thơ Nghiêm Xuân Hồng
. BỊNH Cành tùng lả ngọn tuyết sương
Thân tàn trăm bệnh biết đường nào ra
Mắt sưng ướt lệ quan hà
Tâm phiền vương giấc hoàng hoa rộn lòng
Ô hô mớ lửa phiêu bồng
Thong dong vỗ cánh thoát lồng nhàn du
Nhẹ tay quờ hái nắng thu
Ðem về rải chốn vi vu bụi hồng
Nghiêng hồn né ngọn quải phong
Hạt mưa Trích Lịch gạn lòng phù vân...
Nghiêm Xuân Hồng
. BỘI TÂM HÀNH (Coeur multiple)
Người về bứt áng mây hồng
Dệt y trăm sắc ngại ngùng lòng ai,
Tôi về mơ giấc mơ dài
Song-hồ-hư ảnh-trăng-cài-sắc-không....
Người về bước nhỏ thong dong
Ngâm ngùi tình muộn vương lòng đỗ quyên
Tôi về mở sách u-huyền
Mưa hoa lãng đãng mấy miền tịch- dương. . .
Người về nhặt nụ hướng-dương
Tô thêm khóe mắt cô-nường Huyền-âm
Tôi về khép cánh hư-không
Bồ đoàn che khắp nửa vòng trần-duyên...
Người về tiệc rượu đảo điên
Chê ly quá nhỏ, hài sen rót đầy,
Tôi về tỉa nhánh trúc gầy
Ðèn khuya rải bóng vơi đầy HOA NGHIÊM...
Người về lìa suối tịch-nhiên.
Chênh vênh gót ngọc, đảo điên nụ cười,
Tôi về gấp áng mây trời
Ôm-trăng-đổ giấc-bên-đồi-Tào-khê....
Nghiêm Xuân Hồng
. CHIỀU TÂM LƯỢNG
Chiều tàn nở nụ tâm hoa
Nắng tàn chợp giấc phai nhòa tình thu
Nửa khuya vượt cửa Thần phù
Khéo tu chẳng nổi vụng tu chẳng chìm
Ðường tâm mờ ảo cánh chim
In hư không nọ sao tìm dấu đây?
Ngàn xưa chót lỡ cuồng ngây
Ðã bao nhiêu thuở lệ đầy biển vơi!
Giờ đây quảng giấc mộng đời
Mơ chùm sao rụng nghiêng trời biển Ðông,
Mơ miền hương-thủy thong dong
Lời kinh hư thực rải lòng huyền-không
Chừ đây thiêm thiếp trăng hồng
Mở tâm vô lượng soi vòng trần ai
Thấy thân bước tới Kim đài
Hóa hình cát bụi hiện ngoài thinh không
Gặp người thiên-nữ thần thông
Tung hoa diệu-ý toại lòng xót thương...
Tỉnh ra thấy bóng cành dương
Lắc lay song cửa vô thường mênh mang
Bãi sông cồn ngọc cát vàng
Lung linh tâm nở giữa tràng khổ hoa...
Nghiêm Xuân Hồng
. GIẤC NGỦ CHIỀU
Nắng vàng từ thuở nguyên sơ
Mây bâng khuâng nối tình thu ngập ngừng
Lá mây mở lớp chập chùng
Lớp nào là lớp huyền tâm hỡi người?
Lá xanh ngậm đắng ánh trời
Mây lơ lửng rải tình đời khó nguôi
Sâm Thương bao thuở chia phôi
Mây xanh mấy độ bùi ngùi tịch dương
Khép xong ủ kín đoạn trường
Nghiêng tâm đổ giấc hoang đường giữa thu
Lạ thay nắng quái phù du
Qua mây chiếu loé thiên thu ngậm ngùi
Tâm tư chìm giấc ngủ vùi
Nắng thu rơi rụng kéo lùi chiêm bao
Muộn màng chẩy trái yêu đào
Bóc lần từng lớp hư hao ngỡ ngàng
Lỡ tay dứt sợi nắng vàng
Phai nhòa nhân ảnh bàng hoàng thu xưa.
Nghiêm Xuân Hồng
. GỬI HỌ VŨ
Người đã đi rồi, ta vẫn đây
Ngàn năm mây trắng, gió thu gầy
Sững sơ lê bước trường quan tái
Chẳng hiểu bao giờ rũ cánh bay...
Ngắt nhành dương liễu tiễn đưa người
Tụng nửa câu kinh vọng tiếng cười
Văng vẳng đâu đây còn nhịp phách
Của người con gái áo hoa xưa
Có nhớ rượu chăng rượu ngậm ngùi
Hồ-trường bảng lảng rót buồn vui,
Rót nơi muôn thuở không-hư ấy
Tưới nở hoa đèn trí-tuệ say
Bốn chục năm qua làn gió thoảng
Có còn chăng vài nét tà huy
Còn chăng vẻ mặt ngậm cười ấy
Và giọng chửi thề tịch mịch say
Ta cũng-nhớ-ngươi- chẳng-nhớ-ngươi
Nhớ ngươi như nhớ bóng thu gầy
Ngàn xưa nhiều kẻ ra đi quá
Ai ở ai đi biết nói gì?
