Chương mười Trái bí xanh Gian phòng nàng chật cứng khách. Các nghệ sĩ đủ tầm cỡ, cán bộ, giáo viên, các chàng trai mới lớn, các người có chức danh ở địa phương… Tôi ngồi trong một góc phòng, nơi Nàng thường dựng cây chổi đót quét nhà. Tôi lặng lẽ ngắm Nàng cười nói tiếp khách với tất cả vẻ duyên dáng kiểu kiễm mà một thiếu phụ cỡ tuổi Nàng có thể có… Từ đáy sâu cõi lòng tôi, tràn ngập một thứ dự cảm kinh hoàng: mối tình thống thiết của tôi sẽ kết thúc một cách hài hước và bi thảm.
Nàng báo tin, mai là ngày sinh nhật của Nàng. Mọi người hứa tranh nhau mang hoa, bánh trái, rượu, đồ nhậu… và những món quà sinh nhật sẽ làm Nàng bất ngờ!
“Còn nhà thơ?’’ - Nàng quay lại mỉm cười hỏi tôi - “Anh sẽ tặng em quà gì ngày sinh nhật? Một bài thơ tuyệt bút nhé?’’
“Tôi sẽ tặng em một trái bí xanh.’’
Mọi người cười ồ. Đúng là một món quà sinh nhật có một không hai, cổ kim chưa từng thấy! Họ đua nhau nhao nhao châm chọc chế riễu tôi. Còn Nàng thì có vẻ giận:
“Các nhà thơ hay đùa quá trớn!’’
Tôi không chút nao núng:
“Trái bí xanh tặng vật của tôi nặng mười lăm kí lô, và trên da bí tôi đề thơ…’’
Tôi có một người bạn ở làng quê, từ thời để chỏm, cùng đi chăn châu cắt cỏ, và cùng học lớp một ở trường làng. Tuần trước tôi đến chơi, anh dắt ra vườn, chỉ lên giàn bí xanh:
“Cả một đời trồng bí, nhưng chưa bao giờ mình trồng được một trái bí lớn và đẹp đến như thế. Mình muốn tặng cậu.’’
Tôi nhìn trái bí bạn tặng nằm nặng trĩu trên giàn nom như một khối ngọc bích khổng lồ. Tôi xiết chặt tay bạn.
Tôi đến nhà bạn vào buổi sáng ngày sinh nhật Nàng, mang theo bút vẽ và sơn dầu màu tím Huế. Tôi xin bạn trái bí. Hai chúng tôi khó nhọc lắm mới đưa được trái bí xuống giàn. Tôi đề thơ lên trái bí, rôi mượn bạn chăn bông cũ, bao tải rách, áo quần rách mà bạn có ở trong nhà, bọc lại. Tôi lo ngại trên đường vận chuyển, trái bí sẽ bị bầm dập.
Dưới nắng trưa bùn hoá đá, tôi xăn quần móng lợn, đạp xe chở món quà theo con đường quê khúc khuỷu, đầy ổ gà, từ quê nội đến nhà Nàng.
Đường khá xa mà tôi không đám đạp nhanh nên tôi đến hơi muộn. Khách bạn đến dự sinh nhật Nang đang giữa chừng tiệc rượu. Mọi người ngừng gắp, ngừng và, ngừng uống, nhìn ra cửa, cùng kêu lên:
“Trời ! Quà sinh nhật của nhà thơ giống cái bao tải mùn cưa!’’
Tôi vén vạt áo lau gương mặt đẫm mồ hôi, lặng lẽ cởi tháo bao bì, vứt la liệt trước cửa phòng Nàng, ùn cao như đống rạ.
Tôi nâng trái bí với những dòng thơ màu tím Huế bằng tất cả gân sức của hai cánh tay gần cháy nắng. Tôi bước đến trước mặt Nàng, nói trong tiếng thở gấp:
“Tặng vật tôi mang từ làng quê mừng sinh nhật em đây…’’
Mọi người vội vàng dẹp hết cốc chén, hoa, rượu la liệt trên mặt bàn, hối thúc tôi:
“Nhà thơ để xuống đây cả nặng.’’
Hai cánh tay tôi bỗng run lên. Đến lúc này tôi mới cảm nhận hết sức nặng ghê gớm của tặng vật.
