Tim` hieủ vè Lý Bach.
Asin 02.07.2003 10:12:23 (permalink)
Lý Bạch sinh năm đầu niên hiệu Trường An (701) , đời Đường Trung Tông , và mất vào năm đầu niên hiệu Bảo Ứng (762) , đời Đường Đại Tông , Cùng tuổi với Vương Duy , nhiều hơn Đổ Phủ mười hai tuổi , Sầm Than 14 tuổi . Nhân có truyền thuyết nói bà thân mẫu nằm mộng thấy sao Trường Canh rồi sinh ra ông , nên ông lấy tự là Thái Bạch .

Theo lời ông tự thuật, Lý Bạch là hậu duệ của danh tướng Lý Quãng đời Hán, và là cháu chín đời của vua Vũ Chiêu Vương nước Lương . Cuối đời Tùy ( khoảng năm 616), thân phụ ông vì một chuyện nào đó phải trốn sang Tây Vực . Lý Bạch sinh tại đây trong lúc Võ tắc Thiên cướp ngôi nhà Đường . Sau khi triều Võ hậu sụp đổ , gia đình ông trở về nội địa , làm nghề buôn bán , ngụ tại làng Thanh Liên ( huyên Chương Minh , tỉnh Tứ Xuyên). Thân mẫu ông là người Tây Vực , người ta thường gọi là " Man Bà " . Vì thuở nhỏ sống tại Tây Vực, Lý Bạch thông hiểu chữ Tây Vực . Nhờ khả năng này , Lý Bạch sau này có lần giúp vua Đường Minh Hoàng thảo tờ thư trả lời rợ Phiên ( Đáp Phiên thư ) .

Lý Bạch rất thông minh đỉnh ngộ : lên 5 tuổi, biết đọc Lục giáp; lên 10 tuổi , thông hiểu Thi ,Thư , thường xem sách Bách gia . Năm 15 tuổi thích kiếm thuật , thường làm các bài văn mô phỏng cổ nhân , như tờ thư gởi Hàn Kinh châu , bài phú ngạo Tư mã Tương Như . Năm 16 tuổi ông cùng Đông Nham Tử đến ở ẩn tại phía Nam núi Dân Sơn ( ở huyện Tùng Phan , tỉng Tứ Xuyên ) Năm 20 tuổi ông được tiếng là người hào hiệp , cao nghĩ, thích làm hiệp sĩ . Đến xin làm việc dưới trướng của Thứ sử Ích châu Tô Dĩnh , được họ Tô khen là " có thiên tài anh lệ , nếu học rộng thêm có thể sánh vai với Tư Mã Tương Như " .

Năm 723 , Lý Bạch cùng người bạn là Ngô chỉ Nam đi chơi đất Sở , đến Thương Ngô, Động Đình . Sau lại qua Kim Lăng, vượt Minh Hải, đến Nhữ Châu, du lịch các thắng địa miền đông nam trong mấy năm .

Năm 726 , Lý Bạch đến Vân Mộng ( huyện An Lục tỉnh Hồ Bắc), cưới vợ, là cháu gái của Hứa tướng công . Từ năm 30 tuổi tiếng tăm văn chương bắt đầu vang dậy .

Năm 735 (năm thứ 23 niên hiệu Khai Nguyên ), Lý Bạch lên chơi vùng Thái Nguyên (tỉnh Sơn Tây). Khi ấy Quách Tử Nghi đang bị giam trong quân ngũ , nhờ có ông xin cho mà được tha . Tháng 5, ông đến miền Tế, Lỗ, ngụ tại Nhiệm thành ( tỉnh Sơn Đông). Cùng Khổng Sào Phủ , Hàn Chuẩn , Bùi Chính, Đào Cái , Trương Thúc Minh ngao du tại núi Tồ Lai ( huyện Thái An tỉnh Sơn Đông), say sưa tại Trúc Khê , lấy hiệu là " Trúc Khê lục dật " ( sáu nhà ẩ dật tại Trúc Khê ) .

