Hermann Hesse (1877-1962)
Ngọc Lý 12.05.2006 12:18:17 (permalink)
.

Hermann Hesse
(1877-1962)





Hermann Hesse (sinh 2 tháng 7, 1877 ở Calw, Đức, mất 9 tháng 8, 1962 ở Montagnola, Thụy Sĩ) là một nhà thơ, nhà văn và họa sĩ tiếng Đức. Năm 1946 ông được tặng giải Nobel văn chương.

Cuộc đời

Thời thơ ấu và thiếu niên

Hermann Hesse xuất thân từ một gia đình truyền giáo Kitô giáo. Cha mẹ của ông đều nhận nhiệm vụ của Hội truyền giáo Basel hoạt động tại Ấn Độ, nơi mà mẹ của ông, bà Marie Gundert, sinh ra đời năm 1842. Cha của ông, Johannes Hesse, đến từ Estonia. Ông bà điều khiển một nhà xuất bản sách truyền giáo từ năm 1873 dưới sự lãnh đạo của ông ngoại ông là Hermann Gundert.

Sau khi học xong trường tiếng Latinh ở Göppingen (Đức), năm 1891 ông vào Trường thần học Tin lành ở Maulbronn (Đức). Ở đây cá tính chống đối của ông đã thể hiện vào tháng 3 năm 1892: Hesse trốn khỏi trường và chỉ được tìm được một ngày sau đó trên một cánh đồng trống.

Từ đấy, kèm theo nhiều xung đột dữ dội với cha mẹ là một cuộc phiêu lưu qua nhiều học viện và trường học. Hermann Hesse trở nên trầm cảm, biểu lộ trong một lá thư vào ngày 20 tháng 3 năm 1892 những ý định tự tử ("Tôi muốn ra đi như ánh hồng của hoàng hôn"). Tháng 5 năm 1892 trong học viện Bad Boll dưới dự chăm nom của nhà thần học và mục sư Christoph Friedrich Blumhardt ông đã toan tự tử. Ngay sau đó Hermann được chuyển về học viện ở Stetten im Remstal rồi về học viện thiếu niên ở Basel.



Bắt đầu từ cuối năm 1892 ông đi học ở trường trung học tại Cannstatt thuộc thành phố Stuttgart (Đức). Mặc dầu đỗ kỳ thi của năm đầu ông đã bỏ học.

Bỏ học nghề bán sách chỉ sau ba ngày theo học, đầu mùa hè năm 1894 Hesse bắt đầu theo học khóa thợ cơ khí trong một nhà máy sản xuất đồng hồ ở Calw kéo dài 14 tháng. Công việc hàn giũa đơn điệu chẳng bao lâu lại cổ vũ cho mong muốn quay lại với các công việc trí óc của ông. Tháng 10 năm 1895 ông chấp nhận bắt đầu học lại nghiêm túc nghề bán sách ở Tübingen. Sau này ông đã chuyển các trải qua thời trẻ này của mình vào trong quyển tiểu thuyết Unterm Rad (Dưới bánh xe).


Con đường trở thành nhà văn


Bắt đầu từ ngày 17 tháng 10 năm 1895 Hermann Hesse làm việc tại tiệm bán sách Heckenhauer ở Tübingen, chủ yếu bán các sách về Thần học, Triết học và Luật. Là người học nghề, nhiệm vụ của Hesse bao gồm đối chiếu, đóng gói, phân loại và lưu trữ sách. Sau mỗi ngày làm việc 12 tiếng Hesse tiếp tục tự học lấy và sách cũng đã đền bù lại các thiếu thốn trong giao thiệp xã hội vào những ngày Chúa nhật dài được nghỉ ngơi. Sau những sách về thần học, Hesse đọc đặc biệt là các tác phẩm của Goethe, sau đấy là của Lessing, Schiller và các bài về thần thoại Hy Lạp. Năm 1896 bài thơ đầu tiên của ông, Madonna, được in trong một tạp chí xuất bản ở Wien, các bài thơ khác lần lượt được đăng trong các số phát hành sau đó của Organ für Dichtkunst und Kritik (Cơ quan về nghệ thuật thơ và phê bình).