“Nhưng tôi sợ da bí bầm dập… Nó xanh và đẹp đến thế này kia mà…’’
Nàng vội chạy ra sau bức màn gió, cầm ra chiếc gối còn dính vài sợi tóc của Nàng, đặt ngay ngắn trên bàn:
“Anh đặt lên đây.’’
Tôi đặt khối ngọc bích khổng lồ lên mặt gối thêu một bông hồng, dằn lên những sợi tóc dài và đen mướt đến huyền hoặc.
Hơn cả mang bình nước trường sinh trong cổ tích!
Hơn cả mang cây đèn thần trong nghìn lẻ một đêm!
Hơn cả mang trái đào tiên
Cắn một miếng sẽ trở thành bất tử
Mà trái cây bầm dập sẽ hết thiêng…
Tôi mang trái bí xanh
Chút tặng vật quê mùa hèn mọn
Mừng sinh nhật em…
Trên da bí
Màu men ngọc Lý
Tôi tạo câu thơ buồn như lửa
Hoả táng vào trái tim…
Tôi ngồi lặng nhìn em
Cổ cháy khát cơn thơ
Môi rát bỏng những lời giã biệt
Tôi đã trải qua nỗi kinh hoàng của người tù vượt ngục
Khi bẻ cong chấn song sắt nhà tù
Mà tôi phải cưa kiên nhẫn suốt mùa thu
Lao vào bóng đêm ngàn cân treo sợi tóc
Những nỗi kinh hoàng này đã thấm vào đâu
Với nỗi lo trái bí xanh bầm dập
Trên con đường từ nhà tôi đến nhà em…
- Đến nơi rồi!
Trái bí vẫn lành nguyên!
Tôi đã reo như người tù vượt biển
Khi năm đầu ngón chân bỗng chạm đất liền…
Em đưa bàn tay cho tôi
Và tôi đã nắm chặt…
Trong khoảnh khắc ấy tôi bỗng nôn nao chóng mặt
Toàn thân run lên một dự cảm kinh hoàng
Trên vực thẳm vô cùng của hạnh phúc
Tôi bỗng thấy mình đang đứng quá cheo leo… Chương mười một Lời van xin Một buổi chiều trời chạng vạng, tôi đến nhà Nàng. Cửa ra vào khép hờ. Định đẩy cửa bước vào, tôi bỗng nghe bên trong tiếng Nàng đang la mắng, nhiếc móc đứa con gái nhỏ vì một lỗi lầm gì đó.
Tôi gần như nín thở vì hoảng sợ và đau đớn. Tôi không bao giờ tưởng tượng nổi cái miệng xinh đẹp của Nàng lại có thể tuôn ra những lời thô lỗ, nanh nọc, cay nghiệt đến như thế!
May sao nàng chưa nhìn thấy tôi…
Là nghệ sĩ
Tôi cũng như em
Rất dễ nổi khùng
Trước những điều băng hoại vô luân
Nhưng tôi vẫn quỳ xuống xin em:
Ngay cả những phút nổi khùng
Em cũng đừng nói những lời chua chát
Em cũng đừng nói những lời cay độc
Tôi biết
Em đâu phải Hằng Nga ngủ trong rừng
Em có con phải nuôi
Có chồng phải bỏ
Em phải biết giá rau ngoài chợ…
Nhưng tôi vẫn quỳ xuống xin em
Ngay cả những phút nổi khùng
Em cũng đừng nói những lời chua chát
Em cũng đừng nói những lời cay độc
Chỉ vì
Tôi không thể nào chịu nổi
Tất cả những gì hiện hữu ở em
Mà không đẹp!
Ngay cả nước bọt em nhổ vì ghê tởm
Tôi vẫn có thể nhặt nước bọt em nhổ lên
Ép vào giữa trang sách
Như cái thuở lên chín lên mười
Tôi ép những cánh bướm những bông hoa…
Em là gì?
Em là ai?
Em từ đâu tới?
Tôi không cần biết!