Như vậy có thể nói đại khái từ năm 40 tuổi trở về trước, Lý Bạch sống những ngày tiêu dao, nhàn tản , ngao du thiên hạ

Năm đầu niên hiệu Thiên Bẳo (742) Lý Bạch đi chơi Cối Kê , cùng với đạo sĩ Ngô Quân ngụ tại Viễm Trung ( tỉnh Chiết Giang). Khi Ngô Quân được triệu về Trường An, bèn đem Lý Bạch đi theo . Tại kinh đô Lý Bạch gặp Hạ Tri Trương , lúc này đang làm chức Thái Tử tân khách . Thoạt trông thấy ông , Hà Tri Trương nói rằng : " Đây là một trích tiên giáng trần" . Lý Bạch và Hà Tri Trương trở nên đôi bạn rượu thơ . Nhờ sự tiến cử của Hà Tri Trương , Lý Bạch được Đường Huyền Tông triệu vào bệ kiến tại điện Kim Loan , bàn về thế vụ đương thời , nhân dịp nào ông thảo tờ " Đáp Phiên thư " , và dâng thiên " Tuyên Đường hồng do " , được vua khen ngợi . Vua cho ngồi trên giường thất bảo , lại thân đưa canh cho ăn . Rồi hạ chiếu nói rằng :" Khanh là kẻ áo vải , được trẩm biết tiếng ; nếu không phải là vốn đã chất chứa đạo nghĩa , thì làm sao được như vậy !" ; và phong Lý Bạch làm học sĩ cung phụng tại Hàn Lâm , chuyên trách về mệnh lệnh mật . Thời kì này là thời kì vinh hiển nhất trong đời Lý Bạch .

Tại Trường An , Lý Bạch kết bạn với Hạ Tri Trương . Thôi Tông Chi , Vương Tiến , Tô Tấn , Trương Húc , Tiêu Toại , Lý Thích Chi , hiệu là " Tửu Trung Bát Tiên " ( tám vị tiên trong rượu ). Bài " Ẩm trung bát tiên ca " của Đổ Phủ , nói về Lý Bạch có câu :

Lý Bạch nhất đẩu thi bách thiên,
Trường An thị thượng tửu gia miên;
Thiên tử hô lai bắt thướng thuyền ,
Tự xưng thần thị tửu trung tiên .

Lý Bạch một đấu , thơ trăm thiên
Ngủ trong quán rượu tại Trường An;
Thiên tử kêu tới chẳng lên thuyền ,
Tự xưng thần là tiên trong rượu

Các sách cũ thuật lại nhiều trường hợp Lý Bạch vâng lệnh vua thảo chiếu hay soạn nhạc từ trong lúc còn đang say Sách Dậu Dương Tạp Trở của Đoàn Thành Thức chép rằng : Vua Huyền Tông nghe danh Lý Bạch vang lừng hải nội, liền cho triệu vào bệ kiến . Thấy ông thần khí cao lãng , nhẹ nhàng như ráng mây, vua bất giác quên mình là đấng chí tôn vạn thặng . Nhân thấy vua đi giày mới , Lý Bạch liền giơ chân cho Cao Lực Sĩ bảo cởi giày . Cao Lực Sĩ phải làm theo lời .

Về sau chính vì ôm mối hận này, Cao Lực Sĩ đã đem hai câu trong bài " Thanh Bình Điệu " ra gièm với Dương Quí Phi là Lý Bạch có ý muốn ví Quí phi với nàng Triệu Phi Yến , một cung nhân thất sủng đời nhà Hán . Quí phi cả giận . Vì thế Minh Hoàng đôi lần định phong quan chức cho Lý Bạch , nhưng điều bị ngăn trở ( theo Tùng song lục của Vi Duệ ). Thực ra nguyên nhân khiến Lý Bạch không hiển phát được tại Trường An còn là sự dèm pha của Trương Ký nữa ( theo bài tự của Ngụy Hạo).

Nhận thấy không thể đắc ý tại Trường An . Lý Bạch bèn xin về , và được Minh Hoàng ban tặng nhiều vàng bạc .

