Ct.ly hay tulip tìm dùm em với
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 16 bài trong đề mục
linh hon co tich 21.03.2006 07:17:50 (permalink)
Chị Ly ơi ! tìm dùm em chuỵện Con đầm Pích của Puskin đc ko ạ
#1
    Ct.Ly 25.03.2006 17:49:41 (permalink)
    #2
      linh hon co tich 26.03.2006 17:56:33 (permalink)
      chị cứ gọi em là HNTT cũng được , em đã tìm hết rồi mà khôngthấy , ko hiểu tại sao nữa , đành chịu chết rồi.
      #3
        Ct.Ly 26.03.2006 18:11:32 (permalink)
        #4
          seahawk1 26.03.2006 18:48:44 (permalink)
          SH có tuyển tập văn xuôi của Puskin, trong đó có cả truyện "Con đầm pich". Phiền nỗi SH ko có máy scan nên ko đưa lên mạng được. Dạo này SH đang kẹt gõ "gặp gỡ cuối năm" và dịch tiếp "một cây cầu quá xa" nên cũng chưa đụng vào được. Giá có thành viên nào ở HN có máy scan thì tốt quá. Cứ liên lạc với SH để phối hợp scan dần lên cho mọi người gõ. Ngoài ra SH còn khá nhiều truyện trên thư quán chưa có như "Những ngôi sao Eghe", "Cuộc đời của Nostradamus", 'Quentin Durward', hay 'Mũi tên đen' cùng mấy tập Tarzan mà hình như cũng có bạn đang tìm. Hy vọng được các bạn hưởng ứng.
          #5
            tulipdenus 15.04.2006 05:36:16 (permalink)
            ALÊCHXAN XECGHÊÊVITS PUSKIN


            Puskin là nhà thơ Nga vĩ đại, là niềm tự hào của dân tộc Nga và của chung nhân loại. Sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền với toàn bộ nền văn học Nga, góp phần đưa văn học Nga lên đến đỉnh cao của sự phát triển. Chính ông đã tiếp thu những tinh hoa của văn học truyền thống, phát triển và hoàn thiện nó; một mặt ông đã nâng nó lên một trình độ cao hơn, mở đầu cho một nền văn học tiên tiến và hoàn mĩ.

            I.KHÁI QUÁT TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
            Cuộc đời của Puskin luôn gắn liền với sự nghiệp sáng tác và có thể chia thành bảy thời kì khác nhau. Mỗi thời kì phản ánh những sự kiện quan trọng trong cuộc đời thi sĩ, đồng thời thể hiện những bước trưởng thành trên con đường sáng tác của ông.

            1. Thời thơ ấu (1799 - 1811):
            TOP


            Alecxanđrơ Xecgâyêvit Puskin sinh ngày 06 tháng 6 năm 1799 (lịch cũ: 25-6) tại Matxcơva trong một gia đình quý tộc thượng lưu. Bên nội bên ngoại của ông đều là dòng dõi quyền quý nhưng lúc này đã sa sút. Tuy nhiên Puskin vẫn có đủ điều kiện để sống một tuổi thơ êm đềm và thơ mộng.

            Từ nhỏ Puskin đã tiếp xúc với không khí văn học và đặc biệt yêu thích nó. Cha của Puskin - Xecgây Livôvits Puskin- là một người yêu thích văn chương và sân khấu. Chú của Puskin- Vaxili Livôvits- cũng là một nhà thơ nổi tiếng đương thời. Các nhà thơ lớn như Caramdin, Giucôpxki, Bachiuscôp, Ðmitơriep vẫn thường xuyên đến nhà ông thảo luận về các vấn đề văn học. Không khí văn học đó chắc chắn đã có ảnh hưởng không ít đến tâm hồn nhạy cảm của cậu bé Puskin. Thêm vào đó, Puskin còn được học và đọc rất nhiều bài thơ và văn xuôi Pháp, được tiếp xúc trực tiếp với văn học dân gian vô cùng phong phú Nga qua bà nhũ mẫu Arina Rôđiônnôpna và lão nô bộc Nikitia Côdơlôp. Tất cả những điều kiện thuận lợi đó đã thúc đẩíy tài năng văn học Puskin sớm được nảy nở và phát triển.

            2. Thời kì học ở trường Lixê ( 1810-1817 ):
            TOP


            Khi Puskin lên 10 tuổi, cậu vào học ở trưòng Lixê. Ðó là một trường học chỉ dành riêng cho con em quý tộc nằm cách Matxcơva vài trăm dặm. Trường nằm trong khu đất của nhà vua và chuyên đào tạo ra những con người phục vụ chế độ chuyên chế, tiếp nối sự nghiệp thống trị của Nga hoàng.

            Nhưng cũng tại Lixê, Puskin đã có dịp tiếp xúc với nhiều tư tưởng tự do của các giáo sư tiến bô. Nơi đó , trong kí ức của ông sau này, có nhiều người bạn trở thành những chiến sĩ cách nmạmg phấn đấu vì một nước Nga tiến bộ. Những người bạn đó đã gợi cho ông nhiều cảm xúc và đó là nguồn cảm hứng to lớn cho nhiều bài thơ bất diệt trong sự nghiệp sáng tác của Puskin .

            Cũng trong thời gian Puskin học tại trường Lixê, cuộc chiến tranh vệ quáôc của nhân dân Nga cjhống lại sự xâm lược của Napôlêông diẽn ra, sự kện đó đã có ảnh hưởng to lớn đến nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ. Tinh thần yêu nước của nhân dân đã thúc đẩy mãnh liệt tinh thần dân tộc trong tâm hồn Puskin. Ông đã sáng tác bài thơ Những kỉ niệm hoàng thôn mà nội dung của nó là ca ngợi tinh thần yêu nước của nước Nga trong cuộc chiến tranh vệ quốc.

            3. Thời kỳ Pêtecbua (1817 - 1820):
            TOP


            Tháng 6 năm 1817, Puskin tốt nghiệp xuất sắc trường Lixê. Ngay sau đó ông được bổ nhiệm làm thư kí bộ ngoại giao ở Pêtecbua. Lúc này Pêtecbua đang trở thành một trung tâm nóng bỏng không khí chính trị. Chính phủ Nga hoàng ngày càng tỏ ra phản động. Chương trình cải cách tiến bộ của Xpêranxki bị gạt bỏ. Arăcxêep, một kẻ bảo thủ cực đoan được Nga hoàng tin dùng, không ngừng đưa ra hàng loạt những chính sách ngu dân, phản động. Trước tình hình đó, nhiều thanh niên trí thức tiến bộ đã lập ra những tổ chức bí mật chống lại Nga hoàng. Lúc này vấn đề làm gì ?, sống như thế nào ? đối với Puskin trở thành một vấn đề quan trọng. Và Puskin đã hòa mình vào không khí cách mạng, liên hệ mật thiết với nhiều nhà hoạt động cacïh mạng tiến bộ. Ông đã cho ra đời nhiều bài thơ có nội dung chống chế độ chuyên chế: Tự do (1817), Những câu chuyện thần thoại Noel (1818), Gởi Sađaép (1818), Làng (1819) ... Những bài thơ này tuy không được đăng công khai nhưng nó nhanh chóng phổ biến trong nhân dân.

            Với tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, tràn đầy sức sống, tràn đầy tinh thần công dân cao cả, những bài thơ của Puskin đã dấy lên một phong trào thơ ca mới, đầy tinh thần cách mạng. Lần đầu tiên, thơ ca đã thức tỉnh ý thức nhân dân chống lại chế độ nông nô chuyên chế Nga hoàng:

            Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược

            Ta căm ngươi, ngôi báu của ngươi

            Ta thấy trước với niềm vui cay độc

            Cái chết của ngươi của cháu con ngươi.

            Những bài thơ của Puskin đã làm cho Nga hoàng giận giữ. Ông ta quyết định: Phải tống cổ Puskin đi Xibiri. Nếu không, hắn sẽ làm cho nước Nga tràn ngập những bài thơ nổi loạn. Tất cả bọn thanh niên đều đã thuộc lòng thơ của hắn. Thế nhưng, với lòng yêu mến tài năng và khâm phục những tư tưởng tự do, cách mạng, nhiều nhà thơ, nhà văn có uy tín như nhà thơ Ðecgiavin, nhà văn Caramdin, nhà thơ Giucôpxki đã ra sức bảo vệ Puskin. Cuối cùng Nga hoàng phải nhượng bộ và đày Puskin đi phương Nam.

            4. Thời kì lưu đày ở phương Nam (1820 - 1824):
            TOP


            Thời kì lưu đày ở phương Nam kéo dài bốn năm, trong thời gian đó Puskin phải di chuyển qua nhiều nơi: Capca, Crum, Kisinhôp (1820 - 1823), Ôđetxa (1823 - 1824).

            Ở phương Nam Puskin lại tiếp tục con đường của mình. Ông đã bắt gặp nơi phương Nam hoang vắng này những phong cảnh thiên nhiên tráng lệ, những con người lao động hồn nhiên, chân thật và phóng khoáng. Chẳng những thế Puskin còn gặp gỡ với một tổ chức cách mạng mà đại diện là Pêxte. Puskin đã nhận định về Pêxte như sau: Ông là một trong những trí tuệ đặc sắc nhất mà tôi được biết.

            Ở phương Nam Puskin thường đi dạo chơi trên bãi biển, trên triền núi, hòa nhập vào cảnh hoành tráng của thiên nhiên. Có lúc ông lại bỏ ra hàng giờ đi bộ đến những làng xóm của cư dân địa phương, hỏi han, trò chuyện, tìm hiểu phong tục tập quán, sinh hoạt của người dân lao động.

            Thời gian này, Puskin ý thức một cách sâu sắc hơn về giá trị và bản chất đích thực của tự do. Tiếng thơ của ông trở nên trầm lắng và thường có tính chất tâm sự. Ông tâm sự với núi non, với biển ca với cánh chim bị giam lồng... Hàng loạt những bài thơ đã ra đời, phản ánh cảm giác về tự do thường trực trong tâm hồn nhà thơ: Aïnh mặt trời của ban ngày đã tắt (1820), Người tù (1822), Con chim nhỏ (1823) Hỡi sóng cả ai ngăn chặn (1823), Người gieo giống trên đồng vắng (1823).

            Môi trường phương Nam và không khí lịch sử - xã hội của thời đại đã đặt ra những yêu cầu mới cho sáng tác của Puskin. Nhà thơ muốn thể hiện những thể loại lớn hơn: trường ca; và phương pháp sáng tác mới: phương pháp lãng mạn. Năm 1820, trường ca Rutxlan và Liutmila ra đời.

            Bản trương ca Rutxlan ra đời đã nâng Puskin lên một vị trí mới, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa lãng mạn đối với các khuynh hướng văn học khác.

            Tuy nhiên, Puskin không dừng lại với những thành công đã đạt được. Tiếp theo trường ca Rutxlan và Liutmila, Puskin đã sáng tạo thêm hàng loạt trường ca: Người tù Capca (1820 -1821), Anh em kẻ cướp (1821 - 1822), Ðoàn người Sưgan (1824). Những tác phẩm này đã phản ánh sự bất mãn không thỏa hiệp của tầng lớp thanh niên tiến bộ đương thời đối với trật tự xã hội hiện hành. Với những tác phẩm này, Puskin trở thành đại diện cho khuynh hướng văn học lãng mạn cách mạng.

            Nhưng hiện thực xã hội đòi hỏi Puskin phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo, sáng tác theo một phương pháp phù hợp. Puskin bắt đầu viết tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin, thể nghiệm phương pháp hiện thực.

            5. Thời kì lưu đày phương Bắc (1824- 1826):
            TOP


            Nhận thấy việc lưu đày Puskin về phương Nam không thể đàn áp được tinh thần của ông, Nga hoàng quyết định đẩy Puskin về phương Bắc. Thời gian lưu đày ở đây ông sống tại làng Mikhailôpxkôe và bị quản thúc chặt chẽ. Puskin dường như phải sống trong cô đơn và cách li hoàn toàn. Người thân duy nhất bên ông lúc này là nhũ mẫu Aria Rôđiônnôpna.

            Những đêm mùa đông lạnh lẽo, bà thường kể cho Puskin những câu chuyện cổ tích, hát những khúc dân ca Nga buồn thương. Chính bà đã giúp cho Puskin hiểu được thế nào là tâm hồn Nga bình dị, tinh thần cao cả của nhân dân.

            Puskin đã viết về nhũ mẫu:

            Mái lều ta quạnh hiu

            Tiêu điều không ánh lửa

            Bà ơi sao ngồi im

            Âm thầm bên song cửa?

            Hay tiếng rít bảo giông

            Ðã làm người muốn nghỉ?

            Hay người đang mơ mộng

            Theo tiếng sa rền rĩ?

            Sống tại làng Mikhailôpxkôie, Puskin vẫn tiếp tục gặp gỡ, tiếp xúc, tìm hiểu cuộc sống của những người lao động bình dị. Puskin tiến hành ghi chép, sưu tầm, và nghiên cứu về văn hóa dân gian. Ông tìm thấy trong công việc của mình một niềm lạc quan mới mẻ, một tinh thần mới ở nhân dân. Puskin bắt tay vào nghiên cứu lịch sử dân tộc và viết vở bi kịch lịch sử Bôrit Gôđunôp (1825). Cũng trong thời gian này Puskin tiếp tục viết tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônêghin.

            Tuy nhiên, công việc sáng tác của Puskin không hề thuận lợi. Có lúc ông bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Nhưng cũng vào lúc đó, thiên thần hộ mệnh Kernơ của ông xuất hiện . Chính tình yêu cao cả đã cứu Puskin và trả lại cho ông niềm cảm xúc tuyệt vời. Puskin đã viết lên những câu thơ kì diệu:

            Anh nhớ mãi phúc giây huyền diệu

            Trước mắt anh em bỗng hiện lên

            Như hư ảnh mong manh chợt biến

            Như thiên thần sắc đẹp trắng trong

            ... Quả tim lại rộn ràng náo nức

            Vì trái tim sống dậy đủ điều

            Cả tiên thần, cả nguồn cảm xúc

            Cả đời, cả lệ, cả tình yêu

            Từ đây, nhiều kiệt tác trữ tình của thơ ca Nga xuất hiện: Con đường mùa đông, Lá thư bị đốt cháy. Những bài thơ này thường đượm một vẻ buồn, khi phảng phất, khi sâu lắng nhưng sắc điệu cơ bản của chúng vẫn là một nỗi buồn trong sáng.

            Trong khi Puskin đang sống cô đơn tại Mikhailôpxkôie thì rạng sáng ngày 14 tháng 12 năm 1825, một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Pêtecbua. Sau đó cuộc khởi nghĩa chống Nga hoàng bị lật đổ và hàng trăm người tham gia bị bắt, bị xử tử, bị kết án đày đi Xibiri, trong đó có nhiều người là bạn thân thiết của Puskin. Kể từ đây, Puskin phải cùng lúc đối đầu với hai kẻ thù lớn, đó là Nga hoàng và sự bi quan, thất vọng. Nhưng trong hoàn cảnh đó, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng của Puskin cùng với lời nhắn gởi thiết tha và sự hy sinh cao cả của những người bạn đã cổ vũ tinh thần nhà thơ. Tinh thần đó mãi mãi dư âm trong lòng nhà thơ công dân, thôi thúc nhà thơ sáng tác vì tự do và tiến bộ. Sau này, những bài thơ xuất sắc như Ariôn (1827), Cây Ansa(1828), Gửi tới Xibia (1829) cũng bắt nguồn từ tinh thần bất tử đó.

            6. Thời kì sau khởi nghĩa tháng Chạp 1825
            TOP


            Biết không thể khép tội và trấn áp tinh thần Puskin, Nicôlai I bèn thay đổi thủ đoạn. Hắn cho gọi Puskin về Matxcơva. Lúc này triều đình Nga hoàng ngày càng bộc lộ bản chất phản động. Nicôlai I biết rõ ảnh hưởng và uy tín của Puskin nên âm mưu muốn biến nhà thơ nhân dân thaönh nhà thơ cung đình , phục vụ cho việc giải trí. Puskin phải trực tiếp đối mặt với kẻ thù của nhân dân. Thời gian này ông cho ra đời các bài thơ nổi tiếng: Ariôn (1827), Cây Ansa(1828), Gửi tới Xibia (1829).

            Cũng trong thời gian này, Puskin gặp người bạn đời của mình- tiểu thư Natalia Nikôlaiepna Gônsarôva (1812- 1863). Tình yêu trong sáng và mãnh liệt đã đem lại cho Puskin những niềm cảm hứng bất tận. Puskin đã viết về Natalia:

            ... Nàng trang nghiêm, ánh mắt nàng thông tuệ

            Trong hào quang thanh thoát nhân từ

            Dưới gốc cọ Xiôn lặng lẽ ưu tư

            Chỉ hai người, không thích thần hộ vệ...

            Ngày 18 tháng 12 năm 1831 diễn ra lễ cưới của Natalia và Puskin.

            7. Những năm cuối cùng:
            TOP


            Giai đoạn cuối cùng của nhà thơ Puskin có thể kể từ 1830 trở đi. Thời kì này, trong cuộc sống xã hội cũng như trong đời tư của Puskin có nhiều thay đổi. Tôi không có thời gian rãnh; cuộc sống lạnh lùng, tự do cần thiết cho một nhà văn cũng không có nốt. Tôi quay cuồng trong xã hội thượng lưu, vợ tôi lại rất ăn diện... Tất cả những cái đó cần có tiền mà tiền thì kiếm bằng lao động, nhưng muốn lao động thì phải yên tĩnh.

            Trong thời gian khó khăn đó, Nicôlai I rất mê sắc đẹp của Natalia. Hắn tìm mọi cách để tiếp xúc, gần gũi với người đẹp. Nực cười hơn, hắn còn ban cho Puskin chức thiéu niên thị toöng, một chức mua vui chỉ dành cho những người trẻ tuổi. Puskin bị xúc phạm nặng nề. Mâu thuẫn giữa Puskin với Nga hoàng ngày càng gay gắt.

            Nhưng những lúc khó khăn nhất, Puskin lại tìm thấy niềm vui trong sáng tác nghệ thuật. Thời gian này, Puskin cho ra những bài thơ xuất sắc: Mùa thu, Tôi trở lại thăm, Ðài kỷ niệm...

            Cũng trong thời gian này, Puskin viết trường ca Kỵ sĩ đồng và hoàn thành tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônêghin .

            Trong giai đoạn sáng tác cuối cùng này, Puskin chú ý nhiều về kịch và văn xuôi. Quyển tiểu thuyết Người con gái viên đại úy được xem là Cuốn bách khoa toàn thư bằng văn xuôi của đời sống Nga cuối thế kỷ XVIII.

            Từ 1830 trở đi, những âm hưởng của chủ nghĩa lãng mạn không còn trong sáng tác của Puskin. Xu thế chủ nghĩa hiện thực trở thành xu hướng chung trong các sáng tác của ông.

            Trong lúc Puskin tập trung trí lực vào sáng tác thì bọn quý tộc đã tìm mọi cách hãm hại thi sĩ. Chúng phao tin để gây xung đột giữa tên Pháp lưu vong Ðăngxtet và nhà thơ. Ðể bảo vệ danh dự và chính nghĩa, Puskin đã đấu súng và mất vào ngày 10 tháng 2 năm 1837.

            II. THƠ TRỮ TÌNH CỦA PUSKIN

            Thơ trữ tình của Puskin chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng thơ ca Nga. Ông đã sáng tác hơn 800 bài thơ có giá trị. Mặc dù Puskin có viết văn, viết kịch nhưng thủy chung ông vẫn là nhà thơ.

            Thơ Puskin có nội dung rộng lớn nhưng có thể gom về các chủ đề lớn như sau: 1. Chủ đề phê phán chế độ chuyên chế Nga hoàng, 2. Chủ đề ca ngợi tự do, 3. Chủ đề thiên nhiên, 4. Chủ đề tình yêu.

            1. Chủ đề phê phán chế độ chuyên chế Nga hoàng:
            TOP


            Thơ Puskin gắn liền với quá trình vận động cách mạng ở Nga trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX. Chính nội dung phản ánh cuộc sống nhân dân kết hợp với khí thế thời đại đã làm nên giá trị các tác phẩm trữ tình của Puskin. Nội dung phản ánh xã hội đương thời là không thể phủ định, tuy nhiên, cần thấy rõ nội dung phản ánh trong thơ Puskin mang tính khuynh hướng rõ rệt. Ðó là thái độ phủ định chế độ Nga hoàng một cách trực tiếp thông qua sự tái hiện một cách chân thật bộ mặt xấu xa của xã hội cùng với sự phê phán gay gắt xã hội đó.

            Thơ Puskin ca ngợi cái đẹp, thơ ông cũng phê phán, phủ định cái xấu. Nhưng cái xấu ở đây không phải là cái xấu ngẫu nhiên, cái xấu của sự vật tương đối, mà nó là cái xấu bản chất của xã hội, của chế độ, cái xấu đang bao trùm lên tất cả, chi phối moûi trật tự xã hội.

            Thơ Puskin bộc lộ trực tiếp thái độ phủ định Nga hoàng - tên đầu sỏ của chế độ chuyên chế :

            Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược

            Ta căm ngươi ngôi báu của ngươi

            Ta thấy trước với niềm vui cay độc

            Cái chết của ngươi, của cháu con ngươi .

            ( Tự Do )

            Puskin đã dùng hình tượng cây Ansa để nói lên tính chất phản động của tên độc tài trong thế kỷ bạo tàn :

            Còn tên chúa lấy ra chất độc

            Tẩm mũi tên, tên trúng đích trăm lần

            Ðem chết chóc gieo ra ngoài bờ cõi

            Qua biên thùy sang các nước lân bang .

            ( Cây Ansa )

            Trong tác phẩm Những câu chuyện thần thoại Noen, nhà thơ đã thể hiện thái độ châm biếm, nhạo báng đối với hành động và lời nói phỉnh gạt nhân dân của tên vua chuyên quyền:

            Hỡi nhân dân của cả nước Nga

            Hãy biết rằng toàn thế gian đã biết

            Ta đã may chiến phục cho ta

            Theo kiểu nước Áo, Theo kiểu Ðức

            Hãy vui lên dân chúng, hãy vui lên;

            Ta no, ta béo, ta béo tròn

            Bọn viết báo ngợi ca ta trên báo

            Ta uống, ta ăn, ta hứa hão

            Và việc công ta chẳng nhọc nhằn ...

            Ðồng thời với thái độ phê phán, đã kích chính quyền chuyên chế, Puskin còn tái hiện những kiếp đời bất hạnh triền miên của người dân lao động, và đồng thời bộc lộ thái độ đồng cảm với họ. Ðó có thể là người thiếu phụ buột phải bỏ đứa con rứt ruột của mình; đó có thể là những con người suốt đời làm thân nô lệ không dám nghĩ đến hoài bão, ước mơ:

            Theo luống cày còng lưng tê tái

            Dưới làn roi khổ nhục ê chề

            Ðám nông nô xơ xác chân kéo lê

            Trên luống đất bọn chủ nô tàn ác

            Aïch nặng nề kéo lê cho tới chết

            Không dám nuôi chút hoài bão, ước mong .

            ( Làng - 1819 ).

            Tóm lại, nội dung phê phán đả kích phủ định chế độ nông nô chuyên chế Nga hoàng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong việc tạo ra giá trị to lớn trong thơ Puskin. Lần đầu tiên, với tinh thần tiến bộ và dũng cảm, Puskin đã dám phê phán bản chất chế độ xã hội đương thời, phê phán từ tên vua cầm đầu cho đến bộ máy chính quyền, xã hội thượng lưu bệnh hoạn. Ðiều đáng trân trọng ở đây là nhà thơ đã phản ánh đúng bản chất xã hội và bộc lộ thái độ phê phán một cách mãnh liệt, không hề hòa hoãn, không hề khoan nhượng. Chính tinh thần dũng cảm, thái độ kiên định, tình cảm phân minh đó đã đem đến cho những bài thơ của Puskin một sức mạnh vô biên, một khả năng to lớn trong việc thức tỉnh nhân dân, cổ vũ nhân dân đứng lên chống lại cường quyền, cải tạo xã hội.

            2. Chủ đề ca ngợi tự do:
            TOP


            Nội dung ca ngợi tự do trong thơ Puskin có một dung lượng khá lớn và gắn liền với nội dung phê phán Nga hoàng. Nếu như việc tái hiện về mặt xã hội đem đến cho tác phẩm một gía trị nhận thức to lớn thì nội dung ca ngợi và khẳng định tự do đem lại cho tác phẩm một giá trị tư tưởng - tình cảm lớn lao.

            Trong bài thơ Tự do Puskin phát biểu Tự do như là một nhà cách mạng quý tộc. Nhà thơ không nhằm vào cuộc cách mạng toàn dân để thủ tiêu chế độ quân chủ mà trông cậy vào cuộc cách mạng do các nhà quý tộc cách mạng đang chuẩn bị. Ðối với Puskin Luật pháp đứng trên nhà vua và nhân dân . Nghĩa là tự do phải dựa trên việc hạn chế quyền hành của nhà vua, phải tiến hành cải cách từ trên xuống, phải bãi bỏ chế độ nông nô:

            Chỉ nơi nào có liên minh chặt chẽ,

            Giữa tự do và pháp luật nghiêm minh

            Ðưa mộc lên che chở mọi chúng sinh,

            Trao thanh kiếm vào tay người trung thực,

            Ðể trừng phạt không phân chia đẳng cấp,

            Bất cứ kẻ nào gây tội ác gian tham.

            Chỉ nơi nào tự do với luật hình,

            Không e sợ, không mắc điều tham nhũng,

            Chỉ nơi ấy lê dân không thê thảm

            Không lao đao dưới trướng của đế vương.

