Ẩm thực Huế
Chè xách:
Ban đêm ở Huế thường có những o xách chè đi bán "với gia tài gồm có vài ba cái om nhỏ chồng lên nhau, đặt trong chiếc gióng ngắn xách bằng tay. Ly, chén, muỗng, đồ nghề linh tinh và cây đèn bão lù mù được xếp đặt và mang ở tay bên kia gọn gàng như người đi du lịch. Tuy đi trong đêm khuya mà mấy o vẫn bận áo dài và muốn giữ lễ nghĩa với các quan tuần tra sông núi vô hình" (Theo Trần Kiêm Đoàn trong "Về Huế").
Chén đá dao tre: một khía cạnh đặc biệt khi ăn bánh bèo ở Huế mà hiện nay các hàng quán ở chân núi Ngự Bình còn giữ tục lệ là bánh bèo được "đổ" trong chén đá với nhiều mẻ sứt vì khi vớt bánh ra, chén đang nóng nên phải vất mạnh ra ngoài. Khi ăn bánh, không dùng đũa mà dùng dao nhỏ bằng tre để cạnh bánh ra khỏi chén và cắt thành từng miếng nhỏ để ăn. Nước mắm có xắn ớt xanh đổ vào ngay trong chén để húp cùng với bánh và nhuỵ tôm. Ăn xong, chén được chồng lên nhau để đếm xem ai là người ăn nhiều nhất, tức mạnh nhất, một thú vui của tuổi học trò xứ Huế.
Ghẹ (vò vọ): một loại cua ở vùng nước lợ (Ghẹ Lăng Cô ngon có tiếng).
Heo cỏ:
thứ heo giống nhỏ nhưng thịt rất ngon, ở Huế nuôi dưỡng công phu, mỗi ngày ăn cám nấu trộn với dưa chuối vằm nhỏ. Thịt heo cỏ ăn giòn, thơm, không ngấy và không hôi, nấu bún bo ăn không chán. Miếng thịt heo thường gồm cả mỡ và da, cắt thành lá dày và cuốn tròn lại. Tô bún bò múc ra với miếng thịt mỡ trên mặt và thêm miếng giò heo chẻ đôi, mùi thơm toả lan, cả mùi cả vị đều hấp dẫn, đặc biệt xứ Huế hoặc xắt mỏng làm "thịt phay" ăn với tôm chua và rau sống.
Nem tré:
Ở Huế, nem và tré là những món ăn hầu như cổ truyền trong gia đình, trong những ngày kỵ giỗ, khi tiếp khách...Theo Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ thì "nem là thịt được quết nhuyễn, trộn với thính rồi gói chặt trong lá chuối". Thính là gạo răng vàng giã thành bột, dùng làm tác nhân gây ra sự lên men. Nem gói ngoài là lá chuối, bên trong là lá vông. Có thể lá vông được dùng để chống bệnh sán lãi gây ra do thịt heo sống."Tré là thức ăn bằng thịt heo ram xắt nhỏ trộn da heo luộc cũng xắt nhỏ, cùng chút ít gia vị như riềng, thính, rồi gói bằng rơm, lá tranh hay mo cau, vặn hai đầu thành đùm để dành ăn lâu".
Nem (củ ném): các nơi khác gọi là "hành tăm", loại củ nhỏ trong trong như củ hành thường dùng để nấu ăn. Dân Huế hay dùng củ ném giã nhỏ trộn với muối để xoa đắp trên trán và trong người mỗi khi sốt vì cúm. Có khi củ ném được xâu thành một chuỗi như chiếc vòng để đeo quanh cổ tay, cổ chân hoặc như một cái kiềng ở cổ để chữa bệnh suyễn.
Nem lụi:
nem xâu qua que nhọn rồi đem nướng (Mùi nem lụi thơm lừng).
Ngọc Thanh Thủy
(Trích từ Tự điển tiếng Huế của Bùi Minh Đức