Charlie Bone đối thủ của Harry Potter (tập 1)
banh2005 12.06.2006 00:09:05 (permalink)
CHUYỆN MỞ ĐẦU BẰNG…


Vua Đỏ cùng hoàng hậu đang cưỡi ngựa bên bờ biển. Ấy là thời điểm trong năm mà gió lại cuốn theo chút hơi sương. Những đám mây chiều bắt đầu hiện ra; và nơi nào mặt trời tìm được đường len qua màn sương dày, thì nơi ấy nó rắc xuống mặt biển những chùm tia sáng lấp lánh.
Vua và hoàng hậu thúc ngựa quay về, nhưng bất thình lình, hoàng hậu bỗng ghìm cương lại, ngồi bất động trên yên ngựa, nhìn trân trân qua khắp mặt nước. Nhà vua, dõi theo ánh mắt bà, liền chú ý thấy một hòn đảo đẹp mê hồn. Nằm gọn trong vầng sáng mặt trời, nó rực lên hàng ngàn mảng biếc xanh da trời.
“Ôi!” Hoàng hậu thở dài, với giọng sợ hãi.
“Chuyện gì vậy, ái khanh?” Nhà vua bèn hỏi.
Trong những vấn đề liên quan đến con cái, linh cảm của hoàng hậu thường sắc bén hơn trực cảm của nhà vua. Và khi trông thấy hòn đảo tỏa sáng hàng ngàn dải màu xanh da trời, bà cảm thấy như có một bàn tay băng giá bóp chặt lấy tim mình. “Các con,” giọng bà gần như một tiếng thì thầm.
Nhà vua hỏi vợ xem đứa nào trong chín đứa con của họ khiến bà lo lắng, nhưng hoàng hậu không trả lời được. Thế nhưng, khi họ trở về Lâu đài Đỏ và hoàng hậu trông thấy hai người con trai, Borlath và Amadis, bà liền cảm nhận ngay có điềm gở khủng khiếp. Bà nhìn thấy khói đen nổi lên từ hòn đảo xanh da trời kia, và lửa cháy biến đất đá thành tro bụi. Bà thấy một lâu đài thủy tinh sáng lóa hiện ra giữa một cơn bão tuyết; và khi nội nhãn của bà đảo khắp các bức tường thủy tinh của tòa lâu đài, bà trông thấy một thanh niên tóc trắng như tuyết đang leo lên khỏi một cái giếng. Anh ta nhắm chặt mắt cho khỏi thấy sự chết chóc đang vây bủa xung quanh mình.
“Chúng ta tuyệt đối không bao giờ được cho các con mình trông thấy hòn đảo ấy,” hoàng hậu nói với nhà vua. “Chúng ta tuyệt đối không được để cho chúng đặt chân lên mảnh đất xanh da trời bị ếm bùa ấy.”
Nhà vua hứa sẽ làm theo. Nhưng chưa đầy một năm sau, hoàng hậu qua đời, và nhà vua, chìm đắm trong đau thương, đã rời bỏ lâu đài và các con của mình. Hoàng hậu mất chín ngày sau khi hạ sinh người con thứ mười của bà, một bé gái tên là Amoret. Một bé gái mà không ai có thể bảo vệ được.

CÁI HẮT HƠI CHẾT NGƯỜI



Nằm ở ngoại vi thành phố, Học viện Bloor đứng sừng sững và im lìm dưới bầu trời sao. Ngày mai, ba trăm đứa trẻ sẽ leo lên những bậc thang giữa hai tòa tháp, băng qua mảnh sân gạch, và chen nhau đi qua cánh cửa đôi to lớn bằng gỗ sồi. Nhưng vào lúc này, tòa nhà cổ ấy đang hoang vắng tựa như sa mạc.
Nhưng cũng không hẳn thế, nếu quý vị đứng ở trong khu vườn, nơi đầu đằng kia của học viện, thì quý vị sẽ không thể không nhận thấy những đốm sáng lạ lùng, thỉnh thoảng lập lòe từ những cửa sổ nhỏ trên mái nhà. Và nếu quý vị có thể nhìn qua được một trong những cửa sổ ấy, hẳn quý vị sẽ trông thấy Ezekiel Bloor, một lão già khú khụ, đang thành thục đẩy chiếc xe lăn xửa xưa của lão vào một căn phòng quái dị.
Phòng thí nghiệm, như lão Ezekiel thích gọi như thế, là một căn phòng áp mái dài, với những miếng ván lót sàn rộng, bám đầy bụi, và một mái trần lòi hết cả rui(*) nhà. Những chiếc bàn đủ kiểu - chất đầy chai lọ, sách vở, thảo mộc, xương và vũ khí - dựng tựa vào các bức tường; trong khi ở dưới những gầm bàn, một đống ngăn kéo bẩn thỉu thòi ra, xộc xệch, đe dọa sẽ ngáng ngã bất cứ ai đi ngang.
Những nhánh cây thân thảo khô và phai màu thòng xuống từ rui nhà, và những mảnh áo giáp, treo lơ lửng trên những thanh xà ngang to bự, khua xủng xoảng thật ghê rợn mỗi khi có một làn gió quét qua. Lúc này, chúng đang kêu lên xủng xoảng khi lão Ezekiel Bloor di chuyển qua sàn nhà.
Thằng chắt đích tôn của lão già, Manfred, đang đứng bên cạnh một chiếc bộ ngựa kê ở ngay chính giữa căn phòng. Qua một kỳ hè, Manfred đã lớn bộn, và lão Ezekiel cảm thấy tự hào rằng thằng chắt của lão đã chọn làm việc chung với lão, chứ không học lên tiếp đại học như những cựu học sinh năm thứ sáu khác. Nên nhớ là, tuy cao đấy, nhưng Manfred lại có một bộ vó gày guộc, da vàng ệch, nổi đốm, và một gương mặt lồi hết cả xương và hóp tọp.
Vào khoảnh khắc này, mặt Manfred nhăn xoắn lại, tập trung cao độ khi hắn bày một đống xương ra bàn, ngay trước mặt. Phía trên đầu hắn, treo đung đưa bảy ngọn đèn khí được gá vô một vòng sắt, ánh sáng xanh lét của chúng phụt ra tiếng rù rù yết ớt. Khi trông thấy ông cố, Manfred buông một tiếng thở dài tức tối và rồ lên, “Quá sức tôi rồi. Tôi ghét mấy trò đố mẹo.”
“Đó không phải là đố mẹo,” lão Ezekiel quặc lại. “Mà là xương của Hamaran, một con ngựa chiến có sức mạnh và lòng can đảm phi thường.
“Thế thì sao? Làm sao mà dăm ba cục xương vô tích sự này có thể làm sống lại tổ tiên của ông cố chớ?” Manfred phóng thẳng một tia nhìn khinh miệt vào lão Ezekiel, lão già vội cụp mắt xuống ngay lập tức. Lão không muốn bị chính thằng chắt của mình thôi miên.
Dán chặt mắt vô đống xương, lão già đẩy xe lăn đến gần bàn hơn. Lão Ezekiel Bloor đã một trăm lẻ một tuổi, nhưng những người khác ở vào độ tuổi ấy có lẽ trông vẫn còn da thịt hơn lão nhiều. Đằng này, mặt của lão Ezekiel chỉ khá hơn cái đầu lâu một chút. Mớ răng còn sót lại của lão đều mẻ sứt và đen xỉn cả, và một vài nhúm tóc trắng, thưa rỉnh ló ra dưới chiếc mũ trùm đầu bằng vải nhung đen. Tuy nhiên, đôi mắt lão vẫn phừng phực sức sống - đen và trợn quắc lên, phóng ra những tia dữ tợn cực độ.
“Chúng ta có đủ rồi,” lão già vừa nói vừa chỉ những món đồ khác trên bàn: bộ áo giáp có xích sắt, chiếc mũ giáp, cái áo chùng lông thú màu đen, và chiếc ghim kẹp áo thụng bằng vàng. “Chúng là của ngài Borlath đấy. Ông nội của ta đã tìm thấy chúng trong lâu đài này, tất cả được bọc bằng da, bên trong ngôi mộ. Khung xương không còn nữa, thật đáng tiếc. Chắc chắn là tại lũ chuột,” lão ta vuốt vuốt chiếc áo lông thú đen với vẻ gần như là âu yếm.
Borlath là thần tượng của lão Ezekiel ngay từ khi lão còn là một cậu bé. Những câu chuyện về bậc tổ tiên hiếu chiến ấy đã dần hun đúc trí tưởng tượng của lão, cho đến mức lão tin rằng ngài Borlath có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề cho mình. Dạo gần đây, lão hay mơ thấy ngài Borlath xốc lão ra khỏi xe lăn và cả hai cùng nhau khủng bố thành phố. Rồi đây Charlie Bone và Ông cậu đáng ghét của nó phải coi chừng.
“Thế còn nguồn điện, ông cố biết đấy, cho lúc sống lại thì tính sao đây? Ở đây chẳng có tí điện nào,” Manfred ngước nhìn lên mớ đèn khí.
“Ô, cái đó!” Ezekiel phẩy tay ra điều không có gì quan trọng. Lão tự xoay bánh xe tới một chiếc bàn khác và lấy một hộp thiếc nhỏ có hai cái ngạnh chĩa từ nắp chĩa ra. Lão vặn cái núm ở bên hông hộp và một tia lửa xanh da trời xẹt ra giữa hai cái ngạnh.
“Ối chà! Điện!” Lão sung sướng thông báo. “Nào, tiếp tục đi. Ngày mai tụi nhóc sẽ trở lại đây, và chúng ta không muốn bất kỳ đứa nào xộc vô cuộc thí nghiệm nho nhỏ này của chúng ta đâu.”
“Đặc biệt là thằng Charlie Bone,” Manfred gầm gừ.
“Hừ! Charlie Bone!” Lão Ezekiel thiếu điều là khạc ra cái tên đó. “Bà nội nó nói nó sẽ là đứa có ích, nhưng ngược lại thì có. Ta tưởng ta sắp dụ được nó về phe mình hồi học kỳ vừa qua rồi chứ, vậy mà rồi nó lại nhai nhải về thằng cha biệt dạng của nó và đổ lỗi cho ta.”
“Nó nói cũng đâu có sai,” Manfred nói, gần như chỉ với riêng mình.
“Nghĩ coi bọn ta có thể làm gì với tài phép của nó,” lão Ezekiel tiếp tục. “Nó ngó vô một bức tranh và đùng một cái, nó đã ở trong đó, nói chuyện với người chết từ tám hoánh. Đừng hòng mà tao cho phép...” Lão Ezekiel lắc lắc đầu. “Nó mang dòng máu của cái gã phù thủy xứ Gan cô hồn thất đảng đó. Và cây gậy phép nữa.”
“Tôi có kế hoạch cho vụ đó rồi,” Manfred nói khẽ. “Chẳng bao lâu nữa nó sẽ thuộc về tôi cho coi, ông cố cứ chờ xem.”
“Thật hả?” Lão Ezekiel cười khục khục. Lão bắt đầu lăn xe đi trong khi thằng chắt tập trung vô công việc gắn xương tỉ mỉ.
Khi lão Ezekiel dịch tới mảng tối mù ở cuối căn phòng, ý nghĩ của lão bỗng chuyển sang Billy Raven, thằng bé mồ côi tóc trắng, bị lợi dụng làm gián diệp theo dõi Charlie Bone. Billy gần đây đã trở nên nổi loạn, bất trị. Nó không chịu hé cho lão Ezekiel biết Charlie và lũ bạn đang mưu tính gì. Hậu quả, lão Ezekiel và gia đình Bloor có nguy cơ không kiểm soát được những đứa trẻ có phép thuật trong trường. Cần phải làm điều gì đó ngay.
“Ba mẹ,” lão Ezekiel bật nói một mình. “Cần phải làm sao cho Billy được nhận làm con nuôi. Ta đã hứa tìm ba mẹ cho thằng nhóc mồ côi đó mà chưa bao giờ thực hiện. Nó đã từ bỏ ta. Hừ, Billy sẽ có ba mẹ tử tế, tốt bụng.”
“Đừng quá tử tế,” Manfred nói, nãy giờ hắn đã nghe lỏm.
“Sợ gì. Ta biết một cặp rồi. Ta không hiểu tại sao trước đây lại không nghĩ đến chúng nhỉ,” lão Ezekiel quay đầu lại, ngóng đợi. “A, bọn này sắp có tiếp viện kìa.”
Có tiếng những bước chân lộp cộp từ xa; vài giây sau, cửa mở và ba phụ nữ ùa vô phòng. Người đầu tiên già nhất. Mái tóc xám xịt của bà ta được búi chót vót trên đỉnh đầu như một củ hành khổng lồ, quần áo của bà ta đen và mắt bà ta cũng đen như thế. Bà Lucretia Yewbeam là giám thị trong trường và là bà cô của Charlie Bone. “Tôi đem mấy bà em của tôi tới đây,” bà ta nói với lão Ezekiel. “Ngài nói là ngài cần sự trợ giúp.”
“Thế người thứ tư đâu?” Lão Ezekiel hỏi. “Bà Grizelda đâu?”
“Lúc này nên để bà ấy tránh xa mọi chuyện là tốt nhất,” bà Eustacia, người em thứ hai nói. “Nói cho cùng, bà ấy phải sống với thằng em thổ tả của chúng tôi... và thằng oắt đó. Bà ấy có thể vô tình... làm lộ bí mật, tất nhiên rồi.”
Bà Estacia, một nhà tiên tri, bước lại gần cái bàn. Mái tóc xám của bà ta vẫn còn vài sợi đen, nhưng phần lớn các đặc điểm còn lại thì bà ta giống hệt bà chị kế của mình. Đôi mắt hí rị của bà ta lia khắp các đồ vật trên bàn và bà ta nhếch một nụ cười gian xảo. “Ra là lão đang mưu tính với đống này, đồ quỷ già. Người ấy là ai vậy?”
“Tổ tiên của ta, ngài Borlath,” lão Ezekiel đáp. “Người vĩ đại nhất trong tất cả những người con của Vua Đỏ. Oai phong nhất, mạnh mẽ nhất và thông thái nhất.”
“Ghê tởm nhất và khát máu nhất thì chính xác hơn,” bà em thứ ba vừa nói vừa dộng một cái túi da to xụ lên bàn. Mái tóc bết bệt của bà ta xõa xuống vai thành từng dải màu nhọ nồi và những quầng thâm viền quanh đôi mắt đen như than. So với mấy bà chị thì bà ta trông thật luộm thuộm. Áo khoác to quá khổ, và áo cánh xam xám bên trong trông cấp thiết phải được giặt ngay. Chắc chắn không ai đoán được cái sinh vật ăn mặc lôi thôi lếch thếch này đã từng là một quý bà kiêu hãnh và chưng diện không chê vào đâu được.
“Venetia lâu nay vẫn mong chờ có cái gì đó như thế này,” bà Eustacia nói. “Từ khi thằng Charlie Bone chết tiệt đó thiêu trụi nhà cô ấy.”
“Tôi tưởng em trai của các bà làm điều đó chứ,” Manfred chen vô.
“Phải,” bà Venetia rít lên, “nhưng Charlie phải chịu trách nhiệm, đồ sâu bọ nhãi nhép. Ta muốn nó phải tiêu tùng. Ta muốn nó phải ú ớ vì sợ hãi, phải bị dằn vặt, khổ sở... và chết.”
“Bình tĩnh, Venetia,” lão Ezekiel lăn lẹ đến cạnh bà ta. “Bọn ta không muốn mất hẳn thằng bé mà.”
“Chi vậy? Nó thì được cái tích sự gì? Ông có tưởng tượng được việc mất tất cả là gì không? Có biết đứng ngó cơ nghiệp của ông - thành quả của đời ông - tan thành mây khói thì thế nào không?”
Lão Ezekiel vụt mạnh cây ba toong của lão vô bàn.
“Đừng xúc động thế, bà kia. Thằng Charlie này có thể xài được. Tôi có thể ép nó phải đem tôi về lại quá khứ. Tôi có thể thay đổi lịch sử. Nghĩ coi!”
“Ông không thể thay đổi lịch sử, ông cố à,” Manfred nói huỵch tẹt.
“Sao mày biết?” Lão Ezekiel sủa. “Chưa ai thử cả.”
Kéo theo sau là một sự im lặng ngột ngạt. Không ai dám xa gần nói rằng việc đó đã có người thử biết bao lần rồi, mà không thành công. Bà cô Venetia cắn môi, vẫn nung nấu chuyện trả thù. Bà ta có thể chờ, nhưng một ngày nào đó bà sẽ tìm ra cách trừ khử Charlie Bone - trừ khử vĩnh viễn.
Bà Lucretia phá tan sự im lặng bằng câu hỏi:
“Tại sao lại là ngựa?”
“Vì ta có xương,” lão Ezekiel dấm dẳn. “Con ngựa này, ngựa Hamaran,” lão hất đầu về phía đống xương, “theo sử sách truyền lại, là một sinh vật oai phong lẫm liệt. Và kỵ sĩ cưỡi trên mình nó cũng phải rất uy mãnh, mấy người không đồng ý sao?”
Những người kia lầm rầm một tiếng tán thành.
“Thằng nhóc đó sẽ sợ chết khiếp,” lão Ezekiel hớn hở tiếp. “Nó sẽ làm bất cứ điều gì bọn ta yêu cầu.”
“Và lão định sẽ điều khiển sinh vật quái đản ấy như thế nào?” Bà Venetia nói.
Lão Ezekiel vốn hy vọng đừng ai hỏi lão điều ấy, bởi vì lão chưa có câu trả lời thỏa đáng.
“Ngài là tổ tiên của ta,” lão nói với một nụ cười tự tin. “Hà cớ gì ngài lại không giúp ta? Nhưng trước hết, bọn ta hãy đánh thức nó dậy, và phi, như nó từng phi trước đây. Ha! Ha!”
Trong lúc bà Lucretia ngồi trên một chiếc ghế bành bị mối ăn, thì hai bà em dỡ đồ trong chiếc túi da ra. Những lọ chất lỏng bắt đầu xuất hiện trên bàn; rồi những muỗng bạc, vài túi thảo mộc, những mảnh thạch anh nhỏ xíu, óng ánh, một cái chày và một cái cối bằng đá đen và năm cây nến. Lão Ezekiel dòm quy trình diễn ra bằng đôi mắt hau háu.
Một tiếng đồng hồ sau, phần xương chân của một con ngựa đang phi nước đại đã được xếp trên bàn. Bộ áo giáp được chà bóng loáng bằng một thứ chất lỏng bốc mùi tanh hôi và chiếc áo choàng lông thú đã được kết đầy những hạt huyền nhỏ xíu.
Năm cây nến hắt những chiếc bóng nhảy múa lên tường. Một cây đặt phía trên chiếc mũ giáp, hai cây ở hai bên cổ tay cái áo giáp, hai cây cuối cùng đặt vô chỗ móng guốc hai chân trước bị khuyết của con ngựa.
Bà Venetia mê mẩn với công việc, quên cả bản thân. Thật là hay, bà ta một lần nữa lại được nhúng mũi vào một công việc có tính phá hoại. Lúc bà ta vuốt nhẹ cái áo lông đen, những tia lửa nhỏ xíu kêu lép bép ở các đầu ngón tay bà.
“Sẵn sàng rồi chứ?” Bà ta hỏi.
“Chưa đâu,” nhá một nụ cười xảo quyệt, lão Ezekiel thò tay xuống dưới đống mền bùng nhùng trên đùi lão và rút ra một cái tráp nhỏ bằng vàng. Ở chính giữa cái nắp nạm đá quý, một chùm đá hồng ngọc xếp thành hình trái tim, chiếu rực căn phòng tối lờ mờ bằng thứ ánh sáng lóa mắt.
“Trái tim,” lão Ezekiel nói, giọng ùng ục sâu trong họng. “Asa, thằng quái thú, đã tìm thấy nó trong tòa lâu đài đổ nát. Nó ra đó đào xới, theo thói quen xấu xa của nó, và tìm thấy một bia mộ có khắc chữ B. Nó đào thêm nữa và tìm thấy cái này,” lão ta vỗ nhẹ cái tráp, “bị chôn sâu dưới bia mộ.”
Từ cái ghế của mình trong bóng tối, bà Lucretia hỏi:
“Tại sao nó không nằm trong ngôi mộ?”
“Tại sao? Tại sao?” Lão Ezekiel buột ra một tràng ho vật vã nơi cuống phổi. “Để giữ bí mật, chắc vậy. Nhưng đó là tim của ngài. Ta biết chắc. Ngài Borlath là người con duy nhất của nhà vua có tên bắt đầu bằng chữ B.”
Lão mở cái tráp ra.
“Aaaah!” Bà cô Eustacia nhảy xa khỏi bàn, vì bên trong tráp là một túi da nhỏ hình trái tim mà, quả thật, hình như có đựng... một thứ gì đó.
“Thấy chưa? Một trái tim,” lão Ezekiel đắc thắng nói. “Giờ, bọn ta hãy tiếp tục nào!”
Xúc cái túi da ra khỏi tráp, lão đặt nó lên bộ áo giáp, chệch tâm trái một chút, nơi lão phán quyết là trái tim hẳn phải nằm ở đó. Rồi lão gỡ một sợi dây điện từ chiếc hộp điện của lão ra và quấn đầu dây một vòng, hai vòng, ba vòng quanh cái túi da.
Một bầu không khí thinh lặng, thấp thỏm chờ đợi đổ ụp xuống căn phòng khi lão già bắt đầu xoay cái núm của chiếc hộp bạc. Càng lúc càng nhanh dần. Bàn tay cong queo của lão biến thành một vật mờ mờ, bay bay, đôi mắt đen của lão rực cháy lên đầy kích động. Một tia lửa nhá lên giữa hai cái ngạnh thép và chuyền qua sợi dây tới trái tim của Borlath. Lão Ezekiel phát ra một tiếng gừ chiến thắng và bàn tay lão bất động.
Ba chị em chỉ chực biểu lộ ngay niềm hân hoan, nhưng họ biết im lặng là cần thiết trong khoảnh khắc như thế này. Những khúc xương của ngựa Hamaran bắt đầu chuyển động.
Lão Ezekiel và chị em nhà Yewbeam đang chăm chú nhìn vào bàn đến độ không để ý Manfred rút ra một chiếc khăn tay và ấn chặt vào mũi. Mặt nó chuyển thành đỏ rần khi nó đấu tranh để cố kìm một cái hắt hơi.
“HẮT XÌ!”
Lão Ezekiel bật nảy người như thể bị đấm một đấm. Lão bịt chặt hai tai và ré lên “Không,” khi Manfred cố kìm một cái hắt hơi khác. Mấy chị em nhà Yewbeam kinh hãi nhìn gã trai trẻ nhăn xoắn mặt lại, và...
“HẮT XÌ!”
Đống xương ngừng chuyển động. Hơi nước màu đen, gớm ghiếc bốc lên từ chiếc áo lông thú và bộ áo giáp oằn oại bên dưới cái túi da đang cháy âm ỉ.
“HẮT XÌ!”
Một tiếng nổ như sấm và một màn khói nồng nặc mùi tỏa khắp căn phòng. Trong lúc những kẻ chứng kiến nghẹt cả thở và líu cả lưỡi, thì một hình thù khổng lồ nâng lên khỏi bàn và biến mất vào đám khói đen cuồn cuộn. Trốn dưới gầm một chiếc bàn ở cuối phòng, một con chó mập thù lù, lùn tịt nhắm mắt lại và run lẩy bẩy.
Một tiếng nổ dữ dội thứ hai làm rung chuyển toàn bộ căn phòng, và bà cô Lucretia thét lên:
“Gì vậy?”
“Cái thằng ngu chết dẫm đó hắt xì,” lão Ezekiel rít chìn chịt.
“Xin lỗi, xin lỗi. Không thể nén được,” Manfred rên rỉ. “Bụi quá.”
“Bụi, bụi cái gì,” bà cô Venetia mắng nhiếc. “Đáng ra cậu phải vứt cái mũi đáng nguyền rủi của cậu ở ngoài chớ. Hư hết việc rồi. Thiệt uổng công.”
“Có lẽ không uổng đâu,” bà Eustacia cắt ngang. “Nhìn cái bàn kìa. Xương biến hết rồi.”
Đám khói đang tan đi nhanh chóng do một luồng khí lạnh thình lình thổi qua, và tất cả bọn họ đều thấy rằng xương của ngựa Hamaran, quả thật, đã biến mất. Nhưng áo giáp, mũ sắt, áo chùng và chiếc kim kẹp bằng vàng của Borlath vẫn nằm nguyên chỗ cũ, trông thảm hại hơn vì thứ bùa mà chúng vừa phải chịu.
“Khốn kiếp!” Lão Ezekiel gầm gào. Lão dộng nắm đấm xuống bàn và đống trang phục bị cháy sém kia rung lên. “Không được gì rồi.”
“Nhưng tôi lại được việc đấy,” Manfred nói. “Con ngựa ra ngoài rồi kìa.” Hắn chỉ vào một cái lỗ toang hoác ở trên tường.
“Chó thật!” Lão Ezekiel rít lên. “Phòng thí nghiệm của tao bị lủng, còn con ngựa chiến thì sổng ra ngoài.”
“Con ngựa chiến với trái tim của bạo chúa,” bà Venetia nói. “Coi, nó biến rồi!”
Chỗ trái tim nằm hồi nãy, giờ chỉ còn lại một cái lỗ cháy đen trong bộ áo giáp đang âm ỉ.
“Vậy nghĩa là sao?” Manfred hỏi, giọng nghẹn lại.
Lão Ezekiel xoa cái mũi dài của lão.
“Nghĩa là không phải tất cả đã mất. Nhưng ta sẽ cần sự giúp đỡ. Ta nghĩ ta sẽ phải cần đến một người bạn của ta, một người có món nợ cần giải quyết.”
Tất cả mọi người nhìn lão, chờ nghe một cái tên, nhưng lão già chưa sẵn sàng làm thỏa lòng cả đám.
“Ngựa chiến có thể rất có ích,” bà Venetia nói, đầy ưu tư, “Miễn là có người cưỡi được nó.”
Tất cả đều nhìn chằm chặp vào khoảng không do đống xương để lại, như thể bắt nó phải lên tiếng, và rồi Manfred nói:
“Billy Raven giỏi nói chuyện với thú vật.”
Trong phòng ngủ chung dài hút, bên dưới gác mái của lão Ezekiel ba tầng, Billy Raven choàng tỉnh giấc, đột nhiên thấy sợ hãi. Nó quay mặt ra cửa sổ, định tìm mặt trăng hầu tự trấn an mình, thì thấy một con ngựa trắng bay lướt qua những đám mây rách nát - và biến mất.


CON NGỰA MA



Vào ngày đầu tiên của học kỳ mùa thu, Charlie Bone phóng ào xuống ăn sáng với một chiếc lược thòi ra từ đám tóc.
“Mày nghĩ mày giống cái gì hả?” Từ chỗ ngồi của mình kế lò sưởi, nội Bone nói vọng ra.
“Chắc giống khủng long ạ?” Charlie gợi ý. “Con đã kéo, kéo mãi rồi mà cái lược không chịu ra.”
“Tóc thì như hàng rào,” bà nội xương xẩu của nó càu nhàu. “Chỉnh tề lên coi, cái thằng. Ở Học viện Bloor người ta không ưa thứ bê bối đâu.”
“Lại đây, cún cưng,” một người bà khác của Charlie, hiền hậu hơn, đặt tách trà xuống và giật mạnh cái lược ra. Cái lược bứt ra cùng với một túm tóc của Charlie.
“Ngoại Maisie! Ui da!” Charlie thét lên.
“Xin lỗi, cún cưng,” ngoại Maisie nói. “Nhưng phải làm thế thôi.”
“Dạ.” Charlie xoa xoa cái đầu đau của mình. Nó ngồi xuống bên bàn bếp và tự trút ra cho mình một tô cốm bắp.
“Trễ rồi. Mày lỡ xe buýt trường cho coi,” nội Bone làu bàu. “Giáo sư Bloor là người cực khắt khe về vụ đúng giờ.”
Charlie ấn muỗng cốm bắp vô miệng, nói, “Vậy thì sao ạ?”
“Đầy một miệng như thế thì đừng có nói,” nội Bone rầy.
“Cứ mặc nó, Grizelda,” ngoại Maisie nói. “Nó cần phải được ăn sáng ngon lành. Chắc chắn nó sẽ không có được một bữa nào ra hồn trong năm ngày tới.”
Nội Bone khịt mũi và đớp phập vô trái chuối. Đã ba tháng nay bà chưa hề cười; kể từ khi căn nhà của bà em Venetia của bà bị cháy rụi.
Charlie uống gấp ca trà, lẹ làng tròng cái áo khoác và phóng ù lên lầu để vơ mấy cái túi đi học của nó.
“Áo chùng!” Nó tự nói một mình, nhớ ra áo vẫn còn treo trong tủ. Nó kéo cái áo ra và một tấm hình nhỏ bay xuống sàn nhà.
“Benjamin,” nó mỉm cười nhặt tấm hình lên. “Bồ đang ở đâu?”
Trong hình là một cậu bé tóc vàng nhạt đang quỳ bên cạnh một con chó vàng thiệt bự. Chính Charlie đã chụp tấm hình này, ngay trước sinh nhật thứ mười của Benjamin. Lúc này Charlie dùng tài phép để đi vô tấm hình hoàn toàn không phải để thăm thú cảnh trí ở đó. Cảnh trí cũng chẳng nói lên được điều gì cả.
Những lúc nôn nóng sử dụng tài phép lạ lùng của mình, Charlie thường quên khuấy rằng những người mà nó thăm đấy cũng có thể trông thấy nó. Cho dù họ đang ở nơi nào, khi Charlie nhìn vào tấm hình chụp họ, họ cũng có thể thấy gương mặt nó trôi lềnh bềnh ở đâu đó gần đấy. Chính vì vậy mà Benjamin, đang uống nước ở Hồng Kông, đã nhìn thấy gương mặt mỉm cười của Charlie trong ly nước cam của mình.
Benjamin đón nhận những cú xuất hiện ma thuật của Charlie một cách dễ dàng, nhưng Hạt Đậu, con chó của Benjamin, xem ra không bao giờ có thể quen được với những cú xuất hiện ấy.
Con chó bự đang tính xơi bữa sáng trong quán Cà Phê Thú Kiểng, thì khuôn mặt Charlie bỗng ngó lên từ tô Chappimix.
Hạt Đậu hoảng hốt nhảy vọt lên, tru dài một tiếng; vụ việc khiến một con rắn xanh da trời trườn vội xuống dưới tủ đựng chén dĩa, và một phụ nữ rất cao tên là Onoria Onimous đánh rớt mẻ bánh mới nướng. Nhưng ba con mèo rực rỡ nằm trên nóc tủ lạnh thì chỉ ngáp và nhắm mắt lại.
Charlie đút tấm hình vào túi quần, nhét chiếc áo chùng xanh da trời vào giỏ, rồi chạy xuống lầu.
“Đừng quên...” ngoại Maisie la lớn, nhưng Charlie đã nhào ra khỏi cửa trước và chạy tới đầu đường Filbert.
Chiếc xe buýt đưa đón học sinh màu xanh da trời sắp khởi hành thì cửa xe thình lình bật mở, và một cậu bé có chỏm tóc quăn màu hạt dẻ thò đầu ra ngoài. “Anh thấy em chạy tới,” cậu bé nói. “Bác tài nói không thể đợi được nhưng anh bắt bác ấy phải đợi.”
“Cảm ơn anh Fido,” Charlie đưa một trong mấy cái túi xách của nó cho anh bạn Fidelio, và leo lên những bậc xe buýt.
“Có mang áo chùng không?” Fidelio hỏi.
Charlie lôi tấm áo nhàu nhì ra khỏi giỏ.
“Em ghét mặc áo lúc đi bộ ngoài đường Filbert lắm. Bị mọi người cười. Có một thằng ở nhà số 20 cứ gào lên: ‘Nó kìa, Thằng Xanh Da Trời kìa, tới Học viện Bloor, giống con két mào bảnh chọe!’ Nhưng em đâu có xin ai cho đến Học viện Bloor, đúng không?”
“Em không phải là con két mào bảnh chọe,” Fidelio bật cười. “Anh cá là sáng nay em lại quên chải đầu.”
“Em chải rồi.”
Xe buýt dừng lại và hai đứa nhập vào đám đông đang nhảy xuống quảng trường rải sỏi. Chúng đi ngang một vòi phun nước hình đàn thiên nga bằng đá và tiến đến những bậc cấp dẫn vào Học viện Bloor.
Khi Charlie bước chân dưới bóng râm của tháp nhạc, nó thấy mình chợt ngước lên nhìn đỉnh chóp dốc đứng của tòa tháp. Điều này vốn đã trở thành thói quen và nó tuyệt nhiên không biết tại sao mình lại làm vậy. Có lần, mẹ nó bảo với nó, là cô cảm thấy ai đó đang nhìn mình từ ô cửa sổ nhỏ dưới mái hiên nhô ra... Charlie bất giác rùng mình và theo Fidelio băng qua cổng vòm rộng.
Chìm giữa đám con nít áo chùng xanh da trời, tím và xanh lá cây, Charlie nhóng tìm Emma Tolly và Olivia Vertigo. Nó trông thấy Emma mặc áo chùng xanh lá cây, mái tóc dài vàng óng thắt thành hai bím gọn gàng, nhưng nó thoáng ngỡ ngàng về đứa con gái đi cạnh Emma. Nó rành gương mặt ấy nhưng... phải đó là Olivia không? Cô nàng mặc áo chùng tím, như mọi đứa khác của khoa Kịch, nhưng mặt Olivia thường ngày vốn hay tô vẽ, và tóc tai luôn luôn nhuộm màu sặc sỡ. Còn cô bé này lại có vẻ ngoài láng lẩy: má hồng, mắt xám và tóc nâu cắt ngắn.
“Đừng nhìn chằm chằm vậy chớ, Charlie,” con bé tóc nâu vừa nói vừa bước đến chỗ Charlie.
“Olivia hả?” Charlie thốt lên. “Chuyện gì vậy?”
“Tớ sắp thử vai cho một bộ phim,” Olivia nói với nó. “Trông phải nhỏ hơn tớ.”
Chúng leo lên một dãy bậc thang đá nữa, và rồi bước qua cánh cửa đôi khổng lồ chạm trổ những hình thù bằng đồng. Ngay khi tất cả bọn trẻ đã vào trong trót lọt, thì Weedon, gã gác cổng và lo việc lặt vặt, liền đóng ập cổng và khóa lại. Cổng sẽ khóa chặt như vậy cho đến tận chiều thứ Sáu, khi lũ trẻ được phép về nhà nghỉ cuối tuần.
Charlie bước vô tiền sảnh rộng mênh mông, lát đá phiến của Học viện Bloor. “Phim gì vậy?” Nó hỏi Olivia.
“Sssh!” Có tiếng suỵt đâu đó bên tai Charlie.
Charlie ngước lên, thấy một đôi mắt đen như than đá và giật bắn cả người. Nó tưởng Manfred Bloor đã ra trường rồi chứ.
“Anh hy vọng mày chưa quên luật, Charlie Bone!” Manfred gừ.
“Kh... không, anh Manfred,” Charlie coi bộ không quả quyết lắm.
“Vậy thì...” Manfred bật ngón tay một cái tách và ngó Charlie trừng trừng, còn Charlie thì đang ngó xuống bàn chân mình. Mới sáng sớm thế này, nó không hề muốn phải chống trả lại tia thôi miên của Manfred chút nào.
“Coi, luật như thế nào hả?” Manfred tra hỏi.
“Ờm...
Im lặng trong hành lang
Không được nói lan man
Không được khóc hay la
Ngay cả khi bị ngã.
“Ờm...” Charlie không thể nhớ ra câu cuối cùng.
“Viết câu đó ra một trăm lần và mang đến văn phòng của anh sau giờ uống trà!” Manfred nhe răng cười nham hiểm.
Charlie không biết là Manfred có văn phòng riêng, nhưng nó không định kéo dài cuộc đối đáp.
“Thưa vâng, anh Manfred,” nó làu bàu.
“Mày phải tự biết xấu hổ về bản thân mày. Bây giờ mày lên năm thứ hai rồi. Chẳng nêu gương tốt cho học sinh năm nhất gì cả, đúng không, Charlie Bone?”
“Dạ,” Charlie bất chợt nhìn thấy Olivia, đang tròn mắt dòm nó, và nó cố nén để đừng phì cười. Hên là Manfred vừa phát hiện ra có đứa nào đó không mặc áo chùng và đã tất tưởi vọt đi.
Olivia đã biến mất vào biển áo chùng tím. Đám chủ nhân của những chiếc áo đó đang chen lấn nhau đi qua cánh cửa bên dưới hai chiếc mặt nạ bằng đồng. Bên trong cánh cửa đang mở ấy, Charlie loáng thấy một đám nhốn nháo đủ màu, đang đông dần lên trong phòng để áo chùng tím. Nó vội vã đi tiếp đến tấm biển có hai cây kèn trumpet bắt chéo nhau.
Fidelio đang chờ nó ngay cửa, bên trong phòng để áo khoác xanh da trời. “Chu cha! Thiệt động trời!” Fidelio thở hì hụi. “Anh tưởng Manfred rời trường rồi chứ.”
“Em cũng tưởng thế,” Charlie nói. “Được vậy thì quay lại Học viện Bloor là ngon rồi. Tưởng đâu ít ra cũng thoát được Manfred ở đây chớ.”
Vậy vai trò mới của Manfred là gì? Liệu hắn có vĩnh viễn bám đuôi, theo dõi, nghe ngóng và thôi miên bọn nhóc không?
Hai đứa bàn tán về vấn đề Manfred trên đường đến Hội trường. Vào ngày đầu tiên của mỗi năm học, buổi tập trung đầu năm được tổ chức trong nhà hát, không gian duy nhất đủ rộng cho toàn thể ba trăm học sinh. Mãi đến giữa học kỳ mùa thu vừa qua, Charlie mới nhập học ở Học viện Bloor; cho nên đây là một trải nghiệm mới mẻ đối với nó.
“Thôi chết! Anh phải lẹ lên mới được,” Fidelio nói, nhìn đồng hồ đeo tay. “Đáng lẽ giờ này anh phải chơi nhạc rồi.”
Giáo sư Saltweather, trưởng khoa Nhạc, gật đầu một cách nghiêm khắc với Fidelio khi nó leo lên sân khấu và ngồi vào chỗ trong dàn nhạc giao hưởng. Charlie chui vào cuối hàng ghế thứ hai và nhận ra mình đang đứng ngay sau lưng Billy Raven. Thằng nhóc bạch tạng quay lại với cái nhăn mày lo lắng.
“Em phải ở lại năm thứ nhất thêm mười hai tháng nữa,” nó thì thầm với Charlie, “nhưng em đã phải ở lại hai lần rồi.”
“Xui vậy! Nhưng em mới có tám tuổi mà.”
Charlie quét một lượt hàng học trò mới trước mặt. Tất cả bọn chúng trông đều khá bình thường, nhưng ai mà biết chắc được. Một số trong bọn chúng có thể cũng được ban phép thuật giống như nó và Billy - những hậu duệ của Vua Đỏ.
Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, Charlie loay hoay đi khắp tòa nhà rộng lớn đầy gió lùa để kiếm phòng học mới của nó, lấy sách vở và tìm thầy Paltry (người được phân công dạy kèn trumpet cho nó.)
Đến khi tiếng tù và đi săn rúc lên báo hiệu giờ ăn trưa thì Charlie đã hoàn toàn kiệt sức. Nó khật khừ đi xuống khu căn-tin, cố lái mắt khỏi những bức chân dung treo trong hành lang sáng lờ mờ - đề phòng một người trong số họ muốn nói chuyện - và đến căn-tin xanh da trời.
Charlie bước vào hàng, đợi lấy phần ăn. Một phụ nữ thấp người, hơi đẫy đà sau quầy thức ăn nháy mắt với nó.
“Mọi việc tốt cả chứ, Charlie?” Bà hỏi.
“Dạ, cám ơn bà bếp trưởng,” Charlie đáp. “Nhưng chắc phải một thời gian con mới quen được với năm thứ hai.”
“Tất nhiên,” bà bếp trưởng nói. “Nhưng con biết ta ở đâu rồi đấy, nếu con cần đến ta. Ăn đậu nhé, Charlie?”
Charlie nhận lấy một dĩa mì macaroni phó mát với đậu và thơ thẩn dạo quanh các bàn ăn cho đến khi nó tìm thấy Fidelio, đang ngồi với Billy Raven và Gabriel Silk. Mái tóc nâu rũ rượi của Gabriel che gần hết khuôn mặt, và miệng nó hơi bễu ra, có vẻ buồn ủ ê.
“Vụ gì vậy, anh Gabe?” Charlie hỏi. “Lũ chuột kiểng của anh vẫn ngon chớ?”
Gabriel rầu rĩ ngước lên:
“Học kỳ này tôi không học piano được nữa rồi. Thầy Pilgrim đi rồi.”
“Đi rồi?” Charlie tự dưng hốt hoảng. “Sao? Đi đâu?”
Gabriel nhún vai.
“Tôi biết thầy Pilgrim lập dị, nhưng, ừm, thầy thiệt... tài giỏi.”
Hẳn là không ai phủ nhận điều này. Ai cũng từng nghe tiếng đàn dương cầm của thầy vọng xuống từ Tháp Nhạc. Charlie chợt nhận ra là nó sẽ nhớ tiếng đàn ấy lắm. Và nó sẽ nhớ những khi thầy Pilgrim nhìn đăm đăm vào khoảng không, mái tóc đen của thầy luôn rủ xuống mắt.
Fidelio quay sang Billy.
“Vậy kỳ nghỉ của em thế nào, Billy?” Nó thận trọng hỏi. Bởi lẽ làm thế nào mà không phát điên lên được khi phải trải qua cả kỳ nghỉ trong Học viện Bloor cơ chứ?
“Tốt hơn mọi khi,” Billy vui vẻ nói. “Bà bếp trưởng chăm sóc con Rembrandt đúng như đã hứa, và em gặp nó hàng ngày. Và anh Manfred đi vắng một thời gian nên ở đây khá yên ổn, thiệt vậy, chỉ trừ... chỉ trừ...”
Một mảng tối thoáng hiện trên mặt Billy...
“Có chuyện xảy ra hồi tối qua. Một chuyện thiệt quái lạ.”
“Chuyện gì?” Cả ba đứa kia cùng hỏi.
“Em trông thấy một con ngựa trên trời.”
“Ngựa?” Fidelio nhướn cặp chân mày. “Ý em là một đám mây trông giống hình con ngựa?”
“Không. Một con ngựa đàng hoàng.” Billy gỡ mắt kiếng ra và chùi vô tay áo. Đôi mắt đỏ đậm của nó dán chặt vào Charlie. “Kiểu như nó lơ lửng trên trời, bên ngoài cửa sổ, và sau đó tan đi.”
“Mấy ngôi sao cũng làm vậy được mà,” Gabriel nói, giờ đã tươi tỉnh hơn một chút. “Chúng có thể tạo ra ảo ảnh hình thú hay đồ vật.”
Billy lắc đầu.
“Không! Nó là một con ngựa.”
Nó đeo kiếng trở lại và nhăn nhó với dĩa đồ ăn của mình.
“Không xa em đâu. Ngay ngoài cửa sổ. Con ngựa rướn người lên và đá đá không khí, làm như nó đang chống trả để được tự do vậy, xong rồi nó... tan đi.”
“Giống như nó đang lùi vào một thế giới khác,” Charlie vuột miệng nói.
“Đúng rồi,” Billy hồ hởi nói. “Anh tin em, phải không anh Charlie?”
Charlie thủng thỉnh gật đầu.
“Anh thắc mắc giờ nó đang ở đâu?”
“Lang thang quanh lâu đài hoang với lũ ma khác chắc?” Fidelio nhận xét một cách bông phèng. “Thôi nào, tụi mình ra hít thở chút không khí thoáng đãng đi. Không chừng cả đám sẽ thấy một con ngựa đang phi nước đại quanh vườn đó.”
Tất nhiên là nó chỉ giỡn thôi, nhưng ngay khi bốn thằng bé bước qua cổng vườn, Fidelio chợt nhận ra lời nói của mình hóa ra lại thực một cách ma quái. Nó là đứa duy nhất trong bốn đứa không có phép thuật. Fidelio có thể là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng tài năng của nó không thuộc dạng được xếp vào hàng phép thuật.
Charlie chính là đứa chú ý đến vật ấy trước tiên: một tiếng thịch yếu ớt trên bãi cỏ khô ráo.
“Anh có nghe thấy không?” Nó nhìn Gabriel.
Gabriel lắc đầu. Nó chả nghe thấy gì, nhưng có cái gì đó hiện diện trong không khí mà nó không thể xác định được.
Billy bị tác động mạnh nhất. Cu cậu đột ngột lùi phắt lại, nhúm tóc trắng dựng lên theo một làn gió phớt qua mà ngoài nó ra, không đứa nào cảm nhận được. Thằng bé giơ một bàn tay lên tựa như đỡ một cú đấm.
“Nó vừa sượt qua,” Billy thì thào.
“Tụi em tính đánh lừa anh đó hả?” Fidelio nói.
“Không lừa đâu,” Charlie nói. “Giờ nó đi rồi. Có lẽ nó chỉ muốn cho tụi mình biết là nó đang ở đây.”
Chúng bắt đầu băng qua thảm cỏ rộng mà giáo sư Bloor thích gọi là khu vườn của ông ta. Thực ra nó không khác gì một cánh đồng, bao quanh là có rừng cây rậm rạp, gần như không thể chui vô được. Ở cuối sân, những phiến đá đỏ của tòa lâu đài cổ thấp thoáng giữa những hàng cây: lâu đài của Vua Đỏ. Bốn thằng bé đi về phía những bức tường đỏ cao vọi ấy, hầu như theo bản năng.
Ông cậu Paton của Charlie đã kể cho nó nghe chuyện năm người con của Vua Đỏ đã bị ép buộc phải rời vương quốc của vua cha mãi mãi như thế nào khi hoàng hậu Berenice qua đời. Tan nát cõi lòng, nhà vua biến mất vào những khu rừng phương bắc, và Borlath, con trai cả của nhà vua, chiếm giữ lâu đài. Hắn ta trị vì vương quốc bằng sự bạo tàn, man rợ đến nỗi hầu hết các cư dân hoặc là chết hoặc là bỏ trốn trong kinh hoàng.
“Hử?” Fidelio nói. “Mấy người nghĩ là con ngựa ma đó ở đây sao?”
Charlie ngước nhìn lên những bức tường lừng lững.
“Em không biết,” nó ngó Billy.
“Phải,” thằng bé thì thầm. “Nó ở đây.”
Mấy đứa kia lắng nghe thiệt chăm chú. Trên mảnh sân phía xa xa, tiếng đám học trò hò hét và nói cười huyên náo, tiếng một trái banh chạm đất, tiếng chim bồ câu rừng gù, nhưng ngoài ra không nghe được tiếng gì khác.
“Em chắc chứ, Billy?” Charlie hỏi.
Billy co rúm người lại. Nó đang run lẩy bẩy.
“Em nghĩ nó muốn nói chuyện, nhưng nó bị kẹt ở phe kia.”
“Phe kia là phe nào?” Fidelio hỏi
Billy nhăn nhó. “Em không thể giải thích được.”
Charlie chợt cảm giác có ai đó đang đứng đằng sau chúng. Nó quay lại, đúng lúc thấy một bóng người nhỏ choắt vụt đi và lẫn vào đám nam sinh mới đang chơi banh với nhau.
“Ai vậy?” Gabriel hỏi.
“Nhóc mới,” Charlie nói.
Không thể nói được thằng nhóc kia ở khoa Hội họa, khoa Kịch hay khoa Nhạc vì nó không mặc áo chùng. Hôm nay trời ấm áp và nắng đẹp. Mùa hè vẫn chưa hết.
Tiếng tù và rúc vang khắp sân và bốn thằng bé chạy trở vô trường.
Với Charlie, buổi chiều hôm ấy cũng chẳng khá gì hơn buổi sáng. Cuối cùng nó cũng tìm thấy thầy Paltry, nhưng quá trễ cho buổi học.
“Đi học mà không đem theo kèn trumpet thì nói làm gì hả?” Ông thầy già cấm cẳn. “Trò chỉ tổ làm mất thời gian, Charlie Bone. Được ban phép thuật, hừ, vớ vẩn. Sao trò không sử dụng cái gọi là phép thuật của trò để xác định coi cây kèn trumpet của trò ở đâu? Giờ, ra khỏi lớp và đừng có trở lại cho đến chừng nào trò tìm thấy kèn.”
Charlie hấp tấp ra đi. Nó không biết ở đâu mà tìm.
“Tháp Nhạc có không?” Charlie tự hỏi. Dám một trong những người lao công đã tìm thấy kèn của nó và đem cất vô phòng thầy Pilgrim trên đỉnh tháp.
Đường đến Tháp Nhạc phải xuyên qua một cánh cửa nhỏ, trông cổ xưa, gần lối ra vườn. Charlie gồng mình, mở cửa ra và bắt đầu bước vào một hành lang dài, ẩm ướt. Trời tối đến nỗi Charlie gần như chẳng thấy bàn chân mình đâu. Nó cứ dán mắt vô một khung cửa sổ đằng xa trong căn phòng nhỏ hình tròn ở cuối hành lang.
Khi đến gần căn phòng hơn, nó bỗng nghe thấy những tiếng nói, những giọng nói giận dữ - những người đàn ông đang cãi nhau.
Có tiếng bước chân khua. Charlie đứng im thin thít cho đến lúc có ai đó xuống đến chân dãy cầu thang xoắn ốc, dài. Một bóng hình xuất hiện ở cuối hành lang. Cái bóng đó lừng lững tiến về phía Charlie và nâng đôi cánh màu tím lên, che khuất hết ánh sáng.
Bị ngập chìm trong bóng tối, Charlie thét lên thất thanh.





còn tiếp nửa nhưng chưa scan xong
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9