Thuốc phiện và chiến tranh.
meta4954 04.06.2006 23:02:51 (permalink)
CANH TÁC VÀ CHẾ BiẾN NHA PHiẾN Ở ĐÔNG NAM Á.



Nguồn gốc và lịch sử nha phiến.

Nha phiến là nhựa rút ra từ cây anh túc , tên khoa học là Papaver Somniferum . Chỉ một ít cây thuộc loại Papaver có thể cho nhựa thuốc phiện . Qua nhiều thế kỷ canh tác và gây giống , 1 giống loại đặc biệt phát triển thành loại mang tên Somniferum . Chủng loại Papaver tên Hy Lạp có nghĩa là Poppy, 1 loại cây độc nhánh, chịu ánh mặt trời và chứa hạt ở bầu hoa . Ở giữa đài hoa có 1 “củ” tròn, gọi là bầu hoa . Somniferum tiếng Latin có nghĩa “gây buồn ngủ” .
Hiệu ứng tâm lý của nha phiến đã được biết từ thời Sumerian (4000 năm trước Công nguyên) . Người Sumer gọi cây anh túc là hul (khóai lạc) và gil (cây) . Ở Âu Châu người ta cũng đã biết ít nhất là 4000 năm trước . Đừng lẫn lộn câu 4000 năm trước với 4000 trước Công nguyên . 4000 năm trước Công nguyên là 4000 năm cộng với 2003 năm sau Công Nguyên thành 6003 năm . 4000 năm chỉ là 2000 năm trước Công Nguyên thôi . Ở Thuỵ Sĩ, người ta tìm thấy hóa thạch của cây anh túc trong những vùng ao hồ thời kỳ tân thạch khí . Thuốc phiện cũng được người Ai Cập và Hy Lạp thượng cổ thông dụng. Tác phẩm The Lliad và The odyssey của Homer, kể lại cuộc phiêu lưu của Lliad ở Hy Lạp cũng nói đến thuốc phiện . Hyppocrates (460-357), sư tổ Y, Dược khoa cũng đề nghị Uô’ng thuốc phiện trộn với hột cây tầm ma ( 1 loại cây có lông gây ngứa) .
Cây anh túc du nhập vào nước Tàu vào khoảng thế kỷ thư’ 7 sau Công Nguyên, đầu nhà Đường, cuối nhà Tuỳ . (Nhằm thời Hậu Lý nước ta) do bọn thương nhân Ả Rập mang vào với danh nghĩa dược phẩm. Trong văn chương Tàu, vị Danh y Hoa Đà thời Tam Quốc (220-264 sau Công nguyên) cũng dùng nha phiến và cây Cannabis Indica (cây cần sa Ấn Độ) cho bịnh nhân uống trước khi giải phẫu .
Thời kỳ nha phiến phổ biến nhất ở Tàu, theo vài nhà sử học là sự du nhập thuốc lá bởi người Hoà Lan từ Java vào thế kỷ 17 . Người Tàu tẩm thuốc lá với nhựa thuốc phiện để hút . Càng ngày, số người nghiện càng lan tràn cả người hút thuốc lá tẩm đến người hút thuốc phiện nguyên chất .
Năm 1803, vị Bác học người Đức tên F. W. Serturner, đã tách rời chất kiềm (alkaloid) chính trong thuốc phiện mà ông ta đặt tên là Morphium, tên 1 vị Thần Hy Lạp, Morpheus, thần của giấc mộng . Sau đó người ta cô đọng các chất kiềm khác như Codein năm 1832, Papaverine năm 1848. Đến năm 1850, nha phiến dưới dạng chất kiềm, chất cô đọng, đã trở nên thông dụng ở Âu Châu .
Ở Mỹ, sự trị liệu bằng thuốc phiện vào thế kỷ 19 như chất giảm đau cho những thương binh trong cuộc nội chiến gây ra hội chứng “bịnh chiến sĩ” . No’ sinh nghiện . Vấn đề này khiến nhu cầu tìm ra 1 loại dược phẩm chống đau và không sinh nghiện trở nên bức thiết . Năm 1870, các nhà hóa học bắt đầu nghiên cứu trong nỗ lực đó. Công ty dược phẩm Bayer là tập đoàn đầu tiên tung ra thị trường 1 loại thuốc giảm đau không sinh nghiện với tên là Heroin . Sản phẩm này được chế biến bằng cách dùng Acetyl để tinh lọc Morphine . Meta sẽ mô tả tỉ mỉ tiến trình acetylation đó sau . Hehehe sau đó người ta thấy heroin sinh nghiện còn hơn morphine nữa . Mặc dù heroin được dùng ở Anh cho những bịnh nhân nan y, giá trị dược liệu của nó gây ra nhiều tranh cãi sôi nổi.



