Bích câu kỳ Ngộ
lucquaipsnt 17.02.2006 11:13:53 (permalink)
Bích Câu Kỳ ngộ
tác giả: khuyết danh
Tác Giả Và Tác Phẩm



Tác Giả

Hiện nay không biết tác giả của quyển "Bích Câu Kỳ Ngộ" là ai. Truyện này kể một sự tích ở nước ta, tức là việc một người học trò tên Trần Tú Uyên gặp một nàng tiên ở đất Bích Câu, bởi thế mới đặt tên truyện là "Bích Câu Kỳ Ngộ" (sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu). Bích Câu (ngòi biếc) trước thuộc làng Yên Trạch, tổng Yên Hòa, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội; nay là phố Cát Linh. Hiện còn đền thờ Tú Uyên, bên cạnh nhà Văn Miếu, là cái di tích của câu chuyện hoang đường này.



Tác Phẩm

I. Tú Uyên gặp Giáng Kiều, về ốm tương tư (1 - 272): Trần Tú Uyên, một người học trò nghèo, thường đi chơi những nơi thắng cảnh; một lần đến đất Bích Câu, thấy phong cảnh đẹp, bèn làm nhà ở đấy học. Một hôm, ông đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc Hồ (tức chùa bà Ngô ở phố Sinh Từ, Hà Nội). Chiều đến, sắp về, chợt thấy bay đến trước mặt một bài thơ có ý ghẹo mình. Trông ra cửa Tam quan, thấy một người con gái rất đẹp. Ông bèn đi theo, đến Quảng Văn đình (nay là chợ cửa Nam Hà Nội) thì chợt người ấy biến mất. Từ đấy, Tú Uyên sinh ra ốm tương tư.

II. Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều (273 - 428): Sau Tú Uyên đến đền Bạch Mã (nay là phố Hàng Buồm) cầu mộng. Đêm, thần bảo ông sáng hôm sau ra đợi ở Cầu đông (nay ở phố hàng đường) thì gặp người con gái ấy. Hôm sau ra đợi mãi đến chiều, chỉ gặp một ông lão bán bức tranh một tố nữ giống hệt người đã gặp hôm trước. Ông bèn mua về, treo ở nhà, cứ đến bữa ăn, dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời người trong tranh ăn. Một hôm, ông đi học về, thấy có mâm cơm dọn sẵn, trong bụng sinh nghi. Hôm sau, ông rình ở một chỗ, thấy người trong tranh bước ra, ông vội chạy lại hỏi, thì người ấy nói tên mình là Giáng Kiều ở trên cung tiên xuống, xin kết duyên cùng ông. Giáng Kiều làm phép biến chỗ nhà của ông thành nguy nga tráng lệ.

III. Giáng Kiều giận Tú Uyên bỏ đi, sau lại trở về nhà (429 - 558): Tú Uyên lấy Giáng Kiều được ba năm, thường cứ rượu chè say sưa, nàng can ngăn, ông không nghe, lại còn đánh đập. Một lần, nàng quá giận, bỏ ông biến đi. đến lúc tỉnh, ông đi tìm đâu cũng không thấy, chỉ than khóc thương tiếc. Một hôm buồn quá, ông toan tự vận; chợt nàng Giáng Kiều hiện ra, ông bèn từ tạ, hai bên đoàn tụ như xưa.

IV. Tú Uyên và Giáng Kiều lên cõi tiên (559 - 648): Từ bấy giờ Tú Uyên đối đãi tử tế với Giáng Kiều. Sau sinh được một đứa con trai đặt tên là Chân Nhi. Nàng Giáng Kiều bèn khuyên ông nên lên cõi tiên và trao cho bùa tiên cùng thuốc tiên để ông tu luyện. Rồi một hôm sau khi dặn dò Chân Nhi ở lại cõi trần. hai vợ chồng cùng cỡi hạc bay lên cõi tiên.

Trăm Năm Cũng Một Chữ Tình



1. Mấy trăm năm một chữ tình,
Dưới trời ai kẻ lọt vành hóa nhi.
Cơ duyên ngẫm lại mà suy,
Trời Nam nào có xa gì cõi Tây.
5. Tương duyên kỳ ngộ xưa nay,
Trước kia Lưu, Nguyễn, sau này Bùi, Trương.
Kìa ai mê giấc Đài Dương,
Mây mưa là chuyện hoang đường biết đâu?

Cảnh Bích Câu



Thành Tây có cảnh Bích Câu,
10. Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!
Đua chen Thu Cúc, Xuân Đào,
Lựu phun lửa hạ, Mai chào gió đông.
Xanh xanh dãy Liễu, ngàn Thông,
Cỏ lan lối mục, Rêu phong dấu tiều.
15. Một vùng non nước quỳnh giao,
Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa.

