâng lời dạy của thiên triều, tôi đến đây dâng biểu cầu phong, lại thấy ngài đem đồ binh khí ra để dọa nạt. Tôi nghĩ binh khí là để nói chuyện ở chiến trường, đâu có phải là thứ dùng trong thù tiếp. Tôi không biết ở nước ngài có còn thứ lễ nhạc nào hay hơn thế nữa không? Chứ ở nước Nam tôi không thấy có bao giờ như vậy. Còn việc giết người cắt tai làm trò chơi kia, ở nước tôi lại càng không bao giờ có. Bây giờ tôi mới thấy ngài đem cái văn hiến ấy sang nước tôi là một.

Nghe lời nói của Nguyễn Biểu, Trương Phụ gật gù. Trước thái độ đường hoàng chững chạc và lý lẽ đanh thép của một người có chính nghĩa, tên tướng giặc tự thấy yếu thế. Nhưng rồi bản chất tàn bạo của Trương Phụ lại lộ nguyên hình trong chuỗi cười man rợ hắt ra từ cái miệng tối om nấp sau chòm râu lỏm chỏm của hắn. Ra lệnh cho Phan Liêu tiếp sứ giả, Trương Phụ lùi vào tư thất với những ý đồ đen tối.

Khi Trương Phụ quay đi cũng là lúc Nguyễn Biểu rũ áo đứng dậy bước ra hàng hiên. Trước mắt Nguyễn Biểu dòng sông Lam xanh như con rồng khổng lồ trườn qua đồng ruộng dưới chân thành. Cảnh đẹp của quê hương đối với Nguyễn Biểu lúc này lại càng đẹp đẽ hơn gấp bội. Một cảm giác gần gũi, thân thượng và êm đềm. Nguyễn Biểu ngắm nhìn quê hương không biết chán! Trong khi đó, ở trong dinh, Phan Liêu một mình trơ trọi. Hắn thừa hiểu rằng mình đã bị Nguyễn Biểu khinh bỉ và căm ghét đến chừng nào. Những ý nghĩ ám muội về vị sứ giả của triều Trần đang luẩn quẩn trong đầu óc của Phan Liêu. Cái tự ái của hạng người vô sĩ sẽ đẩy hắn rút sâu vào con đường tội lỗi...

Cho đến đúng ngọ, tổng binh Trương Phụ thiết tiệc sứ giả của nhà Trần.

Trong căn phòng trang trí lộng lẫy, một mâm cỗ đặt trên chiếc sập gụ màu nâu sẫm. Chiếc lồng bàn đan bằng sợi ngà trắng toát chụp trên mâm đồng trạm trổ tinh vi càng làm cho mâm tiệc thêm vẻ thanh lịch. Cạnh mâm, một nậm rượu và cái chén đặt ngay ngắn trên khay khảm xà cừ. Đây là bữa tiệc của Trương Phụ dành cho vị khách quý.

Khi người lính hầu nhấc chiếc lồng bàn ra thì cũng là lúc Nguyễn Biểu sững sốt: Mâm cổ quái đảng và ghê tởm: Một cái đầu người!

Cái đầu của một người bất hạnh nào đó đã được luộc chín, hai hàm răng nhe ra như trút oán hờn vào kẻ thù. Nguyễn Biểu không ngờ Trương Phụ dã tâm đến mức gây ra trò hung bạo nhường ấy. Đây là cái đầu của ai vậy? Và tại sao Trương Phụ lại giở trò này? để ứng phó với hành động man rợ quỷ quyệt của tướng giặc, Nguyễn Biểu không có thì giờ suy nghĩ nhiều. Những chuyện đối đáp thử thách với sứ giả xưa nay có nhiều, Nguyễn Biểu đã từng nghe nói hoặc đọc trong sách vở. Nhưng đến mức này thì Nguyễn Biểu chưa hề thấy. Chắc chắn rằng đây là đầu một người dân lành đã bị Trương Phụ bắt và hành tội. Không ăn thì tên tướng giặc cho là sứ giả hèn nhát, còn ăn thì ghê tởm mà lại ăn thịt đồng bào của mình!

Không chút do dự, Nguyễn Biểu ngồi xuống sập, ung dung rót rượu. Sau một tợp rượu khai vị, Nguyễn Biểu cầm đũa ngà moi đôi mắt chấm vào dấm muối nuốt một cách ngon lành. Sau khi cạn chén rượu, Nguyễn Biểu cười kiêu hãnh nói một mình như nhắn bảo cho Trương Phụ biết:

- Không mấy khi người Nam được ăn đầu người Bắc.

Khi rượu đã cạn, Nguyễn Biểu rung đùi ngâm bài thơ tức sự:

Ngọc thiệt, trân tu đã đủ mùi
Gia hào thêm có cỗ đầu người.
Nem chuông, chả phượng còn thua béo.
Thịt gụ, gan lân cũng kém tươi.
Cá lối lộc minh so cũng một
Vật bày thỏ thủ bội hơn mười
Kìa kìa ngon ngọt tày vai lợn.
Tráng sĩ như phàn tiếng để đời.

Đọc xong bài thơ, Nguyễn Biểu ung dung buông đũa đứng dậy.

Khi nghe quân hầu thuật lại về Nguyễn Biểu với mâm cỗ đầu người, Trương Phụ tròn xoe mắt kinh ngạc. Trong cái nghề làm tướng cầm quân đánh đông dẹp bắc của Trương Phụ, chưa bao giờ hắn gặp một người như Nguyễn Biểu. Tự cho mình là anh hùng hảo hán, tỏ ra mình cũng biết trọng những kẻ có tài năng, khí phách, Trương Phụ lấy lễ tiếp đãi Nguyễn Biểu rồi tiễn chân sứ giả ra về.

Ngồi ngả người trên kỷ, tên tướng giặc lấy làm khoái chí vì hành động "Nghĩa khí" của hắn. Rồi đây hắn sẽ làm cỏ Hóa Châu, cả triều đình nhà Trần sẽ không thoát khỏi tay hắn. Ấy thế mà hôm nay Trương Phụ lại tha sứ giả của Trần Trùng Quang.

Thấy Trương Phụ tha Nguyễn Biểu, Phan Liêu dè dặt tâu với chủ:

- Kính thưa ngài, Nguyễn Biểu là bậc hào kiệt của nước Nam...

Trương Phụ hiểu ý, xua tay:

- Hóa Châu rồi sẽ nằm trong tay ta. Bắt Nguyễn Biểu lúc nào mà chẳng được.

Thấy Trương Phụ vẫn quyết tha Nguyễn Biểu, Phan Liêu tỏ nỗi lo lắng của mình:

- Nhưng thưa Tổng binh, ngài muốn lấy nước Nam mà tha người ấy về thì làm sao mà xong việc được.

Lời ton hót của Phan Liêu đã khiến cho Trương Phụ phải suy nghĩ. Từ mùa thu năm Bính Tuất (1406) Trương Phụ đã có mặt ở nước Nam này; lúc đó hắn còn giữ chức phó tướng. Một năm sau năm Đinh Hợi (1407) sau khi diệt nhà Hồ, Đổi tên nước ta thành Giao Chỉ, chia phủ huyện, đặt quan cai trị, Trương Phụ về nước dâng công. Cuối năm Mậu Tý (1408), Trần Giản Định nổi dậy đánh phá quân của Mộc Thạnh ở Bô Cô. Lần thứ hai vào năm Kỷ Sửu (1409) Trương Phụ lại được cử sang nước Nam giữ chức Tổng binh. Đến nay đã hơn bốn năm hắn vẫn chưa đánh chiếm được nước Nam. Các châu phủ đều có người nổi dậy, triều đình vua Trần Trùng Quang còn giữ Hóa Châu. Lần trước chỉ một năm đã nên công, lần này hơn bốn năm rồi chưa xong việc...

Cái mặt nạ giả nhân giả nghĩa của Trương Phụ sớm bung ra. Con quỷ dữ hiện nguyên hình. Trương Phụ hạ lệnh cho quân lính đuổi theo đoàn sứ giả.

Mỗi bước một xa thành giặc, Nguyễn Biểu dẫn đoàn tùy tòng trở về theo đường cũ. Ngoài xa, dòng sông Lam trong xanh lăn tăn gợn nắng chiều như một dải lụa đẹp trải rộng giữa hai bờ cát trắng. Ngay kề chân núi, con hói sâu từ trong dãy Hùng Sơn chạy vòng vèo như con trăn khổng lồ vục đầu vào dòng sông Lam trong vắt. Chiếc cầu gỗ bạc màu bắc ngang hói đứng cheo leo soi bóng trên mặt nước. Ngồi trên yên ngựa Nguyễn Biểu vẫn lặïng lẽ. Giá như lúc khác thì Nguyễn Biểu đã dừng ngựa ngắm cảnh đẹp của quê hương và gửi gắm tâm sự của mình trong mấy vần thơ. Nhưng lúc này không thể được. Nguyễn Biểu nghĩ về thành bại chuyến đi của mình. Trương Phụ không trả lời có nhận chuyển biểu cầu phong hay không. Cứ như thái độ đốùi xử của tên tướng giặc thì công việc khó thành đạt. Tình thế vẫn không thay đổi...

Chiếc cầu gỗ rung rinh. Đoàn sứ giả chưa qua khỏi cầu thì đã nghe tiếng vó ngựa rầm rập từ phía sau. Một toán kỵ binh giặc ập đến. Theo lệnh của Trương Phụ chúng đòi Nguyễn Biểu quay lại. Đến nông nỗi này, Nguyễn Biểu biết khó thoát khỏi tay giặc. Nguyễn Biểu xuống ngựa quay về hướng đông nam, nhìn về Hóa Châu sụp lạy rồi sai người lấy bút mực. Cái nóng hừng hực của nắng chiều đã làm cho hàng chữ đen nhánh vừa viết: "Thất nguyệt, sợ nhất nhật, Nguyễn Biểu tử" Khô đi rất nhanh trên cột cầu bằng gỗ màu bạc thếch. Ngắm lại dòng chữ vừa viết lần cuối cùng, Nguyễn Biểu ung dung lên ngựa. Trước khi thúc ngựa, vị sứ giả của triều Trần dặn đoàn tùy tòng:

- Các ngươi trở về Hóa Châu tâu với nhà vua hãy lo luyện quân để cự giặc.

Không nói với lũ giặc một nữa lời, Nguyễn Biểu giục ngựa vượt lên hàng đầu, trở lại thành giặc.

Vừa nghe tin quân lính đã điệu Nguyễn Biểu về, Trương Phụ đem theo một bầy dũng sĩ mang gươm hộ vệ, bước ra thềm dinh đứng đợi sẵn. Tên tướng giặc định ngay từ đầu đã dùng quyền uy bắt Nguyễn Biểu phải khuất phục.

Và từ xa, con người gầy gò mảnh dẻ ấy đang cất cao đầu đi giữa hai hàng giặc dữ cắp giáo đi kèm, đến gần dinh Tổng binh, giặc bắt Nguyễn Biểu phải quỳ lạy Trương Phụ. Nguyễn Biểu hất tay, bước vội tới, chỉ vào mặt Trương Phụ quát mắng:

- "Trong bụng toan tính việc đánh chiếm nước người ta, ngoài mặt lại phô trương là quân nhân nghĩa, trước nói lập con cháu họ Trần, bây giờ lại đặt quận huyện, không những cướp bóc của cải lại còn giết hại nhân dân, bọn mày thật là lũ giặc bạo ngược".

Giọng nói sang sảng của Nguyễn Biểu lúc này không chậm rãi như thường lệ mà sôi sục dồ dập như bão táp. Đó là tiếng nói căm thù của trái im yêu nước nồng nàn, bất khuất trước quân thù, thà chết chứ không chịu hàng giặc. Cùng với cái nhìn nẩy lửa, mỗi tiếng nói của Nguyễn Biểu như mũi dao phóng vào tim gan tên tướng giặc. Chờ đợi ở sứ giả triều Trần những lời van xin để giữ mạng, Trương Phụ không ngờ Nguyễn Biểu lại kiên cường, vạch trần tâm địa tàn bạo của hắn đến như thế. Như con chim bị trúng tên, Trương Phụ giật nảy mình vì căm giận và nhục nhã. Hắn nghe như từ miệng con người đang một mình đối mặt với hắn vang lên tiếng gầm thét của cả một dân tộc. Bất lực trong việc khuất phục Nguyễn Biểu bằng lời nói và thái độ cư xử, Trương Phụ dùng đến sức mạnh của tên tướng giặc bạo tàn. Hắn ra lệnh chém đầu sứ giả. Đáp lại lệnh của tên tướng giặc là một chuỗi cười vang của Nguyễn Biểu cùng với những lời thét mắng sỉ vả vào mặt Trương Phụ.

Trên con đường đi tới chân núi Thành Sơn để chịu chết, Nguyễn Biểu vẫn ung dung bình thản. Ông bình thản vì sự nghiệp giữ nước, vì thà chết chứ không bao giờ chịu quỳ gối trước giặc ngoại xâm.

Trong khi Nguyễn Biểu cất cao đầu đi đến nơi hành hình thì Trương Phụ quay vào dinh Tổng binh, hắn cúi đầu sợ hãi. Nguyễn Biểu đã bị điệu ra ngoài thành, những tiếng quát tháo chửi mắng củacon người ấy đối với tên tướng giặc như còn vọng lại. Trương Phụ thầm nghĩ: Cả dân nước Nam này ai cũng như Nguyễn Biểu thì làm sao có thể dẹp nổi?

Chỉ sau đó năm năm thôi, vào năm Mậu Tuất (1418) cả nước Nam này đã vùng dậy chiến đấu trong mười năm trời, đánh tan đội quân xâm lược của nhà Minh, lật đổ toàn bộ ách thống trị của chúng mà chính bản thân Trương Phụ đã góp phần đặt lên đầu cả dân tộc nhỏ bé ở Phương nam này. Lúc bấy giờ Nguyễn Biểu không còn nữa, nhưng khí phách anh hùng và tinh thần xả thân vì nước của ông được cả dân tộc kế tục để làm tròn sự nghiệp giữ nước mà Nguyễn Biểu còn bỏ dở.

Cùng với núi Thành Sơn, với dòng sông Lam, Nguyễn Biểu còn mãi mãi được các thế hệ mai sau ngợi ca cùng câu đối ghi ở đền Nghĩa Liệt:

"Tồn Trần kính tiết Thành sơn thạch
Mạ tặc dư thanh Lam thủy ba".

(Tiết cứng phò Trần đá Nghĩa Liệt
Tiếng vang mắng giặc sóng Lam Giang).
_________________
#31
    Hoàng Dung 04.02.2006 11:23:27 (permalink)
    sưu tầm


    Nhị Vị Tướng Quân Trương Hống, Trương Hát


    Hai anh em Trương tướng quân, người anh là Hống, người em là Hát, đều là tướng giỏi của Việt vương Triệu Quang Phục. Khi sinh thời, hai vị đã theo giúp Triệu Việt Vương lập được nhiều chiến công lẫy lừng. Sau khi giết Dương Sằn, đuổi quan quân nhà Lương về nước, lúc ấy (tiền) Lý Nam Đế đã mất, Triệu Việt Vương bèn tự lập lên làm vua, được 23 năm (548-570) thì bị (Hậu) Lý Nam Đế (Lý Phật Tử) phản trắc, đem quân tới đánh. Triệu Việt Vương không phòng bị đã bị thua, rồi theo Long Vương xuống thủy cung ở cửa Đại Nha.

    Các tướng của ngài, một số tử trận, một số khác còn sống, chạy tản mác các nơi, cùng với những toán quân ít ỏi của họ.

    Vốn là kẻ gian hùng xảo quyệt, Lý Phật Tử tính rằng nếu còn để các tướng này thì sẽ ăn không ngon, ngủ không yên. Mang quân đi đánh tiếp nữa thì vừa khó nhọc, vừa mang tiếng là không đại lượng Đã lấy được ngôi chủ rồi thì phải để bàn dân thiên hạ trông vào: Ta đây cũng biết trọng nhân tài chứ!