Năm 1898 Hesse trở thành người phụ việc bán sách và có một thu nhập kha khá, giúp ông không phụ thuộc tài chính vào cha mẹ. Thời gian này ông đọc chủ yếu các tác phẩm của thời kỳ lãng mạn Đức, trước tiên là của Clemens Brentano, Joseph Freiherr von Eichendorff và Novalis. Trong các bức thư gửi cha mẹ ông đã bày tỏ quan điểm của mình là "đạo đức của người nghệ sĩ đã được thay thế bởi thẩm mỹ". Ngay từ khi vẫn còn là một người bán sách, vào mùa thu 1898 Hesse đã xuất bản tập thơ nhỏ đầu tiên của mình, Romantische Lieder (Các bài hát lãng mạn), và trong mùa hè 1899 tập văn xuôi Eine Stunde hinter Mitternacht (Một giờ đằng sau nửa đêm). Cả hai tác phẩm đều thất bại về mặt kinh doanh. Trong vòng hai năm chỉ bán được 54 bản trong tổng số 600 quyển Romantische Lieder được phát hành, Eine Stunde hinter Mitternacht cũng được phát hành 600 quyển và được bán rất chậm. Mặc dầu vậy nhà xuất bản Eugen Diederichs ở Leipzig vẫn tin tưởng vào chất lượng văn học của các tác phẩm này và ngay từ đầu đã xem việc xuất bản như là một hình thức khuyến khích cho tác giả trẻ này hơn là một việc kinh doanh cần mang lại lợi nhuận.

Bắt đầu từ mùa thu 1899 Hesse làm việc cho một tiệm bán sách cũ có uy tín ở Basel. Vì cha mẹ ông có giao thiệp mật thiết với nhiều gia đình học giả ở Basel, tại đây cả một thế giới tri thức nghệ thuật với nhiều cổ vũ phong phú đã mở cửa ra đón chào ông. Thành phố Basel đồng thời cũng mang lại cho một con người sống cô độc như Hesse nhiều khả năng để lui về ẩn náu, sống một cuộc sống rất cá nhân qua những cuộc du ngoạn và đi dạo để tự tìm tòi nghệ thuật và luôn giúp ông thử nghiệm lại khả năng miêu tả những cảm xúc của mình bằng bút mực. Năm 1900 Hesse được miễn phục vụ quân sự vì thị lực yếu. Bệnh tật này tồn tại mãi suốt cuộc đời cũng như bệnh đau đầu của ông.




Năm 1901 Hesse thực hiện được niềm mơ ước lớn lao của mình là đi du lịch nước Ý. Cùng năm đó ông chuyển về làm tại tiệm bán sách cũ Wattenwyl ở Basel. Thời gian này ông ngày càng có nhiều cơ hội để đăng các bài thơ và văn ngắn trên các tạp chí và tiền nhuận bút đã góp thêm phần vào thu nhập của ông. Chẳng bao lâu nhà xuất bản Samuel Fischer đã chú ý đến ông và quyển tiểu thuyết Peter Camenzind, được in thử năm 1903, chính thức được Fischer phát hành năm 1904, trở thành bước đột phá: từ đây Hesse có thể sống như một nhà văn tự do.


Giữa Bodensee và Ấn Độ


Bàn làm việc của Hermann Hesse
tại viện bảo tàng Gaienhofen

Vinh quang về văn chương tạo điều kiện cho Hesse cùng với người vợ đầu tiên, Maria Bernoulli, định cư thành lập gia đình tại Gaienhofen ở Bodensee. Nơi đây ông viết quyển tiểu thuyết thứ hai của mình, Unterm Rad, được xuất bản vào năm 1906. Thời gian sau đó ông chủ yếu viết các chuyện kể và thơ. Quyển tiểu thuyết kế tiếp của ông, Gertrud, vào năm 1910, đã biểu lộ Hesse trong một cơn khủng hoảng sáng tạo; ông đã rất vất vả với tác phẩm này và nhiều năm sau ông xem nó là một thất bại. Trong hôn nhân cũng ngày càng nhiều bất hòa. Để tạo khoảng cách, năm 1911 Hesse bắt đầu một hành trình dài đi đến Tích Lan và Indonesia.