            Hỡi các đế vương ! Các ngươi có mũ ngọc ngai vàng

            Do luật pháp chứ không do tạo hóa,

            Trên nhân dân các ngươi ngồi cao hơn cả

            Nhưng muôn đời luật phát trên các ngươi.

            Ðối Puskin, tự do là khát vọng cao nhất, là tiếng lòng tha thiết nhất, mãnh liệt nhất đối với nhân dân. Ông đã dùng nhiều từ ngữ, hình ảnh để diễn tả khái niệm tự do và cùng với nó là hạnh phúc, giải phóng như: lửa tự do rực cháy; bình minh rực cháy của tự do; sao hạnh phúc nguy nga hiện sáng; nhân dân cởi tròng thoát ách; dông tố đâu hình ảnh của tự do; bay, bay đi ta loài chim tự do...

            Cả một đời người Puskin mất tự do. Vì vậy thơ Puskin đọng nỗi cay đắng của người mất tự do. Nga hoàng đã dùng nhiều cách để tước đoạt tự do của nhà thơ: đưa đi khỏi Pêtecbua, giam lỏng ở vùng quê, kiểm duyệt khắt khe... Từ nỗi đắng cay của mình, Puskin hiểu nỗi cay đắng của nhân dân. Có lẽ vì thế, với Puskin tự do luôn gắn liền với nhân dân, gắn liền với giải phóng.

            Tự do là nội dung của thời đại, ngôn ngữ của thời đại. Puskin đã đưa nội dung và ngôn ngữ ấy vào thơ, đốt cháy trong thơ ngọn lửa chiến đấu, có biết bao chiến sĩ đã yêu thơ Puskin, có biết bao người yêu thơ Puskin mà đến với phong trào cách mạng.

            3. Lòng yêu mến thiên nhiên xứ sở:
            TOP


            Trong thơ trữ tình của Puskin, số lượng bài thơ, câu thơ viết về thiên nhiên chiếm một khối lượng khá lớn. Thiên nhiên chiếm một vị trí khá quan trọng trong sáng tác của nhà thơ và mang một nội dung độc đáo.

            Thứ nhất , thiên nhiên trong thơ Puskin thể hiện trọn vẹn cái hồn của thiên nhiên Nga, nét độc đáo và đặc trưng của thiên nhiên Nga. Trong thơ ông, người ta chỉ nhận ra những cảnh sắc chỉ riêng có ở nước Nga chứ không phải ở một xứ sở nào khác. Vì thế, thiên nhiên trong thơ Puskin mang tính chân thực và có tính chất tư liệu, góp phần tạo nên giá trị cho các bài thơ.

            Thứ hai, thiên nhiên trong thơ Puskin thể hiện một nội dung lớn, đó là sự thể hiện tình yêu chân thành của một con người ham sống, ham giao cảm với đời, với cảnh sắc thiên nhiên, tìm thấy trong thiên nhiên những gì tươi sáng, trân trọng và thân thương, gần gũi nhất. Ðó chính là sự thể hiện tình yêu cái đẹp và cái thiện của con người.

            Thứ ba, thiên nhiên trong thơ Puskin có tính chất ngợi ca đất nước Nga sâu sắc, có tác dụng thúc đẩy người đọc thêm yêu thên nhiên và con người Nga hơn.

            Ngôn ngữ thể hiện thiên nhiên trong thơ Puskin mang tính chất đơn nghĩa, nó thể hiện nội dung từ ngữ với ý nghĩa cuối cùng. Cũng vì thế mà thiên nhiên trong thơ Puskin mang tính khách thể rõ ràng, ít được dùng một cách ẩn dụ để thể hiện tâm trạng.

            4. Nội dung ngợi ca tình yêu
            TOP


            Puskin được mệnh danh là nhà thơ tình thế giới. Nhiều bài thơ tình của Puskin đã đi vào thế giới bất tử.

            Puskin viết nhiều bài thơ về tình yêu nam nữ. Nhưng tình yêu nam nữ trong thơ của ông không phải là tình yêu thông thường với ý nghĩa bình thường của nó. Ðọc thơ tình của Puskin, người ta luôn cảm nhận được sự chân thành, sự trong sáng, sự tế nhị trong tâm hồn của người đang yêu.

            Thơ tình yêu của Puskin luôn làm cho người đọc nhận thức khi yêu phải yêu cho đẹp, cao thượng, phải có văn hóa và nhân cách trong tình yêu. Những bài thơ của Puskin luôn phủ định tình yêu giả dối, ích kỉ, vụ lợi và suy tính, tiền bạc.

            Nhìn chung, thơ trữ tình của Puskin ngắn gọn, trong sáng, giản dị, tinh tế.

            úNhững bài thơ tình đặc sắc của Puskin là: Gửi, Tôi yêu em..,Ngài và anh, cô và em; Trên đồi Grudia đêm xuống, Lá thư bị đốt cháy...

            Tóm lại, thơ trữ tình của Puskin có đặc điểm ngắn gọn, trong sáng, giản dị, tinh tế. Thơ của ông là tổng hòa của niềm say mê với cảm xúc tràn trê övà với ánh sáng trí tuệ. Nó được xem như là cuốn sử biên niên của thời đại.

            Qua thơ trữ tình của Puskin chúng ta có thể thấy được hình ảnh con người dũng cảm kiên cường trong đấu tranh, chân thành chung thủy trong tình bạn, lành mạnh, trong sáng và tha thiết trong tình yêu, ý thức trách nhiệm cao trong sáng tác nghệ thuật.

            Thơ của Puskin có tác dụng to lớn trong việc nhân đạo hóa con người, giáo dục con người sống tốt hơn, nhân bản hơn.

            III. TRƯỜNG CA

            Thể loại trường ca trong toàn bộ các sáng tác của Puskin chiếm một vị trí quan trọng. Ông có 12 bản trường ca đã hoàn thành và 12 bản trường ca còn bỏ dỡ.

            1.Trường ca Ruxlan và Liutmila(1820):
            TOP


            Ðây là bản trường ca đầìu tiên của Puskin. Bản trường ca ra đời đã đánh dấu sự thắng lợi toàn vẹn của phương pháp sáng tác lãng mạn, đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa tình cảm tồn tại trước đó.

            Bản trường ca ra đời đã phủ định nội dung và giọng điệu buồn thương, tôn giáo của dòng văn học cổ điển, tình cảm. Bản trường ca đã ca ngợi và thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời, ngợi ca chính nghĩa chiến thắng gian tà, ngợi ca tình yêu thủy chung chiến thắng những trở lực đen tối, khẳng định người tốt hưởng hạnh phúc, kẻ xấu bị trừng phạt, cái thiện thắng cái ác...

            Lần đầu tiên trong văn học Nga, xuất hiện nhà thơ Puskin dám đưa vào bản trường ca những con người chứ không phải là những cái bóng, lần đầu tiên xuất hiện những con người sống thật, biết yêu thương, buồn vui, căm giận, sống gần gũi với hiện thực.

            Trong bản trường ca này Puskin đã đưa vào những nhân vật anh hùng lẫn những nhân vật bình thường; kết hợp cái cao cả với cái tầm thường, kết hợp yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình...

            Hạn chế của trường ca là còn thiếu yếu tố thời sự, thiếu không khí thời đại.

            2.Trường ca Ngưòi tù Capcaz:
            TOP


            Puskin viết trường ca này khi bị đày xuống phương Nam. Ðây là bản trường ca hoàn chỉnh sau bản trường ca Ruxlan và Liutmila.

            Ðây là bản trường ca nói về một chàng thanh niên Nga bất bình với xã hội mình đang sống. Anh ta từ bỏ tất cả và đến với miền núi Grudia để tìm tự do. Chàng bị những bộ tộc người Secket bắt giam thành người tù. Lúc bấy giờ có cô gái đẹp người Secket cảm phục hành động anh hùng và liï tưởng tự do của chàng nên đem lòng yêu. Nhưng anh ta từ chối tình yêu vì anh ta khao khát tự do hơn cả hạnh phúc yêu đương nhỏ hẹp. Mặc dù vậy cô gái đã dùng cưa sắt cưa xiềng cứu thoát anh. Anh đã thoát thân qua bên kia sông, bên này cô gái tự vận trong dòng nước.

            Puskin đã sử dụng truyền thuyết để xây dựng và khẳng định sức mạnh tình yêu ít gắn liền với thời đại. Trong bản trường ca này, nhà thơ đã đặt cho mình nhiệm vụ thể hiện những gì gần gũi nóng bỏng của đời sống thời đại. Cụ thể nhà thơ đã thể hiện hình tượng tổng hợp, khái quát về lớp thanh niên Nga đầu thế kií XIX với những ưu điểm và nhược điểm của nó. Người tù là nhân vật và là hình tượng chính trong tác phẩm.

            Ðây là anh thanh niên trẻ trung, bị số phận xua đuổi, một người đầy những mâu thuẫn tâm lý phức tạp. Anh say mê tự do, từ bỏ tất cả để tìm đến tự do. Anh đã đến xã hội của người Secket. Nhưng đây là một vùng rừng núi, một xã hội hoang sơ. Cuối cùng anh cũng không tìm được tự do. Anh không tìm được chổ đứng ở bất cứ nơi nào: thành thị, nông thôn, rừng núi. Số phận anh chìm nổi. Va điều đó bắt nguồn từ chính bản chất xã hội.

            Một con người đi tìm tự do nhưng không thấy được tự do mà trở thành nô lệ. Ðó là vấn đề. Vì tự do mà anh đã khước từ tình yêu của cô gái xinh đẹp, anh không tìm được lối thoát cho mình. Nhân vật trở nên lúng túng và trở thành hình tượng thể hiện khát vọng tự do của thời đại.

            Ơí cô gái người Secket, lý tưởng tự do cũng được thể hiện sâu sắc. Ðây là một người con gái yêu rất mãnh liệt, không hề toan tính, biết hi sinh vì người khác, thà chết còn hơn để người mình yêu bị gông xiềng. Chàng bỏ ra đi và nàng tự tử. Cái chết của nàng có ý nghĩa chết vì tự do.

            Bản trường ca này được xem là bản trường ca lãng mạn. Bởi vì:

            + Tính cách của người tù rất mâu thuẫn ở chổ tâm hồn anh ta già cỗi, lãnh

            đạm với cuộc sống nhưng lại say mê khao khát tự do mãnh liệt.

            + Tình huống rất căng thẳng thể hiện ở chổ cô gái tự kết liễu đời mình.

            + Nhân vật trong trường ca này không có tên, không có quá khứ, tương lai

            không rõ ràng.

            + Cảnh trí rất ấn tượng, hùng vĩ. Lời văn, ngôn ngữ rất bay bướm.

            Bản trường ca cũng rất giàu yếu tố hiện thực: nhà thơ phản ánh và miêu tả rất sinh động, cụ thể thiên nhiên vùng Capcaz, đặc biệt là phong tục tập quán của dân tộc địa phương.

            Bêlinxki nhận xét Người tù đó là nhân vật của thời đại bấy giờ mang sẳn những đặc điểm thuộc các nhân vật của thời đại chúng ta .

            Nhân vật người tù này là con người thể hiện tính ích kỷ, lạnh lùng. Anh ta chỉ chú ý đến việc trốn chạy vì cá nhân mình mà không chú ý đến người bạn gái đã vì anh gieo mình xuống nước. Vì vậy, người ta phê phán người tù chỉ biết chú ý đến bản thân và tự do cá nhân.

            Khác với bản trường ca Ruxlan và Liutmila , ở trường ca này Puskin đã viết về con người thời đại.

            3.Trường ca Ðoàn người Sưgan:
            TOP


            Bản trường ca này Puskin viết khi bị lưu đày ở phương Nam. Ðây là bản trường ca lãng mạn cuối cùng của ông. Nó tiếp tục chủ đề của trường ca Người tù Capcaz - con người thời đại. Bản trường ca có hai nhân vật chính: Alêcô và Demphira.

            Bản trường ca nói về chàng thanh niên tên Alêcô rời bỏ chốn thị thành đi theo đoàn người Sưgan trên thảo nguyên vùng Mônđavi. Trong đoàn người có cô gái tên Demphira. Ðây là một cô gái xinh đẹp. Nàng yêu Alêcô và muốn Alêcô cùng sống, săn bắn, sinh hoạt như mọi người.

            Ông già Sưgan, cha của Demphira, vui lòng cho hai người sống chung với nhau. Họ sống với nhau khá lâu. Dần dần Demphira không yêu Alêcô nữa mà yêu người khác. Một hôm Alêcô sinh nghi, theo dõi và chứng kiến được sự gặp gỡ giữa Demphira với người yêu mới. Alêcô đã giết anh chàng người Xưgan đó đồng thời giết cả Demphira.

            Ðoàn người Xưgan tiếp tục lên đường còn Alêcô tiếp tục ở lại giữa thảo nguyên mênh mông.

            Alêcô là nhân vật chính của bản trường ca và mang những nét tương tự như người tù Capcaz: Rời bỏ cuộc sống đô thành, rời bỏ xã hội thượng lưu, bất bình với thực tại xã hội, đi tìm tự do. Nhưng anh khác với người tù là anh đã tìm thấy được tự do trong xã hội của đoàn người Xư gan.. Ðây chính là những mặt được thanh niên đương thời yêu thích.

            Alêcô, đây là con người đầy mâu thuẫn, anh ta đi tìm tự do, nhưng khi Demphira không yêu anh nữa thì anh đã giết chết người yêu của mình. Anh biết tìm tự do cho mình nhưng chính anh lại không cho người khác được tự do. Ðây là những nét hạn chế của Alêcô. Ðặc tính cá nhân chủ nghĩa cực đoan này cũng là nét chủ đạo của con người thời đại tiêu biểu cho thanh niên quý tộc Nga đương thời. Nét tích cực và tiêu cực chính là giá trị nhận thức mang tính khái quát cao của bản trường ca.

            Nhà thơ xây dựng được hình tượng nhân dân, đó chính là đoàn người Sưgan. Nhà văn miêu tả được những sự thật trong đời sống đương đại thông qua hình ảnh đoàn người Xưgan. Ðây là những con người nghèo khổ, rách rưới, sống cuộc sống rày đây mai đó. Ðây cũng là một trong những giá trị hiện thực của tác phẩm.

            Trong bản trường ca ta thấy nổi bật hình ảnh ông già Sưgan: con người giản dị, rộng rãi, tốt bụng, bình tỉnh, chịu đựng. Con gái ông bỏ Alêcô và ông khuyên anh ta kiên nhẫn chịu đựng đau khổ. Tuy ông già tuổi tác nhưng ông quan niệm về tự do rộng rãi hơn Alêcô. Ông nói với anh ta rằng thời trẻ ông cũng bị một người con gái phụ tình, nhưng ông không hề trả thù. Ðối với phụ nữ ông quan niệm: Trái tim của người con gái cũng tự do như mặt trăng trên bầu trời. Nó muốn chiếm chỗ nào cũng được, muốn yêu ai cũng được. Con gái ông chết nhưng ông không nghĩ đến việc trả thù mà ông chỉ chịu đựng khổ đau.

            Thông qua nhân vật ông già Sưgan nhà thơ có phần lý tưởng nhân vật. Ðây chính là dụng ý của nhà thơ. Hình tượng ông già Sưgan được xây dựng nhằm giải thích, phê phán hành động các nhân vật khác, đặc biệt là Alêcô. Puskin đã đặt hình tượng ông già Sưgan cao hơn các nhân vật khác trong bản trường ca.

            Tóm lại, trong tác phẩm của mình Puskin đã tỏ ra thông cảm sâu sắc đối với những đau khổ, bất bình, khát vọng tự do của thanh niên thời đại nhưng đồng thời Puskin cũng phê phán sai lầm và cách đi tìm tự do rất cực đoan của họ. Qua việc phê phán nhân vật của mình, Puskin đã vượt các nhà thơ lãng mạn đương thời. Nhà thơ còn đi xa hơn, tiến xa hơn khi ông đã tạo được màu sắc địa phương cho trường ca lãng mạn: Tái hiện sinh động thiên nhiên Nga, phong tục tập quán của người dân địa phương. Ðó là những bước dầu tiên để Puskin tiếp cận phương pháp sáng tác hiện thực.



            IV.TIỂU THUYẾT EPGHÊNHI ÔNÊGHIN

            Ðây là tiểu thuyết bằng thơ viết trong hơn tám năm ( 1823 - 1831 ).

            Tác phẩm nêu lên vấn đề con người thời đại. Vấn đề này ông đã đề cập đến hai bản trường ca Người tù Capcaz và Ðoàn người Sưgan . Ơí đây vấn đề này được phát triển thêm. Trong hai bản trương ca trước, Puskin viết theo bút pháp lãng mạn do đó tính cách nhân vật bị hạn chế. Trong quyển tiểu thuyết bằng thơ này Puskin viết theo phương pháp hiện thực.

            Epghênhi Ônêghin là tác phẩm trung tâm trong toàn bộ sáng tác của Puskin. Ðây là một tác phẩm lớn của văn học Nga và văn học thế giới, đặc biệt trong văn học thời kỳ này.

            Epghênhi Ônêghin của Puskin là tác phẩm mở đường cho chủ nghĩa hiện thực văn học Nga, đánh dấu văn học Nga chuyển sang một thời kỳ mới.

            Epghênhi Ônêghin chia thành tám chương, mỗi chương có 40 đến 60 khổ thơ, mỗi khổ gồm 14 dòng thơ. Tất cả là 5275 dòng ( Truyện Kiều có 3254 dòng ).

            Tác phẩm có bốn nhân vâtû chính: Epghênhi Ônêghin, Tachiana, Lenxki, Ônga.

            Epghênhi Ônêghin là một chàng thanh niên quý tộc thủ đô, thông minh, ăn diện đúng kiểu cách, được lòng gái đẹp. Chàng được xem là kiểu mẫu của xã hội thượng lưu. Epghênhi Ônêghin đắm mình trong sinh hoạt xã hội thượng lưu: tham gia phòng trà, nhà hát, yến tiệc, khiêu vũ... Nhưng không lâu anh bắt đầu chán. Anh đóng cửa ngồi nhà để viết văn đọc sách. Nhưng những công việc đó không thể nào xua tan được những nỗi buồn chán trong lòng.

            Trong lúc đó anh nghe tin từ nông thôn người chú vừa qua đời. Gia đình anh ở nông thôn gọi anh về quê để thừa kế và chăm nom trang ấp. Anh rất hồ hởi ra đi vì nghĩ rằng sẽ vơi bớt nỗi buồn chán ở thành thị.

            Ðược vài ngày anh lại buồn chán như lúc trước. Vì vậy, anh tìm mọi việc để làm: thăm họ hàng, chăm sóc trẻ con... nhưng nỗi buồn chán vẫn đeo đuổi.

            Ngay trong làng anh có chàng trai trẻ tên là Lenxki vừa đi học ở Ðức về. Lenxki kém tuổi hơn Epghênhi Ônêghin và chưa từng trải. Lenxki biết làm thơ, có nhiều mộng tưởng. Cũng tại làng này có người con gái tên là Ônga và là người yêu của Lenxki. Ðó là một cô gái đẹp, hồn nhiên. Lenxki đến với Ônga là do hai người thân nhau từ nhỏ.

            Epghênhi Ônêghin kết bạn với Lenxki. Ônga có người chị là Tachiana. Lenxki dẫn Epghênhi Ônêghin đến thăm gia đình Ônga và làm quen với Tachiana. Tachiana không xinh đẹp bằng Ônga nhưng có tâm hồn rất đẹp và trong sáng. Trong khi cô em hay ca hát vui nhộn thì cô chị hay mơ màng, tư lự, ít nói, lặng lẽ, suy tư.

            Chỉ mới qua buổi đầu gặp gỡ Tachiana đã yêu Epghênhi Ônêghin. Tachiana cảm thấy người mơ ước của mình đã đến nên yêu mãnh liệt. Cô đã đánh bạo viết thư tình cho chàng nói lên lòng thương yêu, sầu nhớ, tương tư.

            Nhận được thư Tachiana, Epghênhi Ônêghin xúc động trước tấm lòng chân tình tha thiết của nàng nhưng Epghênhi Ônêghin lại khước từ tình yêu. Anh ta sợ cuộc sống gia đình sẽ làm anh ta mất tự do. Ðây là một hành động làm rõ tính cách con người thời đại.

            Trong lễ thánh của Tachiana, Lenxki và Epghênhi Ônêghin cùng đến dự. Trong ngày vui này Epghênhi Ônêghin khiêu vũ với Ônga. Ðiều này làm Lenxki nghi ngờ. Kết quả là Lenxki thách Epghênhi Ônêghin đấu súng. Thực chất trong thâm tâm Epghênhi Ônêghin không muốn nhận lời đấu súng nhưng cuối cùng thì anh ta đã nhận lời. Trong cuộc đấu súng Lenxki bị chết. Epghênhi Ônêghin rất đau buồn, vì thế anh bỏ làng quê ra đi.

            Sau đó ít lâu Ônga lấy một chàng sĩ quan Nga hoàng và theo chồng đi nơi khác. Tachiana ở nhà với mẹ. Lúc này có nhiều người đến dạm hỏi nhưng Tachiana từ chối. Trong thời gian này Tachiana âm thầm lặng lẽ với bản thân, với những kỷ niệm và thường đến thăm căn phòng Epghênhi Ônêghin từng ở.

            Ðến mùa đông cả hai mẹ con Tachiana rời bỏ làng quê để đến Maxcơva và sống ở tại nhà một bà cô. Tại đây nàng hòa nhập với sinh hoạt của giới thượng lưu. Lúc bấy giờ có một viên tướng Nga về hưu để mắt đến Tachiana và ông đã cầu hôn với nàng. Theo lời khuyên của mẹ và vì thương mẹ, Tachiana đã nhận lời.

            Sau một thời gian Epghênhi Ônêghin trở về và gặp lại Tachiana. Lúc này nàng không còn là con người thuở xưa mà trở thành một phu nhân kiều diễm. Trong lòng Epghênhi Ônêghin tình yêu sống dậy một cách mãnh liệt. Chàng viết thư tỏ tình với nàng, nhưng khi thư đến thì không có hồi âm. Vì thế chàng đau buồn đến bệnh. Cuối cùng Epghênhi Ônêghin đánh bạo đến nhà nàng. Chàng gặp Tachiana và nói thật lòng mình. Tachiana rất cảm động và cô cũng thú nhận với Epghênhi Ônêghin là nàng vẫn còn yêu anh tha thiết, nhưng nàng không thể phản bội chồng. Trong lúc đó chồng của Tachiana bước vào.

            * Epghênhi Ônêghin

            Epghênhi Ônêghin là một thanh niên quý tộc và là nhân vật chính của tiểu thuyết. Ðây là một nhân vật khá phức tạp, mâu thuẫn sâu sắc trong tâm hồn và tư tưởng. Anh ta là con đẻ của giai cấp quý tộc thượng lưu, vì vậy anh ta đắm mình trong cuộc sống thượng lưu là điều tất nhiên. Anh rất giàu sang, không phải làm việc gì cả và anh ta không muốn lao động. Giai cấp qúy tộc đã tạo ra một con người như thế và lẽ tất nhiên anh sẽ là người tiếp nối, phục vụ và tán dương giai cấp thống trị. Ðó là sự mong muốn của giai cấp quý tộc, những người đi trước anh. Nhưng anh không phải là người tầm thường như những người cùng giới. Trong tâm tư anh vẫn le lói ánh sáng của trí tuệ. Sống trong xã hội thượng lưu nhưng anh không ham danh vọng, không tán thành, không ngợi ca, không cúc cung tận tụy nó.

            Epghênhi Ônêghin còn nhận ra được những xấu xa, đểu cáng, những điều đáng chê trách trong xã hội anh đang sống, đó là nguyên nhân làm anh chán xã hội này, thậm chí coi thường, khinh khi nó và khinh khi chính bản thân mình. Vậy mà khi nhận ra sự xấu xa của nó anh vẫn sống với nó không dứt ra được. Anh vẫn tiêu phí tuổi trẻ, tâm hồn của mình trong xã hội đó. Chính những điều đó càng làm cho anh buồn chán hơn, chán đến nỗi cùng cực.

            Trong bản thân anh có nhiều cái đáng quý: tuổi trẻ, sức lực, học vấn... nhưng anh chẳng biết dùng vào việc gì. Anh sống không có mục đích, không có lý tưởng. Những điều đó là do hoàn cảnh, do lối giáo dục của xã hội, anh không gì lóe lên ở ngày mai vì thế anh không biết quan tâm đến ai, anh chỉ biết có mình. Anh sinh ra để sống an thân, ích kỷ, và chỉ có buồn chán.

            Do buồn chán, ích kỷ, an thân, có lúc anh đã gây tác hại đối với người khác. Và không chỉ đối với người khác anh còn hại ngay cả bản thân mình. Anh từ chối một mối tình đáng lẽ ra anh phải được sống hạnh phúc. Anh muốn sống tự do cho riêng mình, và điều đó làm cho Tachiana đau khổ, thất vọng, buồn đau. Trong tình bạn, anh đấu súng với Lenxki, đó là điều vớ vẩn, tuyệt đối không nên làm nhưng anh vẫn để điều đó xảy ra vì anh sợ dư luận xã hội - cái mà anh coi thường. Ðó là điều mâu thuẫn trong con người anh. Anh là một người chán xã hội, khinh bỉ nó nhưng anh lại sợ chính nó. Vừa coi thường, khinh khi nhưng lại sợ. Ðó là nét tính cách của anh.

            Qua việc từ chối tình yêu của Tachiana chúng ta thấy Epghênhi Ônêghin là người không có lối thoát, sống quẫn quanh, tiêu phí cuộc đời vào những điều vô nghĩa, hiểm nguy không đáng.