Nghiêm Xuân Hồng
. HÌNH HÀI VÔ LƯỢNG
Hắn qua sông gần hết nhịp phù kiều
Mới nhận thấy lòng-mình-không-xiết-kể,
Lòng vô lượng nhưng hình hài duy chỉ một
Từ sơ sinh trơ trụi có vậy thôi...
Lòng vô hạn ẩn thân-hình hữu hạn
Này hóa-nhi, như vậy chán hay không?!
Trời đất bao la như không ngằn-mé
Xoạc đôi chân sao lấp khoảng mênh mông? ...
Vòm trời sao cơ man như riễu cợt
Cười thầm người chẳng biểt cái chi chi,
Mà chẳng thể giơ đôi tay vít xuống
Ðể che mờ nhưng ánh mắt trêu ngươi.
Khắp nơi nơi lao xao bao giọng nói
Của muông-trùng hoa cỏ hẹn hò nhau,
Mà chẳng thể mang đôi tai khờ khạo
Lén lặng nghe lời thề thốt nỉ non.
Thân thiên nữ tỏa diệu hưong bảng lảng
Mọi cỏ hoa bát ngát tiết tịnh-hưong,
Mà chiếc mũi ngẩn ngơ đầy cát bụi
Chỉ nhận ra như nhuốm vị trần ai.
Sông núi trăng sao trầm-tư-giấc-dài-mộng-tưỏng
Niềm ước mơ dằng dặc ý trìên miên,
Mà chẳng sao phóng ý-tình phổ nhập
Những áng mây chới với buổi hoàng hôn...
Có những lúc soi gương ngắm nhìn vọng-ảnh
Thấy ý tình vô tận bóng phù du!
Hình thô kệch làm sao theo nổi ý
Vào những nơi sâu thẳm mịt mùng khơi? ...
Hắn ước mơ được phân-thân thành vô lượng
Ðể ẩn mình từng hạt bụi cánh hoa,
Ðể có thể phất vung tà áo rộng
Qươ vào trong muôn ức ánh trăng sao...
Huyền hoặc mà thôi... nhưng thực chẳng có gì huyền hoặc,
Vì thế gian này... tuồng huyền hoặc khôn nguôi...
Nên hắn si ngây,
Tiếp tục mơ giấc-mơ-hình-hài-vô-lượng (l)
Ðể gieo mình nơi vô lượng cuộc bể dâu...
Chú Thích
(1) : Chỉ có giáo lý nhà Phật mới có thể nói tới vụ phân thân vô lượng hay hóa thân vô lượng... Các nền giáo lý khác đều chưa dám nói tới vụ này.
Nghiêm Xuân Hồng
. HOA TẠNG TRẦM TƯ Gửi một người đã rũ bỏ bụi trần ai
Mặt trời đã lặn từ lầu nhưng trăng chưa mọc
Bầu trời thăm thẳm chỉ có những vì sao lấp lánh
Như muốn thì thầm nhắn nhủ một điều bẩn dị kỳ...
Mặt trời Ðại bi đã lặn rồi.
Mà vầng trăng Lăng già chưa chịu ló dạng.
Thế gian như trống vắng quạnh hiu
Các hàng trời người đều như quờ quạng
Trong bóng tối đêm sâu,
Chẳng biết nghĩ sao về thân phận mình
Cũng như về bổn lai cái vũ trụ lạnh lùng huyền hoặc này
Ngay đến đàn chim cũng xào xạc thức giấc trong lùm cây
Trong bóng tôi đêm sâu,
Chắc rằng có những đàn tiểu quỷ lũ lượt
Ðương nghiêng ngả cả cười...
Nhưng may thay là vẫøn còn những vì sao
Tương tự những ánh mắt xa khơi.
Ðương muôn thì thầm nhắn nhủ một điều gì...
Khép cánh cứa sài vì thoảng cơn gió lạnh,
Thắp nén tâm hương khơi dậy ngọn đèn hiu hắt.
Lần giở nhửng trang tôn linh, đắm mình theo giòng chữ...
Bỗng thấy bàng hoàng như bơi lội giữa một biển đầy sao. ..
Và thoảng như nghe hiểu lời thì thàm nhắn nhủ
Của các tinh cau thiên chủ
Muốn di ngôn cho các kiếp xưa sau...
Từ thuở không tên. Ai, Ai đã vén lên tấm màn này?
Tấm màn vừa dị kỳ huyền hoặc vừa hết mực hiển nhiên.
Khiến cho, thoạt nghe,
Các loài hữu tình đều dụi mắt thẫn thờ
Vì không tin ở mắt mình, nghi ngờ tai mình
Ai đã nói lên được cái Chân lý không the khác ấy
Về Ðạo lý vậøn hành của vũ trụÏ kiếp sống này?!
Chắc chắn không phải vì một vị vua trời Phạm Thiên sơ thiền nào đó.
Cũng không phải một vị Thượng đế mờ mờ nhân ảnh.
Vì cái tâm lượng hữu hạn làm sao nói được vô hạn,
Cái có số lượng làm sao nói vô lượng,
Cái chưa ra khỏi một thế giới làm sao mô tả thê giới võng
Và cái còn rơi rớt vọng tưởng vọng tình, chấp trước có không,
Thì làm sao luận bàn rốt ráo về hư không??
Ai đã nói lên giáo lý như thực như hư
Về nhịp điệu sở hành của cái Thâøm tâm Diệu quang minh hải ấy ???