Thế nhưng ở đó ông đã không tìm thấy được sự giải phóng nội tâm như đã hy vọng. Sau khi Hesse trở về, gia đình ông dọn nhà về Bern năm 1912, nhưng việc thay đổi chổ ở này cũng không thể giải quyết được các vấn đề trong hôn nhân như Hesse đã bộc lộ trong quyển tiểu thuyết Roßhalde vào năm 1914.

Đệ nhất thế chiến

Khi Đệ nhất thế chiến bùng nổ Hesse đăng ký tình nguyện đi lính tại Đại sứ quán. Bị chẩn bệnh không có khả năng đi lính nên ông được cử làm nhiệm vụ chăm sóc tù binh cho Đại sứ quán. Trong khuôn khổ này, từ đó Hesse đi quyên góp và gửi sách cho các tù binh người Đức. Ngày 3 tháng 10 năm 1914 ông đăng trên tờ Neue Zürcher Zeitung (Báo Zürich mới) bài luận văn O freunde, nicht diese Töne (Các bạn ơi đừng nói như vậy) kêu gọi giới trí thức Đức đừng xông vào cuộc bút chiến giữa các quốc gia. Những gì xảy ra sau đó được Hesse miêu tả sau này như là một bước ngoặc lớn trong cuộc đời của ông. Lần đầu tiên ông đứng bên trong một cuộc xung đột chính trị dữ dội: giới báo chí Đức tấn công ông, nhiều thư hăm dọa được gửi tới và bạn bè cũ từ chối ông. Mặc dầu vậy ông tiếp tục nhận được sự đồng tình của Theodor Heuss và của cả nhà văn người Pháp Romain Rolland, người đã đến thăm viếng ông vào tháng 8 năm 1915. Các mâu thuẩn với giới báo chí Đức chưa lắng xuống thì Hesse lại bị đẩy vào một cuộc khủng hoảng khác trầm trọng hơn qua cái chết của cha ông vào ngày 8 tháng 3 năm 1916. Ông phải ngưng phục vụ cho cơ quan chăm sóc tù binh và đi chữa trị bằng tâm lý liệu pháp. Việc chữa trị này chẳng những mang lại mối quen biết trực tiếp với Carl Gustav Jung mà còn dẫn ông đi đến một đỉnh cao sáng tạo mới: Tháng 9 và tháng 10 năm 1917, trong một cơn say mê làm việc ông đã viết quyển tiểu thuyết Demian của mình chỉ trong vòng ba tuần. Quyển sách được xuất bản sau khi chiến tranh chấm dứt năm 1919 dưới bút danh Emil Sinclair.