    Biết anh em Trương Hống, Trương Hát là những tướng giỏi của Triệu Việt Vương hiện đang còn sống và chưa chịu đầu hàng, Phật Tử cho mang lễ vật rất hậu đến, lại dặn viên sứ giả hứa đại là "nhà vua" sẽ trọng dụng, ban tước lộc còn trọng hơn trước, nếu chịu về hàng ...

    Sứ giả ra đi, đinh ninh sẽ nói đúng những lời chủ (Hậu) Lý Nam Đế đã dặn, tuy trong thâm tâm vẫn không hiểu lần này nhà vua thâït lòng hay chỉ là kế điệu hổ ly sơn của một kẻ chuyên lừa đảo, phản trắc ...

    Cũng như Triệu Việt Vương, hai anh em Trương Hống, Trương Hát đều rất phẫn nộ khi hay tin Phật Tử trở mặt, mang quân tới đánh úp. Sau khi cùng nhà vua phá vòng vây, hai anh em chạy ngược lên vùng núi non hiểm trở, nhưng quân lính dưới quyền đã lạc hoặc chết gần hết, nay chỉ còn lại vài người. Khi biết nhà vua đã hóa ở cửa Đại Nha, hai anh em trương khóc thảm thiết, rồi sau đó bàn với mấy người lính vào sâu trong rừng, tìm kế làm ăn sinh sống trước mắt ...

    Lúc sứ giả của (Hậu) Lý Nam Đế tìm đến thì thấy mọi người đang cuốc đất trồng cây. Ông ta đưa lễ vật rồi nói những lời đúng như (Hậu) Lý Nam Đế đã căn dặn. Trương Hống thay mặt mọi người, trả lời sứ giả như sau :

    - Ông về thưa lại với người đã phái ông đến đây rằng chúng tôi từ trước đến nay chỉ biết có Triệu Việt Vương là vua. Chúa của ông chưa thất giặc đến đã chạy, chỉ được cái giỏi lừa đảo, phản trắc, đem quân đánh cả người nhà. Chúng tôi thà chết chứ không chịu quỳ gối trước một người như vậy. Ông hãy đen những thứ này về nói lại lời của chúng tôi như thế.

    Sứ giả ra về, đem các việc tâu lại với (Hậu) Lý Nam Đế. Tất nhiên ông ta chẳng dám nói đúng những lời của Trương Hống đã nói, mà chỉ bảo : ''Họ không chịu về hàng".

    (Hậu) Lý Nam Đế cười gằn :"À! Chúng muốn chết thì được chết!", nhưng trong bụng lại nghĩ "Họ sợ bị ta lừa đây. Khá lắm!".

    Sau khi hỏi sứ giả, biết được quân số của Trương Hống, Trương Hát chẳng còn bao nhiêu, (Hậu) Lý Nam Đế cử một viên tướng thiện chiến dẫn hẳn một đội quân đi đánh.

    Khi viên tương cùng đội quân này đến dàn thế trận bao vây thì anh em Trương Hống, Trương Hát thấy sức mình địch không nổi, bèn quay đầu rút chạy. Bọn quan quân đuổi theo. Sau mấy ngày len lỏi trong rừng ở miền núi Phù Long, mất người lính bị lạc hết, chỉ còn lại hai anh em.

    Tuy sức cùng lực kiệt nhưng nhất định không chịu để rơi vào tay đối phương, nên hai anh em bèn tìm đến cây lá ngón, rồi cùng ăn mà chết ...

    Sự việc đó xảy ra vào năm 571. Tuy vậy, tiếng thơm của hai anh em còn truyền mãi đến các đời về sau ...

    Năm 951, tức là 380 năm sau, khi ấy Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn cùng anh là Thiên Sách Ngô Xương Ngập đang trị vì đất nước ...

    Xương Văn, Xương Ngập đều là con của Ngô Quyền, người đã đánh thắng quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng và xưng vương năm 939.

    Sau khi Ngô Quyền mất (944), Dương Tam Kha tiếm ngôi (945-950). Ngô Xương Văn đánh đuổi được Tam Kha, khôi phục lại vương quyền (951).

    Khoảng cuối năm ấy, Nam Tấn Vương trên đường dẫn quân đi đánh Lý Huy nổi loạn ở châu Tây Long, đã đóng quân ở cửa Phù Lan. Đây cũng là vùng mà 380 năm trước đây, hai vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát đã tự tận.

    Nửa đêm hôm đó, đang nằm trong màn trướng, Nam Tấn Vương thấy hai người tướng mạo khôi nhô, mình mặc chiến bào, đầu đội mũ trụ, tay cầm binh khí, tiến đến trước mặt cùng vái mà nói rằng:

    - Chúng tôi là hai anh em tên gọi Trương Hống, Trương Hát, là tướng dưới triều Việt Vương Triêïu Quang Phục, bị Lý Phật Tử làm phản. Sau đó Phật Tử gọi hàng, chúng tôi không theo, cùng tự chết. Ngọc Hoàng Thượng đế xét chúng tôi có lòng trung, vẫn cho cai quản vùng này cùng trăm vạn thiên binh để cứu khốn phò nguy khi quốc gia lâm sự. Hôm nay, thấy nhà vua đến đây dẹp loạn, chúng tôi xin ra mắt, hứa sẽ đem thiên binh đến nơi giáp chién để phò trợ.

    Nam Tấn Vương cả mừng:

    - Xin đa tạ hai tướng quân lắm lắm. Ngày trước cha tôi có nói khi đánh quân Nam Hán, hai tướng quân cũng đã giúp công, góp sức rất nhiều, nên Hoằng Tháo bị chém đầu, quân giặc bị tan vỡ. Nay gặp ở đây, xin thay mặt Đức tiên đế, nói lời cảm tạ với hai tướng quân. Còn trận đánh ngày mai, chưa biết lực lượng địch quân bố trí ra sao, nên còn băn khoăn chưa biết điều binh dàn trận như thế nào, dám mong hai tướng quân cao minh có lời chỉ giáo.

    Nam Tấn Vương vừa nói hết câu đó thì thấy bỗng nhiên bên ngoài cửa màn trướng có tiếng bước chân, rồi tiếng người nói xôn xao. Nhà vua giật mình tỉnh dậy, còn đang tiếc nuối giấc chiêm bao, thì đã thấy lính canh bước vào tâu:

    - Muôn tâu Bệ hạ! Ở cạnh doanh trại, quân ta vừa bắt được tên lính giặc đang đêm lẻn vào dọ thám. Nay dẫn đến xin trình bêï hạ.

    Tên lính được dẫn vào. Nam Tấn Vương gặng hỏi mãi thì y chỉ một mực khai:

    - Bẩm ... Tôi được lệnh đi do thám. Còn ngoài ra, là lính nên chẳng biết gì thêm.

    Nam Tấn Vương tức giận, sai lính mang tên giặc đi chém ngay.

    Sáng hôm sau, nhà vua ra lệnh vượt sông, xuất kích.

    Quân của Nam Tấn Vương ùn ùn kéo lên, vây kín dãy núi Côn Lôn là nơi quân của Lý Huy đang ẩn nấp trong đó. Quân của Lý Huy ít hơn, tuy bị vây hãm, nhưng vì là lính địa phương nên thông thuộc địa hình đại vật, vẫn chống trả quyết liệt. Họ dựa vào những thế núi, cánh rừng hiểm trở, xuất kỳ bất ý xông ra, làm cho quân của Nam Tán Vương trở tay không kịp, bị thiệt hại khá nhiều, khí thế trong quân ngũ cũng vì thế đã có phần giảm sút ... Nam Tấn Vương bèn rút quân về doanh trại cũ.

    Một đêm, Nam Tấn Vương đang ngồi trong màn trướng suy nghĩ cách bài binh bố trận sắp tới thì mệt quá rồi ngủ thiếp đi. trong giấc mơ màng nhà vua lại thấy hai vị tướng quân lần trước xuất hiện. Nhà vua cả mừng thi lễ, một vị nói:

    - Thật tiếc cho nhà vua, bữa trước đang bàn tính chưa xong. Ngày mai, nhà vua hãy chia binh ra làm hai ngã. Một ngã tiến về sông Vũ Giang qua sông Như Nguyệt, rồi tiến đến đầu sông Phú Lương. Một ngã khác đi ven sông Lạng Giang, rồi vào sông Nam Bình. Lúc ấy, từ hai ngã sẽ cùng tấn công. Thiên binh của hai em chúng tôi cũng sẽ chia làm đôi, rồi từ hai hướng yểm trợ. Nhất định ngày mai nhà vua sẽ thắng lớn.

    Nói xong, hai vị liền biến mất. Nhà vua tỉnh dậy, nhẩm tính lại các việc trong đầu, rồi tự hạ quyết tâm ngày mai thế nào cũng phải phá tan quân giặc.

    Sáng hôm sau, nhà vua chia quân ra làm hai, rồi lệnh cho các tướng đi theo làm hai hướng đã định đêm qua. Quân của Lý Huy tưởng quân của Nam Tấn Vương rút lui, liền rời núi về tập trung tại đấy, vì thế đã rơi vào đúng gọng kìm. Thế là chỉ cần một trận. Lý Huy bị chém đầu, còn quân lính bị chết hoặc bị bắt làm tù binh.

    Trở về Kinh đô ở Loa Thành (thành của An Dương Vương ngày trước), Nam Tấn Vương, để tưởng nhớ công lao hai vị thần linh, xuống chiếu phong người anh (Trương Hống) làm "Đại Dương giang đô hộ quốc thần vương", đền thờ ở cửa sông Như Nguyệt, em (Trương Hát) làm "Tiểu Dương giang đô hộ quốc thần vương", đền thờ ở cửa sông Nam Bình. Lại cấp cho dân ở hai nơi ấy ruộng tự điền và cử người trông nom thờ cúng, hương khói quanh năm không lúc nào dứt ...

    Từ đấy, lịch sử dân tộc đã lật sang nhiều trang mới ...

    505 năm sau khi Trương Hống, Trương Hát qua đời và 125 năm sau sự kiện Nam Tấn Vương đánh Tây Long, lúc ấy là năm1076, nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết dẫn 30 vạn quân sang xâm lược nước ta, đang dừng chân ở mạn bắc sông Như Nguyệt để chuẩn bị đánh xuống chiếm kinh thành Thăng Long.

    Vùng mà quân giặc đang chiếm đóng cũng chính là địa hạt mà hai vị thần Trương Hống, Trương Hát được giao cai quản từ 505 năm về trước.

    Thái úy Lý Thường Kiệt, lúc ấy nhận lệnh nhà vua giao cho thống lĩnh 10 vạn quân Đại Việt để chống nhau với giặc.

    Thái úy là nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sư thiên tài, nên Ngài hiểu rõ trạng thái và tinh thần của tướng sĩ và binh lính sẽ có ảnh hưởng quyết định đến kết quả của trận đánh. Tuy không thể đo đạc chính xác điều đó, nhưng về đại thể, Ngài đã tính toán như sau: "Ba mươi vạn quân địch, vì đánh nhau bất đắc dĩ lại đường xa mệt mỏi nên sức chiến đấu sẽ giảm đi một nửa, chỉ bằng 15 vạn quân.

    Mười vạn quân ta, vì chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước, lại ở gần, có các nguồn tiếp tế dồi dào, nên sức chiến đấu sẽ tăng lên gấp đôi, bằng 20 vạn quân.

    Đem "so sánh" lực lượng thì rõ ràng quân ta mạnh hơn, quân địch yếu hơn, nên có thể an tâm.

    Cái tài của người làm tướng lúc này là phải động viên binh lính, tướng sĩ, biết điều binh khiển tướng hợp lý để tập trung đánh vào nhhững chỗ sơ hở của địch. Không nên dùng tổng lực đánh đối trận, mà chỉ cần xuất kỳ bất ý đánh tiêu diệt bằng máy trận lớn, là quân địch sẽ phải tan rã".

    Tài điều binh khiển tướng của Lý Thái Úy phải nói thật là tuyệt vời, đã được thử thách và tôi luyện từ hồi làm tướng tiên phong của Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành bắt Chế Củ, rồi sau đó cùng Tông Đản dẫn quân đánh ba châu Khâm, Liêm, Ung trên đất Tống, hoàn toàn thắng lợi. Nay trước tình thế mới, quân giặc đang chuẩn bị tràn xuống Kinh đô, vì vậy phải tổ chức phòng ngự chặn chúng lại.

    Lý Thái Úy cho tổ chức làm một "hàng rào" dọc theo sông Như Nguyệt (sông Cầu) để cầm chan quân giặc bằng cách triệt phá tuyền bè của chúng và dàn quân saÜn sàng cung nỏ, không cho chúng vượt sông. Từ phòng tuyến này quân ta do thám ra những đich sơ hở, rồi tổ chức những mũi nhọn tấn công chớp nhoáng ...

    Để cổ vũ tinh thần tướng sĩ và binh lính, Lý Thái Úy đã làm một bì thơ như sau:

    Nam quốc sơn hà Nam đế cư
    Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
    Nhữ chẳng hành khan thủ bại hư.

    (Dịch nghĩa:

    Sông núi nước Nam Hoàng đế nước Nam ở
    Ranh giới đã phân định rạch ròi ở sách trời.
    Cớ sao quân giặc kia dám xâm phạm?
    Chúng bay hãy xem, sẽ phải chuốc lấy bại vong!)

    Đây là bài thơ làm trong mấy phút xuất thần của Lý Thái Úy, nhưng đấy cũng là kết quả của mấy chục năm cần quân đánh đông dẹp bắc giữ yên xã tắc và giúp nhà vua chấn hưng nước nhà của Ngài.

    Phòng tuyến mà quân ta đang họat động bấy giờ lại nằm trên vùng đất có đền thờ hai vị tướng quân trung thành của Việt Vương Triệu Quang Phục thuở trước. Lý Thái Úy biết rất rõ điều đó. Vì vậy Ngài đã nhờ hai vị thần linh này công bố bài thơ trước tướng sĩ và quân lính để cổ vũ họ.

    Đêm ấy, đích thân Ngài đến đền thờ Trương Hát ở cửa sông Nam Quận (còn gọi Nam Bình) dâng hương hoa lễ vật và xin thần chuẩn y. Từ cõi mông lung hai vị dũng tướng thần linh (tuy là một đền thờ nhưng lại phối thờ cả hai vị) hiện về qua những cặp mắt lung linh trên hai pho tượng thờ được ánh sáng chiếu vào mà Lý Thái Úy cảm nhận thấy. Hai vị hài lòng, ban xuống lời đồng ý qua việc Lý Thái Úy trực tiếp tung hai đồng tiền xin "âm, dương" trên đĩa. Liền sau đó, một vị nhập hồn ngay vào môït vị tướng của Lý Thái Úy đang đứng trước đền. Chính vị tướng này là một vị tướng trẻ dũng cảm, lại có giọng nói sang sảng, được Lý Thái Úy giao cho cầm loa đọc bài thơ.

    Vì vậy, khi vị tướng trẻ đọc bài thơ thì tất thảy mọi người đều nhận thấy đó chính là giọng nói của thần thật.

    Bằng cả cuộc đời trung dũng của mình, thần đã cất lên tiếng người, dặn dò bảo ban lớp quân sĩ tiến lên giữ vững nền độc lập của dân tộc. Lời thần như thấm vào trong từng mạch máu, con tm của mỗi người!

    Được lời thần cổ vũ, từ các điểm tập kết, quân ta bí mật nhất tề xông lên, theo hiệu lệnh của Lý Thái Úy, đã giáng cho quân giặc những đòn thất điên bát đảo.

    Quân giặc đông đúc nhưng không thể nào vượt qua được phòng tuyến của quân ta. Mỗi khi màn đêm buông xuống, trong các trại giặc, từ tướng tới quân, chúng đều cảm thấy như có thiên binh vạn mã từ đâu ầm ầm kéo đến ... Mà đúng như thế thật. Chính hai vị tướng quân Trương Hống, Trương Hát đêm nào cũng dẫn thiên binh của mình về phù trợ quân ta, uy hiếp tinh thần quân giặc.