Ai đã nói lên những điều khó thể nói, khó thế biết
Từ mẫn nhắc nhở chúng sanh si ngây
Trong các cõi nhiều như hạt bụi...
Chỉ rõ biển Không-hải-uyên-nguyên hào quang sáng ngời không có một vật
Cùng bí ẩn của sự động niệm mê sảng muốn tự chiếu soi
Khiến cho cái vô tận hiến hình thành tận...
Diễn nói về những đám bụi hào quang xoay vần miên viễn
Làm loé lên cơ man còn lốc ảnh-hiện-thức-biến-chập chùng.
Lung-linh-mê-đô-ảo-phố....
Giảng giải rằng tuy mỗi tia-chớp-nháng đều mềm niệm diệt,
Nhưng vì suy động bởi sức nghiệp tương-tợ-tương-tục.
Nên vẫøn hiện lên như có vật và có tác vi...
Nói về nhịp điệu của thâm-tâm-hành
Vừa chu kỳ (cyclique) vừa cực-độ-chuyển-hiện,
Vừa ly-tâm vừa hướng-tâm
Và trong đó, những trạng thái như trái ngược
Vẫn thường thành tựu lẫn nhau...
Diễn giải không ngừng...
Về thời gian không gian ngang dọc huyễn -mộng vọng-tưởng
Chỉ là do nhịp điệu bồng bềnh vô thủy của tâm thức hữu tình
Về huyễn-số, huyễn-tế, huyễn-trí
VềÏ cái tâm đại-ảo-sư nổi cơn cuồng-mị
Dệt nên đại-ảo-thành nhốt kín kẻ u mê!..
Nhắc đi nhắc lại pháp-giới này chẳng thực chẳng hư
Chẳng vật chẳng phi vật
Không đoạn không thường, không lai-khứ, không nhất dị
Chẳng onde chẳng corpuscule
Vì chỉ là ảnh-hiện
Vì chỉ là một trường thức-biến mênh mang
Vì mọi sự-vật đều không mảy may tự-tánh...
Và sự phủ-định không cùng (negation) chính là chuyển
sang sự khẳng định (affirmation) tối thượng
Và hết thảy vô-tự-tánh chính là chỉ rõ nơi thể tánh bờ mé
kho thể chỉ bày...
Ai, Ai là bậc Nan-tư có thể khoan thai từ ái
Nói lên những điều như vậy... ?
Nhưng trong cái màn lưới thế-giới-võng chập chùng
Dệt nên bởi đám bụi trần-ai nghiệp-dĩ,
Ai là những bậc tỏa sức hào quang
Ðể làm nơi nương về của thế giới cùng hư-không?
Ai là bậc có đủ nhãn-lực
Ðể nhìn thấy cả thế-giới-hải bao la,
Chỉ nhỏ như một bông hoa khi nở ra lúc cụp lại
Lại nhìn thấy mỗi hạt bụi cũng nở ra
Thành một thế giới nơi đó có đủ trăm vạn ức
Nhật nguyệt tinh tú Tu di cùng hải hội nhiệm mầu?
Ai là bậc biết rõ va quở trách các thứ thiên đường thấp kém
Của ngoại-đạo còn nặng nề kiến chấp có-không,
Nên chỉ biết loanh quanh lẩn quẩøn nơi mấy tầng trời?
Lại dùng tâm-nhãn tịnh diệu
Vượt ra khỏi tiểu-thiên thế giới,
Ra khỏi trung-thiên, khỏi đại-thiên,
Trải qua kiêp-số, lặng ngắm nhìn các thứ cõi
Hoặc thô hoặc diệu, hoặc uế-tịnh
Ðể chỉ đường cho các chúng sanh hoang loạn
Biết cách xin sang Tịnh-độ thắng duyên...
Ai là bậc có thể hiện thân-vô-biên
Tỏa hào quang bao trùm nhiều cõi
Ðể biết rõ từng hạt mưa, từng tâm niệm chúng sanh?
Là bậc hiện thân mình làm một cõi
Ðể dung chứa chúng sanh lăng xăng ngủ vùi...
Có thể bóp nát nhiều thế giới
Thành vi-trần thành bụi quang minh,
Rồi lại từ vi trần kết thành thế giới
Mà chẳng làm kinh động chúng sanh. . . ?
Ai có thế tùy nghi biến hình các cõi
Làm nơi thắng duyên hay chỗ trả nghiệp của chúng sanh
Ai có thể trụ thân mình trong vô lượng kiếp
Ðể chờ đợi một chúng sanh thành thục căn lành...
Hoặc thay đổi nhịp điệu tâm-hành
Ðem một liếp vào một sát na
Hay kéo dài sát na thành nhiều liếp... ?
Ai, Ai đây!Ai là bậc Nan-thắng này???
Ai có thể nói rằng:
Diệt tận định cây-khô-tro-nguội chưa phải là bờ mé,
Và tầng trời Phi-tưởng kia vẫøn chưa phải Bến cũ tích liêu...
Ai là bậc ra vào thung dung các cơn đại-định,
Lấy một thân nhấp định, lúc xuất lại nhiều thân...
Ai dám nói rằng cơn tam muội có cơ man không xiết kể,
Nhưng mọi sở-hành đều thu gọn nơi Sát-na-tế-phổ-quang minh???
Ai la bậc tùy tâm dọc ngang pháp giới,
Tuy vẫn ngồi bất-động tịch nhiên
Mà vẫn hiện hóa-thân nườm nượp tỏa khắp hư không...
