CHUYỆN RIÊNG
đã lấy vợ rồi hết thói chơi
tuổi đời dâng hết chết mười mươi
tiền lương tới tháng không còn biết
công việc luôn tay chẳng thể lười
sớm tối chăm con ăn với học
đêm về vỗ vợ kẻo không tươi
trách chi mộng ước tròn như muốn
than thở trần ai khổ cả mười
DUY GIANG.
kính chào BÁC LÁ.hôm nay cháu mới phát hiện ra nhà bác LÁ ở đây....mong BÁC VUI NHÉ - nay vào đây cho đỡ ồn ào ở trang bản nháp nhiều người làm lời thơ cổ quá chúng cháu làm sao theo được
chúc bác LÁ vui và mạnh khoẻ
Chào Duy Giang,
Bên nầy thì chấp nhận thơ "không đường" chung với thơ "có đường".
Việc ở trang kia thì bác có ý nghĩ như sau :
Phàm là tôn sư của một trường học, một trường phái hay tác giả một quyển sách chỉ dạy về một vấn đề gì, thì vị tôn sư nào cũng muốn có những nét riêng. Vì nếu dạy giống với người khác, hay rập khuôn theo sách, thì cũng hơi mất mặt bầu cua. Họ phải có một cái gì đặc thù, mới mẻ, hoàn toàn riêng một mình họ.
Dĩ nhiên phần lý thuyết chính yếu phải tôn trọng, chỉ có cách giải thích và chi tiết là được phép khác nhau.
Cụ thể là phép "niêm" của thơ Ðưởng hiện hành, có đến 3, 4 cách trình bày khác nhau, mà kết quả vẫn là một thứ.
Rồi thì trong sự phân tách nghiên cứu tìm tòi riêng, mỗi người tìm ra được một khía cạnh đặc biệt nào đó của âm thanh, nên đưa ra dạy môn đồ. Có lẽ do đó mà chữ thứ 5 trong câu bị gạt ra ngoài tính chất "bất luận" căn bản của tiền nhân để lại.
Theo bác, nếu lấy những trường hợp đặc biệt dùng làm quy luật chung, thì hai chữ thứ 1 và thứ 3 cũng vẫn không hoàn toàn là "bất luận" theo ví dụ sau đây :
Khi họa bài Tự Mãn của bác, thì ông bạn-thầy của bác ban đầu viết rằng :
NHẤT ĐỜI
(họa Tự Mãn)
Ai đã đem ta ném giữa đời
Giang-hồ mã thượng mặc rong chơi
Bến-Tre Bến-Nghé len từng ngách
Biển Á
Biển Âu quậy khắp nơi
Mỗi ả mỗi nghề vui lại đến
Một mình một chiếu ngự rồi lui
Trời cho ngày tháng Xuân cho tuổi
Tao ngộ nàng thơ nhất cõi người !
Châu-Anh Ðỗ-Ðơn-Chiếu
Câu thứ 4 bác nghe không êm tai nên bác xin đổi cho hai chữ có thanh Bằng. Sau đó tác giả sửa lại là "
Bờ Á
bờ Âu quậy khắp nơi" thì bác nghe ngọt ngào hơn với nhiều chất "thơ".
Ðây là vấn đề thẩm âm của mỗi người. Có thể có nhiều người không đồng ý với bác. Nhưng chắc chắn là vẫn có một số người cùng nghĩ như bác.
Nhưng không thể vì thế mà gạt bỏ chữ 1 và chữ 3 ra khỏi tính chất "bất luận", vì đây chỉ là những trường hợp đặc biệt, ngoại lệ.
Muốn xét kỷ phải nói về quy luật "âm thanh".
Bác chỉ nêu một điểm căn bản là :
"Khi hai âm thanh đi liền nhau, nếu tần số của chúng cho một tỷ số đơn giản thì nghe êm tai, nếu tỷ số nầy phức tạp với nhiều số lẻ thì nghe chói tai".
Một câu thơ Ðường có 7 chữ, nên sự phối hợp âm thanh rất là phức tạp nhiều cách.
Do đó theo bác nên coi đây là việc riêng của từng cá nhân, tùy theo cái lỗ tai thẩm âm của họ. Và thơ của mỗi người đọc nghe êm hay khổ độc, đó là màu sắc riêng của mỗi tác giả.
Tóm lại bác nghĩ là chỉ cần học phần căn bản cách làm thơ Ðường Luật, trong bài của sis VDN tải về.
Những sự góp ý, đề nghị cao siêu hơn thì ta đành để "hậu xét", khi đã hoàn toàn nắm vững căn bản, và có nhiều kinh nghiệm với thơ Ðường Luật.
Sẵn đây bác nói luôn về những thể thơ "cầu kỳ" mà những người có khả năng làm chơi, mỗi người một ít trong đời làm thơ của họ. Những bài ấy được làm với "kỹ thuật" nhiều hơn là với "cảm xúc", nên không có công dụng phổ thông của thơ, là dùng để diễn đạt mọi tình cảm, sự việc.