    Sau nhiều lần bị đánh bất ngờ, lực lượng hao tổn nhiều, thấy không thể nào vào được kinh thành Thăng Long , Quách Quỳ bèn cho rút quân chuyển hướng về mạn đông bắc (nước ta) chiếm lấy châu Quảng Nguyên, bởi vì nhiều ít thế nào cũng phải có "cái gì" dâng lên vua Tống chứ!

    Thế là nền độc lập của nước nhà đã được giữ vững. Ba năm sau (1079) bằng thương lượng, nhà Tống trả lại ta châu Quảng Nguyên, và từ đấy không dám đem quân sang xâm lấn nữa ...

    Trong chiến công đánh đuổi quân Tống lần này, ngoài lực lượng quân dân một lòng và tài thao lược của Lý Thái Úy, còn có cả "hồn thiêng sông núi" đã hiển linh giúp dập qua hai vị thần tướng Trương Hống, Trương Hát và thiên binh của các Ngài ...

    Thời ấy và cả sau này, mọi người đều vẫn tin như vậy. Sau chiến thắng, vua Lý Thánh Tông cho tu sửa lại hai ngôi đền thờ hai vị Tướng quân đẹp đẽ, khang trang hơn trước. Đó là một việc làm chính đáng và hợp lòng người, lòng thần.

    Các đời về sau, mỗi khi chính vị hay đổi niên hiệu, đều có sắc phong cho hai vị. Còn dân chúng thì đến đền thờ dâng hương hoa. Lễ vật, cầu mong cho sự an cư lạc nghiệp, đất nước thanh bình ...
    _________________



    #32
      Hoàng Dung 04.02.2006 11:32:30 (permalink)
      Trần Nhật Duật [/b
      ]

      Hoàng Giang trở về kinh đô Thăng Long. Đủ các kiểu thuyền lớn nhỏ chen chúc bên nhau. Chiếc nào cũng sặc sỡ, long lanh những lụa là gấm vóc căng vuông, quây tròn làm nên cảnh màn che trướng rủ ngay trên sông nước. Vừa tháng trước đoàn thuyền của hoàng gia cồng kềnh mà gấp gáp rời kinh đô đi lánh giặc, bây giờ tất cả đã tươi vui, hồ hởi trở lại hoàng cung: đại quân của Trần triều vừa cả phá binh đoàn hung bạo của tướng giặc Cốt Đải Ngột Lang, thu được kinh đô!

      Gió xuân ấm và ấm nhè nhẹ lay cánh màn trong tay Linh từ quốc mẫu người vừa góp phần không nhỏ vào chiến thắng của triều đình Đại Việt. Chưa đầy một tháng trường dốc sức lo liệu việc đưa gọn cả hoàng gia vừa kịp rời bỏ kinh thành trước lũ giặc Thát ập đến tàn phá, rồi lại đứng đầu việc thu thập, quyên góp binh khí, quân nhu gởi ra trận tiền cho tướng sĩ mái tóc của Linh từ quốc mẫu đã thêm nhiều sợi bạc. Và bấy giờ thì bà lão quắc thước đang vén cánh màn gấm, ngó đầu ra ngoài khoang thuyền. Linh từ quốc Mẫu vừa toan cất tiếng gọi thì đã dừng ngay lại: Quay lưng về phía bà, một bóng người nhỏ xíu đang lặng lẽ đứng thẳng ở mũi thuyền, mải mê nhìn mãi ra phía trước, chẳng hề động đậy.

      Linh từ quốc Mẫu chớp chớp mắt, lắc đầu. Từ ngày để con người nhỏ bé kia theo sát bên mình trong suốt thời gian cùng hoàng gia lánh giặc, quốc mẫu ngày càng nhận ra những nét đặt biệt ở vị hoàng tử thứ sáu của vua Thái Tông. Mới năm tuổi đầu mà khác hẳn mọi đứa trẻ, hoàng tử lúc nào cũng lặng lẽ như luôn luôn đắm mình vào những việc xa vời.

      Quốc Mẫu bước nhẹ ra mũi thuyền, đặt tay lên vai đứa cháu nhỏ:

      - Nhật Duật!

      Chú bé đứng nhìn đăm đăm vào một vùng sóng nước trước thuyền, nghe tiếng gọi đột ngột mà chẳng hề thảng thốt giật mình, thong thả xoay người trở lại, gương mặt hướng về phía người vừa gọi mình, nhìn kỹ một lúc rồi mới mở miệng gọi:

      - Bà ơi, cháu...

      - Hoàng tử Chiêu Văn! Cháu phải gọi ta là "Quốc Mẫu",

      Linh từ quốc Mẫu nhẹ nhàng mà nghiêm nghị uốn nắn cách xưng hô cho đứa cháu nhỏ. Chú bé lặng lẽ ngước mắt nhìn lên trời rồi thong thả:

      - Tâu quốc Mẫu, người ở đây ai cũng gọi bà là "Bà".

      - Đấy là tiếng nói của dân thường. Còn hoàng tộc thì đã có lệ phải dùng chữ của người Hán để phân biệt!

      Trí tuệ của vị hoàng tử năm tuổi bắt lấy ý đó và nói rộng nay:

      - Tâu quốc mẫu, ở vùng này có nhiều người nói tiếng gì mà nhiều khi không giống hẳn người thường?

      Linh từ quốc mẫu mở to mắt nhìn đứa cháu. Lại một việc kỳ lạ nữa! Quốc mẫu giảng giải:

      - Đấy là người Chiêm Thành mà các đời vua trước đi trận bắt được, cho về sống ở đây...

      Khuôn mặt non nớt của Trần Nhật Duật thoáng một nét đăm chiêu:

      Người Hán này, người Chiêm Thành này... Thế ở quanh ta đây còn có bao nhiêu giống người tất cả?


      - Nhiều... Vị quốc mẫu bắt đầu lúng túng. Rồi... Lớn lên cháu sẽ biết!

      Chiêu Văn hoàng tử Trần Nhật Duật lại xoay người nhìn ra trước mũi thuyền. Trong khi đó, Linh từ quốc mẫu cũng nghiêng người ngắm đứa cháu: "Thằng bé sớm lộ thiên tư, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người!" Bất giác, đầu óc của vị quốc mẫu hình dung ngay ra cái thế của người Việt đang sống xen giữa bao giống người khác mà bà, cũng như cả triều đình, đều chưa am tường. Trong khi chính đây là chuyện hệ trọng. Nội một việc trại chủ vùng Qui Hóa vừa từ đem binh mường của mình ra đánh chặn giặc Thát trên đường chúng rút chạy từ Thăng Long về nước, cũng đủ để thấy rằng, liên kết chặt chẽ được với những người mà triều đình quen gọi là Phiên, Man thì lợi ích sẽ không nhỏ.

      Phên giậu của triều đình chính là họ, nếu rồi đây quân giặc lại gây hấn nữa.

      "Phải có riêng người để cậy trông việc giao dịch kết liên với các Phiên, Man và các lân bang" Linh từ quốc mẫu vừa nhủ thầm, vừa long lanh cặp mắt nhìn mãi vào khuôn mặt khôi ngô của đứa cháu nhỏ, trong khi vị hoàng tử thứ sáu của vua Thái Tông vẫn thản nhiên, khẽ nhíu cặp long mày xanh biếc, nhìn mãi về phía trước..

      Hơn hai mươi năm đã qua, kể từ ngày đạo quân của tướng Cốt Đải Ngột Lang tàn phá kinh đô rồi tháo lui khỏi kinh đô. Giặc Thát đã một lần nhục nhã tả tơi rút chạy, nhưng giấc mộng cuồng điên thôn tín nước Đại Việt của chúng vẫn chẳng bao giờ nguôi. Vó ngựa quân Thát đã băng qua sa mạc Trung Á, tràn tới tận trung tâm Châu Âu, vượt qua Vạn lý Trường Thành, giày xéo khắp đất Trung Hoa mênh mông, không lẽ nào dừng lại trước một nước Đại Việt! Binh mã đã sẳn sàng, nếu Đại Việt "Không chịu ngồi yên, cố ý kháng mệnh, thì... Cứ sẵn sàng thành lũy, sắm sửa giáo binh, chờ đấy mà xem!"

      Từ một chú bé phải theo hoàng gia đi chạy giặc, Trần Nhật Duật đã trở thành một chàng thanh niên tuấn tú vào giữa những ngày đó. Non sông đang chuyển mình dữ dội trước trước cơn giông bão từ phía giặc Thát lừng lững kéo tới, đe dọa quét sạch từng ngọn cỏ gốc cây. Thấy rõ cha anh mình cùng nhân dân Đại Việt đổ mồ hôi và máu xương đương đầu với quân giặc, tuổi trẻ của Trần Nhật Duật là những năm tháng miệt mài rèn luyện để nên người hữu dụng, xứng đáng với dân tộc và dòng họ.

      Đọc binh thư, tập nghề võ, luyện văn chương như mội người và hơn nhiều người, Trần Nhật Duật còn trẻ mà đã nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Nhưng uy tín của vị hoàng tử ít tuổi còn nổi cao hơn nữa ở trong triều ngoài nước, chính là nhờ tài ba được luyện rèn trên cái năng khiếu đã sớm lộ rõ từ ngày còn nhỏ. Để tâm nghiên cứu, tìm hiểu về các nước láng giềng, chàng thanh niên Nhật Duật đặc biệt chú ý đến nước Trung Hoa dưới vương triều Tống ở phương Bắc, và nước Chiêm Thành ở phía Nam. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm, sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy, Nhật Duật còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả những phong tục tập quán chi li nhất. Đối với các dân tộc ở trong nước, Nhật Duật càng chuyên tâm học hỏi, tìm tòi. Hiểu về họ, Nhật Duật không chỉ hiểu tiếng, mà còn hiểu cảnh, hiểu người.

      Ngoài hai mươi tuổi, Trần Nhật Duật đã được phong tước vương, và là người của triều đình nhà Trần đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan. Vua Trần Nhân Tông vừa kinh ngạc vừa thán phục khả năng của Trần Nhật Duật, thường thân mật nói đùa: "Chiêu Văn Vương dường như không phải người Việt mà chính là hậu thân của các giống Phiên, Man!". Trong khi đó, tiếp xúc với sứ thần của triều đình nhà Nguyễn, có lần Trần Nhật Duật đã vui vẻ tự nhiên, cùng uống rượu và chuyện trò suốt cả một ngày, khiến cho sứ Nguyên nhất định cho rằng Nhật Duật là người Hán ở Chân Định sang làm quan ở bên Đại Việt.

      Giữa thư phòng ngồn ngộn sách vở, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật cúi đầu đọc rốn mấy trang của bộ Thái Bình hoàn vũ ký trước khi ra sảnh đường tiếp khách.

      Việc đọc sách bao giờ cũng khiến Trần Nhật Duật mê say. Những dòng chữ cổ kim, đọc lúc thư nhàn hay vội vã, luôn luôn cuốn hút trọn vẹn tâm trí Nhật Duật. Phần Lĩnh nam đạo của bộ sách Thái Bình đồ sộ này có nhiều dòng trực tiếp đề cập đến các tộc người sống trên miền giáp ranh giữa hai nước Trung Hoa và Đại Việt chính là những trang ưa nghiền ngẫm hàng ngày của vị thân vương trẻ tuổi đặc trách công việc miền biên viễn. Nhật Duật với tay lên giá sách, chọn thêm mấy cuốn trong bộ Lĩnh ngoại đại đáp, cặm cụi tra cứu, so sánh đoạn văn vừa chợt thấy có điều ngờ ngợ. Cuối cùng, ông đặt cả những tập sách lên án thư, ngước mắt đăm đăm nhìn vào thanh bảo kiếm treo nghiêng trên vách, lặng lẽ suy tư...

      "... Nước Tống quả là có lắm người tài. Kiến thức của họ thật là rộng. Sách vở của họ như núi. Lĩnh Nam là miền đất xa ngoài biên cương mà họ cũng dầy công viết nhiều đến như vậy! Một nước văn hiến đến thế, mà sao không cự nổi giặc Thát? " Trần Nhật Duật suy nghĩ miên man, bàn tay vô tình mân mê chiếc ấn mang hai chữ triện "Chiêu Văn" vuông vức đặt trên án thư "Hoàng đế nhà Tống rút chạy quân Thát từ Bắc xuống Nam cuối cùng đã trải trẫm mình ngay ở Nhai Sơn thuộc Lĩnh Nam. Đất Lĩnh Nam mà Tống triều đã bỏ công nghiên cứu viết sách, cuối cùng không giúp được vua Tống thắng giặc, Sao vậy? Bàn tay của Nhật Duật tiếp tục gại ngón trên gờ sắc của chiếc ấn "Tống triều chăm viết sách mà không chăm việc cố kết lòng người nơi biên viễn. Sách vở của họ cũng đầy rẫy những chuyện miệt thị các dân ngoại tộc, ngay trên từng dòng viết về miền Lĩnh Nam... Phải chăng đây chính là cái gương nhơn tiền mà người lo việc binh viễn phải khiêng dè? "

      Mấy tiếng chuông báo hiệu từ sảnh đường vọng vào thư phòng. Trần Nhật Duật dứt ra khỏi dòng suy tưởng, sửa sang khăn áo, tạm rời bỏ chồng sách.

      Ít lâu sau, quân quan nhà Tống thất trận trước giặc Thát, ùn ùn rời quê hương sang nương náu ở Đại Việt. Nhiều người trong bọn họ là những kẻ có chí khí và tài năng. Rất có thể đây sẽ là một cái vốn quý trong cuộc chiến tranh với quân Thát sau này Trần Nhật Duật lặng lẽ tính toán rồi đứng ra xin vua Trần cho phép thu nạp họ. Dưới trướng Chiêu văn Vương, từ năm trước đã nhận vào đạo sĩ Hứa Tông Đạo là người có tài văn chương, giỏi phép thuật. Bây giờ đến lượt một võ tướng, họ Triệu tên Trung, biết tiếng Chiêu Văn Vương chiêu hiền đãi sĩ, đã vừa gửi thiết xin được yết kiến.

      Trần Nhật Duật dùng thẳng tiếng tống trò chuyện cùng Triệu Trung, Viên tướng của nhà Tống rõ ràng đang hoang mang về cảnh ngộ mất chúa cũ mà chưa tìm được chủ mới, bộc bạch với Nhật Duật:

      - Tôi là kẻ mất nước nên mới lưu lạc sang đây. Chẳng hay thân phận bèo bọt này rồi sẽ ra sao dưới trướng của Ngài?

      - Giặc Thát đã chiếm mất nước ông, bức hại hoàng đế của ông. Chúng đang muốn diễn lại cảnh ấy trên đất Đại Việt. Cho nên kẻ thù của chúng tôi cũng là kẻ thù của ông Trần Nhật Duật điềm đạo trả lời Triệu Trung. Ông vì mối thù chung đó mà cùng chúng tôi cự giặc, nếu Tống sử không ghi công của ông thì Việt sử sẽ làm việc thay thế.

      Thấy Triệu Trung rạng rỡ sắc mặt vì những lời khích lệ chân tình, Trần Nhật Duật thong thả nói tiếp:

      - Tôi mới được nghe mấy câu thơ của người nước ông, bây giờ xin đọc lại;

      "Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
      Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

      Câu thơ chưa đọc dứt, viên tướng của Tống triều đã nước mắt lưng tròng, sụp ngay xuống lạy:

      - Triệu Trung này những tưởng chỉ riêng mấy người Tống chúng tôi mới biết Văn Thiên Tướng, nào ngờ chuyện mới vừa xảy ra mà Ngài cũng đã tường tận những lời nghĩa khí của bậc nhân giả chúng tôi. Quả là danh bất hư truyền! Xin cho được cùng lũ bộ hạ cắp giáo theo hầu Ngài suốt đời dưới trướng!

      Đoàn quân dài dặc, sáng lóe giáo gươm, rực rỡ tinh kỳ, rời nhanh kinh thành nhằm thẳng hướng Tây bắc tiến phát. Chiêu Văn Vương trần Nhật Duật cưỡi ngựa đi trên đầu đoạn quân, dưới cờ hiệu "Trần thủ Đà Giang". Đây là chức mới được phong của Nhật Duật. Vị thân vương hai mươi bảy tuổi đó, lần đầu tiên mặc nhung phục, cầm đầu một đạo quân lớn, đi chinh chiến phương xa.