Ở tại Casa Camuzzi

Vào năm 1919, khi Hesse có thể trở về với cuộc sống dân sự thì hôn nhân của ông tan vỡ. Vợ của ông trong lúc đấy bị rối loạn tâm thần trầm trọng, nhưng ngay cả sau khi bà lành bệnh, Hesse nhận thấy không còn có thể chia sẻ tương lai chung với Maria nữa. Ngôi hộ ở Bern tan rã, Hesse chuyển về Tessin một mình vào giữa tháng 4. Đầu tiên ông sống trong một căn nhà nhỏ ở đầu làng Minusio gần Locarno và sau đó từ ngày 25 tháng 4 đến 11 tháng 5 tại Sorengo. Ngày 11 tháng 5 ông mướn bốn phòng nhỏ trong một căn nhà xây giống như một lâu đài kỳ lạ ở làng Montagnola gọi là "Casa Canuzzi". Ở đây ông không những tiếp tục viết văn mà còn bắt đầu vẽ, việc có thể nhận thấy rõ trong truyện kể kế tiếp của ông "Klingsors letzter Sommer" (Mùa hè cuối cùng của Klingsor) vào năm 1920. Năm 1922 quyển tiểu thuyết về Ấn Độ của ông, "Siddharta", được xuất bản. Tình yêu nền văn hóa Ấn Độ và các học thuyết Á châu, những cái mà ông đã biết đến ngay từ khi còn ở với cha mẹ, đã được biểu lộ trong quyển tiểu thuyết này. Năm 1923 Hesse cưới người yêu của mình là Ruth Wenger, con gái của nữ văn hào người Thụy Sĩ Lisa Wenger và là cô của Meret Oppenheim (trong cuộc hôn nhân này bà trở thành mẹ của nghệ sĩ Ezard Haussmann). Cuộc hôn nhân thất bại ngay từ đầu và chưa từng được thực hiện. Cũng trong năm này Hesse nhận được quốc tịch Thụy Sĩ. Các tác phẩm lớn kế tiếp của ông, "Kurgast" (Khách dưỡng bệnh) năm 1925 và "Die Nürnberger Reise" (Chuyến đi Nürnberg) năm 1927, là các tự truyện mang giọng mỉa mai, báo hiệu trước cuốn tiểu thuyết thành công nhất của Hesse, "Der Steppenwolf" (Sói thảo nguyên) năm 1927. Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50 của ông cũng vào năm này, bạn của ông, Hugo Ball, đã xuất bản cuốn tiểu sử đầu tiên về Hesse. Ngay sau quyển tiểu thuyết thành công này con sói cô độc Hesse đã trải qua một bước ngoặc lớn nhờ vào quan hệ với Ninon Dolbin, người sau này trở thành người vợ thứ ba của ông. Kết quả của việc biến chuyển trở về cùng sống đôi lứa này là quyển tiểu thuyết "Narziß und Goldmund" năm 1930. Vào năm 1931 Hesse rời căn hộ mướn ở Casa Camuzzi cùng với Nino dời về một căn nhà lớn hơn (Casa Hesse), phía trên Montagnola. Căn nhà này được xây theo ý muốn của ông và được người bạn của ông là H.C. Bodmer để ông sử dụng dài hạn. Ngôi nhà này ngày nay thuộc về sở hữu tư nhân và trong thời gian này không thể đến thăm viếng được.


Người chơi trò ngọc thủy tinh


Năm 1931 Hesse kết hôn lần thứ ba và cùng Ninon dời về căn nhà riêng bên ngoài Montagnola. Ông bắt đầu phác thảo tác phẩm lớn cuối cùng của mình, "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi hạt ngọc thủy tinh). Năm 1932 ông xuất bản quyển truyện kể "Die Morgenlandfahrt" (Hành trình về phương Đông) như là bản phác thảo trước cho tác phẩm này. Hesse theo dõi việc những người thuộc đảng quốc xã lên cầm quyền ở Đức với một nỗi lo âu lớn. Trên đường rời khỏi nước vào năm 1933, Bertolt Brecht và Thomas Mann đều lần lượt tạm dừng ở nhà ông. Hesse cố gắng chống lại sự phát triển trong nước Đức bằng cách của ông: ông đã viết nhiều bài bình luận về sách trên các báo Đức kêu gọi ủng hộ các tác giả người Do Thái và các tác giả khác đang bị người của Đảng quốc xã theo dõi. Bắt đầu từ giữa những năm 1930 không một báo Đức nào dám đăng bài của ông nữa. Hesse trốn tránh các xung đột chính trị và sau đó trước những tin tức khủng khiếp của Đệ nhị thế chiến bằng cách viết quyển tiểu thuyết "Das Glasperlenspiel" của mình, được in ở Thụy Sĩ vào năm 1943. Ông nhận Giải Nobel văn chương năm 1946 không chỉ vì tác phẩm lớn lao này. Tiếp theo sau đó là Giải thưởng Goethe của thành phố Frankfurt trong cùng năm, Giải thưởng Wilhelm Raabe năm 1950 và Giải thưởng hòa bình của hội bán sách Đức năm 1955. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai sức sáng tạo của ông giảm sút, ông chỉ viết truyện kể và thơ nhưng không còn viết tiểu thuyết nữa. Hermann Hesse mất ngày 9 tháng 8 năm 1962 và được an táng tại nghĩa trang của San Abbondio gần Montagnola, cũng là nơi chôn cất Hugo Ball.

