Tìm cuốn "Thất kiếm hạ Thiên Sơn' của Lương Vũ Sinh
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 36 bài trong đề mục
ngockylan_77 05.07.2006 12:26:18 (permalink)
Mấy ngày hôm nay xem trên kênh Hà nội thấy đang chiếu bộ phim này, nhưng mình tìm trên thư quán thì không thấy có, ai biết xin chỉ dùm mình với. Thanks nhìu nhìu
#1
    hangthieulong 05.07.2006 23:03:50 (permalink)
    trên vn thư quán có mà ,bạn đánh tên truyện rồi tìm thử đi
    #2
      phanphucluan 31.10.2012 15:08:36 (permalink)
      Còn có tên khác không bạn ơi vì mình tìm trên vnthuquan chỉ có 5 truyện của Lương Vũ Sinh là:

      Ảo Kiếm Linh Kỳ
      Cái Bang Thập Ác
      Đại Đường Du Hiệp Ký
      Hiệp Cốt Đan Tâm
      Vân Hải Ngọc Cung Duyên
      #3
        casau 01.11.2012 15:53:08 (permalink)
        Thất Kiếm Hạ Thiên Sơn
        Tác giả: Lương Vũ Sinh
        Dịch giả: Cổ Nguyệt

        [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/46767/95C3AD46D37A4469AD0D0E4EF4D93090.jpg[/image]

        Phần mở đầu
        Một bài từ cũ mùa thu nam quốc hồn chơi vơi
        Mười năm ly tán phòng thêu một mình kiếm khí lạnh


        Tiếu giang hồ lãng tích thập niên du, không phụ thiếu niên đầu. Đối đồng đà hạng mạch, ngâm tình miểu miểu, tâm sự du du! Tửu Lãnh thi tàn mộng đoạn, Nam quốc chính thanh thu. Bả kiếm thê nhiên vọng, vô xứ chiêu quy châu.
        Minh cựu thiên nhai lộ viễn, vấn thùy lưu sở bội, lộng ảnh trung châu? Số anh hùng nhi nữ, phủ ngưỡng cổ kim sầu. Nan tiêu thụ đăng hôn la trướng, đàm hoa nhất hiện hận nan hưu! Phiêu linh quán, kim qua thiết mã, bính táng hoang khâu!
        Theo điệu “Bát thanh Cam Châu”.

        Tạm dịch:
        Giang hồ biền biệt mười năm, phụ lòng chàng trẻ tuổi. Gặp nhau xứ khách tình mong manh, tâm sự mênh mang! Rượu lạnh thơ tàn mộng đà dứt, trời đang lúc thu. Buông kiếm nhìn xa xăm, biết về đâu chốn nao.
        Mai kia chân trời vẫn nơi xa, hỏi có ai người giữ chút tình? Anh hùng nhi nữ, nghiêng ngả cùng sầu thiên cổ. Khó tan khối u sầu, hoa đàm vừa nở hận khôn nguôi! Trôi dạt mãi, qua vàng ngựa sắt chôn vùi gò hoang!

        * * * * *
        Đêm thu miền Nam trời không gợn mây, vầng trăng sáng ngời treo giữa bầu trời. Lúc này trời đã khuya, vạn vật chìm vào giấc ngủ vùi, chỉ có phủ Tổng binh Hàng Châu là vẫn còn nghe tiếng cười nói ồn ào.
        Hôm nay là đêm trước ngày xuất giá của con gái quan Tổng binh. Quan Tổng binh người Kỳ (Mãn Châu), họ Nạp Lan, tên Tú Cát, là một trong những khai quốc công thần của nhà Thanh, năm xưa theo Đa Nhĩ Cổn nhập quan, chinh chiến hơn hai mươi năm mới được thăng lên đến chức Tổng binh Hàng Châu.
        Con gái của ông ta tên gọi Minh Tuệ, danh rất hợp với thực, nổi tiếng thông minh xinh đẹp trong chốn quyền quý. Nạp Lan Tú Cát không có con trai, bởi vậy xem nàng như viên ngọc quý, từ nhỏ đã mời thầy giỏi dạy dỗ, ban ngày tập võ, ban đêm học văn, đúng là một bậc kỳ nữ văn võ toàn tài.
        Từ sau khi Nạp Lan Tú Cát được thăng làm Tổng binh, một vị thân vương có họ xa với hoàng gia mến tiếng con gái của ông ta nên đã cầu thân cho con trai của mình. Con trai của thân vương này tên gọi Đa Thích, kể ra tên tuổi cũng lừng lẫy, là một trang hảo hán nổi trội trong người Kỳ, từ nhỏ đã có thể cỡi ngựa bắn cung, tài cỡi ngựa hay thuật đánh kiếm đều hơn người, năm hai mươi hai tuổi đã từng theo quân tây chinh, bình định Chuẩn Cát Nhĩ và Đại, Tiểu Kim Xuyên, năm nay vừa tròn hai mươi tám tuổi nhưng đã được phong làm Đề đốc, có thể nói là một viên tướng trẻ tuổi nhất trong chốn quyền quý. Nạp Lan Tú Cát có được một đứa con rể như thế đúng là thêm hoa trên gấm, mừng càng thêm mừng.
        Nhưng trong đêm trước ngày xuất giá, Nap Lan tiểu thư lại nước mắt lưng tròng, tay cầm mảnh giấy chép bài từ, khi đọc đến câu “Nan tiêu thụ đăng hôn la trướng, đàm hoa nhất hiện hận nan tu”, thì nàng không kìm được nữa, nước mắt tuôn ra lả chả, một lúc lâu sau mới gắng gọi được hai chữ “nhũ mẫu”.
        Người nhũ mẫu này chính là bảo mẫu của nàng, chính bà ta đã chăm sóc Nạp Lan tiểu thư ngay từ khi còn nhỏ, bởi vậy thân hơn cả cha mẹ ruột. Lúc này nhũ mẫu đang ngủ ở phòng ngoài, nghe tiếng nàng gọi bước vào, thấy nàng như thế thì không khỏi nói: “Tiểu thư, sao phải khổ thế? Phu nhân biết sẽ đau lòng.
        Tiểu thư, tôi khuyên tiểu thư nên quên chuyện xưa đi thôi...”.
        Nạp Lan tiểu thư cắt lời bà: “Nhũ mẫu, cứ mặc con, con cầu xin người hãy mang tiểu Bảo Châu đến đây, con muốn nhìn lại nó!”
        Nhũ mẫu lắc đầu thở dài, cuối cùng vẫn nói một tiếng “vâng” rồi lui ra ngoài.
        Ngay lúc này chỉ thấy ánh đèn bên cạnh cửa sổ chao nghiêng, có gió lướt tới, một bóng người phóng tọt vào bên trong.
        Đó là một thiếu niên anh tuấn, dưới ánh đèn có thể thấy khóe mắt chàng thoáng hiện nỗi bi phẫn, chàng nhìn thấy trên tay Nạp Lan tiểu thư chính là bài từ mà chàng đã viết, trên mảnh giấy lấm tấm nước mắt.
        Chàng cười buồn rồi nói: “Muội muội, hôm nay là ngày đại hỉ của muội!”
        Nạp Lan tiểu thư nhìn lên, nước mắt tuôn rơi lả chả, nói: “Chả lẽ huynh cũng không thể hiểu cho nỗi khổ của muội, còn hờn trách muội sao?”.
        Chàng thiếu niên bước tới, nói nhanh: “Chả lẽ chúng ta không thể bỏ đi.
        Nam xuống Bách Việt, Bắc lên Thiên Sơn, bốn biển rộng lớn lẽ nào không có nơi cho chúng ta náu thân sao?”.
        Nạp Lan tiểu thư không ngẩng đầu lên, nàng buồn bã nói: “Ai bảo huynh là người Hán?”.
        Thiếu niên ấy biến sắc, cười ha hả nói: “Tôi còn tưởng cô nương là nữ trung hào kiệt, té ra cô nương là một nữ nhi hiếu thuận của hoàng triều họ Ái Tân Giác La!”.
        Nói chưa dứt lời chợt nghe tiếng tù và rúc lên, trong vườn tên bay loạn xạ. Chàng thiếu niên trừng mắt, đột nhiên buông tay, cười lạnh nói: “Nếu cô nương muốn lấy mạng tôi thì cần gì phải dùng quỷ kế như thế? Tôi sẽ xuôi tay cho cô nương bắt trói, coi như là tặng một món quà lớn trong ngày tân hôn của cô nương!”.
        Nạp Lan tiểu thư vốn đang cúi đầu khóc thút thít, lúc này nàng cũng hoảng lên, hoa dung thất sắc, run rẩy nói: “Huynh... huynh sao lại nói những lời như thế!”.
        Chàng thiếu niên tiến sát đến cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy có mấy mươi ngọn đèn Khổng Minh sáng trưng như ban ngày, tiếng người quát tháo ồn ào chạy dồn ra cửa đông như nước triều, nhưng lại không ai chạy về hướng mình, rõ ràng chẳng phải đối phó với mình, chàng thiếu niên cũng ngạc nhiên. Không lâu sau tiếng người dần dần nhỏ lại, từng ngọn đèn Khổng Minh tắt phụt.
        Chàng thiếu niên quay đầu lại toan lên tiếng thì chợt nghe bên ngoài cửa có tiếng bước chân vọng tới, chàng xoay người nấp sau màn, chỉ thấy cửa mở ra, nhũ mẫu của Nạp Lan tiểu thư cõng một đứa bé gái hớt hải chạy vào nói: “Tiểu thư, nghe nói đại lao có người cướp ngục, đêm nay đa số vệ binh đều ở đây, phía bên đó người không đủ, một số tù phạm đã chạy thoát, nên lúc nãy người ta mới vội vàng điều người ở đây đi, tiểu thư có sợ không?”.
        Nạp Lan tiểu thư im lặng không đáp, nàng đưa tay đỡ lấy đứa trẻ. Đứa trẻ khóc òa lên, chàng thiếu niên ở sau màn nhảy tót ra.
        Nhũ mẫu giật mình, khi nhìn rõ lại thì nói: “Dương công tử, xin ngài tha cho, mai đã là ngày đại hỉ của tiểu thư”.
        Chàng thiếu niên gật đầu nói: “Ta biết!” rồi chàng thở dài ngâm nga rằng: “Minh nhật thiên nhai lộ viễn, vấn thùy lưu sở bội, lộng ảnh trung châu?” ngâm chưa dứt thì chợt đẩy một chưởng về phía Nạp Lan tiểu thư!
        Nạp Lan tiểu thư cả kinh, vốn có thể né tránh, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, đứa trẻ trong tay nàng đã bị thiếu niên cướp đi. Nạp Lan tiểu thư hoảng lên hỏi: “Huynh... huynh làm gì thế?”
        Chàng thiếu niên lui người, tiến sát đến cửa sổ gằn giọng nói: “Từ hôm nay trở đi, nó không còn là của cô nương nữa, cô nương không xứng hỏi đến nó!”
        Đứa trẻ kêu khóc một hồi thì đã ngủ say nhưng lúc này lại mở mắt ra, thấy Nạp Lan tiểu thư đầu bù tóc rối, tựa như đang nhảy bổ tới thì sợ lắm, miệng mếu, tay với về phía trước như sắp khóc tới nơi, thiếu niên vội vàng xoay nửa người cô bé vỗ nhè nhẹ, nhìn ra cửa sổ chỉ thấy sao trời lấp lánh, vầng trăng sáng đang ở giữa không trung, trong vườn im lặng như tờ, chàng nghiến răng ôm đứa trẻ phóng vọt ra cửa sổ, phía sau lưng chỉ nghe tiếng gọi thảm thiết của Nạp Lan tiểu thư, chàng không quay đầu lại, trổ khinh công vượt qua khu vườn rồi biến mất trong đêm tối.
        Trong vườn rất yên tĩnh, nhưng ngoài đường phố thì rất ồn ào, chàng thiếu niên đưa mắt nhìn chỉ thấy phía bên phủ Tổng binh lửa cháy ngất trời, người trên đường phố hớt hải chạy, trẻ con gào khóc. Chàng thiếu niên bế đứa trẻ lẩn vào trong đám người, chẳng ai để ý đến chàng.
        Chàng thiếu niên biết quân lính đang trấn áp tù vượt ngục, trong lòng lo lắng không khỏi nhìn lại, chỉ thấy ở mấy ngã đường gần phủ Tổng binh đã bị binh lính phong tỏa, hình như tù phạm đã chạy ra một hướng khác, bởi vậy một đội nhân mã đã phóng vọt về phía ấy. Nơi ấy tối om om chàng chẳng thấy rõ. Chàng lại nhìn đứa trẻ trên tay mình thở dài, tuy phía ấy vẫn nghe tiếng binh khí chạm nhau vọng lại văng vẳng, chàng cũng chỉ đành hòa vào dòng người chạy ra ngoại ô.
        Chạy ra đến ngoại ô dòng người đã tản mát khắp nơi, vừa thoát khỏi nơi nguy hiểm ai cũng mệt lả, có người nằm xuống đất, có người ngồi thành từng nhóm, chẳng ai buồn cất bước nữa. Chỉ có chàng thiếu niên vẫn ôm đứa trẻ chạy một mình trong đồng trống.
        Đến nửa đêm, vầng nguyệt dần dần dời về phía tây, đứa trẻ đã say ngủ.
        Chàng thiếu niên định tìm một nơi nghỉ ngơi, chợt nghe tiếng vó ngựa lộc cộc vọng tới, có lẽ đó là quân lính đuổi theo tù phạm đến đây. Tiếng vó ngựa nghe rất gấp, tựa như truy binh đuổi rất nhanh!
        Gần nơi chàng thiếu niên đứng có một nấm mồ, trên mồ có bãi cỏ dại cao đến nửa thân người, chàng liền ôm đứa trẻ ẩn mình sau nấm mồ. Khi nhìn kỹ lại thì thấy có hai thớt ngựa đuổi theo một đôi nam nữ tuổi khoảng đôi tám, chàng thiếu niên không khỏi kinh ngạc.
        Đôi thiếu niên nam nữ ấy chạy đến cách nấm mồ khoảng hai mươi bước thì đột nhiên ngừng lại, mỗi người đều rút kiếm ra. Lúc này hai thớt ngựa cũng đã đuổi tới, người trên ngựa nhảy xuống, một kẻ rút ra Thiết Liên, một kẻ rút Khảm Đao. Đó là hai đại hán Mãn Châu cao lớn, cả hai nhảy bổ tới quát bảo bọn họ mau mau bó tay chịu trói. Hai thiếu niên nam nữ chẳng hề ngó đến, thế là múa tít đôi kiếm cự với hai đại hán!
        Thiếu nữ ra tay rất nhanh nhẹn, nàng đột nhiên hạ người, mũi kiếm đâm hất lên nhanh như điện chớp vào cổ họng của đại hán sử dụng Khảm Đao, người ấy lui một bước, đánh ra một đao Thiết Tỏa Hoành Giang chặn lại. Nàng thiếu nữ chợt thâu chiêu rồi đâm trở ra một kiếm vào ngực của đối thủ. Đại hán lại thối lui một bước, đột nhiên chém tròn thanh đao vẽ ra một vòng ngân hồng đâm xéo tới, kiếm chiêu triển khai như cuồng phong quét lá.
        Kiếm chiêu của thiếu niên không lanh lẹ như thiếu nữ, cách đấu cũng khác hẳn. Chỉ thấy trên tay chàng ta tựa như cầm một vật nặng, mũi kiếm lúc chỉ đông lúc đâm tây, kiếm quang liền lạc, môn hộ kín kẽ. Đại hán Mãn Châu múa sợi Thiết Liên kêu lên vù vù mà chẳng chạm vào được thân kiếm của chàng ta.
        Chàng thiếu niên nấp ở sau nấm mồ là một đại hành gia, từ năm mười tám tuổi chàng đã phiêu bạt giang hồ, đến nay đã mười năm, bởi vậy đã từng gặp chiêu số của các nhà các phái. Vừa nhìn kiếm pháp của đôi nam nữ thì biết ngay họ tuy tuổi còn trẻ nhưng đã được danh sư truyền thụ. Chỉ là kiếm chiêu của thiếu nữ tuy nhanh nhẹn, có thể chiếm tiên cơ nhưng công lực thì lại không đủ, nếu đối phương du đấu với nàng một thời gian dài chắc nàng sẽ chẳng có sức chống trả. Còn kiếm chiêu của thiếu niên tuy chậm rãi nhưng đó là tinh túy của Vô Cực kiếm pháp. Bề ngoài xem ra lọt xuống thế hạ phong nhưng chẳng hề gì. Chàng thiếu niên ở sau nấm mồ ôm đứa trẻ, nhìn kỹ cuộc đấu, trong tay đã cầm sẵn ba viên Thiết Bồ Đề, định rằng hễ nàng thiếu nữ gặp nguy hiểm thì sẽ ra tay tương cứu.
        Một hồi sau quả nhiên thiếu nữ dần dần lọt xuống thế hạ phong, nàng đánh ra một chiêu Phong Quyển Lạc Hoa, mũi kiếm cầm xéo xuống rồi quét ngược lên, toan chém vào cổ tay của kẻ địch. Đại hán sử dụng Khảm Đao chợt quát lớn một tiếng bước dấn tới đánh ra một chiêu Thuận Thủy Hành Châu, chẳng những không né tránh kiếm chiêu của nàng thiếu nữ mà trái lại còn chém ngang ra, ánh đao loang loáng tấn công ba mặt của nàng thiếu nữ. Nàng thiếu nữ luống cuống lướt người ra, có lẽ nàng muốn nhờ thân pháp lanh lẹ mà né tránh những chiêu số dồn dập của đối thủ.
        Nhưng đại hán ấy tựa như đã đoán được ý đồ của nàng, khi chém ngang tới thì cũng phóng ra hai cây Sũy Thủ tiễn, sau khi phóng tiễn, mũi đao thừa thế cắm xuống đất rồi lộn người lên, khi đang lơ lửng trên không trung thì đao đánh ra một chiêu Độc Phách Hoa Sơn bổ xuống đầu nàng thiếu nữ.
        Trong khoảnh khắc sinh tử, ba viên Thiết Bồ Đề của chàng thiếu niên ở sau mộ đã phóng ra, đại hán sử dụng Khảm Đao chỉ thấy hai cây Sũy Thủ tiễn của mình sắp trúng vào nàng thiếu nữ thì tự nhiên rơi xuống, y vừa ngạc nhiên thì cổ tay lại đau nhói lên, lúc này đang bổ xuống như chim ưng bắt thỏ nhưng lại bị ám toán, suýt nữa đã buông cây đại Khảm Đao. Y đau đến nỗi kêu lớn một tiếng, cây đao lại chém tới như cuồng phong. Ngay lúc này, bối tâm chợt mát rượi, một mũi kiếm đã đâm tới, bên tai chỉ nghe tiếng quát: “Đừng hòng đả thương muội tử của ta!” Y chưa kịp quay đầu thì vai trái đã bị chém một mảng thịt!
        Vô Cực kiếm pháp của thiếu niên vốn cao hơn đối thủ rất nhiều, tuy hỏa hầu chưa đủ, trong nhất thời vẫn không thủ thắng nổi nhưng đã chiếm được thượng phong, chàng vừa đánh vừa để ý thiếu nữ bên cạnh mình, thấy nàng thiếu nữ thất thế thì tấn công gấp, chàng đánh ra một chiêu Trừu Triệt Liên Hoàn, đâm ra một mạch ba nhát kiếm, điểm vào ngực, đâm vào hai vai vừa dữ vừa chuẩn.
        Đại hán sử dụng sợi Thiết Liên buộc thối lui ra sau, chàng thiếu niên cũng không đuổi theo mà xoay gót lộn người trở tay đâm ngược về phía đại hán đang truy kích nàng thiếu nữ.
        Đây đúng là bọ ngựa bắt ve không biết chim sẻ phía sau, đại hán sử dụng Khảm Đao chưa kịp quay đầu thì vai đã bị mất một mảng thịt lớn, trong khoảnh khắc này nàng thiếu nữ cũng xoay người lại nhảy bổ tới. Đại hán sử dụng Khảm Đao đã bị thương, làm sao có thể chịu nỗi đòn tấn công như mưa bão của hai người, chỉ thấy hai luồng kiếm quang chém ngược hướng nhau tạo thành một cây kéo, đại hán đã bị chém làm ba đoạn, máu văng tung tóe.
        Đại hán sử dụng Thiết Liên thì rất tinh ranh, vừa thấy đồng bọn mất mạng thì lập tức phóng lên ngựa bỏ chạy, con chiến mã còn lại không có chủ cũng hí dài rồi chạy theo.
        Thiếu niên ở sau mộ thấy đôi nam nữ chưa phát hiện rằng mình phát ám khí tương cứu, không khỏi cười thầm: “Té ra là bọn nhãi nhép vừa mới xuất đạo”.
        Lúc này đôi thiếu niên nam nữ đã đút kiếm vào vỏ, nắm tay nhau tựa như đang thủ thỉ điều gì đấy, thiếu niên ở sau mộ thấy họ mấp máy môi nhưng không nghe họ nói được gì. Đột nhiên nàng thiếu nữ buông tay, cao giọng hỏi: “Vậy là huynh đã nói đấy nhé?” Chàng thiếu niên gật đầu vâng một tiếng, thiếu niên ở sau mộ tuy không nghe rõ nhưng vẫn biết chàng ta đã thừa nhận.
        Sau khi vâng một tiếng, nàng thiếu nữ đột nhiên nhảy ra, tựa như né tránh thứ gì rất đáng sợ, nàng chợt nhảy tới vung tay tát bốp một tiếng nghe rõ to vào mặt của chàng thiếu niên. Chàng thiếu niên đang đứng hướng mặt về phía ngôi mộ hoang, dưới ánh trăng sáng ngời, thiếu niên ở sau mộ chỉ thấy mặt chàng ta trắng bệt, chẳng hề nhúc nhích, trông rất đáng sợ!
        Nàng thiếu nữ đánh xong, thấy bộ dạng chàng ta như thế thì ôm mặt khóc òa lên, nàng xoay người vừa chạy vừa khóc. Chàng thiếu niên cứ đứng ngây người ở đấy, đến khi nàng ta khuất dạng thì mới lê từng bước tiến về phía trước. Thiếu niên sau mộ toan lên tiếng gọi nhưng thấy chàng ta hai mắt dại đi, đờ đẫn bước về phía trước tựa như một hồn ma, chàng ta bất giác rùng mình không kêu thành tiếng. Thiếu niên ấy bước về phía ngôi mộ, chui thẳng vào bụi cỏ mà chẳng hề để ý đã có người nấp sau ngôi mộ.
        Chàng ta chứng kiến tấn bi kịch ấy thì liên tưởng đến tình cảnh của mình với Nạp Lan tiểu thư, lòng không khỏi bùi ngùi. Lúc này chàng nghe có tiếng ào ào tựa như gió mà chẳng phải gió. Chàng nhìn mặt trăng mới nhớ Trung Thu đã qua được ba ngày, đây là mùa sông Tiền Đường nổi thủy triều. Chàng ngơ ngác đứng dậy, bước lần về phía bờ sông.
        Sông Tiền Đường rộng khoảng mấy mươi dặm, mặt sông bàng bạc ánh trăng. Lúc này triều vẫn chưa lên, chàng đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy trời nước một màu, mây mù tỏa kín mặt sông, nhìn chẳng thấy bến bờ. Chàng thiếu niên ôm đứa trẻ lặng lẽ bước một mình, nghe tiếng thủy triều mà lòng trăm mối tơ vò, cho đến khi chợt nghe có tiếng gọi: “Dương Vân Thông!” chàng mới như sực tỉnh cơn mộng quay đầu lại.
        Trước mặt chàng là một ông già mũi khoằm mắt sâu hoắm, bên cạnh lão còn có hai thiếu niên. Dương Vân Thông nhận ra lão chính là võ sư người Mãn Châu tên gọi Thiết Chưởng Nữu Cô Lư, sư thúc của Đa Thích. Lúc mới xuất đạo, Dương Vân Thông đến vùng bồn địa Tử Đạt Mộc ở Hồi Cương giúp người Cáp Tát Khắc chống quân Thanh đã từng gặp mặt lão.
        Nữu Cô Lư mặt như phủ một lớp sương, cười mà không phải cười, thần tình rất đáng sợ, y giơ tay chặn trước mặt Dương Vân Thông nói: “Dương Vân Thông, vẫn mạnh giỏi chứ! Những chuyện ngươi làm mấy năm nay giấu được Nạp Lan tổng binh, giấu được Đa Thích đề đốc nhưng chẳng giấu nổi lão phu! Đa Thích đề đốc là bậc anh hùng của Mãn tộc, Nạp Lan tiểu thư là đệ nhất mỹ nhân của người Kỳ bọn ta, ngươi không những đã làm mất mặt Nạp Lan tiểu thư mà còn sỉ nhục Mãn tộc bọn ta. Ta phải thay Đa Thích rửa nỗi nhục này!”.
        Dương Vân Thông nghe y nói như thế thì vẫn không hề nhúc nhích, mặt cũng chẳng tỏ vẻ gì cả. Lúc này hai thiếu niên đứng bên cạnh Nữu Cô Lư không dằng được nữa, nhảy bổ tới. Dương Vân Thông cười lạnh, xoay người nửa vòng rồi đột nhiên quát lớn một tiếng, tay phải tiếp hai chưởng của thiếu niên ở bên phải rồi chụp cổ tay phải của y. Chàng chỉ nhẹ nhàng ấn một cái thì y đã la lên như lợn bị chọc tiết, thiếu niên đã bị Dương Vân Thông ném ra xa đến mấy trượng. Lúc này thiếu niên bên trái cũng đã đánh tới, Dương Vân Thông đột nhiên hạ người, né cú đấm của kẻ địch rồi chàng chợt vươn người vỗ một chưởng vào mặt của y, lập tức tròng mắt màu đen vọt ra, máu tươi chảy xuống mặt ròng ròng, ngất ngay tại chỗ. Lần này đứa trẻ trên tay Dương Vân Thông cũng giật mình, khóc òa lên.
        Nữu Cô Lư thấy hai học trò vừa ra tay đã bị đánh ra nông nỗi như thế thì gầm lớn một tiếng, phóng vọt người tới, chưởng phải dùng mười thành công lực đánh ra một chiêu Lực Phách Hoa Sơn bổ xuống đầu Dương Vân Thông. Dương Vân Thông cũng không lùi bước, chưởng phải lật lên dồn ra đủ mười thành công lực đánh lên. Hai chưởng giao nhau kêu binh một tiếng, lúc này chỉ nghe đứa trẻ thét lớn một tiếng bay ra khỏi tay Dương Vân Thông! Dương Vân Thông vội vàng lướt ra mấy trượng tựa như chim nhạn đỡ lấy đứa trẻ.
        Dương Vân Thông đã chịu một áp lực không nhẹ nhưng Nữu Cô Lư thì càng thê thảm hơn. Y chạm với Dương Vân Thông một chưởng, chịu không nổi nên thối lui mấy bước. Đôi thiết chưởng của y nổi tiếng miền quan ngoại, thế mà không chịu nổi chưởng lực của đối phương, trong lòng tức giận vô cùng, rút ra một cái tam giác tỏa sáng lấp lánh, cái tỏa này là binh khí độc môn của y, tên gọi là Táng Môn Tỏa, có thể dùng như trủy thủ, cũng có thể dùng như đoản kích, lại có thể dùng để đánh huyệt, cực kỳ lợi hại. Lúc này Dương Vân Thông cũng ngừng lại, dùng dây đai buộc đứa trẻ lên lưng của mình, rồi rút ra một cây đoản kiếm sáng lấp lánh.
        Táng Môn Tỏa của Nữu Cô Lư dài hai thước tám tấc, còn kiếm của Dương Vân Thông ngắn hơn của y vài phần. Trong đạo binh khí có câu “Một tấc ngắn một tấc hiểm”. Trường thương đại kích giao chiến với nhau sẽ có một khoảng cách ở giữa, còn kiếm tỏa giao nhau thì khoảng cách rất gần, chẳng khác gì đánh xáp lá cà, chỉ thấy ánh tinh quang loang loáng, nếu bên nào chỉ hơi sơ xuất thì sẽ thấy máu rơi cát vàng.
        Nữu Cô Lư lao bổ về phía trước, toàn dùng những chiêu số tấn công. Dương Vân Thông cõng đứa trẻ, đứa trẻ lại cứ khóc không thôi, chàng không dám nhảy vọt, lại cứ phân tâm bảo vệ cho đứa trẻ, nên toàn thân toát đầy mồ hôi, rất mất sức. Chỉ là kiếm thuật của chàng rất cao cường, chàng cứ đứng vững như núi, hễ thấy thức phá thức, thấy chiêu phá chiêu, thanh đoản kiếm quét ngang bổ dọc, chém trái đâm phải, chẳng hề lui bước.