            Bên cạnh đó anh cũng có những ưu điểm: thông minh, phủ nhận xã hội, không ham danh vọng. Anh là người biết quan sát, biết bồi dưỡng kiến thức, là một con người sống cao thượng, chân thành trong tình yêu. Trong con người anh vẫn tiềm tàng một vài nét đẹp mặc dù anh không vượt ra khỏi những thành kiến của xã hội.

            Epghênhi Ônêghin sống không có mục đích, sống buồn bã, cô đơn, không biết mọi việc xung quanh, không làm được việc gì cho đời... anh trở thành con người thừa của xã hội.

            Con người thừa này trở thành hình tượng điển hình, đại diện cho một bộ phận của tầng lớp thanh niên quý tộc đương thời. Ðiều này thể hiện ở tâm trạng, lối sống của nhân vật.

            Anh là một con người không ủng hộ xã hội đương thời. Ða số thanh niên quý tộc ủng hộ xã hội nhưng anh chán ghét vì anh hiểu hơn họ. Nhưng đồng thời anh không chống lại nó do nền giáo dục, do những hạn chế của bản thân anh. Nếu như anh chống lại xã hội, lẽ đương nhiên anh đã đi theo những người tháng Chạp. Vì thế Epghênhi Ônêghin là nhân vật chưa mang ý tưởng thời đại ( Chống lại chế độ nông nô chuyên chế Nga hoàng ), do đó anh không thể được xem là nhân vật tích cực. Nhưng anh cũng là người không ủng hộ nền chuyên chế đó nên chúng ta cũng không thể coi anh là nhân vật tiêu cực.

            Nếu Epghênhi Ônêghin xuất hiện vào thời kỳ đầu của cách mạng thì anh là người có những nét tích cực. Nhưng về sau thì anh trở thành con người tiêu cực.

            Hình tượng Epghênhi Ônêghin được nhà thơ miêu tả trong sự phát triển, đặc biệt là ở giai đoạn cuối của tiểu thuyết. Khi anh giết Lenxki anh đã bước vào bước ngoặc của cuộc đời. anh đã rời bỏ, anh khgông đủ sức bình tỉnh ở lại nơi đã khiến anh gây tội ác, xa rời xã hội thượng lưu để đi đến một nơi nào đó. Và nhờ đi đây đi đó, anh đã hiểu được nổi khổ của người dân. Ðây cũng là một bước tiến. Cuối cùng anh chán nản và trở về, gặp Tachiana và tình cảm trước kia được đánh thức.

            Tóm lại, Epghênhi Ônêghin là một con người thừa, một sản phẩm của xã hội Nga đầu thế kỷ XIX, xã hội đó đã tạo ra một người như anh ta. Thông qua hình tượng này, nhà văn đã thể hiện hiện thực một cách sâu sắc, đầy đủ về lối sống, tâm trạng, lý tưởng của lớp thanh niên quý tộc đương thời.

            * Tachiana

            Ðây là người phụ nữ Nga làm cho người đọc yêu mến. Puskin đã để tất cả tình cảm, tâm hồn và sự quý trọng để xây dựng nhân vật lý tưởng này.

            Nếu như Epghênhi Ônêghin là nhân vật phức tạp đầy mâu thuẫn thì đây là một hình tượng có tính cách đa dạng. Ðiều chung nhất, đây là một tâm hồn Nga đẹp đẽ. Tachiana là một thiếu nữ quý tộc ở làng quê, nàng sống rất bình dị như những cô gái nông thôn khác. Sự bình dị thể hiện ở ngay tên gọi Tachiana.

            Tachiana là một cô gái sống có nghị lực, trách nhiệm, nàng có một nét đẹp dịu hiền, kín đáo, đăöm thắm, cái đẹp chủ yếu là ở vẻ đẹp tâm hồn. Nội tâm cô hơi buồn, hay sống cô đơn, trầm mặc, hay suy nghĩ, xúc cảm một mình.

            Tachiana rất thích đọc sách tiếng Pháp, viết thư bằng tiếng Pháp nhưng đồng thời lại là cô gái hay bói toán, nằm mộng như những cô gái đồng quê Nga.

            Tachiana là cô gái rất gắn bó với làng quê cả về tâm hồn lẫn tư tưởng. Cô rất yêu ruộng vườn, thiên nhiên bốn mùa...

            Tachiana rất trầm lặng nhưng khi đã yêu thì yêu vô cùng nồng cháy, chân thành, tha thiết, mãnh liệt, chỉ biết tuân theo nhịp đập của trái tim. Nàng đã chủ động viết thư tỏ tình với Epghênhi Ônêghin.

            Tachiana bị từ chối tình yêu, nàng đau khổ vô cùng nhưng vẫn giữ mãi tình yêu của mình. Ðến khi có chồng Tachiana vẫn còn vẫn nguyên vẹn tình cảm đó. Tất cả những điều này nói lên sự thủy chung và tình yêu sâu nặng trong tâm hồn Tachiana.

            Tóm lại, bản chất của Tachiana là sự cao quý về tâm hồn và tinh thần trách nhiệm, không hề tráo trở trong tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Chính điều này thể hiện bản chất của người phụ nữ Nga, tâm hồn Nga chân chính và sâu sắc.

            * Lenxki

            Lenxki là một người nồng nhiệt, có tài, nhưng chết rất trẻ. Anh ta là một con người lãng mạng mang biết bao hoài bảo ở đời. nhưng cái chết của anh là một điều tất nhiên. Ðó chính là tính hiện thực của tác phẩm.

            Bên cạnh việc miêu tả những nhân vật như Epghênhi Ônêghin, Tachiana, Lenxki, Ônga Puskin

            còn xây dựng những nhân vật như bà nhũ mẫu, những cô gái nông thôn tất cả những điều này làm tăng thêm tính hiện thực của tác phẩm.

            Trong tác phẩm Puskin còn tái hiện thiên nhiên Nga với mọi nét điển hình và chân thật của nó. Nhà thơ miêu tả từ kinh thành Pêtecbua cho đến những miền quê với cảnh sắc bốn mùa đặc trưng ở Nga.

            Nông thôn Nga chiếm một vị trí đặc biệt trong tiểu thuyết. Ông miêu tả các mùa: xuân, hạ, thu, đông với núi non, sông rộng, tuyết phủ, bầu trời xanh... Nhà thơ đã nắm bắt những cái đẹp trong chính cái bình thường, dung dị.

            Ngoài ra trong tác phẩm nhà thơ còn thể hiện nhiều bức tranh về phong tục tập quán Nga với tầm bao quát sâu rộng.

            Tóm lại, trước khi tiểu thuyêt bằng thơ này ra đời, ở Nga chưa có một tác phẩm văn học nào thể hiện được toàn bộ một giai đoạn lịch sử một cách trọn vẹn, rộng rão, chân thực như Epghênhi Ônêghin. Do đó , Bêlinxki gọi tiểu thuyết này là bách khoa toàn thư về cuộc sống Nga đặc biệt đầu thế kỷ XIX.

            Nổi bật trong tác phẩm này là tính hiện thực, tính nhân dân và chất trữ tình. Epghênhi Ônêghin và hai tác phẩm Người tù Capcaz, Ðoàn người Sưgan" đều nói về con người thời đại, nhưng đây là tác phẩm tiêu biểu, thành công và xuất sắc nhất của Puskin.

            V .VĂN XUÔI

            Trong mười năm cuối cùng 1827- 1837 , Puskin chú trọng viết văn xuôi . Ông là người đặt nền mống cho văn xuôi hiện thực Nga. Những tác phẩm tiêu biểu của ông là: Con đầm bích, Tập truyện của ông Benkin, Người con gái viên đại úy, Người da đen của Piôt Ðại đế, Phát súng, bão tuyết, Ông chủ hiệu đám ma, Người trưởng trạm, Cô tiểu thư nông dân..

            Puskin tỏ ra không hài lòng với văn xuôi hiện tại bởi vì khi đọc lên ông thấy nó hời hợt, kiểu cách, xa rời cuộc sống, giả tạo, xa lạ với những vấn đề của đất nước, của nhân dân.

            Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn xuôi hiện tại của Nga thường đưa tiếng nước ngoài vào, nhất là tiếng Pháp làm cho nó nặng nề, thấp kém, không đủ sức diễn đạt và nói lên những điều tinh tế....Nó không hấp dẫn đối với người đọc đương thời.

            Puskin thấy mình có nhiệm vụ cải cách văn xuôi, đặt nền mống cho nền văn xuôi hiện đại.

            Ơí phương Tây, chủ nghĩa hiện thực ra đời đã dẫn đến sự phát triển vững vàng của văn xuôi. Ơí Nga chủ nghĩa hiện thực ra đời đặt ra vấn đề xây dựng nền văn xuôi đặc biệt là phát triển ngôn ngữ văn xuôi. Văn xuôi ở Nga đuổi kịp các nước phương Tây chính là nhờ vai trò to lớn của Puskin. Tônxtôi nhận xét: Puskin là người thầy của tôi và tôi cần phải học tập".

            1. Tiểu thuyết Người con gái viên đại úy ( 1836 ):
            TOP


            Ðây là tác phẩm viết về cuộc khởi nghĩa của Pugatsiôp, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa nông dân làm rung chuyển nước Nga năm 1773 đến 1775.

            Các nhân vật chính: Grinhôp, Xavêlich, đại úy Mirônôp, Masa, sĩ quan Svabrin, Pugatsiôp.

            Tiểu thuyết có 14 chương. Grinhôp vừa là nhân vật trong truyện cũng là người kể chuyện.

            Grinhôp là thanh niên quý tộc vùng Xiêmbiêc. Anh lên đường nhập ngũ năm 16 tuổi. Trên đường đi, anh bị lạc trong một cơn bão tuyết và được một người dẫn đường đưa đến một quán trọ. Chàng biếu cho người dẫn đường một chiếc áo khoác để tạ ơn. Sau đó, Grinhôp tiếp tục đi đến những đồn canh của quân triều đình. Chàng được phân về đồn Bêlôgô dưới sự chỉ huy của đại úy Mirônôp, người sống cùng với tên sĩ quan Svabrin.

            Một hôm Grinhôp và SvaBrin có chuyện bất hòa dẫn đến sự đấu kiếm. Grinhôp bị thương và được Masa chăm sóc. Sau đó hai người yêu nhau. Nhưng chàng không được cha mẹ cho phép kết hôn với Masa vì cho rằng gia đình Masa nghèo.

            Chàng rất buồn, thất vọng. Trong tình hình như vậy thì quân khởi nghĩa Pugatsiôp đánh chiếm đồm Bêlôgô. Vợ chồng Mirônôp bị sát hại. Svabrin đầu hàng quân khởi nghĩa và được Pugatsiôp cho làm đồn trưởng. Grinhôp suýt bị treo cổ nhưng được tha vì người dẫn đường chính là Pugatsiôp. Pugatsiôp cho anh ta ngựa, áo ấm, tiền và ra đi. Grinhôp từ biệt Masa. Bấy giờ Masa đang ẩn náo trong nhà người quen còn Grinhôp thì về Ôrenbua để cầu viện.

            Khi đến thành Ôrenbua thì quân triều đình đã án binh bất động không chịu xuất binh. Ngay sau đó thì Ôrenbua cũng bị quân khởi nghĩa vây hãm.

            Trong thời gian này, Grinhôp được tin Svabrin đang giam giữ Masa và cưỡng ép nàng làm vợ. Chàng và người lão bộc quyết định đi cứu Masa. Hai người bị lạc vào thôn có quân khởi nghĩa và bị bắt. Grinhôp được giải đến người chỉ huy và gặp Pugatsiôp.

            Hôm sau Pugatsiôp đưa Grinhôp về đồn Bêlôgô đêí hỏi tội Svabrin và cứu Masa. Masa được cứu và cùng Grinhôp trở về Xiêmbiêc. Gia đình Grinhôp chấp nhận cuộc hôn nhân của hai người.

            Sau đó Grinhôp cùng quân đội dẹp tan quân khởi nghĩa. Nhưng sau đó chàng bị quân triều đình bắt giải ra tòa bởi vì Svabrin muốn chiếm đoạt Masa nên tố cáo Grinhôp có quan hệ với Pugatsiôp. Masa biết được tin đó nên đi lên tận kinh thành để minh oan cho chàng. Nữ hoàng đã ra lệnh tha cho Grinhôp và sau đó Grinhôp kết hôn cùng Masa.

            Ðây là quyển tiểu thuyết lôi cuốn người đọc đương thời vì nó nói về cuộc tình duyên, về số phận của đôi bạn trẻ đã trải qua những gian khổ, trắc trở cả những may mắn lạ lùng. Nó diễn ra trong khung cảnh, không khí, những biến chuyển của cuộc khởi nghĩa. Ðây là một cuộc tình không giống như những câu chuyện tình khác, nó diễn ra trong mối quan hệ phức tạp, trong tình huống quân triều đình và nghĩa quân đánh nhau, sự chứng kiến giữa hai phe đối lập, có những lúc giao tranh, những lúc yên ả.

            Khi đọc tiểu thuyết, Puskin làm cho người đọc dần dần xâm nhập vào không khí cuộc khởi nghĩa. Người đọc được tiếp xúc với Pugatsiôp, thấy được bức tranh nông dân khởi nghĩa hùng vĩ, tập hợp nhiều nông dân, nhiều tầng lớp khác nhau. Tài năng của Puskin là đã lồng thiên tình sử của người con gái viên đại úy vào thiên anh hùng ca về người anh hùng Pugatsiôp. Sự kết hợp này rất khéo léo, rất hợp lý, tạo nên một thiên tiểu thuyết thật sự.

            *Nhân vật Grinhôp

            Ðây là người kể chuyện đồng thời là nhân vật có mặt từ đầu đến cuối thiên truyện. Anh được nhà văn miêu tả trong một quá trình hình thành, biến đổi. Grinhôp đã trải bao biến cố hãi hùng, dữ dội, kinh hoàng, bão táp hãi hùng và có cả những giờ phút vui sướng.

            Trong thời gian nhập ngũ Grinhôp hiểu được thực tại, nhận thức được nhiều điều bổ ích về cuộc sống. Anh nhận thấy Pugatsiôp và những người theo ông không phải là những tên kẻ cướp. Anh cảm thấy ở những con người này có những cái gì đó khác lạ với những gì anh nghe được. Anh nhận ra được đây là con người có trách nhiệm có đức độ, tài năng. Anh chưa hiểu rõ về con người này nhưng lại cảm phục, quyến luyến và tin cậy.

            Grinhôp là người của quân triều đình, lẽ dĩ nhiên anh có những quan điểm không đúng, sai lạc. Anh vẫn giữ quan điểm chống lại quân khởi nghĩa, chống Pugatsiôp đến cùng. Tuy nhiên, theo sự miêu tả của Puskin Grinhôp là người chân thành, dũng cảm, là người trọng danh dự, có tình cảm sâu sắc và yêu chân thật.

            Puskin muốn cho mọi người biết, qua nhân vật Grinhôp mà cuộc khởi nghĩa của Pugatsiôp được nhìn nhận một cách khách quan và đúng sự thật. Ðó là một cuộc khởi nghĩa mang ý nghĩa tiến bộ.

            Trong tác phẩm này, Puskin tái hiện Pugatsiôp một cách chân thật, đúng lịch sử, không tô vẽ, không lý tưởng hóa nhân vật. Người đọc nghe thấy giai cấp phong kiến đã nói về Pugatsiôp : Con chó điên, quỷ dữ.. . Nhưng dưới ngòi bút của Puskin Pugatsiôp hiện lên là con người có tấm lòng yêu thương, dũng cảm, anh hùng, biết căm giận bất công.. .

            Pugatsiôp thật sự là con người trung thực, một người tỏ ra chịu ơn ai thì không bao giờ quên. Ðiều này được thể hiện qua việc khi Grinhôp tặng chiếc áo khoác và mời Pugatsiôp một ly rượu thì ông đã tha và giúp đỡ Grinhôp nhiều lần. Ông được coi là vua của nông dân nhưng lại đóng vai người dẫn đường và giúp đỡ tận tình một người không quen biết. Ðiều này đã nói lên phẩm chất và tính cách của vị anh hùng nông dân.

            Hành động đứng ra bảo vệ những người yếu đuối và bị lăng nhục, cứu Masa và trừng trị Svabrin đã chứng tỏ Pugatsiôp không đúng như một người mà giai cấp phong kiến đã nhận định.

            Pugatsiôp còn là con người của quần chúng lao động, sống rất giản dị chan hòa. Ông sống hòa mình cùng nghĩa quân, cùng ca hát, cùng vui đùa với họ. Ông không xót thương do dự đối với kẻ thù nhưng lại sẳn sàng đùm bọc đối với những người vợ góa, con côi.. .

            Pugatsiôp cũng có những mặt yếu: Ðây là con người ít học thức, một con người có lúc thiếu cảnh giác, hay khoe khoang, quan trọng hóa vấn đề, giả nghiêm trang một cách buồn cười. Nhìn chung đây là những nét phụ trong toàn bộ tính cách của vị lãnh tụ khởi nghĩa nông dân. Những nét đẹp của ông là chủ yếu, và điều đó làm cho nông dân cảm phục mà đi theo. Họ luôn tin tưởng và xem ông như là người bảo vệ chân chính cho mình.

            Tóm lại, thông qua câu chuyện về cuộc khởi nghĩa của Pugatsiôp, Puskin muốn nói đến hiện tại. Puskin muốn nêu ra những quy luật có tính lịch sử. Nghĩa là có áp bức thì có đấu tranh. Với chế độ chuyên chế Nga hoàng đương thời tất yếu sẽ có những cuộc khởi nghĩa bùng lên lật đổ tất cả. Ðây chính là chủ đề của tác phẩm.

            · Nghệ thuật

            Nghệ thuật miêu tả tính cách con người rất chính xác, ngắn gọn. Cốt truyện rất chặt chẽ, sự kiện phát triển lôgic. Puskin chỉ dùng vài nét chấm phá đã miêu tả được tâm lý nhân vật. Tác phẩm có chất hài hước, trong sáng, nhẹ nhàng.

            Kết luận: Tiểu thuyết này có thể xem như là một công trình tổng kết những suy nghĩ của Puskin trong nhiều năm về những vấn đề lớn có tầm quan trong lịch sử. Ðây cũng là kết quả của 10 năm viết văn xuôi và là đỉnh cao văn xuôi của Puskin.

            VI. Ý NGHĨA VỀ SÁNG TÁC CỦA PUSKIN

            Qua các tác phẩm của mình, Puskin đã nêu lên những vấn đề cơ bản của thời đại.

            + Vai trò lịch sử của tầng lớp quý tộc tiến bộ

            + Chuyên chế và nhân dân. Vai trò của nhân dân trong lịch sử.

            + Vấn đềì nông dân và giải phóng nông dân.

            Trong khi nêu những vấn đề bức xúc của đời sống Nga, Puskin còn thể hiện những mặt khác nhau về đề sống dân tộc. Toàn bộ sáng tác của Puskin được xem như là quyển bách khoa toàn thư đầu thế kỷ XIX.

            Puskin đã xây dựng được những hình ảnh tiêu biểu: Ônêghin là hình ảnh con người thời đại- con người thừa; Ghetman trong Con đầm bích là đại biểu cho con người tư sản mới trong xã hội Nga; Tachiana, Masa, Pugatsiôp. .. là những nét đẹp của tính cách Nga.

            Về nghệ thuật:

            + Puskin đã khởi đầu một phương pháp sáng tác mới. Ðó là phương pháp hiện thực. Ông đã thể hiện cuộc sống một cách chân thực, phá bỏ những hình thức gò bó của chủ nghĩa cổ điển, của chủ nghĩa tình cảm, của chủ nghĩa lãng mạn.

            + Ông có công xây dựng và phát triển ngôn ngữ văn học Nga.

            #6
              tieuboingoan 15.04.2006 17:37:16 (permalink)
              PHẦN I

              PUSKIN - NGƯỜI XÂY MÓNG Và DỰNG NHỮNG CỘT MỐC
              CHO ĐẠI LỘ VĂN HỌC NGA

              PHẠM THị PHƯƠNG


              Alêcxanđrơ Xecgâyevich Puskin (1799 - 1837) là một hiện tượng kỳ diệu vô song của văn học Nga và văn học thế giới. Ông được coi là "khởi đầu của mọi khởi đầu" (Gorki), là "nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga" (Bielinxki), là "con người của tinh thần Nga" (Gôgôn), người đưa văn học Nga lên một tầm cao mới trong lịch sử phát triển của văn học nhân loại.

              A/ NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG CỦA CUỘC ĐỜI 38 NĂM

              1. Dòng dõi và gia thế
              A.X.Puskin sinh ngày 6.VI.1799 tại Matxcva trong một gia đình dòng dõi quý tộc lâu đời và có truyền thống văn chương. Song thân của nhà thơ được lĩnh hội một nền văn hoá hoàn hảo, kỷ cương theo lối giáo dục quý tộc thế kỷ XIX, là những con người tài hoa, am hiểu và yêu thích nghệ thuật. Ngoài dòng máu quý tộc Nga, trong Puskin còn tiềm ẩn đôi chút khí chất của dòng máu Phi châu nóng bỏng, nhiệt thành: Mẹ ông - Nagiezđa Ôxinốpna, là cháu nội của viên tướng kỹ thuật lừng danh có nguồn gốc châu Phi Abram Pêtrôvích Ganiban, một sủng thần của Pi-e Đại Đế. Puskin tầm thước, mái tóc quăn bồng bềnh, có khuôn mặt khả ái với cặp mắt và những đường nét đầy nhậy cảm.
              Mang trong mình "dòng máu xanh"(1) thượng đẳng, giữ một vị thế cao sang trong xã hội, nhưng suốt đời Puskin không chịu chức sắc cung đình, không chịu ra luồn vào cúi của kiếp "chim hoạ mi hót vang, nhởn nhơ trong nô lệ" (2), không viết thơ thính phòng dành riêng cho độc giả thượng lưu như các bậc tiền bối Karamzin, Zucốpxki, Bachiuxcốp… Trải qua hai triều đại Nga hoàng, suốt đời bị truy bức, đày ải bất công, Puskin vẫn trọn vẹn là nhà thơ của nhân dân, là "ca sĩ của tự do", nguyện "Năm châu bốn bể đi liền, Mà đem lời nói đốt tim muôn người" (3). Ông là con người tiên tiến nhất của thời đại, một nhà thơ đem nghệ thuật "nhập thế", bước vào cuộc đấu tranh cho hạnh phúc con người.

              2. Thời thơ ấu và sự hình thành tài năng
              Tài năng của Puskin hình thành rất sớm. Nhà th hấp thụ sâu sắc truyền thống văn chưng của dòng họ, gia đình ngay từ những ngày th bé. Cha ông am hiểu âm nhạc, th ca, sân khấu, chú ông là nhà th có tên tuổi thời ấy. Thư viện gia đình rất lớn, có nhiều sách của các nhà văn, triết gia Khai Sáng Pháp thế kỉ XVIII. Phòng khách của họ là ni gặp gỡ và đàm đạo văn chưng thường kỳ của các văn nghệ sĩ lừng danh đưng thời. Puskin được tiếp nhận một nền giáo dục của con em dòng dõi trâm anh thế phiệt, thông thạo tiếng Pháp, Đức, Anh, La tinh, được dạy dỗ kỹ lưỡng về th-ca-nhạc-họa. Văn chưng bác học sớm ngấm trong tâm hồn cậu bé xinh xắn có mớ tóc đen quăn tít, cặp mắt vừa hồn nhiên vừa ưu tư.
              Song mảnh đất thật sự vun trồng tài năng và nhân cách của nhà thơ tương lai là nền văn học dân gian Nga sống động, đẹp đẽ. Thủa thiếu thời Puskin ít nhận được sự chăm sóc trìu mến của cha mẹ. Mẹ phó mặc việc nuôi dạy con cho các gia sư, cha nghiêm khắc, có phần chuyên quyền, nghiệt ngã, cậu bé sớm độc lập suy tư, sớm gắn bó, quấn quýt với những người thuộc lớp bình dân. Những người đầu tiên dẫn Puskin về với thế giới ngôn ngữ và thơ ca dân tộc sống động, giầu đẹp là bà ngoại Maria Alecxâyepna, nhũ mẫu Arina Rôđiônốpna, lão bộc Nikita Côzlốp. Cậu bé cũng sớm gắn bó, hoà mình vào thiên nhiên hữu tình đầy chất hội họa vùng Trung Nga mà sau này sẽ là chất liệu, nguồn cảm hứng, tình yêu nồng thắm trong những bài thơ trữ tình đắm say. Những câu chuyện cổ tích, những khúc hát dân ca, lời ăn tiếng nói của tầng lớp bình dân lung linh màu sắc, thiên nhiên thơ mộng… là nhịp cầu nối nhà thơ tương lai với nhân dân Nga, với tâm hồn Nga, ngôn ngữ Nga kì diệu. Chính bởi vậy, ngay từ tấm bé, trong hồn thơ của Puskin đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa văn chương bác học sang trọng và văn chương bình dân gin dị, sống động. Điều đó làm cho tài năng của Puskin chín sớm, nở rộ sớm.