Từ năm 747( 45 tuổi), Lý Bạch ngao du bốn phương, phía Bắc đến các miền Triệu, Ngụy, Tề, Tần; phía Tây tới các đất Bân, Kỳ, Thương, Ư và Lạc Dương; phía nam đi chơi sông sông Hoài sông Tứ , rồi lại vào Cối Kê (tỉnh Chiết Giang). Nhân gia đình ở đất Lỗ ( tỉnh Sơn Đông ) , nên Lý Bạch thường đi lại miền Tế , Lỗ . Trong thời gian 10 năm ( 745 - 755 ), ông đi chơi nhiều nhất tại các miền Lương , Tống ( tỉnh Hà Nam ). Chính trong thời kì này , ông quen biết Đổ Phủ , Cao Thích và Sầm Tham .

Năm 755 ( năm thứ 14 niên hiệu Thiên Bảo ), Lý Bạch đi chơi Quãng Lăng ( tỉnh Giang Tô ), gặp Ngụy Hạo . Hai người cùng nhau đi thuyền vào sông Tần Hoài , lên Kim Lăng . Rồi từ biệt Ngụy Hạo , Lý Bạch đi Tuyên Thành ( tỉnh An Huy ). Sau đi xuống phía Nam , đến Lật Dương , Viễm Trung ( tỉnh Chiết Giang), rồi vào núi Lư Sơn ( huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây), ở ẩn tại Bình Phong Điệp . Tháng 11 năm này, An Lộc Sơn làm phản .

Năm 756 ( Chí Đức nguyên niên , đời Đường Túc Tông), An Lộc Sơn vây hãm hai kinh . Vĩnh vương Lân , con thứ 16 của Huyền Tông, làm Giang Lăng đô đốc , sung tiết độ sứ các đạo Sơn Nam đông lộ . Lĩnh Nam Kiềm Trung và Giang Nam tây lộ . Trọng tài danh của Lý Bạch , Vĩnh Vương mời ông tới làm liêu tá trong phủ . Khi Lý Lân làm phản , tự đem thuyền đi xuống phía đông, Lý Bạch cũng bị bức bách đi theo .

Năm 757 , tháng 2, Vĩnh vương Lân bại trận , Lý Bạch chạy đến Bành Trạch trần thú , rồi bị giam tại ngục Tầm Dương ( huyện Cửu Giang , tỉnh Giang Tây ) Tuyên úy đại sứ Thôi Chi Hoán và ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư cố sức xin tha cho Lý Bạch . Nhược Tư còn tự phóng thích Lý Bạch, cho làm tham mưu quân sự, lại dâng thư tiến cử lên vua , nhưng không được trả lời . Lý Bạch vẫn bị kết tội theo Lân làm phản và khép án tử hình . May được Quách Tử Nghi , nay đã là tướng có công dẹp giặc , nhớ ơn xưa, xin giải quan chuộc tội cho, Lý Bạch mới được giảm xuống tội đi đày .

Năm 758 ( Càn nguyên nguyên niên ), Lý Bạch bị phát vãng đi Dạ Lang ( huyện Đồng Tử, tỉnh Quí Châu). Trên đường đi đày , có qua hồ Động Đình ( tỉnh Hồ Nam ), lên Tam Giáp ( khoảng Tứ Xuyên, Hồ Bắc ).

Năm 759, vào cuối mùa xuân, khi đến Vu Sơn ( tỉnh Tứ Xuyên), Lý Bạch nhận được sắc tha tội .

Khứ niên tả thiên Dạ Lang đạo,
Kim niên sắc phóng Vu Sơn dương .
(Bệnh tửu qui ký Vương minh phủ )

Năm ngoái bị đày xuống đường đi Dạ Lang,
Năm nay được sắc tha ở phía Nam núi Vu sơn ,

Từ Vu Sơn Lý Bạch đi đến Hán Dương ( tỉnh Hồ Bắc ).
Năm 760, Lý Bạch về đến Trường Phong Sa, ở Trì châu, phủ An Khánh (tỉnh An Huy). Vương Duy mất vào năm này .