Cây Anh Túc, Papaver Somniferum là cây ngắn hạn, nó trưởng thành 1 lần rồi tàn trong năm, không mọc chồi để sinh trưởng trở lại trong năm tới. Hạt giống phải được gieo trồng mỗi năm . Từ hột giống, nó trưởng thành, đơm hoa, kết trái chỉ 1 lần . Toàn chu kỳ sinh trưởng của hầu hết loại Papaver khoảng chừng 120 ngày . Hột giống nó nẩy mầm mau chóng trong khí hậu và đất màu ẩm ướt . Không đến 6 tuần, cây non trồi khỏi mặt đất, mọc 4 lá và nhìn giống cây cải bắp non . Lá có cạnh hình răng cưa, màu xanh xám , giống như phủ 1 lớp phấn xanh đậm .
Trong vòng 2 tháng, cây cao từ 1 đến 2 feet (3 tấc đến .5 mét), với độc nhất 1 thân chính, dài và nhẵn . Phần trên thân không có lá được gọi là cuống hoa (peduncle, xin xem hình). Có thể có 1 hay 2 cuống nhỏ hơn gọi là cuống phụ (tillers), mọc đâm ra từ thân chính . Giống trồng ở Đông Nam Á thường có nhiều hơn 1 cuống phụ . Cuống hoa chính của 1 cây trưởng thành đầy đủ cao từ 2 đến 5 feet . Lá hình soan có răng cưa dài từ 4 đến 15 inches . Người ta dùng lá làm thực phẩm cho trâu bò . Nó không có giá trị thương mại .
Khi cây mọc cao hết cỡ, ở cuống chính và cuống phụ nẩy 1 nụ hoa . Trong lúc nụ phát triển, phần cuống hoa mọc dài ra và tạo thành hình móc câu làm cho nụ chĩa ngược xuống đất . Khi nở hoa, cuống thẳng ra đón ánh mặt trời . Một hay 2 ngày sau khi cuống hoa uốn thẳng, 2 phần ngoài cùng của nụ gọi là đài hoa rơi rụng, cho phép cánh hoa mở rộng . Thoạt tiên, cánh hoa có vẻ dập và nhăn nhưng mau chóng căng ra, nhẵn ra trong nắng . Hoa Anh Túc có 4 cánh . Cánh có thể đơn hay kép và có thể trắng, hồng, tím đỏ, đỏ sẫm hay lốm đốm nhiều màu .
Hoa Anh Túc thường nở hoa sau 90 ngày và tàn héo khoảng 2 đến 3 tuần . Cánh hoa rụng đi để lộ 1 chỗ phình ra ở cuống, tiếp tục phát triển . Đây là cái trái chứa hạt giống, hình soan bằng cỡ trái trứng gà . Loại hình cầu hơi dẹt thường thấy ở Đông Nam Á .
Chỉ ở cái "trái" này mới có nhựa thuốc phiện . Vỏ trái bao bọc 1 bức tường che chở nhuỵ hoa . Nhuỵ hoa có 3 lớp : Lớp ngoài, giữa và trong . Nhựa thuốc phiện lấy ở vỏ nhuỵ từ lớp giữa qua 1 hệ thống mạch nhỏ trong trái . Những tế bào ở lớp giữa nhuỵ hoa tiết ra hơn 95/100 nhựa cây khi cạo và thu hoạch .
Nông gia thu hoạch nhựa từ mỗi trái khi nó còn ở trên cuống bằng cách rạch 1 đường dọc theo trái với loại dao tự chế mang hình dạng đặc biệt. Sau khi thu hoạch xong, trái được để khô trên cây. Lúc này, trái nào to nhất, cho nhiều nhựa nhất được cắt ra để dành làm giống cho mùa sau . . Một cách lấy giống khác nữa là chọn cây nào khoẻ mạnh, không lấy nhựa và để khô . Ngoài ra, hột anh túc có thể ép thành dầu nấu ăn, bảo đảm không "phê" . Dầu này còn được dùng chế tạo sơn và nước hoa. Dầu anh túc màu vàng rơm, không mùi và có vị trái hạnh (Almond).