              3. Trường Lixê và vị thần đồng trẻ tuổi
              Năm 12 tuổi Puskin nhập học khoá đầu (1811-1817) trường Lixê (trường dành riêng cho con em quý tộc nhằm đào tạo những tài năng phụng sự Nga hoàng). Sáu năm học tại đây đã đem đến cho Puskin nhiều điều kiện phát triển tài năng. Câu thiếu niên hoàng gia được tiếp xúc với những giáo sư tài năng có tư tưởng tiến bộ, giao du với những học sinh có tâm huyết và hoài bão, được hoà mình trong các cao trào yêu nước. Những học sinh khoá I này từng tiễn đưa đoàn chiến binh Nga ra mặt trận năm 1812 (4), chào đón họ về trong khúc khi hoàn ca. Nhiều bạn bè của Puskin sẽ có mặt trong các tổ chức cách mạng những năm 20, trở thành những chiến sĩ của phong trào Tháng Chạp (5). Ở Litxê nảy nở rất nhiều tài năng thơ ca (Kiukhenbếcke, Đenvich, Iacốplép…), nhưng nổi bật hơn cả vẫn là Puskin. Với những hoạt động sáng tác và xã hội sôi nổi, cậu đã trở thành linh hồn của các tổ chức văn học nhà trường. Người ta dễ nhận thấy Puskin ngay thời kỳ này đã đi những bước xa hơn các đồng môn và các bậc tiền bối trong làng thi ca. Puskin đã tự tìm cho mình một con đường riêng độc đáo. Thơ của cậu thể hiện sự kết hợp một cách tài hoa thi ca cổ điển trang trọng với cuộc sống hiện thực sôi nổi, tràn ngập niềm mê say trần gian. Ngay từ năm 1815 nhà thơ lỗi lạc Zucốpxki đã tiên đoán về Puskin: "Người khổng lồ tương lai này sẽ vượt tất cả chúng ta."
              Giã biệt mái trường Litxê, Puskin cũng giã biệt thời niên thiếu "tuổi hoa cười", "những giờ vàng tư lự ", để lại những vần thơ mới mẻ và mãi trẻ trung, trong đó nổi bật nhất là bài Hồi ức ở Hoàng thôn, như một lời tổng kết chặng đường đầu đời của một thi nhân. Bài thơ được đọc trong buổi lễ ra trường. Bài thơ dạt dào cảm xúc về lòng ái quốc, niềm kiêu hãnh về nhân dân Nga. Nó báo hiệu một cánh én cho mùa xuân thi ca Nga. Đéczavin, nhà thơ cổ điển lão thành của thế kỷ XVIII, ngồi trên ghế Ban Giám kho hôm ấy không cầm được nước mắt khi nghe vị thần đồng đọc bài thơ. Ông hiểu mai này có thể yên lòng từ giã cõi đời vì đã có người kế tục xuất sắc trên thi đàn Nga.

              4. Pêtécbua - "nơi tuổi trẻ đã sớm tàn trong những cơn bão dội" (6)
              Tốt nghiệp Litxê năm 1817, chàng trai 18 tuổi Puskin hăm hở bước vào đời với những cuộc kiếm tìm mới. Anh được bổ nhiệm về cơ quan Ngoại giao tại Pêtécbua. Thời kỳ này chính phủ Nga hoàng thi hành một chính sách đối nội và đối ngoại phn động: đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa nông dân, câu kết với các thế lực phản động nước ngoài dìm các cuộc cách mạng vào trong biển máu. Phong trào chống chế độ nông nô chuyên chế phát triển mạnh mẽ, cuốn hút cả tầng lớp quý tộc tiến bộ. Nhiều tổ chức cách mạng ra đời khắp nơi trong cả nước. Puskin bước vào đời khi tuổi trẻ đầy sung sức với những thành công và sự khích lệ đầy chất men say, đúng lúc con thuyền cách mạng đang căng buồm lộng gió, nhà thơ trải rộng lòng đón những luồng gió biển khi dào dạt. Chàng trai xao lãng công việc hành chính của một viên chức, trước mắt luôn chỉ thấy các vần thơ nhảy múa:
              Đối với tôi quan trường hay kị binh,
              Mũ quân nhân, luật hình như nhau c.
              Tôi không phóng lao lên hàng tướng tá,
              Mà hàng quan bát phẩm cũng không luồn.
              (Gửi các đồng chí - Thúy Toàn dịch)

              Các sáng tác thời kỳ này của Puskin đề cập đến những vấn đề xã hội lớn lao, thức tỉnh tinh thần chống chế độ nông nô chuyên chế: Tự do (1817), Gửi các đồng chí (1818), Gửi Trađaisep"(1818), Nô-en (1818), Làng (1819)… Ông đứng về phía nhân dân cần lao, nguyện làm người bạn của nhân quần, cất tiếng căm hờn tố cáo chế độ nông nô chuyên chế, đòi quyền tự do cho con người. Nhà thơ bày tỏ nguyện ước:
              Trong hy vọng giày vò ta trông ngóng
              Những phút giây giải phóng thiêng liêng
              Như chàng trai si tình trẻ tuổi
              Đợi phút giây hò hẹn trung thành.
              (Gửi Tsađaíep - Thúy Toàn dịch )

              Trong tháng ngày tràn ngập những nốt nhạc yêu đời ấy, Puskin hoàn thành bản trường ca đầu tiên của mình - trường ca Ruxlan và Luitmila (1820), là sự kiện "tạo nên một giai đoạn mới trong lịch sử văn học Nga" (Bielinxki), là một thách thức mới đối với chủ nghĩa cổ điển già nua, đánh dấu thắng lợi của chủ nghĩa lãng mạn Nga, làm xôn xao dư luận Nga bởi tính chất dân tộc thuần túy và độc đáo. Tác phẩm là ca khúc ngọt ngào đượm màu sắc dân gian thơ mộng và trong sáng, thể hiện niềm say mê cuộc sống trần gian, lòng tin vào chiến thắng của cái Thiện, lẽ Công bằng. Zucốpxki, vị tao đàn nguyên soái của chủ nghĩa lãng mạn Nga lúc bấy giờ phải thừa nhận Puskin là "người học trò chiến thắng" của mình.
              Cùng với Ruxlan và Luitmila, thời kỳ Pêtécbua chấm dứt, chấm dứt luôn cả thời kỳ lạc quan yêu đời nhất của Puskin. Hoảng sợ trước những vần thơ nổi loạn và những hoạt động xã hội của Puskin đang có tác dụng rõ rệt trong tầng lớp thanh niên quý tộc tiến bộ, Nga hoàng Alếcxanđr I đã ra lệnh đày nhà thơ đi Xibiri. Nhờ sự lo lắng và can thiệp của bạn bè cùng những người thầy có thế lực, bản án được giảm nhẹ hơn: đày về phương Nam. Thế là giữa lúc hạt giống tự do vừa được gieo xuống mảnh đất băng giá ngạt thở thì cũng là lúc người gieo hạt giống tự do trở thành người tù biệt xứ.
              Ngày 6.V.1820 Puskin bị buộc phi rời thủ đô, bắt đầu cuộc sống lưu đày của kẻ tha phương. Cuộc đời từ đây bắt đầu nhuốm màu sắc bi ai. Giã biệt thủ đô, giã biệt những ngày tháng vô tư, Puskin viết bài thơ nổi tiếng Ánh mặt trời ban ngày đã tắt (1820), tổng kết những suy tư về thời kỳ vừa qua trên "bờ bến thê lương", mở lòng chờ đón "dải bờ xa tăm tắp". Tâm hồn nhà thơ đầy khao khát tự do, được đối sánh với biển cả:
              Ánh mặt trời ban ngày đã tắt
              Sương chiều nhẹ đã trùm lên biển biếc.
              Hỡi buồm ngoan, hãy phần phật reo lên,
              Ngươi biển lam, hãy cồn sóng dưới thuyền.

              Bay đi con tầu, hãy đưa ta xa tắp,
              Trên sóng đổi dời của biển khơi huyền hoặc.
              Nhưng chớ đưa ta về bờ bến thê lương,
              Của tổ quốc còn mờ mịt hơi sương.

              Chớ về nơi bừng lửa nơi khát vọng,
              Nơi những nàng thơ dịu thầm cười mỉm cùng ta.
              Nơi tuồi trẻ đã sớm tàn trong cơn bão dội,
              Vui bay vèo, buồn ở lại trái tim ta.
              ( Thúy Toàn dịch)

              5. Phương Nam chói ngời sắc nắng
              Rời Pêtécbua giữa mùa hè phương Bắc nhàn nhạt ánh mặt trời, Puskin đến với phương Nam chói ngời sắc nắng, với biển Ôđétxa bao la, với dãy núi Kapkaz hùng vĩ, với những vườn nho bát ngát xứ Mônđavia. Phong cảnh thiên nhiên và tình người phương Nam nồng ấm, giản dị giúp Puskin sớm nguôi ngoai nỗi nhớ nhà và bạn bè, tiếp thêm nguồn nghị lực , cảm hứng để nhà thơ sống và sáng tạo.
              Hoá ra phương Nam chính là mảnh đất cần cho tâm hồn đang khao khát tìm kiếm cái mới của nhà thơ. Nơi đây phong trào cách mạng trong nước đang lên cao, ươm nên nhiều tổ chức bí mật, nơi đây nước láng giềng Hi lạp đang làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Puskin lại cất cao giọng ca ngợi tự do, ca ngợi lòng yêu nước trong hàng loạt thi phẩm trữ tình: Gửi Ôvíđ, Người tù, Cô nàng Hy lạp thủy chung (1821), Thanh gươm, Người gieo giống tự do trên đồng vắng (1823)… Nhà thơ muốn rũ bỏ ách tù đày để đến với chân trời tự do:
              Bay lên về với đất trời
              Biển xanh núi thẳm cất lời vang ca
              Bay về với chốn bao la
              Nơi gió phóng khoáng chỉ ta với mình.
              (Người tù - Phạm Thị Phương dịch)

              Nhà thơ nhận thấy trọng trách tiên phong và thiêng liêng của mình:
              Là người gieo giống tự do trên đồng vắng
              Tôi ra đi từ sáng tinh mơ
              Bàn tay tôi trong trẻo ngây thơ
              Gieo mầm sống trên luống cày nô dịch.
              (Người gieo giống tự do trên đồng vắng - Thúy Toàn dịch)

              Phương Nam đem đến cho Puskin những xúc cảm mới, những đề tài lạ, những nhân vật khác thường để viết nên hàng loạt trường ca trữ tình: Người tù Cápcaz (1820), Lệ đài Bakhchixarai (1821), Anh em kẻ cướp (1822). Nổi bật lên trong những trường ca này là dáng vóc của những còn người miền núi phóng khoáng, ngang tàng, không chịu bất cứ ràng buộc nào của pháp luật, cho ta thấy rõ thái độ phản kháng chế độ cai trị hiện hành.
              Về phương pháp sáng tác, lúc này Puskin đã giã từ chủ nghĩa cổ điển, chuyển sang chủ nghĩa lãng mạn, bước đầu khám phá ra chủ nghĩa hiện thực. Từ năm 1823 trở đi, do hoàn cảnh khách quan có nhiều biến động (phong trào cách mạng ở Tây Âu thất bại, nhiều tổ chức cách mạng ở miền Nam bị vỡ), thế giới quan lãng mạn của Puskin bị xáo trộn. Một lần nữa thi sĩ nhìn nhận lại thực tế một cách tỉnh táo hơn. Chủ nghĩa hiện thực đang hình thành trong sáng tác của ông, ông bắt tay vào những chương đầu tiểu thuyết thơ Épghênhi Ônhêghin.
              Tóm lại, bốn năm lưu đày ở phương Nam, Puskin đã trưởng thành rất nhiều về nhận thức xã hội, đi những bước dài qủa quyết trong phương pháp sáng tác.
              Một lần nữa Nga hoàng muốn kìm hãm sự phát triển của nhà thơ trẻ, tách ông ra khỏi nhóm bạn bè phương Nam và không khí cách mạng, đã xuống chiếu buộc Puskin rời phương Nam chói ngời sắc nắng đến phương Bắc lạnh lẽo. Rời phương Nam, Puskin viết bài thơ Gửi biển (1824) như một lời giã biệt ánh mặt trời chói lọi, biển Ôđétxa ngời xanh sóng biếc, giã biệt chủ nghĩa lãng mạn, tổng kết một thời vừa mới trôi qua.
              Hỡi thiên nhiên tự do, thôi từ biệt
              Trước mắt ta đây là bữa cuối cùng
              Người xô ngọn sóng xanh bát ngát
              Chói lên vẻ đẹp tráng hùng.
              (Thúy Toàn dịch)

              6. Phương Bắc - "mảnh đất cô đơn" (7)
              Tháng VIII/1824 Puskin bị phát vãng lên phương Bắc, chịu sự quản thúc gắt gao ở Mikhailốpxcôe (trang ấp của cha Puskin), tách biệt khỏi bạn bè, thân quyến. Ông gọi nơi đây là "mnh đất cô đơn". Những năm tháng này bên cạnh nhà thơ chỉ có nhũ mẫu Arina Rôđiônốpna vừa thay tình mẫu tử, vừa là bạn tâm tình và độc giả duy nhất. Thời gian đầu Puskin cảm thấy thật nặng nề, cô đơn, bao lần muốn ngã lòng trước thực tại chua chát. Chính tình cảm âu yếm săn sóc của nhũ mẫu đã vỗ về nhà thơ rất nhiều. Chưa có ai trong số người thân được Puskin miêu tả một cách xúc động và sâu sắc như nhũ mẫu, ông trìu mến gọi bà là "Bạn thân thiết trong những ngày cơ cực, Nguồn mến thương nâng bước đời con", là "Bạn lòng tri kỷ, Những ngày thơ cơ hàn" (8) . Chẳng bao lâu, do gần gũi với thiên nhiên, tiếp xúc với nhân dân, và bằng bản lĩnh của mình, Puskin đã vượt qua sự khủng hoảng tinh thần để đứng cao hơn hoàn cảnh, để lại ngạo nghễ cất tiếng ca yêu đời:
              Nào nâng lên, cùng nhau ta chạm cốc
              Chúc Nàng Th và Trí tuệ muôn năm,
              Mặt trời thiêng, người hãy cháy bừng lên.
              (Tửu thần ca- Thúy Toàn dịch)

              Thời kỳ Mikhailốpxcôie đánh dấu phát triển tột bậc về tư tưởng và nghệ thuật của Puskin. Do có điều kiện tiếp xúc và quan sát, thâm nhập lối sống, sinh hoạt, tập tục, ngôn ngữ, tinh thần nhân dân nên Puskin đã xây dựng cho mình một quan điểm đúng đắn về vai trò của nhân dân trong tiến trình phát triển xã hội. Từ 1825 trở đi, nhà thơ đã từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn, chuyển hẳn sang chủ nghĩa hiện thực. Nổi tiếng trong thời kỳ này là những bài thơ phong cnh Nga, thơ tình yêu, thơ trữ tình chính trị: Buổi tối mùa đông (1825), Con đường mùa đông (1825), Nhũ mẫu (1826), Gửi K...(1825), Nhà tiên tri (1826)… Trong những bài thơ đó chủ đề ca ngợi vẻ đẹp gắn liền với chủ đề về cảm hứng sáng tạo:
              Trái tim lại rộn ràng náo nức
              Vì trái tim sống dậy đủ điều:
              Cả thiên thần , cả nguồn cm xúc,
              Cả đời, cả lệ, cả tình yêu.
              (Gửi K… - Thúy Toàn dịch)
              Cũng chính những năm này, cùng với sự trưởng thành trong nhận thức về hiện thực, Puskin đến với một thể loại mới - Bi kịch lịch sử: ông viết Bôrix Gôđunốp. Trong tác phẩm Puskin có một tầm nhìn khái quát về vai trò, số phận của nhân dân trong lịch sử, trong đó nhấn mạnh sự phát triển ý thức của họ. Có thể liên tưởng thấy sự gắn bó mật thiết của tác phẩm với thực tại nước Nga, với phong trào Cách mạng Tháng Chạp, nhận thấy sự mâu thuẫn và đối kháng của nhân dân với chế độ quân chủ chuyên chế. Vở kịch được đánh giá cao bởi tinh thần cải cách về cả đề tài lẫn thi pháp, mở ra một kiểu mẫu của kịch hiện thực Nga.
              Puskin sống những tháng ngày cuối cùng ở Mikhailốpxcôie thật nặng nề, hàng ngày hàng giờ đợi tin về cuộc Cách mạng Tháng Chạp (14/XII/1825) của bạn bè mình ở Pêtecbua. Cuộc nổi dậy mau chóng bị dập tắt. Cách mạng thoái trào. Bắt bớ, khủng bố khắp nơi. Nước Nga nghẹt thở và tang tóc. Puskin cô đơn lại càng thêm cô đơn, bất hạnh lại càng thêm bất hạnh:
              Giữa sa mạc u sầu tôi tha thẩn
              Lòng dày vò một khát vọng vô biên
              (Nhà tiên tri - Thúy Toàn dịch)
              Trước thực tại phũ phàng, đen tối, Puskin nghĩ nhiều đến sứ mệnh của nhà thơ, ý nghĩa của cuộc đời, của sáng tác. Giữa những ngày tháng đau thương ấy, ông càng cảm nhận sâu sắc trọng trách của người nghệ sĩ trước số phận nhân dân, trước vận mệnh tổ quốc. Ông nguyện:
              Năm châu bốn bể đi liền
              Mà đem lời nói đốt tim muôn người
              (Nhà tiên tri - Xuân Diệu dịch)

              7. Trở lại thủ đô sau 6 năm -"Tôi lại hát chính khí ca thủa trước" (9)
              Để xoa dịu dư luận, mua chuộc danh tiếng Puskin, Nga hoàng Nicôlai I đã cho phép nhà thơ trở về Mátxcva, chấm dứt cuộc lưu đày 6 năm ròng. Nhà vua muốn biến Puskin thành nhà thơ cung đình, chỉ viết thơ "thính phòng" ca ngợi ân sủng Thánh hoàng, chịu kiếp "Chim hoạ mi hót vang, Nhởn nhơ trong nô lệ". Nhưng chẳng bao lâu Nicôlai I hiểu ra rằng không thể nào mua chuộc được ngòi bút cũng như tâm hồn kiêu hãnh của thi sĩ vĩ đại. Trong cuộc đối mặt lần đầu tiên với Nga hoàng, Puskin ngang nhiên tuyên bố nếu có mặt tại Pêtebua ngày 14/XII, ông sẵn sàng đứng bên cạnh bạn bè trong một đội ngũ. Ông cũng nhanh chóng hiểu rằng "sự bao dung", được "tự do" theo kiểu Nicôlai I còn tệ hơn sự hà khắc, sự "mất tự do" của Alecxanđr I. Ông viết bài thơ Cây Ansa (1828) lên án tội ác của lũ bạo chúa dùng chất độc giết chết nhân dân:
              Đem chết chóc gieo ra ngoài bờ cõi
              Qua biên thùy sang các nước lân bang
              (Thúy Toàn dịch)
              Bài thơ là lời thách thức công khai chính quyền phản động đang đà đắc thắng, thể hiện khí phách kiên trung của con người chịu 6 năm lưu đày. Bất chấp thời thế, bất chấp kiểm duyệt, Puskin cho ra đời hàng loạt thi phẩm ca ngợi chiến công của những chiến sĩ Tháng Chạp, nhắn nhủ họ giữ lòng kiên trung bất khuất nơi tù đày, thể hiện niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng cuối cùng: Ariôn (1827), 19 tháng Mười năm 1827 (1827), Gửi tới Xibiri (1929):
              Hãy giữ vững lòng kiên trung kiêu hãnh
              Trong đáy sâu mỏ quặng Xibiri
              Trí cao xa và công trình thê thm Của các anh chẳng uổng phí mất gì…
              Bên cửa ra đón các anh vui sướng Bạn bè xưa gưm kiếm sẽ trao đưa.
              (Gửi tới Xibiri - Thúy Toàn dịch)

              Bài Ariôn (10) (1827) là bản tuyên ngôn lập trường chính trị và nghệ thuật trước sau như một của Puskin: sẽ mãi trung thành và đi tiếp con đường đã lựa chọn từ thủa trẻ tuổi. Ông ví mình như một "người ca xướng diệu huyền, được dông tố ném lên bờ thoát chết" trong khi cả thủy thủ đoàn bị chìm xuống đáy bể khơi, nhưng không hề sợ hãi, chùn bước, vẫn khẳng khái ca vang:
              Tôi lại hát chính khí ca thủa trước.
              (Ariôn - Thuý Toàn và Việt Thưng dịch)
              Giờ đây Puskin càng thấm thía những năm tháng lưu đày, đó là những ngày tháng cô đơn, cay đắng nhưng cũng rất đỗi thân thương, đáng trân trọng, những ngày tháng nuôi dưỡng, chắt lọc hồn thơ trở nên nhậy bén, đằm thắm. Sống những ngày tháng cuối đời ở thủ đô, - "cuộc đời nhố nhăng ồn ĩ, Làm tôi buồn, cô đơn và đau"(11) , nhà thơ còn nhớ mãi những dư âm khó phai mờ đó. Tâm tình ấy sẽ được ông gửi gắm trong bài Tôi lại về thăm (1835)

              8. Chặng đường cuối - "Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm" (12)
              Từ tháng V/1827 Puskin trở về Pêtecbua. Ra đi là một chàng trai trẻ háo hức, yêu đời, trở về sau 7 năm, đã là con người ưu tư trầm lặng. Hoàn cảnh khác xưa, bạn bè không còn như cũ, Puskin biết mình vẫn tiếp tục bị mất tự do. Bất chấp tất cả, ông vẫn viết đều tay. Thời gian này ông gặt hái thành công nhiều hơn trong lĩnh vực văn xuôi. Các tập truyện ngắn, những bài chính luận, phê bình… đánh dấu thắng lợi mới của một thủ pháp mới mẻ, trẻ trung cho nền văn xuôi hiện thực Nga. Các cốt truyện Tập truyện của ông Benkin đều được xây dựng từ cuộc sống hiện thực phong phú nhiều màu vẻ, được kể lại hết sức giản dị, trong sáng và hàm súc, lôi cuốn người đọc bởi phép phân tích tâm lý tinh tế. Đó sẽ là những đặc tính cơ bản của những nhà văn thế hệ sau theo "trường phái Puskin".
              Puskin tiếp tục viết thơ tình. Nổi tiếng nhất là các bài: Ngài và anh, cô và em (1828), Bông hoa nhỏ (1828), Tôi yêu em (1829), Trên đồi Gruzia đêm xuống (1829), Một chút tên tôi đối với nàng (1830) … Trong hầu hết những bài ấy, ta không còn nghe thấy tiếng thổn thức đau đớn, thất vọng và cuồng nhiệt ban xưa, mà thấy tràn ngập những nốt nhạc mênh mông buồn xa vắng, một nỗi buồn trong sáng dịu êm của một con tim đã qua rồi thời xao xuyến bồi hồi, giờ đang lắng đọng, chiêm nghiệm và nghĩ suy:
              Trên đồi Gruzia đêm xuống
              Aragra dòng cuộn dưới chân.
              Lòng tôi trong trẻo vô ngần,
              Nỗi buồn tràn ngập trăm lần tình em.
              (Trên đồi Gruzia đêm xuống - Tế Hanh dịch)
              Và :
              Tôi yêu em, yêu chân thành đằm thắm
              Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
              (Tôi yêu em - Thúy Toàn dịch)
              Tuổi đời mới chớm 30 mà nhà thơ luôn cảm thấy phiền muộn, tâm tư xáo trộn. Buồn và cô đơn, giã biệt tuổi trẻ, nhà thơ viết bài Bi ca (1830) với một cảm nhận về số phận và tương lai "ảm đạm với ai hoài". Điểm lại những chặng đường đi qua, nhiều lúc nhà thơ cảm thấy trống trải, lo người đời sau không hiểu hết cho mình:
              Sau mỗi âm thanh náo động,
              Là trong bầu không gian trống rỗng,
              Đều sinh ra một tiếng vang.
              Riêng tiếng người không ai buồn vọng cả,
              Số phận người cũng thế, hỡi thi nhân
              (Tiếng vọng - Thúy Toàn dịch)
              Thời kỳ này Puskin chú ý nhiều đến bi kịch: Nàng tiên cá (1832), Những cảnh từ thời hiệp sĩ (1835). Ông đi khai thác những đề tài lịch sử nước Nga và những vấn đề có tính triết học: Đubrốpxki (1832), Người con gái viên đại uý (1833), Kị sĩ đồng (1833), Con đầm pích (1833)… Ông đặc biệt quan tâm và thích thú tính cách của Piốt Đại đế. Nhà thơ nhận định rằng thời đại của Piốt là một bước ngoặt có tính chất quyết định của lịch sử nước Nga. Ông có những nhận định hết sức đúng đắn về vị Hoàng đế chuyên quyền và vĩ đại.
              Giữa lúc Puskin dốc tâm vào công việc sáng tạo vĩ đại của mình thì chính quyền Nga hoàng và nhiều kẻ trong đám quý tộc cung đình hằn học tức tối, tìm mọi kế bôi nhọ và bức hại ông. Họ không thể tha thứ cho ông vì ông quá tài năng và quá kiêu hãnh. Mùa hè 1835 Puskin xin Nga hoàng cho ông từ chức "thiếu niên thị tòng" (một chức sắc đầy nhạo báng với lứa tuổi ngoài 30 của một danh nhân văn hoá), nhưng Nicôlai I không chuẩn y, tỏ ý hết sức không hài lòng. Nhiều lần nhà thơ xin vua cho lui về trang ấp Mikhailốpxcôie để được yên tĩnh sáng tạo, nhưng mãi đến 1835 ông mới được phép về 4 tháng. Tại đây ông đã viết bài thơ trứ danh Tôi lại về thăm (1835) như sự hồi tưởng và tổng kết toàn bộ những năm tháng lưu đày trong một tâm trạng u hoài, dằn vặt. Vẫn như xưa, ông lại mơ về "một bờ xa", "những cồn sóng khác" (ngụ ý phong trào cách mạng những năm 20). Bên cạnh những ký ức còn tươi rói, thấp thoáng trong bài thơ hình bóng của thế hệ độc giả tương lai:
              Chào các bạn, thế hệ trẻ chưa quen!
              Ta không được thấy buổi mai sung sức,
              Các bạn sẽ mỗi ngày lớn vọt
              Vượt qua đầu lứa bạn cũ quen ta
              Che khuất đi những đỉnh ngọn cây già
              Không cho khách qua lại trông thấy.
              Nhưng cháu ta, lòng tràn đầy sảng khoái,
              Từ cuộc vui nhà bạn có về qua,
              Hãy cho nó được nghe trong đêm tối
              Tiếng các bạn niềm nở reo ca
              Và qua đây nó sẽ nhớ tới ta.
              (Thúy Toàn dịch)
              Dường như nhà thơ không còn bi quan như những tháng ngày ông viết Bi ca nữa, ông tin rằng người đời sau sẽ đánh giá đúng về ông. Puskin đang đi dần đến cây số cuối của chặng đường đời đầy bất hạnh và vinh quang.
              Không lâu trước khi đón nhận cái chết bi thương, Puskin đã viết bài thơ bất hủ Đài kỷ niệm (1836) như một lời di chúc cho muôn vàn thế hệ mai sau, như lời ca thiên nga bi tráng và bất diệt. Nhà thơ hiểu rằng cuộc đời mình không uổng phí, sự nghiệp của mình sẽ sống mãi trong trái tim nhân loại:
              Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm
              Không bởi sức tay người! Đường tới viếng
              Cỏ không trùm dấu bước thế nhân,
              Cao hơn cả trụ thờ Alếcxanđrơ bởi cái đầu bất trị.

