Dương Thu Hương - Những Tiểu Luận
Ngọc Lý 02.05.2006 23:31:17 (permalink)
.


Dương Thu Hương
Sự cứu rỗi cuối cùng




Lý trí khi bị dẫn dắt bởi vị ngã
cũng dẫn con người tới
cùng một vực sâu như đức tin,
vì nó là thành phẩm của con người.


Nhà văn cần phải thức tỉnh lương tâm con người.
Bởi lương tâm thường mệt mỏi
và luôn thiu thiu ngủ.


Dương Thu Hương



Nhu cầu được cứu rỗi có lẽ là nhu cầu sớm nhất của nhân loại. Nó xuất hiện cùng lúc với con người đầu tiên đi bằng hai chân, lưng thẳng đứng, quyết định rời bỏ cánh rừng để tiến về chân trời phía trước. Chân trời hoang vắng kia chính là định mệnh của loài người, vừa cám dỗ vừa hàm chứa hiểm nguy, đem lại cùng một lần hy vọng và lo âu, say đắm và khắc khoải. Chính bởi con đường dẫn đến tương lai bao giờ cũng được cắm mốc bởi những bất an, nên con người cần có sự cứu rỗi. Nhu cầu về sự cứu rỗi là một hằng số, kể từ con người đầu tiên, đầu tóc đầy chấy rận, che thân bằng lá rừng cho đến nhân loại ngày hôm nay, một năm tiêu thụ hàng chục triệu lọ thuốc nhuộm tóc và hàng chục vạn tấn quần jean.

Trên con đường dài đặc của lịch sử, tấm áo giáp tinh thần đầu tiên che chắn cho tâm hồn mong manh của con người chính là niềm tin. Một quyền năng tối cao phải ra đời để mang đến cho họ sức mạnh đặng có thể vượt qua mọi thử thách, đứng vững trước những chân trời giông bão, trước những ngọn sóng thần, những hỏa diệm sơn, những bệnh dịch ma quái và những cuộc cạnh tranh sinh tồn khốc liệt. Nhưng vì đã có tháp Baben để con người chịu lời nguyền chia rẽ về ngôn ngữ nên phải có một thứ Baben khác để con người chịu lời nguyền thứ hai: Sự chia rẽ về niềm tin. Đấng Omnipussant xuất hiện dưới những gương mặt khác nhau, mặc những thứ trang phục khác nhau, đòi những món ăn khác nhau trong ngày lễ và sau rốt, ra những chỉ định khác nhau cho con chiên của họ. Vì những khác biệt này, sự cứu rỗi của nhân loại đã trở thành duyên cớ cho biết bao cuộc chiến tranh kinh khủng, tàn độc trong lịch sử.

Vì cớ gì Chúa của người Do Thái khác Chúa của người Thiên Chúa giáo, từ những dữ kiện nào, được ghi nhận vào năm tháng nào, và do ai chịu trách nhiệm về tính chân thật?...Dường như không có lời giải đáp. Vậy mà trong gần hai mươi thế kỉ, những cuộc tàn sát người Do Thái diễn ra không ngưng nghỉ cho đến tận ngày Giáo Hoàng Paul II chính thức nói lời đề nghị tha thứ trước toàn thể dân cư trên hành tinh.

Thêm nữa, dưới chỉ định nào của Jesus mà suốt mấy trăm năm những người Thiên Chúa giáo dồn những người theo đạo tin Lành lên các vùng núi trong một cuộc chiến tranh tàn khốc cho đến nỗi những giáo dân Tin Lành chỉ được quyền làm bánh mì một lần trong năm, chỉ được ăn bánh mới một ngày độc nhất trong 365 ngày. Nhiều thế kỉ đã trôi qua, nhưng ngày hội bánh mới vẫn còn và những ngôi nhà của người Tin Lành trên các vùng núi nước Pháp vẫn nguyên vẹn với những bức tường dày hơn cả tường của các pháo đài xưa cũ.

Giờ đây, nếu nhìn lại quá khứ, liệu có lý thuyết nào xứng đáng để biện minh cho những tầng xác chết của giáo dân vùi dưới lòng đất, những con người cùng đeo thánh giá, cùng múc những nguồn cảm xúc tinh thần trong Kinh Phúc Âm và cùng quỳ gối trước một ông thánh bị đóng đinh?

Chỉ có thể lý giải: Mọi niềm tin đều có khả năng điên rồ và chúng đã dẫn tới sự điên rồ.

Có lẽ vì mệt mỏi với những cuộc chiến tranh tôn giáo, con người tìm nguồn cứu rỗi trong lý trí trong sự khôn ngoan, trong các loại biện chứng pháp, và sức mạnh thần kỳ của nền kĩ trị. Vào thế kỷ 18 và 19, đã có lúc con người của chủ nghĩa duy lý tin rằng họ là những Pha-ra-on cuối cùng của nhân loại và từ nay về sau, mọi chân trời đều khép kín, hạnh phúc đã vĩnh định trong các sơ đồ vẽ sẵn.

Từ năm 1968 cho tới gần đây, nhiều giáo sư triết học Pháp đã hớn hở tìm những vấn đề trong tương lai còn khiến dân chúng quan tâm. Nói cách khác, họ đặt từ cuối cùng cho nhân loại: Người thì tin rằng từ đó là Tiện Nghi, người gọi từ tối hậu là Sex…Họ tin chắc rằng sau cuộc cách mạng tình dục, nước Pháp sẽ không còn con bệnh tâm thần, và mọi cuộc cởi trói sẽ biến xã hội Pháp thành cõi thiên đường nơi hạ giới…

Nhưng ngày hôm nay, người ta có thể gặp những người mất thăng bằng tinh thần, những con bệnh tâm thần thực thụ ngay trên đường phố Paris, ấy là chưa kể đến những khu vực bidon-ville ở ngoại ô.

Như vậy là sự thông minh cũng có thể nhầm lẫn, cũng có thể hàm hồ. Những hy vọng thái quá ở sức mạnh của lý trí cũng dẫn đến một sự điên rồ khác. Sự điên rồ của nền kĩ trị, sức tàn phá không thể so sánh của nó trong việc hủy hoại môi sinh và sỉ nhục con người. Những vấn đề ấy không còn là mới mẻ.

Vậy chúng ta sẽ sống ra sao đây giữa hai làn đạn chéo? Sự điên rồ của niềm tin và Sức mạnh phá hủy của sự duy lý?...Chúng ta sẽ sống ra sao đây giữa các tầng mây nhiễm phóng xa và tiếng gào thét của những phần tử cực đoan đạo Hồi?

Liệu chúng ta có thể lấp đầy vực thẳm phân ly giữa niềm tin và lý trí? Câu hỏi này có vẻ như ngớ ngẩn bởi dù đức tin hay lý trí, chúng cũng đều xuất phát từ con người, cấu thành một phần bản thể Người.

Đức tin khi bị dẫn dắt bởi sự vị ngã sẽ dẫn nhân loại tới sự suy đồi, độc ác. Bởi lúc đó, dù là đấng Tối cao của người Do Thái, chúa Jesus, hay thánh Allah thì họ cũng chỉ là những cái cớ sang trọng để biện minh cho sự phóng chiếu bản năng gốc của con người. Nhân loại cần những ông thánh để hợp lý hóa sự tham tàn của họ, nhu cầu thù ghét tha nhân mà họ được nuôi dưỡng từ thuở hồng hoang khi phải tranh cướp con mồi. Bản năng xâm kích song sinh với bản năng tình dục, một kẻ dẫn đường không kém phần uy lực trong suốt cuộc tồn sinh.

Lý trí khi bị dẫn dắt bởi vị ngã cũng dẫn con người tới cùng một vực sâu như đức tin, vì nó là thành phẩm của con người, do con người sáng chế, nó không thể tránh khỏi vòng quay ma quỷ của dục vọng. Dục vọng được biểu tượng như một chiếc túi không có đáy. Với số đông, ý thức được sự vô bờ bến của dục vọng dường như quá khó khăn.

Nhưng có lẽ nhiệm vụ của những người cầm bút là ở nơi khó khăn này.