Ý nghĩa văn học

Các tác phẩm đầu tiên của Hesse vẫn còn mang tính truyền thống của thế kỷ thứ 19: các bài thơ của ông đều thuộc về trường phái lãng mạn, lời văn và phong cách của quyển "Peter Camenzind" cũng vậy, quyển sách được tác giả hiểu như là một tiểu thuyết giáo dục tiếp nối quyển "Grüne Heindrich" của Gottfried Keller. Về nội dung Hesse phản đối sự công nghiệp hóa và đô thị hóa, đi theo xu hướng của phong trào thanh niên thời kỳ này. Sau này Hesse từ bỏ quan điểm lãng mạn mới này. Thế nhưng cấu trúc đối chọi của quyển "Peter Camenzind" thông qua sự đối chiếu giữa thành thị và nông thôn và tương phản nam nữ vẫn còn có thể tìm thấy trong các tác phẩm sau đó của Hesse (thí dụ như trong "Demina" hay "Steppenwolf").

Sự quen biết với học thuyết về nguyên mẫu (archetype) của nhà tâm lý học Carl Gustav Jung đã có ảnh hưởng quyết định đến các tác phẩm của Hesse, được biểu lộ đầu tiên trong quyển tiểu thuyết "Demian": con đường của một người trẻ tuổi đi tìm chính mình trở thành một trong những đề tài chính của ông. Chính vì thế mà không biết bao nhiêu thanh niên đã và vẫn chọn Hesse là tác giả mà họ thích nhất. Truyền thống tiểu thuyết giáo dục cũng được tìm thấy trong "Demian", nhưng trong tác phẩm này (cũng như trong "Steppenwolf") các hành động không diễn ra trong hiện thực mà trong một cảnh quang nội tâm.

Một khía cạnh quan trọng khác trong các tác phẩm của Hesse là sự duy linh (spirituality), không những chỉ có trong quyển tiểu thuyết "Siddharta". Các đạo giáo Ấn Độ, đạo Lão và thuyết thần bí của Thiên chúa giáo là nền tảng của việc này. Một số nhà phê bình chỉ trích Hesse là ông đã sử dụng văn chương để diễn đạt thế giới quan của mình. Người ta cũng có thể đảo ngược phê bình này để nói là các nhà phê bình chỉ phản đối thế giới quan của Hesse chứ không chỉ trích văn chương của ông.

Tất cả các tác phẩm của Hesse đều chứa đựng một phần tính tự truyện, đặc biệt có thể thấy rõ trong "Steppenwolf", quyển tiểu thuyết có thể được lấy làm thí dụ cho một "tiểu thuyết về một cơn khủng hoảng trong cuộc sống". Chỉ trong các tác phẩm sau đó phần tự truyện này giảm đi. Trong hai quyển tiểu thuyết liên kết với nhau, "Die Morgenlandfahrt" và "Das Glasperlenspiel", Hesse trở về đề tài ông đã viết trong "Peter Camenzind": sự đối lập giữa vita activa (sống để làm việc từ thiện cho người khác) và vita contemplativa (sống để tìm sự giải thoát cho bản thân).


Tiếp nhận

Chất lượng văn học và ý nghĩa của các tác phẩm của Hesse đã được tranh cãi ngay từ khi ông còn sống và nay vẫn còn đang được tiếp tục. Các nhà văn đồng nghiệp như Thomas Mann hay Hugo Ball đánh giá ông rất cao trong khi Kurt Tucholsky lại nói: "Tôi cho rằng Hesse là một nhà văn mà chất lượng văn tiểu luận của ông cao hơn các tính chất thơ rất nhiều." Alfred Döblin còn cho đó là "nước ngọt tẻ nhạt". Mặc dầu vậy các tác phẩm đầu của Hesse được đa số giới phê bình văn học cùng thời đánh giá cao.

Việc tiếp nhận Hesse ở Đức trong thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới mang dấu ấn của cuộc công kích báo chí chống lại tác giả vì các phát biểu chống chiến tranh và chống chủ nghĩa Quốc xã của ông. Từ năm 1937 các tác phẩm của Hesse chỉ còn được bán lén lút. Các thế hệ trẻ "khám phá" ra Hesse phần lớn là sau năm 1945.