Trần Công Tử Tú Uyên



Triều Lê đương hội thái hòa,
Có Trần công tử tên là Tú Uyên.
Phúc lành nhờ ấm xuân huyên,
20. Số trong tài mạo kiêm tuyền kém ai.
Thông minh sẵn có tư trời,
Còn khi đồng ấu mãi vui cửa Trình.
Trải xem phong cảnh hữu tình,
Lâm toàn pha lẫn thị thành mà ưa.
25. Liền khu trùm một lầu thơ,
Lau già chắn vách, trúc thưa giũ rèm.
Thừa hư đàn suối ca chim (*),
Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng.
Của chung huy hoắc đâu bằng,
30. Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen (*).
Khắp so trong cõi ba nghìn (*),
Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi.
Thú vui bốn bạn thêm vui (*),
Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao (*).

Nỗi Buồn Tú Uyên Khi Cha Mẹ Mất



35. Thoi đưa ngày tháng sương sao,
Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa.
Trời hôm giục bóng dâu tà,
Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương (*).
Não người thay! nỗi tang thương,
40. Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh.
Vai còn đôi gánh thâm tình,
Bầu Nhan đã sạch sành sanh còn gì!
Mấy phen hạ tới thu về,
Lọt mành nắng rõ, quanh hè tuyết xây.
45. Chiều trời lạnh ngắt hơi may,
Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương!
Lơ thơ nửa mái thảo đường,
Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa!
Phong quang lạ khác dấu xưa,
50. Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn.

Tú Uyên Nổi Tiếng Thi Văn



Sinh từ gặp bước gian truân,
Vinh khô gọi nếm mùi Trần chút chơi.
Cùng thông dù mặc có trời,
Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu.
55. Lôi thôi cơm giỏ nước bầu (*),
Những loài yến tước biết đâu chí hồng (*).
Thề xưa đã nặng với lòng,
Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi.
Ao nghiên giá bút thảnh thơi,
60. Tây hồ tiên tích mấy nơi phẩm bình.
Thi hào dậy tiếng Phượng thành,
Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào (*).
Ngửa nghiêng lưng túi phong tao,
Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi.
65. Châu ken chữ, gấm thêu lời (*),
Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền.
Đã người trong sách là duyên (*),
Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm.
Lửng lơ chiếc lá doành nhâm,
70. Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng

Tú Uyên Đi Xem Hội Chùa



Ngọc Hồ có đám chay tăng (*),
Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội Xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân (*),
Ngổn ngang mã tích xa Trần thiếu ai (*).
75. Thưởng Xuân sinh cũng dạo chơi,
Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu.
Mảng xem cây phạm thú mầu,
Vầng kim ô đã gác đầu non tê (*).
Tiệc thô ai nấy cùng về,
80. Gió chiều lay bóng hoa Lê la đà.
Bân cầu đàn lũ năm ba,
Thần tiên trước mắt ai là kẻ hay!
Sinh vừa tựa liễu nương cây,
Lá hồng đâu đã thổi bay lại gần.
85. Mắt coi mới tỏ dần dần,
Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu (*).
Trông qua lặng ngắt giờ lâu,
Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người (*).
Vừa toan họa lại mấy lời,
90. Gió hương đâu đã bay hơi nồng nàn.

Tú Uyên Gặp Mỹ Nhân



Thấy người trước cửa tam quan,
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ.
Lạ lùng con mắt người thơ,
Hoa còn phong nhụy, trăng vừa tròn gương.
95. Rành rành xuyến ngọc thoa vàng,
Quần Nghê tha thướt, sóng Tương rượm rà (*).
Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,
Cá chìm mặt nước, Nhạn sa lưng trời (*).
Gần xem vẻ mặt thêm tươi,
100. Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều.
Làn thu lóng lánh đưa theo,
Não người nhăn chút lông nheo cũng tình (*).
Vốn mang cái bệnh Trương sinh,
Gặp người nghiêng nước nghiêng thành biết sao?
105. Đưa tình một nét sóng đào,
Dẫu lòng sắt đá cũng xiêu, lọ người.
Nhân duyên ví chẳng tự trời,
Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên.