Họ cần phải thức tỉnh lương tâm con người. Bởi lương tâm thường mệt mỏi và luôn thiu thiu ngủ. Họ cần kêu gọi lòng từ ái, bởi trước những bản năng sâu xa nhất tồn tại vĩnh cửu nơi con người, lòng từ ái, sự hy sinh quả là điều rất đỗi mong manh.

Nếu như cả đức tin lẫn lý trí đã chứng minh khả năng tàn phá, hủy diệt với tất thảy những chiều kích của sự điên rồ, thì chỉ còn lại phẩm chất duy nhất có thể cứu rỗi chúng sinh, ấy là lòng tốt. Một mai đây, nếu hành tinh này còn có thể tồn tại được, chắc chắn là nhờ ơn phước của những con người từ ái, cao thượng, những người có Trái tim vàng, chứ không thể là các lãnh tụ tôn giáo hoặc các kĩ trị gia.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin được mượn lời Nguyễn Du, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam:

Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Lời quê chắp nhặt dông dài,
Mua vui cũng được một vài trống canh.



Dương Thu Hương

________

Đọc thêm về Dương Thu Hương

Các tác phẩm của Dương Thu Hương trong Việt Nam Thư Quán
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.05.2006 23:30:53 bởi Ngọc Lý >
#1
    Ngọc Lý 03.05.2006 23:30:08 (permalink)

    .

    Tự Do
    Ảo Khoảng Sinh Tồn Của Ngòi Bút

    Dương Thu Hương




    Tự do là ngọn lửa đầu tiên thổi bùng những đám cháy cách mạng. Cũng là cơn hồng thủy cuối cùng dìm tắt những đám cháy ấy. Trong tất thảy những khát vọng của nhân loại, không khát vọng nào tập hợp được một đám đông vĩ đại như khát vọng tự do. Từ Spartacus tới Ghandi, từ những hình thức đối lập với những chiều kích đa dạng nhất của cuộc đấu tranh cho quyền sống con người đều vang vọng bài ca tự do. Trong vang vọng ấy người ta thấy bụi cát mịt mù cuốn theo con đường dài dặc của lịch sử, thấy diện mạo một nhân loại nhọc nhằn đau khổ lo âu sợ hãi khắc khoải phẫn nộ tha thiết điên cuồng tàn ác và sau rốt mệt mỏi u sầu vào những hoàng hôn trống vắng.

    Không khát vọng nào phải trả giá đau đớn hơn tự do. Không thách đố nào khắc nghiệt hơn tự do. Người ta vừa thèm khát vừa khiếp sợ nó.

    Phải chăng tôi đã lặp lại ở đây những ý tưởng cũ mèm ?... Chắc hẳn với phương tây, tự do như một mệnh đề sẵn có, như cây cột đèn, như bảng hiệu ở góc phố, không ai còn chú ý tới. Tôi nói đây lời mê sảng của cõi bùn lầy. Nơi tự do còn là giấc mơ chính ngọ. Ám ảnh. Không buông tha. Xin hãy cho tôi lặp lại tiếng gọi của tự do âm vang trong những tâm hồn đói khát.

    Với chúng tôi, tự do như kiếp nhân sinh có lịch sử riêng. Nó không hiện diện thường trực cùng nhân loại như kẻ đồng hành. Hạt giống tự do gieo rắc khắp nơi, nhưng không đồng đều và đồng nhất. Ở nơi này, nó mọc thành rừng rậm, nơi kia là những bụi gai cằn lụi hay đám cỏ leo. Với dân tộc này tự do cuồn cuộn chảy trong huyết mạch. Với dân tộc khác nó chỉ là cơn mưa thoáng qua trong khung trời tù đọng. Phải chăng lòng khát khao tự do cũng là một tố chất quan trọng cấu tạo nên các nền văn hóa và các bản sắc dân tộc ?... Cho dù chưa hẳn như thế, người ta vẫn tìm trong các trang sử bóng dáng ngọn cờ tự do như một tiêu chí không thể lảng tránh để định vị sự hình thành phẩm chất người và tính cách quốc gia.

    Trong bất cứ xã hội nào, loại người cần tới tự do trước tiên là những người làm văn chương nghệ thuật. Không phải vô cớ người ta định nghĩa văn chương nghệ thuật là con đẻ của ba bà đỡ : Tự do - Xa xỉ - Nhàn rỗi. Điều này là sự thật hiển nhiên ở các xứ văn minh. Nhưng trên địa cầu chỉ một phần ba đất đai được mặt trời văn minh chiếu sáng. Phần còn lại là những mảnh đất chìm trong bóng tối hoặc ở khoảng mập mờ. Chúng tôi, những cư dân của miền đất vắng mặt trời tự do, chúng tôi sẽ làm gì với ngòi bút của mình ?... Chúng tôi bắt văn chương biến hình như con kỳ nhông hay luồn lách qua kẽ đá sống lắt lay như loài rêu núi ?... Hoặc chúng tôi chấp nhận tác phẩm của mình hiện diện như những đứa bé sứt môi sứt mũi hoặc khuyết hãm chân tay ? Có lẽ... Và có lẽ... Sự chấp nhận một bản diện méo mó què cụt là phương thức an nhiên, thường xuyên của các văn nhân sống dưới chế độ độc tài. Họ phải tự nguyện thổi tắt đi ngọn lửa tự do cháy trong tâm hồn chăng ?... Vâng, phải thế... Nhưng Tự do lại là bản tính tiên thiên của văn chương nghệ thuật. Thổi tắt đi ngọn lửa Tự do là tắt đi chính phần cốt lõi của văn học và xóa đi thiên chức nhà văn. Như vậy tốt hơn cả là kiếm lấy một chiếc ghế trong hàng ngũ quan lại hoặc viên chức và mưu sinh một cách an bình. Cũng không thể... Bởi văn chương đôi khi như bùa ngải, như quỷ ám như món nợ tiền định, như tình duyên tiền kiếp không thể chạy trốn, không thể cởi bỏ. Nhà văn không thể từ giả giấc mơ sáng tạo để sống cuộc sống bình thường. Và như thế, họ giống kẻ tội đồ thời trung cổ, bị giằng xé giữa hai cỗ xe ngựa, một bên là nỗi sợ quyền lực và sự trói buộc của mưu sinh, bên kia là lòng đam mê văn chương nghệ thuật. Trong cảnh huống đó, tự do tàng trữ như mỏ than, dưới đáy biển bùn. Lúc này và lúc khác, nơi nọ và nơi kia, nó vụt lên những đốm lửa rồi vụt tắt. Trong khí quyển sặc mùi sình lầy và dưới khung trời u ám, những đốm lửa vụt loé lên trong vài ba giây rồi lụi tắt. Vừa kích thích sự ham muốn vừa khiến con người thêm khiếp sợ. Sự khiếp sợ và lòng khao khát tự do thầm lén là hai con sói đói thường xuyên cắn xé trái tim các văn nhân. Mặc cảm tự tôn, đôi khi vĩ cuồng tự đại trong những giấc mơ lộng lẫy huy hoàng nhưng vụng lén, về văn chương cũng như về chính bản thân, vật lộn và hòa quyện cùng mặc cảm tự ti về thân phận hèn mọn trong cuộc đời thực là thứ cường toan ngày ngày gặm nhấm tâm hồn họ. Trong ánh mắt họ cùng một lúc thấy những mưu toan và khiếp nhược, phẫn nộ và khuất phục, những giọt lệ nhục nhã trộn với bóng mây giông.

    Cuộc sống chảy trôi và con người mòn mỏi ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm trong cuộc vật lộn nội tâm bất phân thắng bại. Với não trạng đó, văn chương chỉ có thể đẻ ra những kiệt tác của lối nói vòng vo, ám dụ. Một phong cách hết sức mẫn cảm nhưng cũng để rơi vào phản cảm vì khó tránh sự lạm dụng thủ pháp. Những điển tích, trích dẫn, những ẩn dụ, lối dùng hình dung từ bóng gió lập lờ, phép hoán chuyển ngôn từ... Tất cả, không nhằm làm văn phong thêm súc tích hấp dẫn mà chủ yếu để che đậy các thâm ý và lưỡi kéo kiểm duyệt. Nhà văn phải tự kiểm duyệt mình trong khi viết. Thay vì tính toán kết cấu, diễn tiến của các nhân vật, liều lượng các uyển ngữ trong câu văn... anh ta phải sắp đặt sẵn những lời biện hộ trước các cấp thẩm quyền một khi tác phẩm bị tố giác. Những biện hộ ấy nhằm xóa đi các thâm ý, các tư tưởng cốt lõi mà anh ta muốn đem lại cho độc giả. Như thế dù muốn hay không, nhà văn cũng buộc bị trở thành kẻ ngụy biện chuyên nghiệp, kẻ dối trá thường trực. Sự dối trá là yếu lĩnh của con người sống dưới các chế độ độc tài, điều đó tự nhiên như nước trong khe ắt phải đổ xuống dòng suối.