Mỗi bước chờn đi đều chấn động các cõi
Khiến các nẻo mê-đồ thoắt trống vắng rỗng không. .. ?
Ai la bậc giữa những cơn tam-tai kiếp hoại
Làm nổi lên những luồng phong luân rào rạt
Ðẩy các chúng sanh lên những tầng trời sơ-nhị-tam-thiền
Tương tự như làn sóng cồn làm sống lại đám cá tích ngất ngư.. ?
Ai biết rõ chúng sanh dường như mộng-ảo
Song những niềm đau khổ vẫn có thật triền miên...
Ai dám tự nói mình cũng chỉ là huyễn mộng
Mà chẳng ngừng hứng khởi Ðại bi tâm.. .
Ai biết rõ các hạnh đều như mơ, như tia nắng quái
Mà vẫn phân thân hóa độ chẳng ngừng tay...
Ai biết rõ tất cả thế gian chỉ là huyễn hiện
Mà vẫn liên miên biến hóa tràn đầy thế gian... ?
Ai đã ân cần khuyên nhủ
Tất cả chúng sanh
Phải làm con cá tích lội-ngược-giòng năm lớp sương mù
Rồi chỉ rõ các hạnh, các địa,
Các giải thoát môn, các tràng hạnh nguyện,
Mọi thứ tâm hành biến hóa,
Ðể trở thành những bậc
Tuy vẫn ở thế gian mà vẫn siêu xuất thế gian...
Ai là Bậc đã nói lên những điều như vậy,
Khiến cho ngàn trước, ngàn sau,
Trải những kiếp số không thể tính đếm,
Chẳng có một cái gì có thể thoát khỏi
Chân lý vận hành của những lời này... ?
Ai, Ai là bậc Nan ngộ ấy??. ...
Ai là ai vậy, những lời ấy là lời gì?...
Sương khuya đã thấm lạnh miền đất sa mạc
Ðột khởi lên từ đáy biển sâu do một bàn tay nào đó...
Ngọn đèn như heo hút, lụn bấc vơi dầu
Những trang tôn lánh như im lìm mờ nhạt,
Chỉ nghe gió khuya xào xạc...
Thấy hình như, thực ra, chẳng có ai nói cả
Và lời kia chỉ là tiếng vọng thì thầm
Của pháp giới cùng tâm thức lặng thinh....
Trên vòm trời, những cánh buồm sao đã ấn đi mất dạng
Vì trăng tà đã hiện lên
Giữa thinh không
Lững-lờ-không-bạn
Tỏa sáng ngời trên Bến cũ chẳng có một ai...!
Nghiêm Xuân Hồng
. HƯ TÌNH KHÚC
Mây cũng xưa rồi nước cũng xưa
Thu gầy ngơ ngác thoảng hương thưà
Ðất trời thăm thẳm trùng trùng hiện
Nổi khúc hư tình nặng hạt mưa.
Lòng vẫn không hư tự thuở nào
Nẻo đường lẽo đẽo bặt chiêm bao
Nghiêng đầu soi bóng hình tiều tụy
Hái đóa phù dung lạt má đào
Nghĩ tới tình xưa lòng diệu vợi
Thấy hồn thuần khiết tóc phân ly
Thấy chữ ân tình muôn ẩn hiện
Bàn tay gầy guộc lúc phân kỳ
Thoáng mái tóc huyền tung lộng gió
Nụ cười huyền hoặc nét bâng khuâng
Mảnh thân tinh đẩu chòm sao lạc
Mộng ảo chân tình khó nỗi phân
Bằn-bặt hợp chia là thế đó
Là hư là thực nửa hào ly
Vung tay nhịp phách mê-đồ hiện
Bặt khúc hư tình ào phố tan...
Nghiêm Xuân Hồng
. LẠC NẺO CỐ NHÂN
Từ ai tắm suối Hoa Nghiêm
Soi mình giòng nước, khép duyên nụ cười.
Giơ tay vớt ánh sao rời,
Tấm thân cây cỏ ngậm ngùi trúc tơ,
Rừng phong rụng lá ước mơ
Suối trong rũ mộng bên bờ tịch liêu
Rằng xưa... nơi bên Phong Kiều
Vẽ lầm... trăng úa, tiêu điều nhụy hoa..
Trang kinh hồn mộng chói lòa
Nửa cơn địa chấn phai nhòa tang thương...
Lối đi dặm liễu mờ sương
Tấm y hoại sắc vô thường... hư nhiên,
Nhẹ bàn tay ngát hương thiền
Thong dong Bửu nữ tới miền Kim-Luân,
Gặp người lạc nẻo cố nhân
Trao bông linh-thoại ân cần nắng mưa,
Rằng xưa nhiều kiếp hương thừa
Rằng nay mới thực là vừa cơ duyên
cho hay túc trái triền miên
Băng khe tình lụy tới miền thênh thang...
Ai-đi-công-quả-cho-đời,
Cho ta đứng lặng ngậm ngùi chiếc thân...
Nghiêm Xuân Hồng .
. QUA SÔNG NI LIÊN
Niranjana...(*)
Làm sao nối lại giòng tâm tưởng
cho kiếp phù trần chớ lãng quên
Làm sao trả sạch ân tình cũ
Ðề thả một giòng giấc thụy miên?!...