              Và nhân thế còn yêu ta mãi
              Vì đàn thơ ta thức tỉnh thân ái
              Vì trong thủa bạo tàn ta ca ngợi tự do
              Và gợi từ tâm với kẻ sa cơ.
              (Đài kỷ niệm - Thúy Toàn dịch)

              Nhà thơ đã gọi đúng tên của thời đại - thế kỷ bạo tàn. Trong thời đại ấy ông đã nguyện suốt đời là "ca sĩ của tự do". Tiếng hát tự do của con người một đời bị cầm tù vang lên mới khát khao, mãnh liệt làm sao, như một tượng đài tư tưởng bất diệt ! Chính quyền Nga hoàng, bọn quý tộc chủ nô căm ghét và sợ hãi tiếng hát ấy, tìm trăm phưng nghìn kế buộc nó tắt ngang lời. Họ khiêu khích nhà thơ, gửi những lá thư nặc danh bỉ ổi dọn đường cho cuộc quyết đấu của Puskin với tên Pháp lưu vong Đăngtex (13). Lecmôntốp - người tiếp bước Puskin trên thi đàn Nga, lớn tiếng buộc tội chính quyền Nga hoàng đầu độc và hãm hại Puskin, cho rằng không phải viên đạn của Đăngtex mà chính bầu không khí nghẹt thở của chế độ Alecxanđrơ và Nicolai giết chết nhà thơ. A. X. Puskin đã ra đi lúc 14 giờ 45 phút ngày 10.II.1837, khi chưa tròn 38 tuổi, giữa lúc "tràn đầy sức lực, còn chưa hát hết những bài ca, còn chưa nói hết những điều có thể nói" (Ghecxen)
              Mặt trời thi ca Nga vụt tắt. Cái chết của nhà thơ là sự mất mát lớn của văn học Nga. Với hơn hai mưi năm sáng tạo nghệ thuật, Puskin đã kịp dựng cho văn học Nga những cột mốc chính, lát nên một đại lộ thênh thang để văn học Nga bước vào kỷ nguyên hoàng kim rực rỡ nhất của mình. Cuộc đời ngắn ngủi của ông từ nay trở thành bất tử. Gorki nói: "Đối với các nhà nghiên cứu lịch sử văn học thì không có đề tài nào nhiều ý nghĩa và huyền diệu hơn là thân thế và sự nghiệp của Puskin"(14) - một sự nghiệp có những cột mốc trọng đại của lịch sử nước Nga và rực rỡ diện mạo văn học Nga.

              B/ PUSKIN VÀ NHỮNG CỘT MỐC TRONG VĂN HỌC NGA

              1. Văn học Nga thời kỳ trước Puskin
              Văn học Nga từ khi mới hình thành (thế kỉ XI) cho đến thời đại Puskin sống (thế kỉ XIX) đã đi được một chặng đường dài, đạt được những thành tựu đáng kể về nội dung, nghệ thuật cũng như phương pháp sáng tác, song tầm vóc của nó vẫn chưa thể vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Là một nền văn học trẻ tuổi so với văn học các nước châu Âu khác, văn học Nga trong những bước đi ban đầu không khỏi không chịu ảnh hưởng về đề tài, thể loại, phương pháp sáng tác và tư tưởng triết học của văn học Pháp, Anh, Đức. Thời kỳ này, nói như lời của Bielinxki, thơ ca Nga chỉ là người học trò thông minh, nhanh nhẹn của nàng thơ Tây Âu. Dòng văn học dân gian và dòng văn học bác học chảy riêng biệt, ít có chỗ thấm vào nhau. Ngay đến ngôn ngữ dùng để sáng tác cũng là một thứ ngôn ngữ cổ khô cứng dùng để dịch Kinh Thánh. Đến cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX xu hướng đổi mới và phát triển văn học Nga ngày càng bộc lộ. Những quy phạm truyền thống có những triệu chứng rạn vỡ, những mầm mống thể nghiệm mới trên nền tảng tính dân tộc đang manh nha. Zucốpxki (1783 - 1852) trở thành "một Crixtốp Côlông văn học của nước Nga, đã phát hiện cho nước Nga châu Mỹ của chủ nghĩa lãng mạn trong thơ ca" (Bielinxki). Ông đã đem đến cho thi ca chất lãng mạn mới mẻ, trẻ trung, say đắm, tính âm nhạc của thể th ba-lát và bi ca, làm cho chúng thấm đẫm màu sắc dân gian Nga trên phông nền thiên nhiên, nghi lễ, tập quán dân tộc. Tuy nhiên nội dung và tư tưởng trong sáng tác của ông vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa tình cảm Đức, xa lánh những vấn đề của đời sống xã hội, chìm đắm trong mầu sắc thần bí, tôn giáo. Thơ ngụ ngôn của Crưlốp (1769 -1844) cũng vậy, mặc dù đã mang tính dân tộc rõ rệt, nhưng vẫn là sự mô phỏng La-phông-ten. Thơ ca của Bachiuxcốp (1787 - 1855) thể hiện niềm vui trần tục, tự do cá nhân, niềm tin vào tương lai của tổ quốc, nhưng chỉ phản ánh đời sống tinh thần của một thiểu số quý tộc có học thức, xa lạ với cuộc đấu tranh xã hội. Puskin là người tiếp thu những mầm mống đổi mới của các bậc đàn anh, cải cách văn học và ngôn ngữ Nga một cách toàn diện.

              2. Puskin - nhà cải cách vĩ đại của văn học Nga
              Dường như lịch sử nước Nga đã lựa chọn để trao cho Puskin một sứ mệnh thiêng liêng vĩ đại: Tổng kết sự phát triển của toàn bộ văn học Nga trải qua 8 thế kỉ, đồng thời khai phá những đỉnh cao chói ngời nhất, đưa văn học Nga lên một trong những vị trí hàng đầu của văn học nhân loại. Tám thế kỉ danh tiếng văn học Nga chưa vượt ra khỏi phạm vi quốc gia; chỉ với Puskin, văn học Nga mới bừng dậy, trở thành những trang vàng rực rỡ nhất của văn học thế giới, làm cho các châu lục phải ngoái nhìn kinh ngạc, thán phục và mến yêu.
              Với cuộc đời sóng gió và ngắn ngủi, Puskin đã kịp làm cho nước Nga biết bao kỳ tích. Bằng những bước tiến nhanh chóng lạ thường ông đã thắng dây cương cho cỗ xe tam mã Nga phi những nước đại đáng kinh ngạc: Chỉ trong hai chục năm ông đã khai phá những con đường nghệ thuật mới mẻ mà ở các nước khác người ta phi đi hàng trăm năm, ông đã cách tân hàng loạt thể loại và đề tài văn học mà sức lực của nhiều người, nhiều thời gian cộng lại không dễ gì làm nổi.
              Con người Nga vĩ đại ấy bắt đầu sự nghiệp bằng cách vượt nhanh qua giai đoạn chủ nghĩa cổ điển (năm ông mới 18 tuổi), để đến với chủ nghĩa lãng mạn (năm 21 tuổi) và khai phá ra chủ nghĩa hiện thực (năm 26 tuổi). Với sự phát hiện vào năm 1820 và chính thức đặt nền móng vào năm 1825 cho chủ nghĩa hiện thực, Puskin đã trở thành ngôi sao mai hiếm hoi trên bầu trời Âu châu lúc đó. (ở các nước Tây Âu khuynh hướng này được hình thành muộn hơn, phải đến những năm 1830, trong các tác phẩm của Banzac, Xtăngđan, Đickinx…) Sáng tác của Puskin đã khi nguồn cho sự phát triển mạnh mẽ khuynh hướng bao quát hiện thực xã hội rộng lớn với nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, thể hiện nhiều vấn đề mang tính thời đại, đi sâu vào những ngõ ngách khuất kín, phức tạp của tâm lý con người mà sau này L. Tônxtôi, Ph. Đôxtôiepxki sẽ phát triển thành "phép biện chứng tâm hồn". Với Puskin, lần đầu tiên văn học Nga thể hiện trung thực và đầy đủ, sinh động thế giới tinh thần Nga, tính cách Nga, thiên nhiên Nga, ngôn ngữ Nga. Ông yêu thích những nhân vật lãng mạn có lý tưởng, có kích thước cao rộng, có chiều sâu tâm hồn của Bairn, nhưng luôn đặt chúng trong tầm vóc con người bình thường của hiện thực Nga đương thời.
              Về phương diện đổi mới, trong văn học thế giới hiếm có thiên tài nào như Puskin đem lại nhiều cách tân đến thế trong mọi lĩnh vực: Thơ trữ tình, trường ca, truyện kể dân gian, bi kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, văn chính luận, ngôn từ sáng tác, đề tài văn học…
              Lịch sử Nga sẽ mãi mãi ghi công người sáng tạo nên ngôn ngữ Nga văn học hiện đại, một thứ ngôn ngữ thoát khỏi sự vay mượn, những hình thức khoa trương, trống rỗng, một ngôn ngữ trong sáng, giản dị, sinh động, thuần khiết hơi thở Nga, tâm hồn Nga. Puskin sớm nhận thấy tính giả tạo, không tự nhiên của ngôn ngữ xa-lông quý tộc thượng lưu pha tạp Nga - Pháp đầy bay bướm, cầu kỳ, kiểu cách, xa lạ với tiếng nói của nhân dân. Viện sĩ Vinôgrađốp nhận định: "Quan điểm của Puskin trong cuộc đấu tranh giữa tiếng Pháp và tiếng Nga - Xlav là một quan điểm thiên tài. Đồng thời với việc tác động củng cố các hình thái tư duy kiểu châu Âu, Puskin đã vượt qua sự hạn chế trong ngôn từ của tầng lớp quý phái làm cho ngôn ngữ văn học gắn bó với văn phong sinh hoạt dân tộc" (15) . Theo lời Bielinxki, thơ ca Nga trước thời kỳ Puskin sáng tác là "một thứ cây được bứng từ nơi khác, chứ không phải là giống cây bản địa"(16) , thứ cây chỉ có cành lá mà không có gốc rễ và tư tưởng. Puskin đã đem đến cho nó cội rễ và tư tưởng, tinh thần và khí chất Nga, biến nó thành thứ cây bản địa. Trước Puskin, nhiều ý kiến cho rằng thi ca Nga chỉ có thể viết bằng loại ngôn ngữ Xlavian (ngôn ngữ dùng để dịch Kinh Thánh). Puskin chứng minh khác hẳn: Thơ ca Nga có thể và cần phải dệt bằng ngôn ngữ nói thường ngày hết sức sống động, giản dị, trong sáng và hàm súc của nhân dân. Tiếp thu những tinh hoa văn học truyền thống, Puskin nhìn thấy tương lai sáng sủa của việc kết hợp tiếng Nga văn học với từ ngữ bình dân. Ông đã hoà quện tuyệt vời hai dòng văn học vốn tồn tại tách bạch hàng bao thế kỉ nay ở Nga là văn học dân gian và văn chương bác học, xóa đi khoảng cách giữa "ngôn ngữ cao quý" và "ngôn ngữ thấp kém" như cách người ta phân chia lúc ấy. Ông nhận ra cái đẹp ở ngay trong những cái bình thường, cái "cao quý" ngay trong cái vẫn bị coi là "thấp kém". Trong thơ ông có bông hoa ép bị lãng quên, có tiếng hót của con chim sơn tước, có bầu trời "thoang thoảng hơi thu", có "con đường mùa đông" tuyết phủ trắng một nỗi buồn da diết khắc khoải, lại có cả những gì rất đỗi bình dị thân thương như túp lều tranh, đống rạ, tấm lưới dân chài… Thơ ông diễn tả những tâm tình sâu thẳm của trái tim đơn côi, nỗi quyến luyến một dáng hình, khoảnh khắc, lại cũng thể hiện chủ nghĩa ái quốc sâu thẳm nhất và tinh thần phản kháng chế độ nông nô chuyên chế gay gắt chưa từng thấy. Ngay từ lúc còn là cậu học sinh Lixê 15 tuổi, Puskin đã thể hiện rõ xu hướng thiên về đời sống tự nhiên, ca ngợi vẻ đẹp đồng nội tràn đầy sức sống của bông bách hợp, đặt nó trong sự tương phản với bông hồng quý tộc đài các dễ tàn úa. Bielinxki nhận xét rằng hơi thơ của Puskin vô cùng độc đáo, thơ của ông xa lạ với tất cả những gì gọi là ảo tưởng, nó tràn ngập hiện thực, nó không rắc phấn hồng, phấn trắng lên cuộc sống mà miêu tả cuộc sống trong vẻ đẹp tự nhiên chân thật của nó, "trong thơ ca của Puskin có bầu trời, nhưng bầu trời bao giờ cũng hoà vào trái đất."
              Đến cuối thế kỉ XVIII văn xuôi Nga còn là mảnh đất hoang sơ chưa được khai phá. Trong văn học phương Tây khi chủ nghĩa hiện thực ra đời thì đã có một nền văn xuôi vững chắc, còn chủ nghĩa hiện thực Nga ra đời lại phải đứng trước một nhiệm vụ phát triển toàn diện các thể loại. Văn học Nga trước đó chủ yếu là thể loại thơ, Puskin làm phong phú và cân đối nó khi phát triển văn xuôi nghệ thuật. Đến với thơ ca, dẫu sao Puskin đã có những bậc thầy dìu dắt, còn trên lĩnh vực mới mẻ này ông phải tự mình khai phá những bước đi gần như đầu tiên. Ông được coi là người đặt những viên đá tảng cho nền móng mới mẻ và vững chắc của thể loại. Là một nghệ sĩ nhậy bén với thời cuộc, ông nhận ngay ra sự cấp thiết và thích hợp của thể loại trong việc phn nh cuộc sống muôn màu muôn vẻ đang diễn ra mỗi ngày xung quanh ông. Ông đã xây nên "yếu tố thứ nhất của văn học" - ngôn ngữ, làm cho ngôn ngữ của người kể chuyện và ngôn ngữ của nhân vật trở nên mới mẻ, phong phú, sinh động, chính xác, linh hoạt, thoát khỏi ảnh hưởng của tiếng Xlavian cổ, những từ ngữ vay mượn nước ngoài. Các nhà văn tình cảm trước Puskin thường không "nói" mà "hát" bằng một thứ văn xuôi đầy những tu từ hoán dụ, ẩn dụ, đo ngữ, điệp ngữ và cảm thán, thứ văn xuôi êm dịu, kiểu cách của phòng khách quý tộc. Trong văn xuôi của mình Puskin không "hát" mà "nói" bằng ngôn ngữ giản dị, ngắn gọn, thể hiện rõ tư tưởng. Gorki nhận định: "Puskin đã đặt nền móng cho văn xuôi Nga hiện đại, mạnh dạn đưa vào văn học những đề tài mới và trong khi giải thoát nền văn học ra khỏi ảnh hưởng của tiếng Pháp, Đức, đồng thời cũng giải thoát nền văn học ra khỏi chủ nghĩa duy cảm nhạt nhẽo mà những tác giả trước Puskin đều mắc phải. Ngoài ra Puskin cũng là người đặt nền tảng cho sự hoà hợp giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực, sự hoà hợp cho đến nay vẫn là đặc trưng tiêu biểu của nền văn học Nga, làm nó có một âm hưởng riêng, một diện mạo riêng." (17)
              Truyện ngắn của Puskin được coi là khởi đầu của văn xuôi hiện thực Nga. Gôgôn đánh giá rất cao "sự trong sáng hồn nhiên, không chút tiểu xảo" của các tác phẩm Puskin. L. Tônxtôi hết sức thán phục cách kể chuyện gọn ghẽ, không có chi tiết thừa, giọng kể tự nhiên, giản dị, trong sáng của Puskin. Ngay từ bước đi ban đầu, truyện ngắn của Puskin dường như đã giải quyết xong nhiều vấn đề cơ bản của thể loại: chính xác, giản dị, ngắn gọn mà hàm súc tư tưởng - những gì mà sau này "bậc thầy truyện ngắn" Tsêkhôp sẽ kế thừa và hoàn tất mỹ mãn. Các truyện ngắn Người quản trạm, Đubrốpxki, Phát súng, Cô tiểu thư nông dân, Bão tuyết, Ông chủ hiệu đám ma và nhất là Con đầm pích thật sự là trở thành những mẫu mực của công thức "nội dung lớn trong hình thức nhỏ", trong đó những khám phá tâm lý nhân vật đã chuẩn bị cho nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc của Lecmôntốp và cho "phép biện chứng tâm hồn" của L. Tônxtôi.
              Trong tiểu thuyết lịch sử Người con gái viên đại úy,dòng đời và dòng lịch sử chảy hoà vào nhau một cách tự nhiên, mạch truyện linh hoạt và liên tục, đâm đà phong cách dân gian. Với quan điểm lịch sử và nhân dân đúng đắn, Puskin đã xây dựng nên hình ảnh đầy chất hiện thực và huyền thoại về người anh hùng áo vải Êmiliên Pugatsốp, vừa bình dị hoà đồng như đứa con đẻ của nhân dân, vừa hào hùng khí phách như tráng sĩ Nga trong truyện cổ.
              Chặng đường viết văn xuôi xen kẽ với sáng tác thơ ca của Puskin chưa đầy 10 năm, di sản của ông tuy không đồ sộ, nhưng đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển của văn chương tự sự Nga, khai thông cho những đỉnh cao sau này của thể loại.
              Đến với sân khấu Nga thế kỷ XIX, Puskin cũng thực hiện một cuộc cách mạng, góp phần đưa kịch Nga vươn lên đỉnh cao của văn học nhân loại. Ông đã phát hiện và đưa vào tác phẩm của mình kịch tính của hiện thực châu Âu thế kỉ XIX. Sáng tác vở bi kịch Bôrix Gôđunốp bất hủ, Puskin tự bản thân nhận thức rằng mình đã đem đến thành công trong cuộc cải cách kịch trường Nga và châu Âu. Ông phát hiện ra và lý giải mối liên hệ giữa kịch tính trong tâm hồn con người với kịch tính của thời đại và số phận nhân dân.
              Puskin cắm những cột mốc lớn không chỉ cho các thể loại văn học mà còn cho hàng loạt đề tài mang nội dung hiện thực và nhân bản sâu sắc. Nhiều hình tượng nhân vật của ông trở thành bất hủ, được đưa vào danh sách văn học nhân loại nhờ tầm vóc triết học lớn lao xuyên suốt nhiều thế kỷ.
              Trước Puskin "con người nhỏ bé" đã có mặt trên trang văn học Nga, nhưng đó là những con người được nhìn từ cặp mắt thưng hại, thái độ quan tâm hời hợt của kẻ bề trên ban ơn xuống, hoặc được rắc phấn hồng che đi ranh giới, mâu thuẫn với những kẻ quyền quý cao sang. Puskin đã thực sự đưa ra được hình tượng hết sức chân thực về "con người nhỏ bé" với một thái độ trân trọng, đồng cảm. Trong thi ca Nga trước Puskin chưa từng có ai trìu mến gọi người đàn bà xuất thân từ tầng lớp nông nô là "bạn thân thiết", "con bồ câu già", "mẹ" như Puskin. Và trong thơ ca thế giới xưa nay hiếm thấy những bài thơ đầy ắp ân tình, đằm thắm, chân thành và bình đẳng như những bài thơ viết về người vú nuôi trong Buổi tối mùa đông, Gửi nhũ mẫu, Tôi lại về thăm… Trong truyện ngắn Người quản trạm Puskin chân thành chia sẻ công việc, ước mơ, cảm thương sâu sắc cho những số phận nghiệt ngã của con người thuộc tầng lớp dưới, thể hiện lòng căm giận những bất công ngang trái ở đời.
              Hình tượng Con người thừa là đóng góp đáng kể của Puskin cho văn học Nga và thế giới. Với hình tượng này nhà thơ đã vẽ nên chân dung chân thực, sống động của một lớp thanh niên thời đại - một kiểu sản phẩm tất yếu của điều kiện xã hội lúc bấy giờ, dự báo những tính cách mới sẽ phát triển.
              Sự nghiệp vĩ đại của Puskin chính là niên biểu của nền văn học Nga. Ông đã nhanh chóng hoàn tất vẻ vang sứ mệnh của người đặt nền móng, cắm các cột mốc cho đại lộ văn học Nga. Gôgôn - môn đệ xuất sắc nhất của trường phái Puskin, phát biểu: "Puskin là một hiện tượng đặc biệt, có thể nói, duy nhất của tinh thần Nga: đó là người Nga trong sự phát triển của nó, con người, trong mức độ mà có thể, phải trỉa qua hai trăm năm sau mới xuất hiện. Trong ông, thiên nhiên Nga, tâm hồn Nga, ngôn ngữ Nga, tính cách Nga, được phản ánh thuần khiết đẹp tới mức giống như cnh vật được soi trên mặt kính phóng đại." (18)

              3. Nguồn gốc của mọi nguồn gốc
              Puskin là "nguồn gốc của mọi nguồn gốc" (Gorki). Tất cả những nhà văn vĩ đại về sau đều ngưỡng mộ và chịu ơn ông. Thật thế, trường phái tự nhiên của Gôgôn, Nàng Thơ trữ tình và xu hướng tâm lý của Lecmôntốp, thế giới thi ca triết lý của Chutsép, trường phái hiện thực của Necraxốp, Tônxtôi, Đôxtôiepxki… đều bắt nguồn từ con sông lớn Puskin. Con sông đó chảy đến ngã ba ngã bảy chia ra thành nhiều lưu nhánh với dòng chảy đặc trưng của mình, nhưng chúng không bao giờ để mất hút dấu vết đầu nguồn. Gorki viết: "Không có Puskin, thì trong một thời gian rất dài sẽ không có Gôgôn, L.Tônxtôi, Tuốcghênhép, Đôxtôiepxki. Tất cả những con người vĩ đại này của nước Nga đều công nhận Puskin là bậc thủy tổ tinh thần của mình." (19) Tinh thần và trí tuệ chói sáng của nhà thơ đã mở đầu cho thời kỳ hoàng kim trong văn học Nga và rọi sáng đường đi cho nhiều lớp người kiệt xuất trên đất Nga.
              Gôgôn kế tục xuất sắc đề tài "con người nhỏ bé" trong Chiếc áo khoác, phát triển hình tượng "con người thừa" trong Những linh hồn chết, tiếp nối kiểu con người tư sản mới xuất hiện ở Nga cùng với những đặc tính của nó trong Bức chân dung, Những linh hồn chết. L. Tônxtôi tiếp tục câu chuyện về Tachiana nhưng với một kiểu xung đột khác, cách giải quyết khác trong Anna Carênhina. Raxcônnhicôp của Đôxtôiepxki là sự kế thừa Ghécman trong Con đầm pich và Xalêri trong Moza và Xalêri. Alêcxây Tônxtôi nhờ sự trợ giúp rất nhiều của Puskin trong Người kị sĩ đồng, Người da đen của Pi-e Đại đế để xây dựng bộ tiểu thuyết lịch sử hoành tráng Pie Đại đế. Quan điểm đúng đắn và mới mẻ về vai trò của nhân dân trong lịch sử trong Người con gái viên đại úy, Bôrix Gôđunôp đã mở đường cho thiên anh hùng ca bất hủ Tarax Bunba của Gôgôn và Chiến tranh và hoà bình của L. Tônxtôi. Blôc gọi Puskin là "tình yêu đầu tiên" của mình, là "cánh cửa mở ra sự khởi đầu và kết thúc trong sự chuyển động của tâm hồn"
              Thiên tài của Puskin tỏa sáng khắp các châu lục. Sáng tác của ông được dịch ra hàng trăm thứ tiếng và mỗi năm ông lại có thêm nhiều độc giả mới. Puskin được coi là một trong những nhà văn hiện thực đầu tiên ở châu Âu và trên thế giới. Ông không chỉ thuộc về nhân dân Nga mà đã trở thành một trong những thiên tài của thế giới. Nhà thơ Chi-lê Pablo Neruđa trân trọng gọi Puskin là "người anh cả của thơ ca và tự do", là "ngọn nến của tất cả các dân tộc trên toàn thế giới" (20). Vinh quang của Puskin sẽ tiếp tục tỏa sáng, bởi vì "Puskin thuộc về hiện tượng vĩnh viễn sống, vĩnh viễn vận động không ngừng" (Belinxki)