    Có một số người dù cố gắng tới đâu cũng không thích ứng được với môi trường. Không may mắn, tôi nằm trong số đó. Không thể và không biết dối trá, ấy là khiếm khuyết lớn nhất của bản thân tôi khi đã sinh ra trên mảnh đất sình lầy. Một mảnh đất cỏn con nhiều binh đao và bão gió. Những người sống quanh tôi vừa quen vừa lạ, dầu sống với đồng bào của mình, tôi vẫn không hiểu vì sao ở nơi họ cùng một lúc người anh hùng và kẻ tôi mọn cùng song hành tồn tại. Cũng nhiều năm tôi không hiểu các bạn đồng nghiệp của mình. Và sau rốt, khi đã hiểu, tôi rời xa họ... Tôi là kẻ bất tài trong nghề quỷ biện. Tôi thấy xấu hổ nếu phải chối bỏ những gì tôi viết, cho dù tôi hiểu rất rõ sự chối bỏ bản thân là lối ứng xử châu Á khôn ngoan và hữu hiệu, vừa giữ được sĩ diện cho các bậc cầm quyền, vừa đảm bảo an toàn cho bản thân và ngòi bút, bởi các vua chúa và trưởng tộc phương đông rất khoái thứ chủ nghĩa duy cảm cải lương. Họ thích nhìn những kẻ tôi tớ cúi đầu run rẩy nước mắt lã chã hai hàng trước mặt họ. Đã từ lâu phương Đông có truyền thống trị nước bằng hứng cảm chứ không bằng luật pháp... Trước tôi, đồng thời với tôi, và cả thế hệ sau chúng tôi, đâu đâu cũng diễn ra những màn cải lương duy cảm như thế. Chúng gợi cho tôi cái cảm giác mà Jean Paul Sartre đã gọi chính xác trong tác phẩm của ông : La Nausée. Tôi quyết định đo cuộc sống bằng chiều cao của hạnh phúc chứ không bằng chiều dài năm tháng. Tôi quyết định sống như một người tự do. Tôi tự tạo cho mình một mặt trời tự do ngay trên mảnh đất sình lầy. Và vào khoảnh khắc quyết định ấy, tôi tự thấy tôi hoàn toàn thay đổi : Hạnh phúc. Hoàn toàn hạnh phúc trong cô đơn tuyệt đối và cùng cực.

    Tôi điên chăng ?... Hay tôi là kẻ khoác lác cố nặn ra những ảo giác để tự an ủi, tự huyễn hoặc ?... Nhiều người cho là thế. Họ không tin tôi có thể tự do. Ai có thể tự do khi hết thảy những bạn bè xung quanh đều được gọi đến giao nhiệm vụ giám sát và dù muốn hay không họ cũng buộc phải trở thành các mouchards theo dõi anh ? Ai có thể tự do khi bước chân đến tiệm cà phê nào lần thứ ba là tức khắc có kẻ ngồi áp sát lưng mình ?... Ai có thể tự do khi thư từ và mọi liên lạc với thân nhân bị kiểm soát, tịch biên vô điều kiện ?... Thế đấy !

    Nhưng tôi vẫn thấy tôi là người tự do. Tôi nói điều tôi muốn nói, tôi viết những gì tôi muốn viết, cho dù những trang viết ấy không được phép in. Vào năm 1991, những tháng người ta giam tôi vào tù, tôi vẫn có nguyên cảm giác tự do như thế. Tôi nghĩ những gì tôi muốn nghĩ. Tôi rung cảm với những gì chìm lắng trong tim tôi và khiến tôi lay động. Những cuộc hỏi cung và ba người đàn ông trước mặt tôi thuộc về một thế giới khác. Thế giới đó không liên quan tới cuộc sống nội tâm - cuộc sống chính của tôi.

    Phòng tù vô số muỗi, quơ tay là tóm dược. Tôi bắt rất nhiều muỗi. Tôi cũng bắt những con bọ màu đen nhung nhúc trong tấm chăn bông cũ nát người ta phát cho tôi, tấm chăn đầy những đám máu khô của tù nhân nào trước đó bị kiết lị để lại. Tôi bắt rệp trong các kẽ giường. Với xác đám bọ, tôi dàn lại cảnh vượt sông Elbe trong cuốn phim "Giải Phóng" của Boldartchuk và cảnh trận Watterloo trong phim Napoléon bé tí. Tôi so sánh cách dàn cảnh của người Nga với người Pháp bởi tôi vốn mê điện ảnh, dầu rằng ở nơi bùn lầy nghèo đói này điện ảnh là giấc mơ quá xa xôi và xa xỉ. Nhưng tôi vẫn mơ. Tiếp tục mơ. Với xác rệp thay cho các chiến xa hoặc đại bác, xác muỗi và bọ thay cho các binh đoàn, tôi hồi tưởng những cuốn phim xưa làm tôi mê mẩn. Và, tôi nhớ cha tôi. Người cha tôi yêu một cách cáu giận, ấm ức. Một người cha vừa quá đỗi ấm áp vừa khắc nghiệt bất công. Ông yêu tôi nhưng ông không thể vượt qua được những nguyên tắc cứng rắn của giáo lý phong kiến. Tôi yêu ông nhưng tôi không thể không là đứa con bất tuân lệnh. Vào lúc đó, tôi thiếu vắng ông và hình ảnh ông luôn hiện lên xâm chiếm tâm hồn tôi, ngoài những cơn mơ nghệ thuật. Tôi giải bày với ông, cãi cọ với ông, trách móc ông, ấm ức khóc cùng ông... Điều này đôi khi xảy ra ngay giữa các cuộc hỏi cung, trong lúc tai tôi vẫn nghe và miệng tôi vẫn trả lời như cuốn băng ghi âm được mở lại...

    Nhờ kinh nghiệm của những ngày ấy, tôi hiểu vì sao Servantes đã viết được cuốn Don Quichote trong tù. Chắc chắn Servantes cũng tự do trong khung trời riêng của ông. Ông tự do ngay giữa chốn ngục tù. Và cái tự do ảo đó mạnh mẽ đến mức ngoại cảnh trở nên mờ nhạt, yếu ớt, hư vô. Ngoại cảm bất lực chẳng còn mảy may tác động đến tâm tư tình cảm của nhà văn. Tự do ấy do chính ông tạo ra. Tự do ảo. Cái tự do nảy sinh trong thách thức với nghịch cảnh. Cái tự do tồn tại như một mặt trời thần tiên vì chỉ riêng một người nhìn thấy, một người được chiếu sáng và sưởi ấm.

    Tự do ấy là quyền năng tối thượng của nhà văn, là hành vi thiêng liêng ăn cắp lửa. Không ai có thể đem lại cho anh ta điều đó, ngoại trừ chính anh ta.

    Tự do đó là khoảng sinh tồn của ngòi bút.