      Mấy hôm trước, vua quan nhà Trần đã vào cuộc họp bàn, lo lắng nhâïn được tin chúa đạo Đà Giang Trịnh Giác Mật vừa tụ họp phe đảng nổi lên cự lại triều đình. Tin dữ trong nước đến cùng một lúc với điều cấp báo từ ngoài biên ải: Vừa diệt xong nhà Tống, Xu mật viện nhà Nguyên đã xin với hoàng đế Hốt Tất Liệt cho ra quân đánh ngay Đại Việt, và vua Thát đã hạ lệnh đóng chiến thuyền, tính thêm cả đường vượt biển để vào Đại Việt! Tình thế thật gấp gáp đã khiến triều đình nhà Trần phải quyết định dẹp yên ngay mối họa trong nước. Để tránh cái thế nổi loạn ở phía sau, trong khi đang dồn sức ra chống giặc ngoài ở phía trước. Vậy thì không còn ai hơn được Nhật Duật trong việc đảm nhiệm trọng trách này. Và thế là chỉ mấy ngày sau, vị tướng trẻ đã làm lễ ra quân, lên đường.

      Bây giờ thì làng mạc ruộng đồng đã lui cả về phía sau. Đoàn quân đã tiến sâu vào miều núi rừng điệp trùng, hiểm trở. Trại quân của Trịnh Giác Mật chẳng còn bao xa nữa.

      Giữa lúc đó, chúa đạo Đà Giang cũng đang ngồi giữa đám đầu mục của mình:

      - Đêm qua ta mộng thấy một con chim lô đỏ bay đến đậu ở trước trại quân. Thế là điềm gở! Lại dò được tin kẻ làm tướng của triều đình chính là Chiêu Văn Vương Nhật Duật. Đấy là người có tiếng thông thạo tình hình đất đai dân cư của ta...

      Đám đầu mục nhớn nhác nhìn nhau. Trịnh Giác Mật hùng hắng ho:

      - Thượng sách bây giờ là tránh giao chiến. Ta đã nghĩ ra một kế dụ chủ tướng của triều đình tới đây. Nếu nó là người non nớt, chỉ có hư danh, thì ta giết luôn. Còn nếu nó đúng là người tài, thì phải giảng hòa với nó!

      Một lá thư bay ngay đến lều trận của Trần Nhật Duật khi ấy đã cùng đội quân của mình hạ trại ngoài núi: "Giác Mật không dám trái mệnh triều đình, nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra hàng ngay".

      Các tướng sĩ của Trần Nhật Duật đều ra sức can ngăn chủ tướng. Không nên nghe theo lời của chúa đạo Đà Giang. Quỉ kế đang ẩn náu sau đấy. Nhưng Nhật Duật vừa đọc kỹ lại lá thư, vừa âm thầm suy tính: "Giác Mật không dám đàng hoàng cự chiến, vậy là đã nao núng. Cái kế mọn dụ tướng, xưa nay chỉ dụ được những kẻ non gan. Ta sẽ nhân kế này mà xoay chuyển cuộc dấy loạn. Đạo Đà Giang xa xôi này không thể đồn quân chinh chiến lâu dài. Không thể hao binh tổn tướng mãi ở đây, trong khi triều đình đang cần từng người lính để sửa soạn cự lại giặc nguyên ở bên ngoài. Thượng sách vẫn là thu phục được lòng người ở đây, khiến họ thuận theo về với triều đình làm nên cái thế liên kết lâu bền ở trong một nước..."

      Nhật Duật quyết định một mình một ngựa đến ngay trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng cắp tráp đi hầu.

      Con ngựa trắng của Chiêu Văn Vương đi thủng thỉnh giữa những hàng quân dữ tợn của chúa đạo Đà Giang. Một lưỡi gươm rồi lại một lớp giáp, Giác Mật cố ý dàn quân phô trương, dọa nạt. Nhưng nét mặt của vị thân vương đi trấn thủ đạo Đà Giang vẫn lặng lẽ thản nhiên. Chỉ có mấy chú tiểu đồng, khi vừa đến sát ngôi nhà sàn đồ sôï của Giác Mật, nghe một loạt tiếng quát dữ dội, và thấy đám quân lính sắc phục kỳ dị của chúa đạo Đà Giang chĩa ra một loạt mũi giáo nhọn hoắt, thì tái xanh nét mặt, đỏ bừng đôi tai!

      Trần Nhật Duật thong thả bước lên nhà sàn, chậm rãi nói với Trịnh Giác Mật vừa từ phía trong tiến ra:

      - Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đến đây thì nóng tai phải...

      Dùng ngay ngôn ngữ của dân tộc Đà Giang, vừa chỉ vào những đôi tai đỏ ửng của bầy tiểu đồng, vừa điềm nhiên nói năng thật rành rẽ, Trần Nhật Duật thốt nhiên khiến cho chúa đạo Đà giang và cả đám đầu mục cùng sững sờ kinh ngạc. Những tiếng rì rầm nổi lên giữa các thủ lĩnh của Giác Mật:

      - Người này là ai mà biết nói hết những điều giống hệt tục lệ của ta? Nóng tai trái là có người ngoài mong đợi, nóng tai phải là có người thân trông ngóng. Sao nói giỏi vậy.

      Trong khi đó, Trần Nhật Duật vẫn như không nghe thấy những tiếng bàn tán xôn xao, đàng hoàng phân ngôi chủ khách, cùng trịnh Giác Mật ngồi giữa nhà. Mâm rượu đã bày sẵn, và chúa đạo Đà Giang vừa nheo mắt thách thức, vừa đưa tay mời: Chỉ có một quả bầu cắt đôi, sóng sánh một thứ rượu ngâm và một đĩa thịt nai muối. Trần Nhật Duật không chút ngần ngại, bình thản nhón một miếng thịt, rồi vừa nhai vừa ngửa mặt, cầm gáo rượu, từ từ dốc vào mũi, uống ăn hết sức thành thạo.

      Trịnh Giác Mật không kìm giữ được nữa:

      - Nghe vua Trần vẫn nói Chiêu Văn Vương chính là hậu thân của các giống Phiên, Man, quả đúng thế chăng?

      Trần Nhật Duật khi ấy mới nhìn thẳng vào mắt Giác Mật một hồi lâu, rồi hỏi lại:

      - Chúng ta xưa nay vẫn là anh em. Triều đình đối với dân Đà Giang xưa nay vẫn không có điều tiếng gì, cớ sao gây chuyện bất hòa?

      Những tiếng kêu nhao nhao khắp nhà:

      - Nó là anh em với ta!

      - Chúng ta là anh em với nhau thôi!

      Dường như chỉ đợi có thế. Trần Nhật Duật nhẹ nhàng vẫy gọi tiểu đồng tới gần. Viên trấn thủ của triều đình tự tay mở tráp, lấy ra những chiếc vòng bạc long lanh sáng trắng, trao tận tay cho từng đầu mục đạo Đà Giang, và chọn riêng cho chúa đạo Đà Giang một chiếc vòng lớn, lồng nguyêân một chiếc vuốt cọp!

      Những người cầm đầu đạo Đà Giang xa xôi chỉ còn biết sung sướng đón nhận lấy những tặng phẩm kết nghĩa đúng với phong tục cổ truyền của mình...

      Tình hình trong nước bấy giờ đã đủ yên ổn để có thể dốc toàn lực cự lại giặc ngoại. Vừa lúc ấy, hoàng đế nhà Nguyên hung hăng điều động một đạo binh mã khổng lồ năm mươi vạn, do chính con trai y là Thoát Hoan làm tổng chỉ huy, chia đường tràn vào Đại Việt.

      Quân giặc xâm lược mưu toan từ ba mặt đè bẹp bước Đại Việt. Trên biên giới phía Bắc, hai cánh quân từ mạn Tây và mạn Đông dồn xuống. Liền đó, từ mạn biên giới phía Nam một cánh quân nữa sẽ do chính Chiêm Thành đánh ra. Cả ba cánh quân đều phóng thẳng đến kinh đô Thăng Long: Chúng sẽ hội sư sau khi chiếm thành, bắt sống triều đình nhà Trần ở đấy.

      Nước Đại Việt lập tức tung các lực lượng các lực lượng ra để đối phó. Vua Trần thân chinh cùng với các vương hầu, tướng lĩnh chia nhau kéo quân đi các ngả chặn giặc. Ngả phía Tây của mặt trận biên giới phía Bắc được giao trọn cho Chiêu văn Vương Trần Nhật Duật. Vị thân vương này sẽ ra quân trên địa bàn rừng núi quen thuộc, sẽ đánh những trận lớn vào tuổi ba mươi hai của đời làm tướng còn rất trẻ của mình.

      Cửa trận đã khép lại, hồi chuông thu quân như còn quyện mãi trong màn sương chiều đang buông nhanh xuống núi rừng.

      Những ngọn đuốc nhựa thông đã thắp sáng khu đại trại Thu Vật. Chiêu Văn Vương cởi bộ chiến bào, ngồi nghỉ giữ quân doanh. Cả một ngày đốc quân chặn giặc, bây giờ mới được một lúc thư thái, bộ óc ham suy tính của vị tướng trẻ đã lập tức hoạt động. Liền ngay đó, cái điều ngờ ngợ cảm thấy ở giữa bãi chiến trường lúc ban ngày đã lớn vụt lên. Tại sao ở ngay trận đánh mở màn hôm nay, quân Nguyên chỉ giao chiến cầm chừng? Mấy lần tung quân kỵ mở đường qua cửa ải bị chặn lại, chúng không nôn nóng liều mạng tràn tới nữa. Cái cung cách tiến đánh như thế rõ ràng có điều khác với những kiến thức mà Nhật Duật đã thu lượm được về quân giặc. Nghe Bảo Văn Hầu kể lại việc năm Nguyên Phong, ở trận Phù Lỗ, vừa nhác thấy quân ta bày trận ở bên kia bờ, giặc Thát bị vướng sông ở bờ bên này đã xô lên, dùng ngay cung tên bắn xuống nước để dò đáy, gặp chỗ nào không thấy tên nổi lên là lập tức phóng ngựa ào qua để tấn công. Thế mà bây giờ quân giặc lại chỉ đánh chắc rời rạc, hẳn là đang còn mưu toan điều gì. Phải chăng chúng còn muốn đưa quân bọc sau quân ta rồi mới hai mặt giáp công?

      Một hồi trống hiệu giật gióng gọi tới. Quân canh đưa vào trình một người lính khắp người bết mồ hôi và bụi bặm đường trường. Nhận ra sắc phục lính Thánh Dực, Nhật Duật đã linh cảm ngay một biến cố hệ trọng. Nhưng viên tướng trẻ vẫn không hề đổi sắc mặt, chỉ rướn cặp lông mày dò hỏi. Người lính từ chỗ vua Trần gấp đường tìm đến vội vã trình ngay tình hình: ở mạn Đông của mặt trận biên giới, quân ta do vua Trần và Hưng Đạo Vương chỉ huy đã giao chiến lớn với đại binh của giặc ở Vạn Kiếp. Thế giặc rất mạnh. Và Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Vương đã cho lệnh lui quân để bảo toàn lực lượng...

      Truyền cho dẫn người lính Thánh Dực đi nghỉ, Trần Nhật Duật ngồi giữa quân doanh điềm tĩnh tính toán. Đại cuộc như thế, lui quân là phải. Nhưng ở đây, ta và giặc đều mới vào trận. Nhất đán rút đi là việc dễ bị đuổi đánh. Phải có cách lui quân sao cho an toàn...

      Suốt đêm đó, rồi cả ngày hôm sau nữa, viên tướng trẻ phụ trách gánh nặng của mặt trận biên giới phía Tây không hề chợp mắt. Nhật Duật căng óc liệu định từng chi tiết trước mắt của cuộc rút quân, cũng như cả những công việc lâu dài về sau.

      Nhưng quân lính dưới trướng vẫn chỉ thấy chủ tướng của mình thản nhiên, ung dung như mọi ngày. Và một hôm sau thì tất cả đều đã gọn gẽ, nhẹ nhàng xuống thuyền kín dòng sông Chảy đổ xuôi. Trần Nhật Duật đã quyết định chọn đường sông để hạn chế thế mạnh trên bộ của kẻ địch. Quân ta từ sông Chảy vào sông Lô rồi ra Nhị Hà, về Thăng Long.

      Đoàn chu sư của Trần Nhật Duật vừa rút lui được một chặn đường thì đã thấy hậu quân báo lên: Có dấu hiệu giặc đuổi theo! Trần Nhật Duật lên thẳng lầu thuyền cao, nheo mắt nhìn kỹ về phía sau. Cát bụi đang bốc lên ở cả hai bên bờ sông. Quân giặc đúng là đang men theo dọc sông để bám gót quân ta. Những đám bụi quân hành trông mới lờ lững, thung dung làm sao! Đuổi theo quân ta mà sao chúng chậm chạp làm vậy? Mối nghi ngờ lại lóe lên, viên tướng trẻ thận trọng phái ngay mấy chiếc thuyền nhẹ chèo gấp về phía trước dò đường. Quả nhiên, chẳng bao lâu đã có tin báo về: Một cánh quân giặc đã cắt ngang sông ở mạn hạ lưu!

      Trần Nhật Duật lục lại trí nhớ, hình dung ra địa thế quanh miền và cân nhắc tình hình rất nhanh. Sau đấy, rất bình tĩnh, viên tướng trẻ hạ lệnh ghé thuyền vào bờ hữu ngạn, rút hết quân lên bộ, nhẹ nhàng tạt vào từng tắt đường rút về phía tây. Cái bẫy quỷ quyệt mà quân giặc dung công giương nên, không ngờ lại để lỗ hỗng tai hại này!

      Nhưng, vừa đưa được quân đội an toàn về đến Bạch Hạc. Trần Nhật Duật đã lại nhận thêm được một tin dữ nữa: Mới ngày hôm qua, sau trận đánh chặn giặc ở bến sông Hồng ngoài thành Thăng Long, đại quân triều đình đã bỏ kinh thành, rút xa hơn nữa về phía Nam về phủ Thiên Trường. Tướng giặc Thoát Hoan đã chiếm tòa kinh đô bảo trống. Và thế là đường về với quân triều đình của Trần Nhật Duật bị giặc chặn ngang ở quãng ấy!

      Thử thách đến với đạo quân của viên tướng trẻ tuổi lần này quả là lớn. Trong quân ngũ đã thoáng thấy những ánh mắt lo ngại. Nhưng một mệnh lệnh kiên quyết đã bay ra: Toàn quân sẽ tạt xa nữa về phía Tây, đi xuyên vùng các tộc Phiên Man, vòng qua miền giặc chiếm đóng mà về với đại quân ở Thiên Trường!

      Trần Nhật Duật đã cho lệnh triệu ngay các bộ tướng đến dưới trướng. Nhưng trước đó, viên tướng trẻ đã kịp gọi riêng viên đạo sĩ nước Tống, Hứa Tông Đạo bấy lâu nay vẫn cho đi theo quân ngũ dặn dò cặn kẽ:

      - Hứa đạo sĩ! Mấy năm nay thu nạp người tài ở dưới trướng, bây giờ mới là lúc ta cần đến ông. Hãy thiết lập một đàn tế trời đất ở ngay bên bờ sông Bạch Hạc này! Ngày mai, trước lúc quân sĩ lên đường, đạo sĩ sẽ là người lo việc làm lễ ăn thề cho toàn quân, để mọi người đều yên lòng theo ta đánh giặc!

      Sau đấy, giữa các bộ tướng, Trần Nhật Duật, điềm đạm nói:

      - Vận nước gian nan thì mới thấy rõ lòng người. Dẫn quân qua vùng phiên Man để về với triều đình là việc khó khăn mà dễ. Khó vì đường xa hiểm trở. Dễ vì thung thổ ở đây ta đã thuộc như lòng bàn tay. Lại thêm các dân Phiên man năm trước đều đã theo Trịnh Giác Mật một dạ kết liên với triều đình. Vậy chỉ còn cần chư tướng cùng quân sĩ dốc lòng. Ngày mai, Hứa đạo sĩ chủ trì lễ cắt tóc tuyên thệ, nguyện lấy lòng trung để báo ơn vua của tất cả mọi người!