              CHÚ GIẢI

              1- "Dòng máu xanh" - cách gọi của giới thượng lưu Nga về dòng dõi và địa vị cao sang của mình.
              2- "Chim họa mi hót vang…" - trích bài thơ Bên đóa hồng kiêu kỳ (1824) - Trong cuốn Alexandr Puskin - tuyển tập tác phẩm, tập 3, Nxb Văn học, 1999.
              (Tất c các trích đoạn th trong bài viết này đều lấy từ cuốn sách trên)
              3- "Năm châu bốn bể…" - Trích bài Nhà tiên tri
              4- Năm 1812 - Năm nhân dân Nga dưới sự lãnh đạo của thống soái Cutudốp đã đánh tan hơn 60 vạn quân Napôlêông, giải phóng đất nước và một phần lớn châu Âu.
              5- Phong trào Cách mạng Tháng Chạp - Phong trào cách mạng đầu tiên ở Nga do những nhà quý tộc tiến bộ lãnh đạo kéo dài trong 10 năm (1816 -1825). Ngày 14/ 12/ 1825 nhân ngày lễ đăng quang của Nicôlai I, các nhà cách mạng ở Pêtécbua và ở một số thành phố đã phát động cuộc khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa bị Nga hoàng dìm trong bể máu. Năm nhà lãnh đạo bị xử tử, nhiều người khác bị đày đi Xibiri. Người ta gọi họ là những người Cách mạng Tháng Chạp. Sự nghiệp của họ được Lê nin đánh giá cao.
              6- "Nơi tuổi trẻ chóng tàn…"- Lời bài thơ Ánh mặt trời ban ngày đã tắt (1820)
              7- "Mảnh đất cô đơn" - Lời bài thơ Tôi lại về thăm (1835).
              8- "Bạn thân thiết…" - Lời bài thơ Nhũ mẫu (1826) và Buổi tối mùa đông (1825)
              9- "Tôi lại hát chính khí ca…" - Lời bài thơ Ariôn (1827)
              10- Ariôn - Theo truyền thuyết, Ariôn là thi sĩ và nhạc sĩ Hy lạp nổi tiếng (thế kỉ VII tr.CN) trong một chuyến đi biển ông bị bọn cướp biển bắt và định giết. Ariôn xin được hát một bài trước khi chết. Nhà thơ choàng tấm áo kipha (áo của thi sĩ , nghệ nhân) cất lời hát bài chính khí ca của mình, dứt lời nhảy xuống biển, nhưng được một con cá heo cứu thoát.
              11- "Cuộc đời nhố nhăng…" - Lời bài thơ 26 tháng năm 1828.
              12- "Ta đã dựng cho ta…" - Lời bài thơ Đài kỷ niệm (1836).
              13- Tên Pháp lưu vong Đăngtex - tên quý tộc người Pháp sống lưu vong ở Nga, con nuôi của đại sứ Hà Lan Heckeren. Đăngtéc là kẻ ăn chơi trác táng, hay quyến rũ những người phụ nữ đẹp. Say mê vợ của Puskin, hắn cùng cha nuôi và bè lũ quý tộc ăn không ngồi rồi vạch kế hoạch từng bước để đầu độc cuộc sống lứa đôi của Puskin, buộc Puskin phải thách đấu súng để bảo vệ thanh danh gia đình.
              14- "Đối với các nhà nghiên cứu…"- Trích bài Về Puskin ( M. Gorki), trong tập Alecxandrơ Puskin - Tuyển tập tác phẩm, tập 5, Nxb Văn học, 1999, tr. 342.
              15- "Quan điểm của Puskin" - Dẫn theo Phùng Trọng Toản, Sđd, tr.63.
              16- "Một thứ cây…" - Trích từ Sáng tác của A.X. Puskin (Belinxki), sđd, tr.313
              17- "Puskin đã đặt nền móng…" -Trích từ bài Về Puskin (M.Gorki), sđd. Tr. 340.
              18- "Puskin là một hiện tượng…" -Trích từ Đôi lời về Puskin (Gôgôn), sđd, tr. 283
              19- "Không có Puskin…" - Trích từ bài Về Puskin (M.Gorki), sđd, tr.339
              20- "Người anh cả…" - Trong bài Anh là anh cả của thơ ca và tự do (P.Neruđa), sđd, tr.417

              NIÊN BIỂU
              về cuộc đời và sáng tác của A.X.Puskin

              1799 - Ngày 6.VI (lịch cũ: ngày 26.V) sinh ra tại Matxcva.
              1811 - Học trường Litxê tại Pêtecbua.
              1814 - Gửi bạn thơ - tác phẩm đầu tiên được đăng báo.
              1815 - Viết Ký ức Hoàng thôn - bài thơ sau đó được đọc trong buổi lễ ra trường.
              1817 - Tốt nghiệp trường Litxê
              - Làm việc ở Bộ Ngoại giao tại Petecbua, sống cùng gia đình.
              - Viết bài thơ Tự do và một số bài thơ lưu hành bí mật.
              1820 - Trường ca Ruxlan và Luitmila.
              - Nga hoàng Alếcxanđrơ I đày đi phương Nam, ngày 6.V rời Petecbua, có lão bộc Nikita Côzlốp đi theo.
              - Tháng IX đến Kisinhốp, làm việc trong văn phòng tướng Indốp.
              1821 - Trường ca Người tù Capcaz, Lệ đài Bakhchixarai.
              1822 - Trường ca Anh em kẻ cướp.
              1823 - Bắt đầu viết Épghênhi Ônhêghin.
              - Tháng VI thuyên chuyển đến Ôđétxa, làm việc ở văn phòng bá tước Vôrônxốp.
              1824 - Tháng VII bị cách chức, tháng VIII bị phát vãng về phương Bắc, sống ở làng Mikhailốpxcôie thuộc tỉnh Pxcốp, sống cùng nhũ mẫu Arina Rôđiônốpna dưới sự kiểm soát của chính quyền địa phương.
              -Trường ca Đoàn người Zigan, bài thơ Gửi biển.
              1825 - Bi kịch lịch sử Bôrix Gôđunốp, bài thơ Buổi tối mùa đông, Con đường mùa đông, Gửi K…
              -Nhận tin dữ về thất bại của cuộc Cách mạng Tháng Chạp (14.XII)
              1826 - Đến Matxcva gặp Nga hoàng Nicôlai I tại Cremli.
              - Các bài thơ Nhũ mẫu, Nhà tiên tri.
              1827 - Tháng V về Petecbua.
              - Bài thơ Ariôn, truyện Người da đen của vua Piốt Đại Đế.
              1828 - Arina Rôđiônốpna mất.
              - Trường ca Pôntava, bài thơ Cây Antsa.
              1829 - Tháng V đi Capcaz, tháng VIII quay về.
              - Bài thơ Trên đồi Gruzia đêm xuống, Tôi yêu em.
              1830 - Ba tháng mùa thu ở làng Bônđinô.
              - Hoàn thành Épghênhi Ônhêghin, Tập truyện của ông Benkin.
              - Những bi kịch nhỏ, Lũ quỷ.
              1831 - Tháng II cưới Natalia Gôntsarôva tại Matxcơva.
              - Tháng V về sống ở Hoàng Thôn.
              - Tháng X về Petecbua, làm việc ở Bộ Ngoại giao.
              1832 - Đubrôpxki.
              1833 - Đi Uran thu thập tài liệu về cuộc khởi nghĩa Pugatsôp.
              - Trường ca Người kị sĩ đồng, truyện ngắn Con đầm pich, bài thơ Mùa thu.
              1834 - Nhận chức "thiếu niên thị tòng".
              1835 - Về Mikhailôpxcôie 4 tháng. Bài thơ Tôi lại về thăm.
              1836 -Truyện Người con gái viên đại úy. Phát hành tạp chí Người cùng thời.
              - Mẹ mất, chôn tại tu viện Xviatôgo gần làng Mikhailốpxcôie.
              1837 - Ngày 8.II : quyết đấu với Đăngtex. Ngày 10.II (lịch cũ: 29.I) 14 giờ 45 phút, nhà thơ qua đời. Thi hài chôn cạnh mộ mẹ.
              #7
                tieuboingoan 15.04.2006 17:40:35 (permalink)
                PUSKIN TRONG ĐỜI THƯỜNG
                V.VÊRÊXAEP

                Lời người dịch: "Puskin trong đời thường" là tên gọi cuốn sách của nhà văn Nga Vikenti Vêrêxaep, biết từ những năm 1927 - 1928, chỉ tính đến năm 1984 đã tái bản 8 lần. Về đại thi hào Puskin người ta đã viết không biết bao nhiêu cuốn sách, vậy mà cuốn sách của Vikenti Vêrêxaep vẫn không ngập chìm trong cái núi tư liệu ấy, vẫn hấp dẫn từ các học giả bạc đầu uyên thâm đến mỗi cô cậu học trò mê thơ Puskin. Bí quyết thành công có lẽ chính ở chỗ ông không "nói hộ" Puskin mà để cho các dòng chữ của những người đã từng cùng sống và từng trực tiếp được thấy và nghe Nhà thơ, tự nói lên tất cả.
                Matxcva đón chào ngày sinh của nhà thơ tương lai bằng những hồi chuông lễ ngân dài. Thật ra, pháo hoa chúc mừng không phải là dành cho cậu bé mới sinh Alexanđrơ Puskin, mà là - ngày 26/V/1799 tin tức về sự ra đời cháu gái Maria của Nga hoàng Paven đã bay tới thủ đô thứ hai. Song lịch sử theo cách riêng của mình ghi nhận những sự kiện trọng đại: Tại Matxcơva, ở nước Nga xuất hiện một con người vĩ đại vô song.
                V.Vêrêxaep
                (Trích lời nói đầu cuốn "Puskin trong đời thường")

                Puskin (Alexanđrơ), 13 tuổi. Có năng khiếu hào hoa nhiều hơn là khả năng chắc chắn, một trí năng thiên về bồng bột và tinh tế hơn là sâu sắc. Nết chăm chỉ trong học tập chỉ ở mức trung bình, bởi lẽ đức cần cù còn chưa trở thành phẩm hạnh của em. Kiến thức của em nói chung hời hợt, tuy đã bắt đầu quen với nếp tư duy có căn bản. Một số đặc điểm: tính hay tự ái, hiếu thắng, tâm hồn nhạy cảm, nhiệt thành, bộc trực, vô tư và đặc biệt là lắm lời, dẫu khá sắc sảo. Tuy nhiên, em rõ ràng tốt bụng, tự biết mình có nhiều nhược điểm, luôn sẵn sàng nghe theo lời khuyên bảo, nên đã có một số tiến bộ. Thói lắm lời và óc sắc sảo của em đã bắt đầu có chiều hướng mới tốt hơn cùng với sự thay nếp tư duy, nhưng trong tính cách của em nói chung còn khí ít sự kiên định. M.C.Piletxki
                "Quản giáo trường nội trú về học tập và hạnh kiểm"

                Puskin đọc vô cùng hào hứng. Tôi lắng nghe những vần thơ quen thuộc mà xúc động đến sởn da gà. Khi Trưởng lão thi đàn nước ta G.Dezavin, mắt đẫm lệ vì hân hoan, đứng dậy ôm hôn tác giả và làm dấu thánh trên mái tóc xoăn tít, thì tất cả chúng tôi đều lặng đi bởi một xúc cảm khôn tả. Rồi chúng tôi cũng định ôm chầm lấy chàng thi sĩ của mình nhưng không thấy cậu ta đâu nữa; Puskin đã biến mất từ lúc nào.
                Ghi chép của Ivan Pusin (bạn cùng trường Litxê)


                "Thầy chiến bại tặng trò chiến thắng nhân một ngày trang trọng khi anh hoàn thành bản trường ca Puxlan và Liutmila, năm 1820, tháng Ba, ngày 26, thứ sáu vĩ đại."
                Lời đề tặng Puskin ghi trên tấm chân dung của V.A.Zucốpxki -
                (người chủ xướng phái lãng mạn trong văn học Nga)

                Vào một ngày đẹp trời nọ, quan cảnh sát trưởng mời Pusin đến trình diện bá tước Milôrađôvich - Tổng trấn kinh thành Petecbua thời đó. Người ta vừa mới đưa Puskin tới thì Milôrađôvich lệnh cho cảnh sát trưởng lập tức đến tư gia của Nhà thơ và niêm phong mọi giấy tờ. Nghe thấy lệnh ấy, Puskin nói với Tổng trấn: "Thưa bá tước, ngài chỉ hoài công thôi, vì sẽ chẳng tìm thấy ở đó những gì ngài cần đâu. Tốt hơn hết, xin ngài lệnh đem cho tôi giấy bút, tôi sẽ viết ra tất cả ngay tại đây". Milôrađôvich thực sự cảm kích trước sự bộc trực phóng khoáng như vậy, liền long trọng… bắt tay Nhà thơ. Puskin ngồi vào bàn và viết lại tất cả những bài thơ lưu hành bí mật của mình.
                Ghi chép của Ivan Pusin.

                Ngẫu nhiên được biết về hình phạt nghiêm khắc sắp giáng xuống đầu Nhà thơ, Tsađaiep giữa đêm hôm phóng ngựa tới gặp N.M.Caramzin, khiến ông ta hơi sửng sốt trước cuộc viếng thăm khuya khoắt như vậy. Tsađaiep đã thuyết phục được nhà sử gia tạm gác công trình lại và tức tốc đến bệ kiến Hoàng đế Alexanđrơ I đặng cầu xin cho Puskin.
                Hồi ký về Tsađaep của D.N. Xvecbeep

                Puskin đã được ân xá và được phép đến bán đảo Crưm. Tôi đứng ra cầu xin cho anh ta vì lòng trắc ẩn đối với tài năng và tuổi trẻ: may ra anh ta sẽ trở nên chín chắn hơn, chí ít là trong hai năm như đã hứa với tôi.
                N.M.Caramzin (nhà văn-sử gia, có uy tín với Alexanđrơ I)
                Thư gửi I.I.Dmitriep ngày 7/VI/1820

                Puskin yêu thích cưỡi ngựa; có những ngày ông hầu như không rời khỏi mình ngựa (…) Ông thường ăn vận khá độc đáo: khi thì mặc kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, ống quần rộng thùng thình, chân đi dép, đầu đội mũ nan rộng vành, miệng ngậm tẩu, khi lại mặc như người Hy lạp, hay như dân Zigan v.v… Trong lúc dạo chi khắp phố phường vào các ngày lễ, hễ bắt gặp những đoàn người Mônđavia hát múa là nhà thơ liền nhập bọn, không hề tỏ ra ngượng ngịu trước đám đông tò mò xúm quanh, chỉ cốt "xem Puskin".
                Theo lời kể của các bô lão thành Kisinhôp

                Chiếc nhẫn vàng của Puskin, mặt hồng ngọc bát giác chạm trổ, trên khắc dòng chữ Do thái: "Ximkha, con trai thầy tu Ioxif tôn kính, cầu cho vong linh Người được bằng an". Chiếc nhẫn của nữ công tước Vôrônxôva tặng Puskin (vì thế mà đã cảm tác bài thơ Lá bùa hộ mệnh). Puskin luôn đeo trên tay, trong giây phút hấp hối, Ông đã tặng lại cho nhà thơ Zucốpxki.
                Danh mục liệt kê của bảo tàng Puskin.

                Nhân đây tôi muốn nhắc lại lời thỉnh cầu của mình: xin hãy giải thoát tôi khỏi ngài Puskin, hắn, rất có thể, là một anh chàng tuyệt vời và một nhà thơ khá, song tôi vẫn không muốn anh ta hiện diện cả tại Ôđetxa lẫn Kisinhốp.
                Bá tước M.X. Vôrônxôp
                (Thư từ Kisinhôp gửi bá tước K.V.Nhexenrôt ngày 2/V/1824)

                Ở đây tôi trơ trọi một mình, sống y như một cậu ấm nửa mùa, suốt ngày nằm dài trên đệm mà nghe các câu chuyện thần thoại và ca khúc dân gian. Tứ thơ bí rì rì. Hình như tôi có viết cho anh rằng trường ca Đoàn người Zigan của tôi là đồ bỏ đi. Tôi nói dối đấy, anh đừng tin. Anh sẽ rất hài lòng cho mà xem.
                Puskin
                (Thư từ Mikhailôpxcôie gửi công tước P.A Viazemxki ngày 25 tháng Giêng 1825)

                Không biết Zucốpxki có dò hỏi được xem liệu tôi có thể hy vọng được Hoàng thượng chiếu cố hay không, đã sáu năm nay tôi bị thất sủng, vậy mà nói sao thì nói, tôi mới 26 tuổi. Năm 1824 đức cố Hoàng đế đày tôi về làng quê chỉ vì mấy dòng thơ bất kính giáo đường - tôi tự thấy chẳng có tội lỗi gì khác. Chẳng lẽ vị Nga hoàng trẻ tuổi của chúng ta không thể cho tôi lui về một nơi ấm áp hơn ư? - nếu như quả tôi không xứng đáng được ló mặt về thành Peterburg? Tha lỗi cho tôi nhé, anh bạn quý mến, buồn nản hết chịu nổi rồi.
                Puskin
                (Thư gửi từ Mikhailôpxcoie cho P.A.Pletnhiôp, hạ tuần tháng Giêng 1826)

                Lấm bê bết từ đầu đến chân, tôi bị điệu thẳng vào Ngự tiền văn phòng. Hoàng thượng dụ: "Chào Puskin! Ngươi hài lòng là được trở về chứ?". Tôi hồi đáp theo đúng nghi lễ. Hoàng thượng nói chuyện với tôi hồi lâu, rồi hỏi: "Này, Puskin, ví thử có mặt tại Peterburg, liệu ngươi có tham gia vụ 14 tháng Chạp không?" - Tâu Hoàng thượng, đương nhiên là có, tất cả bạn hữu của thần đều can dự vụ bạo nghịch này, nên thần không thể không tham gia. Chỉ sự vắng mặt tình cờ đã cứu thần, bởi vậy thần xin tạ ơn Chúa!" Đức Hoàng thượng phán bảo: "Ngưi càn quấy như vậy đủ rồi đó, ta hy vọng từ nay ngươi sẽ chín chắn hơn, và chúng ta sẽ không bất hoà với nhau nữa. Ngươi sẽ trình lên ta tất cả những gì ngươi sáng tác; từ nay ta trực tiếp làm kiểm duyệt viên của ngươi."
                Puskin
                (Theo lời kể lại của A.G. Khômutôva)

                Puskin ngồi xe trạm cùng đặc phái viên về Matxcva vào thẳng Hoàng cung. Ngay hôm đó, trong vũ hội tại bản doanh của Nguyên soái Macmôn, quận công xứ Raguzi và Sứ thần nước Pháp, Hoàng thượng gọi ngài Bluđốp lại gần và phán bảo: "Ngươi có biết mới rồi ta đã trò chuyện với một kẻ thông thái nhất nước Nga không?" Thấy vẻ mặt ngây ra thắc mắc của Bluđôp, Hoàng đế Nicôlai liền nói: "Puskin !"
                Nhà sử học P.I.Bartenhep. Lưu trữ Nga

                Việc Puskin lại xuất hiện ở xã hội thượng lưu cố đô đã thu hút sự chú ý của mọi người… Khi ông lần đầu tới Nhà hát lớn, khán giả không nhìn lên sân khấu nữa mà chỉ ngắm Nhà thơ yêu quý của mình.
                Nhà báo - nhà sử học N.A.Pôlêvôi

                Thế là tôi lại đang ở giữa làng quê… Bỗng có một cảm giác khoan khoái đầy thi vị khi được trở lại nhà tù xưa trong tư cách một con người tự do. Anh biết đấy, tôi không bao giờ chơi cái trò uốn éo đa cảm, thế nhưng cuộc đón tiếp của gia nhân và của nhũ mẫu tôi khiến con tim rung động hơn nhiều so với những bả vinh quang, khoái cảm hiếu thắng, hay nỗi ưu tư mông lung… Nhũ mẫu tôi đến nực cười. Anh có tưởng tượng được không: bẩy chục tuổi đầu rồi mà bà vẫn học thuộc lòng bài kinh mới cầu nguyện Đấng Tối Cao lòng lành… Mồng 1 tới tôi sẽ đến thăm anh, bà lệnh cho tôi như vậy! Bạn yêu quý, Matxcơva để lại trong lòng tôi ấn tượng khó chịu, nhưng dẫu sao được gặp gỡ với anh vẫn hơn là thư từ qua lại.
                Puskin
                (Thư gứi công tước P.A.Viazemxki từ làng Mikhailôpxcôie ngày 9/I/1826.)

                Từ mùa đông 1828 - 1829 Puskin đã sững sờ trước nhan sắc của Natalia Gônsarôva. Theo lời của chính Nhà thơ, ông bắt đầu tính tới chuyện hôn nhân, mong kết thúc đời trai trẻ và thoát ra khỏi tình cảnh khi bất cứ trang thanh niên nào trong vũ hội cũng có thể vỗ vai ông mà rủ rê nhập những hội ba láp.
                Công tước Pav.P.Viazemxki

                … Một hôm vào buổi tối, - vừa vặn đúng hai ngày nữa là ngài làm lễ cưới - em đến thăm ngài Nasôkin với lại Ônga (cô gái Zigan sống với Nasôkin) Chúng em còn chưa kịp chào hỏi nhau thì một cỗ xe trượt tuyết đã đỗ xịch trước thềm và ngài Puskin bước liền vào hiên. Vừa nhác trông thấy em, ngài Puskin kêu toáng lên: "Ô! Nguồn vui của ta, ta rất mừng được gặp lại em, chào em, món quà vô giá!", đoạn hôn vào má em rồi ngồi phịch xuống ghế bành. Rồi bỗng nghĩ ngợi có vẻ lao lung lắm, tay chống cằm, nhìn em đăm đăm, đoạn bảo: "Tanhia, em hát một bài chúc phúc cho ta đi; em nghe nói rồi chứ: ta sắp lấy vợ đấy!" - "Chúng em biết quá đi chứ, cầu Thượng đế ban phước cho ngài, Alexanđrơ Xecgâyevich ạ" - "Thế thì em hát đi, nào hát đi!" Em bảo con bạn: "Ôlia, đưa cái đàn ghi ta đây, bọn mình hát hầu ngài Puskin chứ?" Con bạn lấy đàn ra, tay em lựa khúc dạo mà cái đầu vẫn chưa nghĩ ra được bài hát gì… Lòng em hôm ấy nặng trĩu, số là em phải lòng một anh chàng, nhưng mụ vợ lại vừa mới lôi hắn về quê, đâm ra em cứ rầu cả người. Mải nghĩ chuyện mình, đâm ra em hát hầu ngài Puskin bài dẫu gọi là bài khai vị, nhưng giá mà hôm ấy em không hát nó thì hơn, người ta bảo rằng em gở mồm gở miệng:
                Ôi mẹ, sao ngoài đồng bụi mịt mù bay?
                Ôi cô nương, sao bụi mù trời đất?
                Ngựa hý vang trời. Ngựa ai đó nhỉ, kìa ngựa ai?
                Ngựa của Alexanđr Xecgâyevich đó…
                Miệng em hát, mà lòng thì buồn quá chừng, nên có lẽ giọng rầu rĩ lắm… Bỗng em nghe ngài Puskin khóc rưng rức. Em ngẩng đầu lên thì thấy ngài đang hai tay bưng mặt khóc như đứa con nít. Ngài Nasôkin vội chạy lại: "Làm sao thế, Puskin, làm sao thế?" Ngài Puskin đáp: "Trời! Bài ca của con bé làm tan nát lòng tôi rồi, nó không hứa hẹn niềm vui, mà báo trước cho tôi một mất mát lớn đấy!" Lát sau, ngài Puskin bỏ về, không chào từ biệt một ai.
                Cô gái Zigan Tachiana Demianôpna

                Trong lúc làm hôn lễ ở nhà thờ, khi cặp tân hôn đi vòng quanh bục thánh thì ngẫu nhiên cây thánh giá và quyển kinh Phúc Âm bị rơi xuống đất. Puskin tái mặt đi. Sau đó cây nến trong tay nhà thơ lại bị tắt. Puskin lẩm bẩm: "Toàn điềm gở hết".
                Nữ công tước E.A.Dôngôrucôva

                Tôi đã lấy vợ và hạnh phúc. Tôi chỉ có một nguyện vọng là mong sao trong đời tôi không còn gì thay đổi nữa, tôi không ham muốn gì hơn. Tâm trạng tôi giờ đây thật mới mẻ, có cảm giác là tôi đã tái sinh.
                Puskin
                (Thư gửi Pletnhiôp từ Matxcva ngày 24/II/1831)

                Từ năm 1831 Puskin chọn sáng tạo một công trình vĩ đại, đòi hỏi phải dầy công nghiên cứu vấn đề, vô số những việc chuẩn bị và một sự thực hiện thiên tài. Ông bắt đầu viết tiểu sử Pi-e Đại đế… Ông quan tâm chủ yếu các công trình sử học. Sáng sáng nhà thơ đến một kho lưu trữ nào đó, được cái lợi là cuộc dạo chi bằng đi bộ từ đó về ăn bữa chiều ở nhà. Ngay cả giữa mùa hè ông cũng quốc bộ từ biệt thự ngoại ô về trung tâm để tiếp tục sự tìm tòi của mình.
                Pletnhiôp
                (Tác phẩm và thư từ)

                Anh cáo ốm và chỉ sợ gặp mặt Hoàng thượng. Anh sẽ ngồi lỳ ở nhà suốt những ngày lễ này. Cũng không có ý định đến yết kiến Hoàng thái tử để chúc mừng, còn lâu ông ta mới lên làm Nga hoàng, chắc anh chẳng được thấy ngày ấy. Anh từng chứng kiến ba vị Nga hoàng: vị thứ nhất mắng nhũ mẫu và bắt phải cởi bỏ lễ phục cho anh, vị thứ hai đày đọa anh, vị thứ ba dẫu tống anh vào hàng Thiếu niên - Thị tòng khi anh sắp lên lão, nhưng đánh đổi ông ta lấy vị thứ tư thì anh vẫn không muốn: tránh vỏ dưa sẽ gặp vỏ dừa mà. Để rồi xem cu Xasca của chúng mình sẽ khéo xử với người trùng tên nó trong hoàng bào ra sao, chứ cha nó thì đã luôn bất hoà với kẻ trùng tên mình. Lạy Chúa đừng để cho con trai chúng ta đi theo vết chân cha nó: làm thơ và gây sự với chư vị Nga hoàng.
                Puskin
                (Thư gửi cho vợ ngày 20/IV/1834 )

                … Hoàng thượng tỏ vẻ không hài lòng khi biết chuyện tôi phát biểu thiếu tôn kính về việc được tấn phong làm Thị tòng. Khốn nỗi, tôi có thể làm một thần dân ngoan ngoãn, thậm chí làm một kẻ nô lệ, nhưng không đời nào trở thành một tên gia nô và thằng hề ngay cả của Ngọc hoàng Thượng đế.
                Puskin
                (Nhật ký, ngày 10/V/1834)

                Bà mẹ tôi bị ốm nên tôi phải trở về thành phố (…) Cái gia đình tôi đang mỗi năm một đông ra, lớn lên, nô đùa ầm ĩ quanh tôi. Giờ đây có lẽ chẳng còn cớ gì để mà trách cuộc đời, và cũng chẳng việc gì phi lo ngại tuổi già. Kẻ độc thân thật đáng buồn ở đời: hắn lấy làm bực mình mỗi khi nhìn thấy thế hệ mới, tươi trẻ; chỉ có người cha của một gia đình mới ngắm nhìn không ghen tức lớp trẻ quây quanh ôngta
                Puskin
                (Thư gửi P.V.Nasôkin từ Petecbua, cuối tháng 10/1835)
                Sáng ngày 4/XI tôi nhận được ba bả,n một bức thư nặc danh bôi nhọ danh dự của tôi và vợ tôi. Căn cứ loại giấy, lời lẽ trong thư, cách diễn đạt, tôi tức khắc xác định được rằng tác gi nó là một người ngoại quốc, thuộc xã hội thượng lưu, một quan chức ngoại giao. Tôi bắt đầu cuộc điều tra và phát hiện ra rằng cùng ngày có bảy - tám người nữa cũng nhận được mỗi người một bản của bức thư đó, dán kín trong hai lần phong bì và đề tên tôi. Đa số những người nhận được thư nghi ngờ chúng chứa đựng điều gì đó bỉ ổi nên đã không chuyển cho tôi.
                Puskin
                (Thư gửi Thủ trưởng mật thám - bá tước A.X. Benkendoocf ngày 21 tháng Giêng 1836.)