Năm 761, lại đến Kim Lăng, Tuyên Thanh , Lịch Dương ...., sống phóng đãng , ngông cuồng . Có gặp lại Ngụy Hạo ở Tuyên Thành ( tỉnh An Huy ).

Năm 762 ( Bảo Ứng nguyên niên ), Lý Bạch đến ở nhà người họ là Lý Dương Băng , đang làm huyện lệnh tại Đang Đồ ( tỉnh An Huy ). Tháng 4 năm này, vua Đại Tông lên ngôi, có ý triệu Lý Bạch , phomg làm chức thập di. Nhưng đến tháng 11 Lý Bạch mắc bệnh nặng tại Đang Đồ ( theo Lý Dương Băng); mất ở núi Thanh Sơn , ngoài thành huyện này ( theo Phạm Truyền Chính ) . Thọ 62 tuổi .

Có những thuyết khác nói rằng Lý Bạch không phải vì mắc bệnh mà mất ( Lý Hoa , Ngụy Hạo ), Ngụy Hạo còn cho biết rõ ràng ông chết trong đầm nước .

Đến thời Ngũ Đại , Vương Định Bảo soạn sách Chích ngôn , mới viết rằng : " Lý Bạch mặc áo gấm trong cung , chơi trong sông Thái Thạch ( Ở huyện Đang Đồ ), ngạo nghễ tự đắc , xem như không có ai bên cạnh ; nhân say , nhảy vào nước, bắt bóng trăng rồi chết " . Về sau Hồng Dong Trai phụ hoạ thuyết đó , nói thêm : " .... Vì thế nơi ấy có Tróc nguyệt đài ( đài Bắt Trăng ) " .

Về gia đình , Lý Bạch có đến 4 đời vợ , sinh được 3 con trai , 1 con gái .

Sau khi Lý Bạch mất , Lý Dương Băng thâu thập thơ ông , thấy rằng trong số hai vạn bài thơ ông làm lúc sinh tiền, chỉ còn lại một phần mười . Những bài thơ ông làm trong khoảng 8 năm sau loạn An Lộc Sơn phần nhiều bị thất lạc . Ông vốn không thích lưu giữ và truyền bá thơ văn . Đến đời Tống ( 1080 ), Tống Mãn Cầu gom góp lại được , soạn thành Lý Bạch thi tập, 30 quyển, gồm 1800 bài .

Theo nguon : nhanmonquan.net
#1
    phudu 03.07.2003 13:51:43 (permalink)
    bài viết thật bổ ích, bạn có thơ của Lý Bạch không? mong được đọc.
    Mến
    PD
    #2
      Asin 04.07.2003 12:07:50 (permalink)
      Việt Trung Lãm Cổ

      Việt vương Câu Tiễn phá Ngô qui ,
      Nghĩa sĩ hoàn gia tận cẩm y .
      Cung nữ như hoa mãn xuân điện ,
      Chỉ kim duy hữu chá cô phi


      Lý Bạch

      Xem Cảnh Cũ Nước Việt

      Phá Ngô, vua Việt khải hoàn,
      Chinh phu áo gấm vẽ vang về nhà .
      Điện xuân cung nữ như hoa ,
      Giờ đây chỉ có bầy gà rừng bay .


      Bản dịch Trần Trọng San
      #3
        Asin 04.07.2003 12:25:36 (permalink)
        OÁN TÌNH

        Mỹ nhân quyển châu liêm
        Thâm tọa tần nga my
        Đãn kiến lệ ngân thấp
        Bất tri tâm hận thùy

        Mối Tình Oán Hận

        Người xinh cuốn bức rèm châu
        Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày
        Chỉ hay giọt lệ vơi đầy
        Đố ai biết được lòng này giận ai

        Tản Đà dịch
        KIM LĂNG TỬU TỨ LƯU BIỆT

        Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương,
        Ngô cơ áp tửu hoán khách thường.
        Kim Lăng tử đệ lai tương tống,
        Dục hành bất hành, các tận trường.
        Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ,
        Biệt ý dữ chi thùy đoản trường ?