Hơn mười năm sau khi Hesse được tặng Giải thưởng Nobel về văn học, năm 1957 Karlheinz Deschner viết trong bài văn tranh luận Kitsch, Konvention und Kunst: "Việc Hesse xuất bản quá nhiều các vần thơ hoàn toàn không có trình độ như vậy là một điều vô kỷ luật đáng tiếc, một sự man rợ về văn học" và về phần văn xuôi ông cũng đi đến một đánh giá không có gì thuận lợi hơn. Trong các thập kỷ sau đó một phần giới phê bình văn chương Đức nối tiếp sự đánh giá này, Hesse được một vài người xuất bản xếp vào loại văn chương giả mạo. Việc chấp nhận Hesse giống như chuyển động con lắc: vừa khi việc chấp nhận Hesse xuống đến điểm thấp nhất ở Đức vào thập kỷ 1960 thì trong giới thanh niên Mỹ phát ra một sự "bùng nổ Hesse" chưa từng có lan tràn về lại đến Đức; đặc biệt quyển "Der Steppenwolf" trở thành quyển sách bán chạy nhất (bestseller) và Hesse trở thành tác giả người Đức được đọc và dịch nhiều nhất. Hơn 100 triệu quyển sách của ông đã được bán trên khắp thế giới.

Để tưởng niệm Hesse hai giải thưởng văn chương được đặt theo tên ông: Giải thưởng Hermann Hesse và Giải thưởng văn học Hermann Hesse.


Các tác phẩm

Văn

Peter Camenzind, 1904
Unterm Rad (Dưới bánh xe), 1906
Freunde (Những người bạn), 1908
Gertrud, 1910
Rosshalde, 1912-1913
Demian, 1919
Klein und Wagner, 1919
Klingsors letzter Sommer (Mùa hè cuối cùng của Klingsor), 1920
Siddhartha, 1922
Der Steppenwolf (Sói thảo nguyên), 1927
Narziss und Goldmund (Narziss và Goldmund), 1930
Die Morgenlandfahrt (Hành trình về phương đông), 1932
Das Glasperlenspiel (Trò chơi ngọc thủy tinh), 1943

Thơ

Elisabeth, 1900
Wie eine Welle, 1901
Soirée, 1902
Julikinder, 1904
Im Nebel, 1905
Bücher, 1918
Vergänglichkeit, 1919
Der Liebende, 1921
Für Ninon, 1927
Klage, 1934
Stufen, 1941

http://vi.wikipedia.org/wiki/Hermann_Hesse



________

Hermann Hesse - Câu chuyện dòng sông -xem trong Việt Nam Thư Quán tại đây

Thích Nữ Trí Hải giới thiệu Câu Chuyện Dòng Sông

các tác phẩm của Hermann Hesse trong Việt Nam Thư Quán
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.08.2006 05:40:39 bởi Ngọc Lý >
#1
    Con Gấu 12.05.2006 16:15:36 (permalink)
    Ngọc Lý thân,

    Cho CG nói ké một vài cảm nghĩ của mình nha.

    CG có dịp đọc cuốn SIDDHARTA.
    Tuy mang tên của Phật Thích Ca, nhưng nhân vật chánh nầy không phải là ông Phật Thích Ca.

    Ông Hesse mượn tên đó để kể lại cuộc đời của một người đã đi từ nghèo đến giàu. Rốt cuộc rồi anh ta nhận thấy rằng sự giàu có đó (với 1 "cô bồ " thật xinh và "hiểu chuyện ") không đem lại "chân lý "và anh ta từ bỏ giàu sang, phú quý, cô bồ thật xinh kia để vế sống trong hoàn cảnh vật chất khó khăn, nhưng về mặt tinh thần thì hoàn toàn, với 1 người bạn rất nghèo.

    Cuộc đời của ông đó cũng gần giống như Đức Phật Thích Ca đã hưỏng thụ sự giàu sang, vợ đẹp, tì nữ (chắc cũng hổng xấu lắm ). Rốt cuộc rồi Ông cũng từ bỏ hết để đi kiếm phương cách nào để giải thoát cho nhân loại.


    CG thấy cuốn sách đó rất hay, vừa về khía cạnh văn chương, vừa về cách kể chuyện của ông HESSE.

    Thân,
    CG
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2006 03:25:44 bởi congâu >
    #2
      Ngọc Lý 14.05.2006 13:39:43 (permalink)

      Chào Con Gấu,

      Cám ơn bạn đã góp ý về tác phẩm SIDDHARTA.

      Ngọc Lý cũng rất thích tác phẩm này.