        Hai người càng đánh càng gấp, càng lúc càng nguy hiểm, đến lúc sinh tử, Nữu Cô Lư đột nhiên dời bước lướt đi như sao xẹt, phóng ra sau lưng Dương Vân Thông đâm vào đứa trẻ.
        Lẽ ra Dương Vân Thông phải nhảy vọt ra nhưng chàng lo cho đứa trẻ nên chỉ đành xoay người rồi phóng vọt lên, cây đoản kiếm đánh ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên đè vào Táng Môn Tỏa, mượn thế của Nữu Cô Lư đoạt binh khí của y, chàng chỉ hất một cái thì cây tỏa ấy đã vuột ra khỏi tay Nữu Cô Lư bay ra ngoài. Thân pháp của hai người đều nhanh, cả hai thâu thế lại kịp, Nữu Cô Lư bị hất văng mất cây tỏa, thế là nhảy bổ tới, Dương Vân Thông chưa kịp hạ người xuống đất thì đã bị y táng trúng. Đứa trẻ phía sau lưng lại thét lên một tiếng, lần này thanh âm của nó nghe khàn đặc. Dương Vân Thông hoảng hốt, chưa kịp né tránh thì ngực đã trúng một chưởng, còn cây đoản kiếm của chàng thuận thế đẩy về phía trước đâm vào be sườn của Nữu Cô Lư lút đến cán.
        Dương Vân Thông đâm xong một nhát kiếm cũng chẳng thể cầm cự được nổi, chàng chỉ cảm thấy mắt hoa lên, trời xoay đất chuyển, chàng vội vàng phục người xuống đất để khỏi ngã ra sau đè đứa trẻ.
        Nữu Cô Lư cũng trọng thương ngã xuống đất, đôi mắt đỏ ngầu trợn trừng. Hai người cách nhau chỉ khoảng bốn năm thước nhưng cũng chẳng thể nhảy bổ tới nhau được nữa. Thế là cả hai cứ trợn mắt nhìn nhau, trong gió đêm văng vẳng tiếng khóc khàn đặc của đứa trẻ, cảnh tượng ấy thật khiến cho người ta kinh tâm động phách.
        Một hồi sau Nữu Cô Lư gắng gượng ngồi dậy, chống tay xuống đất, từ từ lê người về phía Dương Vân Thông. Dương Vân Thông cả kinh cũng thử nhúc nhích nhưng toàn thân mềm nhũn, chỉ hơi dùng kình thì máu từ dưới ngực dội ngược lên miệng. Nữu Cô Lư vốn được người ta gọi là Thiết Chưởng, Dương Vân Thông bị y đánh trúng ngực, vết thương bởi chưởng nặng hơn vết thương bởi kiếm.
        Dương Vân Thông thấy Nữu Cô Lư từ từ lết về phía mình mà mình chẳng có cách nào đối phó, trong lòng vừa lo vừa giận, bất giác ngất đi, một hồi sau bên tai nghe có người gọi liên tục: “Dương đại hiệp! Dương đại hiệp!” lúc này chàng mới tỉnh dậy, chỉ thấy trước mặt là chàng thiếu niên lúc nãy. Dương Vân Thông ngạc nhiên khẽ hỏi: “Làm sao ngươi biết ta? Ngươi ở đây làm gì?”.
        Thiếu niên ấy không đáp lời, đôi mắt đờ đẫn, đột nhiên nói lớn: “Tôi muốn nhảy xuống sông!”.
        Dương Vân Thông lạnh lùng hỏi: “Tại sao ngươi vẫn chưa nhảy?”
        Thiếu niên nói: “Ngài ra nông nỗi này, tôi làm sao có thể nhảy? Dương đại hiệp, tôi nhận ra ông, nhiều năm trước ông đã đến nhà Đà chủ của chúng tôi, tôi đã gặp ông. Nhưng lúc đó tôi còn bé lắm!”.
        Dương Vân Thông chống tay xuống đất, gật gù nói: “Đúng thế, giờ đây ngươi không thể nhảy xuống sông, sau này càng không nên làm chuyện khờ dại nữa, ngươi chịu thiệt thòi nhảy xuống sông là xong chuyện. Nhưng rất nhiều người thân của ngươi vì sự nghiệp quan phục Hán tộc chịu oan khuất nhiều hơn, hoặc chết hoặc bị thương, bọn người trẻ tuổi các ngươi không màng đến mà chỉ vì một chuyện nhỏ đã tìm đến cái chết thì làm sao ăn nói với họ?”
        Dương Vân Thông hơi ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn chàng thiếu niên, vẻ mặt rất nghiêm nghị. Giọng nói của chàng nghe phều phào nhưng mỗi câu nói đều như tiếng trống chiều chuông sớm, chấn động cõi lòng chàng thiếu niên.
        Chàng thiếu niên nhìn Dương Vân Thông, một bậc đại hiệp lừng danh giang hồ đã sức cùng lực kiệt sắp chết tới nơi. Thiếu niên lộ vẻ hổ thẹn, nói: “Tôi xin nghe lời đại hiệp”.
        Dương Vân Thông cố gắng xé một mảnh áo, chàng đột nhiên đưa ngón tay lên miệng cắn, máu tươi tuôn ra, rồi dùng máu tươi viết lên tấm vải khiến chàng thiếu niên ngẩng người ra.
        Dương Vân Thông viết xong thì đưa mảnh vải cho chàng thiếu niên, thều thào nói: “Ngươi hãy cầm lấy bức huyết thư, cùng cây đoản kiếm của ta, bế đứa trẻ này lên Thiên Sơn gặp sư phụ của ta là Hối Minh thiền sư, người sẽ dạy cho ngươi kiếm pháp độc bộ thiên hạ!”
        Dương Vân Thông nói vừa dứt lời, tựa như đã làm xong một chuyện lớn, hai mắt khép lại, đầu ngẹo sang một bên.
        Lúc này sao đã thưa trăng đã tàn, trời sắp sáng, trên sông Tiền Đường đã có thủy triều buổi sáng, tiếng ầm ầm vọng tới từ xa, thiếu niên cất bức huyết thư, dắt thanh đoản kiếm rồi bế đứa trẻ, nhìn ra mặt sông, cũng không biết trong lòng có cảm giác gì. Ngay lúc này từ xa có tiếng vó ngựa vọng tới, từ xa đã có tiếng nàng thiếu nữ trong trẻo kêu lớn: “Đại ca!” Chàng đột nhiên thở dài, cởi áo và giày ném xuống dòng nước rồi nấp vào rặng liễu.
        Té ra bọn người đang đến là hai nam một nữ, người nữ chính là nàng thiếu nữ đã đánh chàng ta lúc nãy, nàng vỗ ngựa phóng tới không ngừng gọi: “Đại ca, huynh trốn ở đâu thế? Huynh ra đây đi!” Hai người nam kia thì đang khuyên lơn nàng.
        Cả ba người đến bên bờ sông thấy xác người ngổn ngang thì đều ngẩn cả ra. Một người nam chợt kêu lớn: “Đây không phải là Dương đại hiệp sao? Ôi chao! Dương đại hiệp, Dương đại hiệp, ông làm sao thế?” Y vội chạy đến cúi xuống nhìn, chỉ thấy Dương Vân Thông đã đứt hơi, không khỏi kêu hoảng lên, lòng thầm nhủ: “Dương Vân Thông là truyền nhân của Hối Minh thiền sư, kiếm thuật hiếm thấy trên võ lâm, sao lại chết thê thảm như thế?”.
        Lúc này nàng thiếu nữ lại kêu thảm một tiếng, vuột chạy về phía bãi cát, tựa như toan nhảy xuống sông Tiền Đường. Hai người nam nhìn ra phía trước, chỉ thấy trên mặt sông có tấm trường sam trôi lềnh bềnh, trên bãi cát là một đôi giày!
        Đột nhiên thủy triều sông Tiền Đường trỗi lên, sóng vỗ vào bờ ầm ầm như sấm dậy. Bọt bắn tung tóe trên bạch đê, thủy triều như vạn mã bôn đằng trong chốc lát đã dồn tới ven đê. Hai người nam kêu hoảng phóng người tới trước, kéo nàng thiếu nữ lui ra phía sau. Dù bọn họ thối lui rất nhanh nhưng vẫn bị nước bắn ướt cả người!
        Đến khi họ đã lui ra phía sau, chàng thiếu niên mới bước ra khỏi rặng liễu, thong thả đi về hướng Bắc.
        Muốn biết đôi nam nữ ấy là ai? Dương đại hiệp và Nạp Lan tiểu thư có mối quan hệ gì, mời xem phần sau sẽ rõ.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.11.2012 15:59:32 bởi casau >
        Attached Image(s)
        #4
          casau 01.11.2012 15:55:10 (permalink)
          Hồi 1
          Một mình tìm thù mười sáu năm trải cơn sóng gió
          Quần hùng cùng ra tay trên núi Ngũ Đài chấn tam quân


          Núi Ngũ Đài ở Sơn Tây là thánh địa Phật giáo nổi tiếng, nghe nói chùa Thanh Lương trên núi được xây dựng vào thời Đông Hán, hơn ngàn năm nay nhang khói không suy. Hoàng đế Khang Hy đã mấy lần lên núi lễ Phật, tham quan chùa cổ, dựng lại tượng Phật, núi Ngũ Đài càng thêm hưng vượng.
          Nay là năm Khang Hy thứ mười ba, đại điển khai quang Văn Thù Bồ Tát trong chùa Thanh Lương sẽ diễn ra, đại điển cử hành vào ngày hai mươi chín tháng ba nhưng vừa mới sang năm mới, thiện nam tín nữ từ các nơi đã kéo tới, năm tòa tháp đồng trên núi, mỗi tầng đều khảm Phật đăng.
          Sắp đến đại điện khai quan, không cần nói nơi đây cũng càng thêm náo nhiệt, mới sáng sớm người ta đã tụ tập đầy ở trên núi, trong rừng tùng, dưới thung lũng, ngoài suối, có người là tín đồ Phật giáo, có người đến đây chỉ để xem náo nhiệt.
          Trong số những người này có một ông già râu để ba chòm, sắc mặt hồng hào, ăn mặc theo kiểu nho sinh, đi cùng với ông ta là một thiếu niên anh tuấn nhưng nói giọng như nữ nhi. Kể ra hai người này cũng có lai lịch lắm. Ông già mặc theo kiểu nho sinh tên gọi Phó Thanh Chủ, không những y thuật tinh diệu trong thiên hạ chẳng ai bằng mà còn giỏi võ công, tinh thông Vô Cực kiếm pháp. Ngoài ra ông ta còn là một danh gia thư họa, là một vị kỳ nhân cuối Minh đầu Thanh.
          Còn chàng thiếu niên anh tuấn là một cô gái cải nam trang tên gọi Mạo Hoàn Liên. Cha của nàng tên là Mạo Tị Cương, cũng là một danh sĩ cuối Minh đầu Thanh, năm xưa nàng danh kỹ Đổng Tiểu Uyển mến mộ tài năng của ông ta, tự nguyện làm nàng hầu. Đổng Tiểu Uyển cũng là một tài nữ giỏi thi từ thêu thùa, cả hai người tâm đầu ý hợp, rất thương yêu nhau. Không ngờ vì tiếng tăm của Đổng Tiểu Uyển bay xa, bị Hồng Thừa Tụ cướp đi tiến cung, dâng cho Hoàng đế Thuận Trị, được phong làm Qúy Phi. Từ sau khi Mạo Tị Cương mất Đổng Tiểu Uyển, suốt ngày rầu rĩ chẳng vui, sau đó chết trong trầm uất.
          Phó Thanh Chủ là bạn thân thiết của Mạo Tị Cương, khi Mạo Tị Cương chết đi, Mạo Hoàn Liên chỉ mới được ba tuổi, vì thân thế của nàng phức tạp, Mạo Tị Cương sợ nàng bị người trong tộc coi thường nên nhờ Phó Thanh Chủ chăm sóc. Bởi vậy từ nhỏ Mạo Hoàn Liên đã đi theo ông ta, học được một thân võ nghệ.
          Sáng sớm hôm nay, cả hai người cũng đến vãn cảnh chùa. Phó Thanh Chủ nhìn trái ngó phải tựa như rất thích thú, còn Mạo Hoàn Liên thì mặt mày ủ ê, tựa như trong lòng đang chất chứa tâm sự. Phó Thanh Chủ chợt kêu ồ lên một tiếng rồi nói: “Liên nhi, con nhìn hai người kia!”.
          Mạo Hoàn Liên ngẩng đầu nhìn lên, bất giác giật mình, té ra hai người trước mặt, một người tựa như thây ma, mình cao khoảng bảy thước, gầy như cây sào, sắc mặt trắng bệt trông rất gớm chết; người kia thì béo nung núc, đầu to như cái đấu, trên đỉnh đầu thì trọc lóc.
          Mạo Hoàn Liên vốn đang rầu rĩ, thấy bộ dạng quái dị của hai người ấy thì bật cười. Hai người ấy nghe tiếng cười quay lại đảo mắt tìm, Phó Thanh Chủ vội vàng kéo ống tay áo nàng lẩn vào trong đám người sau đó khẽ nói: “Hai người này là nhân vật có tiếng tăm trên giang hồ, người cao tên là Táng Môn Thần Thường Anh, kẻ thấp là Thiếc Tháp Trình Thông. Con đang có chuyện quan trọng, đừng để ý đến hai tên yêu ma này!”.
          Hai người đi một hồi thì Mạo Hoàn Liên chợt quay sang nói với Phó Thanh Chủ: “Bá bá, người hãy nhìn nhà sư kia!” Phó Thanh Chủ nhìn theo hướng nàng chỉ, chỉ một nhà sư mặt vuông tai lớn đứng trong đám người, người xung quanh tuy chen lấn nhưng vẫn không tiến sát đến nhà sư ấy, y vừa dời bước những người xung quanh tựa như tự động nhường lối cho y. Phó Thanh Chủ thấy thế thì không khỏi kêu ồ một tiếng nhỏ rồi nói: “Sao tên hòa thượng này lại đến, xưa nay y không niệm kinh lễ Phật, cũng chẳng ăn chay, chuyên môn lo chuyện bao đồng trên giang hồ, người ta gọi y là Quái Đầu Đà Thông Minh hòa thượng”.
          Lúc này ở con dốc phía đông lại có một đám người nữa, có mấy hán tử dắt theo một đám khỉ, mang theo đao thương, đánh la gõ trống trông giống như đám nghệ nhân mãi nghệ kiếm sống. Đi đầu là một người đàn bà, tuy ăn mặc thô kệch nhưng trông rất oai nghiêm, dung quang rạng rỡ, rất có phong thái của một qúy phụ. Phó Thanh Chủ liếc nhìn rồi khẽ nói với Mạo Hoàn Liên: “Người đàn bà này chẳng phải là kẻ mãi nghệ tầm thường, từ ánh mắt có thể thấy bà ta có công lực nội gia trên dưới hai mươi năm”.
          Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên vừa đi vừa nói, bất giác đã vượt qua nhiều người. Quái Đầu Đà ở phía trước cũng vừa đi vừa ngó nghiêng. Phó Thanh Chủ không muốn chạm mặt y, định kéo Mạo Hoàn Liên rẽ sang lối khác, chợt thấy một thiếu niên tựa như không ưa Quái Đầu Đà ấy nên cố ý lao thẳng về phía trước. Phó Thanh Chủ thầm kêu: “Hỏng bét!” chỉ thấy Thông Minh hòa thượng hích hai vai, chàng thiếu niên không gượng lại được nên loạng choạng lao về phía trước, kéo theo vài người lao về phía Mạo Hoàn Liên. Thiếu niên ấy không kịp suy nghĩ toan chụp lấy Mạo Hoàn Liên để kìm người lại. Không ngờ chàng ta đưa tay tới chộp trúng ngực Mạo Hoàn Liên, Mạo Hoàn Liên đỏ mặt giơ tay gạt ngang qua, hai cánh tay chạm nhau chỉ thấy khí lực của người ấy rất mạnh, nàng vốn muốn dùng thủ pháp cầm nã trong Vô Cực Chưởng, quật ngã y, nào ngờ bị y trở tay chụp lại cánh tay, Mạo Hoàn Liên hổ thẹn vung hai tay, vận nội lực ném chàng thiếu niên ra.
          Chàng thiếu niên đã mượn lực kìm người lại, tuy bị Mạo Hoàn Liên đẩy lui nhưng cũng không loạng choạng nữa. Chỉ là lúc nãy chàng ta chụp được cánh tay của Mạo Hoàn Liên chỉ cảm thấy trơn mát mịn màng, tựa như là một nàng thiếu nữ, trong lòng cả kinh, khi kìm được người lại thì vội vàng quay lại toan lên tiếng tạ lỗi, thấy Mạo Hoàn Liên là một thiếu niên mới yên tâm. Lúc này Mạo Hoàn Liên mới nhìn rõ thiếu niên ấy, chỉ thấy khuôn mặt chàng ta đẹp như ngọc, trong vẻ nho nhã có mấy phần anh khí, nàng không khỏi đỏ ửng mặt, thấy chàng thiếu niên tạ lỗi cũng chỉ đành trả lại một vái.
          Lúc này hòa thượng quay đầu lại, cười ha hả với chàng thiếu niên: “Ngươi không ngã coi như có bản lĩnh, sau này chúng ta sẽ gặp lại”. Khi hòa thượng ấy quay đầu thì Phó Thanh Chủ đã quay sang hướng khác bởi vậy mới không chạm mặt nhau.
          Mọi chuyện trôi qua, hai người Phó, Mạo vừa đi vừa trò chuyện. Không lâu sau thì lên đến nơi. Chỉ thấy trước chùa có một đội kỳ binh chia nhau đứng hai bên trái phải, khoảnh sân trước chùa thì trống trơn chẳng có ai.
          Mạo Hoàn Liên đang lấy làm lạ, chỉ nghe người bên cạnh xì xào bàn tán. Một ông già nói: “Xem ra lần này Hoàng thượng không thể đích thân đến đây. Không có gấm vàng phủ lối, cũng chẳng có đội nghi trượng, cả thủ vệ ở cửa chùa cũng chỉ có vài người!” Một người khác trông có vẻ là một hương thân hừ nói: “Chuyện này phải hỏi chúng ta mới biết, mấy lần trước Hoàng thượng đến dâng hương, hương thân chúng tôi tiếp giá. Lần này là Ngạc Thân Vương Đa Thích thay mặt Hoàng thượng đến đây. Ngạc Thân Vương xưa nay không thích phô trương, khi người xuất tuần có lúc cũng chỉ mang theo vài thân binh!” Lại có một người nói giọng Triết Giang hỏi: “Ngạc Thân Vương Đa Thích mà ông nói lúc nãy có phải là Đề đốc Lưỡng Giang Đa Thích hơn mười năm trước hay không? Tôi còn nhớ ngày đại hôn của ông ta ở Hàng Châu rất náo nhiệt. Có điều trong đêm trước ngày đại hôn, dư đảng của Lỗ Vương tiền triều cướp ngục, gây cơn sóng gió trong thành, bởi vậy hôm sau dân tình không dám đi xem”. Thân sĩ kia cười nói: “Ông nói khoác mà lại có sơ hở, nếu không dám đi xem thì làm sao biết ngày đại hôn của ông ta rất náo nhiệt? Này, chuyện cướp ngục trước ngày đại hôn của ông ta là thế nào? Ông nói thử xem”. Người kia đỏ mặt rồi trả lời: “Là tôi lớn gan, đứng trong kẹt cửa nhìn ra”. Rồi thấy hương thân ấy để ý đến chuyện cướp ngục nên cũng đắc ý kể lại.
          Mạo Hoàn Liên thấy họ bàn chuyện chẳng ăn nhập gì nên cũng không để ý. Lúc này lại nghe bên cạnh có hai người ăn mặc theo kiểu tú tài bảo: “Không biết cớ sao Hoàng thượng lại thích lên núi Ngũ Đài đến thế, nối ngôi không lâu mà đã lên đến mấy lần, thế nhưng trong đại điển khai quan lần này lại không tới. Này, nghe nói nhà thơ Mai Ngô Thôn có một bài thơ vịnh chuyện Hoàng thượng lên núi Ngũ Đài dâng hương, huynh đài có còn nhớ không?” Người kia nói: “Tôi từ kinh thành đến đây sao mà không biết. Người trong kinh thành đều biết bài thơ này, chỉ là mọi người không hiểu nên thấy rất lạ. Bài thơ viết rằng: ‘Song Thành xinh xắn bóng bồi hồi, ngọc làm bình phong bích làm đài. Sáng sớm tinh sương ngàn dặm cỏ, dưới núi Thanh Lương sáo rồng lai’. Song Thành là tì nữ của Tây Vương Mẫu trong truyền thuyết. Bài thơ này vịnh việc dâng hương, nhưng không biết sao lại có liên quan đến nàng tiên nữ xinh đẹp trong đó? Song Ngô Mai Thôn là người được tiên đế sủng ái, có thể bài thơ này cũng có lý lẽ nào đó”.
          Mạo Hoàn Liên nghe xong thì giật mình, bất giác đứng ngẩn ra nhìn họ, hai tú tài ấy mỉm cười với nàng. Mạo Hoàn Liên ấp úng hỏi: “Sao lúc này cửa chùa vẫn đóng chặt, vả lại trước sân chùa chẳng có bóng người nào?” Ông già bên cạnh chen vào đáp: “Có lẽ tiểu ca lần đầu tiên đến xem đại điển như thế này nên không biết quy củ. Cây nhang đầu tiên trước cửa chùa phải do Ngạc Thân Vương đích thân dâng lên, sau đó mới mở cửa chùa. Ngạc Thân Vương lại dâng cây nhang đầu tiên trước Văn Thù Bồ Tát mới làm pháp sự, lúc đó thiện nam tín nữ các phương mới được vào”.
          Mọi người đang trò chuyện chợt nghe tiếng chiêng trống khua rền, cờ quạt phất phới, một đội kỳ binh hộ tống một chiếc kiệu tám người khiêng từ chân núi đi lên, trước kiệu có hai cái đèn lồng lớn viết bốn chữ “Ngạc Thân Vương Phủ”.
          Lúc này ở nơi sườn núi lại có người ồn ào, Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một võ quan vẹt đám người ra, phóng lên núi, phía sau là một Lạt ma mặc tăng bào màu đỏ, Phó Thanh Chủ vừa nhìn thì nhướng mày, lẩm bẩm: “Sao tên ma đầu này cũng vượt đường xa muôn dặm đến đây xem lễ?”.
          Mạo Hoàn Liên thấy Phó Thanh Chủ lộ vẻ nghi hoặc, hỏi: “Đây là ai, chả lẽ còn lợi hại hơn cả Thông Minh hòa thượng?” Phó Thanh Chủ khẽ đáp: “Con đừng hỏi, lát nữa ta sẽ nói cho con biết, hôm nay chắc chắn có tuồng hay!”.
          Lúc này mặt trời vừa mới mọc, mây mù trên không trung tựa như bị một bàn tay to lớn xua tay. Muôn ngàn tia nắng lan tỏa khắp nơi, trên không trung vẫn còn vài áng mây đỏ. Vầng mặt trời đỏ như máu xuất hiện trong đám mây màu, ánh nắng lan tỏa khiến nơi nơi đều là xuân ý. Lúc này chiếc kiệu đã ngừng trước chùa Thanh Lương.
          Trong lúc mọi người nín thở chờ đợi Ngạc Thân Vương bước ra thắp cây nhang đầu tiên, đột nhiên bên cạnh lư hương trước sân chùa có một thiếu nữ mảnh mai xuất hiện, nàng che mặt bằng một tấm khăn mỏng, trong tay cầm một cây nhang, nàng cắm cây nhang vào trong lư, quỳ xuống lạy tựa như bên cạnh chẳng có ai. Biến cố bất ngờ ấy khiến cho bọn quan quân đều lúng túng, tiếng quát nạt vang lên, có vài tên chạy đến tóm hai tay nàng, nàng cũng chẳng hề phản kháng, cứ để mặc cho chúng lôi đến chiếc kiệu của Ngạc Thân Vương. Hình như bọn lính muốn để Ngạc Thân Vương đích thân xử lý.
          Chuyện lạ ấy khiến Phó Thanh Chủ cũng thót tim, đang chần chừ có nên ra tay cứu hay không thì chợt thấy nàng thiếu nữ ấy vung hai tay, hai tên lính văng xa cách đó một trượng. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, nàng thiếu nữ quát một tiếng rút ra một thanh đoản kiếm sáng chói, tay trái vỗ một chưởng đánh vỡ cánh cửa kiệu, tay phải đâm kiếm vào, quát lớn: “Đa Thích, hôm này là ngày chết của ngươi!”.
          Người trong kiệu khẽ hừ một tiếng, trở tay chụp tóm tay nàng thiếu nữ, nàng đang dùng lực đâm vào, đột nhiên kêu hoảng lên, vội vàng rút kiếm thối lui ra sau. Cũng ngay lúc này lại có một thiếu niên từ trong đám người phóng vọt ra nhảy bổ tới, người chưa tới tiêu đã phát, chàng ta vừa vung tay thì ba cây Liên Châu Tiêu đã bay thẳng vào trong kiệu!
          Nàng thiếu nữ còn kinh hoảng, thấy phi tiêu bay tới liên tiếp thì chợt vung đoản kiếm gạt ra, lẽ ra với võ công của nàng, nàng có thể đánh rơi toàn bộ số phi tiêu nhưng chỉ vì nàng vừa kinh hãi, thần trí bất định bởi vậy chỉ gạt được hai cây phi tiêu còn cây thứ ba vẫn bay vào người trong kiệu.
          Giang hồ hảo hán thấy nàng đột nhiên chuyển địch thành bạn, ra tay cứu Đa Thích thì thắc mắc. Lại thấy cây tiêu thứ ba đã bay vào trong kiệu mà chẳng hề có tăm hơi tựa như đang biến vào biển khơi. Lúc này Thông Minh hòa thượng đã chen tới phía trước, lão đột nhiên vung tay quát lớn: “Đừng để Đa Thích chạy!” Bọn người mãi nghệ và Táng Môn Thần Thường Anh, Thiếc Tháp Trình Thông cũng chạy ra khỏi đám người.
          Lúc này chàng thiếu niên phóng ám khí cũng đã chạy đến trước kiệu, chàng ta đột nhiên kéo tấm rèm kiệu, một cây phi tiêu từ bên trong phóng ra như điện chớp sao xẹt, chàng thiếu niên ấy kêu lớn, té ra đã trúng tiêu! Lúc này vài trăm tên lính một nửa bao vây chiếc kiệu, một nửa chống địch, có vài võ tướng võ công cao hơn, chạy đến toan bắt sống chàng thiếu niên vừa mới phóng ám khí.
          Mạo Hoàn Liên nhìn thấy rõ rành rành, chàng thiếu niên phóng ám khí chính là người va vào mình lúc nãy. Khi nhìn lại thì chỉ thấy nàng thiếu nữ che mặt múa kiếm như gió, phá được vòng vây kéo chàng thiếu niên ra. Chàng thiếu niên trúng tiêu ở tay trái, máu tuôn ra không ngừng, may mà đó không phải là chỗ yếu hại bởi vậy vẫn còn cầm cự được.
          Lúc này trước chùa Thanh Lương đã diễn ra một cuộc hỗn chiến, đám đông đến vãn cảnh chùa bỏ chạy tứ tán, Thông Minh hòa thượng múa thanh giới đao kêu vù vù, uy thế chẳng gì chặn được, chỉ là bọn thân binh đều là những kẻ trải qua chinh chiến, tuy bị bọn họ đánh vào nhưng cũng không rối loạn.
          Táng Môn Thần Thường Anh và Thiếc Tháp Trình Thông, một người sử dụng gậy táng môn, một người sử dụng búa ngũ hoa, vừa đánh tới vừa thét: “Thằng giặc Đa Thích, còn chưa ra nạp mạng!” quát chưa dứt thì ở ngay cổng chùa có một thiếu phụ bước ra hỏi: “Các người tìm Ngạc Thân Vương có chuyện gì?”.
          Bà ta vừa lên tiếng thì cơn bạo loạn trước chùa chợt lặng xuống hẳn. Thường Anh, Trình Thông không quát tháo nữa, Thông Minh hòa thượng hạ cây giới đao, bọn lính cũng giơ ngang đao chờ đợi. Bọn Thông Minh hòa thượng là thuộc hạ cũ của Lỗ Vương, lần này đến đây tìm Đa Thích trả thù. Té ra sau khi Mãn Thanh nhập quan, chính quyền Nam Minh vẫn cầm cự thêm một thời gian, nghĩa quân kháng Thanh đã lần lượt lập tông thất của nhà Minh gồm Phúc Vương, Lỗ Vương, Quế Lỗ Vương ương lên làm vua. Lỗ Vương là do bọn chí sĩ của miền đông nam như Trương Hoằng Ngôn, Trương Danh Chấn lập nên. Lỗ Vương dựng đô ở Thiệu Hưng Triết Giang, tự xưng là Nam Quốc, duy trì được cục diện của một triều đình nhỏ trong vòng năm sáu năm, sau đó đã bị đại tướng của Đa Thích là Trần Cẩm san bằng. Số bộ hạ còn lại của Lỗ Vương mật mưu phục quốc ở Hàng Châu, nhưng vì bí mật bị tiết lộ, bởi vậy có hàng trăm người bị bắt nhốt vào trong đại lao Tổng binh Hàng Châu, sau đó trước ngày hôn lễ của Đa Thích, đám người này vượt ngục tháo chạy, sau một cuộc hỗn chiến, lại có nhiều người hy sinh. Bởi vậy thuộc hạ của Lỗ Vương có thù sâu như biển với Đa Thích, việc đã qua mười sáu năm mà vẫn tụ tập ở núi Ngũ Đài toan bắt Đa Thích để tế sống cho người chết.