      Rút phắt thanh gươm bên sườn, Trần Nhật Duật cắt ngọt ngay một vạt tóc của mình và tiếp tục nói đều đều:

      - Kẻ nào trong chúng ta mà đổi dạ thay lòng thì sẽ như mớ tóc này!

      Đã qua rồi những ngày gian khổ để chắt chiu chuẩn bị cho thời cơ hưng khởi nức lòng bây giờ. Đạo quân mà Trần Nhật Duật vượt núi rừng đưa được nguyên vẹn về Thiên Trường, nay đã đến lúc tung hoành thỏa chí.

      Mấy hôm trước, trong cuộc họp bàn với tướng lĩnh thân cận. Hưng Đạo Vương đã tâu vua Trần cho lệnh bắt đầu phản công, và chọn phòng tuyến của giặc Nguyên xây dựng trên sông hồng làm hướng tiến đánh trước tiên. Vua Trần chấp nhận kế sách ấy. Và hồ hởi nói với mọi người:

      - Quân giặc nhiều năm đi xa, quân nhu chở đi vạn dặm, tất rất mệt mọc. Lấy nhàn đổi mệt, trước hết làm mất khí thế của chúng thì nhất định phá được!

      Và thế là trận đánh mở màn do chính Quốc Công Tiết Chế chỉ huy, nhằm vào đại đồ A Lỗ của giặc Nguyên đã bùng nổ. Quân ta xung trận với khí thế ngất trời, đánh tan tác cánh quân trú phòng A Lỗ của tên tướng Vạn Hộ Lưu Thế Anh, buộc tên tướng giặc khét tiếng gian hùng này phải cắm đầu tháo chạy.

      Rồi đó, đến lượt Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật! Mục tiêu của trận đánh lớn giao phó cho viên tướng trẻ, chính là cửa Hàm Tử của quân giặc. Nhận được lệnh ra quân, Trần Nhật Duật lập tức cho dàn sẵn binh thuyền. Một mặt, truyền lệnh cho gọi riêng viên tướng Tống Triều Trung đến dưới trướng. Như ngày nào đã giao nhiệm vụ cho đạo sĩ Hứa Tông Đạo trên bến Bạch Hạc, lần này, viện tướng trẻ của nhà Trần cũng lựa lời khích lệ Triệu trung, rồi ghé sát vào tai, thì thầm mật lệnh. Không biết Nhật Duật đã nói những gì mà chỉ thấy cuối cùng, Triệu Trung sáng bừng nét mặt, vòng tay nói thật cảm kích:

      - Được một lần sống lại cùng cố quốc như thế, Triệu Trung này dẫu gan óc lầy đất cũng hả lòng!

      Triệu Trung vừa đi ra thì Trần Nhật Duật dồn nhanh đội hình tiến quân xông thẳng vào thủy trại của giặc, xung sái cực kỳ dũng mãnh. Chiến thuyền giặc Nguyên gắng gượng chống cự được một chập thì phải giạt dần vào bờ, nhờ quân bộ tiếp cứu. Theo dõi trận đánh, thấy thế trận đã chuyển, Trần Nhật Duật, sau một thoáng cân nhắc, đã vớ ngay chiếc dùi trống trận, thúc một hồi dài. Trao lại dùi trống cho một viên tùy tướng, Nhật Duật nhảy ngay xuống một chiếc thuyền nhẹ, tuốt gươm vẫy quân ồ ạt tràn lên bờ. Đạo quân thiện chiến của Trần Nhật Duật lăn xả vào trận giặc đang bắt đầu rối loạn, công phá dữ dội. Từng đám từng đám xác giặc đổ gục. Chỗ này một tên tướng rống lên, ngã nhào xuống chân ngựa. Chỗ kia, một lá cờ hiệu bị chém rơi, giẫm nát.

      Vừa lúc ấy, từ phía sau hàng trận giặc Nguyên cũng xuất hiện một cánh quân lạ. Lá cờ hiệu dẫn đầu cánh quân mang chữ "Tống" cực lớn. Tiếng trống thúc lẫn tiếng quân reo dội tới, nghe cũng lạ tai: Tiếng Tống! Cuối cùng, khi cánh quân đã áp tới gần, đã có thể nhận ra những bóng người mặc toàn sắc phục của quân Tống, thì những loạt tên từ những chiếc cung hai cánh lớn thứ vũ khí lợi hại chỉ riêng những đạo quân cung thủ đặc biệt của Tống triều mới có đã bay như mưa rào vào phía sau hàng trận quân Nguyên.

      Một cảnh cực kỳ hỗn loạn chưa từng thấy, diễn ra ngay giữa hàng trận quân giặc. Bị đánh dồn từ hai mặt: Một bên là đạo quân của Trần Nhật Duật vẫn ào ạt xông tới, mạnh như chẻ tre, một bên là cánh quân Tống Triều mà lũ giặc Nguyên kinh hãi rụng rời, tưởng đâu là họ đã khôi phục được quốc triều, mới từ đất Tống kéo sang chi viện cho quân Trần toàn trại binh Nguyên trên cửa Hàm Tử phút chốc vỡ tan, bị giết một phần, còn thì bị bắt vô số.

      Hai cánh quân vừa giáp công ở cửa Hàm Tử đã gặp nhau. Tướng Truệu Trung phải, chính là viên gia tướng được thu nạp dưới trướng Trần Nhật Duật, theo mật lệnh của chủ tướng đã cho bộ hạ của mình một phen dùng lại sắc phục của nước mình, góp phần cùng quân Trần đánh tan kẻ thù chung như lời khích lệ của Nhật Duật ngày nào bây giờ tiến thẳng đến trước vị chủ tướng trẻ tuổi mà mưu trí như thần, dâng lá cờ của tướng Nguyên vừa cướp đươc, giữa tiếng reo vui đại thắng của quân sĩ.

      Đoàn chiến thuyền lại ken đặc mặt nước đỏ ngầu phù sa, vùn vụt lướt sóng, tiến lên phía trước. Chu sư nhà Trần đang rầm rộ ngược sông hồng về thu phục lại Thăng Long.

      Ở chiếc kỳ hạm đi đầu, Trần Nhật Duật đứng thẳng người dưới lá cờ hiệu mang hàng chữ "Chiêu Văn Vương, Trần". Đôi mắt sáng của viên tướng trẻ mở to, bao quát cả một vùng cảnh quan đang trải ra bao la phía trước. Thốt nhiên, từ một điểm lung linh sâu thẳm của ký ức viên tướng trẻ, hiện dần lên cảnh tượng của hơn hai mươi năm trước, cảnh tượng của đoàn thuyền hoàng gia tươi vui, hồ hởi ngược sống trở lại kinh thành, sau trận thắng giặc năm Nguyên Phong. Phải rồi, vẫn đất kia, sông này. Ngày ấy, Thăng Long giải phóng vẫy gọi đoàn thuyền. Bây giờ, Thăng Long cũng đang mong chờ đại quân tiến về giải phóng. Viên tướng trẻ của nhà trần bỗng nhớ lại, rõ mồn một, hình ảnh của Linh từ quốc mẫu và chuyện trên mũi thuyền giữa bà quốc mẫu cùng đứa cháu thơ dại vị hoàng tử nhỏ tuổi mà đã ham hiểu biết.

      Tự nhiên, Trần Nhật Duật thấy mình muốn mỉm cười. Nhưng viên tướng trẻ vẫn không quen để lộ cảm xúc ra ngoài nét mặt, mặc dầu trái tim đang rộn lên những nhịp đập tự hào. Từ chỗ phải chạy giặc lần ấy, đến bây giờ, lần này, đã xuất hiện một viên tướng trẻ, đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp bảo vệ đất nước. Ôi, Đất nước, những ngày đắm mình trong giông bão thử thách quyết liệt như thế này, thật đã khiến cho những ai biết gắng sức mình sống cho xứng đáng, đều sẽ vụt lớn bỗng lên, diệu kỳ biết bao.
      _________________




      #33
        Hoàng Dung 04.02.2006 11:37:10 (permalink)
        sưu tầm


        Phan Huy Chú


        Quan Thám bận đi ăn giỗ ở làng bên nên không kịp về đúng giờ dạy học. Đã thành lệ, mỗi khi quan thám về muộn, trưởng tràng phải dùng hết quyền lực, thậm chí bằng cả roi như thầy học cho phép mới bắt được gần năm chục học trò yên lặng ôn bài cũ. Phan Huy Hạo, ít tuổi nhất lớp nhưng là cậu bé duy nhất không hề tỏ ra sợ hãi trưởng tràng. Cậu vẫn nhấp nhổm ngoái cổ ra cửa sổ ngó ra sân, trêu chọc đám trẻ, lợi dụng quan Thám đi vắng, đến xem học. Mấy lần ngọn roi trưởng tràng vung lên nhưng rồi lại hạ xuống, không mảy may động đến cậu bé có gương mặt thông minh và bướng bỉnh ấy. Cũng như quan Thám, trưởng tràng nể Phan Huy Hạo không chỉ vì cậu là con Lễ bộ thượng thư Phan Huy Ích mà còn vì phục tài cậu. Thực vậy, bản tính Phan Huy Hạo nghịch ngợm nhưng tài học của cậu sớm nổi tiếng cả vùng, khó học trò nào địch nổi.

        Xuất thân từ một gia đình dòng dõi khoa bảng, ông nội, cha và chú ruột đều đỗ tiến sĩ, làm quan to và đều là những nhà soạn sách có tài nên Phan Huy Hạo từ bé đã được rèn luyện, dạy dỗ cẩn thận về thi thư. Vốn thông minh lại sớm có chí tìm tòi nên Phan Huy Hạo chẳng những chỉ nhớ sách mà còn hiểu nghĩa sách đến mức dám tranh luận với thầøy học và có lúc dồn thầy học vào thế bí. Một lầøn, luận về lịch sử nước nhà, quan thám dựa vào các sách đương thời, coi nhà Triệu là vương triều chính thống của nước Việt. Phan Huy Hạo nhờ học rộng, hiểu sâu đã mạnh bạo bác ý thầy học gán quốc thống cho nhà Triệu là sai. Cậu chứng minh:

        - Triệu Đà nổi lên ở Long Xuyên, dựng nước ở Phan Dương, mở mang bờ cõi, kiêm tính nước ta để có hai đô, đặt giám chỉ để cai quản, chưa từng làm vua nước ta. Nếu ta nhận y là vua nước Việt ta, thì sau đó Lâm Sĩ Hoằng nổi lên ở Bà Dương, Lưu Nghiễm nổi lên ở Quảng Xuyên, cả hai đều xưng là Nam Việt Vương, ta cũng phải biên vào nội kỷ trong lịch sử nước ta hay sao? Người xưa lầm lẫn vì không phân biệt được nước Việt ở quận Nam Hải và quận Quế Lâm không phải là nước Việt ở bằng quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam.

        Lớp học lặng đi trong giây lát. Mọi người lo lắng sợ quan Thám sẽ đùng đùng nổi giận vì sự vô lễ của Phan Huy Hạo. Nhưng trái lệ thường, người thầy học nổi tiếng hay chữ ấy sớm nhận ra tài năng đặc biệt của con trai Lễ bộ thượng thư tân triều. Hơn thế ông giâït mình trước lý lẽ sắc bén, khả năng tìm tòi và những suy nghĩ táo bạo rất đúng của cậu bé. Bởi vậy, quan Thám chẳng những không quở trách mà còn khen ngợi Phan Huy Hạo. Từ đấy, ông càng mến và nể Phan Huy Hạo hơn.

        Lớp học bỗng trở nên ồn ào. Một đứa nào đó cất giọng oang oang:

        - Vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm. Nhân dịp thầy chưa về, chơi cho thỏa thích, anh em ơi!

        - Ừ phải đấy, học mãi mờ cả mắt, anh trưởng ạ! Phan Huy Hạo mắt bừng sáng phụ họa.

        - Chơi cái gì bây giờ?

        Vẫn Phan Huy Hạo liếu láu:

        - Chơi hồ: Xách khố; cố: đấm lưng; nhĩ: Bẹo tai; tu: Bẹo cằm; tâm: Bẹo bụng; mục: Bẹo mắt; tị: Bẹo mũi; khẩu: Bẹo mồm nhé! Nào chơi đi.

        Cả lớp nhao nhao hưởng ứng ầm ĩ như chợ vỡ. Trưởng tràng cầm roi vội nhảy lên sập, lớn tiếng quát tháo:

        - Chúng mày không học lại còn phá đám hả? Rủi thầy về thì ai chịu lỗi. Muốn tốt thì học đi!

        Trông thấy ngọn roi lăm lăm trong tay trưởng tràng, đứa nghịch ngợm nhất cũng chưng hửng ngồi xuống. Trưởng tràng đắc chí cười tủm tỉm rồi làm ra vẻ thông cảm dịu giọng:

        - Nếu các cậu chán học thì chơi đố chữ vậy. Chơi đôù chữ thầy về cũng không quở phạt.

        - Phải đấy! Hay đấy. Hôm nay phải cho thằng Hạo tịt mít.

        - Bắt đầu đi Một cậu bé được thể hét lớn:

        - Tôi đố trước trưởng tràng dõng dạc. Hai chú thập rập chú viết, chú nguyệt đứng trông là chữ gì?

        Cả lớp đều nhẩm lại câu đố ngẫm nghĩ rồi đua nhau:

        - Chữ Hồ.

        - Không phải!

        - Chữ Minh.

        - Cũng không phải!

        - Hạo ơi, giảng đi:

        Phan Huy Hạo vừa được một cậu bé đến xem học đãi một bắp ngô nướng vàng ươm, thơm phưng phức nên không để tâm đến chuyện đố chữ. Bởi vậy, khi bị gọi đích danh, cậu đứng đơ ra.

        - Thằng Hạo tịt rồi, tịt thật rồi. Cả lớp cười khoái chí. Trưởng tràng sức học vấn vốn thua Hạo được dịp lên nước:

        - Câu đó dễ thế mà cũng không giảng được. Đấy là chữ triều. Chữ triều gồm chữ thập ở trên, một chữ thập ở dưới, ép lấy chữ viết ở giữa, một bên có chữ nguyệt rành rành là gì?

        Từ cuối lớp một cậu bé dặn hắn rồi đọc:

        - "Chim chích mà đậu cành tre", "Thập trên, tứ dưới, nhất đè chữ tâm", là gì?

        Lần này Phan Huy Hạo chú ý nên giảng ngay.

        - Dễ thế mà cũng đố! Chữ "đức"

        Cả lớp nhao nhao:

        - Giỏi lắm.

        Đến lượt Phan Huy Hạo đứng dậy:

        - Cô kia đội nón chờ ai, là chữ gì?

        - Chữ an. Trưởng tràng hớn hở đáp.

        - Giỏi! Tôi đố tiếp cặp mắt Hạo sáng long lanh Đất này là đất bùn ao. Ai cắm cây sào mà cắm chẳng ngay. Con ai lại đứng ở đây? Đứng thì không vững vịn ngay vào sào?

        Cả lớp rì rầm nhắc lại câu đố. Thấy chúng bạn có chiều bí, Phan Huy Hạo khích lệ:

        - Cứ thông thả mà nghĩ, tìm ra từng chữ rồi ghép lại thành chữ giảng.

        - Thôi đi, đừng có lên giọng. Cậu bé ngồi gần Hạo không chịu được thái độ làm bộ, làm vẻ của Hạo, công phẫn.

        Nhưng rồi chính cậu ta lúc sau lại kêu lên:

        - Chịu!

        Nhiều tiếng xuýt xoa, thất vọng nổi lên:

        - Chịu đấy!

        - Đây cũng chịu. Trưởng tràng ngán ngẩm, đáp sau cùng.

        Phan Huy Hạo nói khích:

        - Kém thế! Dễ nhất.