                Đantex mang đến Puskin thư trả lời. Puskin không đọc, nhưng nhận lời thách quyết đấu của con nuôi Heckeren (tức Đantex).
                Công tước P.A.Viazemxki
                (Thư gửi đại công tước Mikhain Paplôvich.)

                Puskin tiến đến vị trí trước, dừng lại và giơ súng lên. Nhưng đúng lúc đó, Đantex, còn cách vị trí một bước nữa, đã nổ súng. Ngã gục xuống, Puskin còn nói: "Hình như tôi bị bắn vỡ đùi rồi".
                A. Ammôxôp.

                Nằm nghiêng trên mặt tuyết, Puskin ngắm vào Đantex đến hai phút, rồi nổ một phát, chính xác đến mức ví thử Đantex không đưa tay lên che ngực thì chắc chắn đã bị bắn chết: viên đạn xuyên thủng bàn tay, găm trúng chiếc khuy đồng trên quân phục và làm rạn hai xương sườn của Đantex.
                A.A. Secbinin
                (Ghi chép.)

                Họ về đến nhà lúc 6 giờ. Bác quản gia bế Puskin lên cầu thang. Nhà thơ hỏi: "Bác có buồn khi phải bế tôi thế này không?" Cô vợ đáng thương chạy ra đón chồng ở tiền sảnh, khuỵu xuống ngất đi. Người ta mang Puskin vào thư phòng; ông bảo mang đến một bộ đồ lót sạch sẽ, thay quần áo và nằm xuống cái đi-văng. Vợ ông tỉnh lại, định vào, nhưng ông thét to: "n'entrez pas !" (đừng vào), sợ Natalia trông thấy vết thương, vì tự ông biết vết thương nguy hiểm. Natalia chỉ được vào sau khi mọi việc đã xong.
                V.A. Zucôpxki.
                (Thư gửi cho cha của Puskin.)

                Puskin yêu cầu viên bác sĩ Arent nói thật: tình trạng vết thương ra sao, và khẳng định bất luận câu trả lời thế nào cũng sẽ không làm ông hoảng sợ, nhưng ông cần biết chính xác tình cảnh của mình để kịp ra một vài lệnh cần thiết. Arent đáp:
                - Nếu quả vậy thì tôi buộc phải nói rằng vết thương của ngài rất nguy hiểm và tôi hầu như không còn hy vọng ngài sẽ qua được.
                Puskin cám ơn Arent về câu trả lời thẳng thắn và đề nghị đừng nói cho vợ ông biết. Khi từ biệt nhà thơ, Arent tuyên bố rằng theo bổn phận của mình, ông phải báo cáo về mọi việc xảy ra với Hoàng thượng. Puskin không phản đối, chỉ đề nghị Arent thay mặt ông thỉnh cầu Hoàng thượng không trừng phạt người phò tá ông trong trận quyết đấu (Đanzax). Khi ra về, Arent nói với người tiễn ông ở tiền sảnh là Đanzax: "Chuyện vô cùng tồi tệ, ông ta sẽ chết".
                A. Ammôxôp

                Đanzax nói với Puskin rằng anh sẵn sàng trả thù kẻ thù đã giết ông. "Không, không, - Puskin đáp, - hoà giải, hoà giải"
                A.N. Venhevitinốpva nói với cha của Puskin, theo lời E.A. Caramzina.

                Arent, người trong đời đã thấy tận mắt nhiều cái chết cả trên bãi chiến trường, cả trên giường bệnh, rời nơi Puskin nằm và nói, hai mắt đẫm lệ, rằng ông chưa từng chứng kiến một sự chịu đựng phi thường như vậy. Ông còn nói và nhắc lại nhiều lần sau này một lời an ủi tuyệt vời về nỗi bất hạnh chung ấy:
                - Thật đáng tiếc cho Puskin là ông ta đã không bị bắn chết ngay tại chỗ, bởi vì những đau đớn của ông không lời lẽ nào tả xiết. Nhưng với thanh danh của vợ ông thì việc ông sống sót là một cái phúc. Không một ai trong chúng tôi được chứng kiến những ngày cuối cùng, lại dám nghi ngờ về sự vô tội của Natalia, cũng như về tình yêu Puskin vẫn giữ nguyên vẹn với nàng.
                Những lời này ở miệng Arent vô cùng quý giá, bởi ông là một người không có mối quan hệ riêng tư nào với Puskin, túc trực bên cạnh Puskin cũng như đối với bất kỳ ai khác trong tình cảnh tương tự. Phải là người biết Arent, với tính bàng quan của ông, cùng sự chai sạn của ông đối với những cảnh tương tự thì mới hiểu hết ấn tượng mạnh mẽ ông đã cảm nhận. Có nghĩa là điều ông được chứng kiến phải có sức thuyết phục lớn, phải đáng kinh ngạc lắm, phải chân thực lắm thì mới xâm chiếm nổi tâm trí ông.
                P.A Viazemxki
                (Thư gửi Đavưđốp, ngày 5/II/1837.)

                Trong những cơn đau khủng khiếp về thể xác (khiến ngay Arent, một người đã dạn dày với những cảnh tương tự, cũng phải rùng mình), Puskin chỉ nghĩ về vợ, về những điều nàng phải cảm nhận do lỗi của ông. Mỗi phút dịu giữa hai cơn đau, ông lại gọi nàng đến bên, cố an ủi, nhắc đi nhắc lại là ông cho rằng nàng hoàn toàn không có lỗi trong cái chết của ông, rằng không một giây phút nào ông ngừng tin tưởng và yêu quý nàng.
                Nữ công tước E.N. Mesecxcaia - Caramzina.

                Vĩnh biệt vợ, Puskin nói với nàng: "Em hãy về sống ở làng quê, để tang anh hai năm, rồi đi lấy chồng, nhưng phải lấy một người đứng đắn."
                P.I.Barenhep
                (Theo lời nữ công tước V.F. Viazemxcaia)


                Sau khi Puskin chết, mấy ngày liền vợ ông lên những cơn động kinh, khiến hàm răng đều đặn tuyệt đẹp của nàng bị lung lay hết.
                F.G. Toli
                (Theo lời nũ công tước E.A. Đôngôrucôva)

                Cái chết đã làm bộc lộ trong tính cách của Puskin tất cả những gì nhân hậu và tốt đẹp nhất. Nó đã soi sáng toàn bộ cuộc đời ông. Sinh thời, chẳng những kẻ bàng quan, mà ngay bạn bè cũng không hiểu hết Puskin. Thú thực, và cũng là tạ tội với hương hồn ông, chính tôi cũng không ngờ ông lại có tâm lực toàn năng đến như vậy. Có biết bao sự cao thượng, sức mạnh và lòng vị tha kín đáo, sâu sắc nhường ấy trong tâm hồn đau khổ đó! Tình cảm của Puskin đối với vợ đạt tới sự dịu dàng cao cả nhất hạng. Không một lời cay đắng, không nửa câu trách móc, không một chút bóng gió nào đến những chuyện đã xảy ra, chỉ toàn những lời dàn hoà và tha thứ cho địch thủ…
                P. A. Viazemxki
                (Thư gửi đại công tước Mikhain Paplôvich)

                Nhân dân đã chứng tỏ lòng yêu quý đối với Nhà thơ qua việc trong một ngày mà có 32.000 người đến nghiêng mình trước linh cữu ông.
                Ja.N.Nhevrôp
                ( Thư gửi T.N.Granôpxki.)


                Vầng mặt trời thi ca Nga lặn mất rồi ! Puskin đã từ trần, từ trần ở độ nở rộ, giữa chừng văn nghiệp vĩ đại của mình!.. Thật không còn đủ tâm trí viết gì thêm nữa, vả lại viết nữa mà làm gì: trái tim Nga nào mà chẳng hiểu thấu sự mất mát không gì bù đắp nổi này, có trái tim Nga nào mà không tan nát. Puskin! Thi hào của chúng ta! Nguồn vui của chúng ta, vinh quang của nhân dân ta!.. Chúng ta không còn Puskin nữa thật sao! Không tài nào quen được với ý niệm này!
                Trưa ngày 29 tháng Giêng, hồi 2 giờ 45 phút. Phụ trương văn học báo "Người tàn tật nước Nga" 30 tháng Giêng năm 1837

                Hà Minh Thắng dịch
                (Trích từ cuốn Alexanndr Puskin - Tuyển tập tác phẩm, tập IV - Nxb Văn học, Hà Nội, 1999)




                PHẦN HAI

                SÁNG TÁC CỦA PUSKIN

                A. THƠ TRỮ TÌNH

                Ca sĩ

                Từng nghe chăng sau rừng khuya giọng hát
                Ca sĩ tình yêu, ca sĩ muộn phiền?
                Lúc ban sớm giữa đồng im ắng,
                Réo rắt buồn tiếng sáo dương gian
                Từng nghe chăng hỡi bạn?

                Từng gặp chăng giữa rừng sâu cô tịch
                Ca sĩ tình yêu, ca sĩ muộn phiền?
                Nhận ra chăng nụ cười, ngấn lệ,
                Hay ánh sầu đáy mắt đăm đăm,
                Từng gặp chăng hỡi bạn?

                Thở dài chăng, tuân lời thầm gọi
                Ca sĩ tình yêu, ca sĩ muộn phiền?
                Khi bắt gặp trong rừng chàng trẻ tuổi,
                Gặp mắt nhìn u tối xa xăm,
                Thở dài chăng, hỡi bạn? 1816
                PHẠM THỊ PHƯƠNG dịch





                Tự do

                Hãy xéo đi, hãy xéo khuất mắt ta,
                Hỡi nữ hoàng hèn yếu đo Xitera !
                Đâu nỗi kinh hoàng của đế vương thiên tử,
                Đâu, nàng đâu, hỡi nàng ca sĩ,
                Hỡi nàng thơ kiêu hãnh của tự do ?
                Hãy tới gỡ hoa vinh dự khỏi đầu ta !
                Tới đập tan cây đàn thơ ẻo lả !
                Ta muốn ngợi ca Tự do cho trần thế,
                Ta muốn đập vào những tật xấu gian tham,
                Đang nghiễm nhiên ngự trị trên ngai vàng…

                Nàng hãy chỉ dấu vết cũ vinh quang
                Của con người Gôloa cao thượng,
                Người nàng đã gợi cho những lời ca hùng tráng
                Giữa những cơn bão tố huy hoàng.
                Bay run lên! lũ chuyên quyền bạo chúa,
                Lũ cháu con của số phận đa đoan!
                Còn các anh, đám nô lệ lầm than,
                Hãy dũng cảm, lắng nghe và đứng dậy!

                Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược !
                Ta căm ngươi, ngôi báu của ngươi,
                Ta thấy trước với niềm vui cay độc
                Cái chết của ngươi, của cháu con ngươi.
                Thế gian sẽ thấy trên trán tên bạo chúa
                Dấu vết của người đời nguyền rủa,
                Ngươi là mối kinh hoàng trên cõi thế gian,
                Lời nguyền rủa của Chúa Trời trên mặt đất.
                1817
                THÚY TOÀN trích dịch.Create your own mobile web site at www.maihoatrang.com!

                #8
                  tieuboingoan 15.04.2006 17:47:45 (permalink)

                  Tôi đã thôi ước mơ,
                  Đã không còn hy vọng.
                  Chỉ còn lại bây giờ
                  Là nỗi buồn trống rỗng.

                  Hoa đời tôi đã tàn
                  Trong bão đời khắc nghiệt
                  Tôi sống buồn, cô đơn
                  Chờ: phải chăng sắp chết?

                  Tôi như chiếc lá gầy
                  Treo trên cành trơ trọi,
                  Vàng, bé nhỏ, lắt lay
                  Giữa mùa đông gió thổi.
                  1821

                  THÁI BÁ TÂN dịch





                  Hết rồi - tình đã vỡ tan
                  Anh ôm lần chót đôi bàn chân em
                  Những lời chua xót thốt lên -
                  Anh nghe lời đáp của em - hết rồi.
                  Anh không còn tự dối thôi,
                  Nỗi sầu anh chẳng trọn đời dõi em
                  Chuyện tàn, có thể anh quên;
                  Tình yêu không thể đáp đền cho anh !
                  Trẻ trung hồn, lại đẹp xinh
                  Mai em được biết bao tình mến yêu
                  1824

                  XUÂN DIỆU dịch

                  GửI ***

                  Anh nhớ mãi phút giây huyền diệu:
                  Trước mặt anh em bỗng hiện lên,
                  Như hư ảo mong manh vụt biến,
                  Như thiên thần sắc đẹp trắng trong.
                  Giữa day dứt sầu đau tuyệt vọng,
                  Giữa ồn ào xáo động buồn lo
                  Tiếng em nói bên tai anh văng vẳng,
                  Bóng dáng em anh gặp lại trong mơ.

                  Tháng ngày qua. Những cơn gió bụi
                  Đã xua tan mộng đẹp tuổi thơ,
                  Lãng quên rồi giọng em hiền dịu,
                  Nhoà tan rồi bóng dáng nguy nga.

                  Giữa cô quạnh âm u tù hãm
                  Dòng đời trôi quằn quại hắt hiu,
                  Chẳng thiên thần, chẳng nguồn cảm xúc,
                  Chẳng đời, chẳng lệ, chẳng tình yêu,

                  Cả hồn anh bỗng bừng tỉnh giấc:
                  Trước mặt anh em bỗng hiện lên,
                  Như hư ảo mong manh vụt biến,
                  Như thiên thần sắc đẹp trắng trong.

                  Quả tim lại rộn ràng náo nức,
                  Vì trái tim sống dậy đủ điều:
                  Cả thiên thần, cả nguồn cảm xúc,
                  Cả đời, cả lệ, cả tình yêu.
                  1825

                  THÚY TOÀN dịch




                  Chiều đông

                  Đầy trời bão nổi sa mù
                  Xoáy sâu từng cơn lốc tuyết
                  Lúc như thú rừng gầm thét
                  Lúc oà tiếng khóc trẻ thơ
                  Lúc trên mái nhà cổ sơ
                  Lay lắt tầng tranh than thở
                  Lúc đập gấp vào cửa sổ
                  Như người khách chậm đường xa.

                  Nỗi buồn tăm tối bao la
                  Phủ kín căn nhà dột nát,
                  U già ơi sao héo hắt,
                  Sao u chẳng nói lên lời ?
                  Hay than thở ngoài trời
                  Day dứt làm u mệt lả ?
                  Hay guồng sợi quay rời rã
                  Rì rầm ru u ngủ quên?

                  U già của tuổi thơ con
                  Bạn của đời con cực khổ
                  Uống đi u vài ngụm nhỏ
                  Trái tim có bớt ưu phiền?
                  U hát con nghe bài hát
                  Về con chim biển bình yên
                  U hát con nghe bài hát
                  Cô em quẩy nước dịu hiền.

                  Đầy trời bão nổi mù sa
                  Sâu xoáy từng cơn lốc tuyết
                  Lúc như thú rừng gầm thét
                  Lúc oà tiếng khóc trẻ thơ…
                  Rượu đâu rồi ? Uống đi u,
                  Bạn của đời con cực khổ
                  Uống đi u vài ngụm nhỏ
                  Trái tim có bớt ưu phiền ?
                  1825

                  BẰNG VIỆT dịch




                  Gửi mẹ nuôi

                  Bạn thân thiết trong những ngày cơ cực,
                  Nguồn mến thương nâng bước đời con !
                  Rừng thông thăm thẳm cô đơn
                  Ngóng con ngày tháng mỏi mòn mẹ trông
                  Trong phòng khách bên song cửa sổ
                  Như người canh thương nhớ mênh mang
                  Tay già lần mũi kim đan,
                  Như đang đếm bước thời gian chậm buồn.
                  Mẹ thẫn thờ nhìn đường xa thẳm,
                  Lối cổng vào bỏ vắng từ lâu,
                  Buồn thương, linh cảm, lo âu,
                  Lại càng chất nặng thắt đau ngực già.
                  Thốt nhiên mẹ tưởng sững sờ…
                  1826

                  THÚY TOÀN dịch




                  ĐÊM

                  Gọi em thiết tha dịu dàng
                  Đêm đen lặng lẽ muộn màng xôn xao
                  Bên giường ngọn nến gầy hao
                  Thơ anh thắp lửa hoà vào êm êm
                  Dòng thơ tình, đong đầy em
                  Chao nghiêng ánh mắt, bóng đêm vỡ oà
                  Ánh cười - nốt nhạc ngân nga:
                  Anh yêu có biết em là … của anh !
                  1823

                  HOÀNG THỊ VINH dịch



                  Con đường mùa đông

                  Xuyên những hàng sương gợn sóng
                  Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua,
                  Buồn rải ánh vàng lai láng
                  Lên cánh đồng buồn giăng xa.

                  Trên đường mùa đông vắng vẻ
                  Cỗ xe tam mã băng đi
                  Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ
                  Đều đều khắc khoải lòng quê.

                  Bài ca của người xà ích
                  Có gì phảng phất thân yêu:
                  Như niềm vui mừng khôn xiết,
                  Như nỗi buồn nặng đìu hiu.

                  Không một mái lều, ánh lửa…
                  Tuyết trắng và rừng bao la…
                  Chỉ những cột dài cây số
                  Bên đường sừng sững chào ta.

                  Ôi buồn đau, ôi cô lẻ…
                  Trở về với em ngày mai
                  Nina, bên lò lửa đỏ
                  Ngắm em, ngắm mãi không thôi.

                  Kim đồng hồ kêu tích tắc
                  Xoay đủ những vòng nhịp nhàng,
                  Và xua lũ người tẻ ngắt
                  Để ta bên nhau trong đêm.

                  Sầu lắm, Nina, đường xa vắng,
                  Ngủ quên bác xà ích lặng im
                  Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm,
                  Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng.
                  1826

                  THÚY TOÀN dịch



                  Gửi tới Xibir

                  Hãy giữ vững lòng trung kiên kiêu hãnh
                  Trong đáy sâu mỏ quặng Xibir,
                  Trí cao xa và công trình thê thảm
                  Của các anh chẳng uổng phí mất gì.

                  Đây niềm tin nơi hầm sâu u uất,
                  Như chị hiền sẽ xoa dịu thương đau,
                  Sẽ khi dậy niềm tin và sức mạnh,
                  Giờ phút ta mong ước chẳng còn lâu;

                  Lòng ưu ái mối chân tình bè bạn
                  Sẽ vượt qua chấn song sắt u sầu,
                  Tiếng tôi hát tự do phóng khoáng
                  Sẽ bay vào tận ngục tối hầm sâu.

                  Và xiềng xích nặng nề rơi rụng xuống.
                  Và ngục hầm sụp nát - và tự do,
                  Bên cửa ra đón các anh vui sướng,
                  Bạn bè xưa gươm kiếm sẽ trao đưa.
                  1827

                  THÚY TOÀN dịch



                  ARIÔN

                  Bọn chúng tôi khá đông trên thuyền gỗ,
                  Một số người đang căng buồm trước gió,
                  Còn số kia ra sức đẩy mái chèo
                  Những mái chèo khổng lồ vào lòng biển.
                  Người thuyền trưởng thông minh ghì tay lái
                  Điều khiển thuyền đầy ắp giữa bình yên.
                  Và riêng tôi - đầy tin tưởng vô biên
                  Cất tiếng hát để ngợi ca thủy thủ
                  Nhưng bỗng dưng bão dông trào sóng dữ…
                  Người lái thuyền và thủy thủ hy sinh
                  Riêng mình tôi - người ca xướng diệu huyền
                  Được dông tố ném lên bờ thoát chết.
                  Tôi lại hát chính khí ca thủa trước
                  Đem áo quần ướt sũng ra phơi
                  Trên tảng đá to dưới ánh nắng mặt trời.
                  1827

                  VIỆT THƯƠNG và THÚY TOÀN dịch



                  Ôi mùa xuân, mùa xuân, mùa tình yêu
                  Mùa xuân đến sao làm tôi buồn bã
                  Và trong máu, trong tim, thật lạ,
                  Như có gì mệt mỏi, buồn lo.

                  Tâm hồn tôi không khao khát đợi chờ
                  Cả những gì vui tươi lấp lánh
                  Cũng làm tôi buồn và bất hạnh

                  Hãy trả tôi cơn bão tuyết ngoài đồng,
                  Hãy trả tôi những đêm dài mùa đông.
                  1827

                  THÁI BÁ TÂN dịchCreate your own mobile web site at www.maihoatrang.com!
                  #9
                    tieuboingoan 15.04.2006 17:52:18 (permalink)
                    Ngài và anh, cô và em

                    Nàng buột miệng đổi tiếng ngài trống rỗng
                    Thành tiếng anh thân thiết đậm đà,
                    Và gợi lên trong lòng say đắm
                    Bao ước mơ tràn hạnh phúc reo ca,

                    Trước mắt nàng, tôi trầm ngâm đứng lặng,
                    Không thể nào rời ánh mắt khỏi nàng,
                    Và tôi nói: thưa cô, cô đẹp lắm !
                    Mà thâm tâm: Anh quá đỗi yêu em !
                    1828
                    THÚY TOÀN dịch





                    Em ơi ! em đừng hát
                    Những tiếng hát Gruzi
                    Vị chua cay nhắc lại
                    Một bờ bên kia, một đời bên kia.

                    Nghe giọng em ta nhớ
                    Một đêm trên cánh đồng
                    Dưới ánh trăng trong
                    Một người con gái xa xăm đau khổ.

                    Cái bóng ấy đáng thương và bất hạnh
                    Mỗi lần thấy em ta quên đi
                    Nhưng khi nghe thấy tiếng em hát
                    Hình ảnh kia lại hiện về.

                    Em ơi ! em đừng hát
                    Những tiếng hát Gruzi
                    Vị chua cay nhắc lại
                    Một bờ bên kia, một đời bên kia.
                    1828

                    TẾ HANH dịch



                    Thành phố phồn vinh, thành phố bần hàn,
                    Hồn câu thúc mà dáng hình đoan chính.
                    Vòm trời xanh, một màu xanh xam xám,
                    Buồn tẻ, lạnh băng, bên đá hoa cương -

                    Nhưng dù sao ta vẫn thấy vấn vương
                    Bởi đôi lúc bàn chân ai nho nhỏ
                    Vẫn đi về dạo bước trên đường phố
                    Những búp tóc vàng óng đung đưa.
                    1828

                    THÚY TOÀN dịch




                    Bông hoa nhỏ

                    Bông hoa khô héo, hết mùi hương,
                    Chợt thấy, bị quên trong trang sách -
                    Và hồn tôi mung lung tràn ngập
                    Cả một niềm mộng tưởng lạ thường:

                    Hoa nở ở đâu? Bao giờ nhỉ ?
                    Mùa xuân nào? Hoa nở lâu không?
                    Bàn tay ai hái, quen hay lạ ?
                    Và để đây có ý gì chăng ?