          Họ đều là những bậc anh hùng có tiếng tăm, oan có đầu nợ có chủ. Bọn họ không thể tàn hại người thân của Đa Thích. Họ đột nhiên thấy trong kiệu có một qúy phụ, dù biết đó là Vương phi của Đa Thích nhưng cũng ngừng lại.
          Hai bên ngừng một lát, tình thế rất căng thẳng, Ngạc vương phi mỉm cười nói: “Nếu không có chuyện gì, các ngươi hãy giải tán đi thôi!” nói xong thì đẩy cửa chùa bước vào. Thường Anh múa cây gậy táng môn nói lớn: “Kẻ phóng tiêu đả thương Trương công tử chính là mụ giặc cái này, mụ đã là kẻ địch của chúng ta, các huynh đệ đừng tha cho mụ!” rồi vung tay, mấy mảnh Táng Môn Đinh bay thẳng đến sau lưng bà ta. Ngạc vương phi cũng không thèm ngoái đầu lại, nghe phía sau có tiếng gió thì trở tay bắt trọn mấy mảnh Táng Môn Đinh, thủ pháp bắt ám khí của bà ta rất thuần thục, bọn Thông Minh hòa thượng cả giận múa binh khí xông tới, nhưng Ngạc vương phi đã vào chùa!
          Lúc này dưới chân núi chiêng trống vang rền, một đôi quân mã phóng lên rầm rập.
          Tiếng trống và tù và cùng trỗi dậy, binh khí sáng chói dưới ánh mặt trời, ngọn núi chìm trong hỗn loạn, toán đầu tiên của đội quân mã ấy đã phóng lên trước chùa Thanh Lương. Đội quân mã khôi giáp sáng ngời, tay phải cầm binh khí, tay trái cầm thiết thuẫn, hễ gặp binh khí chém tới thì giơ thuẫn lên đỡ rồi đâm binh khí ra, chỉ nghe tiếng keng keng vang lên chấn động lỗ tai, trong khoảnh khắc đã bao vây cả chùa Thanh Lương. Đội quân mã này là Cấm vệ quân của triều đình, chuyên bảo vệ cho hoàng cung và vương phủ, tinh nhuệ hơn Ngự lâm quân rất nhiều.
          Nàng thiếu nữ che mặt, tay cầm đoản kiếm đang yểm hộ cho thiếu niên bị thương vượt khỏi vòng vây, nàng luồn bên trái lách bên phải, lúc trước lúc sau, chợt trái chợt phải, kẻ địch ở xa thì nàng phóng ám khí, kẻ địch ở gần thì tấn công bằng kiếm, đúng là lanh như linh viên, lẹ như ly miêu, bởi vậy mới thoát ra ngoài được, nào ngờ lại chạm phải đội quân mã ấy, nàng định đi vòng lối khác chợt nghe một tiếng quát: “Chạy đi đâu cho thoát!” rồi một thanh trường kiếm đâm tới nhanh như điện xẹt.
          Nàng thiếu nữ hụp người xuống, cây trường kiếm chém vù qua đầu. Nàng đột nhiên vươn người dậy, thanh đoản kiếm chợt hất lên trên chém vào cổ tay kẻ địch. Chiêu này rất hiểm hóc, không ngờ võ công của kẻ địch cũng cực kỳ thâm hậu, không thèm rút kiếm về chống trả mà cổ tay xoay một vòng, dùng chui kiếm gõ vào cổ tay của nàng thiếu nữ, hai người vừa chạm nhau đã phân ra, mỗi người đều lấy công làm thủ để né tránh hiểm chiêu, đôi bên đều kinh ngạc.
          Nàng thiếu nữ ngẩng đầu lên, chỉ thấy kẻ địch của mình trông hiên ngang, thân hình cao lớn, biết đó chẳng phải là nhân vật tầm thường, đang suy nghĩ thì chợt nghe tiếng quát: “Đó chính là thằng giặc Đa Thích!” nàng thiếu nữ thất kinh, chỉ nghe kẻ ấy cười đáp: “Phải thì thế nào?”.
          Kẻ phát hiện ra Đa Thích chính là Táng Môn Thần Thường Anh và Thiếc Tháp Trình Thông, hai người cách Đa Thích tương đối gần, bởi vậy mới liều mạng xông tới. Lúc này cây đoản kiếm trong tay của nàng thiếu nữ càng đánh càng gấp, nhưng Đa Thích võ nghệ cao cường, nàng thiếu nữ vừa bị chạm một kiếm thì trên tay đau nhói, chàng thiếu niên đã bị thương bên cạnh không còn người yểm hộ nên bị nha tướng của Đa Thích đánh ngã bắt sống.
          Lúc này Thường Anh, Trình Thông cũng đã phóng tới, kêu lên: “Cô nương hãy tạm lui!” nàng thiếu nữ che mặt trừng mắt nhìn Đa Thích, biết rằng khó thắng nổi trong tình thế như thế này nên cũng rút kiếm lui ra cứu chàng thiếu niên trước.
          Thường Anh và Trình Thông phóng đến rất hung mãnh, cả hai đánh ngã mười mấy tên Cấm vệ quân. Đa Thích cả giận, quát: “Các tướng lui ra sau đợi ta bắt sống hai thằng giặc này!” rồi y gạt cây trường kiếm tới phía trước, tia lửa bắn tung tóe, cây gậy táng môn của Thường Anh bị chặt đứt mất đầu, nhưng thiếc thuẫn của Đa Thích cũng bị búa của Trình Thông đánh vỡ, Đa Thích đánh liều ném cả thiếc thuẫn, triển khai Phong Lôi kiếm pháp của phái Trường Bạch ở quan ngoại đại chiến với hai người!
          Sau khi Đa Thích xuất hiện, tình thế đã thay đổi, bọn Thông Minh hòa thượng cũng lần lượt phóng về phía Đa Thích, Cấm vệ quân tuy lợi hại nhưng cũng không thể cản trở được, bị bọn họ dần dần tiến đến...
          Hai người Trình Thông và Thường Anh là những hảo hán nổi tiếng trên giang hồ, đánh nhau với Đa Thích đúng là kẻ tám lạng người nửa cân. Cây gậy táng môn của Thường Anh bổ ngang quét dọc như quái mãng độc long. Hai cây búa của Trình Thông múa tít như núi dời non động, công lực của Đa Thích cũng rất ghê gớm, y triển khai cây trường kiếm tựa như sấm sét, lúc như chim ưng phóng vút lên trời, lúc như mãnh hổ hạ mình xuống đất, một màn kiếm quang hộ trước thân khiến hai người kia không thể nào tiến tới nổi.
          Trong cuộc ác đấu, Thông Minh hòa thượng chợt quát lớn một tiếng, giơ đao bổ tới. Trường kiếm và giới đao chạm nhau kêu keng một tiếng, tia lửa bắn ra, cả hai người đều thấy hổ khẩu nóng ran, Thông Minh hòa thượng không đổi chiêu mà lướt về phía trước, thuận tay chém một đao vào cổ tay của Đa Thích, Đa Thích hơi lắc người, kiếm chiêu chợt thay đổi, vòng ra sau lưng Thông Minh hòa thượng, giơ kiếm đâm tới. Thông Minh hòa thượng trở tay chém ngược vào cổ tay của kẻ địch. Nếu Đa Thích không thâu chiêu chắc chắn sẽ lưỡng bại câu thương.
          Rốt cuộc Đa Thích là một thân vương, Thông Minh hòa thượng dám liều mạng dùng hiểm chiêu nhưng y thì không. Y đột nhiên xoay người rút kiếm về, lòng hơi kinh hãi.
          Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, Cấm vệ quân cũng đã dồn tới như nước triều, chặn bọn hảo hán giang hồ lại. Lúc này người của Đa Thích đã kéo lên núi, từ chân núi cho đến lưng chừng núi người dày đặc, có lẽ đến hai ba ngàn người, chiêng trống vang rền, khắp núi chỉ nghe tiếng quát tháo, thanh thế cực thịnh tựa như sắp xung phong đánh trận đến nơi.
          Thiếu phụ mãi nghệ đột nhiên phóng vút ra một cây tụ tiễn, cây tụ tiễn bốc lửa bay thẳng lên trên trời. Cây tụ tiễn này vốn là tín hiệu rút lui.
          Đa Thích quay đầu nhìn lại, chạm mặt với nàng thiếu phụ mãi nghệ, y vốn muốn chặn đường Thông Minh hòa thượng nhưng lại đổi ý, phóng về phía nàng thiếu phụ mãi nghệ.
          Thân pháp của nàng ta rất nhanh, Đa Thích vừa dợm bước đuổi theo, bọn Ngự lâm quân hai bên nhường lối, chỉ trong chốc lát nàng đã leo lên đến đỉnh núi. Đa Thích nhìn lại, chỉ thấy đỉnh núi quái thạch lô nhô, đường đi gập ghềnh ngoằn ngoèo. Ngự lâm quân đang đuổi theo kẻ địch ở sườn núi, trên đỉnh cao chỉ có Đa Thích và nàng ta. Y vừa nghĩ thế thì không khỏi chần chừ, nàng ta hình như cũng biết y suy nghĩ như thế, nàng quay đầu mỉm cười vung tay phóng một cây Xà Diệm tiễn về phía y, Đa Thích lách người, bùm một tiếng, một trái cầu lửa lướt qua người y, thiêu cháy mảng cỏ dại gần đó, nàng thiếu nữ giơ ngang kiếm đứng nhìn, tựa như chẳng hề coi Đa Thích ra gì.
          Đa Thích nổi giận trong lòng, nghĩ bụng mình đã trải qua hàng trăm trận chiến, chẳng trận nào thua, chả lẽ sợ một người đàn bà, nhưng khuôn mặt của nàng ta khẽ giống nữ phỉ đồ Lưu Úc Phương ở miền Triết Nam, trừ được nàng ta thì sẽ có lợi cho triều đình.
          Đối với Đa Thích, tàn phỉ miền Triết Nam chính là số thuộc hạ còn lại của Lỗ Vương. Chính Đa Thích đã tiêu diệt tiểu triều đình của Lỗ Vương, vì vậy sau này tuy y trở thành Đề đốc Lưỡng Giang nhưng hễ có chuyện liên quan đến hoạt động của bọn người này, các quan đại phương đều đến hỏi ý kiến của y. Nữ phỉ đồ Lưu Úc Phương mới có tiếng tăm gần đây, Lưu Úc Phương là con gái của Lưu Tinh Nhất, một viên đại tướng dưới trướng của Lỗ Vương. Theo các quan địa phương báo cáo, từ sau khi Lưu Tinh Nhất chết đi, bọn người thuộc hạ cũ của Lỗ Vương đã tôn Lưu Úc Phương làm thủ lĩnh, lúc đó nàng chưa tròn ba mươi tuổi, thế nhưng bọn người này rất nghe lời nàng. Đa Thích đã thấy hình vẽ của nàng trong sổ sách, bởi vậy vừa gặp đã thấy rất quen mặt.
          Lúc này Đa Thích đã vung kiếm chém tới, nàng chỉ hơi lách người, cây kiếm thép chém sang bên trái, Đa Thích lướt người tới dùng lực vỗ một cái, nghĩ bụng sẽ đánh rơi kiếm của Lưu Úc Phương, không ngờ y vỗ kiếm tới thì bị kiếm của Lưu Úc Phương chặn vào thân kiếm, nàng chỉ hơi dẫn nhẹ, mượn lực đánh lực, Đa Thích phải dời đến hai bước. Đa Thích mượn thế chồm người về phía trước, hóa giải nội kình của Lưu Úc Phương, múa ra một vòng hàn quang bao bọc binh khí của nàng.
          Vô Cực kiếm pháp của Lưu Úc Phương gồm thâu sở trường của hai phái Thái Cực và Võ Đang, lanh lẹ đến cực điểm, khi Đa Thích xoay trường kiếm, nàng cũng đã mượn thế quét ngược về, đánh ra một chiêu Hồi Phong Khí Liễu, keng một tiếng, cây trường kiếm của Đa Thích bật ra. Nàng lại rút kiếm lui người, đúng là chưa bại đã chạy trước.
          Đa Thích bốc cao lửa giận, dấn bước đuổi theo trước. Đột nhiên chỉ thấy Lưu Úc Phương phóng vọt người như chim én, bay lên một cây cầu đá ở giữa hai hẻm núi. Cây cầu đá này chỉ không đầy ba thước, dài khoảng mười trượng, phía bên kia là đỉnh núi hiểm trở, phía dưới là vực sâu muôn trượng. Đa Thích đang đắc ý đuổi theo, thâu thế không kịp, bất giác đã phóng người lên cây cầu đá. Lưu Úc Phương quát lớn, xoay người lại chặn Đa Thích ngay trên cây cầu.
          Lưu Úc Phương hơn ở chỗ thân pháp lanh lẹ, Đa Thích hơn ở chỗ công lực thâm hậu. Lần giao thủ này chỉ nghe kiếm phong vù vù, hai người đều bị kiếm khí lạnh lẽo bao trùm, đấu được hơn trăm chiêu mà vẫn chưa thắng bại. Lúc này Cấm vệ quân và bọn Thông Minh hòa thượng đã đuổi lên đến đỉnh núi, mọi người thấy Đa Thích liều mạng đấu kiếm với một nữ nhân ở nơi hiểm trở thì đều không khỏi kinh hãi, người của hai bên đều vừa hỗn chiến vừa để ý đến cuộc ác chiến quên cả sinh tử trên cây cầu đá!
          Hai người Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên lúc này cũng đã trèo lên một tảng đá đứng xem, nhìn một hồi thì Mạo Hoàn Liên nói: “Phó bá bá, người hãy xem có phải thiếu phụ mãi nghệ kia đã sử dụng Vô Cực kiếm pháp của bổn môn hay không?”.
          Phó Thanh Chủ tựa như đang ngẫm nghĩ, một lát sau mới đáp: “Ta đã nhớ, tính ra nàng là sư tỷ của con. Hơn hai mươi năm trước, sư huynh đệ của ta là Đơn Tư Nam rất thân thiết với đại tướng của Lỗ Vương là Lưu Tinh Nhất, đã nhận con gái của Lưu Tinh Nhất làm con nuôi, từ năm sáu tuổi đã truyền dạy võ công cho nàng, lúc đó kiếm pháp của Đơn Tư Nam rất cao cường, y dùng Vô Cực kiếm pháp dung hợp với Võ Đang Kiếm Pháp, cương nhu tương tế, thiên hạ đều cho rằng y và Hối Minh thiền sư ở Thiên Sơn là hai bậc danh gia kiếm thuật đương thế. Đây chắc là con gái của Lưu Tinh Nhất, đáng tiếc công lực của nàng còn kém hơn Đa Thích, song luận về kiếm pháp thì đã hơn một bậc”.
          Khi họ đang trò chuyện thì phía dưới cuộc đấu càng lúc càng khốc liệt, đột nhiên Lưu Úc Phương trao kiếm sang tay trái, đánh hờ ra một chiêu, Đa Thích chém tới một kiếm, Lưu Úc Phương đảo ngược người lướt ra sau ba trượng, tay phải vung lên, một vật màu đen chụp xuống đầu, đó là ám khí kỳ môn của nàng tên gọi Cẩm Vân Đâu (túi mây gấm), đây là một tấm lưới được kết bằng tơ sắt, xung quanh mép lưới có tua râu móc. Đa Thích không cẩn thận, vai đã bị Cẩm Vân Đâu chụp trúng, tua móc sâu vào da thịt, Lưu Úc Phương dùng lực kéo một cái, máu tươi tuôn ra, Đa Thích hơi hừ một tiếng, cây trường kiếm trong tay chặn trên gạt dưới, che kín môn hộ.
          Lưu Úc Phương múa kiếm như gió đánh tới. Đa Thích đang nguy cấp, chợt nghe vách núi bên trái có người kêu lớn: “Ta đến đây!” rồi một giọng nói nữa quát: “Sở Chiêu Nam, ngươi làm gì thế?” chưa dứt lời thì chợt có một người phóng xuống như sao xẹt, hạ ngay trên cây cầu, người chưa đứng vững thì đã đâm thoắt tới một kiếm, chém đứt sợi dây buộc Cẩm Vân Đâu, chặn trước mặt Đa Thích rồi giao thủ với Lưu Úc Phương. Đa Thích rút tua móc ra, định thối lui ra sau thì chợt thấy có một hòa thượng cười hì hì chặn trên cây cầu, Đa Thích vừa nhìn thì nhận ra đó là Quái Đầu Đà Thông Minh hòa thượng, trong lòng vừa kinh vừa giận, lia cây trường kiếm tới liều mạng với Thông Minh hòa thượng!
          Sở Chiêu Nam đột nhiên hiện thân khiến tất cả mọi người đều giật mình. Phó Thanh Chủ cũng nhíu mày, nói với Mạo Hoàn Liên: “Tên ma đầu mà ta nói sáng nay chính là kẻ này, người trên giang hồ gọi y là Du Long Kiếm Sở Chiêu Nam, y là học trò của Hối Minh thiền sư, hai mươi năm trước cùng đại sư huynh của y là Dương Vân Thông được gọi là Thiên Sơn Nhị Kiếm, đáng tiếc tính cách của hai người ngược nhau. Dương Vân Thông hào khí ngất trời, suốt đời bôn ba vì chuyện phục quốc còn Sở Chiêu Nam thì ham mê lợi lộc, cuối cùng bị Ngô Tam Quế mua chuộc, làm Tổng Giáo Đầu cho y, sau khi Dương Vân Thông chết đi, chỉ có một mình y là biết được tuyệt nghệ của Thiên Sơn bởi vậy y càng ngang ngược hơn”.
          Lúc này hỗn chiến đã diễn ra trên cây cầu đá, bốn người đấu kiếm nên chẳng thể xoay người được, tình hình càng hiểm nghèo hơn. Kiếm pháp của Sở Chiêu Nam quả nhiên thần kỳ, cây kiếm thép của Lưu Úc Phương vốn lanh lẹ không gì bì kịp, những người khác nhìn vào thì tựa như thấy rõ ràng rằng nàng sắp đâm trúng vào chỗ yếu hại của Sở Chiêu Nam nhưng không biết thế nào mà đều bị y hóa giải, chẳng thể nhìn ra y đã né tránh hoặc phản công như thế nào. Phó Thanh Chủ nhìn một hồi thì nói với Mạo Hoàn Liên: “Xem ra ta phải ra tay mới được!” nói chưa dứt lời thì chỉ thấy kiếm chiêu của Sở Chiêu Nam cuồn cuộn đánh tới như sông dài biển rộng, Lưu Úc Phương chống đỡ cũng rất khó khăn. Phó Thanh Chủ dặn Mạo Hoàn Liên: “Con đừng đi bừa!” rồi vung tay phóng vọt xuống như chim én.
          Lúc này Sở Chiêu Nam đã dùng một chiêu Cực Mục Thương Ba, chĩa vào ngực của Lưu Úc Phương, cây kiếm thép của Lưu Úc Phương bị y gạt ra, không kịp rút về. Cũng trong lúc này Phó Thanh Chủ tay phải đâm kiếm xuống, tay trái kéo tay Lưu Úc Phương vận công lực nội gia ném ra phía sau, Lưu Úc Phương mượn lực ném lộn người nửa vòng trên không trung, hạ xuống nhẹ nhàng như chim én bên bờ vực.
          Sở Chiêu Nam chặn một kiếm, cảm thấy nội kình của người này rất mạnh. Y vốn nhân lúc Phó Thanh Chủ chưa kịp đứng vững thì đẩy ông ta xuống vực sâu, không ngờ hai kiếm chạm nhau thì chỉ cảm thấy một luồng đại lực đẩy tới, chấn động thối lui hai bước, trong lòng không khỏi thầm kinh. Nhưng y cậy Thiên Sơn kiếm pháp độc bộ võ lâm, dù người này công lực thâm hậu cũng khó thoát. Vì thế y không thèm suy nghĩ, múa tít thanh kiếm đánh tới, chiêu nào cũng hiểm hóc, toàn là đâm vào chỗ yếu hại của kẻ địch!
          Phó Thanh Chủ dùng công lực nội gia mấy mươi năm từ trên không đánh xuống mà chẳng đánh ngã được Sở Chiêu Nam, trong lòng thầm kinh. Chỉ trong chốc lát, hai người đã đấu đến năm bảy mươi chiêu, cả hai bên đều không lùi bước. Hai thanh kiếm phiêu hốt bất định, càng đánh càng gấp, từ xa nhìn vào chỉ thấy ánh ngân quang loang loáng bao bọc hai bóng đen, lúc trồi lúc hụp, cả những hảo thủ như Thông Minh hòa thượng mà cũng kinh hãi, căng thẳng đến nỗi chẳng thở ra hơi!
          Sở Chiêu Nam càng đánh càng mạnh, kiếm chiêu càng lúc càng nhanh. Phó Thanh Chủ thì đã thay đổi kiếm chiêu, càng đánh càng chậm, nhưng dù Sở Chiêu Nam lanh lẹ đến mức nào cũng không đánh tới nổi, dù mũi kiếm điểm đến đâu cũng bị một nguồn lực đẩy về, cây kiếm trong tay Phó Thanh Chủ như trở nên nặng ngàn cân, mũi kiếm chỉ đông vạch tây, tựa như rất hao sức nhưng kiếm quang vẫn cứ liền lạc, xung quanh thân ông ta tựa như có một bức tường đồng vách sắt vô hình. Sở Chiêu Nam biết đã gặp phải loại kiếm pháp nội gia thượng thừa nhất, y không khỏi thầm lo.
          Sở Chiêu Nam chẳng tấn công tới được, mà Phó Thanh Chủ cũng chẳng hạ được Sở Chiêu Nam. Cả hai người đều hơi lo. Đang lúc giằng co, chợt Phó Thanh Chủ rút kiếm, môn hộ mở rộng. Sở Chiêu Nam đâm xuống một kiếm, Phó Thanh Chủ hơi lách người qua, cây kiếm trong tay gạt ngang, chặn lưỡi kiếm của Sở Chiêu Nam lại, tay trái bổ xuống đầu nhanh như điện chớp, Sở Chiêu Nam không kịp đề phòng, cây kiếm trong tay phải rút về, chưởng trái vỗ ra, chỉ nghe ầm một tiếng, tiếp theo là ai nấy đều kêu ồ lên, cả hai người rơi xuống vực sâu muôn trượng như hai con diều đứt dây! Phó Thanh Chủ rơi xuống khoảng mấy chục trượng thì tóm được một cành tùng mọc chìa ra trên vách núi, ông ta tóm lấy nên kìm người lại. Sở Chiêu Nam rơi xuống như tên bắn, khi đang lơ lửng trên không trung y còn lộn người mấy vòng lao thẳng xuống đáy cốc.
          Lúc này Đa Thích đã bị Thông Minh hòa thượng đẩy lùi từng bước cho tới khi qua tới một bên cầu, nếu cứ lùi nữa thì sẽ là vách núi hiểm trở, mà ở đó lại thì có Lưu Úc Phương cầm kiếm đứng chờ!
          Bọn Cấm vệ quân đi theo Đa Thích đã kéo hết lên núi, thiện nam tín nữ kêu khóc rầm rĩ, hảo hán giang hồ cũng chưa thoát khỏi vòng vây. Cung tiễn thủ của Thần Cơ Doanh trong Cấm vệ quân cũng đã căng cung lắp tên bắn về phía bọn Lưu Úc Phương. Tuy địa thế ở đây hiểm trở, cung tên khó bắn tới nhưng tình thế cũng rất nguy hiểm, Lưu Úc Phương thấy thế chợt quát lên một tiếng, lại phóng ra một cây hỏa tiễn, ra lệnh cho Thông Minh hòa thượng ngừng tay.
          Thông Minh hòa thượng ngạc nhiên ngừng bước, đang thắc mắc chỉ nghe Lưu Úc Phương hỏi: “Đa Thích, ngươi có muốn sống hay không?” Đa Thích giả vờ hờ hững hỏi: “Muốn thì thế nào? Không muốn thì thế nào?” Lưu Úc Phương nói: “Nếu muốn sống thì ngươi hãy bảo Cấm vệ quân ngừng tay, hôm nay chúng ta không phạm nhau đồng thời ngươi cũng không được giết một người dân thường nào”. Đa Thích ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: “Sau này thì thế nào?” Lưu Úc Phương nói: “Sau này sẽ tính. Ngươi đương nhiên không tha cho bọn ta, bọn ta cũng thế!” Đa Thích cười ha hả, nói: “Rất công bằng, được thôi!” rồi giơ cây trường kiếm phát ra hiệu lệnh.
          Quả nhiên quân lệnh như núi, truyền đạt xuống thì trong chốc lát đao kiếm đút vào vỏ, cung nỏ treo trên lưng, thuộc hạ của Lỗ Vương đều thoát ra ngoài, người vãn cảnh chùa cũng lũ lượt kéo xuống núi.
          Thông Minh hòa thượng giở ngang đao đứng chờ, thấy Đa Thích nghênh ngang bước qua cây cầu mà trong lòng hậm hực. Người căm giận Đa Thích hơn chính là nàng thiếu nữ che mặt, nàng đứng dựa vào vách đá, tay cho vào trong áo tựa như muốn rút ra ám khí. Táng Môn Thần Thường Anh đứng sau lưng nàng, vội vàng ngăn cản: “Cô nương, đừng làm càn! Thủ lĩnh của chúng ta đã ra lệnh, không thể thất kính với người ta”.
          Lúc này Phó Thanh Chủ cũng đã bò lên, Lưu Úc Phương lấy lễ ra mắt, tạ ơn vị sư thúc đã nhiều năm không gặp. Đến khi Đa Thích đi qua khỏi cây cầu, nàng mới cùng mọi người xuống núi bằng đường khác. Nàng thiếu nữ che mặt tuy không cùng bọn với họ nhưng họ cũng mời đi theo.
          Trên suốt quãng đường mọi người rất ít lên tiếng, lần này ra quân thất bại bởi vậy ai cũng rầu rĩ, thế nhưng mọi người cũng hiểu cho cách giải quyết của Lưu Úc Phương, nàng đã cân nhắc nặng nhẹ, nếu lấy mạng của nhiều người đổi cho một mình Đa Thích thì không đáng. Nhưng Lưu Úc Phương không hề rầu rĩ, nàng thấy Mạo Hoàn Liên xinh xắn sáng ngời, cử chỉ tao nhã thì trong lòng rất thích, vừa đi vừa nói chuyện với nàng. Có điều Mạo Hoàn Liên hình như đang âu sầu, bộ dạng hơi thẫn thờ.
          Bọn họ vượt qua đỉnh núi cao, băng qua u cốc bước vào một con đường núi, không lâu sau thì đến một tòa sơn trang, phía trước sơn trang đã có nhiều người chờ đợi.
          Lưu Úc Phương nói với Phó Thanh Chủ: “Đây là trang viên của lão tiền bối Võ Nguyên Anh, chúng ta tạm dừng chân ở nơi này”. Phó Thanh Chủ hỏi: “Có phải đó là bậc danh túc Võ Nguyên Anh của phái Chung Nam không? Ta cũng là bằng hữu của ông ta”. Lưu Úc Phương nói: “Chính là người này”. Khi đang nói thì có người trong trang chạy ra báo, người ấy kề tai Lưu Úc Phương nói mấy câu, chỉ thấy Lưu Úc Phương chau mày, nói: “Ta biết rồi! Phiền ông hãy vào báo với Trang chủ, chúng tôi sẽ nghỉ ngơi một lát sau đó sẽ đến bái kiến Trang chủ và Hàn tổng đà chủ”. Thông Minh hòa thượng nói: “Có phải là Tổng đà chủ Hàn Chí Bang của Thiên Địa hội không?” Lưu Úc Phương nói: “Đúng thế”.
          Lưu Úc Phương cùng bọn Thông Minh hòa thượng vào bên trong, Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên và thiếu nữ che mặt cũng đi cùng, ngồi xuống xong xuôi Lưu Úc Phương mới nghiêm mặt nó với thiếu nữ che mặt: “Cô nương, cô nương đừng trách, xưa nay chúng tôi ân oán phân minh, hôm nay cô nương bảo vệ cho Vương phi của Đa Thích, lại liều mạng cứu Trương công tử của chúng tôi, chúng tôi thật thắc mắc không biết cô nương có thể cho biết nguyên nhân hay không?” Nàng thiếu nữ im lặng, chậm rãi kéo khăn che mặt xuống, mọi người đều đưa mắt nhìn về phía nàng, có người kêu lên ngạc nhiên!