        - Thôi giảng đi, hay cũng tịt nốt?

        - Chữ hiếu mà không biết à?

        Không khí lớp học như vỡ tung ra. Trưởng tràng đợi bớt ồn ào rồi nói to:

        - Sao lại chữ hiếu nhỉ?

        Phan Huy Hạo cười rất tươi:

        - Thổ trên là đất, nét phẩy là cái sào cắm nghiêng, chữ tử là con, rõ chưa?

        - Hay lắm, giỏi lắm. Cả lớp nắc nỏm khen.


        Chợt có một chú bé hấp tấp từ cổng chạy vào:

        - Thầy về đấy! Sắp đến rồi!

        Tức thì ai nấy vội cầm sách nhanh chóng ngồi thành hàng, cạnh những chiếc chiếu căn liền thành dãy rồi mở sách, làm ra vẻ chăm chú học. Trưởng tràng để gọn nghiên son, ống bút cho thầy rồi cũng cầm lấy sách.

        Ngay sau đó, cả lớp nhận ra bước chân quen thuộc của thầy đồ đang tới gần.

        Càng lớn lên, Phan Huy Hạo càng tỏ rõ có năng khiếu đặc biệt về khả năng tìm tòi, nghiên cứu. Nhờ có một trí nhớ kỳ lạ, lại được thừa hưởng cả một gia tài sách vở hàng vạn quyển của gia đình tích trữ từ bao đời, kể cả gia tài sách của ông ngoại một gia đình nho học nổi tiếng, liền bảy đời sản sinh những nho sĩ có tên tuổi, Phan Huy Hạo có điều kiện đọc nhiều và dường như đã thâu tóm được đầy đủ đầu mối điển chương, tinh hoa của mọi sách vở. Vì vậy Phan Huy Hạo sớm nổi tiếng người học rộng, hiểu sâu. Quê Phan Huy Hạo, xã Thanh Khuê, huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai (Sơn Tây cũ) có chùa Phật tích (còn gọi là Sài Sơn) là một danh thắng nổi tiếng. Nơi đây núi cao thanh vắng, cây cỏ u nhã, có hang sâu, có hồ rộng nên chẳng mùa nào không có khách văn thơ đến viếng thăm. Đã đến Sài Sơn không có văn nhân nào lại không tìm đến ra mắt cậu công tử có tài ứng đối con quan Lễ bộ thượng thư Phan Huy Ích, cháu binh bộ thượng thư Ngô Thì Nhậm. Bằng những cuộc tiếp xúc ấy, Phan Huy Hạo thấy rõ lối học cử nghiệp chỉ đưa các văn nhân đến chỗ sính hư văn mà ít để tâm đến việc kinh luận. Cho nên, cũng từ rất sớm, Phan Huy Hạo xem thường lối học ấy và chủ trương: "Văn chương phải kết hợp với sử cổ và chính sự đương thời". Bởi vậy, ngoài việc học ở trường, Phan Huy Hạo giữ được thói quen say mê đọc sách, nghiền ngẫm nghĩa sách không kể giờ giấc. Trong việc đọc sách, Phan Huy Hạo chọn cho mình lối đọc có suy nghĩ: đọc không chỉ để thừa nhận nó mà luôn luôn tìm ra cái hay, cái dở trong từng cuốn sách, thậm chí sau từng chương sách, Phan Huy Hạo bao giờ cũng ghi lại lời bình rất cẩn thận. Cho nên, ngay từ lúc còn đi học, Phan Huy Hạo dã ghi chép đầy đủ những bài thơ được coi là tinh hoa của các đời kèm theo đôi lời bình luận ý vị, sâu sắc làm nổi được cái hay cái đẹp của tác giả và phong cách của từng người. Ví như, Phan Huy Hạo khen thơ Trần Nhân Tông "Phóng khoáng, thanh nhã", thơ Trầøn Quang Khải "Thanh thoát, nhàn nhã, xem thơ có thể thấy được phong thái của người", thơ Nguyễn Trãi "Ôn nhã, trung hậu, lời đặt chỉ cần khí khách, không cần chải chuốt... Tinh tứ, thấm thía, không thể đem từng chữ từng câu ra bàn đuợc".

        Một lần, đọc kỹ những lời bình phẩm ấy, Phan Huy Ích nói với con:

        - Những lời con bàn sâu sắc lắm, thật đáng khen. Vào tuổi con, cha chưa làm được như thế. Chẳng hay con có ý định soạn sách mà chăm chỉ biên sách làm vậy?

        - Thưa cha! Quả là con có ý định ấy.

        Giật mình trước chí hướng của con, Phan Huy Ích răn dạy:

        - Đọc sách để bình phẩm hoặc lĩnh hội nghĩa sách thì dễ nhưng soạn sách thì không phải ai cũng làm được. Cha không sợ sức học của con không đủ mà sợ con thiếu bền bỉ để làm công việc hao tổn tinh thần này.

        Phan Huy Hạo tươi nét mặt:

        - Thưa cha! Ngược lại, con chỉ sợ lực học của con còn nông cạn chứ không sợ bề gan làm việc lớn.

        - Cha sẽ giúp con. Nhưng người có tài trước thuật hơn cả vẫn là binh bộ thượng thư Ngô Thì Nhậm. Là chỗ người nhà, con nên cậy nhờ quan bác chỉ giáo cho buổi đầu.

        Con xin nhớ lời cha dặn.

        Nuôi hoài bảo trở thành người học rộng hiểu sâu, làm đẹp thêm truyền thống gia đình, dòng họ, Phan Huy Hạo khổ công rèn luyện cho mình cách học có kết quả nhất. Tấm gương lao đôïng miệt mài để soạn sách của cha chú, nhất là phong cách làm việc cần cù, thận trọng của Ngô Thì Nhậm, đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng cậu học sinh có chí ấy.

        Nhưng thời cuộc rối ren lúc ấy đã làm cho Phan Huy Hạo bối rối, thất vọng. Bởi vì, từ sau khi nhà vua Quang Trung mất, triều đình Tây Sơn chẳng những đã thiếu một người cầm đầu kiệt xuất mà còn đi sâu vào cái rớp xấu của những triều đại trước: Bè đảng tranh chấp, sao lãng dân tình, ăn chơi sa đọa vv... Các sĩ phu Bắc Hà, kể cả những người có công lớn như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, do nạn bè phái tranh chấp ấy, cũng không được vua Cảnh Thịnh tin dùng. Trong lúc ấy, ở đàng trong, Nguyễn Ánh được bọn người Tây Dương giúp tàu đồng, binh khí, đang ra sức chiêu nạp từ những tên cường hào đến những tên đương thủ, lăm le dòm ngó Bắc Hà, tìm cách chiếm lại ngôi chúa tể. Nhận thấy không còn cơ cứu vãn thời thế, cũng như không còn dịp thi thố tài năng, nhiều sĩ phu đã ôm hận theo vua Tây Sơn. Binh bộ thượng thư Ngô Thì Nhậm, lễ bộ thượng thư Phan Huy Ích phải lui về quê. Bộ óc lớn của các danh sĩ ấây sau những năm phục vụ Tây Sơn chỉ còn biết tập trung cho việc trước thuật để lãng quên thực tế bi đát.

        Theo dõi diễn biến của thời cuộc, đọc được nỗi phiền muộn trên khuôn mặt đăm chiêu, mái tóc nhanh bạc của cha, Phan Huy Hạo đêm ngày lo nghĩ, suy tư. Linh tính như báo cho Phan Huy Hạo những điềm chẳng lành sẽ xảy đến cho gia đình. Ý tưởng đem việc học ứng dụng cho đời không còn nữa. Tuy thế Phan Huy Hạo vẫn miệt mài đọc hết sách này đến sách khác và siêng năng ghi chép những điều đã đọc được vào những cuốn sổ khác nhau, còn ở tuổi thiếu niên nhưng khác với chúng bạn cùng lứa tuổi, Phan Huy Hạo ít đàn đúm chơi bời; ngược lại, cậu ưa sự yên tĩnhvà suy ngẫm. Theo gương cha, Phan Huy Hạo dồn sức vào việc đọc sách. Đọc sách đối với cậu là việc mở mang kiến thức, và lúc này, cũng là cách quên đi những vụ sát hại nhau ở triều Cảnh Thịnh.

        Một ngày nhân đến thăm Phan Huy Ích, thấy Phan Huy Hạo mãi mê đọc sách, Ngô Thì Nhậm cười, hỏi:


        - Ta nghe nói cháu là"Loại" Mọt sách? Chuyện ấy là có thật?

        - Thưa quan bác Phan Huy Hạo lễ phép cái tinh việc của lòng nghĩ ngợi, lo toan đều gởi gấm vào trong văn chương sách vở. Cho nên xem văn chương để hiểu thấu đường đời. Văn minh loài người đều chứa trong sách vở vậy.

        Ngô Thì Nhậm gật đầu, cười hỏi tiếp:

        Ta còn được biết nhiều cuốn sách xem xong, cháu không hài lòng. Cháu có biết như vậy là kiêu ngạo không?

        Phan Huy Hạo đỏ mặt lúng túng:

        - Học vấn còn nông cạn cháu đâu có ý ấy. Nhưng quả là đời Lý, đời Trần về trước, điển cũ mất cả, sử chép rất đại lược. Nhà Lê sáng nghiệp, lúc trung hưng, từng điều từng chương hãy còn nhưng chép tản mát, không có hệ thống gì cả. Ví như "Việc binh, việc hình, việc lễ, việc nhạc, thánh nhân điều có luật"; "Công việc thường, tề, trị, bình, cũng đều có phép tắc", nhưng mỗi thời ứng dụng một khác. Ấy là các vĩ nhân "Biết nắm lấy thực tiễn làm cốt tử" chứ không khép mình bắt chước thánh hiền.

        - Đội ơn quan bác đã rộng lòng nhận xét và khuyên bảo. Chẳng mấy khi quan bác đến thăm, cháu còn muốn thổ lộ điều bấy lâu hằng bận tâm: Lâu nay vua Cảnh Thịnh không tin dùng các sĩ phu bắc hà như thuở vua Quang Trung còn trị vì. Noi gương cha ông, cháu muốn đem việc học ứng dụng cho đời, nhưng gặp cảnh ngộ này cháu nên hành động ra sao?

        Câu hỏi của đứa cháu thông minh khiến cho trái tim vị quan già nhói đau. Bình thường thì Ngô Thì Nhậm tìm cách lẫn tránh không trả lời, nhưng vì mến tài cháu, ông không thể không bày tỏ tư tưởng mình:

        - Cháu là người có chí, ta không thể vô tâm. Theo ta, người quân tử phải có bản lĩnh, có chí khí, có lòng gan dạ sắt, tìm đâu hợp nghĩa thì theo. Ví dụ bấy lâu nay ta theo phò Quang Trung hoàng đế thì dẫu thời thế có đổi thay, phải giẫm lên đuôi hổ cũng không sao cả. Dõi theo thời cuộc và bằng cả đời chứng nghiệm, ta nhận thấy rằng: Phàm một người muốn đem sức mình thi thố được cho đời phải biết "Thời" tựa như mưa thuận thì ruộng đồng dào dạt, chỉ một cái này là xong nghìn khoanh. Trong hành động, phải biết biến hóa, thay đổi cho phù hợp với thời, phải biết cương nhu, biến thông, phải cùng thời biến hóa, rồi khi hành động thì phải quyết, phải theo dúng "đạo", nghĩa là biết cái đang tiến triễn mà làm sao cho nó tiến triển lên, có thể đạt tới chổ cơ trí vậy! Biết cái đang kết thúc mà làm cho nó kết thúc, đó có thể làm bảo tồn chữ nghĩa vậy. Nói gọn lại, xúc tiến cái đang tiến triển và đẩy nhanh cái đang kết thúc, đạo chính là ở đây.

        Lắng nghe những cái khuyên đầy trí tuệ ấy, Phan Huy Hạo vô cùng cảm kích. Suy nghĩ hồi lâu, cậu lễ phép nói:

        - Thưa quan bác, cháu sẽ nhớ mãi những lời giáo huấn của quan bác. Cháu hiểu rằng triều đại nào cũng luôn luôn diễn ra cuộc đối chội dai dẳng giữa cái tốt với cái xấu. Người quân tử thì phải luôn đứng về cái tốt dù thời cuộc đổi thay đến đâu!

        Như muốn kết thúc cuộc đàm đạo bất đắt dĩ, Ngô Thì Nhậm ưu tư nhìn cháu:

        - Khuyên cháu cũng chính như tự nhủ lòng. Thói thường, đối với chuyện người khác, ta rất sáng suốt. Con người ta thường có đủ can đảm để chịu đựng nỗi đau của người khác đó sao.

        Thoáng thấy những giọt nước mắt vừa trào ra từ khóe mắt con người mà tên tuổi gắn liền với những chiến công hiển hách thời vua Quang Trung Nguyễn Huệ, nay bổng bị Cảnh Thịnh bỏ rơi, Phan Huy Hạo lặng lẻ cuối đầu.

        Một toán quân sắc phục lá, mặt mài hung tợn ập vào nhà Phan Huy Ích giữa lúc ông đang cậm cuội soạn sách trước án thư. Bọn đầu trâu mặt ngựa ấy sau khi nhận ra người cần bắt, đã xong lại túm lấy, đè sập xuống rồi đóng gông, đeo xiềng đẩy vào cũi.

        Nhìn thấy cha mái đầu bạc trắng bị hành hạ Phan Huy Hạo liền tách đám đông gia nhân đang sợ phát khiếp, liều mạng xông lại cứu. Lập tức Phan Huy Hạo bị một tên lính đâp mạnh ngă khụy xuống. Đến khi nén đau gượng dậy, chiếc cũi nhốt cha đã được khiêng ra tới cổng. Phan Huy Hạo lại đuổi theo. Khi gần tới nơi, chàng trai hai mươi mốt tuổi ấy bỗng sững lại bởi tiếng gọi giât giọng của cha:

        - Hạo! Con hãy trở về!

        Phan Huy Hạo chưa dứt cơn kích động:


        - Người ta sẽ hành hạ cha đến chết mất!

        Giọng người cha bùi ngùi:

        - Mấy năm nay cha đã lường trước cơ sự này rồi. Cha biết trước sẽ đến lúc cha chỉ còn tấm lòng cô trung của cha mà thôi.

        Cho đến lúc trở về, nhìn thấy tập bản thảo "Bang giao tập" của cha bị bọn lính Nguyễn Ánh vứt rơi lả tả trên sàn gạch, Phan Huy Hạo mới bật khóc rưng rức. Phan Huy Hạo xót xa nghĩ đến hoan lộ của cha. Cũng giống như Ngô Thì Nhậm, cha là người thức thời đã biết gắng bó với phong trào Tây Sơn và sự nghiệp cứu nước nên đã tạo ra được những đóng góp thật xuất sắc đối với thời thế lúc ấy. Chính cha là người cùng Ngô Thì Nhậm chuyên lo việc bang giao với nhà Thanh và là tác giả đã điều khiển việc đưa Phan Công Trị giả làm vua Quang Trung sang nhàThanh năm 1790, hoàn thành xuất sắc việc ngoại giao cần kíp lúc ấy. Được rèn luyện từ những năm đất nước trải qua những cơn sóng gió và chuyển mình lớn lao, dưới sự trị vì của vị vua anh kiệt, cha đã thật sự được đem tài năng ứng dụng cho đời, lưu được tiếng thơm trong sử sách. Đến khi Triều Cảnh Thịnh bạc đãi, bỏ rơi, tự thấy không còn cơ cứu vãn thời thế, cha lui về quê nhà, cố tìm cách lãng quên bằng công việc trước thuật. Nhưng nay, triều Tây Sơn thế là đã sụp đổ. Nguyễn Ánh lấy được Bắc Hà liền nghĩ cách trả thù các danh sĩ ngoài Bắc. Ngoài cha ra, còn những ai sẽ là đối thủ Nguyễn Ánh trừng trị? Cồn cào lo lắng, Phan Huy Hạo quyết định phải về kinh thành ngay để nghe ngóng tin tức.