Qua sông Ni Liên, giòng sông cạn
Nhìn cát bạc màu, lòng xót xa
Nhớ một buổi mưa sông đầy ắp
Cùng những bầy chim bay la đà
Chúng tìm gì đây trên giòng nước
Sỏi đá biến thiên nước nhạt nhòa
Có ai lê bước rừng khổ hạnh
Ðể tới vũng sông rửa mắt lòa
Linh Thứu núi xưa mặt trời hồng
Nửa khuya biến hình thành trăng lu
Có ai gõ trống trên ghềnh đá
Bàng bạc thinh không hoa trời sa
Ngày về bỗng nhận tập “Ðọc kinh “
Của người gửi tới từ hiu quạnh
Ý tưởng ngẩn ngơ lời ngập ngừng
Bàng hoàng như cười như rơi lệ...
Chú Thích:
(*) Ni Liên Thiền hay còn gọi là Ni Liên Hà, chảy gần núi Tượng Ðầu và gần xóm Ưu Lâu Tần Loa, trong nước Ma Kiệt Ðà (Nay là Bồ Ðề Ðạo Tràng, bang Bihar, Ấn Ðộ). Ðức Thích Ca từng ở đây tu khổ hạnh suốt sáu năm. Cuối cùng Ngài hiểu là lối tu khổ hạnh này không thể đưa đến sự giải thoát và từ bỏ lối tu này. Một tín nữ ở làng kế cận dâng ngài bát nước cháo (milk-rice) và Ngài xuống sông Ni Liên tắm gội...
Nghiêm Xuân Hồng .
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.06.2006 05:08:56 bởi sóng trăng >
. SAY VÀO HOA TẠNG
Xưa kia Lý Bạch [1] sầu vô lượng
Hát khúc trầm kha theo Khuất nguyên,
Trăng hồng chênh chếch trời mã não
Ðáy nước mò trăng có ảo huyền?
Xót người mặt phấn duyên đòi đoạn
Hay thấy kiếp người luống nhọc công
Thấy lòng phiền muộn không bờ bến
Lại gặp trăng gầy úa sắc- không?
Họ Lý ngang tàng vang một thuở
Nhưng chưa hề hiểu mộng "Cuồng Ngây",
Si ngây ôm mộng nghiêng trời biển
Mà vẫn thung dung nửa tỉnh say....
Ðáy thẳm không hư còn lồng lộng
Nghiêp-dĩ ngàn xưa mây trắng bay,
Xá chi một mảnh trăng phiền muộn
Mà phải ngậm ngùi mấy kiếp say !
Chẳng thấy Trang châu [2] người áo vải
Ðêm thu lất phất hạt thu bay,
Co tay đổ giấc mơ làm bướm
Cùng với trăng xanh lờ lững say.
Hãy học gương "Cuồng" người Ðồng-Tử [3]
Si ngây ngồi lặng ngắm trùng dương
Trùng dương bất tận tràn hư ảnh
Mà chẳng giăng sầu lụy vấn vương!
Học người Ðồng tử miền Hoa tạng [4]
Túy lúy càn-khôn một lỗ lông,
Thấy Sái-cam-lồ bừng chiếu sáng
Hào quang muôn trượng... dạ thong dong!
Ðáy nước mò trăng, trăng nào thấy
Chỉ thấy muôn vàn đốm lửa yêu,
Hãy mò Tâm để quang lồng lộng
Một điểm Không-hư vạn kiếp đầy...
Chú Thích
Hoa Tạng : Tức Liên Hoa Tạng thế giới, tên cõi Tịnh độ của Phật Tỳ Lô giá na, được nói tới nhiều trong kinh Hoa Nghiêm. Theo đó ở biển Hương Thủy mọc ra một đoá Ðại Liên Hoa, trong hoa sen bao gồm thế giới nhiều như bụi nhỏ. Tóm lại, thế giới Liên Hoa Tạng hay Hoa Tạng là tên gọi chung các cõi báo độ của chư Phật, và ở đây hiểu đơn giản là cõi Phật theo tinh thần kinh Hoa Nghiêm.
Ðồng Tử :Thiện Tài đồng tử, tên một đệ tử của Phật. Theo kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp giới, thì đồng tử Thiện Tài từng theo học với 53 vị thiện tri thức, và người độ cho Thiện Tài là hai bồ tát Di Lặc và Văn Thù. Ở trong các chùa bên trái tượng bồ tát Quan Âm có đặt tượng đồng tử Thiện Tài, là lấy tích khi Thiện Tài đi tham học 53 vị thiện trí thức, đến vị thứ 27 mới có duyên gặp được Quan Âm đại sĩ, và trở thành vị hiệp sĩ của bồ tát.
Chuyện Lý Bạch, thi hào đời Ðường, theo truyền thuyết khi uống rượu say trên thuyền nhìn thấy ánh trăng ở đáy sông rất đẹp, ông nhảy xuống định vớt trăng lên mà chết đuối, chắc nhiều người đều biết. Nhắc lại để thấy đó là một thứ “si mộng” thôi được coi là thi thoại đẹp.