          Nàng thiếu nữ kéo khăn che mặt xuống, trong nhất thời ai nấy đều ngẩn người ra. Vẻ mặt của nàng chàng khác gì Vương phi, chỉ có điều trên người không mặc đồ Mãn Châu. Thông Minh hòa thượng kìm không được hỏi: “Cô nương là người Hán hay người Mãn Châu?” Nàng thiếu nữ liếc nhìn Thông Minh hòa thượng rồi nói: “Đương nhiên tôi là người Hán”. Trường Thông hỏi: “Cô nương có thể cho biết phương danh, sư môn hay không?” Nàng thiếu nữ cười rằng: “Mỗi người đều có một cái tên, tên chỉ là ký hiệu để tiện xưng hô mà thôi. Các người hãy gọi tôi là Dịch Lan Châu. Còn sư môn đấy ư, một nữ tử vô dụng như tôi không muốn nhắc đến tên của sư phụ”.
          Dịch Lan Châu đưa mắt nhìn mọi người, nàng đương nhiên nhận ra vẻ nghi hoặc của họ, thế rồi cao giọng nói: “Còn hỏi tại sao tôi bảo vệ cho Vương phi, tôi nghĩ các vị đều là bậc anh hùng, không cần nói cũng biết đạo lý này, tôi vốn muốn ám sát Đa Thích, nào ngờ gặp phải Vương phi. Tôi đương nhiên không nỡ giết một người đàn bà trong tay chẳng có tấc sắt! Còn bà ta đả thương Trương công tử là chuyện về sau”.
          Khi nàng thiếu nữ đang nói, Phó Thanh Chủ viết một mảnh giấy bảo Mạo Hoàn Liên đưa cho Lưu Úc Phương xem, trên giấy viết rằng: “Thiếu nữ này ánh mắt rối loạn, thần thái khác thường chắc là đang rất đau”. Lưu Úc Phương biết ông ta tinh thông y thuật, cũng rất hợp với những lời suy đoán của mình. Vì thế khi nàng thiếu nữ nói xong thì an ủi rằng: “Cô nương, cô nương đừng lo! Chúng tôi hỏi thế chẳng qua chỉ muốn kết bằng hữu với cô nương mà thôi. Nếu cô nương không chê, tôi gọi cô nương một tiếng muội tử”. Rồi bước tới nắm tay Dịch Lan Châu, bảo nàng ngồi bên cạnh mình, Dịch Lan Châu khóe mắt đỏ ửng, khẽ kêu: “Tỷ tỷ!” bọn Thông Minh hòa thượng cũng thấy ái ngại cho nàng.
          Lúc này Võ trang chủ cũng biết Phó Thanh Chủ đến, ông ta mừng rỡ sai người đến mời Phó Thanh Chủ, Phó Thanh Chủ theo bọn trang đinh qua mấy lớp sân, đến một căn thư phòng trang nhã, thấy chỉ có một mình Võ Nguyên Anh ngồi đợi, hai người đã hai mươi mấy năm không gặp, nay gặp mặt thì đúng là cảm khái muôn phần, hai người trò chuyện một hồi thì Võ Nguyên Anh chợt nói: “Phó đại ca, tôi có việc nhờ vả, mong đại ca có thể nể mặt”. Phó Thanh Chủ nói: “Chuyện gì?” Võ Nguyên Anh nói: “Muốn nhờ đại ca làm mai”. Phó Thanh Chủ cười nói: “Tôi ít quen biết với nữ nhi, còn Mạo Hoàn Liên thì tuổi vẫn còn nhỏ”. Võ Nguyên Anh cũng cười nói: “Không phải tôi để mắt đến Mạo tiểu thư. Ý tôi muốn nói đó là điệt nữ của đại ca, Lưu Úc Phương cô nương. Cha mẹ và sư phụ của nàng đều đã chết sớm, đại ca là sư thúc của nàng, chắc cũng có thể quyết định được”. Phó Thanh Chủ hỏi: “Vậy làm mai cho ai?”.
          Võ Nguyên Anh uống ngụm rượu rồi vuốt râu nói: “Đại ca, Lưu cô nương gả cho người này tính ra cũng không uổng phí, y chính là Tổng đà chủ Hàn Chí Bang của Thiên Địa hội. Người này không những lòng dạ hiệp nghĩa mà còn rất trung hậu. Y vốn là Trường Chủ của một mã trường, sau khi quân Thanh đến thì y lập ra Thiên Địa hội, chỉ vì nhiều năm bôn ba mà đến gần bốn mươi tuổi vẫn chưa thành gia lập thất”. Võ Nguyên Anh nói xong thì thở dài: “Chúng ta đã già, cũng không biết ý nghĩ của người trẻ tuổi. Lưu cô nương mọi thứ đều tốt, chỉ là tính tình hơi quái lạ, đề thân với nàng, nàng sẽ không vui. Trước đây Hàn Chí Bang cũng đã giúp nàng không ít, cũng từng nhờ võ lâm đồng đạo nói chuyện hôn sự với nàng, thế nhưng nàng vẫn không màng đến. Một người tài sắc vẹn toàn như Lưu cô nương vẫn chưa thành hôn, vả lại hình như nàng ta chẳng muốn kết hôn. Ông nói chuyện này có lạ hay không?”.
          Phó Thanh Chủ nghe thế thì ngẫm nghĩ một hồi, nói: “Tôi có thể thay ông hỏi Lưu cô nương, nhưng có hứa hay không là chuyện của nàng ta”.
          Hai người lại trò chuyện một hồi, Võ trang chủ nói: “Chúng ta sẽ cùng đi gặp Hàn tổng đà chủ!” Phó Thanh Chủ gật đầu nói: “Được”. Rồi cả hai ra khỏi khách sảnh, chỉ nghe tiếng trẻ con cười đùa vọng tới, có tiếng đứa trẻ nói: “Hàn thúc thúc, người thua rồi, con phải cỡi ngựa đây!” Võ Nguyên Anh đẩy cửa bước vào, chỉ thấy một đại hán bò dưới đất, trên lưng chàng ta là một đứa trẻ đang vỗ tay cười. Võ Nguyên Anh nạt: “Thành Hóa, đừng làm ồn!”.
          Đứa trẻ nhảy xuống đất, đại hán cũng đứng dậy, mặt đỏ ửng, mỉm cười ái ngại. Võ Nguyên Anh không khỏi cười rằng: “Hàn huynh đệ càng lúc càng giống trẻ con, đã nuông chìu thằng bé Thành Hóa này”. Rồi nói với Phó Thanh Chủ: “Đây chính là Hàn Chí Bang của Thiên Địa hội, còn đây là tiểu nhi Thành Hóa của tôi. Thành Hóa hãy mau đến bái kiến Phó bá bá”.
          Năm nay Võ Thành Hóa chỉ mới mười một tuổi, đến năm năm mươi tuổi Võ Nguyên Anh mới sinh Võ Thành Hóa bởi vậy cưng chìu như trứng mỏng. Cậu bé tung tăng chạy tới, trong tay cầm một quân cờ, nói: “Hàn thúc thúc đánh cờ tướng với con, thua con luôn cả ba ván!” Hàn Chí Bang nói: “Thằng bé Thành Hóa này thật lợi hại, tôi vừa học xong Mai Hoa Phổ, dùng bình phong mã chặn đương đầu pháo tiến chốt bảy của nó, nào ngờ đứa trẻ này không đi theo sách vở, tôi không chống nổi lối đánh không hợp kỳ phổ của nó!” nói xong thì cười ha hả.
          Phó Thanh Chủ cũng cười nói: “Đây gọi là tin sách không bằng đừng đọc sách, cứ giữ rịt qui củ là không được!” đang nói ông ta chợt kêu Võ Thành Hóa: “Con ném quân cờ về phía ta, ta sẽ dạy con trò biến hình!” Võ Thành Hóa liếc nhìn cha, Võ Nguyên Anh cười rằng: “Bá bá đã bảo gì thì con cứ làm nấy!” Phó Thanh Chủ nói thêm: “Con phải dùng thủ pháp đánh ám khí để ta coi thử công phu của con”. Võ Thành Hóa thấy cha không cản, lại còn bảo mình ném tới, lòng cả mừng vì thế hai tay cầm hai nắm cờ ném tới bằng thủ pháp Mãn Thiên Hoa Vũ. Phó Thanh Chủ cười ha hả, rút tay vào ống tay áo, chỉ thấy quân cờ bay tới, Phó Thanh Chủ vung hai ống tay áo từng quân cờ lọt vào ống tay áo ông ta. Mọi người đều kinh hãi, ông ta đã dùng công phu Thủy Tụ trong Kinh Kịch cuộn lấy ám khí. Công phu tiếp ám khí này quả nhiên rất hiếm thấy.
          Võ Thành Hóa mừng rỡ chạy đến đòi Phó Thanh Chủ dạy cho, Phó Thanh Chủ cười nói với Võ Nguyên Anh: “Tôi sẽ dạy cho Thành Hóa thủ pháp Thủy Tụ tiếp ám khí làm quà gặp mặt. Có được không?” Võ Nguyên Anh cả mừng, nói: “Được lắm, được lắm!” rồi vội vàng bảo Võ Thành Hóa dập đầu.
          Lúc này một trang đinh vào nói với Võ Nguyên Anh mấy câu, Võ Nguyên Anh trả lời: “Nếu Lưu cô nương có rảnh thì mời họ vào đây”. Một lát sau bên ngoài khách sảnh có tiếng người ồn ào, bọn Thông Minh hòa thượng, Thành Anh, Trình Thông đều bước vào nói: “Hàn đại ca, huynh cũng đến rồi đấy sao? Chúng tôi đang mong nhớ huynh”. Rồi cả bọn nhảy vào kéo Hàn Chí Bang ra. Phía sau bọn Thông Minh hòa thượng là Lưu Úc Phương. Lưu Úc Phương cũng mỉm cười nhìn chàng ta.
          Phó Thanh Chủ thấy thế thì thầm khen, nhũ rằng: “Chuyện giữa nam và nữ thật là kỳ diệu. Trong mắt mình Hàn Chí Bang quả thực là một hán tử đỉnh thiên lập địa, lần này biết Lưu Úc Phương có việc ở Ngũ Đài sơn nên từ xa cũng đến rút đao tương trợ, tình nghĩa này chẳng tầm thường tí nào”. Nhưng ông ta thấy vẻ mặt của Lưu Úc Phương tựa như vẫn còn giữ khoảng cách với Hàn Chí Bang thì nghĩ bụng hôn sự khó thành. Lúc này bên ngoài lại có hai người, một người bé loắt choắt, đôi mắt lấp lánh có thần. Một người trông cao lớn uy võ. Người bé loắt choắt tên gọi Dương Nhất Duy, là quân sư trong Thiên Địa hội, người kia là Hoa Tử Sơn, phó Đà chủ của Thiên Địa hội. Sắc mặt của hai người đều rất căng thẳng.
          Lưu Úc Phương chờ hai người ngồi xuống rồi mới nói: “Trước đây Hàn tổng đà chủ có nói chuyện hợp tác với tôi. Tôi nghĩ hai bên tông chỉ tương đồng, lòng phục quốc chẳng khác gì nhau, chúng tôi là thuộc hạ cũ của Lỗ Vương, bởi vậy cũng muốn gia nhập vào Thiên Địa hội của các vị”.
          Dương Nhất Duy nói: “Thật là tốt, Tổng đà chủ và chúng tôi đều rất hoan nghênh”. Hàn Chí Bang vội nói: “Dương Nhất Duy, đừng nói thế!” Thông Minh hòa thượng ngạc nhiên hỏi: “Ý của Hàn tổng đà chủ là...” Hàn Chí Bang nói: “Không phải chúng tôi có ý khác, tôi muốn nói Lưu cô nương cứ làm Tổng đà chủ! Tôi chỉ là một người thô lỗ, hì hì!” Hàn Chí Bang cười hai tiếng, chưa nghĩ được sẽ nói tiếp thế nào, Lưu Úc Phương đã nói: “Chi bằng Hàn tổng đà chủ cứ tiếp tục thì hơn, Thiên Địa hội đã có căn cứ ở tây bắc, nhân số của phía chúng tôi cũng tương đối ít hơn”. Dương Nhất Duy nói: “Đúng thế! Chúng tôi đều bội phục Lưu cô nương, Lưu cô nương nói rất có lý”. Hàn Chí Bang trừng mắt nhìn y. Dương Nhất Duy lại mong Lưu Úc Phương từ chối thêm lần nữa. Nào ngờ Lưu Úc Phương đã có tính toán, nàng không hề từ chối mà nói: “Nếu Hàn tổng đà chủ đã coi trọng như thế, tôi chỉ đành không tự lượng sức mình”. Hàn Chí Bang cả mừng, Thông Minh hòa thượng cũng hớn hở. Chỉ có một mình Dương Nhất Duy chẳng hề vui. Thế rồi mọi người bàn bạc chọn ngày tốt để làm lễ khai sơn lập đà. Trước Tổng đà, Hàn Chí Bang tự nguyện ra lệnh cho người Thiên Địa hội nghe lệnh Lưu Úc Phương.
          Tiếp theo mọi người nhắc đến chuyện Đa Thích và Sở Chiêu Nam. Lưu Úc Phương nói: “Tên ma đầu này thực sự rất khó đối phó, ngoài Phó sư thúc, chúng tôi đều chẳng phải là đối thủ của y! Lần này y bị Phó sư thúc đánh rơi xuống vực sâu, tôi mong có thể trừ được y”. Phó Thanh Chủ nói: “Ta cũng chế phục không nổi y, có lẽ các người đừng quá vui mừng, với võ công của y, rơi xuống chưa chắc đã chết”.
          Hàn Chí Bang lẳng lặng lắng nghe, chợt vỗ tay nói: “Ta nhớ đến một người, có lẽ sẽ chế phục được ma đầu này”. Thông Minh hòa thượng vội vàng hỏi là ai, Hàn Chí Bang nói: “Tôi cũng chưa gặp y, chỉ biết người ta gọi y là Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong”. Lưu Úc Phương nói: “Ngoại hiệu này thật lạ!” Hàn Chí Bang nói: “Thiên Sơn thần mãng một loại gai trông giống như đoản tiễn, chỉ mọc ở Thiên Sơn, sắc bén vô cùng, cứng rắn như sắt đá. Kiếm pháp của y cao cường, lời lẽ lại sâu cay. Nên người ta mới gọi y như thế. Y nổi tiếng ở vùng Hồi Cương, dân ở đây rất khâm phục y, có điều y thường độc lai độc vãng, bởi vậy không dễ tìm. Lần này trước khi đến Sơn Tây tôi đã từng sai vài huynh đệ biết y đi tìm”. Mọi người nghe nói có một nhân vật truyền kỳ như thế thì đều ngạc nhiên.
          Hàn Chí Bang lại kể một số chuyện về Thiên Sơn Thần Mãng, ai nấy đều say xưa lắng nghe, Phó Thanh Chủ hỏi: “Kiếm pháp của người này lợi hại như thế, chả lẽ cũng là truyền nhân của Hối Minh thiền sư? Sao lão hủ chưa từng nghe?”.
          Lưu Úc Phương vỗ nhẹ tay, cắt lời mọi người: “Tạm thời đừng nhắc đến Thiên Sơn Thần Mãng gì nữa, chúng ta hãy nói đến chuyện chính. Điều đầu tiên là nếu không cứu Trương công tử, chúng ta sẽ có lỗi với phụ thân của y. Thứ hai là hôm nay Đa Thích dắt theo nhiều Cấm vệ quân, không giống hành vi thường ngày của y, trong đó chắc có điều bí ẩn. Người Mãn Thanh nhập quan đã được ba mươi mốt năm, Trung Nguyên đã định. Chỉ có Đài Loan và vùng Hồi Cương Mông Tạng là chưa nhập vào bản đồ. Đài Loan là hòn đảo trơ trọi ngoài biển khơi, chẳng thể làm nên trò trống gì, nếu có thể liên kết với dân ở miền tây bắc và tái ngoại chống lại quân Thanh, lại liên kết với Đài Loan có thể sẽ làm nên chuyện lớn. Ta nghe phong thanh triều đình nhà Thanh đang có ý đồ xâm lấn miền Tây bắc, Đa Thích đến đây chắc là liên quan đến chuyện này, chúng ta không thể không dò thám hư thực”.
          Phó Thanh Chủ hỏi: “Trương công tử là...” Lưu Úc Phương nói: “Đó là công tử của đại tướng quân Trương Hoàng Kỳ, cũng là sư điệt của Võ Khánh Chủ, đệ tử đời thứ ba của phái Chung Nam. Y vừa mới xuống núi thì đã lọt vào tay kẻ địch, bởi vậy phải tìm cách cứu ra mới được”. Trương Hoàng Kỳ là danh tướng kháng Thanh, cũng là chủ soái của toàn quân Lỗ Vương, mọi người nghe thì đều áy náy.
          Phó Thanh Chủ đứng dậy nói: “Nếu các anh hùng không chê lão hủ, đêm nay tôi sẽ cùng Mạo tiểu thư đi dò thám!” Võ công của Phó Thanh Chủ cao siêu, đương nhiên là người hợp nhất, có điều mọi người không biết Mạo Hoàn Liên như thế nào, bởi vậy nhất thời vẫn chưa lên tiếng. Thông Minh hòa thượng nói: “Không biết tôi đi cùng Phó tiền bối được không?” Mạo Hoàn Liên mỉm cười, nói: “Võ công của tôi tuy còn kém, nhưng đi cùng với Phó bá bá chắc cũng chẳng hề chi”. Lúc này bên ngoài sân có tiếng quạ kêu, Phó Thanh Chủ cười nói: “Trên cây hòe bên ngoài có một con quạ kêu thật khó chịu, Hoàn Liên, con hãy ra bắt nó xuống đây!” Mạo Hoàn Liên vâng một tiếng rồi đứng dậy, nàng đột nhiên vung tay phóng ra giữa sân rồi bay lướt lên trên cành hòe, con quạ kêu òa một tiếng tung cánh toan bay lên, Mạo Hoàn Liên đã điểm mũi chân vào cành cây phóng lướt lên mấy trượng như tên bắn, con quạ vừa bay lên đã bị Mạo Hoàn Liên tóm lấy phóng xuống. Mọi người đều ngẩn người ra, Thông Minh hòa thượng giơ ngón tay cái nói: “Hảo khinh công!” mọi người đều cười ha hả.
          Đêm ấy Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên thay đồ dạ hành, nhân lúc trăng mờ, từ phía bắc núi Ngũ Đài chạy thẳng lên đỉnh núi. Ngọn núi này lớn có tiếng, mấy ngàn quân cấm vệ của Đa Thích chỉ có thể canh ở xung quanh chùa Thanh Lương chứ chẳng thể để ý đến toàn ngọn núi, hai người Phó, Mạo lướt đi như gió, đêm nay trời lại tối như mực nên chẳng ai phát hiện.
          Khi họ đang từ trên đỉnh núi len lén chạy xuống, chưa tới lưng chừng núi thì Phó Thanh Chủ chợt nói khẽ bên tai Mạo Hoàn Liên: “Cẩn thận!” rồi phóng vút người lên đến mấy trượng, Mạo Hoàn Liên cũng tung mình nhảy theo. Chỉ thấy một bóng người che mặt chợt quay đầu lại.
          Mỉm cười người đó là ai, mời xem hồi sau sẽ rõ.
          #5
            casau 01.11.2012 15:56:40 (permalink)
            Hồi 2
            Biệt tích giang hồ nước cạn bình khô lời chẳng nói
            Ẩn thân chùa cổ cõi không đã diệt sắc khó lưu


            Mạo Hoàn Liên chỉ thấy đó là một thiếu nữ che mặt, đôi mắt của nàng ta sáng ngời tựa như sánh sao, nàng thiếu nữ thấy hai người Phó, Mạo đuổi theo thì mỉm cười nói: “Đường ai nấy đi!” rồi chạy vào con đường núi khác.
            Giọng nói của thiếu nữ ấy rất quen thuộc, Mạo Hoàn Liên đang định đuổi theo xem thử là ai, Phó Thanh Chủ đã kéo nàng: “Đừng đuổi theo, đó chính là Dịch Lan Châu, chắc chắn nàng ta có việc khác, không muốn đi cùng với chúng ta”. Mạo Hoàn Liên thầm nhủ: “Sao nàng ta lại có hành vi bí hiểm đến thế?”.
            Hai người Phó, Mạo triển khai khinh công tuyệt đỉnh, chỉ trong khoảnh khắc đã rời khỏi chùa. Tuy đêm tối như mực nhưng năm tòa tháp đồng xung quanh chùa Thanh Lương, mỗi tòa cao ba mươi tầng, bên ngoài mỗi tầng đều có mười tám ngọn đèn lưu li chiếu sáng cả một vùng, Cấm vệ quân tuần tra như mắc cửi, rõ ràng canh phòng rất cẩn mật. Trước tòa tháp chính ở giữa lại có bày một đội cung tiễn thủ, trên cung đều đã lắp tên, không khí rất căng thẳng. Hai người Phó, Mạo nấp sau tòa tháp, đang nghĩ cách lẻn vào thì chợt nghe một trận cuồng phong trỗi dậy, cát chạy đá bay, trong khoảng sát na này, ba ngọn đèn lưu li ở tầng thứ ba của tháp phía bên trái tắt ngấm! Trong đêm tối hình như có một bóng người phóng vọt lên không trung, bọn Cấm vệ quân kêu hoảng, phóng tên vun vút lên trời. Đang lúc hỗn loạn lại có một trận gió quét qua, ba ngọn đèn lưu li ở tầng thứ ba tháp chính lại tắt hẳn. Phó Thanh Chủ vỗ Mạo Hoàn Liên, quát: “Lên mau!” hai người nhân lúc hỗn loạn đã phóng vọt lên đến tầng thứ nhất của tháp chính, thế rồi cả hai lại điểm mũi chân vượt qua tầng thứ hai đến tầng thứ ba. Khi đến tầng thứ ba, cả hai người nấp vào tháp. Phó Thanh Chủ khẽ nói với Mạo Hoàn Liên: “Đêm nay có cao thủ võ lâm, chắc người ấy đã dùng ám khí đánh tắt đèn lưu li!” bọn Cấm vệ quân ở bên ngoài hò hét một hồi, chẳng thấy người thì nghi rằng đó chỉ là chim ăn đêm nào đó vô tình bay ngang qua, bọn chúng chỉ đành đốt đuốc canh phòng chứ không điều tra nữa.
            Các tầng trong tòa tháp chính rất rộng, ngoài trừ canh đại sảnh ở giữa còn có mấy căn phòng nữa. Hai người Phó, Mạo vừa khách vào trong thì dùng ám khí dập tắt mấy ngọn đèn trong đại sảnh. Một hồi sau có hai người cầm đèn lồng bước ra, chép miệng nói: “Sao đêm nay gió lớn đến thế, đèn lưu li bên ngoài bị dập tắt, cả đèn bên trong cũng tắt, thật là quái lạ!” hai người Phó, Mạo không dám chậm trễ, phóng vọt người lên, lướt tới trước mặt hai người vung chỉ điểm tới, cả hai người chưa kịp kêu lên thì bị điểm trúng Á huyệt, kéo ra ngoài, nhờ ánh sáng của đèn lưu li từ tầng thứ tư, cả hai người Phó Mạo suýt nữa kêu ra tiếng!
            Hai người này chẳng phải Cấm vệ quân, cũng chẳng phải người bình thường, từ vẻ ăn mặc có thể thấy rõ ràng đó là hai thái giám. Phó Thanh Chủ còn chưa tin, đưa tay bóp xuống phía dưới, nói: “Đúng rồi!” Mạo Hoàn Liên e thẹn quay đầu đi. Phó Thanh Chủ chợt nhớ nàng chỉ là một thiếu nữ, ông ta cũng thấy ái ngại. Thế rồi Phó Thanh Chủ giải huyệt cho hai người, kéo một người tới gần khẽ nói: “Các người nói mau, có thể phải Hoàng thượng đã đến không? Ở tầng nào? Nếu không nói ta sẽ đẩy xuống!”.
            Tòa tháp này cao lớn sừng sững, cả hai tên thái giám bất đồ rung lẩy bẩy, ấp úng đáp: “Hoàng thượng ở tầng thứ sáu”. Phó Thanh Chủ đẩy bọn chúng vào bên trong, cùng Mạo Hoàn Liên phóng người lên vượt qua hai tầng thứ tư và thứ năm, đến bên ngoài tháp thứ sáu, cả hai len lén nhìn vào trong, quả nhiên có mấy tên thái giám đang ngủ gật, trong phòng có một cái giường lớn phủ trướng màu vàng. Hai người Mạo, Phó thầm nhủ, người ngủ bên trong chắc chắn là Hoàng đế. Cả hai phóng vọt vào bên trong, bọn thái giám kêu hoảng, Mạo Hoàn Liên kéo tấm trướng thò tay chụp vào bên trong. Nào ngờ người trong trướng bật người dậy, một cây trủy thủ sáng ngời đâm vào ngực Mạo Hoàn Liên. Mạo Hoàn Liên nhanh chóng chụp vào cổ tay của người ấy, cây trủy thủ chỉ còn cách ngực nàng nửa tấc.
            Võ công của người này chẳng phải hạng tầm thường, y trầm cổ tay xuống, tuy cây trủy thủ rớt xuống đất nhưng cổ tay đã thoát ra, chưởng phải đánh ra một chiêu Ngân Hồng Tật Diệp hất lên khủyu tay phải của Mạo Hoàn Liên, Mạo Hoàn Liên dùng chưởng gạt qua thì bị chấn động thối lui mấy bước. Người ấy quát lớn một tiếng phóng vọt ra, không ngờ Phó Thanh Chủ đã lướt thẳng tới, tát cho y hai bạt tai, người ấy đang định trả đòn thì đã bị ông ta chụp trúng cổ tay bóp mạnh một cái, toàn thân mềm nhũn chẳng thể nào cựa quậy được nữa. Người ấy quát: “Các người dám lớn gan phạm thượng?” Mạo Hoàn Liên thấy người này mặc long bào, thầm nhủ sao Hoàng đế lại có võ công giỏi như thế. Phó Thanh Chủ cười rằng: “Ngươi còn giả vờ?” ông ta quay sang Mạo Hoàn Liên nói: “Kẻ này không phải Hoàng đế!” té ra khi Khang Hy hoàng đế nối ngôi cũng chỉ có tám tuổi, giờ đây là một thiếu niên hơn hai mươi tuổi, mà người trong trướng lại là một hán tử tuổi trên ba mươi.
            Thế rồi Phó Thanh Chủ cầm kiếm uy hiếp bọn thái giám chỉ chỗ của Hoàng đế, bọn thái giám trẻ liếc nhìn một thái giám già, Phó Thanh Chủ vỗ nhẹ lên người y, thái giám ấy đau đến tận gan phổi, vội vàng nói: “Tôi nói, tôi nói!”.
            Thái giám già này chính là một trong những nội thị bên cạnh Hoàng đế, y nói: “Hoàng đế không có ở đây, tuy ngài ở tầng một, nhưng dưới đáy tháp có một đường hầm dẫn tới thiền phòng của hòa thượng giám tự chùa Thanh Lương, ngài đi thăm hòa thượng từ đường hầm ấy”. Phó Thanh Chủ chỉ người lúc nãy hỏi: “Y là ai?” thái giám già nói: “Là ba đồ lỗ trong cung”. (Ba đồ lỗ có nghĩa là dũng sĩ, tước quan của triều đình nhà Thanh).
            Phó Thanh Chủ nghĩ ngợi rồi nói: “Nếu các người muốn sống phải làm theo lời ta”. Thái giám già vội vàng gật đầu, tên ba đồ lỗ ấy tuy cứng đầu nhưng đã bị Phó Thanh Chủ chế phục, nên cũng chỉ đành chấp nhận.
            Phó Thanh Chủ tiện tay lột áo một tên thái giám rồi bảo Mạo Hoàn Liên mặc vào. Cử chỉ và lời nói của thái giám vốn là giống phụ nữ, Mạo Hoàn Liên cải trang là hợp nhất. Phó Thanh Chủ nói: “Ngươi dắt ta đến đường hầm, nếu có người hỏi, ngươi cứ bảo ta là thái y của Hoàng thượng”. Nói xong thì điểm huyệt bọn tiểu thái giám trong phòng. Làm xong mọi chuyện, Phó Thanh Chủ kẹp ba đồ lỗ, Mạo Hoàn Liên khống chế thái giám già rồi nói: “Đi!” Thái giám già không lên tiếng, đưa tay ấn vào vách tường, một cánh cửa ngầm lộ ra, bên dưới có một cái cầu thang cao đến hàng trăm bậc dẫn xuống cửa đường hầm.