    Dại khờ quá chăng, điên rồ quá chăng, để tìm kiếm một tự do như thế ?... Có lẽ... Hoặc anh chối, hoặc anh tự do như thế để viết những gì xứng đáng. Tài năng ư ?... Cái đó thượng đế cho. Còn tự do, lòng tự tin và nhân cách sẽ được kiến tạo. Trên mặt đất có hằng hà sa số lối đi. Tôi không ngu ngốc và đồi bại tới mức cho con đường tôi đi là duy nhất đúng. Nhưng tôi biết mọi sự trên đời đều có giá và con người là kẻ tạo tác nên số phận của mình vừa lãnh nhận mọi phản hồi của chính số phận ấy. Khi bức tường Berlin sụp đổ, vũ trụ tưởng vỡ tung vì tiếng gào thét sung sướng của mấy đổ. Nền chuyên chính vô sản sụp đổ... Người ta ngỡ ngàng khi thấy chân trời xanh màu xanh xa xôi hằng mong ước. Màu xanh của tự do. Khoảng khắc ấy hàng vạn văn nghệ sĩ của Liên Xô cũ và các nước Đông Ấu khóc vì sung sướng. Tiền đồ của văn chương nghệ thuật mở ra trước mắt họ. Cùng với tự do... Nhưng những giọt nước mắt sung sướng chưa kịp khô, những giọt lệ khổ đau đã bắt đầu tuôn chảy. Một khoảng lặng im kéo dài, bối rối thẹn thùng. Rồi lẻ tẻ vài người mạnh dạn thổ lộ nỗi boăn khoăn bứt rứt, và sau cùng cả đám đông công khai thú nhận sự bất lực của bản thân. Họ không viết được nữa.

    Tôi nhớ câu nói của nữ thi sĩ Bungarie nổi tiếng :

    "... Bao nhiêu năm trước đây, chúng tôi đã mơ ước được viết tự do. Bây giờ, tự do đến rồi và chúng tôi không còn gì để viết..."

    Nhà thơ này đã sang Việt Nam nhiều lần. Một người đàn bà thông minh xinh đẹp. Lời thổ lộ của bà làm tim tôi se sắt. Nhưng tôi biết tôi không thể làm gì được cho bà, cho bà và cho những người cùng cảnh ngộ như bà. Bởi tự do không phải là một thứ châu báu cất trong hoàng cung, ba ngàn năm sau lấy ra vẫn còn nguyên giá trị. Tự do như kiếp nhân sinh. Như kẻ đồng hành. Ta phải học cách sống có nó và xứng đáng với nó.

    Thời xưa có một hoàng đế Trung Hoa chỉ thích ăn thịt một loại chim rừng. Quần thần sai người đi bắt loài chim ấy về nuôi trong vườn cấm có lưới quây. Khi chim non vừa mở mắt, họ liền bắt chúng nhét vào những ống nứa khoét lỗ chỉ để thò mỏ và chắn ra ngoài. Chim được nuôi bằng ngũ cốc quý và các loại quả tinh khiết. Khi lớn lên, chúng có thân hình đúc khuôn như ống nứa, thịt nung núc nhưng cánh và chân teo lại, lúc nhà bếp chẻ ống nứa lấy chim ra thịt, lũ chim béo ục ịch chỉ nhảy được vài bước ngắn rồi lăn kềnh xuống sàn... Đó, nguyên tắc thích ứng. Hàng vạn văn nghệ sĩ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa đã được nuôi như lũ chim đó... Đau xót thay, tiếc nuối thay, bao nhiêu tài năng đã hư hao tàn lụi ?!...

    Tuy nhiên bất luận hoàn cảnh nào cũng tồn tại những con chim tự do. Loài chim quen với những đỉnh cao chóng mặt và tìm thấy hạnh phúc khi bay qua những đỉnh cao ấy. Trong mưa bão. Trong đơn độc. Kiêu hãnh ngay giữa khổ đau và đơn độc. Tôi có thể kể tên một người trong số đó : Bulgakov. Không chọn con đường biệt xứ như Soljénitsyn, như Pasternak, ông ở lại nước Nga, chịu đầy đọa nhiều năm dài, bị cô lập, bị rình mò, đi đóng gạch và làm những việc thổ mộc nhọc nhằn khác để tồn tại. Nhưng ông đã sống như một người tự do, ông đã viết như một người tự do. Những tác phẩm của ông : "Trái tim chó", "Nàng Marguerite và Nghệ nhân" đã được viết dưới ánh sáng của mặt trời tự do. Mặt trời ấy, chính ông, một tâm hồn Nga cao thượng và mãnh liệt đã tạo tác.

    Lịch sử loài người tính theo lịch Thiên chúa sắp trọn hai ngàn năm. 20 thế kỷ. Nhưng trước công lịch, phương Đông đã có Xuân Thu chiến quốc, phương Tây đã có Thập Tự chinh, nhân loại đã buồn vui, đau khổ, sung sướng... Nhân loại đã suy nghĩ. Các dã sử, huyền sử đã được truyền tụng, dồn tích như các lớp phù sa lắng đọng trong tiềm thức con người. Chúng là một phần tài sản của ta hòa trộn cùng những mầm mống tài năng và bệnh tật mà tổ tiên, dòng tộc gieo cấy vào huyết mạch. Đối với nhà văn, thứ tài sản tinh thần đó quan trọng hơn tài sản theo nghĩa đen của cuộc đời thế tục. Những năm còn trẻ, không biết do run rủi nào tôi được đọc vở kịch Esope. Ngay tức khắc hình ảnh người nô lệ này chinh phục tôi. Nhờ anh ta, tôi hiểu Tự do là khát vọng mãnh liệt nhất, thách thức khắc nghiệt nhất đối với con người. Tự do, ấy là thước đo chiều cao nhân cách.

    Lời cuối của Esope, trước khi nhảy xuống vực như sau :

    "...Với tình yêu, ta còn xanh quá. Nhưng với Tự do ta đã chín rồi. Vực sâu đâu, con đường ta đã chọn. Ta sẽ chết, bởi cái chết ta trở thành người tự do..."

    Chế độ nô lệ đã qua từ lâu, nhưng khát vọng tự do vẫn đang còn mới. Đối với người viết văn sống trong những vùng đất sình lầy, hình ảnh người nô lệ Esope hẳn còn có ích cho họ, một khi họ muốn cầm bút một cách xứng đáng. Cái tự do hiện tồn của Esope chính là cái tự do ảo của nhà văn là tiền để cho tự do đích thực của đám đông xung quanh họ.

    Vậy thì, xin các văn nhân, các anh có thể chịu hành hạ, sống khổ nhục tù đầy, thậm chí có thể chết. Nhưng chớ bao giờ đánh mất nó.

    Hà Nội 25-8-1999
    Dương Thu Hương

    http://www.ykien.net/bndthtudo.html

    _________

    Đọc thêm về Dương Thu Hương

    Các tác phẩm của Dương Thu Hương trong Việt Nam Thư Quán
    #2
      Ngọc Lý 18.05.2006 04:04:34 (permalink)
      .



      Thế lưỡng phân trong thuyết của Phật Như Lai
      Dương Thu Hương



      Ngày Mậu Ngọ-Tháng Nhâm Thìn-Năm Bính Tuất
      Cung kính dâng Ðức Thế Tôn để tỏ lòng tri ân sâu nặng trước Ngài



      Trong tất thảy các tôn giáo, không tôn giáo nào dạy con người vừa phải sống, phải xây dựng cho cuộc sống tốt đẹp lại vừa phải từ chối nó, coi nó như áng phù vân, như hình bóng hư ảo chập chờn trên vách hang động, như ốc đảo lộng lẫy hiện lên trong trí tưởng tượng của kẻ lữ hành nơi sa mạc.

      Vâng, không tôn giáo nào dạy con người sống với tư thế lưỡng phân như vậy, trừ đạo Phật. Nói một cách chính xác hơn, trừ lý thuyết của Ðấng Thế Tôn.

      Với tư duy quen thuộc, người ta thường phân biệt hai hình thái đối lập rạch ròi, hai kiểu sống hoàn toàn trái ngược:

      Một là nhập thân trong cuộc sống trần ai tục lụy, chấp nhận sự ồn ả, bụi bặm, nhộn nhạo, cạnh tranh khốc liệt với tất thảy những cuồng nộ của đam mê, tức giận , thù ghét, mưu chước và tất thảy những gì liên quan tới cuộc bại thành khiến con người phải uống đến giọt rượu cuối cùng của cuộc sinh tồn, ngọt ngào cũng như cay đắng.

      Hai là tìm nơi hẻo lánh ẩn thân, sau khi đã ghê sợ no nê cảnh đời. Rời bỏ đô thành hay làng xóm, tìm nơi núi hoang hay biển vắng để tránh mặt người hoặc hạn chế tối đa mọi cuộc tiếp xúc với giống người. Ở những nơi đìu hiu như thế, làm bạn cùng cỏ cây muông thú, xa cách những xung đột bắt buộc của mưu sinh, tránh cạm bẫy của giàu sang, quyền thế, sắc dục.