1/ thơ "thuận nghịch đọc" loại thông thường thì cháu vừa thấy qua. Tuy hay thật nhưng nó bị giới hạn rất nhiều về ý nghĩa, vì phải viết sao cho đọc xuôi đọc ngược đều có nghĩa.
Trang thơ riêng của bác Từ có thấy khá nhiều.
Còn đây là một bài thơ xưa được lưu truyền :
PHONG CẢNH TÂY HỒ
(thuận nghịch đọc)
đọc xuôi :
Ðầy vơi thực lạ cảnh Tây Hồ,
Trước tự Trời kia khéo vẻ đồ.
Mây lẫn nước xanh màu đúc ngọc,
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu.
Cây là tán rợp tầng cao thấp,
Sóng gợn cầm tâu nhịp nhỏ to.
Bầy sẵn thú vui non nước đủ,
Tây-Hồ giá ấy dễ đâu so !
đọc ngược :
So đâu dễ ấy giá Hồ-Tây !
Ðũ nước non vui thú sẳn bầy.
To nhỏ nhịp tâu cầm gợn sóng,
Thấp cao tầng rợp tán là cây.
Châu in vẻ thắm hoa lồng nguyệt,
Ngọc đúc màu xanh nước lẫn mây.
Ðồ vẻ khéo kia Trời tự trước,
Hồ Tây cảnh lạ thực vơi đầy !
Nguyển-huy-Lượng
2/ thơ "thuận nghịch đọc" khó hơn là :
- đọc xuôi cả 7 chữ, đọc ngược cả 7 chữ
- đọc xuôi 5 chữ đầu, đọc ngược 5 chữ đầu
- đọc xuôi 5 chữ chót, đọc ngược 5 chữ chót
như hai bài sau đây của vua Tự Ðức và Hàn Mặc Tử :
VÔ ÐỀ (đọc xuôi 7 chữ)
Gương tà nguyệt xế đã ngoài song
Héo hắt sao trông quá sức trông
Thương bấy thiết tha lòng héo liễu
Nhớ thêm vàng vỏ má phai hồng
Vương sầu xiết tưởng chi ngôi bắc
Ðoạn thảm xui buồn vã chạnh đông
Chàng hỡi biết chăng ai bực bội
Loan hàng viết thảo tả tình chung.
Tự Ðức
- đọc ngược cả 7 chữ, từ dưới chót
Chung tình tả thảo viết hàng loan
Bội bực ai chăng biết hỡi chàng
Ðông chạnh vã buồn xui thảm đoạn
Bắc ngôi chi tưởng xiết sầu vương
Hồng phai má vỏ vàng thêm nhớ
Liễu héo lòng tha thiết bấy thương
Trông sức quá trông sao hắt héo
Song ngoài đã xế nguyệt tà gương.
- đọc xuôi 5 chữ đầu,
Gương tà nguyệt xế đã
Héo hắt sao trông quá
Thương bấy thiết tha lòng
Nhớ thêm vàng vỏ má
Vương sầu xiết tưởng chi
Ðoạn thảm xui buồn vã
Chàng hỡi biết chăng ai
Loan hàng viết thảo tả.
- đọc ngược 5 chữ đầu, từ dưới chót
Tả thảo viết hàng loan
Ai chăng biết hỡi chàng
Vã buồn xui thảm đoạn
Chi tưởng xiết sầu vương
Má vỏ vàng thêm nhớ
Lòng tha thiết bấy thương
Quá trông sao hắt héo
Ðã xế nguyệt tà gương.
- đọc xuôi 5 chữ chót,
Nguyệt xế đã ngoài song
Sao trông quá sức trông
Thiết tha lòng héo liễu
Vàng vỏ má phai hồng
Xiết tưởng chi ngôi bắc
Xui buồn vã chạnh đông
Biết chăng ai bực bội
Viết thảo tả tình chung.
- đọc ngược 5 chữ chót, từ dưới chót
Chung tình tả thảo viết
Bội bực ai chăng biết
Ðông chạnh vã buồn xui
Bắc ngôi chi tưởng xiết
Hồng phai má vỏ vàng
Liễu héo lòng tha thiết
Trông sức quá trông sao
Song ngoài đã xế nguyệt.
CỬA SỔ ÐÊM KHUYA
(đọc xuôi 7 chữ)
Hoa cười nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn bóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Xa người nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hòa đàn sẵn có dế bên tường.