            Trong đường hầm được canh giữ rất nghiêm ngặt, cứ mỗi hơn mười bước thì có một võ sĩ đứng canh. Thái giám già ấy có lẽ đã từng theo Hoàng đế ra vào đường hầm nên bọn võ sĩ chẳng hề nghi ngờ, cũng chẳng thèm hỏi, cứ để cho bọn họ tiến thẳng tới. Không lâu sau thì đến đoạn cuối của đường hầm. Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên đứng lại ở lối ra, bên trên có tiếng người vọng xuống địa đạo, tuy nghe không rõ nhưng có thể nhận ra đó là giọng nói của Du Long Kiếm Sở Chiêu Nam. Hai người Phó, Mạo thất kinh, không ngờ gã này vẫn còn sống!
            Người bên trên tựa như càng nói tiếng càng lớn, hai người Phó, Mạo chỉ nghe một thiếu niên quát hỏi đầy uy nghiêm: “Ngô Tam Quế dám làm thế?” Sở Chiêu Nam run rẩy đáp: “Nô tài không giám nói dối”. Y nói xong thì bên trên im lặng một hồi, hai người Phó, Mạo đang nghi hoặc thì chợt nghe ầm một tiếng, ở hai bên vách địa đạo chợt có một tấm sắt đẩy tới, hai người Phó, Mạo ngạc nhiên nhìn lại, chỉ thấy mình và hai tên võ sĩ bị nhốt ở một đoạn đường hầm. Bên trên Sở Chiêu Nam quát hỏi: “Ai đã nghe lén bên dưới?”.
            Té ra Sở Chiêu Nam võ công cao cường, tai thính mắt tinh, hai người Phó, Mạo tuy bước đi rất nhẹ nhưng vẫn phát ra tiếng, nhất là bước chân của thái giám già ấy càng nặng hơn. Sở Chiêu Nam nghe tiếng bước chân đến gần đột nhiên ngừng lại, một lúc sau vẫn không phát ra tiếng thì không khỏi nghi ngờ, thế là y ra dấu với Hoàng đế, Hoàng đế thầm nhủ: “Võ sĩ ở phía dưới canh gác cách cửa đường hầm mười trượng, không thể đến gần được, bọn thái giám cũng không đến đây khi mình chưa gọi. Nếu bọn chúng có chuyện gấp sao lại chưa lên tiếng bẩm cáo”. Nên y đưa tay nhấn một cái nút chặn một đoạn đường hầm lại, quát: “Bắt những kẻ nghe lén ra cho ta”.
            Phó Thanh Chủ rất lanh lẹ, cánh cửa sắt vừa đẩy tới thì ông ta đã điểm ngã thái giám già và ba đồ lỗ rồi rút soạt thanh kiếm. Hai tên võ sĩ nhảy bổ tới nhưng chỉ sau ba chiêu đã bị Phó Thanh Chủ đâm trúng huyệt đạo. Tấm cửa sắt ở lối ra đường hầm đột nhiên giở lên, Phó Thanh Chủ quát: “Cẩn thận!” ám khí bên ngoài phóng vào vun vút.
            Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên triển khai kiếm pháp che kín toàn thân, ám khí bay tới đều bị đánh rơi, va vào vách tường kêu loảng xoảng. Phó Thanh Chủ quát: “Xông ra ngoài!” rồi phóng ra khỏi làn mưa ám khí. Ông ta vung ra một chiêu Nghênh Phong Tảo Trần trong Vô Cực kiếm, người tiến theo kiếm, chỉ thấy một vòng ngân quang đột nhiên dồn ra, Mạo Hoàn Liên cũng xông ra khỏi đường hầm.
            Du Long Kiếm Sở Chiêu Nam đã canh ở cửa đường hầm, vừa thấy Phó Thanh Chủ xông ra thì đã chém xuống một kiếm, Phó Thanh Chủ giơ ngang kiếm quét ra, chỉ nghe mũi kiếm kêu lên ong ong, cả hai thanh kiếm đều bị đối phương đánh bật ra. Sở Chiêu Nam nheo mắt nhìn lại, thấy người đó chính là Phó Thanh Chủ, cả giận quát: “Lão thất phu, hôm nay ta quyết sinh tử với ngươi!” rồi vung kiếm nhảy bổ tới. Phó Thanh Chủ cũng liều mạng ác đấu với y. Lúc này Mạo Hoàn Liên đã xông ra ngoài, nàng thấy thiếu niên trong phòng bước đến bức tường thì lập tức nhảy vọt tới chụp lấy y.
            Vệ sĩ trong Phật điện nghe Sở Chiêu Nam quát tháo thì đã xông vào, bọn chúng nào để Mạo Hoàn Liên bắt Hoàng đế, trong chớp mắt mấy món binh khí đều quét tới. Mạo Hoàn Liên trở kiếm về gạt ra, chỉ hơi chậm tay thì Hoàng đế Khang Hy đã tiến vào phòng trong bằng cánh cửa hông.
            Phó Thanh Chủ dốc hết tuyệt kỹ, phát ra kiếm chiêu tựa như gió mưa kéo tới, Sở Chiêu Nam tấn công liên tục, toàn dùng những hiểm chiêu mà chẳng hề đắc thủ. Phó Thanh Chủ tuy cản được Sở Chiêu Nam nhưng một tay khó vỗ nên kêu, ông ta trong lúc gấp gáp đã nảy ra kế, chợt thấy trước mặt mình có một kẻ đứng chặn, thế là trở mũi kiếm lại chém đứt phăng cổ tay của người ấy. Người ấy kêu ối chao một tiếng lăn xuống đất, Phó Thanh Chủ nhảy vọt ra phóng lên bàn thờ ở giữa Phật điện.
            Bàn thờ rất rộng rãi, bên trên có sáu pho tượng Tôn giả, sáu pho tượng La Hán. Hai mươi bốn pho tượng đều được đúc bằng sắt, Phó Thanh Chủ nhờ mấy pho tượng Phật yểm hộ nên có thể luồn qua lách lại. Sở Chiêu Nam và bọn võ sĩ chẳng thể nào vây công chỉ đành chơi trò rượt bắt với ông ta.
            Lúc này Mạo Hoàn Liên cũng bị bọn võ sĩ truy đuổi, may mà những kẻ võ công cao cường đều giúp Sở Chiêu Nam đối phó với Phó Thanh Chủ, vả lại Mạo Hoàn Liên lại giỏi khinh công, bởi vậy bọn chúng không thể bắt được nàng. Đang lúc nguy cấp chợt nghe Phó Thanh Chủ kêu lớn: “Liên nhi, cho chúng nếm cát!”.
            Té ra Phó Thanh Chủ giỏi y thuật, ông ta tuy không thích dùng ám khí nhưng cũng luyện cho Mạo Hoàn Liên một loại ám khí tên gọi Đoạt Mệnh thần sa. Thứ cát này chia làm hai loại, một loại đã được tẩm thuốc độc, một loại không có thuốc độc, khi Phó Thanh Chủ truyền cho nàng loại ám khí này đã nhiều lần dặn dò nếu không đến lúc nguy hiểm thì không nên dùng loại có độc, đây là lần đầu tiên ông ta mới bảo nàng sử dụng.
            Mạo Hoàn Liên cũng lần đầu tiên gặp phải nguy hiểm, trong lúc rối loạn nàng chẳng hề nhớ mình có loại ám khí lợi hại như thế, nghe Phó Thanh Chủ nhắc thì trong lòng cả mừng, thế là mang bao tay da hươu vào tay trái, bốc một nắm Đoạt Mệnh thần sa có độc trong túi ám khí rồi vung ra, Đoạt Mệnh thần sa chia làm nhiều đường bay về phía kẻ địch, lập tức đã có mấy tên trúng ám khí, tuy không đau đớn nhưng không lâu sau thì cảm thấy toàn thân ngứa ngáy. Bọn võ sĩ này đều là những kẻ lão luyện giang hồ, nghe Phó Thanh Chủ nói cát độc thì đã để ý, bởi vậy không dám tiến đến gần Mạo Hoàn Liên!
            Nhưng loại ám khí này chỉ có thể đánh gần chứ không đánh xa, kẻ địch chỉ cách ba trượng, chẳng thể nào ứng phó nổi. Bọn võ sĩ rời khỏi phạm vi khống chế của Mạo Hoàn Liên rồi lại phóng ám khí trở ngược lại phía nàng. Mạo Hoàn Liên chỉ nhờ một thanh kiếm mà ứng phó cũng rất dễ dàng. Chợt nghe Phó Thanh Chủ quát lên: “Cứ mặc ta, con hãy chạy ra trước!”.
            Mạo Hoàn Liên lại bốc thêm một nắm Đoạt Mệnh thần sa, bọn võ sĩ vội vàng tản ra xa, nàng đột nhiên xoay người phóng tọt ra cửa sổ rồi thi triển thuật Bích Hổ Du Tường trèo lên mái ngói điện Đại Phật.
            Điện Đại Phật của chùa Thanh Lương được lợp bằng ngói lưu li sản xuất ở Bắc Kinh, loại ngói này trơn trượt lạ thường, Mạo Hoàn Liên chỉ trong chốc lát đã leo đế giữa đỉnh điện, Phật đăng các nơi trong chùa Thanh Lương và đèn lưu li khảm trên năm tòa tháp chiếu sáng như ban ngày. Mạo Hoàn Liên bò một mình trên mái ngói, ám khí bên dưới phóng tới như mưa, càng khó né tránh hơn trong Phật điện.
            Mạo Hoàn Liên phóng người né tránh, chỉ trong khoảnh khắc đã bị một mũi tên đánh rơi nón, lộ ra mái tóc dài, nàng đang hoảng hốt thì bên dưới lại có một món ám khí phóng lên phát ra tiếng kêu vù vù, rõ ràng kình đạo rất lớn, nàng vừa trượt chân trái, mấy tiếng kêu ầm phát ra ở mái ngói lưu li ở trước mặt, té ra đã bị một trái thiết cầu đánh thủng một lỗ lớn, Mạo Hoàn Liên không kịp kìm người lại đã rơi xuống cái lỗ ấy!
            Nàng rơi xuống đúng ngay vào một pho tượng Phật lớn ở điện Thập Vương, Mạo Hoàn Liên chụp vào bàn tay của pho tượng để kìm người lại, không ngờ pho tượng lại nhúc nhích, nàng dùng lực vặn mạnh, pho tượng xoay nửa vòng, sau lưng tượng Phật xuất hiện một cánh cửa, Mạo Hoàn Liên liền chui vào bên trong.
            Nàng vừa chui vào thì giật thót tim. Đó là một căn thiền phòng, có một nhà sư già ngồi ở giữa phòng râu bạc phơ, bên cạnh có một thiếu niên đang đứng. Đó chính là Hoàng đế Khang Hy. Nhà sư già nhắm mắt im lặng chẳng hề lên tiếng.
            Hoàng đế Khang Hy thì mấp máy môi tựa như muốn cầu xin điều gì đó.
            Mạo Hoàn Liên giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ lời đồn mà mình nghe được là thật”. Trong khoảnh khắc này, phía sau có chưởng phong quét tới, Mạo Hoàn Liên chẳng thể nào né tránh, đã bị người ấy chụp cánh tay, kẻ ấy bấu chặt năm ngón tay khiến nàng chẳng thể nào nhúc nhích.
            Người ấy kéo Mạo Hoàn Liên đến trước mặt Hoàng đế, Khang Hy nhận ra nàng chính là người đã truy đuổi mình, trong lòng cả giận nhưng thấy nàng tóc tai rối bời, rõ ràng là nữ nhân nhưng trên người lại mặc đồ thái giám, không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Ngươi là ai?”.
            Lúc này hòa thượng ấy mở mắt, ông ta tựa như chạm phải thứ gì, sắc mặt thay đổi, lộ vẻ vừa lo vừa mừng, buột miệng nói: “Tôi nhận ra nữ cư sĩ này!” rồi lại kéo dài giọng ngâm rằng: “Du du sinh tử biệt kinh niên, hồn phách bất tằng lai nhập mộng!” ông ta nhìn Mạo Hoàn Liên một lúc lâu rồi mới lẩm bẩm như hỏi mà không phải hỏi: “Nữ thí chủ là người hay là hồn ma? Sao mà giống đến thế! Nếu nữ thí chủ không phải là hồn phách của nàng thì chắc chắn là hóa thân của nàng!”.
            Mạo Hoàn Liên lúc này đã hiểu, nàng vừa đau đớn vừa phẫn hận, buột miệng hỏi: “Ông có phải là lão già Hoàng đế Thuận Trị đấy không, mẹ của tôi đâu? Người còn sống hay đã chết? Hay là ở trong cung? Ông hãy nói với người rằng, Liên nhi của người đến tìm người đây!”.
            Hoàng đế Khang Hy nổi giận đến cùng cực, mặt lúc xanh lúc trắng, đột nhiên quát lên rằng: “Ả này điên rồi, Diêm Trung Thiên, lôi ả ra!” Diêm Trung Thiên chính là tên thị vệ vừa mới bắt Mạo Hoàn Liên lúc nãy, cũng là vệ sĩ tâm phúc của Khang Hy. Lúc nhà sư già lên tiếng, y đã lẳng lặng tránh qua một bên, cầm sẵn ám khí trong tay đợi lệnh. Lúc này thấy Khang Hy nổi giận thì rụt rè bước tới, y đã vô tình biết được một bí mật nên không biết là phước hay họa.
            Nhà sư già mở mắt nhìn Khang Hy nói: “Con đừng dọa nàng, lúc con còn bé cũng được mẹ của nàng bế bồng”. Nói xong thì từ từ kéo Mạo Hoàn Liên đến, thở dài: “Cha của thí chủ mất nàng, ta cũng chẳng có nàng. Nàng vốn chẳng phải là người của cõi đời này, thí chủ bảo ta làm sao có thể chuyển lời?” Mạo Hoàn Liên trừng mắt: “Vậy có phải mẹ tôi đã chết?” Nhà sư già nói: “Mộng ảo trần duyên như điện chớp lửa xẹt, như trăng trong nước như bóng trong gương như hoa trong sương. Đổng Ngạc Phi tuy để lại sắc tướng nhưng nay sắc không đã tan biến, người ta đều mất, thí chủ cần gì phải chấp trước như thế?” Mạo Hoàn Liên vội nói: “Tôi chẳng biết thiền cơ, ông hãy mau nói mẹ tôi đang ở đâu?” Nhà sư già nói: “Được, nếu thí chủ đã nhớ mẹ như thế, tôi sẽ dắt thí chủ đi gặp”. Nói xong thì chậm rãi đứng dậy kéo tay Mạo Hoàn Liên đi ra ngoài. Khang Hy và Diêm Trung Thiên lặng lẽ đi phía sau, sắc mặt rất lúng túng.
            Nhà sư già dắt Mạo Hoàn Liên ra cửa hông, đi băng qua đại điện, chỉ nghe tiếng binh khí giao nhau, tiếng quát tháo đuổi theo. Phó Thanh Chủ đang ở giữa những bức tượng Phật luồn qua lách lại, kiếm quang vung lên loang loáng, một mình chống lại bọn vệ sĩ. Nhà sư già bảo Mạo Hoàn Liên: “Người này là ai, có phải y đến cùng với nữ thí chủ không?” Mạo Hoàn Liên nói: “Ông ta là Phó Thanh Chủ, đến đây cùng tôi”. Nhà sư già nói với Khang Hy: “Huyền Hoa, con hãy bảo bọn chúng ngừng tay, Phó Thanh Chủ là bằng hữu của Mạo Tị Cương tiên sinh, cũng là cao nhân ngoài đời. Đừng làm khó ông ta”. Khang Hy tuy không muốn nhưng cũng không muốn cãi lời, chỉ đành truyền lệnh xuống. Phó Thanh Chủ đút kiếm vào bao, phủi bụi trên người rồi nhảy của bàn thở Phật, hơi gật đầu với nhà sư già chứ chẳng hề lên tiếng đáp tạ.
            Nhà sư già tay trái dắt Mạo Hoàn Liên, tay phải dắt Khang Hy lặng lẽ tiến về phía trước, Phó Thanh Chủ và Diêm Trung Thiên đi ở phía sau. Bọn thị vệ rất ngạc nhiên, mọi người đều chẳng dám tiến theo, chỉ có Sở Chiêu Nam cầm kiếm đi theo từ đằng xa.
            Nơi bọn họ đi qua, vệ sĩ và thái giám đều cúi người tránh đường, nhà sư già không hề ngó lại vẫn lặng lẽ tiến về phía trước, một lát sau thì đến một khu vườn có cây hòe cổ thụ xum xuê, lúc này trăng lạnh sao mờ, ở đằng đông đã hửng sáng, gió thổi vù vù, nhà sư già chỉ ngôi mộ hoang phủ đầy cỏ trong vườn, nói với Mạo Hoàn Liên: “Nơi đây chôn áo mũ của mẹ thí chủ”.
            Nhà sư già ấy chính là Hoàng đế Thuận Trị, ông ta rất sủng ái Đổng Tiểu Uyển, phong bà ta làm Ngạc Phi. Có điều Đổng Tiểu Uyển luôn nhớ đến Mạo Tị Cương và con gái của mình bởi vậy trong lòng u uất, suốt ngày chẳng vui, vì thế Thuận Trị cũng lấy làm rầu rĩ. Thái hậu biết Thuận Trị sủng ái một phu nhân người Hán thì đã không vui, huống chi người phụ nữ này còn làm cho Thuận Trị rầu rĩ nên cả giận ra lệnh cho cung nữ đánh chết Đổng Tiểu Uyển rồi ném xác xuống sông Ngự Hà. Thuận Trị biết được điều đó nên ruột đau như cắt, đã lẳng lặng rời khỏi cung lên núi Ngũ Đài làm hòa thượng, lập mộ giả cho Đổng Tiểu Uyển trong chùa.
            Mạo Hoàn Liên thấy ngôi mộ hoang thì đau đớn không nguôi, nàng quỳ sụp xuống đất. Hai ngọn đèn trường minh ở trước mộ phát ra màu xanh lục, chiếu rõ mấy hàng chữ trên tấm bia bằng bạch ngọc: “Giang Nam tài nữ Đổng Tiểu Uyển chi mộ”. Mạo Hoàn Liên thấy trên tấm bia chỉ ghi thế thì hơi an ủi, nàng quay đầu lại nhìn thì thấy nhà sư già cũng ngã xuống bãi cỏ, sắc mặt trắng bệt, Hoàng đế Khang Hy giận dữ quay đầu đi. Phó Thanh Chủ ngẩng đầu nhìn sao trời, tựa như đang ngẫm nghĩ điều gì đó.
            Trong các Hoàng đế triều Thanh, Thuận Trị tuy là vua khai quốc nhưng chỉ lên ngôi từ lúc sáu tuổi, quá nửa cuộc đời là được thúc thúc Đa Nhĩ Cổn cùng mẫu hậu giúp đỡ, sau đó lại xảy ra bi kịch mẫu hậu của ông ta lấy Đa Nhĩ Cổn. Việc này cũng hơi giống như Hamlet trong kịch Sheakspears, vì thế Thuận Trị cũng chịu áp lực mặt tinh thần, sau khi ông ta xuất gia đã cắt đứt tình duyên, thấy mình là vua của một nước mà chẳng lấy được lòng của một người phụ nữ, bởi vậy chẳng còn ham muốn quyền lực, đồng thời ông ta cũng hối hận vì mình đã chia rẽ Mạo Tị Cương và Đổng Tiểu Uyển. Ông ta ngồi sụp xuống trước ngôi mộ, bao nhiêu vinh hoa phú quý, ân ân oán lướt qua đầu ông ta như điện chớp.
            Mạo Hoàn Liên lạy xong mấy lạy thì đứng dậy, tay cầm chui kiếm nhìn Thuận Trị. Nàng thấy nhà sư già ngồi sụp xuống thì trong lòng bất giác nhói lên, Phó Thanh Chủ thở dài: “Hoàn Liên, ta đi thôi!”.
            Than chưa dứt, chân chưa dời thì chợt một đám võ sĩ đuổi theo một thiếu nữ che mặt đến càng lúc càng gần. Mạo Hoàn Liên vừa nhìn thì đã lạc giọng kêu lên: “Lan Châu cô nương!”.
            Té ra khi Mạo Hoàn Liên gặp hòa thượng già thì Dịch Lan Châu cũng có kỳ ngộ. Chuyện này phải bắt đầu từ vợ chồng Đa Thích.
            Đa Thích bị thương bởi ám khí của Lưu Úc Phương, tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng cũng chảy máu rất nhiều, y quay về chùa Thanh Lương nghỉ ngơi. Ngạc vương phi Nạp Lan Minh Tuệ thấy chồng ra nông nỗi như thế thì trong lòng sót lắm, đích thân cho y uống thuốc rồi khuyên y nghỉ ngơi. Đa Thích lấy nàng được mười sáu năm mà nàng vẫn luôn lạnh lùng với y, lần này nàng lại đích thân hầu hạ, trong lòng rất sung sướng, bất giác đã ngủ thiếp đi. Ngạc vương phi một mình tựa cửa ngẫm nghĩ, lúc này thị nữ vào báo: “Nạp Lan công tử đến tìm Vương phi!”.
            Ngạc vương phi nói: “Khuya như thế này mà hắn còn đến đây làm gì?” nói xong thì bảo thị nữ mở cửa. Ở nơi cửa có một thiếu niên mừng rỡ chạy vào, nói: “Cô mẫu, con lại vừa làm được một bài từ mới”.
            Chàng thiếu niên này chính là cháu của Ngạc vương phi Nạp Lan Minh Tuệ, cũng là một từ nhân đầu tiên của triều Minh tên gọi Nạp Lan Dung Nhược, cha của chàng Nạp Lan Minh Châu là tể tướng đương triều. Nạp Lan Dung Nhược tài hoa hơn người, nổi tiếng cả nước, Hoàng đế Khang Hy cũng rất sủng ái chàng, bất luận đi đâu cũng bảo chàng theo. Nhưng nói ra thật lạ, Nạp Lan Dung Nhược tuy xuất thân từ gia đình qúy tộc nhưng tính tình không hề câu nệ, thích giao du rộng rãi, chàng ghét nhất là cuộc sống qui củ trong cung đình nhưng lại không thể thoát được bởi vây cứ rầu rĩ không vui. Những người nghiên cứu tác phẩm Hồng Lâu Mộng đều nói rằng Giả Bảo Ngọc chính là hình bóng của Nạp Lan Dung Nhược, tuy không có bằng cứ rõ ràng nhưng cũng có lý.
            Trong cung đình và gia tộc, Nạp Lan Dung Nhược thường hay nói chuyện với cô cô của chàng nhất. Nạp Lan Minh Tuệ biết tính chàng nên mỉm cười nói: “Nghe nói mấy ngày hôm nay con viết một bài từ mới, trong đó có hai câu: ‘Không có cội rễ chẳng phải hoa phú quý nhân gian’. Hoàng thượng không thích, hôm nay con lại viết được gì nữa?”.
            Nạp Lan Minh Tuệ nói: “Để điệt nhi đàn cho cô cô nghe”. Nói xong thì lấy một cây đàn mã đầu chỉnh dây, đàn lên mà hát.
            Tiếng đàn như than như khóc, Nạp Lan Minh Tuệ ngồi ngẩn ra, nước mắt chảy dài xuống gò má, hình bóng Dương Vân Thông nhòa theo nước mắt, nàng nhớ lại đêm trước ngày hôn lễ cách đây mười sáu năm lúc đó sao nàng không bay vút lên trời cao như cánh chim kia để giờ đây không bị nhốt trong cái lồng chật hẹp này, tiếng đàn chợt dừng lại, dư âm vẫn còn quanh quẩn đâu đây, chợt một nàng thiếu nữ nói: “Từ hay!”.
            Cô cháu Nạp Lan Minh Tuệ giật mình, chỉ thấy một nàng thiếu nữ che mặt đứng trong phòng, Nạp Lan Minh Tuệ có võ công không kém, chỉ vì say xưa lắng nghe tiếng đàn nên không biết nàng ta đến từ lúc nào.
            Nạp Lan Minh Tuệ nhớ lại nàng thiếu nữ trên núi Ngũ Đài, chợt hỏi: “Cô nương là ai?”.
            Thiếu nữ ấy cắn răn nói: “Tôi là một tội nhân!”.
            Nạp Lan Minh Tuệ tựa như đã nghe được giọng nói này ở đâu đó, hình như nàng thiếu nữ là người rất quen thuộc với mình, Nạp Lan Minh Tuệ chợt có một cảm giác kỳ diệu, thiếu nữ này vừa gần gũi vừa xa lạ...
            Nạp Lan Dung Nhược nhìn nàng thiếu nữ, bộ dạng cử chỉ trông rất giống cô cô nên cũng lấy làm lạ, hỏi: “Cô nương đã phạm tội gì?” Thiếu nữ nói: “Tôi cũng không biết đã phạm tội gì? Tôi đã bị mẫu thân ruồng bỏ từ lúc còn bé. Tôi nghĩ chắc chắn đó là tội nghiệt kiếp trước!”.
            Ngạc vương phi giật thót tim, toan nắm lấy tay nàng ta nhưng thiếu nữ ấy lùi mấy bước, đôi mắt lộ vẻ buồn bã, lạnh lùng nói: “Bà đừng chạm vào tôi, bà là một Vương phi cao quý, bà cũng chẳng ruồng bỏ con ruột của mình, nếu bà gần gũi với tôi không sợ nhơ bẩn hay sao?”.
            Ngạc vương phi dựa vào ghế một cách mệt nhọc, nàng đưa hai tay ôm mặt, ba người nhìn nhau, không khí tựa như ngưng đọng lại, rất lâu, rất lâu sau Ngạc vương phi mới chợt hỏi: “Cô nương có thể cho tôi biết cô nương tên là gì không?” Thiếu nữ nói: “Tôi tên Dịch Lan Châu”. Ngạc vương phi thở phào: “Cô nương không mang họ Dương?” Thiếu nữ nói: “Tại sao tôi phải mang họ Dương? Phải chăng Vương phi có thiện cảm với người họ Dương?”.
            Ngạc vương phi thẫn thờ chẳng đáp, miệng lẩm bẩm: “Dịch Lan Châu, Dịch Lan Châu...,” nàng chợt nhớ chữ “dịch” chính là một nửa của chữ “dương,” chữ “lan” là chữ thứ hai trong họ của mình, mà con gái đã mất của bà ta tên là Bảo Châu.
            Ngạc vương phi từ từ đứng dậy, tay vịn vào ghế, mà chỉ cảm thấy hoang mang, toàn thân đuối sức. Lúc này lại có thị nữ vào mở cửa: “Vương gia đã tỉnh, mời Vương phi vào”. Ngạc vương phi như tỉnh cơn mê, bà nhớ lại thân phận của mình, dặn ả thị nữ rằng: “Ta đã biết, ngươi vào hầu hạ Vương gia trước, ta sẽ vào sau”. Nói xong thì ngồi xuống, hỏi Dịch Lan Châu: “Cô nương có khó khăn gì cần tôi giúp đỡ không?” Dịch Lan Châu cười lạnh nói: “Tôi chẳng có khó khăn gì cả, một mình tôi có thể vượt qua mọi khó khăn”. Ngạc vương phi nói: “Vậy cô nương có hỏi chuyện gì không?” Dịch Lan Châu nghĩ ngợi rồi chợt nói: “Nếu có thì thế nào?” Ngạc vương phi đáp: “Chỉ cần là chuyện của cô nương, tôi sẽ giúp!”.
            Dịch Lan Châu tiến về phía trước, nói: “Vậy tôi mong bà thả thiếu niên bị bắt ở chùa Thanh Lương ra để cho tôi dắt đi”. Ngạc vương phi ngạc nhiên hỏi: “Có phải là thiếu niên đã hành thích ta đấy không?” Dịch Lan Châu nói: “Đúng thế, Vương phi có chịu thả y hay không? Tôi muốn cho bà biết rằng, y cũng là một cô nhi. Hôm nay y không biết người trong kiệu là bà”. Ngạc vương phi nghĩ ngợi rồi kiên quyết đáp: “Được!” nói xong thì chậm rãi bước vào hậu đường.
            Nạp Lan Dung Nhược nhìn nàng thiếu nữ kỳ lạ trong sân, nhìn nàng thiếu nữ kỳ lạ trân trân, chỉ cảm thấy ánh mắt của nàng sắc bén và lạnh lẽo, chàng ta bất giác rùng mình, né tránh ánh mắt của nàng, nói: “Cô nương, nếu chúng ta có tội nghiệt thì đó cũng là bẩm sinh mà có. Chẳng hạn như tôi, tôi cảm thấy bản thân ở trong hoàng gia là một tội nghiệt”.
            Đang nói thì bên ngoài cửa có tiếng bước chân, Ngạc vương phi đã dắt chàng thiếu niên ra ngoài.