Chuyện Trang Châu (Chu) hay Trang Tử, cũng dược nhiều người nhớ. Ông là triết gia lớn thời cổ đại Trung Hoa, sống thanh đạm, cơm giỏ, nước bầu, co tay làm gối, khi ngủ nằm mơ thấy mình hoá thành bướm bay rất thảnh thơi. Lúc tỉnh dậy cứ băn khoăn không biết ông đã mơ hoá bướm hay bướm mơ thành Trang Chu, và câu chuyện đó trở thành một “suy tư” có tính cách triết lý về chân giả, thự hư trong cuộc sống.
Tôi nghĩ bài thơ này ông Nghiêm Xuân Hồng làm vào lúc để hết tâm chú giảng rất công phu phẩm Nhập Pháp Giới, trong kinh Hoa Nghiêm, và sau được in thành ba hay bốn quyển.
Nguyễn Hữu Hòa Chú Thích
Nghiêm Xuân Hồng
. TRĂNG CÀI CỔ ÐỘ
Như kẻ si ngây, hắn lữ hành từ cổ độ,
Trải hình hài vô lượng bến phù hoa
Mái tóc biếc nhuốm ngàn lần ánh bạc
Vẫn chưa sao bặt hết ý bình bồng
Nằm nơi đây, lắng sóng cồn xào xạc
Hắn mơ màng một giọt lửa tinh-vân
Rớt xoáy trái tim, cháy hừng hực đỏ
Ðốt tan tành kiếp sống chỉ trăm năm.
Từ thuở xa khơi đã từng nhiều kẻ
Quảng hình hài mong nhập suối hư-vô
Hóa thành cây thông lạnh lùng réo rắt
Hay hòn đá lỳ đổ giấc vạn năm... .
Nhưng hởi ơi! hư vô cũng vẫn là hoài vọng
Hòn đá kia đâu có thật vô tri!
Và sống chết chẳng cắt nổi giòng thức-giấc
Chẳng thể ngừng mừng sợ lẫn say mê...!?
Lạ thay! Lạ thay! Chẳng sao ngừng tri giác
Chẳng sao ngừng làm lóe ánh hư-minh
Tựa lớp mù-sa bàn tay yêu huyễn
Dệt ảo-thành nhốt kín kiếp phù-sinh!
Tử thuở không tên đắm mình giòng hư-ảnh
Hết chuỗi nầy lại chuỗi khác nổi lên
Các thứ ước mơ theo nhau trổi dậy.
Vung bàn tay nắm bắt: chỉ hư-không
Hư ảnh mà thôi, chẳng gì ngừng chảy
Chẳng có gì nán lại giữa vòng tay
Giấc mộng xa xưa lâu đài yêu-mị
Nay tiêu chìm nơi nắng quái hoàng hôn
Nhưng dị kỳ thay! Hắn lặng lờ khép mí,
Lắng quên mình, quên tiệt mộng phù hoa
Bỗng thấy nổi lên từ đáy từng vực thẳm
Mảnh trăng cài nơi cổ độ hoang vu...
Hoang vu hoang vu! Chẳng còn một vật.
Chỉ diệu-huyền vằng vặc ánh trăng xanh
Xanh thắm trong veo xanh bát ngát:
Duy một con-tằm-hóa-bướm lững lờ bay?
Nghiêm Xuân Hồng .
. TRANG KINH XANH NGẮT
Thần thánh xa rồi...rớt lại đây
Trang kinh xanh ngắt dưới trăng gầy
Chong đèn mờ tỏ lần tờ cũ
Tinh đẩu quay cuồng lộng gió bay...
Chạnh nhớ tiền thân mộng liêu trai
Hồn ma quỷ mị rỡn trăng say,
Cô gái hồ ly đa phấn diện
Gỉa hồn thục nữ ghẹo chiêm bao
Mới thấy lưới tình man mác quá
Tình dài đằng đặc hận miên man
Tình giăng lồng lộng...ai ra khỏi
Làm khách phiêu bồng đi thế gian?
Lại nhớ tiền thân đọc Lão Trang
Nghe hồn hóa bướm dưới hoa vàng,
Ch hay mộng tuý trường sinh ấy
Kết tưởng liên thành cảnh Nhược tiên...
Tình tưởng là chi mà gớm thế
Là trùng là điệp chẳng gì ngăn,
Tuyệt không ngằn mé...Ai là kẻ
Giăng mắc tưởng tình kín thế gian?...
Nay tụng Trang kinh thấy rõ ràng
Tờ hoa lặng lẽ HIỆN trăng vàng
Trăng vàng bỗng vỡ thành muôn mảnh
Hóa hiện hình hài ngập thế gian...
Là tỉnh là say là vậy đó
Là tâm mê sảng hiện trần ai
Trần ai lớp lớp trùng trùng xoáy
Khởi đại phong luân vẽ thế gian
Trăng chiếu tiền thân vô lượng cõi
Lúc vinh lúc nhục cảnh phù hoa
Hiện thân sư tử nghênh đầu núi
Lại hóa muôn trùng núp cánh hoa...
Vô lượng tình duyên như bỗng dứt
Mộng tuý trường sinh cũng dứt thôi,
Thân vẫn bước giữa bờ sanh tử
Mà lòng bát ngát huệ vô sanh...
Nghiêm Xuân Hồng .
. VARANASI
Hắn đứng trơ đây, lặng nhìn thiên đường vỡ lở,
Những mảnh thiên đường tan tác giữa trần gian.. .
Ðất của Maya, của những lingams* sừng sững,
Của Shiva ôm nghẹt nữ thần Shakti. ..
