"Quán Trà Thinh Lặng" - Trần Mộng Tú
Viet duong nhan 16.04.2006 07:58:02 (permalink)
Quán Trà Thinh Lặng

Trần Mộng Tú


Hà Nội là cả một thế giới bí mật, nó luôn luôn giấu những bất ngờ nho nhỏ ở một chỗ ta không hình dung ra được. Một may mắn tình cờ nào đó ta tìm thấy cái bí mật đó ngay trước mặt ta, ta bàng hoàng như được ai mời một chén rược quý. Cái ngọt của ruợu cứ vương mãi ở cổ như một bài thơ chưa đọc đến câu cuối cùng. Câu thơ đó có thể ở lại với ta suốt một đời người.

Một buổi chiều, tôi lang thang trên đường phố Hà Nội, đi một mình trong khi chờ đợi chồng con được một ngày (mẹ cho) đang phân tán trong phố cổ trở về đi ăn tối. Vừa đi vừa ngắm nghía hai bên: Phố, người, xe tấp nập buổi tan tầm, chạy đâm vào nhau, như những con rối trong tuồng múa nước. Cái cảnh này trên thế giới chỉ có ở những nơi đất hẹp người đông. Hà Nội, Sài Gòn Việt Nam là hai nơi điển hình đáng kể nhất. Chen giữa bước chân đi là những hàng ăn, hàng uống bầy cả ra hai bên phố. Ngay trước những cửa hiệu hàng hóa, ai muốn bán thì cứ bầy ra bán. Ở một con ngõ vào xóm ngườiø ta cũng có thể chăng một tấm bạt từ vách tường của nhà bên phải sang vách tường của nhà bên trái ở ngay đầu ngõ làm thành một quán cà phê hay một quán bán chè, bán cháo. Ai may mắn có được cái mặt tiền độ ba thước vuông là thành một cửa hiệu khang trang lắm rồi, còn không thì cứ bầy ngay ra trên lối đi, trên một nắp miệng cống cũng để vừa một gánh hàng rong. Khách hàng xúm xít ngồi xuống ăn uống rất là tự nhiên, dản dị, thưởng thức món ăn rất là hạnh phúc, chẳng kém gì những người khách ở trong một nhà hàng sang trong thưởng thức món ăn của mình.

Tôi hòa mình vào trong cái dòng sinh mệnh đông đảo đó. Ghé vào một cái quán bán nước trà, kẹo lạc (đậu phọng) đơn sơ ngay góc đường Tôn Đức Thắng và Đoàn thị Điểm. Kéo chiếc ghế đẩu, ngồi xuống, chưa kịp gọi thì chủ quán, một người đàn bà trẻ khoảng ngoài ba mươi đã đem đến trước mặt tôi một ly nước trà, và cái đĩa nhỏ có mấy chiếc kẹo. Chị không nói câu nào, đặt ly nước trà bốc khói, thơm ngát xuống trước mặt tôi với một nụ cười, tôi cũng cười lại đáp lễ, cúi xuống nhìn vào ly nước một giây, rồi uống một ngụm nhỏ. Nước trà vừa chát, vừa ngọt, vừa thơm, đúng là trà mộc Thái Nguyên.
Nước trà làm tôi tỉnh hẳn người, tôi ngước nhìn lên, thì chị chủ quán đến gần tôi với một mảnh giấy, đưa cho tôi đọc. “Đây là quán Trà của người câm và điếc, bà cần gì thêm xin viết xuống đây” Tôi ngẩn người ra nhìn chị, chị nhìn lại tôi cũng vẫn với nụ cười. Lúc bấy giờ tôi mới để ý đến những người khách chung quanh mình. Họ phần đông còn trẻ, người già nhất chắc chỉ khoảng bốn mươi, họ đang nói chuyện với nhau bằng những bàn tay, múa khoa lên trong quán. Hình như ai cũng đang nói, nên những bàn tay xòe ra, nắm vào, những ngón tay chỉ vào ngực mình, hay chỉ vào mũi người khác thi nhau múa lên. Nếu đó là một ngôn ngữ phát âm thì chắc là quán đang ồn lắm. Tôi nhớ đã có lần tôi lấy một lớp Sign Language ở một College, câu đầu tiên chúng tôi học là lấy ngón tay chỉ vào giữa ngực mình, xong xòe bàn tay ra áp vào bên trái ngực, rồi chỉ ngón tay vào người đối điện. Như thế có nghĩa là I love you.Tôi đã học hết khóa vỡ lòng và có thể nói chuyện vài ba câu thông thường với người câm, điếc. Bẵng đi một thời gian không học tiếp theo, bây giờ khó mà nhớ lại được hết những điều mình học.
Tôi viết lên tờ giấy của chị vừa đem đến, hỏi chị mở quán này bao lâu? Thì chị cho biết là mới hai năm, sau khi vừa lập gia đình, anh cũng là người dùng ngôn ngữ thinh lặng như chị. Chúng tôi tiếp tục bút đàm với nhau, chị nói khi mới mở quán trà, muốn bán cho tất cả mọi người, nhưng khách nói được đến uống trà thấy cứ phải bút đàm với chủ quán mất nhiều thời giờ quá và khách không nói được thì cứ giơ tay chỉ chỏ vào họ, nên họ bỏ đi. Dần dần những người câm, điếc rủ nhau đến đây uốâng trà, coi như quán này mở ra chỉ để dành riêng cho họ, những người đối thoại thinh lặng.

Tôi ngồi im trong bóng chiều chập choạng, một vài cửa tiệm đã lên đèn, chị chủ quán cũng bật lên một ngọn đèn điện ở một góc quán, ngonï đèn không được sáng lắm, nhưng cũng soi rõ những bàn tay đưa ra, những ngón tay chỏ vào nhau, tôi ngắm nhìn những bàn tay đó cố vận dụng vốn liếng ít ỏi đã học được của mình, dần dần tôi hiểu họ đang nói với nhau về việc làm, giá sinh hoạt, có người có con vừa ở bệnh viện ra,có người vừa thất nghiệp. Tôi dở quá nên nghe được mà không nói được. Nếu tôi còn nhớ để nói chuyện được với họ thì hay biết bao!
Nếu ai đã từng được thưởng thức tuồng Nô của người Nhật, là một loại tuồng các diễn viên sơn mặt trắng toát giống nhau, khi diễn kịch họ không nói tiếng nào, chỉ diển tả bằng cách khoa tay múa chân, người xem phải đoán được cảm xúc của họ qua những cử chỉ đó, thì thấy những người đang uống trà trong quán này giống như họ vậy, có khác một điều những người này không phải kịch sĩ, họ không quét sơn trắng lên mặt, nên ta đọc được cảm xúc trên từng cái cau lông mày, cái cười mệt mỏi nửa miệng, hay nụ cười nở tung ra như một đóa hoa. Tôi phải nhờ chị chủ quán thông ngôn, cái ngôn ngữ thinh lặng này, tôi viết xuống giấy câu hỏi, rồi chị chủ quán dùng tay nói lại với họ. Chị cho biết phần đông những người này không biết đọc, biết viết. Nếu tôi muốn nói chuyện với họ, phải nói thật to, không được dùng tay che miệng, họ sẽ nhìn miệng tôi mà đoán tôi đang nói câu gì.
Có người rút ở trong túi ra một tờ giấy, có bọc plastic với một dòng chữ in sẵn: Tôi vừa câm vừa điếc. Không biết chữ. Xin nói to và đừng che miệng. Tôi nhìn tờ giấy được giữ gìn cẩn trọng như một tờ căn cước mà trong lòng rưng rưng, thấy nghèn nghẹn ở cuống họng, vội cúi xuống uống ngay một ngụm trà.
Tôi ngồi chuyện trò với họ bằng sự trợ giúp của chị chủ quán, chúng tôi nói với nhau về những đời thường. Chuyện gia đình, chuyện học của con, chuyện việc làm của cha mẹ. Họ hỏi tôi về cái đất nước xa xăm tôi sống, ở đó những người câm, điếc được giúp đỡ thế nào? Chúng tôi hỏi nhau cả về chuyện uống trà. Câu chuyện càng lúc càng thân thiện cởi mở, họ nói năng tự nhiên, ước mơ dản dị, chỉ mong kiếm đủ ngày hai bữa, có chút tiền nhỏ phòng khi con cái ốm đau, đủ tiền đóng học phí cho con mỗi khóa học.
Nhưng buổi chiều tan việc, họ bỏ lại tất cả nhọc nhằn khuân vác trên bến dưới thuyền ở những bãi sông; những túi xi măng, những viên gạch, tảng đá ở nơi xây cất; cái cuốc cái xẻng ở một con đường đang đào, đắp nào đó, ghé uống mấy ly nước trà và gặp những người cùng chung ngôn ngữ với họ, ngôn ngữ thinh lặng trong quán trà thinh lặng này.

Tôi ngắm nhìn họ cầm ly uống trà rất là bình dân, sảng khoái, hình dung ra ở một nơi uống trà khác của những người được gọi là thanh lịch. Những quán trà dành cho tao nhân mặïc khách có những nghi thức cầu kỳ gọi là Trà Đạo. Khi cho trà vào ấm thì gọi là Ngọc Diệp hồi cung. Khi tráng trà thì gọi là Cao Sơn trường thủy ( rót nước 60 độ, cao cách trà 20-30 phân) Khi pha trà thì gọi Hạ Sơn nhập thủy ( rót sát miệng ấm, nước sôi đủ 100 độ) Khi nhấc chén trà lên thì mấy ngón tay cũng được thăng hoa gọi là ba con rồng Tam Long giá ngọc, trước khi uống ngụm trà đó phải từ tốn đưa lên mũi từ trái sang phải thưởng thức mùi thơm của trà gọi là Du Sơn lâm thủy. Chao ôi là nghi lễ, là cầu kỳ.

Những người uống trà trong quán trà Thinh Lặng này họ dản dị lắm, trà do chị chủ quán pha mộ bình lớn, rót ra sẵn trước mặt, họ cầm lấy chén trà, nhìn nhau bằng những ánh mắt thân mật, ngửa cổ lên uống một hơi đầy, uống theo cả mệt nhọc của một ngày lao động vất vả vào lồng ngực. Họ chỉ vào ngưc mình, ngực bạn, nói lòng quý mến nhau. Những tiếng động bên ngoài đường của xe cộ, của âm thanh ầm ĩ, họ bỏ cả ngoài tai. Trong những lồng ngực đơn sơ đó cái âm thanh tĩnh lặng kéo dài theo nhịp đập êm ả của trái tim.
Tôi chào họ ra về, mang theo quán trà Thinh Lặng trong trái tim nhiều tiếng động đời thường của mình, nước mắt bỗng ứa ra.
Chao ôi, là quê hương! Mỗi chỗ giấu một điều bí mật, ta có may mắn tìm thấy, khác nào như những người tìm được châu báu trong kho tàng cổ tích thần tiên.

Trích Ký-Những Mảnh Quê Nhà.
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9