Khu vực trồng anh túc.



Nhìn bản đồ khu vực trồng anh túc không giống hình tam giác chút nào phải không các bạn ? Thế mà người ta gọi là tam giác vàng đấy . Cây anh túc thích hợp nơi khí hậu ấm áp, ít ẩm ướt và không đòi hỏi nhiều nước tưới. Cây anh túc có thể trồng trên đất sét, đất cát và hỗn hợp cát với đất sét . Nhưng tốt nhất là nơi có đất màu trộn lẫn đất sét . Loại đất này đủ xốp cho rễ phát triển và giữ nước lâu hơn loại đất pha cát .
Quá nhiều nước hay quá khô cằn ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây làm giảm sản lượng nhựa thu hoạch . Cây anh túc còn có thể chết ủng nếu mưa nhiều quá trên vùng đất sét không thấm nước. Thiếu nắng sinh ít nhựa và nhựa mất phẩm chất. Phẩm chất đây là độ say của thuốc phiện .
Nguồn sản xuất hợp pháp trên thế giới là những nông trại do chính phủ kiểm soát dùng vào kỹ nghệ dược phẩm ở Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Tasmania (Úc). Nguồn trồng trọt bất hợp pháp ở Tây Nam Á như A Phú Hãn, Pakistan và Iran . Đông Nam Á thì ở vùng cao nguyên các quốc gia như Diến Điện, Lào, Việt Nam và Thái Lan . Đặc biệt ở Đông Nam Á, chỉ có các sắc dân thiểu số miền thượng du canh tác. Các sắc dân chính không khai thác loại nông sản này . Xin đừng lên án Meta nói xấu Việt Nam . Nhắc lại 1 lần nữa, người Việt Nam không trồng thuốc phiện mà chỉ vài bộ tộc miền núi thôi . Vùng canh tác anh túc ở Đông nam Á được thế giới biết đến với tên gọi Tam Giác Vàng . Ngoài ra trên quy mô nhỏ hơn, chúng cũng được canh tác ở Colombia, Mễ và Li Băng . Ở Mỹ, 1 thời được trồng như 1 loại cây kiểng . Nhưng đến năm 1942, 1 đạo luật gọi là Opium Poppy Control Act tuyên bố cây này bất hợp pháp toàn cõi nước Mỹ .
Vùng cao nguyên của lục địa Đông Nam Á ở cao độ 800 mét trên mặt biển hay cao hơn là những nơi chính canh tác anh túc . Nói đại khái, ngành trồng trọt này không đòi hỏi thuốc trừ côn trùng, phân bón hay hệ thống dẫn nước tốn kém. Tất cả anh túc quy tụ trong hai tỉnh Wa và Kokang ở Diến Điện . Thứ đến là Lào trong vùng Đông Nam Á nói riêng . Trên thế giới lào đứng hàng thứ ba sau Diến điện và A Phú Hãn . Tại Lào, anh túc được khai khẩn và canh tác ở hai tỉnh Hoa Phan và Xiêng Khoảng . Bắc Lào gồm 6 tỉnh Bô Keo, Luang Nậm Thà, Luang Prabang, Oudomxai, Phong Sa Li và Xai na Bu Li . Vùng bắc Thái Lan thì ở các tỉnh Chiêng Mai, Chiêng Rai, Mã Hồng Sơn, Nan và Tắc . Ở Việt Nam ta thì ở tỉnh Nghệ An thuộc miền trung, Lai Châu miền bắc là những nơi canh tác chính của những sắc dân miền núi . Ở Tàu, khu vực núi non tỉnh Vân Nam giáp giới tỉnh Kokang, Diến Điện thuộc sắc dân Shan canh tác .
Một gia đình tiêu biểu vùng thượng du Đông Nam Á gồm từ 5 đến 10 người . Sở dĩ họ đông vì họ có nhiều vợ . Họ đủ nhân lực để canh tác 1 công (acre) đất mỗi năm . Đất tốt có thể canh tác lâu đến 10 năm không cần phân bón trước khi họ tìm 1 vùng đất khác, phát rừng làm rẫy. Đất rừng không phải mua.