            Chàng thiếu niên ấy tên gọi Trương Hoa Chiêu, con trai của đại tướng dưới trướng Lỗ Vương là Trương Hoàng Kỳ. Chàng đã trúng tiêu của Ngạc vương phi, tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng cũng bị thương rất nặng, sau khi bị bắt, Đa Thích vốn muốn thẩm vấn nhưng vết thương nặng hơn chàng, chỉ đành nhốt chàng ở hậu đường, Ngạc vương phi đích thân lên tiếng nên mới mau chóng được thả ra.
            Trương Hoa Chiêu được kẻ thù thả ra, trong lòng nghi hoặc bất định, chợt thấy giữa phòng có nàng thiếu nữ che mặt, đó chính là người đã hành thích Đa Thích cùng với mình. Lúc này chàng ta thấy nàng ngồi ở giữa phòng, lại cùng trò chuyện với một thiếu niên ăn mặc sang trọng thì rất ngạc nhiên, bất giác kêu ối chà một tiếng.
            Dịch Lan Châu đứng dậy, nói: “Trương công tử, hãy đi theo tôi! Công tử có đi được hay không?” Trương Hoa Chiêu ngần ngừ một hồi thì gật đầu: “Tôi còn đi được”. Nạp Lan Dung Nhược ngồi bên cạnh, thấy sắc mặt chàng ta tiều tụy mà vẫn hiên ngang ngẩng đầu, rõ ràng là đang cố chịu cơn đau đớn, trong lòng bất nhẫn nói rằng: “Các người đi thế này làm sao được, tôi mạo muội muốn mời huynh đài này đến thư phòng của tôi, nghỉ ngơi xong thì đi cũng không muộn”. Ngạc vương phi gật đầu: “Con nghĩ rất chu đáo”. Trương Hoa Chiêu nhìn Ngạc vương phi nói: “Tôi xin ghi nhớ tấm lòng của công tử, nếu các người không giết tôi, tôi sẽ đi!” lúc này lời lẽ của chàng rõ ràng rất cứng cỏi.
            Ngạc vương phi nghĩ ngợi rồi nói với Dịch Lan Châu: “Nếu các người muốn đi, ta cũng không ép. Ở đây có một cây lệnh tiễn, cô nương hãy cầm lấy, có lẽ sẽ giảm bớt phiền phức cho cô nương”. Rồi lấy ra một ngọn đoản tiễn bằng lông chim phỉ thúy, trên cây tên có khắc mấy chữ: “Ngạc Thân Vương Đa Thích”.
            Dịch Lan Châu không từ chối, nhận lấy cây lệnh tiễn. Trương Hoa Chiêu liếc nhìn nàng tựa như bất mãn lắm nhưng vẫn đi theo. Ngạc vương phi thở dốc tựa như đang chịu một cơn đau đớn rất ghê gớm. Thế nhưng nỗi đau tâm hồn còn hơn cả vạn lần nỗi đau thể xác. Dịch Lan Châu hơi run rẩy, nước mắt trào ra, Ngạc vương phi bước tới đưa tay ra, Trương Hoa Chiêu hỏi: “Sao chưa đi?” Dịch Lan Châu tựa như tỉnh cơn ác mộng, thấy thần sắc cứng cỏi của Trương Hoa Chiêu thì đột nhiên trấn tĩnh trở lại. Tuy Ngạc vương phi thấy nàng run rẩy nhưng nàng đã xoay người bước ra ngoài. Ngạc vương phi chợt quay người lại, quỳ sụp xuống trước pho tượng Phật trên bàn thờ. Nạp Lan Dung Nhược đứng lặng bên bà ta, chàng có thể nghe bà ta đang cố kìm nén tiếng khóc.
            Dịch Lan Châu cùng Trương Hoa Chiêu bước ra sân, chỉ thấy trăng lặng sao mờ, quạ đêm kêu sương, ngọn đèn lưu li trên tháp đồng từ xa chiếu xuống len qua tán lá thưa, ánh sáng mờ mịt. Trên đường đi chốc chốc lại có bọn Cấm vệ quân bước tới, Dịch Lan Châu giơ cây lệnh tiễn lên, quả nhiên bọn chúng không dám tra hỏi lôi thôi. Đi được một hồi thì đột nhiên Trương Hoa Chiêu dúi người về phía trước.
            Dịch Lan Châu thất kinh, vội vàng đỡ lấy chàng. Té ra trên con đường đá bám đầy rêu Trương Hoa Chiêu không để ý nên bị trượt chân. Tuy Dịch Lan Châu đỡ lại nhưng ngực chàng chạm phải một cành cây chìa ngang ra giữa lối, vết thương đau nhói lên, chàng không kềm được kêu “ối” một tiếng, Dịch Lan Châu hỏi: “Có sao không?” chàng ưỡn ngực nói: “Không sao”. Rồi đẩy tay Dịch Lan Châu ra, tiếp tục mò mẫm tiến về phía trước.
            Vài tên Cấm vệ quân gần đó nghe thế chạy tới. Dịch Lan Châu giơ cây lệnh tiễn ra, tưởng rằng có thể vượt qua dễ dàng, nào ngờ trong đó có một tên giáo đầu rất cảnh giác. Dưới ánh đèn nhạt nhòa, y thấy sắc mặt Dịch Lan Châu rất khác lạ, đến khi nhìn kỹ lại thì thấy trên áo ngực Trương Hoa Chiêu nhuốm đầy máu. Y chợt quát: “Bắt lại!” rồi vỗ một chưởng về phía Trương Hoa Chiêu.
            Trương Hoa Chiêu tuy bị thương nhưng vẫn có thể nhảy vọt ra sau đến hơn một trượng. Lúc này Dịch Lan Châu đã rút kiếm đấu với tên giáo đầu của Cấm vệ quân. Vài tên Cấm vệ quân còn lại chạy đến bắt Trương Hoa Chiêu, Trương Hoa Chiêu vung tay phóng ra mấy cây thấu phong tiêu, tuy chàng đã đuối sức nhưng phóng vẫn còn chính xác lắm.
            Lúc này gần đó tiếng tù và rúc lên tu tu, bóng người lố nhố xuất hiện trong vườn. Trương Hoa Chiêu cứ chạy bừa, bất giác đã rời xa Dịch Lan Châu, chàng vượt qua mấy con đường nhỏ tối tăm, tiếng quát tháo và tiếng chân chạy rầm rập đã đến gần. Trong cơn hoảng loạn chàng không kịp suy nghĩ, thấy phía trước có một căn nhà nhỏ tường đỏ ngói xanh thì liền đẩy cửa tiến vào, lúc này khí lực đã hết, toàn thân rã rời nên té sấp xuống đất ngất đi!
            Dịch Lan Châu thấy Trương Hoa Chiêu chạy bừa trong lòng lo lắng toan chạy đến cứu, nhưng bị bọn Cấm vệ quân bao vây, nàng thét lên một tiếng múa kiếm như gió, lập tức vạch ra mấy luồng kiếm quang nhanh như điện xẹt. Tên giáo đầu của Cấm vệ quân tuy võ công không kém nhưng cũng bị kiếm pháp kỳ môn của nàng đánh cho tối tăm mặt mũi, thối lui ra phía sau liền mấy bước. Dịch Lan Châu phóng vọt ra khỏi phòng, vội vàng chạy về phía trước. Bọn Cấm vệ quân từ bốn phương tám hướng đuổi theo lưng nàng. Trong cơn nguy cấp đó, nàng thấy Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên cùng với Thuận Trị và Khang Hy đứng trước mộ Đổng Tiểu Uyển.
            Bọn Cấm vệ quân chợt thấy Khang Hy đứng ở đấy, mà nàng thiếu nữ đứng bên cạnh Khang Hy lại gọi người mà bọn chúng truy đuổi, bất giác cả kinh nên đều đứng từ xa chờ đợi.
            Nhà sư già từ từ đứng dậy, nói với Khang Hy: “Đừng làm khó họ”. Khang Hy im lặng không đáp, nhà sư già phẫy tay nói: “Các người hãy xuống cả đi”. Rồi lấy ra một chuỗi ngọc sáng lấp lánh trao cho Mạo Hoàn Liên: “Cô nương hãy cầm lấy, đây là di vật của mẹ cô nương”.
            Dịch Lan Châu càng kinh ngạc hơn lúc nãy. Chuyện đêm nay cứ như trong giấc chiêm bao. Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên lại đứng bên cạnh Hoàng đế, còn Du Long Kiếm Sở Chiêu Nam lại cùng võ sĩ áo đen Diêm Trung Thiên cầm kiếm đứng sau. Nàng định thần, nói: “Tôi còn có một người bằng hữu nữa”. Nhà sư già nói: “Các người hãy đi cả đi”. Khang Hy không nén được cơn giận, nói: “Chả lẽ ta phải tìm đồng bọn cho các người”. Nhà sư già mặt hơi biến sắc, nói với Khang Hy: “Con nói gì?” Võ sĩ tâm phúc của Khang Hy là Diêm Trung Thiên lớn gan bước tới nói: “Không biết ai đã bắt đồng bọn của ả, chùa Thanh Lương lại lớn, trong nhất thời cũng khó tìm ra. Xin Hoàng thượng hãy giao chuyện này cho nô tài, nếu tìm ra nô tài sẽ đưa y xuống núi”. Khang Hy nháy mắt với Diêm Trung Thiên, lớn giọng dặn rằng: “Rất tốt, cứ làm thế, ngươi hãy dắt một trăm thị vệ đi điều tra, nhớ phải lục soát kỹ càng”. Diêm Trung Thiên lãnh chỉ toan bước chân đi, Khang Hy chợt gọi y lại nói: “Khoan đã, ngươi hãy cho Phó Thống Lĩnh Cấm vệ quân Trương Thừa Bân biết ý của ta, rồi mau chóng trở lại gặp ta”. Diêm Trung Thiên kêu vâng một tiếng rồi lãnh chỉ lui xuống, Phó Thanh Chủ tuy biết có gian trá nhưng nếu mình không đi thì sẽ có biến. Ông ta hơi gật đầu với nhà sư già rồi lại gọi Mạo Hoàn Liên và Dịch Lan Châu: “Chúng ta đi thôi!” Nhà sư già cười buồn bã: “Các người cũng nên đi thôi”. Nói xong thì nhìn Khang Hy nói: “Truyền chỉ thả người!” Khang Hy miễn cưỡng nói: “Thả người!” bọn Cấm vệ quân trả lời: “Thả người!” rồi từng người một truyền xuống, nhờ đó bọn Phó Thanh Chủ dễ dàng thoát ra ngoài.
            Lúc này bọn Phó Thanh Chủ đã bình an xuống núi, nhưng trong chùa Thanh Lương thì có chuyện lớn xảy ra. Phó Thống Lĩnh Cấm vệ quân Trương Thừa Bân dắt theo một trăm thị vệ cung đình tìm kiếm khắp nơi để bắt cho bằng được Trương Hoa Chiêu.
            Lại nói sau khi Trương Hoa Chiêu ngất đi, trong mơ màng chàng chợt thấy có luồng khí lạnh xông thẳng vào đầu. Chàng mở mắt nhìn ra chỉ thấy một thiếu niên ăn mặc sang trọng phun nước lạnh vào chàng, chàng thiếu niên này chính là Nạp Lan Dung Nhược. Lúc này Trương Hoa Chiêu biết mình nằm trong một căn thư phòng trang nhã, trầm hương vờn quanh, sách chất đầy vách. Chàng toan ngồi dậy nhưng toàn thân yếu ớt. Nạp Lan Dung Nhược cười nói: “Tốt rồi, huynh đài đã tỉnh dậy, đừng cử động. Huynh đài ra máu quá nhiều lúc nãy mới cầm!”.
            Trương Hoa Chiêu liếc nhìn Nạp Lan Dung Nhược, trong lòng rất lấy làm lạ, chỉ đành đáp tạ. Lúc này bên ngoài cửa chợt sáng trưng, ánh lửa len vào, tiếng người quát tháo ầm ĩ. Nạp Lan Dung Nhược lấy tấm mền lông ngỗng đắp phủ đầu Trương Hoa Chiêu rồi mở bật cửa phòng, quát hỏi: “Chuyện gì?”.
            Trương Thừa Bân thấy người đang đứng trước mặt mình là con trai của Tướng Quốc Nạp Lan Dung Nhược. Y vội vàng xuôi tay nói: “Nô tài vâng chỉ bắt đào phạm, không muốn kinh động đến công tử”. Nạp Lan Dung Nhược cười lạnh, đưa tay nói: “Xin mời, ta chuyên giấu khâm phạm ở đây! Các người hãy mau vào tra xét!” Trương Hoa Chiêu nằm bên trong mà toát mồ hôi lạnh.
            Muốn biết Trương Hoa Chiêu có thể thoát hiểm hay không, mời xem hồi sau sẽ rõ.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.11.2012 16:00:08 bởi casau >
            #6
              casau 01.11.2012 16:02:00 (permalink)
              Hồi 3
              Khí kiếm ánh ngọc bất giác tựa như ánh chiêm bao
              Tiếng đàn điệu sáo thở than khóc chẳng thôi


              Trương Thừa Bân làm thị vệ trong cung đã nhiều năm, làm sao không biết Nạp Lan Dung Nhược là người Hoàng đế quý mến, nghe Nạp Lan Dung Nhược nói như thế thì dù có gan to tày trời cũng không dám liều bước vào. Nạp Lan Dung Nhược lại cười lạnh: “Sao các người không vào? Kẻ đang nằm trên giường kia chính là khâm phạm!” Một tên thị vệ thò đầu vào trong, nói: “Công tử đã bảo chúng ta tra xét, chúng ta hãy vào xét, ta thấy hình như trên giường có một người đang nằm”. Nạp Lan Dung Nhược biến sắc, Trương Thừa Bân vội vàng bước tới vung tay tát một bạt tai vào mặt tên vệ sĩ ngu ngốc, quát: “Ngươi dám mạo phạm Nạp Lan công tử? Cút hết ra ngoài cho ta!” Tên thị vệ ấy lầm bầm: “Cút thì cút”. rồi lủi thủi bước ra ngoài. Nạp Lan Dung Nhược đóng sầm cửa lại, Trương Thừa Bân vẫn đứng bên ngoài cửa rối rít xin lỗi. Nạp Lan Dung Nhược chẳng thèm để ý, chạy đến giở tấm mền lông ngỗng ra xem, chỉ thấy Trương Hoa Chiêu toát đầy mồ hôi, nhưng trông tỉnh táo hơn rất nhiều.
              Trương Thừa Bân tìm khắp nơi mà chẳng bắt được người, chỉ đành quay về đợi lệnh. Y đến trước phòng Hoàng đế, định tìm Diêm Trung Thiên bẩm cáo hộ, nhưng bên ngoài chẳng có một tên thị vệ, bất giác lấy làm ngạc nhiên.
              Lại nói Khang Hy cùng nhà sư già trở về, trong lòng rất bực dọc, nhà sư già bước vào thiền phòng, ho sù sụ không dứt, Khang Hy vội vàng quỳ gối thỉnh an, nhà sư già nói: “Trên núi Ngũ Đài gió sương lạnh lẽo, con đã theo ta cả đêm nay, cũng nên nghỉ ngơi đi thôi”. Khang Hy cố nở nụ cười, nói: “Phụ hoàng vạn an”. rồi lui ra ngoài.
              Nhưng Khang Hy không hề nghỉ ngơi, y đi qua đi lại trong phòng, lúc thì cười lạnh, lúc thì lắc đầu, lúc lại thở dài, đột nhiên y đấm tay vào vách tường, đau đến nỗi suýt kêu lên. Lúc này bên ngoài có người gõ nhẹ cửa, Khang Hy hỏi: “Có phải Diêm Trung Thiên đấy không?” bên ngoài cửa trả lời vâng một tiếng, Khang Hy mở cửa phòng, lôi tuột Diêm Trung Thiên vào. Y ngửa đầu nhìn thư phòng một lúc rồi nói: “Bọn thị vệ có còn canh bên ngoài không?” Diêm Trung Thiên đáp: “Là nô tài lớn gan, biết Hoàng thượng thích yên tĩnh, e bước chân của chúng kinh động đến Thánh giá nên khi vào đã bảo bọn chúng ra canh bên ngoài đại điện”. Khang Hy gật đầu, mỉm cười: “Ngươi rất thông minh”.
              Khang Hy đóng cửa phòng, nghiêm mặt nói với Diêm Trung Thiên: “Ngươi đã ở trong đình nội bao nhiêu năm?” Diêm Trung Thiên giơ ngón tay lên đếm: “Mười lăm năm”. Khang Hy nói: “Vậy ngươi đã hầu hạ tiên hoàng được hai ba năm!” Diêm Trung Thiên nói: “Hoàng thượng soi xét, đúng là ba năm”. Khang Hy chợt sầm mặt, sát khí trỗi dậy.
              Diêm Trung Thiên thấy tim mình đập thình thình, Khang Hy lạnh lùng hỏi: “Vậy ngươi có biết lão hòa thượng giám tự trong chùa Thanh Lương là ai không?” Diêm Trung Thiên quỳ sụp xuống đất, trả lời: “Nô tài không biết”.
              Khang Hy gằng giọng nói: “Ngươi nói láo!” Diêm Trung Thiên vừa dập đầu vừa trả lời: “Hoàng thượng tha cho thần, lão hòa thượng ấy hơi giống tiên hoàng chỉ là ông ta đã già sắc mặt thay đổi, nếu không nhìn kỹ chẳng nhận ra”.
              Hoàng đế Khang Hy cười một tiếng rồi nói: “Đứng dậy, may mà ngươi còn trung thành với trẫm”. Diêm Trung Thiên khúm núm đứng lên, Khang Hy nhìn thẳng vào mặt y, nói: “Lão hòa thượng ấy chính là tiên hoàng”.
              Diêm Trung Thiên cúi đầu không dám đáp. Khang Hy lại nói: “Ngươi ngẩng đầu lên”. Diêm Trung Thiên ngẩng đầu lên, Khang Hy chợt hỏi: “Ngươi biết học sĩ Ngô Mai Thôn chết như thế nào không?” Diêm Trung Thiên run bần bật, trả lời: “Nô tài không biết”. Khang Hy lạnh lùng cười: “Chính là uống rượu độc của trẫm ban mà chết, y viết một bài thơ ngầm bảo tiên hoàng lên núi Ngũ Đài, lại nói con tiện tì Đổng Tiểu Uyển cũng lên núi. Hạng nô tài lớn gan như thế, ngươi bảo có nên chết hay không?” Diêm Trung Thiên sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, vội vàng quỳ sụp xuống đất, lại dập đầu lia lịa, nói: “Đáng chết! Đáng chết!” Khang Hy cười khan mấy tiếng, kéo y đứng dậy nói: “Ngươi rất giỏi, rất lanh lẹ, ngươi có biết tại sao giữa đêm khuya tại sao trẫm gọi ngươi hay không?”.
              Diêm Trung Thiên đổ mồ hôi toàn thân, thầm nhủ, đêm nay Hoàng đế cho y biết bí mật, chắc là có chứa thâm ý, nếu nắm bắt thời cơ này thì công danh lợi lộc gì cũng có. Nếu giải quyết không tốt có lẽ cũng sẽ chết oan như Ngô Mai Thôn. Y đánh liều trả lời: “Nô tài chỉ trung thành với một mình Hoàng thượng, hễ Hoàng thượng sai khiến, nô tài muôn chết cũng không từ”. Khang Hy mặt đầy sát khí, nói: “Vậy có cần trẫm sai khiến không?”.
              Nhà sư già ở phòng bên kia lại ho sù sụ một hồi, gõ vách hỏi: “Huyền Hoa, con đang nói chuyện với ai thế? Đêm đã khuya sao chưa ngủ?” Khang Hy dịu giọng đáp rằng: “Phụ hoàng không khỏe đấy sao, thần nhi sẽ qua thăm người”. Nhà sư già nói lớn: “Con rất có hiếu, không cần lo cho ta, cứ ngủ đi!” Khang Hy không đáp, kéo Diêm Trung Thiên nói: “Ta với ngươi đi thăm người, ngươi phải hầu hạ người cho tốt”.
              Nhà sư già thấy Khang Hy cùng Diêm Trung Thiên bước vào thì rất ngạc nhiên. Huyền Hoa tuy đã mấy lần lên núi Ngũ Đài, có lúc cũng dắt theo thị vệ tâm phúc nhưng chưa bao giờ nhận mình là phụ hoàng, đêm nay hành vi của y hơi kỳ lạ.
              Diêm Trung Thiên sắc mặt tái nhợt, hai tay run bần bật, nhà sư già nhìn y, Khang Hy nói: “Phụ hoàng, đây là thị vệ lúc trước của người, thần nhi dắt y đến hầu hạ người”. Nhà sư già ho một hồi, xoay người hỏi: “Ngươi tên gì?” Diêm Trung Thiên đáp: “Nô tài tên gọi Diêm Trung Thiên, đã hầu hạ bệ hạ ba năm”. Nhà sư già vẫn còn nhớ, ông ta mỉm cười nói: “Tốt lắm, tốt lắm! Ngươi đỡ ta ngồi dậy!”.
              Diêm Trung Thiên từ từ bước tới, hai tay nâng be sườn của nhà sư già, ông ta ngẩng đầu lên, thấy mắt y hằn lên tia máu, mặt đầy sát khí thì cả kinh quát: “Ngươi làm gì thế?” Thuận Trị dẫu sao cũng đã từng làm Hoàng đế, tuy làm hòa thượng nhưng uy nghiêm vẫn còn, Diêm Trung Thiên bị y quát thì hai tay buông ra, toàn thân run bần bật như phát sốt, nhà sư già mất chỗ dựa, té xuống giường. Khang Hy run giọng quát: “Ngươi... ngươi còn chưa mau đỡ phụ hoàng dậy!” Diêm Trung Thiên định thần cúi người đỡ hòa thượng dậy, y nhắm mắt dùng lực kẹp một cái, chỉ nghe nhà sư già kêu thảm: “Huyền Hoa, ngươi giỏi lắm!”.
              Bậc quân chủ khai quốc của triều Thanh không chết dưới kiếm của kẻ thù mà chết bởi tay của con mình!
              Diêm Trung Thiên đứng dậy, chỉ cảm thấy toàn thân bải hoải, y nhìn Khang Hy, lúc này sắc mặt của Khang Hy cũng xám ngoét như xác chết. một lúc lâu sau, Khang Hy thở phào nói: “Ngươi làm rất tốt, đi theo trẫm”.
              Diêm Trung Thiên theo Khang Hy quay trở lại căn phòng bên cạnh, Khang Hy cầm bầu rượu rót một chén rượu đưa tới nói: “Ngươi hãy uống chén rượu cho đỡ sợ”. Diêm Trung Thiên chợt nhớ đến Ngô Mai Thôn, mồ hôi lạnh toát ra, y chần chừ không dám cầm lấy. Khang Hy mỉm cười nói: “Việc lớn đã xong, vua tôi chúng ta cùng cạn chén”. Nói rồi uống cạn rượu trong chén, lại rót đầy một chén, cười nói: “Từ nay ngươi là người tâm phúc nhất của trẫm, ngày mai ngươi sẽ là thủ lĩnh Cấm vệ quân, tước hiệu Thái Tử Thiếu Bảo, ngươi hãy làm cho tốt!” Diêm Trung Thiên mừng rỡ, lập tức phấn chấn tinh thần, quỳ xuống dập đầu mấy cái rồi bưng chén rượu uống cạn.
              Trong phòng tối, hai người vua tôi nhìn nhau cười. Ngay lúc này, bên ngoài cửa sổ cũng có một tiếng cười lạnh vọng vào, Khang Hy biến sắc, Diêm Trung Thiên nhảy vọt ra, chỉ thấy có một bóng người mặc đồ xám bay lướt trên mái ngói lưu li. Trong số các thị vệ đại nội, Diêm Trung Thiên có công phu giỏi nhất, công lực chẳng kém gì Sở Chiêu Nam, y cũng phóng vọt người lên mái ngói. Người ấy đột nhiên chạy chậm lại tựa như có ý cười y, Diêm Trung Thiên vung tay chụp tới, người ấy chỉ chờ có thế liền nắm lấy tay y bẻ ngoặt lại, Diêm Trung Thiên chỉ cảm thấy như bị gọng kìm kẹp lấy, bản thân y đã luyện công phu ưng trảo mấy mươi năm mà vẫn không thi triển nổi. Người ấy chợt quát: “Diêm Trung Thiên, ngươi chết đến nơi mà vẫn chưa biết, còn đánh với ta ư? Ngươi đã uống rượu độc! Mau ngừng tay để ta xem thử có có cách gì cứu hay không?” Diêm Trung Thiên thất kinh, chỉ cảm thấy, mắt tối sầm, trời xoay đất chuyển, chân đứng chẳng còn vữang thế là lăn xuống bên dưới.
              Người áo xám vung tay chụp lấy đai áo kéo y lại giữ chặt, tay kia lấy ra một cây ngân châm đâm vào huyệt Thiên Khu ở xương sống lưng của y. Diêm Trung Thiên kêu ối chao một tiếng, người áo xám lật người y lại, dùng lực bóp một cái, Diêm Trung Thiên há mồm ra, người áo xám không để y lên tiếng đã nhét ba viên thuốc màu xanh lục vào mồm y, hỏi: “Thế nào?” Diêm Trung Thiên gật đầu, nói: “Đa tạ!” y thấy toàn thân tuy ngứa ngáy nhưng tinh thần vẫn còn tỉnh táo. viên thuốc của người áo xám được bào chế bằng tuyết liên mọc trên Thiên Sơn với các loại thuốc khác, có thể giải được bách độc. Diêm Trung Thiên nhờ có nội lực thâm hậu, bởi vậy tuy uống phải chất độc rất mạnh nhưng tạm thời vẫn chống chọi được.
              Lúc này bọn thị vệ đã chạy tới. Người áo xám nói với Diêm Trung Thiên: “Ngươi hãy mau theo ta xuống núi, ta sẽ chữa trị cho ngươi, ngươi không đến nỗi mất mạng!” Diêm Trung Thiên theo người áo xám nhảy xuống, quát: “Các người làm gì thế? kẻ địch đã đi từ lâu. Ta phải xét”. Bọn thị về đều biết Diêm Trung Thiên là người được Hoàng đế tin dùng nhất, quyền lực trong cung còn lớn hơn cả Phó thống lĩnh Cấm vệ quân Trương Thừa Bân. Bọn chúng thấy y đi cùng người áo xám, tuy ngạc nhiên nhưng đều nghĩ rằng đó là bậc kỳ nhân dị sĩ do y mời tới bởi vậy không ai dám hỏi, cứ để mặc cho họ xuống núi. Trước khi đi Diêm Trung Thiên còn căn dặn bọn chúng không được kinh động đến Hoàng đế.
              Lại nói sau khi Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên đến núi Ngũ Đài, quần hùng trong Võ gia trang đều lo lắng, chẳng ai chịu đi ngủ. Đến nửa đến nghe nói Dịch Lan Châu cũng mất tích thì càng lo hơn. Mọi người đành chờ đến suốt đêm mà vẫn không thấy họ trở về. Võ trang chủ ra lệnh cho trang đinh chuẩn bị, lại sai vài trang đinh cải trang làm nông phu ra đồng làm việc, tiện thể nghe ngón tin tức.
              Mọi người trong Võ gia trang đều lo lắng, chỉ có một mình Võ Thành Hóa là vẫn cười đùa vô tư, mới sáng sớm cậu bé đã thức dậy cùng với tỷ tỷ là Võ Quỳnh Giao ra hậu sơn hái hoa đỗ quyên. Võ Quỳnh Giao mới mười sáu tuổi, cũng là một tiểu cô nương hồn nhiên, hôm ấy khí trời mát mẻ, trong gió xuân có pha lẫn mùi thơm của bùn mới, lại còn thoang thoảng mùi hương hoa, đúng là một ngày đẹp trời hiếm có. Thế là hai chị em len lén ra hậu sơn.
              Sơn cốc ở hậu sơn Võ gia trang đã có núi Ngũ Đài che chắn nên khí hậu tương đối ấm áp, lúc này là tháng ba mùa xuân, hoa đỗ quyên nở đỏ rực cả sườn núi. Trong buổi sáng sớm, sương vẫn còn đọng, chim hót véo von, suối chảy róc rách, Võ Quỳnh Giao vừa hái hoa với em trai vừa hát lên bài xuân cả: “Mùa xuân đến, khắp núi hoa đỗ quyên. Đỗ quyên ơi, hãy nở thật đẹp. Khách phươg xa hãy nghỉ ngơi thôi, mang một đóa hoa để hương hoa cùng người trở về...”.
              Nàng vẫn hát chưa xong, chợt nghe Võ Thành Hóa kêu lớn: “Tỷ tỷ!”.
              Võ Quỳnh Giao đưa mắt nhìn ra, chỉ thấy ở sườn núi có một Lạt ma mặc tăng bào màu đỏ bước tới, mặt y đen như nhọ nồi, mũi hếch lên trời, trông rất kỳ quái. Võ Quỳnh Giao nói: “Thành Hóa, cứ mặc y”. Nàng vừa nói vừa bật cười lên. Nàng chưa bao giờ thấy một người kỳ dị như thế.
