Theo Dòng Lịch sử tiếp theo Đời Nguyễn Tây Sơn (1788-1802) cải đất Quảng Nghĩa phủ thành Hoà Nghĩa phủ.
Năm 1802, vua Gia Long khôi phục Hoàn Nghĩa phủ đặt tên là Quảng Nghĩa dinh, các chức quan cai trị gọi là Lưu thủ, Cai bộ, Ký lục.
Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) chia đặt tỉnh hạt, đổi trấn làm tỉnh, đặt 2 ty Bố Án (Bố chánh và Án sát) thống thuộc với Quảng Nam. Năm 1834 lại gọi Nam trực tỉnh.
Năm Thành Thái thứ 2 (1890) đặt 3 châu: Sơn Tĩnh, Nghĩa Hành, Mộ Đức thuộc Nghĩa Định Sơn Phòng. Năm 1900 triệt bãi Sơn Phòng, đổi 3 châu ấy làm 3 huyện do tỉnh kiêm quản đặt chức Tuần vũ, bổ chức Bố chánh, cai trị 1 phủ: phủ Tư Nghĩa và 6 huyện; Chương Nghĩa, Bình Sơn, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Tĩnh, Đức Phổ gồm tất cả 24 tổng, 426 xã, thôn ấp, trại.
Từ 1909 đến cuối triều Nguyễn (1945) miền trung châu Quảng ngãi được chia thành 4 phủ: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức; 2 huyện: Nghĩa Hành, Đức Phổ gồm 2 tổng, 403 làng. Miền thượng được chia thàng 4 nha: Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ với 27 tổng, 199 nóc; miền duyên hải có nha Lý Sơn 2 làng
Từ ngày 9/3/1945 đến 19/8/1945 tổ chức hành chánh không đổi mấy, chỉ thay tên trên danh từ: Tuần vũ gọi là Tỉnh trưởng, ở huỵện gọi là huyện trưởng, chức Chánh Phó sứ thời Pháp do một cơ quan hiến binh Nhật đảm trách
Từ ngày 18/8/1945 đến ngày 1/1/1954 (ngày hội nghị Trung giả quyết định chuyển giao quyền cai trị trong khuôn khổ hiệp định Giơ-ne-vơ 20/7/1954)
Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân năm 1945, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đình, phủ Tư Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy (Sụy), xã Chánh Lộ lấy tên xã Nguyễn Viện .v.v. Về tổ chức, lập niên xã, bỏ các làng cũ.
Nhưng sau 1 thời gian thay danh hiệu tỉnh, huyện, tổng, xã lấy lại tên cũ. Các phủ huyện, nha trong tỉnh điều gọi tên thống nhất là huyện, gồm tất cả 10 huyện, 124 liên xã. Đảo Lý Sơn nhập vào huyện Bình Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếm đóng tháp nhập hải đảo vào thị xã Đà Nẵng
Năm 1947, ủy ban hành chánh các cấp đổi tên là uỷ ban khánh chiến hành chánh có thêm 2 ủy viên chỉ định ngang, tất cả 7 người. Ngoài ra ở cấp tỉnh có các cơ quan chuyên môn và quân sự:
+ Một tỉnh đội quân dân
+ Ty Công an nhân dân
+ Ty thông tin tuyên truyền
+ Ty Kinh tế
+ Ty tài chánh
+ Ty Trực Địa (thuế quan, trực thu và địa chánh)
+ Ty Công thương
+ Ty Mậu dịch
Đến năm 1952 có thêm ban thuế nông nghiệp:
Từ 1/11/1954 đến 1971 tỉnh Quảng Ngãi được chia làm 10 quận: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ (quận trung châu); Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ (quận thượng). Số xã trong toàn tỉnh có thay đổi, năm 1968 có 1658 xã; năm 1970 theo sự xác nhận của bộ nội vụ 122 xã, 319 ấp. Hai xã ở Hải đảo Lý Sơn tháp nhập vào quận Bình Sơn lấy tên Bình Vĩnh, Bình Yến
Xã Cẩm Thành nằm giữa tỉnh lỵ, trước kia thuộc quận Tư Nghĩa hiện đã tách rời, trực thuộc toà Hành Chánh tỉnh.
Ranh giới Quảng Ngãi lúc còn là phủ Tư Nghĩa dưới đời vua Lê Thánh Tông, từ năm Hồng Đức thứ 2 (1471) giáp phủ Hà Đông (Tam Kỳ) phía nam sông Bến Ván tới đèo Bình Đê.
Năm 1971 ranh giới Quảng Ngãi chạy từ phía nam Dốc Sỏi, xã Bình Thắng (Bình Sơn) giáp chân đèo Bình Đê thuộc xã Phổ Châu (Đức Phổ)
Trải nhiều thế kỷ, dân tộc Chiêm từng lấy miền đất này làm thành luỹ ngăn chặn cuộc nam tiến của dân tộcc Việt. Hiện nay địa phương còn vài di tích lịch sử, thỉnh thoảng đồng bào vẫn còn đào được nhiều tượng đá với nét điêu khắc tuyệt mỹ, tiêu biểu cho nền văn minh Chiêm Thành.
Đến Quảng Ngãi, du khách còn được nghe nói tên 1 số địa phương chỉ tên sông như: Trà Khúc, Trà Bồng, chỉ cửa biển: Sơn Trà. Những tên này có giọng Chiêm vì tiếng Trà do chữ On, Ma, Trà, Chế. Hiện ở xã Tư Hoà, quận Tư Nghĩa còn nhiều gia đình mang họ Chế ở thôn Đông Mỹ (ấp Mỹ Tiên) còn giữ được sắc phong của triều Nguyễn (Bảo Đại)
Phong trào di dân vào đất Quảng Ngãi bắt đầu từ nữa thế kỷ 15 khi Hồ Quý Ly ra lệnh cho dân có của mà không có ruộng ở Nghệ An đem vợ con vào ở để khai khẩn, lại mộ có người trâu đem nạp, cấp cho phẩm tước để lấy trâu cho dân cày. Đời Lê Thánh Tông, sau khi thắng Chiêm về cũng có xuống chiếu mộ dân và đã có những người dân ở vùng Nghệ vượt biển di cư vào đất Quảng
Ngoài những phần tử tình nguyện trên còn có hãng bị bắt buộc di cư vào đất Quảng. Ấy là những tù nhân bị kết án lưu đày, tù xử tội lưu đi cận châu thì sung vệ quân ở Thăng Hoa, đi ngoài châu thì xung vệ quân ở Tư Nghĩa
Đã hơn 500 năm , khi tiến vào nam, công cuộc di dân bén rễ và bành trướng nhanh chóng. Dân tộc Việt dựa trên ý thức quốc gia, cơ sở dân tộc để sinh tồn.
Và xứ qủang, miền Ấn Trà ngày nay, phần đất của quê hương Việt là chứng tích lịch sử trong quá trình nam tiến của dân tộc
(Còn tiếp)