      Giữa cuộc nhập thế và sự ẩn thân là một giải biên thùy. Biên thùy ấy không đóng cột mốc để phân định ranh giới như cửa ải giữa hai nước lân bang nhưng có những quan niệm xưa cổ, được tập nhiễm một cách rộng rãi để phân biệt và so sánh, đối chứng.

      Tuy nhiên, Ðức Thế Tôn lại chỉ ra rằng một bậc chân tu thì phải “Hoằng pháp, lợi sinh” nghĩa là phải giác ngộ chúng sinh, chấn hưng đạo Phật. Còn một người chân chính có ý nguyện tôn vinh đạo Phật, tuy không đạt đến La Hán hay Tỳ Kheo nhưng cũng phải sống giữa cuộc đời này giống như hòn đảo, tự tạo cho mình một cây đèn, nương theo chánh pháp và chỉ dựa vào bản thân thôi, không dựa vào ai khác.

      Cái nguyên tắc:

      “Chỉ dựa vào bản thân thôi, không dựa vào ai khác” chính là nguyên tắc vàng của người theo đạo Phật.

      Nguyên tắc ấy chỉ ra rằng một bậc chân tu hoặc một người chân chính không có quyền theo đuôi kẻ khác, không có quyền nghĩ bằng cái đầu của kẻ khác, không có quyền làm bất cứ hành vi nào mà không ý thức về hành vi đó và chịu trách nhiệm về hành vi đó.

      Chỉ dựa vào bản thân thôi và tồn tại giữa đời này như một hòn đảo chính là cách Phật Tổ Như Lai đặt con người ở thế trực diện trước mọi hiểm nguy của cõi sinh tồn.

      Con người phải đối mặt với mọi cám dỗ, nhìn thẳng vào chúng như nhìn vào bầy thú dữ, lựa chọn cho mình cách ứng xử tối ưu. Cách ứng xử tối ưu này được kiến tạo trên hai cây cột lớn. Với bậc tỳ kheo hay chân tu ấy là Trí Huệ và Phạm Hạnh. Với những cư sĩ hay người theo đạo ở mức thông thường ấy là Trí Tuệ và Giới Hạnh.

      Trí Huệ là sự thức tỉnh siêu tuyệt trước chân lý, là khả năng cảm thụ chân tướng của sự vật dễ dàng an nhiên tựa nhìn vào một dòng nước suối trong suốt hay nhìn vào chiếc cốc fa lê. Người có trí huệ là người có khả năng tự gián cách với cuộc sống tục lụy và do đó, đủ điều kiện để phân tích nó một cách chân xác. Ðể tìm một hình ảnh thuận tiện cho sự so sánh, ta có thể coi người có trí Huệ đứng ở một vị thế xa và cao, gián cách với xã hội tựa hồ ai đó đứng trên đỉnh núi cao nhìn xuống cõi thế, thấy muôn vạn những con đường chồng chéo nhằng nhịt trên mặt đất, theo những ngả khác nhau. Trên muôn vạn ngã đường ấy chúng sinh xuôi ngược như đàn kiến hối hả điên cuồng trong cuộc truy tìm hạnh phúc: Giàu sang? Quyền thế? Sắc dục?.. hoặc tất thảy cùng một lượt với những ai trí tham may quá cỡ. Nhưng đa số hoặc chính xác hơn là tuyệt đại đa số những cuộc truy tìm ấy đều dẫn đến khổ đau:

      “Bể khổ mênh mông, sóng lút đầu”.

      Người có Trí Huệ là người có khả năng nhìn thấy cả biển lẫn bờ, cả căn nguyên lẫn các trạng thái hiện hành mọi nỗi khổ đau mà chúng sinh phải gánh chịu.

      Còn Phạm Hạnh, cây cột thứ hai vừa là bệ đỡ vừa là điểm kết nối với Trí Huệ.

      Người có Phạm Hạnh là người mà sự giới hạnh đã đi từ ý thức sang vô thức, sự thực hành đạo đức không còn chú tâm, còn ý niệm mà trở thành bản thể, như hơi thở ra vô nơi buồng phổi như nhịp đập của con tim.

      Ðối với các cư sĩ, các chúng sinh có thiện tín và thiện tâm, hai cây cột chống cho tinh thần của họ được đặt tên là Trí Tuệ và Giới Hạnh. Hai cây cột này là cặp song trình, vừa là đôi lại vừa là chuyên nhất. Bởi trong đạo Phật không có sự chia cắt giữa trí tuệ và giới hạnh.

      Kinh Sonadanda Sutta viết:

      “Trí tuệ được giới hạnh làm cho thanh tịnh,
      Giới hạnh được trí tuệ làm cho thanh tịnh,
      Chỗ nào có giới hạnh, chỗ ấy có trí tuệ,
      Chỗ nào có trí tuệ, chỗ ấy có giới hạnh,
      Người có giới hạnh nhất định có trí tuệ,
      Người có trí tuệ nhất định có giới hạnh,
      Giới hạnh và trí tuệ là Tối Thắng ở trên đời.”


      Như vậy, lối nói thông thường “kẻ ấy hữu tài vô đức” là không tương thích với đạo Phật. Thật sự ra, nơi đâu là biên giới giữa Trí Huệ và Trí Tuệ. Và ở đâu có vạch phân ly giữa Phạm Hạnh với Giới Hạnh?..

      Trong giới hạn của ngôn từ, con người chỉ có thể nhận biết một cách vô cùng tương đối mà thôi!..

      Tuy nhiên, kinh Tương Ưng dạy chúng ta rằng:

      “Huệ minh được mọc lên
      Là mọc lên tối thượng
      Vô minh được rơi xuống
      Là rơi xuống tối thượng!”


      Như vậy, sự Ngộ, sự thấu hiểu chân lý một cách siêu tuyệt giống như đôi cánh chắp cho con người bay cao lên một tầm cao cần thiết để họ có thể nhìn rõ muôn vạn nẻo đường ngược xuôi gió bụi, để họ có thể nhìn rõ đồng loại cũng như bản thân họ thời quá khứ chính là những bầy kiến đông đảo đang chen lấn trên những ngã đường kia, trong cuộc truy tìm điên cuồng và vô vọng.

      Nhưng muốn Ngộ, con người không thể thiếu đức hạnh, không thể chỉ là con mồi bị ngoạm chặt trong hàm loài hổ dữ: Tham, Sân, Si...

      Vậy là thế song hành cần thiết cho cơn Thức Tỉnh. Một đôi chân tinh thần bắt buộc phải đủ để bước lên con đường của đạo Phật. Cho dù về mặt thân xác, ta có thể bị bom đạn, tai nạn hay kẻ dữ làm cho thành phế nhân.

      Chỉ khi đã Ngộ, đã đủ giới hạnh ta mới có thể trở thành con người chân chính, sống cuộc sống chân chính. Mà muốn Ngộ, trước hết ta phải hiểu đến tận thịt xương ta hai chữ Vô Thường.

      Vậy là, vẫn phải chấp nhận cuộc sống mặc dù nhìn thấy chân tướng của nó là Hư Ảo.

      Vừa phải sống vừa phải coi cuộc sống ta đang sống là phù du.

      Quan niệm như thế là vô cùng khó hiểu, thái độ như thế quả là vô cùng khó khăn đối với đám đông.

      Theo con số thống kê, hiện nay trên hành tinh có 1 tỷ bẩy người theo đạo Hồi, 1 tỷ bốn theo đạo Thiên Chúa. Còn người theo đạo Phật chỉ có trên 400 ngàn thôi. Con số ấy không mọc lên một cách ngẫu nhiên. Con đường chông gai thường ít người qua lại. Vách núi cao chắc chắn khó trèo.

      Nhưng con đường cheo leo ấy lại chính là phần tinh túy nhất trong lý thuyết của Ðức Thế Tôn, là thứ nước cam lồ mà nếu ai đã từng nhắp một lần thì mọi thứ giải khát khác sẽ trở nên vô vị.

      Trước hết, bởi thế lưỡng phân này đòi hỏi một lòng tin tuyệt đối ở chân lý. Và lòng tin vào chân lý lại phải dựa vào sự tự tin ở chính bản thân mình.