        THƠ LƯU LẠI ĐỂ TỪ BIỆT Ở QUÁN RƯỢU KIM LĂNG

        Quán ngạt ngào hương gió liễu bay,
        Cô hàng rượu đẹp ép người saỵ
        Kim Lăng bạn trẻ ra đưa tiễn,
        Kẻ ở người đi cạn chén đầỵ
        Nhờ ai hỏi nước Trường Giang thử,
        Nước ấy tình kia ai vắn dài ?

        KHƯƠNG HỮU DỤNG dịch

        #4
          Asin 07.07.2003 10:33:57 (permalink)
          Ký Viễn

          Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường
          Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng
          Sàng trung tú bị quyển bất tẩm
          Chi kim tam tải văn dư hương
          Hương diệc cánh bất diệt
          Nhân diệc cánh bất lai
          Tương tư hoàng diệp tận
          Bạch lộ thấp thanh đài

          Gửi Phương Xa

          Người đẹp còn đây, hoa thắm tươi
          Người đi, giường trống, lá hoa rơi
          Trên giường chăn gấm y nguyên nếp
          Xuân Hạ ba lần hương chửa phai
          Hương thơm phảng phất còn đây mãi
          Người đẹp đi xa chẳng trở về
          Móc trắng, rêu canh cùng đẫm ướt
          Lá vàng lác đác nhớ thương hoài...


          TÁI HẠ KHÚC V .

          Tái lỗ thừa thu há
          Thiên binh xuất Hán gia
          Tướng quân phân hổ trúc
          Chiến sĩ ngọa Long Sa
          Biên nguyệt tùy cung ảnh
          Hồ sương phất kiếm hoa
          Ngọc Quan thù vị nhập
          Thiếu phụ mạc trường ta

          Dịch nghĩa

          Gặp tiết thu , giặc ngoài ải tràn xuống
          Binh trời ra từ nhà Hán
          Tướng quân chi ấn hổ trúc
          Binh sĩ nằm lăn trên bãi Bạch Lonh Đôi
          Trăng ngoài ải theo lẩn bóng cung
          Sương đất Hồ thấm ướt lưỡi kiếm
          Ngọc Quan chưa vào được
          Vợ trẻ chớ nên than dài

          Dịch thơ :

          Thu sang , giặc tràn xuống
          Binh nhà Hán tung ra
          Tướng nhận ấn hổ trúc
          Quân đóng vùng Long Sa
          Bóng cung , trăng ải dọi
          Kiếm sắc , sương Hồ pha
          Ngọc Quan chưa vượt nổi !
          Đừng trách người đi xa !

          Ngô Văn Phú dịch

          TẢO PHÁT BẠCH ĐẾ THÀNH

          Triêu từ Bạch đế thái vân gian
          Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
          Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trú
          Khinh chu dĩ quá vạn trùng san


          Dịch nghĩa :

          Sáng từ biệt thành Bạch Đế trong sắc mây rực rỡ
          Một ngày vượt ngàn dặm về đến Giang Lăng
          Hai bên bờ tiếng vượn kêu không dứt
          Thuyền nhẹ tênh tênh đã vượt núi non muôn trùng

          Dịch thơ :
          RA ĐI SỚM TỪ THÀNH BẠCH ĐẾ

          Bạch đế xuôi thuyền mây chói chang
          Một ngày ngàn dặm đến Giang Lăng
          Bên bờ tiếng vượn kêu không dứt
          Rừng núi muôn trùng thuyền nhẹ băng