Tú Uyên Đối Thoại Với Mỹ Nhân



Dù mặt lạ đã lòng quen,
110. Cả liều đến gốc thu thiên ướm nàng:
"Quá vui nên trót sỗ sàng,
"Thử tình cho kẻo bẽ bàng với hoa."
Khách rằng: "Trong hội Vô già,
"Cửa không, ngàn giác đấy là từ bi (*).
115. "Gió bay những tiếng thị phi,
"Trót lầm thôi có trách gì đến ai."
Giọng kiều nghe lọt vào tai,
Đã gần bể sắc, khôn vơi sóng tình.
Thưa rằng: "Chút phận thư sinh,
120. "Đèn từ soi đến tấm thành với nao!
"Chi viên nỡ hẹp hòi sao,
"Mở đường phương tiện chút nào được chăng?"
Rằng: "Đây về đạo kim thằng,
"Trăng hoa sao khéo nói năng những lời.
125. "Bến từ có hẹp chi ai,
"Dốc đem thuyền giác độ người bến mê.
"Ngán cho bên cõi bồ đề,
"Phải đường ong bướm đi về đấy sao?
"Đoá hoa sẵn nhạc vàng treo,
130. "Tiếng oanh chỉ để lao xao trên cành."
Lặng nghe lọt đến giọng tình,
Lòng tham quanh cả bên mình mỹ nhân.
Rằng: "Đây lầm xuống mê tân,
"Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
135. "Ba sinh cho vẹn mười nguyền,
"Nhờ tay kim tướng, đưa duyên xích thằng.
"Gậy linh mượn phép cao tăng,
"Phá thành sầu khổ cho bằng mới cam.
"Chày sương đợi khách cầu Lam,
140. "Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu.
"Nước bèo dù có duyên sau,
"Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây

Tú Uyên Nghi Ngờ Khi Mỹ Nhân Biến Mất



305. Người còn cợt gió, đợi mây,
Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh.
145. Ngóng theo đến Quảng Văn Đình,
Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua.
Mượn người thăm hỏi gần xa,
Hồng Lâu Tử Các đâu mà đến đây?
Hay là quán nước, làn mây,
150. Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao?
Dám xin trỏ lối cho nao,
Tới non Ngọc dễ ai nào về a!
Ơn lòng nhắm liễu thăm hoa,
Biết đâu sắc sắc vẫn là không không (*)
155. Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông,
Hương trầm còn thoảng cánh hồng đã khơi.
Xe loan gió cuốn lưng trời,
Tiên về động bích, tình rơi cõi Trần.
Ngửa trông năm thức mây vần,(*)
160. Hồn chưa đến chốn non thần đã mê.

Tú Uyên Mang Bệnh Tương Tư



Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
165. Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gẩy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay tựa nên vần,
170. Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.(*)
Có khi mượn chén rượu đào,
Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đã đầy.
Hơi men chưa nhấp đã say,
Như xông mùi nhớ, như gây giọng tình.
175. Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương. Ỏi tai những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăng tàn,
180. Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya.
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dãi dề với ai!(*)
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
185. Lòng yêu tay tả nên thơ,
Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo.
Ả Hằng ví nặng lòng yêu,
Rẽ mây mở lối tinh thiều cho nao!
Hỏi cho giáp mặt hoa đào,
190. Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru!

Hà Sinh Đến Thăm, Tú Uyên Kể Rõ Sự Tình



Đồng song có gã họ Hà,
Ướm tình mới hỏi lân la gót đầu.
Cớ sao chuốc não mua sầu,
Bữa thường ngao ngán như màu nhớ ai?
195. Bấy nay vắng vẻ thư trai,
Vóc sương nghe đã kém vài bốn phân.
Nguồn cơn ngỏ với cố nhân,
Họa may sẽ giúp được phần nào chăng?
Điều đâu thực khéo như rằng,
200. Nói vào hợp ý, khôn bưng lòng người.
Song mà tình chẳng riêng ai,
Bệnh tương tư có trải mùi mới hay.
Người ngu đấng thánh xưa nay,
Tình chung chẳng ở vòng này hay sao?
205. Nói dù nghe cũng thế nào,(*)
Lặng dù, nghe cũng nao nao chẳng đành.
Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh,
Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều.
Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu,
210. Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu lòng vàng.
Những là tiếc phấn say hương,
Nên vò lưới nhện mà vương tơ tằm.
Sầu dường bể, khắc như năm,
Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy!
215. Nghìn xưa âu cũng thế này,
Gánh sầu san sẻ ai đầy ai vơi?
Lạ cho cái giống hương trời,
Biết năm biết thuở, biết đời nào quên.

Hà Sinh Nhắc Chuyện Lê Thánh Tông Gặp Tiên



Hà nghe nói hết căn nguyên,
220. Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ.
Chẳng thần nữ, cũng tiên phi,(*)
Duyên xưa còn có chút gì hay không.
Lá hồng ra mối chỉ hồng, (*)
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen.
225. Ngọc Liên nghe có Hóa Tiên,
Thánh Tông thuở trước qua miền ấy chơi.
Lầu chuông bỗng gặp một người,
Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm.
Ngự khen tú khẩu cẩm tâm,(*)
230. Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ.
Rước về rắp gạn tóc tơ,
Gót tiên bỗng thoắt bao giờ còn đâu?
Mười lăm năm nọ chưa lâu,
Còn di tích đó là lầu Vọng Tiên.(*)
235. Lạ tai nghe những chẳng tin,
Thử coi cho thấy nhỡn tiền mà ghê.
Nhận ra trong lá thơ đề,
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm.
Những là én bắc nhạn nam,(*)
240. Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây?(*)
Tuy rằng cách trở đông tây,
Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi.
Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa.
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9