      Vì chân lý không phải là món hàng có sẵn ở siêu thị hoặc có thể vay tạm của láng giềng. Chân lý là thứ sản phẩm giá thành rất cao, nếu không nói là tuyệt đối đắt, vì nó đòi hỏi Ðộng Não và Ðộng Tâm. Nó yêu cầu sự chấp nhận hao tổn Tâm Cơ lẫn Não Cơ cùng một lượt.

      Người ta không thể nghĩ một cách hời hợt, cảm một cách hời hợt, mong ước một cách hời hợt mà lĩnh hội được chân lý. Người ta phải đào sâu trí não, phải xúc động sâu sắc, phải mong ước chân thành và kiên định mới hòng tiếp cận được ánh sáng của Trí Huệ:

      Kinh Pháp Cú viết rằng:

      “Thiếu trí thì không định,
      Thiếu định thì không Tuệ,
      Người có định có Tuệ,
      Nhất định gần Niếp Bàn”


      Cuộc hành trình tìm chân lý là cuộc hành trình tự thân, tự tại. Ðức tin không thể tìm kiếm, xin xỏ hay vay mượn nơi người khác, cho dù người đó là bậc cao nhân.

      Kinh Kalama (Kinh Xét Ðoán) viết rằng:

      “Này các ngươi Kàlàmà,
      Chớ có tin vì nghe truyền thuyết;
      Chớ có tin vì nghe truyền thống;
      Chớ có tin vì nghe người ta nói;
      Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng;
      Chớ có tin vì đúng theo một lập trường;
      Chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện;
      Chớ có tin vì phù hợp với định kiến;
      Chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền;
      Chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình”.


      Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau:

      - Các pháp này là bất thiện;
      - Các pháp này là có tội;
      - Các pháp này bị các người có trí chỉ trích;
      - Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau;

      Thời này Kàlàmà , hãy từ bỏ chúng!

      Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau:

      - Các pháp này là thiện;
      - Các pháp này không có tội;
      - Các pháp này không bị các người có trí chỉ trích;
      - Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc và an lạc;

      Thời này Kàlàmà , hãy đạt đến và an trú!


      Như vậy, Ðức Thế Tôn chỉ cho chúng ta thấy rằng “Phải giương cao ngọn cờ hoài nghi trước tất thảy các chân lý đã được làm sẵn”. Phải biết ngờ vực mọi loại hàng hóa tư tưởng đã đóng gói trong các loại bao bì. Chân lý, nếu quả thật xứng đáng với tên gọi, luôn luôn đòi giá cao, giá đắt. Phải đổ mồ hôi, sôi máu não. Phải lao động cật lực trên khối óc và con tim mình. Aùnh sáng Trí Tuệ và Trí Huệ không rọi chiếu tới những hang ổ của sự lười biếng và thói quen ăn bám.

      Bởi vì, tất thẩy mọi tư tưởng cũng như mọi tôn giáo đều chứa đựng trong ngôn từ thông qua ngôn từ mà đến với con người. Mà ngôn từ nào cũng có hai dạng thức tồn tại:

      Trạng thái hiển nhiên như thứ vỏ trái cây.
      Trạng thái bộc lộ như sự dung chứa cốt lõi, tức là phần ruột quả.

      Muốn có được hạt hạnh nhân phải đập vỡ lớp vỏ cứng bên ngoài. Muốn tìm được nguyên ủy sự vật phải vượt qua được lớp vỏ hình thức che phủ chúng, có nghĩa là phải lột được vỏ quả mít để thấy múi mít, phải bóp vỡ quảû dẻ để lấy ra hạt dẻ...

      Cái lớp vỏ của định kiến, của thói quen, của mê hoặc, của nhầm tưởng... luôn luôn vây bọc nội dung thật sự và tạo nên những xét đoán sai biệt, những phán xử bất công, những hy vọng và thất vọng hão huyền hoặc hàm hồ trong con mắt người đời.

      Ðể nhìn cho rõ cốt lõi của sự việc chính là hành trình tìm chân lý. Hành trình ấy chẳng phải là một trò chơi.

      “ Này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn hay hòn đảo cho chính mình, hãy tự mình nương tựa vào chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều gì khác”. Aáy là lời Như Lai Phật Tổ dạy chúng ta.

      “Hãy tự mình nương dựa vào chính mình!..”

      - Vì sao Ðấng Thế Tôn nhắc đi nhắc lại câu nói đó?..
      - Bởi mỗi lời mỗi chữ ấy là vàng đã được thửù lửa, là đá đã đẽo gọt, là kim cương đã được mài chuốt, là chân lý tối thượng được chắt lọc đúc kết qua bao nhiêu chiêm nghiệm suy tưởng của Ngài.

      Con người, do bản tính luôn bị Tham Sân Si chi phối, thường không dám đối đầu với những dục vọng của chính mình. Ðể chạy trốn nỗi sợ hãi này, họ thường có hai cách. Hoặc nhắm mắt rúc đầu vào cát như loài đà điểu, hoặc xa lánh cõi đời. Trong cả hai trường hợp cuộc chạy trốn đều không đạt tới kết quả.

      Theo cách loài đà điểu, dù nhắm mắt để không nhìn thấy sự thật, sự thật vẫn đập cửa xông vào nhà. Nếu đã gây tội ác, không phải luật dương gian khoác áo cảnh sát ập tới thì sẽ là bóng ma của oan hồn trở về cưỡi đầu giường ngủ. Còn nếu là kẻ bị bệnh nặng thì dù có tìm mọi cách lẩn tránh thì thần chết cũng sẽ cưỡi chổi hay cưỡi xe hơi tìm đến tận nơi.

      Theo cách thứ hai, ẩn trốn nơi hang cùng núi hẻm thật ra chỉ là trò bày đặt, nói khác đi là chuyện thay đổi cảnh trí, phông màn trên sân khấu của cuộc tồn sinh. Bởi vì, bạn hiền hay thù nghịch ngự trị trong tâm hồn ta, điều ấy do chính ta định đoạt. Dẫu cho là nơi thâm sơn cùng cốc, nếu tâm chưa tịnh, trí chưa minh, người ta vẫn có thể bị một nàng sơn nữ xinh đẹp, vợ một chàng tiều phu nào đó bên kia núi khuấy đảo lòng dục và xui khiến chui vào tròng tội lỗi. Hoặc là, khi Vô Minh chưa được rơi xuống khi Giới Hạnh chưa thành, dù ở nơi hẻo lánh nhất con người cũng có thể phạm tội trộm cắp, ví dụ giết thịt một con dê của trang trại lân bang lạc đến vườn nhà...

      Những hành vi bất thiện đó dù không ai nhìn thấy, dù lọt lưới pháp luật của loài người nhưng chẳng bao giờ lọt được lưới nhân quả. Vậy nên, mọi sự trốn tránh, ẩn náu đều là trò chơi vô nghĩa của những ai yếu bóng vía hay còn mang vác quá nhiều nhầm tưởng và vọng tưởng.

      Kinh Pháp Cú viết như sau về sự Nương Tựa trên cõi đời:

      Hoặc trên trời, dưới biển
      Hoặc vào trong hang núi
      Không chỗ nào trên đời
      Thoát khỏi tay thần chết

      Hoặc trên trời dưới biển
      Hoặc vào ở trong rừng
      Không chỗ nào trên đời
      Trốn được quả báo ác

      Người ta vì hoảng sợ
      Tìm nhiều nơi nương tựa
      Núi non và rừng rú
      Vườn, cây và đền miếu

      Ấy không là nơi tựa
      An ổn và cao nhất
      Nương tựa các nơi ấy
      Không giải thoát khổ đau

      Ai nương tựa Ðức Phật
      Chánh pháp và Tăng đoàn
      Thấy rõ Bốn chân lý
      Bằng trí tuệ chơn chánh (chân chính-tiếng Nam bộ)

      Thấy khổ và nhân khổ
      Thấy khổ bị tiêu diệt
      Và Chánh đạo tám nẻo
      Thì sẽ được hết khổ

      Aáy là nơi nương tựa
      An ổn và cao nhất
      Nếu nương tựa như thế
      Mới giải thoát khổ đau

      Vui thay, già có đạo
      Vui thay, niềm tin vững
      Vui thay, có trí tuệ
      Vui thay, không làm ác.