Tôi chỉ biết với riêng tôi
Em là mái nhà
Giữa đồng hoang, trên sa mạc
Cho tôi ẩn trốn những trận mưa xấu xa dung tục
Những trận mưa làm thối mục cuộc đời
Những trận mưa ngày càng nặng hạt… Chương mười hai Tôi khóc... Tôi vẫn đinh ninh một cách xuẩn ngốc: tôi sẽ không còn biết ngạc nhiên trước điều gì. Vì những khổ nhục trần gian mà tôi đã nếm trải đủ chất đầy một thế kỷ sống. Nhưng do khi tình cờ tôi biết được sự thật đắng cay về Nàng, tôi như người bị chấn thương sọ não… Tôi không đủ sức để bước ra khỏi nhà. Và tự dìm mình vào một cơn say miên man, bất tận…
Ôi rượu là bậc thiên tài tạo nên những ảo tưởng! Lần này tôi hy vọng rượu cũng sẽ là bậc thiên tài làm tôi nguôi quên… Nhưng rượu đã bất lực trước nỗi phiền muộn sâu thẳm của con tim.
… Ta đã khóc rượu xoàng
Uống hoài vẫn tỉnh… Chỉ còn một cách nấu chảy và đúc sự thật bằng ngôn từ; như những người thợ nhà in nấu chảy chì thiếc đúc thành các mẫu tự. Sự thật có hình khối, con người sẽ đủ sức chấp nhận nó dù có cay đắng đến đâu. Vết thương trừu tượng là vết thương không cách gì lành được.
Tôi đã ngã nhào trước ngõ nhà em
Ngã chúi mặt…
Miệng môi tôi đày cát!
Nhưng không buồn lau mặt
Tôi muốn đi thẳng vào nhà em
Như bao nhiêu lần khác…
Ngồi xuống và tôi đọc câu thơ
Câu đầu tiên cũng là câu cuối cùng:
Tôi đã bị dối lừa…
Tôi tin em với niềm tin trẻ dại:
Trăng hoàng cung em chỉ tặng riêng anh!
… Em dắt tôi đi
Trên con đường lát những phiến trăng thanh
Ôi những phiến trăng có mùi hoa sứ
Em nói với tôi:
Đây con đường Trung Lộ
Xưa chỉ có vua đi và đêm nay anh đi…
Trong khoảnh khắc ấy
Tôi bỗng thèm tự sát
Để vĩnh viễn
Thành Thơ, thành Đá, thành Trăng…
Trước khi tự giết
Mười đầu ngón tay tôi cắn dập
Viết đỏ sân Đại Triều lời di chúc:
“Tôi là người hạnh phúc nhất thế gian!“
Ôi, còn nỗi thống khổ nào hơn
Tình cờ tôi chợt hiểu
Một tháng có nhiều đêm trăng
Và thời buổi ngày nay
Vào hoàng cung là chuyện quá dễ dàng
Cả con bò con dê cũng đi trên Trung lộ
Những gì em nói với tôi hôm đó
Em đã nói với nhiều người…
Ôi, những câu thơ này nó vượt quá sức tôi
Tôi không thể cất lên được thành lời
Nếu miệng môi tôi không đầy cát!
Nhưng tôi vẫn không vào nhà em
Tôi quay về và…
Tôi khóc
Tôi khóc niềm tin yêu tan nát
Tôi khóc ngai vàng mộng tưởng
Tôi khóc Trăng hoàng cung bị lấm bẩn
Tôi khóc không biết lấy gì để gột sách Trăng… Tôi không chép thơ này tặng Nàng. Và cũng không đọc cho ai nghe. Tôi muốn chôn vào một nấm huyệt, chỗ tận cùng của con tim, chôn nó như chôn một lỡ lầm không gì cứu vãn nổi. Còn Nàng thì vẫn hy vọng, chờ đợi bài thơ mới tôi viết tặng.
Hôm đó gian phòng Nàng lại chật cứng những bạn khách. Tôi cũng có mặt, ngồi lặng lẽ ở góc phòng quen thuộc. Nàng quay lại nhìn tôi, vẻ sửng sốt:
“Sao nom anh hốc hác xanh xao thế?”
“Tôi bệnh…” - Tôi mỉm cười buồn rầu trả lời Nàng – “chảy máu…”
“Dạ dày?” Giọng Nàng hoảng sợ
“Không, thơ… Bọn tư bản mắc bệnh chảy máu vàng, tôi mắc bệnh chảy máu thơ…”
Giọng tôi khản đặt, run rẩy - Tôi không sao thoát khỏi cơn say bất tận.
Mấy người bạn cười, hối thúc tôi:
“Đề nghị cho chúng tôi nghe bài thơ mới viết tặng người đẹp.”
“Đáng tiếc” - tôi nói giọng líu lưỡi – “giếng thơ tôi đã múc cạn đến gầu cuối cùng…”
Thi hữu họ Ngô nói to át giọng mọi người:
“Tôi biết anh vừa mới viết xong bài thơ tình thứ mười hai, và theo tôi đó là bài thơ tôi ưng nhất trong cả chùm thơ tặng Nàng.”
Tôi tái mặt suýt tỉnh rượu:
“Bạn đọc nó ở đâu vậy?”
“Trong sổ tay của anh, trưa hôm kia… Đến chơi, thấy anh đang ngủ. Tôi ngồi đợi, tình cờ thấy nó trên bàn viết…”
Tôi lại chìm vào cơn say miên man như người không biết bơi chìm vào vực nước sâu nhất của con suối Linh Nham… Tôi nói như trong mê sảng:
Trong nhiều chuyện cổ tích Đông, Tây, có một lép-mô-típ rất giống nhau, Một anh chàng vớ vẩn nào đó, thường là khách giang hồ hay dân du đảng, nếu là nhà thơ thì cùng nòi với Ês-sê-nhin: “Tôi không thành nhà thơ, Thì cũng thành trộm cướp”. Lo quá mãi chơi, anh ta lạc bậy vào động Thiên thai. Chủ động là một nàng tiên, tất nhiên là tuyệt đẹp… Nàng liền đem lòng yêu mến chàng… Ấy cái giống tiên lại hấp dẫn với loại khách giang hồ, dân du đảng… Nàng mời chàng ở lại để cùng… khi chén rượu, khi cuộc cờ… khi xem hoa nở... Rồi một hôm, Nàng phải đi công chuyện, sợ Chàng ở động một mình, buồn… Dù là động tiên đi nữa mà phải sống một mình cũng buồn lắm. Nàng trao cho Chàng một chùm chìa khoá và nói: “Vắng thiếp, chàng có buồn thì mở các gian phòng bấy lâu khóa kín để giải buồn. Trong các phòng ấy có chứa rất nhiều thứ lạ mắt mà thiếp chắc chắn rằng trong kiếp sống trần gian, chàng chưa được nhìn thấy bao giờ. Nhưng chỉ xin chàng, riêng gian phòng cuối cùng phải mở với chìa khóa vàng to nhất, thì đừng mở. Nếu không nghe lời thiếp dặn, chàng sẽ không tránh khỏi tai hoạ”. Kết cục, chàng bao giờ cũng không nghe lời nàng, táy máy mở cho bằng được gian phòng cấm kị… Vì thế chàng nghĩ rằng: những gian phòng kia đã tuyệt diệu như thế, thì gian phòng nàng định cấm ta, chắc còn tuyệt diệu gấp trăm ngàn lần… Và… thế là hết. Điều bất hạnh đã xảy ra: chàng bị hổ vồ, beo xé xác, quỷ sứ địa ngục ném vào vạc dầu… Nhưng khủng khiếp hơn cả là chàng phải trở về cuộc sống nghiệt ngã trần gian.
Vậy lỗi tại ai? Chính Nàng là người có lỗi. Nàng cấm kị nhưng Nàng lại gợi ý xúi giục Chàng phạm tội. Nàng chơi khăm, xô đẩy Chàng vào cái kết cục bi thảm của thiên tình sử hoang đường. Nàng muốn cảnh cáo, trừng phạt không phải chỉ riêng Chàng, mà sự ham hố vô độ của con người.
Sự ham hố vô độ là cội nguồn của vô luân, của tội ác. Nếu Nàng thật bụng muốn tránh cho Chàng tai hoạ, thật dễ dàng, nàng chỉ việc tháo cất cái chìa khóa ấy đi.
Tôi yêu thật lòng… Tôi rút kinh nghiệm hài hước và bi thương trong phần kết của những câu chuyện cổ. Tôi cất giấu tận đáy huyệt tim tôi chiếc chìa khóa của gian phòng cuối cùng…
Nàng là người sắc sảo, thông minh. Nhưng vì lòng ham hố vô độ muôn thuở của con người, đã khiến Nàng không hiểu nổi một điều đơn giản đến như vậy. Nàng vật nài, phụ họa với các thi hữu của tôi, đòi nghe cho bằng được bài thơ trên. Nếu không Nàng sẽ giận… Tôi buồn rầu nói:
“Người ta vẫn tin chuyện cổ tích là trí khôn của nhân loại ngàn đời, được đúc kết và hình tượng hoá… Nó sống dai dẳng với một sức mạnh siêu phàm mà con người dù khôn ngoan đến mấy cũng khó lòng cưỡng lại và chối bỏ… Giờ bất hạnh đời tôi đã điểm!”
Nghe xong bài thơ, Nàng vụt đứng ngay dậy, trút bỏ toàn bộ vẻ dịu dàng kiều diễm, nói với tất cả giận dữ, bằng cái giọng nanh nọc, cay nghiệt mà tôi có lần được nghe…
“Mời anh ra ngay khỏi nhà tôi! Anh đã coi tôi như một con điếm!” - Nàng bĩu môi chuyển sang chế giễu, khinh miệt - Anh tưởng là tôi yêu anh à! Tôi yêu anh từ bao giờ vậy? Gian phòng tôi chật chội, nóng như thiêu sa mạc, ngày này qua ngày khác, anh đến ngồi ám suốt từ sáng đến chiều. Khách bạn tôi đến chơi, thấy anh họ đều muốn bỏ về… Vì lịch sự tôi đành phải giới thiệu: Anh là nhà thơ! Nhiều người ngạc nhiên, hỏi nhỏ tôi: Nhà Thơ! Đẹp như thơ kia mà! Sao mà nom anh ta rách rưới bầm dập đến phát khiếp! Không khéo lại bị mắc lừa đấy! Mời… anh... ra!...”
Chương mười ba Tôi yêu… Trái tim tôi như trái cây bị dập nát
Rụng xuống từ cành cao
Tình tuyệt vọng là ngọn sào
Chọc cho trái cây rụng xuống…
Trái cây rụng
Vẫn mơ giấc mơ… hoang tưởng
May ra được gót chân em giẫm nát
Để trước khi tan vào bụi đất
Còn được hôn gót chân yêu…
Nhưng em la lối phàn nàn:
- Gian phòng tôi nóng như thiêu sa mạc
Anh đến ngồi quá lâu
Càng thêm nóng bức!
Anh thở như người sắp chết khát
Chút khí trời ít ỏi của tôi!
Quá đau khổ
Tôi hoá thành lì lợm
Tôi xin em bớt giận…
Nếu không được ngồi
Thì tôi xin đứng
Cùng với cây chổi em dựng xó nhà
Nếu không được thở…
Tôi sẽ nín thở
Như cái ngày còn đi chăn trâu cắt cỏ
Tôi suýt chết ở đáy giếng làng
Vì mãi lặn mò con cá bống thần cô Tấm bỏ quên…
Em giận dữ la lên:
- Đứng trong xó nhà cũng không được đứng!
… Thì tôi xin ra đứng trước hiên…
- Đứng trước hiên cũng không được đứng!
… Thì tôi xin ra đứng đầu đường
Tôi nhìn vào khung cửa nhà em
Môi rát bỏng những lời yêu thương…
- Đứng đầu đường cũng không được đứng!
Lời yêu thương cũng không được nói!
… Thì tôi xin chết!
Nhưng tôi không nói lời vĩnh biệt
Vì tôi tin tôi sẽ hồi sinh…
Dù hoả táng
Dù chôn chín tầng đất
Trái tim dập nát của tôi vẫn thắm một khối tình! Tôi lì lợm gửi tặng Nàng bài thơ tình thứ mười ba, với lời ghi chú:
“Tôi yêu em. Mối tình đầu cũng là mối tình cuối của tôi. Tôi đã rứt trái tim khỏi lồng ngực dâng hiến em như một tông đồ dâng hiến mạng sống mình cho Chúa. Và buồn thay, con người lại không có trái tim thứ hai. Và nhà thơ, không có tim tôi biết hát bằng gì!”
Nhưng điều khủng khiếp và cũng là tai họa thường trực đối với các nhà thơ: sự thật còn lớn hơn cả tình yêu, lớn hơn cả trái tim. Chối bỏ sự thật, ôi điều này nó vượt quá sức tôi, ngay cả khi miệng môi tôi đầy cát…
Hậu từ Thượng đế ơi!
Tôi đã làm gì?
Mà Ly-rượu-đời Người ban cho tôi
Đắng thế?... Tiểu thuyết dù là tiểu thuyết huyền hoặc nhất đi nữa cũng đều xuất xứ từ những mẫu hình có thực. Cuốn tiểu thuyết kỳ cục này với hình thức thơ, văn, xôi đỗ, lúc đầu tôi đâu có định viết. Nó xuất xứ từ những bài thơ tình tôi viết tặng mối tình si mê, hoang tưởng và… trong cơn say bất tận…
Đến lúc tỉnh mộng, tỉnh mê, tỉnh say… và đã ở cách xa Nàng ngàn dặm, tôi đọc lại, thêm vào những lời chú giải. Và thế là, tự nhiên, không khiến, cuốn tiểu thuyết thành hình.
Lời nói cuối của Nhà xuất bản Quí vị đã chia sẻ những vị ngọt ngào cùng niềm cay đắng của chàng thi sĩ, của một chuyện tình. Có một thi sĩ và một người đẹp… Có thi sĩ và một nàng thơ…
Nhiều người sẽ hỏi: thi sĩ chỉ kể một chuyện tình thật chăng? Vậy còn những điều chàng viết đây có tác dụng gì trong một chuyện tình:
Tôi yêu tha thiết
Sự ngay thẳng tột cùng
Ngay thẳng thuỷ chung
Của những dòng chữ viết Phải chăng ông chỉ muốn viết về thơ? “Chỉ còn một cách, phải nấu chảy và đúc sự thật thành ngôn từ!” Hay ông muốn nói về một sự thật? Sự thật nào?
Tôi có quyền gì được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn?
…
Tôi có quyền gì lên xe xuống ngựa
Khi gót chân nhân dân tôi nứt nẻ bụi đường? Phải chăng một sự thật mà ông muốn nói là cảnh khổ của nhân dân và tình yêu rộng lớn của một thi sĩ?
Và sự thật cay đắng như chén rượu cất bằng lá khổ sâm. Ngay trong cơn mê chất ngất tình yêu, đêm trăng ở hoàng cung thi sĩ đã thấy:
Mười đầu ngón tay tôi cắn dập
Viết đỏ sân Đại Triều lời di chúc
“Tôi là người hạnh phúc nhất thế gian“
Thi sĩ đồng thời cũng dự cảm:
Trên vực thẳm vô cùng của hạnh phúc
Tôi bỗng thấy mình đang đứng quá cheo leo. Vậy đây không phải là một chuyện tình. Có lẽ thi sĩ kể chuyện tình này như là một biểu tượng. Và nếu đó là một biểu tượng thì Nàng là biểu tượng gì? Tình yêu của thi sĩ là biểu tượng gì? “Tôi yêu em. Mối tình đầu cũng là mối tình cuối của tôi. Tôi đã rứt trái tim khỏi lồng ngực dâng hiến em như một tông đồ dâng hiến mạng sống mình cho Chúa”. Một thi sĩ tôn trọng sự thật chắc không quả quyết một cuộc tình nào là mối tình đầu, hay là mối tình cuối. Mối tình duy nhất, vĩnh cửu chắc đó không phải là tình yêu cho một người. Vậy tình yêu nào đã khiến thi sĩ đem sánh với Sự thật, “Sự thật còn lớn hơn cả tình yêu, lớn hơn cả trái tim”.
Chúng ta tự do bước vào thế giới, vào trái tim của thi sĩ. Mười ba chương “tiểu thuyết tình” cho chúng ta chia sẻ những ly rượu ngọt, những giọt rượu đắng cay, của cuộc tình, của cuộc đời. Mỗi người chia sẻ theo cách của mình. Chúng ta bước vào tập thơ một cách tự do, chúng ta bước ra khỏi tập thơ, nhìn lại cũng bằng tâm thức tự do. Người thích chính trị sẽ đọc bằng con mắt chính trị. Sử gia sẽ tìm thấy các chứng tích lịch sử. Và người yêu thơ sẽ đọc thơ.
Nhà xuất bản cảm tạ thi sĩ Phùng Quán đã tin cẩn trao cho nhiệm vụ ấn hành cuốn sách này ở hải ngoại. Rất mong người đọc ở trong và ngoài nước chia sẻ cùng thi sĩ, với tâm thức tự do của mỗi người.
Thanh Văn 1993 http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6773&rb=08
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.03.2006 09:09:08 bởi Ngọc Lý >