          Ngô Văn Phú dịch


          #5
            Asin 07.07.2003 10:36:56 (permalink)
            Thục Đạo Nan

            Y hu hy , nguy hồ , cao tai .
            Thục đạo chi nan , nan ư thướng thanh thiên .
            Tàm Tùng cập Ngư Phù .
            Khai quốc hà mang nhiên .
            Nhĩ lai tứ vạn bát thiên tuế ,
            Thủy sữ Tần tái thông nhân yên .
            Tây đang Thái Bạch hữu điểu đạo ,
            Khả dĩ hoành tuyệt Nga Mi điên .
            Địa băng sơn tồi tráng sĩ tử .
            Nhiên hậu thiên thê , thạch sạn phương câu liên .
            Thượng hữu lục long hồi nhật chi cao tiêu .
            Hạ hữu xung ba nghịch chiết chi hồi xuyên .
            Hoàng hạc chi phi thượng bất đắc .
            Viên nhứu dục độ sầu phan viên .
            Thanh Nê hà bân bân .
            Bách bộ cửu chiết oanh nham loan .
            Mô Sâm lịch Tỉnh ngưỡng hiếp tức .
            Dĩ thủ phủ ưng tọa trường than .
            Vấn quân tây du hà thời hoàn ,
            Úy đồ sàm nham bất khả phan .
            Đản kiến bi điểu hào cổ mộc .
            Hùng phi tòng thư nhiễu lâm gian .
            Hữu văn tử qui đề da nguyệt ,
            Sầu Không san .
            Thục đạo chi nan , nan ư thướng thanh thiên .
            Sử nhân thính thử điêu chu nhan .
            Liên phong khứ thiên bất doanh xích .
            Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích .
            Phi suyền bộc lưu tranh huyên hôi .
            Phanh nhai chuyển thạch vạn hác lôi .
            Kỳ hiểm dã nhược thử .
            Ta nhĩ viễn đạo chi nhân .
            Hồ vi hồ lai tai .
            Kiếm Các tranh vanh nhi thôi ngôi .
            Nhất phu đang quan ,
            Vạn phu mạc khai .
            Sở thủ hoặc phi thân ,
            Hóa vi lạng dữ sài .
            Triều ty mãnh hổ .
            Tịch ty trường sà .
            Ma nha duận huyết ,
            Sát nhân như ma .
            Cẩm thành tuy vân lạc .
            Bất như tảo hoàn gia .
            Thục đạo chi nan , nan ư hướng thanh thiên .
            Trắc thân tây vọng trường tư ta .

            Lý Bạch



            Dịch nghĩa :
            Đường Thục Khó
            Ôi , nguy hiểm thay , cao thay ! Đường Thục khó , khó hơn lên trời xanh . Các vua Tàm Tùng và Ngư Phù ở chốn xa xôi biết bao ! Từ đó đến nay , đã bốn vạn tám nghìn năm , mớI thông suốt với chổ có khói người ở ải Tần .
            Phía tây là núi Thái Bạch có đường chim bay , có thể vắt ngang đến tận đỉnh núi Nga Mi . Đất lở , núi sập , tráng sĩ chết , rối mới có thang trời , đường đá móc nối liền nhau . Phía trên có ngọn cao sáu rồng lượn quanh mặt trời . Phía dưới có dòng sông uốn khúc sóng xô rẽ ngược . Hạc vàng còn không bay qua được ; vượn khỉ muốn vượt qua , cũng buồn khi vin tới , leo trèo .
            Rặng núi Thanh Nê khuất khúc biết bao ! Cứ trăm bước lại có chín khúc quặt vòng quanh núi non hiểm trở . Đứng trên cao , tưởng chứng như mó được sao Sâm , lướt qua sao Tỉnh ngẩng trông nín thở , đưa tay vổ bụng , ngồi than thở hoài .
            Hỏi bạn đi chơi phía Tây , bao giờ trở lại ? Đường đi cheo leo , nguy hiểm , không với tớI được . Chỉ nghe thấy tiếng chim kêu đau thương trong hàng cây cổ thụ , con trống bay theo con mái , lượn quanh trong rừng . Lại nghe thấy tiếng chim tứ quí kêu dưới bóng trăng đêm , buồn trong núi vắng .
            Đường Thục khó , khó hơn lên trời xanh . Khiến người ta nghe nói đến cảnh đó , phải héo hắt vẻ mặt trẻ trung . Các ngọn núi liền nhau , cách trời không đầy một thước . Cây thông khô vắt vẻo tựa vào vách đá cao ngất . Nước bay , thác chảy đua tiếng ào ào . Đập vào sườn núi , rung động đá , muôn khe suối vang ầm như sấm . Đường Thục hiểm trở là như thế ! Thương thay cho các bạn , những người đi đường xa , tại sao đến nơi đây ? Miền Kiếm Các cheo leo , chót vót !
            Chỉ một người canh giữ ải , đến muôn người cũng không mở nổi . Những kẻ giữ ải có thể không phải là người thân , lại biến đổi thành ra làoi sài lang . Còn những người đi đường thì ban sáng phải lánh cọp dữ , buổi tối phải tránh rắn dài ; bọn chúng mài nanh , hút máu , giết hại người nhiều như cây gai . Thành Cẩm Quan tuy rằng có vui , nhưng sao bằng sớm trở về nhà . Đường Thục khó , khó hơn lên trời xanh . Nghiêng mình trông sang phía tây , than thở hoài .