      Người có đạo là người tự xây cho mình một thành trì vững chắc, trong thành trì ấy họ Ðạt Ðến và An Trú!

      Trong thành trì ấy, họ tự tại vững chắc như hòn núi, không một xao xuyến ngoại diện nào có thể tác động vào họ. Dù là lời khen hay tiếng chê, dù là cả biển người vỗ tay cổ vũ hay cả biển người la ó, chửi rủa, ném rác ném đá, dù là sự tâng bốc đến mây xanh hay sự nhục mạ, vu khống đê hèn và bỉ ổi... Tất thảy những phản ứng của tha nhân không thể làm xôn xao run rẩy một con người khi họ đã:

      - Tự mình trở thành ngọn đèn cho chính mình,
      - Tự mình đủ nương dựa vào mình
      - Tự biết sống như một hòn đảo giữa biển trần ai.

      Kinh Ðại Niệm Xứ giảng giải cặn kẽ hành trình của một con người đi tìm nơi An Trú trong chính mình, xây đắp thành trì của chính mình.

      Với khuôn khổ bài viết ngắn ngủi này, tôi chỉ có thể trích dẫn vài đoạn mà theo tôi có tính biểu trưng: Trong 37 phẩm bồ đề tạo thành bản đồ tu Phật thì Niệm tứ xứ được xếp ở hạng vị đầu tiên. Chắc chắn đây là bước khởi sự của cuộc hành trình. Người xưa đã nói:

      “Vạn sự khởi đầu nan”.

      Ðây chính là cuộc đấu tranh đầu tiên với những sợi dây trói của nhầm tưởng, vọng tưởng, tà kiến, định kiến, sức mạnh của hủ tục, thói quen, sự ngu dốt...tất thảy những gì kiến tạo nên bóng đêm có tên gọi Vô Minh.

      Vũ khí trong cuộc đấu tranh này chính là bốn pháp quán niệm.

      1. Niệm thân tức minh sát về thân
      2. Niệm thọ tức minh sát về cảm thọ
      3. Niệm tâm tức minh sát trạng thái nội tâm
      4. Niệm pháp tức minh sát sự tương quan các pháp.

      Phải thành đạt trong cuộc chiến đấu với Vô minh người ta mới có thể ngăn ngừa cái ác, khởi xây cái thiện. Và quá trình này sau khi lập đi lập lại trong một thời gian nào đấy, sẽ đạt tới thời điểm mà người ta thường gọi là “lượng đổi thành chất”, đấy chính là lúc con người sở hữu được Tứ thần túc, có nghĩa là họ đạt được bốn pháp có hiệu năng:

      1. Dục thần túc tức hiệu năng của ý muốn
      2. Cần thần túc tức hiệu năng của nỗ lực
      3. Tâm thần túc tức hiệu năng của tâm thần hóa
      4. Thẩm thần túc tức hiệu năng của trí phân biệt.

      Ðây là bốn thứ châu báu mà mắt thường không nhìn thấy được, câu thường không đong đếm được, người phàm tục không ý thức được. Nhưng tứ thần túc lại là bảo bối cho các bậc chân tu cũng như các Cư Sĩ hoặc các thiện nhân. Khi đã có trong tay những báu vật này, với sự định tâm, với nỗ lực chuyên cần họ sẽ đạt tới Ngũ lực. Ngũ lực tức là năm tảng đá gốc xây cất lên thành trì để con người có thể Tự tại và An trú, thành trì của đức tin vào Như Lai và niềm tin nơi bản thể, thành trì của sự vững chắc và sự thanh thản, thành trì của Từ Bi, Hỷ Xả, Dũng, Trí và Ðịnh.

      Ngũ Lực gồm:

      1. Tín lực tức sức mạnh của đức tin
      2. Tấn lực tức sức mạnh của sự tinh cần
      3. Niệm lực tức sức mạnh của sự tỉnh thức
      4. Ðịnh lực tức sức mạnh của sự chuyên nhất
      5. Huệ lực tức sức mạnh của trí tuệ

      Trong lịch sử Phật giáo có biết bao truyền tích về các vị La Hán, mỗi người một cách đi đến Giải Thoát cuối cùng. Trong các vị La Hán ấy, có người xuất phát nơi cung cấm, có người xuất xứ trong hạng cùng đinh nhưng tất thảy đều phải tu tập để đạt được Ngũ Lực vì Ngũ Lực chính là đá tảng là gạch ngói với cát xây nên bức thành vĩnh định để mà: Ðạt Ðến và An Trú.
      Là người Việt Nam, tôi hằng nhớ đến một nhân vật trong cổ sử, một tấm gương sáng chói về Phạm Hạnh, một phụ nữ bình dị trong bốn lũy tre xanh đã xây cất được thành trì, đã trở thành hòn đảo, thành ngọn đèn cho chính mình Nàng có tên là Thị Kính.

      Thị Kính, nàng là ai?


      Nàng là con người bằng xương bằng thịt của đồng quê Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử nào đấy hay nàng là sự phóng chiếu của giấc mơ Phật tử?.. Dù sao chăng nữa thì chặng đường từ nàng Thị Kính cắt râu mọc ngược cho chồng đến lúc trở thành Quán Âm Thị Kính là hành trình tiêu biểu cho chữ Nhẫn mà chúng ta có thể tìm thấy trong những lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn với Ra hầu la:

      “Hãy tu tập như đất. Vì trên đất người ta quăng bỏ đồ tịnh, đồ không tịnh, phân uế, nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và máu; tuy vậy đất không lo âu, không giao động, không nhàm chán; cũng vậy, này Rahầula, hay tu tập như đất. Do tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

      - Cũng như thế, hãy tu tập như nước,...như lửa, như gió, như hư không.
      - Hãy tu tập về lòng từ. Do tu tập về lòng từ, cái gì thuộc về tâm sâu sẽ được trừ diệt.
      - Hãy tu tập về lòng bi, cái gì thuộc về tâm hại người sẽ được trừ diệt.
      - Hãy tu tập về hỷ, cái gì thuộc về không vui sẽ được trừ diệt.
      - Hãy tu tập về xả, do tu tập về xả cái gì thuộc về tâm hậu sẽ được trừ diệt.
      - Hãy tu tập về bất tịnh, do tu tập về bất tịnh, cái gì thuộc về tham ái sẽ được trừ diệt.
      - Hãy tu tập về vô thường, do tu tập về vô thường, cái gì về ngã nạn sẽ được trừ diệt.

      Những lời Ðức Thế tôn răn dạy Rahầula cũng là lời răn dạy tất thảy những ai muốn đi theo con đường của Ngài.

      Nhưng trên hành tinh này có bao nhiêu sinh linh thì có bấy nhiêu duyên nghiệp. Ai cũng vừa là nhân vừa là quả đối với duyên nghiệp của chính mình. Ai cũng phải ý thức về trách nhiệm của họ với chính cuộc đời của họ. Như thế, đạo Phật chẳng có nhu cầu ban phát cho các tín đồ những lời hứa hẹn có tính cho không. Nói một cách thẳng thừng đạo Phật không dậy người ta nhặt quả bứa chín giữa đường nếu chưa bỏ công trồng bứa. Có lẽ đây cũng là một yếu tố cấu thành sự khó khăn và nghiêm khắc trong lý thuyết của Phật Tổ Như Lai. Bởi vì một số không ít chúng sinh thường thích nhận quà mà không muốn làm điều khó nhọc, không muốn tự hoàn thiện mình, không muốn vứt bỏ những dục vọng riêng tư có thể gây tác hại cho đồng loại.

      Hơn thế nữa, còn có những hạng người độc ác, khi vào chùa họ xin Trời Phật cho họ được quyền “ nói người nghe, đe người sợ”; họ xin cho “chúng sinh có mắt như mù, có tai như điếc, có mồm như câm” để cho họ thỏa chí đè đầu cưỡi cổ đồng loại, để họ tha hồ bóc lột, hà hiếp những ai “thấp cổ, bé họng”.