Ðất của những kẻ đạo sĩ trần truồng như nhộng
Ngạo nghễ đứng trên kè đá dọc sông Hằng,
Soi mình xuống giòng sông như ngắm nhìn cửa âm môn mở rộng
Của những loài nữ quái trùng điệp sóng Ganga...
Của những kẻ Ni-kiền, bốc bã rượu trong chiếc sọ người
Ðể nhắm đưa cay miếng thịt rữa của thây ma,
Hoặc ăn phân mình, uống nước tiểu chính mình
Bài bác nhân quả, tự cho là La hán hiện thân.
Hoặc của những bậc đạo sĩ khá cao siêu như Uất Ðầu Lam Phất,
Triền miên trong cơn định Phi Tưởng, tự cho là Niết Bàn tịch tĩnh,
Của những bầy ăn mày đui mù què cụt đông như bầy ruồi,
Và của những ngõ hẻm không cùng trùng điệp của vọng thức chúng sanh...
Nơi đây, nơi đây... từng nổi lên trong giấc mơ của hắn,
Từ những trang kinh huyền hoặc khôn dò...
Nơi đây hình như là điểm của đất trời giao hợp
Ðể các tiểu thần linh lởn vởn ve vãn gái trần gian...
Nơi đây, nơi đây vừa mịt mùng cát bụi,
Vừa êm ả như của ngõ nước Nhược non Bồng
Nên hắn lê gót tới đây, để đứng trơ bàng hoàng ngơ ngẩn
Chẳng hiểu mình ở thiên đường hay cửa địa ngục trần gian. . . ?
Nơi đây từ lúc rạng đông đã văng vẳng tiếng sáo Krishna,
và giữa đêm trường tịch mịch, vẫn có tiếng hát nghêu ngao tán thán thần Shiva,
Nơi đây có mặt trăng lưỡi liềm ẩn hiện,
Như tranh tối sáng với mặt trời lúc sắp rạng đông...
Nơi đây có những đàn quạ lúc bay cao rợp bóng tầng mây,
Lúc sa xuống những ngõ hẻm không cùng tranh nhau mấy miếng ruột hôi thúi...
Có những thây ma cháy dở vang mùi khét lẹt,
Và những đám người cùi hủi há hốc chiếc miệng không môi...
Có những người đàn bà gầy guộc vú nheo chẳng khác con la con ngựa,
Nhưng cũng có những người con gái mặc sarees nhiều màu như chiếc cầu vồng,
Mắt biếc như hồ phương Tây,
Và nụ cười huyền hoặc như tượng nữ thần Durga. . .
Nơi đây có những bầy khỉ trầm tư giấc mộng tiền thân,
Những bầy trâu đen bóng loáng, những con thằn lằn óng ánh đổi mầu,
Có những đống phân trâu bò cao như gò nống,
Và những giàn hoa vàng gầy phủ kín mái tranh...
Nơi có những buổi chiều êm ả như lướt đi trong mộng,
Hang cùng ngõ hẻm đều bảng lảng các thứ mùi hương,
Mùi hương trầm, hương chiên đàn cùng hoa cỏ,
Xen lẫn với mùi cống rãnh cùng các thứ mùi phân...
Nhưng bao trùm trên hết vẫn là Ganga Goddess,
Khởi đầu từ miền Tuyết sơn đất trời giao hợp,
Mỗi năm lại dâng những ngọn sóng trùng điệp đục ngầu
Ðểp hủ kín thành phố Kashi như ôm lấy người tình muôn thuở. . .
Cũng vì nơi đây nửa thiên cung nửa tiền địa ngục
Nên bậcTĩnh mặc Vô thượng đã lựa chọn để xuất hiện với trần gian...
Vì cạnh nơi đây là khu rừng Sarnath
Bát ngát những tàng cây xanh mướt như mặt biển Tâm. . .
Chính vì nơi đây là thành trì của mọi tà kiến trùng điệp,
Của những kẻ Hư vô ngông cuồng thách đố,
Của những đạo sĩ đắm chìm trong niệm thiền lạc thiên cung,
Nên bậc Tuệ Giác Vô Thượng đã đặt bước chân thiên bức luân đầu tiên,
Tới nơi, gõ cửa thành trì,
và dạy rằng:
Tất cả mọi lòng mong cầu hoài vọng xoay vần từ vô thủy,
Ðều tạo dựng nên những hình thái hiện hữu,
Và mọi hình thái hiện hữu
Ðều chỉ có một mùi vị khổ đau...
Dù là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ
Vẫn chỉ là mộ mùi vị khổ đau...
Tất cả đều là do những tập khí vọng tưởng
Xoay vần miên viên từ vô thủy
Và các ông chưa thông suốt được những cửa ngõ Diệt tận
Ðể tận diệt những vọng tưởng điêu linh,
Những người Bà La Môn các ông chẳng phải thật Bà La Môn,
Và Sa Môn các ông chẳng phải thật Sa Môn
Và Bà La Môn các ông chỉ là kẻ thủ từ ngồi thu oản chuối,
Và Sa Môn các ông chỉ biết mơ tưởng thiên cung,
Ðắm chìm trong những cơn tam muội nông cạn đảo điên
Thì làm sao siêu xuân được tam giới.?