              Lạt ma ấy thấy một tiểu cô nương xinh xắn nhìn y cười thì bước tới nói xí xô xí xà mấy câu, Võ Quỳnh Giao không biết tiếng Tạng chỉ lắc đầu, Hồng Y lạt ma chỉ tay tới phía trước, Võ Quỳnh Giao tưởng y muốn đánh mình nên vọt sang một bên, Lạt ma chợt mở miệng cười hì hì vẫy tay bước tới. Võ Thành Hóa thấy y đuổi theo chị mình, trong lòng rất tức giận, tiện tay nhặt một nắm đất ném bốp vào mặt y, Hồng Y lạt ma kêu lên oai oái, Võ Thành Hóa lộn người qua đầu Lạt ma, kéo cổ áo của y về phía trước, Lạt ma quát lớn một tiếng ngã người ra sau, Võ Thành Hóa đã buông tay hạ xuống đất. Hồng Y lạt ma vung đôi bàn tay to bè chụp xuống, Võ Thành Hóa lướt người qua như cá trạch, Hồng Y lạt ma không chụp được cậu bé. Võ Quỳnh Giao sợ em trai gặp nguy nên vội vàng chạy đến giúp, triển khai Du Thân chưởng pháp của phái Chung Nam luồn qua lách lại như bươm bướm xuyên hoa. Lạt ma ấy tựa như đã luyện được đến mức mình đồng da sắt, tuy bị trúng đòn mà vẫn không hề cảm thấy đau, y tức giận đến nỗi mắng bừa một hồi.
              Chị em Võ Quỳnh Giao đang đánh rất hăng, chợt nghe một giọng nói già nua vang lên: “Thành Hóa, đừng làm càn!” Võ Thành Hóa nhìn lại chỉ thấy Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên, Dịch Lan Châu đang bước về phía mình, trong lòng cả mừng, gọi Võ Quỳnh Giao rồi cả hai chạy tới. Hồng Y lạt ma đuổi theo, bị Phó Thanh Chủ chụp hai tay giữ lại, chẳng thể nhúc nhích. Hồng Y lạt ma toan mở miệng mắng, Dịch Lan Châu lại bước tới, cũng nói xí xô xí xà vài câu. Hồng Y lạt ma nở nụ cười, Phó Thanh Chủ buông tay ra, y lại chỉ tay về phía trước, trọ trẹ nói bằng tiếng Hán: “Ta tìm Võ gia trang”.
              Té ra Dịch Lan Châu lớn lên ở miền hoang mạc, hiểu tiếng Tạng. Nàng thấy Hồng Y lạt ma vừa đánh vừa mắng hai chị em Võ Quỳnh Giao: “Hai tên nhãi nhép nhà ngươi thật vô phép! Ta chỉ hỏi đường mà các ngươi lại đánh ta, chả lẽ người Hán vô lý đến thế sao?” nàng mới nói cho Phó Thanh Chủ biết, Phó Thanh Chủ mới nhận ra Lạt ma ấy là kẻ đã đi cùng Sở Chiêu Nam lên núi Ngũ Đài, nghe Dịch Lan Châu nói như thế thì nghĩ y hình như không có ý xấu, không biết là địch hay bạn, trong lòng rất nghi hoặc. Bởi vậy mới đến giữ y lại.
              Lúc này Dịch Lan Châu làm thông dịch cho hai bên, chỉ thấy y chỉ Phó Thanh Chủ nói: “Đêm qua vị cư sĩ này đã đánh Sở Chiêu Nam rơi xuống vực, tôi xuống tìm suýt nữa bị Sở Chiêu Nam đánh chết, may mà có một người Hán đến cứu, sau mấy chiêu người này đã đánh Sở Chiêu Nam bỏ chạy. Người ấy bảo tôi đi tìm Võ gia trang. Nào ngờ lại gặp phải hai đứa trẻ chẳng biết lý lẽ này”. Phó Thanh Chủ nghe thế thì rất lấy làm lạ, không hiểu Sở Chiêu Nam đi cùng với y sao lại đánh nhau? Vả lại võ công của Sở Chiêu Nam không kém, ai có thể đuổi được y?
              Phó Thanh Chủ rất nghi hoặc, bảo Dịch Lan Châu hỏi Lạt ma ấy người Hán mà y gặp là người thế nào, Lạt ma ấp úng nói chẳng rõ, đột nhiên y chỉ tay nói với Dịch Lan Châu: “Không cần hỏi nữa, đó chẳng phải y sao!” nói chưa xong ở sườn núi lại có hai hán tử ăn mặc rất kỳ lạ, một người mặc đồ dạ hành màu xám, một người ăn mặc theo kiểu vệ sĩ trong cung. Dịch Lan Châu thấy thế thì kêu ồ một tiếng, cười rạng rỡ chạy tới tựa như gặp phải người thân.
              Dịch Lan Châu chạy nhanh, Phó Thanh Chủ càng nhanh hơn nàng, ông ta phất ống tay áo phóng vọt lên lướt qua Dịch Lan Châu, nhẹ nhàng hạ xuống trước mặt hai người đó, nắm tay Diêm Trung Thiên nói: “Đại vệ sĩ, ngươi cũng đến đây đấy ư?” người áo xám gạt ngang tay qua, nói: “Đừng khách sáo, đừng khách sáo!” bàn tay của Phó Thanh Chủ như chạm phải củi khô, ông ta búng ngón tay vào huyệt Kiên Tỉnh trên vai của người áo xám, người áo xám không hề né tránh mà tiến lên chịu cú búng của Phó Thanh Chủ mà chẳng hề có phản ứng gì, mỉm cười nói: “Lão tiền bối đừng đùa với vãn bối!” rồi y thối lui ra sau, vái dài nói: “Vãn bối xin ra mắt”. Phó Thanh Chủ nào dám chậm trễ, cũng chắp tay trả lại một vái, cả hai bên đều thấy chưởng phong nổi lên, Phó Thanh Chủ thối lui đến ba bốn bước, người áo xám cũng hơi lắc lư.
              Lúc này Dịch Lan Châu đã chạy tới, chen vào giữa hai người, nói với Phó Thanh Chủ: “Phó bá bá, đây chính là Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong!” rồi quay sang Lăng Vị Phong nói: “Đây là lão tiền bối Phó Thanh Chủ của phái Vô Cực”. Lăng Vị Phong kêu ối chà một tiếng rồi nói: “Té ra là thần y Phó lão tiên sinh ở đây, thất kính, thất kính!” rồi vội vàng thi lễ, lần này là thi lễ thật sự chứ không phát chưởng phong ra.
              Phó Thanh Chủ thấy y gọi mình là thần y, biết y chỉ khâm phục y thuật của mình chứ không phải võ công, mỉm cười thầm nhủ: “Võ công của ngươi hơi giỏi hơn ta, nhưng nếu chỉ trong vài ba chiêu mà đánh bại Sở Chiêu Nam thì thật khó tin”. Ông ta không biết Lăng Vị Phong có quan hệ sâu xa với Sở Chiêu Nam, Sở Chiêu Nam vừa nhận ra chiêu số của y đã hoảng lên, bởi vậy mới trúng một chưởng nên vội vàng bỏ chạy. Nên đêm qua khi dò thám núi Ngũ Đài, Phó Thanh Chủ giao thủ với Sở Chiêu Nam, phát hiện công lực của y giảm đi rất nhiều, té ra Sở Chiêu Nam vừa trúng một chưởng của Lăng Vị Phong.
              Thế rồi Phó Thanh Chủ cũng thi lễ lần nữa, lúc này ông ta mới nhìn kỹ Lăng Vị Phong, chỉ thấy nhân vật truyền kỳ ở ngoài đại mạc này chỉ vừa phải chẳng hề cao lớn, điều đặc biệt là trên mặt có hai vết đao rất khó coi. Lăng Vị Phong thấy Phó Thanh Chủ nhìn mình, cười rằng: “Phó tiên sinh, nhờ ông hãy xem giúp cho tôi người bằng hữu này!” Phó Thanh Chủ nhìn sang Diêm Trung Thiên, không khỏi kêu lên, rồi kéo Diêm Trung Thiên chạy đi, Lăng Vị Phong cũng ngạc nhiên chạy theo sau. Phó Thanh Chủ kéo Diêm Trung Thiên đến bên dòng suối, bảo rằng: “Ngươi hãy uống vài ngụm nước rồi phun lên hoa đỗ quyên”. Diêm Trung Thiên làm theo, chỉ thấy hoa đỗ quyên đang tươi roi rói, vừa bị phun nước thì lập tức khô héo, từng cánh hoa rơi xuống lả tả.
              Lăng Vị Phong thấy thế thì hỏi: “Đây là chất độc gì mà lợi hại đến thế?” Phó Thanh Chủ thấy hoa đỗ quyên từ màu đỏ biến thành màu trắng, kinh ngạc vô cùng, nói: “Khang Hy thật thâm độc, đây là loại độc dược được bào chế bởi độc khổng tước ở Tây Tạng và hạc đỉnh hồng Điện Trì. Uống trúng loại độc này không đầy nửa canh giờ thì xương thịt sẽ tiêu tan, làm sao ngươi có thể cầm cự được đến lúc này?” Lăng Vị Phong nói: “Tôi đã cho y uống Bích Linh Đơn”. Phó Thanh Chủ gật đầu, im lặng không nói, lại kéo Diêm Trung Thiên đi, nhưng lần này thì đi rất chậm, Diêm Trung Thiên muốn thi triển khinh công nhưng bị ông ta kéo lại. Diêm Trung Thiên thấy hoa đỗ quyên đổi màu thì kinh hoàng biến sắc, hỏi Phó Thanh Chủ: “Có thể giải được không?”.
              Phó Thanh Chủ nói: “Ta sẽ cố hết sức”. Lăng Vị Phong nói: “Nếu loại rượu độc này lợi hại đến thế, sao Khang Hy lại uống trước một chén”. Phó Thanh Chủ nói: “Muốn giải loại độc này thì phải dùng nhân sâm trên núi Trường Bạch, Thiên Sơn Tuyết Liên, hoa Mạn Đà La ở Tây Tạng, giã nát cùng với Ngọc Điền Mỹ, sau đó hòa tan với nước dãi chim hạc thì luyện thành thuốc giải. Vả lại phải uống ngay, Thiên Sơn Tuyết Liên chỉ là một trong những vị làm thuốc giải. Khang Hy dám uống rượu độc trước đương nhiên đã uống thuốc giải”. Diêm Trung Thiên lo lắng, nói: “Những loại thuốc này đều rất qúy hiếm, ngoại trừ trong đại nội, chúng ta biết tìm ở đâu?” Phó Thanh Chủ nói: “Nếu là người khác uống phải loại độc này chắc chắn chẳng thể cứu nổi. Ta đã có cách, ngươi không cần hỏi, hãy đi theo ta”.
              Rồi cả bọn kéo về Võ gia trang, chị em Võ Quỳnh Giao biết Hồng Y lạt ma không phải người xấu nên đều đã bước tới xin lỗi, Võ Thành Hóa cười hì hì chỉ Lạt ma rồi lại chỉ mình nói: “Lần này tôi đánh ông một trận, ông đừng trách, lần sau ông đánh nhau với người ta, tôi sẽ giúp!” Lạt ma ấy tuy không hiểu nhưng cũng đoán được ý của cậu bé nên cũng cười khì.
              Võ trang chủ và Hàn Chí Bang chạy ra nghênh đón, Hàn Chí Bang thấy Lăng Vị Phong thì mừng rỡ kêu lên: “Khách quý! Khách quý!” Lăng Vị Phong nói: “Hàn tổng đà chủ, huynh sai người tìm tôi, nhưng tôi cũng đang muốn tìm huynh”. Hàn Chí Bang cười hì hì kéo tay chàng: “Tôi không còn là Tổng đà chủ nữa, huynh có muốn gặp tân Đà chủ của chúng tôi không?” rồi kéo chàng chạy vội vào trong, kêu lên: “Lưu cô nương, tôi đã mời được Thiên Sơn Thần Mãng đến đây, mời cô nương ra gặp!” rồi quay sang Lăng Vị Phong nói: “Đà chủ mới của chúng tôi là nữ trung hào kiệt, cũng là người tôi khâm phục nhất”.
              Nói vừa dứt lời, Lưu Úc Phương cùng Thông Minh hòa thượng từ trong bước ra, Thông Minh hòa thượng bước tới kêu lên: “Ai là Thiên Sơn Thần Mãng?” Lăng Vị Phong đưa tay ra, Thông Minh hòa thượng dùng lực bóp mạnh, thầm nhủ: “Phải xem thử công lực của Thiên Sơn Thần Mãng nhà ngươi thế nào!” Lăng Vị Phong tựa như biết ý của ông ta, cười nói: “Đại sư đừng dùng lực như thế!” Thông Minh hòa thượng nắm tay Lăng Vị Phong, chỉ cảm thấy mềm mại tựa như nắm vào một khối bông, đang lấy làm lạ thì khối bông biến thành khối sắt, Thông Minh hòa thượng đau nhói vội vàng buông tay nói: “Công phu giỏi, ta phục!”.
              Lúc này Lưu Úc Phương đã bước tới, mỉm cười: “Đại sư đừng làm càn!” lời lẽ vẫn rất dịu dàng nhưng sự dịu dàng ấy khiến cho Lăng Vị Phong xao xuyến.
              Lăng Vị Phong giật mình xao xuyến, nhưng làm ra vẻ hờ hững nói: “Đây có phải là Lưu Úc Phương cô nương hay không? Chúc mừng cô đã trở thành Tổng đà chủ”. Rồi lại cười rằng: “Giờ đây Giang Nam đang ấp áp, Lưu Tổng đà chủ từ Giang Nam đến miền tây bắc lạnh lẽo chẳng lẽ chỉ vì thằng giặc Đa Thích hay sao?” Lưu Úc Phương ngạc nhiên, nghĩ bụng người này ăn nói chẳng hề lễ phép tí nào, cười gượng rằng: “Ý của Lăng anh hùng là chúng tôi không nên đến đây?” Lăng Vị Phong nói: “Tôi nào dám nói thế, nhưng nếu chỉ vì một tên Đa Thích, không cần hưng sư động binh, muốn quan phục sông núi của Hán tộc đâu phải chỉ là ám sát một hai người”. Thông Minh hòa thượng rất không vui, nói: “Chúng tôi ở miền Giang Nam bị quan quân bao vây, chẳng còn chỗ đứng chân nên mới chạy đến tây bắc, chẳng qua chúng tôi vô tình gặp được Đa Thích mà thôi. Có phải Lăng anh hùng cười chúng tôi hay không?” Lăng Vị Phong cười nói: “Nào dám, nào dám! Song muốn làm chuyện lớn ta thấy chi bằng về miền nam thì hơn”. Phó Thanh Chủ hỏi: “Sao lại nói thế?” Lăng Vị Phong chỉ Hồng Y lạt ma nói: “Y mang đến một bí mật to lớn, vào trong rồi nói tiếp. Nhưng trước tiên mời tiên sinh hãy chữa trị cho bằng hữu này” rồi chỉ Diêm Trung Thiên.
              Lưu Úc Phương thấy cử chỉ của Lăng Vị Phong thì chợt dấy lên tâm sự, thần thái của chàng ta rất giống một người bạn thời thiếu niên, nhưng mặt mũi thì khác hẳn. Người bạn ấy là một thiếu niên anh tuấn, mà Lăng Vị Phong lại trông rất khó coi, nàng không khỏi nhìn Lăng Vị Phong kỹ hơn.
              Lại nói sau khi mọi người vào trong nội sảnh, Phó Thanh Chủ dắt Diêm Trung Thiên vào tịnh thất, nói: “Người khác uống rượu độc đúng là chẳng thể cứu được. May mà ngươi được Lăng Vị Phong cho uống Thiên Sơn Tuyết Liên, tạm thời có thể cầm cự được, vả lại ngươi đã luyện nội công, có thể thử dùng khí công để bình tâm tịnh khí, giữ ý ở Đan Điền, ngồi đả tọa hai mươi bốn canh giờ, đẩy độc khí đến ruột, sau đó ta sẽ dùng thúc tả đẩy chất độc ra ngoài rồi dùng thuốc cố bản bồi nguyên, có lẽ sẽ khỏi thôi”. Diêm Trung Thiên cả mừng cảm tạ, hỏi Phó Thanh Chủ tư thế đả tọa chữa trị bằng khí công và phương pháp hít thở, té ra tư thế này cũng chẳng khác gì với phương pháp tọa công mà y học được, nên lập tức nhắm mắt ngồi xếp bằng trong tịnh thất.
              Phó Thanh Chủ làm xong mọi chuyện bước ra ngoài, thấy quần hùng trong khách sảnh im lặng như tờ, sắc mặt căng thẳng. Lăng Vị Phong cười nói: “Phó lão tiền bối đã đến, có thể thương lượng một chút”. Phó Thanh Chủ hỏi: “Chuyện gì thế?” Lăng Vị Phong cười nói: “Đêm qua Phó tiên sinh và Mạo tiểu thư đến núi Ngũ Đài, có nghe được Sở Chiêu Nam nói với Hoàng đế điều gì không?”Phó Thanh Chủ nghĩ ngợi một hồi thì nói: “Hình như bọn họ nhắc đến Ngô Tam Quế, Khang Hy có vẻ rất tức giận”. Nói xong thì đột nhiên nhớ lại một chuyện, hỏi Lăng Vị Phong: “Đêm qua chắc thiếu hiệp đã dùng phi hoàng thạch đánh vỡ đèn lưu trên tháp đồng?” Lăng Vị Phong gật đầu: “Đúng thế!” Phó Thanh Chủ lại hỏi: “Tại sao bọn họ lại nhắc đến Ngô Tam Quế?”.
              Lăng Vị Phong cười rằng: “Ngô Tam Quế sắp phản Thanh”. Phó Thanh Chủ thất kinh, nửa tin nửa ngờ.
              Ngô Tam Quế là đại Hán gian dẫn quân Thanh nhập quan, lúc đó được phong làm Bình Tây vương, phủ đệ ở Côn Minh, được phong đất ở Vân Nam, Tứ Xuyên, là một phiên vương quan trọng nhất của nhà Thanh. Lăng Vị Phong nói y sắp phản triều đình, tin này quả thật rất bất ngờ.
              Lăng Vị Phong thấy Phó Thanh Chủ nửa tin nửa ngờ thì cười rằng: “Hồng Y lạt ma và Diêm Trung Thiên có thể làm chứng!” Số là quân Thanh nhập quan được phản thần triều Minh là Ngô Tam Quế, Thượng Khả Hỷ, Cẩn Trọng Minh giúp đỡ rất nhiều, trong đó công lao của Ngô Tam Quế là lớn nhất, sau khi Mãn Thanh nhập quan, ngoại trừ Ngô Tam Quế được phong Bình Tây vương, Thượng Khả Hỷ được phong làm Bình Nam Vương, cai quản vùng Quảng Đông, Cẩn Trọng Minh được phong là Tĩnh Nam Vương cai quản vùng Phúc Kiến, cả ba người này gọi là Tam Phiên. Sau khi Khang Hy nối ngôi, Trung Nguyên đã định, chế độ thống trị của Mãn Thanh đã vững chắc. Khang Hy là một ông vua hùng tài đại lược, làm sao có thể để Tam Phiên củng cố thế lực? Bởi vậy đã ngầm sai người bảo Tam Phiên tự rút lui, Ngô Tam Quế, Cẩn Tinh Trung (tức là cháu của Cẩn Trọng Minh, lúc đó kế vị Tĩnh Nam Vương) không thèm để ý, vẫn chưa tin rằng đó là ý của triều đình, Thượng Khả Hỷ thì càng xảo quyệt hơn, năm Khang Hy thứ mười đã dâng tấu xin nhường chức vị phiên vương cho con trai của mình là Thượng Chi Tín. Không ngờ sau khi dâng tấu, Khang Hy đã ngự phê không chấp nhận, lại còn bảo Thượng Khả Hỷ dắt theo bộ tướng đến Liêu Đông dưỡng lão. Ngự phê ban xuống, Ngô Tam Quế thấp thỏm không yên, sợ rằng việc tước phiên sẽ thành sự thực, vì thế nổi lòng phản Thanh.
              Lúc đó triều đình vẫn chưa củng cố thế lực ở vùng Mông Tạng, Ngô Tam Quế phái tâm phúc Sở Chiêu Nam đến Tây Tạng gặp Hoạt Phật, hẹn rằng nếu chiến sự nổ ra mà Ngô Tam Quế chiếm thượng phong thì vùng Mông Tạng cũng dấy binh, nếu Ngô Tam Quế chiếm hạ phong thì mời Hoạt Phật Đạt Lai ra điều đình. Đó cũng là kế sách thối lui mà Ngô Tam Quế đã dự liệu. Y vốn không phải dành lại giang sơn Hán tộc mà chỉ là bảo vệ cho lợi ích của mình, ngoại trừ liên lạc với Hoạt Phật Đạt Lai, Ngô Tam Quế còn sai người đến gặp Thượng Khả Hỷ, Cẩn Tinh Trung. Sở Chiêu Nam gặp Hoạt Phật Đạt Lai bàn bạc rất thuận lợi. Đạt Lai phái Hồng Y lạt ma cùng Sở Chiêu Nam về Vân Nam đợi lệnh. Khi đi ngang qua Sơn Tây, tiện đường đã ghé núi Ngũ Đài xem lễ, không ngờ Sở Chiêu Nam cũng là hạng chỉ biết công danh lợi lộc. Y ngầm quan sát tình thế, biết Ngô Tam Quế chắc chắn sẽ thất bại nên mới nổi lòng phản Ngô đầu Thanh. Bởi vậy y đã ngăn chặn quần hùng trên núi Ngũ Đài, rút kiếm cứu Đa Thích, Hồng Y lạt ma thấy y đột nhiên ra tay thì đã nhìn được mấy phần, sau đó Sở Chiêu Nam và Phó Thanh Chủ cùng rơi xuống vực sâu, Hồng Y lạt ma xuống tìm, Sở Chiêu Nam thấy y nói thì nghi ngờ, lập tức trở mặt, Hồng Y lạt ma tuy có luyện công phu Thiết Bố Sam nhưng không chống nổi nội công tinh thâm của Sở Chiêu Nam, nếu không gặp Lăng Vị Phong thì y đã chết bởi tay Sở Chiêu Nam.
              Lăng Vị Phong kể lại chuyện đã cứu Hồng Y lạt ma, mọi người đều không lên tiếng. Phó Thanh Chủ hỏi: “Vậy đêm hôm qua Khang Hy và Sở Chiêu Nam nói đến Ngô Tam Quế chắc là vì chuyện này”. Lăng Vị Phong nói: “Đúng thế. Tôi nghe Diêm Trung Thiên nói, Khang Hy cũng phái tâm phúc đến Quảng Đông và Phúc Kiến theo dõi Thượng Khả Hỷ và Cẩn Tinh Trung, ngoài ra còn sai người đến Tứ Xuyên, bảo Tổng Đốc vùng Xuyên Thiểm là Triệu Lương Đống đề phòng Ngô Tam Quế”.
              Lưu Úc Phương trầm ngâm một lúc lâu, chậm rãi nói: “Nếu là như thế, chúng ta phải đi trước tâm phúc của Khang Hy một bước”. Đang nói thì chợt nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, vó ngựa rầm rập.
              Lại nói Đa Thích bị quần hùng đánh đại bại tức giận vô cùng, đêm hôm qua Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên lại đến dò thám, gây náo loạn chùa Thanh Lương. Nửa đêm Đa Thích nghe tin báo thì càng phẫn nộ hơn, nhưng vì đang trọng thương nên không thể ngồi dậy, chỉ đành gọi Vương phi Nạp Lan đến hỏi, không ngờ chờ một lúc lâu Vương phi mới đến, vừa đến đã báo đã có người cứu Trương Hoa Chiêu. Đa Thích nổi lòng nghi ngờ, Trương Hoa Chiêu bị nhốt ở hậu đường, được người ta cứu đi tại sao mình chẳng nghe tiếng gì, vương Nạp Lan nhìn mặt thì biết ngay y nghi ngờ, mỉm cười nói: “Đó chỉ là chuyện nhỏ, Vương gia cứ nghỉ ngơi cho khỏe! Bọn chúng tuy là cao thủ nhưng thị vệ trong chùa nhiều như mây, cũng chẳng sợ bọn chúng chạy thoát”. Đa Thích thấy bà cười nói thì nào dám lên tiếng nữa. Y cũng không gọi bọn vệ sĩ canh giữ Trương Hoa Chiêu đến tra hỏi, thật ra dù y có hỏi cũng bằng thừa, vệ sĩ trong Ngạc vương phủ sợ Vương phi hơn Vương gia, mà chính Vương phi đã thả người nên bọn vệ sĩ nào dám tiết lộ.
              Nhưng Đa Thích lại có mưu kế khác, sáng sớm hôm sau đã gọi Phó thống lĩnh Ngự lâm quân Trương Thừa Bân đến, bảo y dắt ba ngàn quân cấm vệ đi lục soát ở các thôn làng gần đó.
              Võ gia trang là một thôn trang lớn dưới chân núi, Võ trang chủ lại là nhân vật có tiếng tăm trên giang hồ, Trương Thừa Bân cũng xuất thân từ giang hồ, cũng từng quen biết Võ trang chủ. Trương Thừa Bân vừa xuống núi thì đã đến Võ gia trang, những trang đinh cải trang thành nông phu làm việc trên đồng thấy thế thì lo lắng, bị Cấm vệ quân bắt tra hỏi, có người không chịu nổi đòn đã khai rằng trong trang có rất nhiều người khách. Trương Thừa Bân cả mừng, ra lệnh cho mấy ngàn quân cấm vệ lập tức bày ra trận thế, bao vây Võ gia trang.
              Quần hùng trong trang nghe tin báo đều lo lắng. Thông Minh hòa thượng rút đao, nói: “Chúng ta xông ra ngoài!” Võ Nguyên Anh vuốt râu không nói, Lưu Úc Phương nhìn Thông Minh hòa thượng nói: “Ứng phó thế nào, mong Võ lão anh hùng làm chủ”. Nàng biết chuyện ngày hôm nay không giống như lúc ở núi Ngũ Đài, hôm nay bị vây thì già trẻ lớn bé ở Võ gia trang đều bị liên lụy bởi vậy chẳng dám làm càn. Võ Nguyên Anh nói: “Để tôi ra ngoài xem thử, mọi người hãy tránh mặt”.
              Võ Nguyên Anh leo lên tường, chỉ thấy bên ngoài trang đao kiếm tuốt sáng ngời, ba ngàn quân cấm vệ mặc giáp dày, tên đã lắp vào cung tựa như sắp bắn ra. Trương Thừa Bân vừa thấy Võ Nguyên Anh bước ra thì nói lớn: “Hôm nay chúng tôi đến đây, sao Võ trang chủ không mời chúng tôi vào?” Võ Nguyên Anh thần sắc tự nhiên, lớn giọng đáp rằng: “Sơn trang thô lậu, khó đón đại quân. Xin mời các vị quan trưởng vào trong uống chén trà”. Trương Thừa Bân xưa nay cẩn thận, thấy vẻ mặt ông ta như thế thì vẫn do dự không quyết, thầm nhủ: “Tính ra Võ Nguyên Anh cũng là một thân sĩ, lại là bậc tiền bối võ lâm, nếu mình tìm không ra thì sẽ bị giang hồ cười chê”. Nhưng lúc này y không thể ngừng lại được nghĩ bụng có vào cũng chẳng sao, vì thế cao giọng đáp: “Nếu ông đã ngại tiếp đãi đại quân, tôi sẽ sai vài nha tướng cùng ba trăm quân sĩ vào trang, Võ trang chủ là tiền bối võ lâm chắc sẽ không dùng quỷ kế”. Y phất cờ lệnh lên, toán quân phía trước dãn ra, lộ ra mười cỗ đại pháo.
              Võ Nguyên Anh vốn muốn dụ Trương Thừa Bân vào bắt sống y làm con tin, thấy thế thì biết y có chuẩn bị, y chỉ phái nha tướng vào, dù có bắt bọn chúng cũng chẳng ích gì.
              Bên ngoài Võ trang chủ rất căng thẳng, bên trong quần hào cũng rất lo lắng. Lưu Úc Phương nói: “Chuyện đã đến nước này xem ra đành phải liều!” nàng cương quyết đứng dậy, nhưng chợt phát hiện hai người Hoa Tử Sơn và Dương Nhất Duy chẳng còn, nàng nhíu mày hỏi Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang cũng không biết họ đi đâu.