      Và có những hạng người tìm sự an nhiên vui sướng trên cái chết của nhân sinh. Ðó chính là lũ đao phủ có bàn tay xức dầu thơm. Vài ngàn người, vài vạn người, vài triệu người chết đi cũng không gây cho chúng mảy may xao xuyến. Mạng sống của tha nhân với chúng chỉ là những dãy số vô cảm hiện lên trên trang giấy trắng hoặc màn hình, máy tính. Chúng có thể ký lệnh giết người trong quán Karaoke hoặc trước bát phở bữa sáng một cách vui vẻ như ném vài đồng xu vào bàn quay thò lò. Và giết người trong trường hợp này là giết những người vô tội. Tôi nhắc lại ví dụ về vụ giếtÙ mấy ngàn cựu chiến binh tỉnh Thái Bình bằng mọi cách thức đê hèn trong bóng tối các trại giam.

      Trong trường hợp này, liệu chúng ta có thể tha thứ cho chúng được không?

      Câu trả lời của tôi là không! Do đó tôi đã không trở thành một tỳ kheo mà là một kẻ làm giặc. Bởi tôi thiếu duyên, thiếu đức để mặc áo cà sa?.. Chắc chắn là vậy! Nhưng nếu có hạnh duyên tôi xin được trở thành tỳ kheo vào kiếp khác; còn trong kiếp này, mọi sự đã xảy ra rồi. Nước đã trôi xuôi không thể quay ngược dòng được nữa.

      Tôi vui lòng với vận mệnh của tôi và không mảy may hối tiếc những gì tôi đã làm. Bởi tôi chỉ có thể tha thứ những kẻ làm hại bản thân tôi nhưng tôi không thể tha thứ cho những kẻ làm hại cả một dân tộc. Bởi tôi biết rằng phải chặn đứng bàn tay lũ sát nhân bằng các biện pháp hữu hiệu chứ không thể ngồi in kinh để mang tới rải trong các biệt thự của chúng (và cho dù các vị có mang kinh tới cửa thì chúng sẽ xùy chó berger ra cắn). Bởi tôi biết rằng nếu không hành động ráo riết thì chúng sẽ tiếp tục “thi hành các Thiên An Môn trong bóng tối” với bất kể những ai dám lên tiếng tố cáo sự nhũng lạm và tàn ác của chế độ. Sau các cựu chiến binh Thái Bình sẽ đến lượt dân phản kháng ở Nam Ðịnh, Hải Dương, Vĩnh Long hoặc Cần Thơ .v..v. Bởi tôi không mảy may hồ nghi về bản chất đồi bại của kẻ cầm quyền. Trong ánh điện chói lòa quyền lực, lương tâm và đức hạnh biến thành ánh trăng mờ rồi tới lúc nào đó không còn mảy may dấu vết. Xưa nay, nào mấy ai được thấy kẻ cầm quyền tự rời bỏ ngôi vị để chấp nhận cuộc sống thanh đạm của lương dân?.. Trong lịch sử Việt Nam, chỉ một mình Trần Thái Tôn cất tiếng ngâm nga:

      “Mặc ai tranh bá đồ Vương
      Trẫm xin gửi lại nắm xương chùa này”


      Nhưng ông lại chính là người sáng tạo phái thiền Trúc Lâm. Không có người thứ hai tên là Trần Thái Tôn! Không có!

      Vấn đề quyền lực đã cho nhân loại những bài học khủng khiếp mà học phí phải trả xương núi máu sông. Quyền lực trong các chế độ cộng sản lại cung cấp cho con người nhiều cuốn sách đen hơn cả chế độ Ðức Quốc Xã. Với một thực tiễn như vậy tôi đã chọn con đường đấu tranh.

      Tuy nhiên, để đứng vững trên con đường đấu tranh, tôi phải nương mình trong bóng Ðấng Thế Tôn. Ðiều này có vẻ như nghịch lý nhưng phải chăng cuộc sống của nhân loại luôn luôn được tạo dựng trên các nghịch lý và lịch sử cũng tiến lên chính trên dấu vết các trận giao tranh giữa những sức mạnh đối chiều.

      Nếu không có những nguyên lý vàng của Phật Tổ Như Lai, tôi đã không thể tồn tại như tôi tồn tại. Nếu không điên, không trầm uất, không chết vì sợ hãi, đau khổ, cô đơn ắt hẳn tôi cũng đã phải bỏ cuộc từ lâu.

      Ấy là điều chắc chắn!

      Những nguyên lý vàng của Ðấng Thế Tôn chính là con tàu cho tôi bấu víu giữa biển trầm luân.

      Ngài dạy rằng kiếp sinh tồn hư hảo. Do nhận chân ra điều ấy tôi vừa sống vừa coi cuộc sống như xác con ve có thể đốt cháy bất cứ lúc nào cần thiết.

      Ngài dạy rằng hãy tự nương dựa vào mình, hãy tự biến mình thành cây đèn hay hòn đảo cho chính mình. Khi thực thi lời Ngài, tôi tìm cho tôi sức mạnh tồn sinh và tôi bất chấp mọi thù nghịch.

      Ngài dạy hãy tu tập như đất và nhờ lời Ngài dạy tôi vượt qua tất thảy mọi vu khống, mạ lỵ, đe dọa của một bộ máy quyền lực thực thi trên gần một trăm triệu con người.

      Chỉ đáng tiếc là tôi đã không thực thi được điều này: “Không được khinh bỉ kẻ thù của mình”.

      Rất tiếc. Nhưng tôi chưa đủ cơ duyên và đức hạnh để thực hiện lời dạy ấy. Trong cuộc chiến đấu của tôi chống kẻ cầm quyền, một cuộc chơi trứng chọi đá, tôi chỉ có một vũ khí duy nhất là lòng tin vào Chính đạo và sự khinh bỉ lũ ròi bọ đục khoét xương tủy của lương dân.

      Ðó là vũ khí duy nhất mà tôi có trong tay!

      Hai mươi năm đã trôi qua.

      Khi nhìn lại con đường đi của mình, nhiều lần tôi tự hỏi:

      “Ta là học trò hư hay học trò ngoan của Ðấng Thế Tôn?.. Ta là đệ tử phái sinh, bất tuân lệnh hay là đệ tử xứng đáng của Ngài?.. Nếu Ngài tái sinh Ngài sẽ mắng mỏ hay khen ngợi, quở phạt hay cho ta phần thưởng. Bởi vì 37 phẩm Bồ Ðề của Ngài dạy cho các bậc chân tu là để đi đến cửa Thiền. Còn ta học đúng các bài bản của Ngài để đi vào con đường tranh đấu?..”.

      Cũng nhiều lần tôi đặt ra giả thuyết:

      “Phải chăng lý thuyết của Phật Tổ dựa trên thế lưỡng phân nên khi thực thi lý thuyết này nó sẽ làm nảy sinh một thế lưỡng phân khác. Ðó là cùng một lúc có những vị tỳ kheo theo phương cách cổ điển và những nhà sư tự thiêu trên con đường tranh đấu với bạo quyền?

      Dẫu sao, chỉ Ngài, duy nhất Ngài mới có thể giải đáp được thôi.

      Còn tôi, kẻ đã nương nhờ sức mạnh tinh thần của Ngài bấy lâu nay, tôi có nghĩa vụ viết bài này để bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng.

      Trong cuộc đời tôi, nếu cuộc gặp gở Phật Bà là một hạnh duyên đem đến cho tôi sự giải thoát tuyệt vời giữa cơn bão tố tâm linh và tình cảm thì cuộc gặp gỡ Ðấng Thế Tôn mang cho tôi những nguyên ủy của sức mạnh tự tại. Nhờ sức mạnh ấy, tôi được là tôi của hôm nay.

      Và tôi hy vọng rằng nếu Phật Tổ tái sinh, Ngài sẽ không nỡ mắng mỏ cũng không ban khen tôi, nhưng Ngài sẽ nhắm mắt, thở dài và nói rằng:

      “Thôi, duyên nghiệp của nhà ngươi là vậy!”

      Như thế, tôi cũng đủ mãn nguyện rồi!



      Paris, ngày 4 tháng 4 năm 2006
      Dương Thu Hương



      Nguồn: Viet Tide
      ________

      Đọc thêm về Dương Thu Hương

      Các tác phẩm của Dương Thu Hương trong Việt Nam Thư Quán
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2006 04:11:02 bởi Ngọc Lý >
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9