      Hermann Hesse là một người phương Tây, đến với tư tưởng phương Đông như vậy là khá thấm. Tuy nhiên, ông vẫn cảm theo cốt lõi của một người Tây phương mà thôi.

      Đọc tiểu sử của Hesse, cũng như tiểu sử của Đức Phật Thích Ca, chúng ta thấy rõ cả hai mang "nghiệp" suy tư rất nặng.

      Có lẽ đây là nỗi đau khổ và thử thách lớn nhất của con người: bộ óc và khả năng suy tư. Nhất là khi nó kèm theo sự mẫn cảm.

      OM

      là khi ý thức được sự sắc không?


      #3
        truongthuy 14.05.2006 21:33:18 (permalink)

        Forum Software © ASPPlayground.NET Advanced Edition 2.5 Unicode

        kính lạy triệu lần chư vị ! Hiểu hessse như congâu thì bằng giết hesse đi cho song!!!!
        Đã đành "ngôn dã bất tri" nhưng diễn tả như vậy thì Nhật Chiêu khóc thét, Bùi giáng kinh hoàng và Hessse sẽ vĩnh viễn khó siêu sinh!!!!
        Hãy sống nhiều nhiều và thật nhiều để cảm nhận những loại ngôn ngữ như hesse viết (ngôn ngữ mang ánh sáng).May thay....
        #4
          Ngọc Lý 14.05.2006 23:37:29 (permalink)
          .
          vâng,

          đời sống như đóa hoa
          mở ra trong tâm trí con người tuy có vẻ diệu vi
          nhưng thực sự sự triển khai dựa theo một số nguyên tắc tuần hoàn
          rất sinh học và hoàn toàn lệ thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh trên tâm thức
          hoa ép nở sớm quá thì không thực sự hoàn
          và không kết quả

          hoa chỉ mãn khai trong tận cùng phúc hạnh khi gặp đủ cơ duyên

          mỗi đóa hoa sẽ nở theo thời khắc riêng của nó

          tùy mệnh hệ (chép phù phiếm)

          Phật là đóa hoa có hạnh phúc nở trong tâm người khi chính người ấy vun xới hoa kia

          đó là tâm thức Mẫu
          chỉ khi mang tâm thức Mẫu, (yêu và muốn hoàn thiện sự sống) con người mới thực sự đẹp như cuộc đời.

          ai nói Kiều Lan không ngộ bằng Tất Đạt Đa?

          cái đau khổ của tâm thức phương Tây, hay phương Bắc, là sự "dương", dựa vào người đàn ông, thiếu nhận thức rằng trong chính mỗi con người (cả đàn ông lẫn đàn bà), đều có tính "âm", "từ mẫu", "dưỡng", mở ra sự yêu thương bao la để chấp nhận mọi thời tiết hầu nuôi cho cánh hoa nở ra và kết quả.

          sao Tất Đạt Đa quá đau khổ trên đường ngộ?

          sao Quán Thế Âm bao la nhẹ nhàng nhân ái độ trì sự sống cũng trên đường ngộ?

          khi Chúa đạt đến ngôi cao trên thánh giá,
          khi Phật tỏa sáng dưới gốc Bồ Đề

          có phải đó là khi người Nam tìm về được tâm thức Mẫu của mình, thấy đời sống hòa một và chỉ còn là yêu thương, hoan hỉ trong tâm cho mọi sức sống trong mọi thế giới?








          chúc mừng Ngày lễ Mẹ
          đến Congau, Truongthuy
          và tất cả quý vị trong thư quán.







          ngọc lý
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2006 23:56:58 bởi Ngọc Lý >
          #5
            Con Gấu 15.05.2006 03:33:24 (permalink)
            Hà , há, bạn ơi! CG tui chưa từng dám nói là mình "hiểu " ônh HESSE. CG chỉ nói vỏn vẹn là mình thích cuốn sách SIDDHARTA của ông ta viết mà thôi. Chắc cũng đã có lần bạn thích một cuốn sách nào đó vì cốt chuyện, cách viết chuyện vân vân mà không cần hiểu hay không muốn tìm hiểu sâu xa hơn.

            Đó là cảm nghĩ của CG sau khi đọc cuốn sách đó. Vậy thôi. Hết chuyện.

            Thân,
            CG
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9