Ngay đến vị thần Shiva của các ông
Cũng chưa phải là cao cả tốâi thượng,
Chỉ là một vị vua trời vào mức Ly Cấu Nhị Ðịa,
Mà cũng chẳng thể tạo dựng nên thế gian nầy
Vì thế gian này chẳng phải tự sanh, chẳng tha sanh, chẳng cộng sanh,
cũng chẳng phải không nhân,
Vì thế gian này chỉ là một tuồng huyễn mộng, một tuồng huyễn hoặc khó nguôi...
Hắn chợt nhớ được mấy lời kinh
Thấy lòng vui mừng khắp khởi,
Vội vã rời thành Kashi
Ði xe lôi để vào Samath...
Tới nơi chỉ thấy tàng cây xanh um bát ngát,
Và mấy con dê thơ thẩn giữa đường...
Sực nhớ đây là vườn Lộc Uyển,
Nên hắn mua nải chuối
Cúng dường mấy con dê lang bạt...
Lại cũng sực nhớ đây là nơi
Mà bọn 5 người của ngài Kiều Trần Như
Từng rớt tóc rụng râu và trút phiền não,
Nên hắn nhờ một ông thợ cạo ngồi xổm lề đường
Xén cụt mái tóc phong sương
và phải trả mất 4 rupias....
Rồi khoa chân lảng đảng
Bước vào một ngôi chùa gần đó,
Thấy một bầy chim màu hoa lý xào xạc rúc rích trong tàng cây,
Lại thấy một ông sư già mặt nhăn nheo như quả táo tầu,
Ðương ngồi xoạc cẳng gõ thanh la, lớn tiếng niệm kinh...
Hắn chẳng hiểu gì về lời kinh chữ nghĩa lạ hoắc,
Nhưng cũng đoán mò đó chỉ có thể là Ðại Bi và Bát Nhã,
Vì chẳng thể nào khác được...
Nên hắn đến gần vị sư,
Cúi xuống lấy tay sờ vào bàn chân khô như que củi
Rồi đặt tay lên đầu mình...
và bồi hồi tự nhủ:
Thôi ! Thôi ! Hãy về bứt trái tim hồng,
Bóp tim nhỏ máu trên giòng Hoa Nghiêm....
Chú Thích:
Thành phố Varanasi
Lingrams
Nghiêm Xuân Hồng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.06.2006 05:31:37 bởi sóng trăng >
. VẼ MẠN ÐÀ LA
Tôi vẫn đi giữa đôi bờ mê tỉnh
Lòng ngạt ngào niềm ước vọng triền miên
Nửa xót xa như tuyệt vọng không bờ
Nửa khấp khởi những chân trời hé rạng
Tôi chẳng hiểu lòng mình tràn-đầy-vơi-cạn
Sóng gợn mênh mông mặt nước biển Ðông
Hay héo hắt tựa ao tù rêu phủ
Cạnh bến bờ lau lách quạnh hiu
Tôi khép mắt gợi lên những tinh hà vô hạn
Góc biển chơn trời lúc nhúc cảnh đau thương
Những hạt bụi vô vàn không xiết kể
Bỗng biến hình thành biển cả tang thương
Cũng thấy những hình hài la đà nữ quái
Lốm đốm tinh vân đốt rực sức mê say
Vết ruồi son trên làn da đọng tuyết
Bỗng lắc mình thành vực thẳm trùng khơi
Thấy thân mình hiện hình trên các cõi
Lúc rỡ ràng như nét vẽ đọng hào quang
Lúc lờ mờ như đám bèo rêu phủ
Và trong thân lúc nhúc những thi trùng
Nhưng ở trên, trên tất cả
Chỗ tận cùng của các cõi, các vi trần
Bỗng thấy nổi lên một vùng hào quang rạng ngời sáng chói
Của các bậc Thần linh ngồi nơi hải hội nhiệm mầu
Hỡi các bậc Thần linh tịch nhiên bất động
Xin đừng động thân, vì chẳng cần gì phải động
Chỉ xin giơ một ngón tay trăm báu
Tỏa luồng hào quang quán đảnh tới đầu tôi
Như xưa kia, Ngài Văn thù chẳng hề thèm động bước
Chỉ đứng xa di động nửa bàn tay
Ðể quán đảnh một Thiện tài đầy ngưỡng vọng
Khiến tràn đầy niềm diệu lạc vô biên
Tôi cũng là Thiện tài đây, nhưng Thiện tài chìm nổi
Là Thiện tài cuồng vọng động Phù vân
Xin ban cho lồng lộng phút giây này
Ðể rũ sạch buồn phiền từ thạch kiếp
Tôi cũng là đồng tử đây vì tầm hồn si dại
Vì tâm hồn đầy ảo tưởng cuồng ngây
Những cơn lốc từ nguyên sơ nổi dậy
Huyền hoặc hiện hình Long nữ đa đoan
Tôi chẳng sống bằng cơm khí trời lửa nhật
Mà chỉ sống chờ cơn giao hợp phút giây này
Một phút giây đất trời ngơ ngác
Chợt tan tành giữa mây sáng diệu nghiêm
Xin biển thức tâm tôi thành hoa đàm Không tuệ
Biến ái tâm thành lượn sáng Hóa thân
Ðể vỗ cánh vượt muôn trùng không xiết kể
Ẩn thân mình làn mây sáng lung linh
Mộng xưa giờ đã thôi rồi
Mộng nay còn luống ngậm ngùi mấy thân...
Nghiêm Xuân Hồng
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: