THUỐC BỔ TỪ QUẢ KIM ANH
chialy1904 25.04.2006 17:06:37 (permalink)
THUỐC BỔ TỪ QUẢ KIM ANH
DS. BẢO HOA

Mô tả cây

Kim anh (Rosa laevigata Michoc). Thuộc họ hoa hồng (Rosaceac) còn có tên là thích lê, đường quán, người Tày gọi là mác nam lỳ, là một cây nhỏ leo, mọc thành bụi sum sê, có thể dài 7-10m, thân cành nhẵn, vỏ ngoài màu nâu hoặc xám nhạt, có nhiều gai. Lá kép mọc so le, gồm 3 lá chét hình bầu dục hoặc hình trứng, mép khía răng nhọn, mặt trên màu lục sẫm, mặt dưới nhạt, đôi khi có ít gai ở gân, lá chét tận cùng dài và to hơn. Hoa to, màu trắng thơm, mọc đơn độc ở đầu cành, cuống có lông cứng màu vàng nhạt, nhị nhiều màu vàng. Quả hình trứng (chính là quả giả do đế hoa lõm hình thành), có lông dạng gai cứng, khi chín màu vàng nâu, hạt (quả bế) nhiều, thon dẹt.

Mùa hoa: tháng 3-6, mùa quả: tháng 7-9. Cây mọc tự nhiên và là đặc sản của hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Thường gặp trên các đồi cây bụi, sa van cỏ với nhiều cây bụi thấp, ven đường miền núi, bờ nương rẫy. Cây còn được trồng làm hàng rào gai để bảo vệ vườn tược.

Thu hái và chế biến

Quả là một bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu của cây kim anh. Quả được thu hái lúc gần chín, quả có màu vàng hơi nâu đỏ, cho vào túi vải, xóc mạnh và chà xát cho rụng hết gai, rồi bổ đôi, nạo sạch hạt và lớp lông tơ màu vàng nhạt bên trong quả, phơi hoặc sấy khô (không được để sót hạt). Thành phần hóa học trong quả kim anh gồm Saponin 17%, tamin, đường, acid citric, acid malic, nhựa, chất màu carotenoid. Đặc biệt, vitamin C với hàm lượng cao 1-1,2%, có khi đến hơn 1,3% tức 1.300mg% (ở quả thu hái tại Lạng Sơn). Hạt kim anh chứa glucosid độc.

Dược liệu kim anh qua chế biến có màu đỏ nâu, bóng như màu cánh gián, mặt ngoài hơi có nếp nhăn dọc và những chấm lồi là vết tích của gai đã rụng, sờ thấy ráp tay, bên trong nhẵn bóng, chất cứng rắn, vị chua chát, hơi ngọt, tính bình.

Công dụng và liều dùng

Kim anh được dùng trong y học hiện đại với tác dụng chủ yếu của vitamin C là tăng cường sức đề kháng của cơ thể và cầm máu. Thuốc được làm thành mứt hoặc chế biến dưới dạng sirô. Cách chế sirô kim anh như sau:

Lấy khoảng 100g quả kim anh đã chế biến, tán bột, ngâm với nửa lít rượu. Thỉnh thoảng lắc đều, khoảng 15 ngày đem lọc, đun nhỏ lửa để bay hết rượu đến khi còn khoảng 20ml. Để nguội, trộn với 200ml sirô, khuấy đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1-2 thìa canh.

Cồn thuốc được điều chế từ dược liệu quả kim anh (200g) ngâm trong 1 lít cồn 80o làm 3 lần (để nuốt kiệt hoạt chất) chữa thần kinh bất định, lo âu, trằn trọc khó ngủ. Liều dùng hàng ngày là 15-30 giọt. Không dùng quá liều, sau một thời gian dùng thuốc nên nghỉ một tuần, rồi tiếp tục nếu thấy cần thiết.

Đông y lại dùng kim anh làm thuốc bổ thận, ích tinh, tráng dương với liều dùng hàng ngày: 6-12g dưới dạng thuốc bột hoặc cao lỏng. Cao kim anh pha mật ong với tỷ lệ 10% cao và 90% mật, dùng rất tốt. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trong những trường hợp sau:

Chữa suy nhược thần kinh, di mộng tinh, hoạt tinh, viêm ruột: Kim anh 500g, ba kích 250g, tua sen 50g. Hai vị kim anh và ba kích thái mỏng, sao vàng, tán nhỏ, cho vào một túi nhỏ cùng với tua sen, rồi nấu với 3 lít nước còn chừng 1 lít. Lọc kỹ, để riêng, tiếp tục nấu với 2 lít nước nữa cho đến khi còn 0,5lít, lọc lấy nước bỏ bã. Trộn hai nước lại, cho thêm đường (1.000g), khuấy tan, cô đặc còn 1lít là được. Để nguội, thêm vài giọt tinh dầu cam cho thơm. Mỗi ngày uống 2 thìa canh, chia làm hai lần.

Hoặc kim anh 100g, khiếm thực 100g, phơi khô, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với mật làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10-20 viên.

Chữa tiểu són, tiểu rắt: Kim anh 10g, tang phiêu tiêu 10g, tua sen 10g, sơn dược 12g. Tất cả phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.

Chữa tỳ hư, tiêu chảy lâu dài: Kim anh 10g, phục linh 10g, đảng sâm 10g, bạch truật 10g, hạt sen 15g. Sắc uống trong ngày.

Chữa ra mồ hôi trộm, ù tai, chân tay tê mỏi: Cao quả kim anh 184g, hoàng bá, khiếm thực mỗi vị 180g; Sa sâm nam, sơn dược mỗi vị 120g. Hạt sen, tỏa dương, táo nhân, mạch môn, hên tu, tri mẫu, long cốt, mẫu lệ mỗi vị 75g. Tất cả tán bột, trộn đều, làm thành viên 0,1g. Ngày uống 6g.

Ngoài ra, rễ và lá kim anh cũng được dùng làm thuốc. Rễ rửa sạch, bỏ lớp vỏ đen bên ngoài, thái nhỏ, sao vàng, ngâm rượu cho đặc, để càng lâu càng tốt, uống mỗi ngày 10-15g, chữa chứng phong tê bại, đau nhức chân tay (Nam dược thần hiệu), lá giã nát, thêm ít muối, đắp chữa sưng tấy, lở loét, bỏng.

Chú thích: Tránh nhầm kim anh với một loài hồng dại mọc hoang trong rừng, có dáng cây và hoa rất giống nhưng hoa lại có màu đỏ mà nhân dân Lạng Sơn vẫn gọi là kim anh hoa đỏ. Cây này không được dùng làm thuốc.
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9