Phát rừng làm rẫy.





Coi hình trên, ta thấy 2.53 rai = 1 công (acre). Mu là đơn vị đo của Tàu, nhỏ hơn rai. Ta thường gọi là sào.

Vùng đất được chọn làm rẫy phải là đất pha đất sét, màu mỡ, quang đãng để nhận đủ ánh nắng và độ chua cần thiết của đất . Những người già cả nhiều kinh nghiệm vùng thượng du được mời đi xem đất trước khi phát hoang làm rẫy . Mọi thửa đất nằm trên triền dốc những sườn núi ở độ cao 1000 mét hay hơn . Độ dốc từ 20 đến 40 độ được coi như tốt nhất để thoát nước khi mưa lũ .
Đất hoang được đốn hay cắt chất đống trên rẫy vào tháng ba, cuối mùa khô . Được vài ngày khi cây cỏ đã khô, cả thửa đất được đốt cháy lấy tro làm phân thiên nhiên . Ta không lạ gì cách phát hoang làm rẫy kiểu này của đồng bào Thượng Việt Nam vùng miền trung nước Việt .

Phương pháp khai khẩn và canh tác.





Cuối mùa mưa khoảng tháng 8 hay tháng 9 nông dân miền núi Đông Nam Á bắt đầu sửa soạn trồng cây anh túc . Lúc này tro than từ cuộc đốt rẫy hồi tháng 4 đã thấm vào đất, cung cấp nhiều chất potash và nhiều chất mầu khác . Sau cơn mưa đất trở nên mềm, người ta bắt đầu cuốc để lật đất, băm nhỏ những tảng đất lớn . Vừa cuốc vừa nhặt cỏ và sỏi đá vứt qua 1 bên .
Theo cổ truyền, người ta không dùng phân hoá học vì khó mua nhưng sau này họ dùng mỗi khi có cơ hội đổi chác với bọn buôn thuốc phiện miền thành thị . Phân gà, phân người hay phân dơi cung được thêm vào đất trước khi trồng trọt . Mùa trồng cây phải được hoàn tất vào cuối tháng 10 .
Giống như ta làm lúa, hạt giống anh túc được vãi đều trên thửa đất đã dọn kỹ hay có thể chọc lỗ và bỏ hạt xuống . Một kí lô hạt được dùng cho gieo trồng 1 công (acre) đất. Khoảng 3 kí lô hạt dùng cho 1 mẫu (hectare = 2.46 acres) . Hạt có thể màu trắng, vàng, nâu, xám hay đen . Màu hạt không liên hệ đến màu hoa . Hạt đen có thể nở hoa trắng ...
Rau cỏ gia dụng như cải, đậu, bí, bầu ... nói chung các thứ thu hoạch ngắn hạn được trồng xen vào làm thực phẩm hàng ngày , không phải để bán như thuốc phiện. Người ta cũng trồng bắp xen vào lấy thực phẩm nuôi gia súc và triệt cỏ dại . Sau khi thu hoạch bắp khoảng tháng 8, đất được xới nhưng thân bắp vẫn còn chừa lại để che chở cho cây anh túc non trong những cơn mưa lũ .
Cây non mọc những lá giống như cây cải non. Sau 1 tháng, cây cao khoảng 1 foot thì người ta bắt đầu nhổ bỏ những cây yếu hoặc nhổ bỏ bớt những nơi nhiều cây do gieo vãi không đều. Kháng cách tốt nhất là khoảng 20 đến 40 centimét 1 gốc hay 8 đến 12 gốc 1 mét vuông. Trồng dầy hơn giảm sức tăng trưởng của cây.
Trong 2 tháng đầu, cây non có thể bị hư hại hay còi cọc vì thiên nhiên như thiếu nắng, mưa nhiều, sâu bọ, giun, mưa đá, băng giá sớm mai hay thú rừng dầy xéo . . Từ tháng thứ 3 trở đi, cây đủ mạnh, việc chăm sóc đỡ hơn. Giữa 3 hay 4 tháng sau khi trồng, tức là khoảng tháng Giêng, cây anh túc nở hoa . Lúc này nó cao khoảng từ 3 đến 5 feet . hầu hết cây trồng ở Đông Nam Á có từ 3 đến 5 hoa .
Một thửa đất trồng anh túc tiêu biểu có khoảng 250,000 cây mỗi mẫu (hecta . 1 hecta = 2.46 acres) . Vì mỗi cây có vài hoa cho nên 250,000 cây có khoảng 300,000 đến 500,000 bầu trái . Vì lệ thuộc vào thời tiết như mưa, nắng nên mỗi vụ mùa đều khác nhau. Gia đình người trồng trọt dựng lều ăn ở tại rẫy khoảng 2 tuần để lấy nhựa.

Thu hoạch nhựa cây.







Rạch trái lấy nhựa bắt đầu khoảng 2 tuần sau khi cánh hoa rụng . Nhà trồng trọt có thể xem xét trái và núm trái (crown) trước khi rạch lấy nhựa . Màu xanh xám của trái đổi sang màu xanh xẫm và sưng phồng lên khi trái đã chín tới. Một dấu hiệu khác cho biết trái đã chín để lấy nhựa là phần núm duỗi thẳng ra hay vểnh ngược lên . Trái không chín đồng loạt . Mỗi trái được rạch lấy nhựa từ 2 đến 4 lần .
Một bộ từ 3 đến 4 lưỡi dao được buộc lại với cán bằng gỗ dùng để rạch dọc theo trái . Nếu đường rạch quá sâu, nhựa sẽ chảy vào trong thay vì chảy ra . Nếu đường rạch quá cạn, nhựa sẽ làm nghẹt vết cắt và ngưng chảy . Vết cắt phải sâu cỡ 1 milimét là vừa đủ . Việc lấy mủ thường bắt đầu vào buổi chiều để nhựa có thể rỉ ra suốt đêm . Gặp không khí nhựa xẫm lại và đặc lại trong khí mát ban đêm . Sáng sớm hôm sau, nhựa dẻo, dính và trái được cạo ra với 1 dụng cụ có lưỡi cong uốn theo hình dạng trái có bề rộng khoảng 3 inches . Vì sau khi cạo nhựa, trái vẫn tiếp tục rỉ cho đến vài ngày nên người ta thường bắt đầu từ cuối rẫy, lùi dần ra ngoài để tránh chạm vào nhựa ướt . Nhựa qua đêm kẹo lại, không còn ướt nữa . Những sáng sau họ còn lấy nhựa và rạch những trái mới vừa chín . Làm như vậy cho đến khi nhựa không còn chảy nữa. Mỗi trái cho trung bình 80 miligram (gần 1 lạng) nhựa . Nhựa khô rồi cân được từ 8 đến 20 kí lô mỗi mẫu (hecta) . Trong lúc lấy mủ, người ta buộc mảnh vải màu để đánh dấu những trái to, nhiều mủ để lấy hạt giống . Mỗi công đắtacre) có khoảng 20 kí lô hạt nhưng chỉ 1 ít trong số đó được để dành làm giống .
Nhựa ướt chứa khoảng 60/100 nước cần được phơi vài ngày . Nhựa tốt có màu nâu (thay vì đen là nhựa xấu) và dẻo dính. Nước 15/100 hay ít hơn được coi là đã khô. Bọn con buôn chỉ cần nhìn là biết nhựa có lẫn đất cát, vỏ cây hay những dơ bẩn khác .
Một bánh thuốc phiện ở Lào, Thái Lan nặng chừng 1.6 kí lô gọi là 1 choi . Diến Điện gọi là 1 viss , gói trong lá chuối và được cất nơi khô ráo chờ bán . Theo tài liệu của Thái Lan, 1 con nghiện "phê" 1.6 kí lô thuốc phiện 1 năm . Một gia đình trồng cây anh túc thu hoạch từ 2 đến 5 choi hay viss (3 đến 9 kí lô) mỗi công đất . Dù vậy, thu hoạch có thể hơn, kém vì những yếu tố khác như thời tiết hay đất xấu tốt . Nếu phơi kỹ, thuốc phiện có thể để lâu vô thời hạn . Thực ra càng khô thuốc phiện có nhẹ đi nhưng giá trị càng cao . Để càng lâu, phẩm chất càng tăng .

(còn tiếp)
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9