            Đường Thục Khó

            Ôi , chao ôi ! Nguy hề , cao thay !
            Đường Thục khó , khó hơn lên trời xanh .
            Tàm Tùng và Ngư Phù
            Mở nước bao xa xôi !
            Đến nay bốn vạn tám ngàn năm ,
            MớI cùng ải Tần liền khói người .
            Phía tây núi Thái Bạch có đường chim ,
            Vắt ngang đến tận đỉnh Nga Mi ,
            Đất long , núi lở , tráng sĩ chết ,
            Rồi sau thang trời , lối đá mới nối liền .
            Trên đỉnh có sáu rồng , lượn quanh vầng nhật ;
            Dưới có dòng sâu rẽ ngược , sóng cả đua chen .
            Hạc vàng bay qua còn chẳng được ;
            Vượn khỉ toan vượt , buồn với vin .
            Rặng Thanh Nê quanh co !
            Trăm bước , chín vòng núi nhấp nhô .
            Ngẩng trông Sâm Tỉnh , không dám thở ,
            Lấy tay vổ bụng ngồi thở dài .
            Hỏi bạn sang tây , bao giờ trở lại ?
            Đường hiểm núi cao , khó lắm thay ;
            Chỉ thấy chim buồn gào cổ thụ ,
            Trống bay theo mái lượn rừng cây .
            Lại nghe tiếng cuốc kêu trăng tối ,
            Buồn tênh , núi vắng người !
            Đường Thục khó , khó hơn lên trời xanh ;
            Khiến người nghe nói héo mặt son .
            Núi liền cách trời chẳng đầy thước ;
            Thông khô vắt vẻo vách cao ngất .
            Thác đổ dồn mau tiếng rộn ràng ,
            Vổ bờ , tung đá , muôn khe vang .
            Hiểm nghèo là như vậy ,
            Đường xa , thương cho ai ,
            Vì sao lại đến đây ?
            Kiếm Các cheo leo cao ngất mây .
            Một người giữ cửa quan
            Muôn người khôn mở ải
            Chẳng phải là người thân ,
            Biến thành ra sài lang .
            Sớm lánh hổ dữ ,
            TốI tránh rắn dài ;
            Mài nanh , hút máu ,
            Giết người như gai .
            Cẩm thành tuy vui thú ,
            Đâu bằng sớm về nhà .
            Đường Thục khó , khó hơn lên trời xanh ;
            Nghiêng trông sang tây , mãi thở than .