Hàn Mặc Tử
(cũng đọc theo cách trên thì ra 6 bài)
3/ Lại có những bài đọc xuôi là "hán văn", đọc ngược với nghĩa "nôm" :
ÐỀ MỸ NHÂN ÐỒ
(đọc xuôi là hán văn)
Thanh xuân tỏa liễu lãnh tiêu phòng
Cẩm trục đình châm ngại điểm trang
Thanh dạng đỗ liên phi phất lục
Ðạm hi tạn cúc thác sơ hoàng
Tình si dị tố liêm biên nguyệt
Mộng xúc tằng liêu trướng đính sương
Tranh khúc cưỡng khiêu sầu mỗi bận
Oanh ca nhật vĩnh các tiêu hương.
Phạm Thái
(đọc ngược với dịch nghĩa văn nôm)
Hương tiêu gác vắng nhặt ca oanh
Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh
Sương đỉnh trướng gieo từng giục mộng
Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình
Vàng thưa thớt cúc tan hơi tạm
Lục phất phơ sen đọ dạng thanh
Trang điểm ngại chăm dừng trục gấm
Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.
XUÂN HỨNG
(đọc xuôi là hán văn)
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài
Khách bộ tùy sương ẩn bích đài
Kỳ cục đả thanh phong áp trận
Tửu biều khuynh bạch tuyết hòa bôi
Sơ liêm thấu nguyệt hương lung cúc
Tuyết án lăng hoa vị áp mai
Phi phất thảo am đầu tĩnh điếm
U tình cố nại thuộc quyên ai.
Tự Ðức
(đọc ngược với dịch nghĩa văn nôm)
Ai quen thuộc nấy có tình ư
Ðiếm tĩnh đầu am cỏ phất phơ
Mai ép mùi hoa lừng án tuyết
Cúc lồng hương nguyệt thấu rèm thưa
Chén hòa tuyết trắng nghiêng bầu rượu
Trận áp phong thanh đánh cuộc cờ
Rêu biếc in sương theo bước khách
Hài hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.
4/ Ngoài ra còn nhiều sự "cầu kỳ" khác như :
* loại điệp tự và song thanh điệp tự :
VÔ ÐỀ
Ngất ngất ngơ ngơ cũng nực cười
Cằm cằm cụi cụi có hơn ai
Nay còn chị chị anh anh đó
Mai đã ông ông mụ mụ rồi
Có có không không lo chết kiếp
Khôn khôn dại dại ngoẳn xong đời
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.
Nguyễn Thượng Hiền
CỬA SỔ ÐÊM KHUYA (?)
Nguyệt khuyết lờ mờ nửa cửa soi
Lơ thơ cỏ tỏ nét tươi cười
Âm thầm giận phận lôi thôi mãi
Bức rức phiền duyên lẩn thẩn hoài
Lác đác sương vương cành liễu yếu
Lai rai gió bổ đóa mai phai
Bâng khuâng tưởng tượng về quê cũ
Vẳng vẳng lâu đâu trống gióng hồi.
Hàn Mặc Tử
* Loại độc âm (tứ tuyệt) :
VUI THÚ ÐIỀN VIÊN
Cui cút cùng cây cỏ cận kề
Cung cầm cứng cỏi cũng cò ke
Cuộc cờ cao kém cơn cười cợt
Cái cốc cô ca cứ cặp kè.
Nguyễn Khoa Vy
TRÁCH BẠN ÐA TÌNH
Chạy chữa chai chân chẳng chịu chừa
Chín chìu chua chát chán chê chưa
Cha chài chú chớp chơi chung chạ
Chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ.
Nguyễn Khoa Vy
* Loại thơ nói lái (tứ tuyệt) :
ÐÊM KHUYA ÐỢI TÌNH NHÂN
Nực cổi chi ra nỗi cực lòng
Dòng châu lai láng dỉa dầu chong
Khó đi tìm hỏi nhau khi đó
Công khó chờ nhau biết có không ?
Nguyễn Khoa Vy
ÐI CHƠI THUYỀN Ở ÐẬP ÐÁ (Huế)
Ðập cũ thuyền đưa đủ cặp rồi
Trời cho sức khỏe lắm trò chơi
Có đôi khi rảnh lên côi đó
Cười ngả nghiêng vui ngất cả người.
Nguyễn Khoa Vy
Chỉ ví dụ thôi, vẫn chưa kể đủ hết các loại thơ cầu kỳ.
Nhưng như thế cũng tạm đủ để thấy là Rừng thơ khá mênh mông, với nhiều cái hay, cái đẹp khác nhau.
Muốn làm thơ hay thì phải học và tự rèn luyện về ngữ vựng (phải có cái bồ chữ càng to càng tốt), về kỹ thuật (phải chịu khó tìm chọn chữ, cách đảo trang), cũng như phải lắng nghe những âm thanh do câu thơ mình tạo ra, để nếu cần, thì vẫn phải sửa những chữ vốn được coi là "bất luận" (1, 3, 5).
Thân mến chào cháu. Gặp lúc đang bận nên chậm trả lời.
LCR
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2006 09:16:26 bởi lá chờ rơi >