                    Kỷ niệm cuộc hẹn hò đằm thắm ?
                    Hay chia tay oan khốc bi thương ?
                    Hay trong rừng, giữa đồng quạnh vắng
                    Cuộc dạo chi lẻ bóng cô đơn ?

                    Và chàng còn ? Và nàng còn sống ?
                    Đâu là nơi nay họ nương nhờ?
                    Hay cũng đã héo tàn úa rụng,
                    Như là đây bí ẩn bông hoa?
                    1828

                    THÚY TOÀN dịch



                    Tôi yêu em

                    Tôi yêu em: đến nay chừng có thể
                    Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai ;
                    Nhưng không để em bận lòng thêm chút nữa ,
                    Hay hồn em phải gợn bóng u hoài.

                    Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng,
                    Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen,
                    Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm,
                    Cầu cho em được người tình như tôi đã yêu em.
                    1829
                    THÚY TOÀN dịch




                    Đê lích

                    Sau đồi vang tiếng súng
                    Địch ta dàn trận tuyến;
                    Đê lich vụt xông lên
                    Phóng ngựa vào vòng chiến.

                    Đê lích ! Đừng tiến nữa.
                    Hãy thương lấy cuộc đời;
                    Chỉ một giây ngạo nghễ
                    Trên ngọn giáo xác phơi.

                    Cazac ! Đừng nghênh chiến:
                    Đê lich vung gươm ngời
                    Trên ngựa vun vút tiến -
                    Một nhát là đầu rơi.

                    Cùng tiến và xáp trận
                    Hãy xem kìa ! Lạ sao ?…
                    Đê lich trên ngọn giáo
                    Còn Cazac không đầu.
                    1829

                    THÚY TOÀN dịch



                    SÔNG ĐÔNG

                    Ngời lấp loáng giữa đồng mênh mông
                    Kìa dòng chảy !.. Xin chào, sông Đông!
                    Từ chốn ngụ cháu con ngươi tít tắp
                    Ta đến đây ngả mũ xin chào.

                    Khắp nguồn sông ai mà chẳng biết,
                    Đông êm đềm là anh cả uy danh;
                    Từ Arắcx và Ơphrát
                    Ta đến đây ngả mũ xin chào.

                    Tung bờm gió những con tuấn mã,
                    Về nghỉ chân sau cuộc đua tranh
                    Uống dòng chảy Arpatrat,
                    Hít hương nồng vị đất thân quen.

                    Nào xắng xở, nào Đông yêu quý,
                    Thết các chàng kị sĩ oai phong
                    Men sủi bọt tan như nghiền nát
                    Cất từ đồng nho rộng mênh mông.
                    1829

                    PHẠM THỊ PHƯƠNG dịch




                    Một chút tên tôi đối với nàng
                    Sẽ chìm như tiếng sóng buồn lan
                    Âm thầm mòn mỏi bên bờ vắng,
                    Như tiếng đêm thâu lạc giữa ngàn.

                    Ngày nào đó trên mặt trang kỷ niệm
                    Nó chỉ còn là dấu vết không hồn
                    Giống như hình phác trên mộ chí
                    Nét ngoằn ngoèo thứ tiếng xa xăm.

                    Tên cũ từ lâu bị lãng quên
                    Chẳng còn gợi lại được cho em
                    Tình xưa êm ái và trong trắng
                    Trước mối tình ai mới dấy lên.

                    Nhưng nếu gặp ngày buồn đau đớn
                    Em thì thầm hãy gọi tên lên
                    Và hãy tin: còn đây kỉ niệm
                    Em vẫn còn sống giữa một trái tim.
                    1830
                    THÚY TOÀN dịch



                    Anh điếc lôi anh điếc ra hầu toà với quan toà điếc.
                    Anh điếc nọ hét thật to:
                    - Bẩm quý toà, nó dắt trộm con bò tôi !"
                    - Oan cho tôi ! - anh điếc kia cố lớn tiếng đáp lời:
                    - Đồng hoang ấy của nhà tôi đã từ đời cố nội !"
                    Quan toà điếc bèn phán: -"nhằm tuyệt diệt dâm ô,
                    Bản toà cho thằng nọ cưới, dầu con kia có tội !"
                    1830

                    VĂN KHÔI dịch




                    Tiếng vọng

                    Có tiếng thú gầm trong rừng thẳm
                    Tiếng tù và, tiếng sấm rền vang.
                    Hay bên đồi tiếng hát của một nàng
                    Sau mỗi âm thanh náo động
                    Là trong bầu không gian trống rỗng
                    Ngươi đều sinh ra một tiếng vang.

                    Người lắng nghe tiếng sấm rền dậy đất,
                    Tiếng sóng gầm tiếng thét bão dông,
                    Tiếng gọi nhau của lũ mục đồng
                    Mỗi tiếng ngươi đều đáp trả
                    Riêng tiếng ngươi không ai buồn vọng cả…
                    Số phận người cũng thế hỡi thi nhân.
                    1831

                    THÚY TOÀN dịchCreate your own mobile web site at www.maihoatrang.com!
                    #10
                      tieuboingoan 15.04.2006 17:58:05 (permalink)
                      Thu vàng

                      Thu buồn - cặp mắt đắm say,
                      Tôi yêu sắc đẹp em ngày chia phôi
                      Thiên nhiên tàn úa bỗng tươi,
                      Rừng thay áo mới, cả trời vàng au.
                      ồn ào hơi gió thổi mau,
                      Bầu trời gợn sóng như màu khói sương.
                      Vài tia nắng hiếm nhớ thương
                      Sợ mùa đông sớm quen đường đến nhanh.
                      Đắm trong yên tĩnh ngọt lành,
                      Tôi quên thế giới thức thành tiếng thơ.
                      Tâm hồn xáo động ngẩn ngơ,
                      Tơ lòng run rẩy, mộng chờ đợi ai.
                      1833

                      Hồ Quốc Vĩ dịch




                      Trái tim tôi tưởng đã quên
                      Thói thường đa cảm buồn phiền tình si
                      Tưởng rằng điều đã qua đi
                      Không khi trở lại, không khi vãn hồi
                      Sướng vui, buồn khổ trải rồi
                      Cùng rung động tuổi bồi hồi mộng mơ
                      Bỗng uy sắc đẹp non tơ
                      Tim không cưỡng nổi, bất ngờ xốn xang !
                      1835

                      VĂN KHÔI dịch



                      Đài Kỷ Niệm

                      Exegi monumentum

                      Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm
                      Không bởi sức tay người ! Đường tới viếng
                      Cỏ không trùm mất dấu bước thế nhân,
                      Đỉnh tháp ngang tàng sẽ ngẩng cao hơn
                      Cả trụ thờ Alecxanđrơ đệ nhất

                      Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết!
                      Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan
                      Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân
                      Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi.

                      Trên mọi nẻo đất nước Nga vĩ đại
                      Tiếng thơm rồi sẽ đồn mãi về ta,
                      Từ cháu con kiêu hãnh Xlava
                      Đến dân Phần, Tungu ngày nay còn man rợ,
                      Cả Canmức bạn thân của đồng cỏ
                      Bằng ngôn ngữ riêng họ sẽ gọi ta

                      Và nhân thế sẽ còn yêu ta mãi
                      Vì đàn thơ ta thức tỉnh tình thân ái,
                      Vì trong thuở bạo tàn ta ca ngợi tự do
                      Và gợi từ tâm với kẻ sa cơ

                      Nàng thơ hỡi, hãy tuân lời Thượng đế,
                      Vinh quang không màng, nhục hờn sá kể
                      Chẳng bận lòng tới kẻ thích người chê,
                      Chẳng hoài công cãi với đứa ngu si.
                      1836
                      THÚY TOÀN dịch



                      Chiếc khăn san màu đen

                      Lòng đau xé tưởng như điên dại,
                      Mỗi lần tôi nhìn lại chiếc khăn san.
                      Ngày tôi trai trẻ sống lang thang,
                      Yêu nồng thắm một cô nàng Hy Lạp.

                      Cô gái đẹp cũng yêu tôi tha thiết.
                      Nhưng không lâu tôi gặp phận rủi ro…
                      Một lần kia họp bè bạn gần xa,
                      Tên Do Thái cũng ở đâu mò đến…

                      “Ngài cùng bạn ở đây vui chè chén
                      (Nó rỉ tai) con Hy Lạp phản rồi !”
                      Tôi thưởng tiền và tống hắn đi ngay
                      Và cho gọi tên người nhà tin cẩn.

                      Trên mình ngựa chúng tôi lao phóng thẳng,
                      Nỗi thương đau thầm nén lặng trong long.
                      Tôi run lên, đôi mắt bỗng tối sầm…
                      Khi thoáng thấy bóng nhà tên phản phúc.

                      Chốn phòng riêng một mình tôi lẻn bước…
                      Thằng Ácmen ôm con bé đang hôn.
                      Lòng sôi lên loảng xoảng rút đường gươm…
                      Quân khốn kiếp ! Chiếc hôn còn chưa dứt…

                      Tôi di chân trên xác không đầu tóc
                      Tái mặt đi lặng lẽ đứng nhìn nàng.
                      Nhớ lời van và máu lại chảy tràn…
                      Cô gái chết và ái tình rũ chết !

                      Tháo chiếc khăn của nàng trên mái tóc
                      Tôi hằm hằm lau máu đẫm trên gươm.
                      Khi bóng chiều mờ mịt nặng nề buông
                      Sai đầy tớ ra Đunai vứt xác.

                      Từ ngày đó không còn hôn mắt đẹp
                      Không còn chờ những buổi tối hân hoan.
                      Lòng đau xé tưởng như điên dại
                      Mỗi lần tôi nhìn lại chiếc khăn san.

                      Thúy Toàn dịch



                      Chim họa mi và đóa hồng

                      Bên đóa hồng kiêu kỳ
                      Có con chim họa mi.
                      Loài danh ca sơn cước
                      Ngọt ngào lên tiếng hót :
                      “Nàng hồng ơi nàng hồng !
                      Ta trong xiềng trong xích
                      Nhưng lòng ta thỏa thích
                      Vì xiềng xích của nàng !”
                      Chim họa mi hót vang
                      Nhởn nhơ trong nô lệ.
                      Trên bụi cành nguyệt quế
                      Cạnh đóa hồng xinh xinh
                      Trong bóng đêm hữu tình.

                      Thuý Toàn dịch





                      Chiếc xe đời

                      A.S.Puskin

                      Trên xe dù có nặng
                      Vó ngựa vẫn băng băng
                      Thời gian toá hoa râm
                      Tay cương ngồi chễm chệ

                      Sáng ra lên xe ngồi
                      Đời xông pha bươn bải
                      Khinh nhác lười nhàn nhã
                      Hò vang mau đi thôi

                      Đến trưa nhụt chí rồi
                      Thấy rãnh hào lòng nản
                      Nhìn núi đôì đâm hoảng
                      Đồ ngu chầm chậm thôi

                      Chiều về đã dần quen
                      Tà tà đến quán trọ
                      Mặc cho bánh xe lăn
                      Thời gian xua vó ngựa.

                      Thuý Toàndịch





                      Tỉnh Giấc

                      Ước mơ, ước mơ
                      Ngọt ngào em đâủ
                      Em đâu, em đâu
                      Niềm vui đêm tốỉ
                      Sao em đi vội
                      Ôi, giấc mơ tiên?
                      Để anh ở lại
                      Bốn bề màn đêm.
                      Quạnh hiu tỉnh giấc
                      Chăn gối xung quanh
                      Và đêm lặng ngắt
                      Thoắt thôi lạnh mình
                      Thoắt thôi bay mất
                      Bao giấc mơ tình!
                      Nhưng hồn đầy ắp
                      Ước muốn còn xanh
                      Muốn đi đuổi bắt
                      Hoài niệm trong mơ
                      Lời cầu hãy nhận
                      Tình yêu, tình yêu
                      Cho tôi được thấy
                      Giấc mơ hồi nàọ
                      Khi bình minh tới
                      Lòng đầy hân hoan
                      Sẵn sàng tôi chết
                      Trong giấc mộng tình

                      Puskin




                      Biển
                      Puskin

                      Tôi chưa ra biển bao giờ
                      Ngỡ biển xanh, xanh màu im lặng
                      Tôi chưa yêu bao giờ
                      Ngỡ tình yêu là ảo mộng

                      Ngày nay tôi đã ra biển rồi
                      Biển nhiều sóng to, gió lớn
                      Ngày nay tôi đã yêu rồi
                      Tình yêu nhiều khổ đau - cay đắng

                      Không gió lớn, sóng to không là biển
                      Chẳng nhiều cay đắng, chắng là yêu...

                      Create your own mobile web site at www.maihoatrang.com!
                      #11
                        ha noi trong toi 21.04.2006 15:29:12 (permalink)
                        Chị Ly à , em không ở Vn , em đang ở UKR , nếu ở Vn thì nhà em cũng có cần gì đi đâu mua đâu ạ , hehe. Cảm ơn SH trước về sự giúp đỡ của bạn , cám ơn chị Ly , tulip cũng như tieuboingoan đã góp những bài viết hay về Puskin. Em cần bằng tiếng Việt kìa chứ tiếng Anh hay Pháp em không có , tiếng Nga thì chưa đủ để hiểu
                        To SH : mình rất muốn đọc về " cuộc đời của Nostradamus " bạn gửi được thì hay quá . Cảm ơn trước nhé.
                        Chúc mọi người 1 ngày vui vẻ
                        #12
                          tulipdenus 28.04.2006 02:15:29 (permalink)
                          Nostradamus và đôi mắt nhìn thấu tương lai

                          Michel de Nostredame là một trong những nhà tiên tri nổi tiếng nhất trong lịch sử nhân loại. Những lời tiên đoán của ông được thể hiện dưới dạng những bài thơ tứ tuyệt có vần.


                          Nhà tiên tri Nostradamus.
                          Nostradamus sinh ngày 14/9/1503 tại tỉnh St Remy, miền nam nước Pháp. Ông là con trai của một nhà buôn lúa mỳ gốc Do thái nhưng gia đình ông đã cải sang đạo Thiên chúa. Ngay từ khi còn nhỏ, Nostradamus đã bộc lộ năng khiếu toán học, thiên văn và chiêm tinh. Ông theo học y khoa tại Đại học Montpelier và tốt nghiệp tú tài năm 1525. Nạn dịch hạch bùng phát khiến ông phải tạm nghỉ học và đi cứu chữa bệnh nhân khắp nước Pháp. Thời gian này, ông được gặp và trò chuyện với nhiều bác sĩ, nhà giả kim, giáo sĩ đạo Kabbala và các nhân vật thần bí nổi tiếng thời Phục hưng.

                          Năm 1537, nạn dịch hạch cướp đi sinh mạng của vợ và hai người con ông. Nostradamus tiếp tục đi du lịch tới nhiều vùng của Pháp và Italy. Năm 1547, ông định cư ở Salon, kết hôn với một goá phụ giàu có là Anne Ponsarde Gemelle, người sinh cho ông 6 người con. Thời gian này, Nostradamus xao lãng y khoa để tập trung vào các ngành khoa học huyền bí và buôn mỹ phẩm. Năm 1550, ông viết một cuốn niên giám. Thành công bất ngờ, ông quyết định sẽ “xuất xưởng” mỗi năm một cuốn.

                          Nostradamus cũng bắt đầu kế hoạch viết hơn 1.000 bài thơ thứ tuyệt và trở thành những lời sấm truyền nổi tiếng. Tuy nhiên, để tránh bị soi xét và kiểm duyệt, ông thường dùng biện pháp chơi chữ, dùng các ngôn ngữ Hy Lạp, Latin, Italy, Do thái và Ảrập.

                          Bộ sách Lời tiên tri (còn gọi là cuốn Những thế kỷ) tổng hợp những bài thơ tứ tuyệt của ông nhận được những phản ứng trái ngược khi xuất bản. Nhiều người cho rằng, Nostradamus là sứ giả của quỷ dữ, một kẻ dối trá và ngông cuồng. Nhưng nhiều thành viên của giới quý tộc lại ủng hộ ông.

                          Catherine de Medici, hoàng hậu của vua Henry II của Pháp, là người lớn tiếng ủng hộ nhà tiên tri này. Bà mời ông đến Paris, nhờ ông giải thích ý nghĩa bài thơ thứ 35 liên quan đến số phận của chồng và các con bà. Khi Nostradamus qua đời ngày 1/7/1566, Catherine phong cho ông tước Nhà cố vấn và bác sĩ của hoàng gia. Nostradamus còn biết trước rằng, ông sẽ không sống hết ngày 1/7, như ông nói với viên thư ký: “Tôi sẽ chết trước lúc bình minh”.

                          Nostradamus thậm chí còn biết trước, mộ của ông sẽ bị đào bới. Khi cuốn sách ghi những lời tiên tri của ông bị xếp vào loại sách cấm, những kẻ cuồng tín đã phá mộ ông vào tháng 5/1791. Nhưng bật nắp mộ lên, bọn chúng thất kinh khi thấy trong bàn tay xác chết có một tấm kim loại khắc dòng chữ Tháng 5/1791.

                          Nostradamus có một lời tiên tri rất rõ ràng rằng “một thế lực vĩ đại và đáng sợ sẽ xuất hiện trên bầu trời” vào tháng thứ bảy của năm 1999. Tuy nhiên, đây chỉ là dự báo về một hiện tượng tự nhiên hoàn toàn có thể biết trước được vào thời đại của ông: nhật thực diễn ra vào ngày 11/8/1999, ngày cuối cùng của tháng 7, tính theo lịch thời đó.



                          Phần lớn lời tiên tri của Nostradamus ứng vào các thảm hoạ như nạn dịch hạch, động đất, chiến tranh, lụt lội, ám sát, hạn hán… Nhưng nhiều câu của ông bị hiểu sai, thậm chí là suy diễn sai có chủ đích chỉ để chứng minh rằng, nhà thông thái này có thể dự đoán nhiều loại sự kiện khác nhau. Bước vào kỷ nguyên Internet, những lời sấm của Nostradamus bất ngờ được tuyên truyền rộng rãi khiến ông ngày càng nổi danh. Ví dụ như khi xảy ra sự kiện tấn công khủng bố vào toà tháp đôi WTC ngày 11/9/2001 tại New York, Mỹ, trên Internet nhan nhản bài thơ (và nhiều biến thể) được gán là của Nostradamus:

                          “Tại thành phố York sẽ có sự sụp đổ lớn
                          Hai anh em sinh đôi bị xé nát do hỗn loạn
                          Khi thành trì đổ vỡ người lãnh đạo tối cao sẽ thất bại
                          Cuộc chiến lớn thứ ba sẽ bắt đầu khi thành phố bùng cháy”.

                          Hoá ra đây là bài thơ được một sinh viên Canada tên là Neil Marshall viết trước khi xảy ra sự kiện 11/9, trong một nghiên cứu của anh năm 1997. Các học giả khẳng định, Nostradamus chưa bao giờ đề cập tới “Cuộc đại chiến thứ ba” cả.

                          Những lời tiên tri của Nostradamus thường rất tối nghĩa và khó hiểu, hoặc có thể diễn giải theo nhiều nghĩa. Ngoài việc ông thường kết hợp nhiều ngôn ngữ, chơi chữ và nói bóng gió, còn có một lý do khác nữa: ông nhìn thấu suốt sự phát triển của nhân loại đến năm 7.000. Ông khó có thể nói về các sự kiện khoa học kỹ thuật của thế kỷ 20 và 21 khi dùng tiếng Pháp của thế kỷ 16 vì… túng từ.

                          Một số lời tiên tri được diễn giải chính xác và dễ hiểu:

                          Cái chết của vua Henry II:

                          Sư tử con sẽ vượt qua sư tử già
                          Trong cuộc chiến chỉ có một trận đánh
                          Nó sẽ đâm thủng mắt từ trong lồng vàng
                          Hai vết thương và một cái chết thảm thương. (Quyển Thế kỷ 1, câu 35)

                          Tháng 6/1559, Henry II phớt lờ những cảnh báo Nostradamus đưa cho ông, quyết định tham gia cuộc đấu thương với Bá tước Montgomery. Hai đối thủ cùng đeo chiếc khiên khắc nổi hình sư tử và Montgomery trẻ hơn Henry 6 tuổi. Theo đúng quy định, cuộc đấu đó chỉ diễn ra một trận duy nhất. Montgomery lỡ đà, chậm hạ chiếc thương xuống, khiến nó đâm vào miếng che mắt mạ vàng của nhà vua. Ngoài vết thương nhỏ ở mặt và cổ, Henry bị hai vết thương rất nặng: ông bị mù một mắt và bị chiếc khiên xiên vào thái dương. Henry II từ trần sau 10 ngày nằm trên giường bệnh.

                          Hoả hoạn ở London năm 1666:

                          Nostradamus viết:

                          Máu của thần công lý sẽ bao phủ London
                          Thành phố sẽ cháy vào năm 66
                          Vị phu nhân mất địa vị tối cao
                          Và nhiều nơi bị hủy hoại. (Quyển Thế kỷ 2, câu 51)

                          Một vụ hoả hoạn lớn đã xảy ra tại thủ đô London của Anh năm 1666. Đây là một trong những lời tiên tri hiếm hoi của Nostradamus có ghi rõ năm. Ngay cả những người hoài nghi nhất cũng phải thừa nhận tính chính xác của lời tiên đoán này. Vụ hoả hoạn đã thiêu rụi 3/4 London.

                          Dự báo về thất bại của Napoleon ở nước Nga:

                          Một đội quân lớn sẽ tràn vào nước Nga
                          Những người bị xâm lược sẽ phá hủy một thành phố
                          Quân chủ lực sẽ phản công
                          Những kẻ chiến bại sẽ chết trên miền đất trắng.

                          Những câu thơ này được hiện thực hoá trong trận chiến lịch sử: quân dân Nga thực hiện chính sách “tiêu thổ kháng chiến”, sau đó đạo quân của tướng Kutuzov phản công. Quân đội của Napoleon bị truy sát trên đường rút chạy và chết gần hết trên tuyết trắng của nước Nga.

                          Nostradamus còn đưa ra dự báo về số phận của Napoleon:

                          Hoàng đế vĩ đại sẽ khởi đầu với một vị trí thấp kém
                          Và nhanh chóng trở nên lớn mạnh
                          Nơi nhỏ hẹp sẽ trở thành trung tâm
                          Khi ông giành được quyền lực tối cao.

                          Ông hoàng chiến bại bị lưu đày ở Elba
                          Sẽ trở về Marseilles qua vịnh Genoa
                          Nhưng không vượt qua được các thế lực ngoại bang
                          Tuy thoát chết nhưng vẫn phải đổ máu.

                          Napoleon bị lưu đày tại đảo Elba nhưng trốn ra sau 100 ngày giam cầm. Sau khi thất bại trong trận Waterloo, ông bị tước mọi quyền lợi và lưu vong tại đảo St. Helena cho tới khi qua đời.



                          [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/4112/72C34DFD0E0146049B22D29D006EC62E.jpg[/image]
                          Attached Image(s)
                          #13
                            tulipdenus 28.04.2006 02:17:02 (permalink)
                            Tiên tri thế kỷ 16 dự đoán được vụ khủng bố tại New York?

                            Các chat room trên Internet đang xôn xao bàn luận về đề tài nhà chiêm tinh người Pháp, Nostradamus, thuộc thế kỷ 16, đã dự đoán được vụ tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới tại New York.

                            Hàng nghìn người cũng nhận được tin đồn này qua e-mail. Trong đó có lời tiên tri dự đoán tháp đôi sụp đổ đánh dấu sự bắt đầu Thế chiến thứ III.

                            Người ta nhận được những phiên bản khác nhau về câu “sấm” này. Đây là một trong số đó:

                            “Tháng 9 năm đầu thế kỷ mới

                            Kẻ ngự trị sự kinh hoàng hạ giới

                            Bầu trời cháy nghiêng 45 độ

                            Lửa cháy liếm thành phố mới”.

                            Những câu chữ này gần giống như nội dung trong khổ 97, phần Thế kỷ 6 của tiên tri Nostradamus. Một số cuốn sách nghiên cứu về ông này đã giải nghĩa dòng đầu tiên của khổ 97 là đề cập đến tháng 9 năm 2001, tháng thứ chín trong năm đầu tiên của thế kỷ mới, còn 45 độ được hiểu là vĩ tuyến của New York (thành phố York mới).

                            Nhưng trên thực tế, New York lại nằm ngay dưới vĩ tuyến 41 và các câu tiên tri của Nostradamus không đề cập đến một cuộc chiến tranh lớn, trái ngược hoàn toàn với nội dung của những e-mail.

                            Trong nhiều e-mail còn gắn kèm một khổ khác, điều này khó có thể nói nó gắn với Nostradamus:

                            “Tại thành phố York sẽ có sự sụp đổ lớn

                            Hai anh em sinh đôi bị xé nát do hỗn loạn

                            Khi thành trì đổ vỡ người lãnh đạo tối cao sẽ thất bại

                            Cuộc chiến lớn thứ ba sẽ bắt đầu khi thành phố bùng cháy”.

                            “Khổ thứ hai này KHÔNG phải của Nostradamus”, website nghiên cứu về Nostradamus khẳng định.

                            Dù là tin đồn nhảm, nhưng hằng ngày, hàng nghìn e-mail với nhiều bản khác nhau đang được forward khắp nơi trên Internet.

                            Những cuốn sách về Nostradamus tự dưng bán chạy một cách bất ngờ sau vụ khủng bố.


                            #14
                              conbo2 01.05.2006 15:03:11 (permalink)
                              Truyện "Con đầm pích" sẽ được chuyển sang text trong một ngày gần đây.
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 16 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9