        Phan Huy Hạo đã trải qua nỗi đau thương chưa từng có khi tận mắt chứng kiến trận đòn thù hằn học theo đúng thể lệ trừng phạt của chế độ phản động nhà Nguyễn đối với những người có đạo học mà lại mắc "Tội theo giặc" ở văn Miếu. Đặng Trần Thường, phải, chính là kẻ từng cầu cạnh, nhờ vả Ngô Thì Nhậm nhưng bị cự tuyệt, đã vào Gia Định theo phò Nguyễn Ánh, nay leo lên được chức phó tổng trấn Bắc thành, thân đứng ra điều khiển cuộc hành hạ bỉ ổi ấy. Ngô Thì Nhậm, con người mẩn tiệp đã thắng thế trong cuộc giao chiến trên trường văn trận bút với tên Thường đắc chí tiểu nhân, đã phải bỏ mình sau trận đòn một trăm trượng ngay trước Văn Miếu. Còn cha, sau trận đòn thù ấy, tuy may mắn thoát chết nhưng ốm liệt ngường mấy tháng sau mới khỏi hẳn. Hờn căm, uất ức kẻ đã sát hại, hành hạ tàn nhẫn người thân, nhưng Phan Huy Hạo thấy rõ triều Nguyễn Ánh đã được thiết lập trên sự mục nát, bè phái của triều Cảnh Thịnh, khó có thế lực nào đương nổi. Trong không khí khủng bố, trấn áp của triều Gia Long Nguyễn Ánh, Phan Huy Hạo chỉ còn biết sống an phận ở quê hương, lấy việc đọc sách làm vui.

        Nhưng rồi những biến động của thời cuộc khiến Phan Huy Hạo không dễ an tâm với cuộc sống của mình. Nguyễn Ánh sau khi lên ngôi vua, diệt trừ tận gốc các chiến sĩ Tây Sơn, đã mở khóa thi chọn nhân tài, cũng là cách xoa dịu các sĩ phu Bắc Hà. Không ít người khuyên Phan Huy Hạo đi thi. Nhưng Phan Huy Hạo còn dùng dằng chưa quyết. Bởi vì, Phan Huy Hạo chưa dễ quên mối thù của tân triều đối với cha và bác mình. Cũng xung quanh việc thi cử này mà hai anh em Phan Huy Thực, Phan Huy Hạo đã nảy ra cuộc tranh luận gay gắt.

        Ấy là sau khi thi đỗ cử nhân ra làm quan cho Gia Long, Phan Huy Thực bảo em:

        - Chú là người học rộng, hiểu biết thời thế cả bề rộng lẫn bề sâu, hẳn phải biết tùy thời thế mà hành động, chẳng nên vùi đầu vào sách vở mãi như thế. Trước khi nhắm mắt; cha đã chẳng khuyên tôi và chú phải thức thời sao?

        Phan Huy Hạo điềm đạm:

        - Cha răn như vậy là vì thương con cái. Vì tình thương, vì thất thế, lời khuyên ấy không phải vì lý. Cũng không phải em chỉ sợ miệng thế cười chê đi phò tá cho kẻ đã hành hạ cha mình.

        Phan Huy Thực cườp lời:

        - Bất luận thế nào, mọi cái hiện tại đều phải, đều hợp lý. Tốt hơn hết là chú phải tỉnh táo, sáng suốt chọn cho mình con đường vinh thân và giữ được tiếng thơm của dòng họ. Chẳng nên cứ bo bo giữ lấy cái hủ hậu, lỗi thời, không để làm gì đấy!

        - Điều này anh nói đúng Phan Huy Hạo thừa nhận. Ta chẳng nên khư khư giữ lấy cái đạo học đã lỗi thời, khép mình vào trong giáo lý cứng nhắc. Khi ấy, nếu là điều phải thì sá gì những dư luận rơm rác. Nhưng thật lòng em thấy tân triều không thu phục được nhân tâm. Thói thường, ai cậy vào sức thì bền lâu sau được?

        - Thâm ý chú không phục tân triều?

        - Chẳng những thế, chắc gì họ tin dùng ta, con một danh sĩ Tây Sơn? Bởi vậy, dẫu có thi cử chắc gì đỗ đạt cao? Khi ấy chẳng phải chuốc lấy tiếng cười của thiên hạ sao?

        - Tôi thực không tài bằng chú nhưng cũng đỗ đạt, được bổ dụng đó sao?

        - Ấy là sự khôn ngoan của tân triều. Nhưng không phải vì một việc ấy mà bước đường hoan lộ của bác thông đồng bén giọt đâu!

        - Có thể chú nói đúng. Nhưng dẫu sao cũng là cách bảo toàn được mình, tránh được sự dòm dỏ, truy bức một khi chú khăng khăng bất hợp tác với họ. Vậy nên, khoa này chú cũng nên ứng thi. Cổ nhân nói: Biết mà không làm được điều mình biết, ấy là không biết vậy.


        Hồi lâu suy nghĩ, Phan Huy Hạo miễn cưỡng:

        - Anh đã chân tình khuyên vậy, em lẽ nào không nghe lời.

        Do nhiều nguyên nhân: Vì không toàn tâm toàn ý cho việc đi thi, vì lối học của Phan Huy Hạo cốt ứng dụng cho đời chứ không chuyên chú gọt giũa thơ văn nhớ điển tích, còn vì không ít người ghen ghét tài năng xuất chúng của Phan Huy Hạo, đồng thời triều đình ngại e con một danh sĩ có công với triều Tây Sơn, nên hai lần đi thi cả hai lần Phan Huy Hạo chỉ đỗ tú tài. Vì quê hương Phan Huy Hạo ở làng Thầy nên từ đó nhân dân gọi ông là"Kép Thầy".

        Dẫu không đỗ đạt cao nhưng Phan Huy Hạo chẳng mấy bận tâm suy nghĩ kết quả thi cử của mình. Ông gác ngoài tai mọi lời đàm tiếu khích bác. Ông đau xót nhận ra rằng, việc ông không đỗ đạt cao để nhiều nho sĩ thường giao du với ông, bỗng dưng vắng bóng. Cái gì khiến cho họ cầu thân để rồi lại xa lánh ông? Phan Huy Hạo tự hỏi phải chăng, ông không đứng trong hàng đại khoa, và do đó, không được triều đình ban cho quyền cao tước trọng? Lòng người đen bạc vậy thay. Bởi thế, Phan Huy Hạo càng quý những nông phu chân thật xung quanh ông và ngày càng gắng bó thông cảm với họ. Việc Phan Huy Hạo không đỗ cao cũng là cái cớ để ông đoạn tuyệt những tơ vương về công danh, hoàn toàn yên tâm để bắt tay vào công việc đã dự định từ buổi thiếu thời. Muốn xa lánh mọi sự xa hoa phù phiếm để hoàn toàn tĩnh tâm cho công việc mà ông biết phải làm trong nhiều năm, Phan Huy Hạo làm hẳn một ngôi nhà trên núi Sài Sơn, kiên quyết tạ khách, nguyện sống hết mình cho việc trước thuật. Không hiểu được hoài bão ấy của Phan Huy Hạo, nhiều người lầm tưởng con đường"Quay về núi" của ông là hành động của kẻ chán ngán, gặp biến thì lánh đời, hoặc quay về với thiên nhiên để được"Nằm trên đá, ngủ dưới hoa", "đi thung dung, về ngất ngưỡng" như một số nho sĩ lúc ấy đã làm. Trước sau Phan Huy Hạo không một lời thanh minh.

        Tự nguyện tách mình ra khỏi những bon chen trên đường công danh lợi lộc để hóa thân cho việc trước thuật với hoài bão để lại cho đời một bộ sách đồ sộ; bao gồm đủ các mặt của đời sống xã hội, Phan Huy Hạo đã thực hiện một nếp làm việc bền bỉ, khắc khổ và với sự cố gắng phi thường. Hàng ngày Phan Huy Hạo thức khuya dậy sớm, mải mê đọc sách, cẩn thận ghi chép, khảo xét, đính chính và viết lời bàn về các mặt tài liệu và phân loại các tài liệu ấy theo từng mục, từng vấn đề đã định trước. Ấp ủ một hoài bão lớn, Phan Huy Hạo cũng làm việc với lòng háo hức và tự tin thực hiện hoài bão đó. Vốn đã thâu tóm được đầy đủ mối điển chương, tinh hoa của từng loại sách với gia đình, lại mượn được nhiều cuốn sách quý trong kho sách của dòng họ Ngô Thì ở làng Tó, Phan Huy Hạo sớm hoạch định được từng bộ môn cần khảo xét để sắp xếp một cách có trình tự, có hệ thống. Theo sự phân loại, sắp xếp ấy, bộ sách mà Phan Huy Hạo sẵn sàng dành cả đời để làm, gồm có mười bộ môn, còn gọi là mười chí, có quan hệ với nhau và đều là những vấn đề cốt yếu của quốc gia:

        Địa dư chí: Khảo về đất đai, phong thổ và lịch sử địa lý Việt Nam qua các đời.

        Nhân vật chí: Nói về tiểu sử từ vua chúa, tướng sĩ đến những người trung thần, tiết nghĩa có công với nước.

        Quan chức chí: Xét về chế độ quan lại ở Việt Nam.

        Lễ nghi chí: Khảo sát các quy định, thể chế, phẩm phục của vua chúa, quan lại cùng các nghi lễ trong triều đình.

        Khoa mục chí: Nói về chế độ giáo dục, khoa cử đời xưa.

        Quốc dụng chí: Viết về chế độ thuế khóa, tài chính qua các triều.

        Hình luật chí: Xét về pháp luật các đời.

        Binh chế chí: Khảo về quy chế tổ chức và việc luyện binh qua các đời.

        Văn tịch chí: Nói về tình hình sách vở nước Việt xưa.

        Bang giao chí: Khảo về việc giao thiệp, nghi lễ đón tiếp sứ thần các nước qua các đời.

        Tự thấy dung lượng sách rất lớn; việc làm sách vì vậy rất công phu, nhưng Phan Huy Hạo Phấn chấn, hăm hở làm việc quên mình.

        Tiếng trống hội xuân ở làng Thầy nổi lên từng hồi giục giã, có sức hấp dẫn lạ thường. Nghe những âm thanh vang vang náo nức ấy, Phan Huy Hạo thoáng mỉm cười, dừng bút. Không trở về làng vào những ngày Hội vui vì không muốn làm gián đoạn trước thuật nhưng Phan Huy Hạo vẫn biết đó là tiếng trống gọi dân làng khi cuộc thi vật sắp sửa bắt đầu. Vốn là người thích xem đấu vật từ thưở nhỏ, nghe tiếng trống hấp dẫn ấy, Phan Huy Hạo thấy bồn chồn chẳng yên... Ngoài kia mặt trời đã nhô cao. Những khóm lá đẫm sương đêm tiếp tục bốc hơi. Gió pha lẫn nắng và hơi sương lùa vào căn phòng khiến Phan Huy Hạo thoáng rùng mình. Bị không khí Hội xuân lôi cuốn, mấy lần, Phan Huy Hạo buông bút rồi lại dằn lòng vội vàng cầm lấy bút. Ông muốn quên đi tất cả, quên đi cả âm thanh gợi cảm để chép lại những trang bản thảo đã được sửa chửa rất cẩn thận. Nhưng rồi không tự kiềm chế được bản thân mình, tay vẫn cầm bút, ông miễn cưỡng đứng dậy bước ra ngoài. Trước mặt Phan Huy Hạo, cả Sài Sơn hùng vĩ nhuộm một màu vàng óng ả. Cây Hoàng Đan ngay trước căn nhà đơn sơ, tỏa bóng cả mặt sân. Lá cây lay động làm cho những chấm nắng vàng nhảy nhót nô giỡn trên áo, trên cả mái tóc sớm điểm bạc của ông. Không biết đã bao năm, Phan Huy Hạo tự nguyện xa lánh bằng hữu, xa lánh những lạc thú, dành tất cả sức lực và sự hăm hở, say mê cho việc soạn sách trong căn nhà quen thuộc và quá tĩnh mịch này. Cũng trong bao năm ấy, ông đã đọc đi đọc lại hàng vạn sách, ghi chép rồi nát óc suy nghĩ viết ra hàng chục vạn trang giấy, để rồi bắt đầu từ hai tháng nay, miệt mài chép lại từng chí đã thảo xong sau bao lần sửa chữa công phu. Trên đầu ông, tóc đã điểm bạc, người ông tiều tụy nhưng tâm hồn ông xiết bao sảng khoái. Ông không ngờ việc trước thuật lại khó khăn đến thế. Trong những năm soạn sách, ông bỗng hiểu một điều tưởng như bình thường mà lại không dễ dàng: Nghĩ được điều hay, ý đúng đã khó, diễn đạt những ý đã có trong đầu ấy ra trang sách lại càng khó hơn. Ông tự hào đãvượt qua bao lần vì ngại khó định bỏ dở công việc để ép mình vào án thư, cầm lấy bút, khi đầu óc ông muốn vỡ tung ra vì căng thẳng. Ông tự hào vì đã không tiếc công sức đi sâu tìm hiểu cặn kẽ từng bộ môn. Hơn thế, bao quát, hệ thống các kiến thức trong từng bộ môn, đặt nó trong quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau bằng sự hiểu biết uyên thâm và bằng tấm lòng yêu dân, yêu nước của mình. Ông tự hào đã bằng công trình sưu tầm, khảo xét quy mô, tìm trong hàng đống sự kiện bề bộn sự thực lịch sử cốt lõi, bỏ thô lấy tinh, đồng thời dày công kê cứu bổ sung những tìm tòi của mình để viết ra từng chí, mỗi chí lại chia từng mục, chép riêng từng tập, nối liền với nhau gọi là: Lịch triều hiến chương loại chí. Ông tự hào đã công minh xem xét, đánh giá từng triều đại, ghi chép tiểu sử những người có công với dân nước, nêu gương cho hậu thế. Sau hết, ông vui mừng vì thấy mình đã bày tỏ được tấm lòng thương dân, thông cảm số phận của người nghèo. Lòng thương dân ấy được thấm nhuần qua cách nhìn nhận, đánh giá từng sự kiện, từng việc đã ghi trong sử. Chẳng hạn, đối với vấn đề ruộng đất, khác với các nhà soạn sách trước, Phan Huy Hạo có cách nhìn nhận hoàn toàn mới mẻ. Theo ông "Chính sách nuôi dân không gì làm cho dân có tài sản; mà muốn cho dân có tài sản, chủ yếu là việc quân điền. Bởi tai họa trong một nước do chỗ ruộng đất không quân bình. Nếu tài sản mọi người được bình thường thì nhân dân tất nhiên được đầy đủ. Chế độ ruộng đất Bắc Hà từ trước đến nay, sổ sách thiếu xót không thể kê cứu được. Nhưng đại thể, ruộng đất của nhân dân để mặt cho bọn cường hào chiếm đoạt. Hơn một ngàn năm nay, những người làm vua làm chúa trong nước không ai khôi phục lại ruộng đất của chế độ đời cổ để trừ bỏ tai vạ cho dân"...

        Tiếng trống trong ngày Hội xuân lại từng đợt từng đợt vọng tới, cắt đứt mạch suy nghĩ của Phan Huy Hạo. Phóng tầm mắt nhìn về hướng ấy, ông ngỡ ngàng trước vể đẹp quyến rũ của núi rừng Sài Sơn. Nhưng rồi, nghĩ tới khối lượng công việc đang làm, ông phác một cử chỉ dứt khoát, trở lại án thư, lần giở tập bản thảo. Phan Huy Hạo đọc lại đoạn văn vừa chép vào giấy đẹp: "Của báo một nước, không gì quý bằng đất đai. Nhân dân và của cải do đấy mà sinh ra".