            Bản dịch Trần Trọng San


            Thục : nay là tỉnh Tứ Xuyên
            Y hu hy : người Thục mỗI khi sửng sốt , kinh hãi thường thốt ra ba tiếng này .
            TàmTù ng , Ngư Phù : tên hai vua đầu tiên mở mang đất Thục
            Tần : nay là tỉnh Thiểm Tây
            Thái Bạch : tên núi , ở huyện Mi , tỉnh Thiểm Tây
            Điểu đạo : đường chim bay
            Nga Mi : tên núi , ở huyện Mi , tỉnh Tứ Xuyên .
            Thanh Nê : tên núi , ở Hưng Châu , trên đường đi từ Tần vào Thục , sao Tỉnh thuộc phận dã đất Tần .
            Hiệp tức : nín thở .
            Tử qui còn có tên đỗ quyên hay đỗ vũ .
            Kiếm Các : tên nơi hiểm trở ở quận Tử Đồng , tỉnh Tứ Xuyên .
            Cẩm Thành : thành Cẩm Quan , ở phía nam Thành Đô , tỉnh Tứ Xuyên .
            #6
              phudu 07.07.2003 16:43:20 (permalink)
              wow,
              thiệt cảm ơn nha ! PD học hỏi được rất nhiều
              mến
              #7
                Asin 11.07.2003 06:18:57 (permalink)
                TÔ ĐÀI LÃM CỔ

                Cựu uyển, hoang đài, dương liễu tân,
                Lăng ca thanh xướng bất thăng xuân !
                Chỉ kim duy hữu Tây Giang nguyệt,
                Tằng chiếu Ngô Vương cung lý nhân.

                Lý Bạch


                THĂM DẤU CŨ ĐÀI CÔ-TÔ
                Đài hoang, vườn cũ, liễu còn tơ,
                Dìu dặt lăng ca giọng gió đưa.
                Nay chỉ Tây Giang vừng nguyệt tỏ,
                Từng soi người ngọc điện vua Ngô.
                TÙNG VÂN dịch


                KIM LĂNG TỬU TỨ LƯU BIỆT

                Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương,
                Ngô cơ áp tửu hoán khách thường.
                Kim Lăng tử đệ lai tương tống,
                Dục hành bất hành, các tận trường.
                Thỉnh quân thí vấn đông lưu thuỷ,
                Biệt ý dữ chi thùy đoản trường ?



                THƠ LƯU LẠI ĐỂ TỪ BIỆT Ở QUÁN RƯỢU KIM LĂNG

                Quán ngạt ngào hương gió liễu bay,
                Cô hàng rượu đẹp ép người saỵ
                Kim Lăng bạn trẻ ra đưa tiễn,
                Kẻ ở người đi cạn chén đầỵ
                Nhờ ai hỏi nước Trường Giang thử,
                Nước ấy tình kia ai vắn dài ?

                KHƯƠNG HỮU DỤNG dịch
                < Edited by: casanova -- 7/11/2003 2:23:00 AM >
                #8
                  Asin 11.07.2003 06:43:37 (permalink)
                  For ViViy2k27HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG

                  Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
                  Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
                  Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
                  Duy kiến Trường Giang thiên tuế lâu.

                  Lý Bạch

                  TẠI LẦU HOÀNG HẠC TIỄN MẠNH HẠO NHIÊN ĐI QUẢNG LĂNG

                  Bạn từ lầu Hạc lên đường,
                  Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng.
                  Bóng buồm đã khuất bầu không,
                  Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

                  NGÔ TẤT TỐ dịch

                  Bạn cũ rời tây Hoàng-Hạc lâu,
                  Tháng ba hoa khói, xuống Dương-Châu.
                  Buồm đơn, bóng lẫn vào mây biếc,
                  Chỉ thấy Trường Giang xuôi mãi đâu...

                  NGUYỄN KỶ NIỆM dịch
                  #9
                    Hoang TN 02.10.2006 20:37:17 (permalink)
                    Bạn Asin ơi, thơ Lý Bạch vốn rất nhiều, mà Lý Bạch còn nổi tiếng là một người yêu rượu nữa. Rượu và thơ hay đi với nhau, bạn coi trong kho tàng Lý Bạch bạn có, tuyển thêm vài bài ông nói về rượu nữa được không? Hình như những bài bạn đã post chỉ có mỗi Kim Lăng Quán nói về rượu thôi thì phải.
                    #10
                      Chuyển nhanh đến:

                      Thống kê hiện tại

                      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                      Kiểu:
                      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9