        Đúng vậy Phan Huy Hạo dừng lại suy nghĩ. Mỗi lần luận về cương vực núi sông, luận về công lao xây dựng, bảo vệ giang sơn của tổ tiên, bao giờ Phan Huy Hạo cũng thấy tâm hồn mình phấn chấn. Cho nên, khảo sát về cương vực, phong thổ, xem xét về sự thay đổi địa lý qua các đời, Phan Huy Hạo không quên ghi lại lịch sử đấu tranh vẻ vang của dân tộc vốn có quan hệ mất còn đối với vận mạng của Tổ quốc. Ông hào hứng đọc tiếp: "... Nhà Đinh nổi lên gây nền thống nhất. Tiền Lê nối sau mở rộng thêm ra, bờ cõi nước Việt ta bấy giờ mới định hẳn. Sau đến Lý, Trần đứng lên chống chọi với Tống, Nguyên. Lê Thái Tổ nổi dậy quét sạch giặc Minh, vận hội đến lúc thịnh, cõi đất ngày càng rộng ra".

        Phan Huy Hạo lại dầm bút vào nghiên mực, sửa lại thế ngồi cho ngay ngắn, chép tiếp tập Địa dư chí.

        Vừa gượng dậy được sau trận ốm dài ngày vì làm việc quá sức, Phan Huy Hạo đã lại hăm hở bắt tay vào công việc. Và buổi sáng ấy, sau khi chép xong phần chung lời tựa cho bộ sách, Phan Huy Hạo hân hoan xếp lại từng chí để đóng. Vừa khi ấy, vợ ông tay bưng bát thuốc dẫn theo đứa con gái trạc mười tuổi từ nhà dưới đi lên. Thấy chồng có nước da xanh tái, cặm cuội bên chồng sách, thiếu phụ ái ngại đến bên chồng, giọng không vui:

        - Thầy nó chưa khoẻ hẳn, chẳng nên gắng gượng như vậy. Thuốc sắc đã được rồi đây, xin thầy nó chịu khó uống cho lại sức.

        Nhanh nhẹn đón lấy bát thuốc, Phan Huy Hạo âu yếm nói với vợ:

        - Bu nó vừa phải làm lụng nuôi nấng con cái, trong nom nhà cửa vừa phải đi lại hai nơi nuôi chồng. Tôi thực vô dụng.

        Cặp mắt rất đẹp của thiếu phụ chợt long lanh:

        - Đạo vợ chồng kể chi chuyện ấy. Thấy thầy nó bao năm lao tâm khổ tứ, tôi những giận mình đầu óc ngu tối, chẳng san được nỗi vất vả, khó nhọc cho chồng.

        - May thay công việc đã hoàn tất. Chỉ còn đóng lại từng tập nữa thôi.

        Ngắm nghía chồng sách đồ sộ, xếp cao ngất trên án thư, vợ Phan Huy Hạo không giấu nổi lòng kính phục. Vốn là người có chút ít học vấn, hiểu được lòng chồng, hơn thế hiểu được sự nghiệp cao cả của chồng, giọng thiếu phụ xúc động:

        - Thôi, thầy nó hãy đi nghỉ ngơi. Việc gì không giúp được thầy nó chứ đóng sách, hẳn tôi làm được.

        Cảm kích trước tấm lòng của vợ, Phan Huy Hạo vui vẻ:

        - Nếu không có bu nó giúp rập, tôi đâu soạn được ngần ấy sách.

        Thiếu phụ mặt đỏ bừng:

        - Thầy nó nói như thế làm gì? Thầy nó vui là tôi vui. Thấm thoát dã hơn mươiø năm rồi còn gì.

        Sực nhớ ra đứa con gái đang tha thẩn chơi ngoài hiên, thiếu phụ gọi con vào và nói với chồng:

        - Khi thầy nó vào đây, con bé mới lọt lòng. Nay nó đã hơn mười tuổi mà cha con chẳng mấy lúc được gần nhau.

        Đứa bé đến bên cha, giọng rụt rè pha chút nũng nịu:

        - Nay mai thầy sẽ về hẳn ngoài làng chơi với chúng con, phải không thầy? Thôi, thầy đừng ở trong núi nữa, con nhớ thầy lắm.

        Phan Huy Hạo vụng về kéo con vào lòng. Những điều vợ con ông vừa nói không có hàm ý trách móc nhưng lại khơi dậy trong ông nỗi buồn vui xen kẽ. Vui vì ông đã bỏ trọn ra mười năm hoàn toàn hiến thân cho việc trước thuật để viết được bốn mươi chính tập sách bao gồm mười bộ môn lưu lại đời sau. Vui vì ông đã đổi những năm tuổi trẻ bằng nghị lực phi thường để thực hiện hoài bảo của ông từ buổi thiếu thời. Buồn vì trong bao năm ấy, ông không giúp đỡ được vợ con, phó mặc hoàn toàn việc gia đình cho vợ. Ông khổ tâm khi nghĩ rằng, vì sự nghiệp trước thuật của ông, người vợ mà ông rất mực yêu quý và chịu ơn đã chịu bao thiệt thòi, hy sinh để gánh vác mọi công việc, tự nguyện hứng chịu bao vất vả để ông yên lòng đèn sách. Và đứa con gái bé bỏng này nữa. Nghĩ vậy, ông vuốt tóc con:

        - Ngày mai, thầy sẽ về ở hẳn với con. Thầy sẽ dạy con học.

        Quả như lời Phan Huy Hạo nói với con. Sau khi soạn xong "Lịch triều hiến chương loại chí" bộ sách đồ sộ gồm bốn mươi chính tập mà người đời sau xem như một công trình nghiên cứu đánh dấu bước phát triển cao của thành tựu khoa học nước nhà, bộ sách mà nhờ nó, tên tuổi Phan Huy Hạo được tôn sùng, nhân dân gọi ông là nhà bác học, nhà soạn bách khoa toàn thư của Việt Nam ông đã trở về đoàn tựu với gia đình. Phan Huy Hạo đâu ngờ, sau đó không lâu, tài năng của ông lan truyền khắp nước và đời ông bước sang một khúc ngoặt hoàn toàn bất ngờ. Vua Minh Mệnh hay biết, năm 1821 đã xuống chiếu vời ông về kinh.

        Được vua Minh Mệnh vì chuộng tài, trao cho bức biên tu trường Quốc Tử Giám, nhất là khi dâng "Lịch triều hiến chương loạt chí" được vua khen thưởng, Phan Huy Chú phần nào vơi được nổi băn khoăn bấy lâu. Trong sự suy tưởng của ông, Minh Mệnh tuy tự phụ, độc ác nhưng là vị vua biết quý trọng nhân tài. Nếu quả vậy, ước mơ đem việc học ứng dụng cho đời, đem vốn hiểu biết đả tích lủy được bao năm, làm lợi cho dân nước của Phan Huy Chú sẽ có cơ thi triển dược. Ý nghĩ ấy thôi thúc Phan Huy Chú nghiên cứu tìm ra con đường trị đời cứu nước. Về mặt này, Phan Huy Chú có nhiều thuận lợi. Do học rộng, ông có cái nhìn bao quát. Từng sống ở thôn giả, ông hiểu được nổi khổ của dân nghèo. Ý nghĩa muốn đem tài năng giúp đời khiến Phan Huy Chú lưu tâm tìm hiểu cơ sở trị nước của triều Nguyễn, tìm hiểu lẽ thịnh suy của các triều đại trước, mong có dịp dùng đến.

        Bởi ấp ủ tấm lòng ưu ái vì dân nước, năm 1823, khi được thăng chức Lang trung bộ Lại, Phan Huy Chú đã mạnh dạn dâng sớ đều trần về bốn việc:

        Trước hết Phan Huy Chú khuyên vua hãy xem dân là gốc của nước. Gốc có vững xã tắc mới yên. Muốn vậy, triều đình phải thu sức dân, phải bớt thuế, bớt lính và bớt những phiền hà khác.

        Thứ hai Phan Huy Chú khuyên vua hãy thực hiện chế độ quân điền. Theo ông mục đích của việc thực hiện chế độ quân điền nầy là làm thế nào cho dân từ một tấc đất điều được khai khẩn mọi người điều có ruộng làm, chữa khỏi các bệnh đau khổ của người nghèo, dập tắt được nạn lấn chiếm của bọn cường hào lý dịch. Khi đân đã có tài sản bình thường để cải thiện đời sống, họ sẽ ra công cày cấy làng xã sẽ được yên vui, tiến lên làm việc dạy dân chúng xây dựng phong tục.

        Thứ bằng Phan Huy Chú khẩn thiết khuyên vua bãi bỏ những cuộc hành binh dẹp loạn. Theo ông, dân nổi loạn là vì đói rét mà sinh ra. Nếu không giúp dân được no đủ thì mầm loạn không thể nào dứt được.

        Cuối cùng Phan Huy Chú khuyên vua hãy nghiêm trị bọn sâu mọt chuyên đục khoét lương dân. Ông lập luận: Tự mình thu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật; pháp luật mà không thi hành được là do người trên phạm.

        Thảo xong bản đều trần gói gọn những ý trên, Phan Huy Chú vội dân vua. Ông hy vọng nếu vua nghe theo những lời tâu ấy, họa hoạn sẽ dứt, nước sẽ thịnh, dân sẽ giàu. Ông vui mừng vì đã thực hiện được một việc nghĩa. Một vị vua anh minh không thể không lưu tâm nghe những lời khuyên của ông.

        Vừa bãi triều, vua Minh Mệnh sửa soạn về cung riêng thì viên phụ chính vội vả bước vào.

        - Trẫm biết khanh không được khỏe. Vậy có việc gì cần tâu bày mà khanh vất vả vậy?

        - Muôn tâu Thánh Thượng viên phụ chính quỳ tâu thần đã xem bản sớ dâng Thánh Thượng của Lang trung bộ Lại Phan Huy Chú. Xét thấy tờ sớ có nhiều ý tưởng mới lạ, thần vội làm lể triều kiến dâng Thánh Thượng.

        Vua Minh Mệnh dáng không vui:

        - Phan Huy Chú! Trẫm nhớ rồi, người đã dâng "Lịch triều hiến chương loại chí" và đã được trẫm ban thưởng!

        Muôn tâu Thánh thượng! Chính là con người có thực tài ấy.

        Cho viên phụ chính được bình thân, vua Minh Mệnh cầm lấy tờ sớ chăm chú đọc. Nét mặt vua biến đổi theo những việc viết trong bản điều trần. Đến khi đọc xong, cặp mắt của vua bỗng long lên, khóe môi rần rật. Vua vỗ ngai quát:

        - Khanh đã đọc kỹ tờ sớ này chưa?

        Hoảng hốt trước cơn thịnh nộ của nhà vua, viên phụ chính lúng túng:

        - Lệ thường, thần đã xem qua. Thật là một con người táo bạo.

        - Sao? Vua Minh Mệnh mặt tái đi khanh không thấy hắn viết những điều ngông cuồng bậy bạ, có ý dạy đời đó hay sao?

        Viên phụ chính lấp lửng:

        - Thần cũng thấy nhưng có điều gì không phải?

        Thích thú thấy bề tôi luống cuống, Minh Mệnh bật cười:

        - Huy Chú cần tiến thân mong được trẫm cất nhắc như bọn Mao Toại tự tiến. Con người ấy thật lắm tham vọng.

        Viên phụ chính lộ vẻ hân hoan:

        - Tâu Thánh thượng! Mao Toại là người có tài trí. Nhờ được trọng dụng mà nước Trièu trở nên có thanh thế.

        Vua Minh Mệnh giọng khinh khỉnh:

        - Vua nước triệu ít mưu mẹo nên mới phải dùng Mao Toại. Còn trẫm, trẫm đâu cần phải nghe một viên tiểu quan như Chú.

        Vốn khăm phục Phan Huy Chú về tài năng, lại dám khảng khái tâu rõ hiện tình đất nước loạn lạc việc mà chưa một viên quan nào, kể cả các đại thần dám tâu vua, phải không có những ý sắc sảo, nhưng biết vua tự phụ, viên Phụ chính chỉ lặng im không nói.

        Trong lúc ấy, lần nữa đọc qua bản điều trần của Phan Huy Chú, vua Minh Mệnh trì triết:

        - Phan Huy Chú là con một đại thần của Tây Ngụy. Nhờ có chút học vấn, trẫm không nở hẹp lượng mà trọng dụng hắn. Ai dè hắn không biết mình biết người, muốn trèo cao bay xa, ăn nói như một kẻ mất trí. Hãy xem trong lúc giặc cỏ nổi lên làm loạn, hắn khuyên trẫm bãi binh dẹp loạn? Trong lúc trẫm ban thưởng ruộng đất cho kẻ có công, hắn khuyên trẫm ban ruộng đất cho dân đen? Nếu trẫm không muốn mang tiếng ác, riêng những việc sàm tấu này cũng đủ giao hắn cho hình quan xét xử.

        Viên phụ chính can vua:

        -Thần xét thấy Phan Huy Chú nghĩ viễn vông vậy chứ không cố ý phạm thượng. Vậy để răn đe Chú, lưu được tiếng nhân đức, thánh thượng chỉ cần trả lại tờ sớ cho họ Phan là đủ.

        Vua Minh Mệnh dịu giọng:

        - Nể khanh, trẫm bỏ qua cho hắn một lần.

        Cái tin Phan Huy Chú dâng sớ điều trần bốn việc bị vua Minh Mệnh quở trách, trả lại, đã không cánh mà bay, lan nhanh trong giơiù quan trường ở kinh đô. Hay tin ấy, Phan Huy Thực lật đật tìm em, giọng không vui:

        - Chú là người học rộng mà sao cạn nghĩ vậy? Chú không biết vua thường sợ và nghi kỵ kẻ có tài, nhất là các sĩ phu Bắc Hà; cho nên luôn luôn xét nét, kiếm cớ răn đe quan lại đó sao? Chú phải cẩn thận kẻo mang vạ!

        Phan Huy Chú than thở:

        - Em những tưởng đã cốt vì thiên hạ thì phải không sợ chết để đem cái học vấn của mình phụng sự cho dân nước. Người xưa đã chẳng nói: Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Nói khó nghe là thuốc, nói ngọt là bệnh tật đó sao? Em đâu ngờ là sự thể này!

        Phan Huy Thực trách:

        Chú bao năm vùi đầu vào trước thuật không còn biết lẽ sống ở đời. Chú quên rằng, khi đã bình được thiên hạ, các bậc đế vương ưa dùng bọn xu nịnh hơn là các trung thần đó sao? Họa, phúc là chính bởi từ đấy mà sinh ra.

        Phan Huy Chú chua chát:

        - Thật là một ngàn lời khuyên không bằng một cái gai kinh nghiệm. Có lẽ em cứ giả câm giả điếc là hơn.

        - Tùy chú, nhưng nói thẳng mà sinh họa thì có ích gì? Trí địch muôn người mà không hiểu người thì cũng như người ngu vậy!

        Bị trách móc nặng nề nhưng Phan Huy Chú không giận anh. Ngược lại, anh thấy rõ nhân cách của vua Minh Mệnh và tự thấy thương mình.

        Phan Huy Chú không vội từ quan nhưng cũng giống như nhiều bậc tài trí khác thời ấy, ông không bao giờ được vua thực dụng tin dùng. Từ sau lần bị Minh Mệnh đối xử thô bạo, ông trở nên rất kín đáo. Không vội từ quan vì sợ mang lụy, nhưng Phan Huy Chú không còn những hăm hở buổi đầu nữa. Trí giúp dân dựng nước, ý muốn đem tài kinh luân thi thố cho đời, vì vậy, chỉ còn là những tâm sự u uất. Cho nên, hơn mười năm làm quan dù có lúc thăng Hiệp trấn Quảng Nam, từng hai lần đi sứ, nhưng ông vẫn luôn bị vua trách phạt.

        Cuối cùng, chán cuộc đời làm quan, Phan Huy Chú vịn cớ đau yếu, xin từ quan về nhà mở trường dạy học.

        Sống ở quê, thoát ra khỏi vòng vây ngột ngạt của triều đình Minh Mệnh, Phan Huy Chú thấy thanh thản trở lại. Đêm đêm ông lại chong đèn viết sách không mỏi. Một ngày thu năm 1840, Phan Huy Chú đã mất ngay cạnh chồng bản thảo vừa hoàn thành, thọ năm mươi tám tuổi.
        _______________
        #34
          Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 34 trên tổng số 34 bài trong đề mục
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9