              Lại nói Diêm Trung Thiên ở trong tịnh thất ngồi đả tọa không lâu, quả nhiên thấy trong người khỏe rất nhiều. Diêm Trung Thiên nửa đời lo việc cung mã, vào sanh ra tử, bôn ba vì lợi lộc, chưa bao giờ tịnh tọa suy nghĩ cho kỹ. Lúc này ngồi đả tọa trong căn tịnh thất, ban đầu thì đầu óc trống rỗng chẳng có thứ gì. Đột nhiên suy nghĩ dâng trào, y nhớ lại sự tàn tệ của Hoàng đế, tấm lòng hiệp nghĩa của hiệp sĩ giang hồ, lại nhớ đến những chuyện mình đã từng làm, bất giác thiên lương trỗi dậy, càng nghĩ càng hổ thẹn, cả đời mình giống như làm ưng khuyển cho Hoàng đế, chuyên môn thay chủ nhân giết người thiện lương, mà nay người ta lại dốc hết sức cứu sống mình. Suy nghĩ của y cứ như cơn sóng dâng trào hết lớp này đến lớp khác, Phó Thanh Chủ bảo y ngồi tịnh tọa nhưng trong lòng y thì giống như một bãi chiến trường.
              Khi Diêm Trung Thiên đang suy nghĩ, bên ngoài vọng lại tiếng người nói chuyện, giọng nói rất nhỏ nhưng bên trong có thể nghe rất rõ ràng. Bên ngoài có hai người nói: “Cấm vệ quân bên ngoài đã bao vây, Dương đại ca, huynh tính thế nào?” Người kia đáp: “Chúng ta còn tính gì nữa, chẳng phải ngồi chờ chết hay sao! Hoa đại ca, chết thì cứ chết vậy. Nhưng tôi lại phải trách huynh, sao lại chỉ nghĩ đến bản thân mình. Tôi lo là hơn một ngàn già trẻ lớn bé trong Võ gia trang, e rằng hôm nay không thoát nổi trận hào kiếp!” người được gọi là Hoa đại ca thở dài nói: “Võ trang chủ là người tốt, không ngờ có kết quả như thế này!”.
              Diêm Trung Thiên nghe rõ từng câu từng chữ, nhất là câu “đừng chỉ nghĩ đến chuyện của mình”. Câu nói này tựa như muôn ngàn mũi tên đâm vào trong tim khiến y rất khó chịu. Y nghiến răng đứng dậy, mặc cho Phó Thanh Chủ đã dặn rằng phải ngồi tịnh tọa một ngày một đêm, y mở cửa phòng nhanh như cơn gió bước ra ngoài trang. Lúc này bọn trang đinh đang hốt hoảng, chẳng ai chú ý đến y.
              Lúc này Võ Nguyên Anh đang lúng túng, y không thể nào từ chối để nha tướng của Trương Thừa Bân vào, nghĩ ngợi một hồi thì chỉ đành mở cửa sơn trang.
              Bọn nha tướng dắt ba trăm quân cấm vệ nghênh ngang xông vào, không ngờ vừa vào đến cửa trang thì nghe có người quát lớn: “Các người vào đây làm gì? Trương Thừa Bân đâu? Bảo hắn đến gặp ta!” Bọn nha tướng ngẩng đầu nhìn thì thấy người đó chính là Diêm Trung Thiên, vội vàng đáp: “Tiểu nhân không biết ngài ở đây, Trương Thừa Bân đang ở bên ngoài”. Diêm Trung Thiên nói: “Các người cút ra, bảo hắn vào đây!” bọn nha tướng chỉ đành vâng lệnh.
              Trương Thừa Bân thấy bọn nha tướng vừa vào đã bước ra thì rất kinh ngạc, y vỗ ngựa bước tới thì chợt thấy có một người đứng trên bức tường mỉm cười rằng: “Trương Thừa Bân, chuyện đêm qua Hoàng thượng sai ngươi làm, ngươi đã làm thế nào rồi?”.
              Trương Thừa Bân thấy Diêm Trung Thiên thì rất ngạc nhiên, nghe y hỏi thì cung kính đáp rằng: “Đêm qua ti chức lục soát đào phạm nhưng không có, muốn gặp Hoàng thượng mà Hoàng thượng không rảnh. Sáng sớm hôm nay Ngạc Thân Vương sai ti chức đến đây”. Diêm Trung Thiên mỉm cười: “Giờ đây Hoàng thượng đang tìm ngươi! Bằng hữu của ta ở đây, ngươi không cần vào, sao còn chưa mau trở ra!” Trong cung đình, Diêm Trung Thiên chẳng khác gì cấp trên của Trương Thừa Bân, mà những lời Diêm Trung Thiên nói toàn là truyền đạt mệnh lệnh của vua, Trương Thừa Bân cân nhắc nặng nhẹ, chỉ đành gác lại mệnh lệnh của Ngạc Thân Vương, kêu vâng một tiếng rồi kéo đại quân rút lui!
              Diêm Trung Thiên đứng trên đầu tường, thấy bọn Cấm vệ quân kéo đi mới chậm rãi nhảy xuống. Phó Thanh Chủ chạy tới, vội vàng đỡ y. Sắc mặt Diêm Trung Thiên trắng như tờ giấy, y lảo đảo nói: “Đa tạ ông, tôi không xong rồi!” lúc này y cảm thấy trong người như có muôn vàn con rắn nhỏ đang cắn xé, ban nãy y dốc hết tinh thần cầm cự, giờ đây đã đuối sức.
              Võ Nguyên Anh thấy thế cả kinh, bước tới nắm tay Diêm Trung Thiên, ứa nước mắt mà nói rằng: “Diêm đại ca, chúng tôi xin cảm kích!” Diêm Trung Thiên nở nụ cười, nói: “Đây là chuyện tốt duy nhất tôi làm trong đời. Làm xong chuyện này tôi chết cũng nhắm mắt!” nói xong thì trợn mắt lên, Phó Thanh Chủ bóp tay y, chỉ cảm thấy mạch đã đứt, ông ta thở dài lặng lẽ đưa xác của y vào trong.
              Hàn Chí Bang chưa biết Diêm Trung Thiên đã đứt hơi, bước tới hỏi: “Còn cứu được không?” Phó Thanh Chủ cười thảm nói: “Dù có thuật cải tử hồi sinh cũng chẳng cứu nổi! Y đã uống phải thuốc độc lợi hại nhất, đêm qua lại phải bôn ba, tuy có Thiên Sơn Tuyết Liên nhưng độc khí đã tản mát toàn thân, tôi dạy y dùng khí công tự chữa trị, ít nhất phải ngồi tịnh tọa một ngày một đêm, thế mà y bước ra ngoài, khí lực tinh thần đã hao phí!” Hàn Chí Bang nhíu mày nói: “Là ai nói cho y biết?” Dương Nhất Duy và Hoa Tử Sơn nhìn nhau, không dám lên tiếng. Họ khích Diêm Trung Thiên bước ra nhưng không ngờ chất độc lại lợi hại đến thế.
              Lưu Úc Phương đã nhận ra nhưng nàng không nói. Nàng nghĩ: “Hai người này làm thế tuy không quang minh chính đại nhưng rốt cuộc cũng là vì cứu mọi người”. Thế rồi mới nói: “Diêm Trung Thiên chết như thế cũng có giá trị. Có điều tuy y đã đuổi bọn Cấm vệ quân đi nhưng cũng chỉ là kế hoãn binh. Sau khi bọn chúng biết rõ thì chắc chắn sẽ đến đây lần nữa. Chuyện này không thể chậm trễ, chúng ta phải tính toán cho sớm”.
              Thế rồi mọi người bàn bạc một hồi, quyết định rời khỏi Võ gia trang. Cha con nhà họ Võ cùng trang đinh ở lại Sơn Tây chủ trì Thiên Địa hội miền Tây bắc. Lưu Úc Phương và Hàn Chí Bang đến Vân Nam xem tình hình Ngô Tam Quế, họ biết Ngô Tam Quế chỉ vì lợi lộc cá nhân nhưng muốn lợi dụng xung đột giữa y với triều đình để tính chuyện phục quốc. Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên đến Tứ Xuyên. Thông Minh hòa thượng cùng Thành Anh, Trình Thông đến Quảng Đông chặn người của Khang Hy. Còn Dịch Lan Châu thì đòi tìm cách cứu Trương công tử, mọi người sợ nàng nguy hiểm nên định ngăn cản. Phó Thanh Chủ nhìn nàng, nhớ đến chuyện kỳ lạ đêm qua, nói: “Cứ mặc Dịch cô nương, Dịch cô nương là người thích hợp nhất!”
              Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.11.2012 06:27:55 bởi casau >
              #7
                casau 01.11.2012 16:03:32 (permalink)
                Hồi 4
                Tỉ kiếm áp hung nhân đồng môn quyết chiến
                Tìm lại giấc mộng xưa tình nhân gặp gỡ


                Gần miền Đại Đồng ở tỉnh Sơn Tây, sông núi hùng vĩ, hai bên bờ Hoàng Hà núi non chập chùng, trên vách núi có rất nhiều động đá, những động đá này là do giáo đồ Phật giáo thời cổ đại đục đẽo ra, được gọi tên chung là động đá Vân Nham, ở trong mỗi động đều có phù điêu tượng Phật.
                Hôm nay tiết mùa xuân, khí trời mát mẻ, trên núi có hai người nam và một người nữ lặng lẽ bước đi, hai người nam chính là Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong và Phó tổng đà chủ của Thiên Địa hội Hàn Chí Bang, người nữ là Tổng đà chủ của Thiên Địa hội Lưu Úc Phương!
                Từ sau khi chia tay quần hùng, họ cứ đi mãi về phía tây, đi được ba ngày thì đến Vân Nham, trên đường chỉ có núi hoang đồi vắng, chẳng thấy một người dân chứ đừng nói khách sạn. Lưu Úc Phương cười nói: “Xem ra đêm nay chúng ta chỉ đành ngủ ở những động đá náy” Lăng Vị Phong nói: “Chẳng phải cô nương thích nơi rộng rãi thoáng mát hay sao? Ở động đá làm sao quen” Lưu Úc Phương ngạc nhiên hỏi: “Làm sao huynh biết thói quen của tôi?” té ra khi Lưu Úc Phương còn nhỏ đã ở Hàng Châu, nơi ở của nàng sạch sẽ thoáng mát. Thiếu nữ nhà người đều không dám mở rộng cửa sổ, còn phòng của nàng lúc nào cửa sổ cũng cuốn lên. Nàng thích ánh nắng mặt trời, không quen tối tăm.
                Lăng Vị Phong thấy nàng hỏi ngược lại thì mỉm cười: “Tôi chỉ suy đoán thế thôi, cô nương hình như rất thích sạch sẽ”. Lưu Úc Phương nói: “Lúc nhỏ tôi như thế, nhưng khi lớn lên thì ở nơi nào cũng quen”.
                Hai người trò chuyện với nhau, Hàn Chí Bang bất giác dâng lên trong lòng một thứ tình cảm khác lạ, trong lòng của chàng đã chứa đựng hình bóng Lưu Úc Phương mười năm, nhưng nàng vẫn không hề hay biết, còn nàng đối với Lăng Vị Phong tựa như vừa gặp đã quen. Tuy Lăng Vị Phong đối với nàng hình như nóng lạnh khác thường, vả lại có lúc còn cố ý chống đối nàng nhưng nàng không lấy làm buồn.
                Lưu Úc Phương đã thấy vẻ mặt của Hàn Chí Bang thì cười rằng: “Hàn đại ca, sao mấy ngày nay huynh ít nói chuyện đến thế? Chúng ta hãy mau tìm một động đá nghỉ chân”. Hàn Chí Bang vâng một tiếng, rồi tiện tay bẻ một cành cây khô bên đường, dùng đá lửa đốt lên làm đuốc, chỉ một động đá lớn ở trên vách núi: “Nơi kia là tốt nhất!” Lưu Úc Phương ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên động đá có ghi ba chữ “Động Phật Chuyển”. Hàn Chí Bang nói: “Tôi ở Tây bắc nhiều năm, thường nghe tín đồ Phật giáo nói đến động này, họ bảo tượng Phật bên trong được tạc rất khéo léo đẹp đẽ, nhưng đáng tiếc tôi là kẻ thô hào, chẳng hiểu gì cả”.
                Ba người vừa nói vừa tiến vào trong động, quả nhiên động đá này rộng rãi, tượng Phật bên trong cao đến hơn ba trượng, một ngón tay của bức tượng còn lớn hơn cả người lớn, bốn vách khắc đầy những hình vẽ kỳ quái, phong cách rất khác với trung thổ. Lưu Úc Phương nhìn thấy bức tranh tiên nữ khắc trên đá trông rất sinh động, không khỏi thầm khen. Lăng Vị Phong cũng chặc lưỡi mãi không thôi, nói; “Tôi ở miền Tây bắc nhiều năm, chưa bao giờ thấy bức bích họa đẹp như thế này”.
                Lưu Úc Phương nghe thế thì hỏi: “Huynh đã đến Tây bắc được bao nhiêu năm?” Lăng Vị Phong nói: “Đã mười sáu năm!” Lưu Úc Phương biến sắc, đột nhiên lấy một bức tranh ra, nói: “Huynh nhìn thử bức tranh này!” rồi nàng mở bức tranh ra, chỉ thấy tranh vẽ một chàng thiếu niên trông rất tuấn tú.
                Khi Lăng Vị Phong nhìn bức tranh, Lưu Úc Phương nhìn chằm chằm vào chàng, Lăng Vị Phong cố nén nỗi kích động trong lòng, mỉm cười nói: “Bức tranh trông rất đẹp! Nét trẻ con trên khuôn mặt hiện ra rất sinh động! Thiếu niên trong tranh chắc khoảng mười lăm mười sáu tuổi?” Lưu Úc Phương trầm ngâm nhìn chàng rồi nói: “Huynh không nhận ra người trong tranh ư?” Lăng Vị Phong giả vờ ngạc nhiên hỏi ngược lại: “Làm sao tôi quen y?” Hàn Chí Bang nhìn vẻ mặt của Lưu Úc Phương, cảm thấy rất kỳ lạ, chàng cũng tiến lại hỏi: “Ai thế, tại sao Lưu cô nương lại mang theo bức tranh của y? Y là bằng hữu hay huynh đệ của tỷ?”.
                Lưu Úc Phương thẫn thờ đứng dậy, Hàn Chí Bang thấy nàng hơi run rẩy, hỏi: “Sao thế?” lúc này bên ngoài có tiếng sóng dồi vào bờ, vang vọng trong thạch động, tựa như hàng ngàn cái trống trận cùng nổi lên. Lưu Úc Phương chậm rãi nói: “Nghe tiếng sóng rất giống thủy triều ở sông Tiền Đường”. Nàng thở phào một hơi, dựa vào vách đá, dáng vẻ trông rất mệt mỏi. Hàn Chí Bang thấy đau lòng lắm, bước tới toan đỡ nàng, Lưu Úc Phương đã lắc đầu: “Không cần. Hàn đại ca, lẽ ra chuyện này tôi phải nói với huynh từ sớm”. Nàng chỉ chàng thiếu niên trong tranh nói: “Chính tôi đã vẽ bức tranh này. Người trong tranh là bằng hữu thời còn nhỏ của tôi, trong đêm sông Tiền Đường nổi thủy triều, tôi đã tát y một bạt tai, y liền nhảy xuống sông Tiền Đường!” Hàn Chí Bang hỏi: “Nếu là bằng hữu thân thiết, tại sao cô nương lại tát y?”.
                Lưu Úc Phương tái mặt, lạc giọng nói: “Là tôi đã sai! Lúc đó cha tôi là thuộc hạ của Lỗ Vương, chết trong chiến trường, chúng tôi và thuộc hạ cũ của Lỗ Vương ẩn cư ở Hàng Châu. Có một ngày người của chúng tôi bị Tổng binh Hàng Châu lúc đó truy bắt, bằng hữu của tôi cũng nằm trong số này. Sau đó nghe nói đã khai người của Lỗ Vương ở Hàng Châu nên tất cả đều bị bắt trọn ổ”. Hàn Chí Bang nắm tay thành quyền, đấm bình một tiếng lên vách đá, nói: “Nếu y là người như thế, dù cho có giết y cũng đáng!” chàng nói xong thì thấy Lưu Úc Phương lắc đầu, lại hỏi: “Rốt cuộc có phải y đã khai không?” Lưu Úc Phương nói: “Đêm ấy người của chúng tôi vượt ngục thành công, y cũng chạy thoát, tôi gặp y hỏi y có khai hay không? Y bảo ‘đó hoàn toàn là sư thực!’.” Hàn Chí Bang tức giận nói: “Lưu cô nương, uổng cho tôi xưa nay kính phục cô, người như thế cô không giết mà còn nhớ đến y!”.
                Lưu Úc Phương trừng mắt nhìn y nói: “Lúc đó sự việc rất phức tạp, trước khi mọi chuyện rõ ràng, tùy tiện phán đoán có thể sẽ gây ra sai lầm lớn. Bằng hữu của tôi từ nhỏ là một người cứng cỏi. Lúc đó y chỉ là chàng thiếu niên mười sáu tuổi!” Hàn Chí Bang nói: “Dù như thế cũng không thể tha thứ!” Lưu Úc Phương không để chàng chen vào, tiếp tục nói: “Sau khi y bị bắt, đã chịu các loại hình phạt, y chẳng khai một câu. Sau đó kẻ địch dùng khổ nhục kế, sai một người giả mạo thành nghĩa sĩ kháng Thanh, nhốt cùng phòng với y, khi đưa y ra đánh, bọn chúng cũng kéo luôn người ấy, vả lại còn đánh dữ hơn y. Y cứ tưởng rằng người ấy cùng phe. Người ấy nói sắp vượt ngục, nhưng sợ rằng sau khi vượt ngục chẳng biết trốn vào đâu. Y cho người ấy biết tổng bộ của chúng tôi. Sau khi người của chúng tôi vượt ngục, bắt theo ngục tốt, hỏi rõ ràng mới biết được điều này!”.
                Hàn Chí Bang nghe đến đó thì sửng sốt, run rẩy nói: “Lưu cô nương, xin thứ tôi đã vô lý, tôi xin hỏi cô một câu...”.
                Lưu Úc Phương vuốt mái tóc ra sau, xoay mặt nhìn Hàn Chí Bang, nói với giọng gấp gáp: “Tôi biết huynh muốn hỏi gì. Hơn mười năm nay, tôi vẫn mang theo bức tranh của y, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện kết hôn!” Hàn Chí Bang im lặng, một hồi sau mới khẽ nói: “Ý nghĩ của cô nương thật đáng sợ!” Lưu Úc Phương lắc đầu nói: “Nếu lúc đó huynh thấy tôi tát y, huynh sẽ không cho rằng tôi đáng sợ! Hễ tôi nhắm mắt là thấy khuôn mặt kinh hoảng, tuyệt vọng của y! Tôi đã giết chết người bằng hữu tốt nhất của mình, tôi đã làm sai một việc không thể nào cứu vãn nổi!”.
                Lăng Vị Phong xoa hai tay, mặt vẫn lạnh lẽo chẳng hề nói gì cả. Lưu Úc Phương liếc nhìn, chợt kêu hoảng lên, nàng dùng tay che mắt, la lên: “Ôi! Hình như tôi lại thấy y...” Hàn Chí Bang chạy tới, khẽ đỡ nàng, nói: “Tổng đà chủ, cô đừng nghĩ quá nhiều nữa, chắc chỉ là ảo giác...” chàng chưa nói xong thì chạm phải ánh mắt của Lăng Vị Phong, ánh mắt của Lăng Vị Phong sắc bén tựa như cây Thiên Sơn thần mãng, Hàn Chí Bang không khỏi rùng mình, nói: “Lăng đại ca, đừng nhìn như thế có được không?”.
                Lăng Vị Phong bật cười: “Uổng cho các người là Đà chủ của Thiên Địa hội! Thật nhát gan! Đừng nằm ác mộng nữa, hãy nghe xem, hình như bên ngoài có người”.
                Lúc này gió thổi lên ù ù, một bóng đen từ từ đến gần trong đêm tối. Lăng Vị Phong chạy ra, chỉ thấy bên ngoài có bốn Lạt ma và một người ăn mặc theo kiểu võ quan. Lăng Vị Phong và Hàn Chí Bang đều biết tiếng Tạng, hai bên nói chuyện với nhau mới biết họ đi nhầm đường nên mới tìm động đá ngủ qua đêm.
                Bốn Lạt ma ấy rất nhã nhặn, chỉ có viên võ quan là trông có vẻ ngạo mạn, Lăng Vị Phong thấy trên tay áo của y có thêu con phi ưng, biết rằng đó là dấu hiệu của người trong phủ Ngô Tam Quế, bất giác nhìn kỹ hơn, tên võ quan xì xồ xì xào, bọn Lăng Vị Phong cũng chẳng thèm để ý, ngồi sau bức tượng Phật nghỉ ngơi. Pho tượng này cao hơn một trượng, tựa như một tấm bình phong ngăn cách người của hai bên.
                Bốn Lạt ma thì tựa như rất cao hứng, bọn họ đốt một đống lửa bên tượng Phật, nhảy múa hát ca. Lúc đầu tiếng hát nghe cao vút nhưng sau đó thì rất thê lương. Lưu Úc Phương ngạc nhiên hỏi: “Họ hát gì thế?”.
                Lăng Vị Phong nghe một hồi thì nói: “Họ hát về một câu chuyện truyền kỳ ở Tây Tạng. Chuyện kể rằng một thanh niên tên là Cáp Đích Lư, là một anh hùng trên thảo nguyên, cũng là một người hát hay. Y rất kiêu ngạo, chưa bao giờ cúi đầu trước ai. Sau đó y yêu một cô gái chăn dê tên gọi A Cái, A Cái càng kiêu ngạo hơn y, buộc y phải quỳ xuống trước nàng khi có mặt nhiều người nàng mới chấp nhận hôn sự. Quả nhiên Cáp Đích Lư quỳ xuống cầu hôn, các thanh niên nam nữ đều che mặt không nỡ thấy bậc anh hùng trong mắt của họ bị làm nhục như thế. Bọn họ đang hát lời của Cáp Đích Lư. Y nói: ‘Tôi chỉ là áng mây bơ vơ trên trời, bao nhiêu năm qua lòng luôn kiêu ngạo, nhưng nay phải cúi đầu trước người con gái thông minh như cô!’.” Lưu Úc Phương nghe lời chuyển dịch của Lăng Vị Phong, lòng xao xuyến, nàng liếc mắt nhìn, chỉ thấy trong mắt Lăng Vị Phong có vẻ gì khác lạ.
                Lưu Úc Phương ngạc nhiên nhìn Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong suỵt một tiếng rồi nói: “Nghe xem, bài thơ tiếng Tạng này thật là hay! Giờ đây là lời phân bua của cô gái chân dê A Cái. Nàng từ chối lời cầu hôn của vương tử phiên vương, thật là trong lòng cũng yêu Cáp Đích Lỗ, nàng nói: ‘Tất cả phồn hoa đều tàn rụi trước mắt tôi, chúng sinh sắc tướng đến sáng mai lại hư vô, tôi là một ngôi sao trên bầu trời đêm, bất diệt cho tới khi nước cạn đá mòn! Ngôi sao bất diệt ấy chính là đôi mắt của chàng, dẫn dắt cho tôi sùng bái, sai khiến tôi khẩn cầu, tình yêu say đắm hơn mười năm này sẽ không phai mờ trong tâm khảm chàng’.”
                Lưu Úc Phương thở gấp, phủi tay nói: “Bài ca thật hay, kết quả thì thế nào? Họ có kết hôn không?” Lăng Vị Phong buồn bã nói: “Không, không ai ngờ đến kết cuộc, Cáp Đích Lư là người rất kiêu ngạo, chàng yêu A Cái, chàng cũng yêu sự kiêu ngạo của mình, chàng quỳ xuống cầu hôn, A Cái mỉm cười, định kéo tay chàng lên, không ngờ cây trủy thủ của chàng đã đâm vào A Cái rồi tiếp theo chàng đã tự sát. Trước khi chết chàng hát rằng: ‘Thời gian vui vầy quá ngắn ngủi, tựa như ánh chớp trên bầu trời đêm, chỉ lóe lên đã biến mất trong không trung, nhưng cũng đủ soi rọi tình yêu đầy hạnh phúc và đau khổ’.”
                Hàn Chí Bang kêu lên: “Thật chẳng hiểu ra sao, nếu tôi yêu một người thì sẽ không giết người ta!” Lăng Vị Phong cười nói: “Tôi cũng thế, nhưng nếu tôi là Cáp Đích Lư, nữ nhi muốn tôi khuất phục trước mặt mọi người thì tôi sẽ không cầu hôn. Bài ca này tuy không có hậu nhưng nói lên sự tự tôn của con người, tuy đó là sự tự tôn quá đáng. Tên của bài trường ca này là ‘Ai là người mạnh nhất trên thảo nguyên’.”
                Hai tên võ quan tựa như rất khó chịu trước tiếng ca, quát bằng tiếng Tạng: “Đừng hát nữa, hãy mau ngủ, ngày mai còn phải lên đường!” nói vừa dứt lời thì chỉ thấy có người cười lạnh rằng: “Không cần lên đường, các người cũng chẳng có ngày mai nữa!” đừng nói là tên võ quan và bốn Lạt ma, dù Lăng Vị Phong cũng thất kinh, nội công của người này thật ghê gớm, người chưa đến mà tiếng tựa như ở bên tai của họ!
                Bốn tên Lạt ma bật dậy nhảy bổ ra ngoài, trên con đường dẫn vào hàng đá, chỉ nghe tiếng lốp bốp vang lên, Lăng Vị Phong từ sau pho tượng Phật nhìn ra, chỉ thấy có hai vật đen kịt rơi vào bên trong. Hai tên Lạt ma chỉ vừa mới đánh ra vài ba chiêu mà đã bị người ta đánh ngã, ném vào bên trong như bóng da. Tên võ quan và hai Lạt ma còn lại cả giận, rút binh khí nhảy ra, sau mấy tiếng cười dài, vài hán tử áo đen phóng vọt vào. Hàn Chí Bang toan nhảy ra, Lăng Vị Phong kéo lại, khẽ nói: “Đừng gấp, hãy xem bọn chúng là ai!” nói vừa dứt lời thì người ấy đã đến trước pho tượng Phật, Lăng Vị Phong vừa nhìn thì suýt nữa kêu lên ngạc nhiên.
                Té ra có ba vệ sĩ áo đen xông vào, kẻ đi đầu là Du Long Kiếm Sở Chiêu Nam. Tên võ quan đi cùng bốn Lạt ma cũng kêu lên, võ quan ấy tên gọi Trương Thiên Mông, cùng với Sở Chiêu Nam đều là tâm phúc của Ngô Tam Quế.
                Trương Thiên Mông thấy Sở Chiêu Nam ném hai tên Lạt ma vào thì vội vàng kêu lên: “Đại ca đừng ra tay, đều là người nhà!” Sở Chiêu Nam tiến tới một bước quát: “Thiên Mông, ngươi hãy bảo bọn chúng giao Xá lợi tử ra, ta có thể tha không giết các ngươi!”.
                Xá lợi tử là báu vật của Phật môn, nghe nói sau khi bậc cao tăng hữu đạo chết đi, dùng lửa hỏa thiêu nhưng vẫn còn một mảnh xương không hề tan biến, đó chính là Xá lợi tử. Khi Ngô Tam Quế đuổi Quế vương vào Miến Điện, đã cướp báu vật của chùa Tử Quang nước Miến Điện là Xá lợi tử của Long Thụ thiền sư để lại về Trung Quốc. Long Thụ là đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni, là người khai sáng Phật giáo đại thừa. Trong Phật giáo, thánh vật qúy nhất là răng của Thích Ca Mâu Ni, thánh vật đứng hàng thứ hai là Xá lợi tử của Long Thụ thiền sư, Ngô Tam Quế vì muốn liên lạc với Đạt Lai Lạt ma đã bảo Trương Thiên Mông hộ tống Xá lợi tử đến Tây Tạng, bốn Lạt ma này được sai đến Vân Nam nghênh đón thánh vật. Sở Chiêu Nam biết chuyện này nên kể với Khang Hy, Khang Hy lập tức sai hai vệ sĩ võ công cao cường cùng y đi cướp. Chính vì Khang Hy lo cho việc này nên mới lơi lỏng đối với quần hùng Võ gia trang.
                Trương Thiên Mông thấy Sở Chiêu Nam vừa mở miệng ra đã đòi Xá lợi tử thì nghi ngờ lắm, hỏi: “Sở đại ca, huynh vừa từ Tây Tạng về đấy ư? Bình Tây vương bảo tôi hộ tống Xá lợi tử, không dám làm phiền”. Sở Chiêu Nam cười lạnh nói: “Bình Tây vương cái quái gì? Chính đương kim Hoàng thượng bảo ta đến lấy Xá lợi tử!” Trương Thiên Mông cả kinh, nói: “Huynh đã phản rồi!” Sở Chiêu Nam cười lớn: “Ngô Tam Quế phản được còn ta thì không? Ta hỏi ngươi, ngươi rốt cuộc chịu đi theo Ngô Tam Quế hay muốn đi theo Hoàng đế?”.
                Trong phủ Bình Tây vương Trương Thiên Mông có địa vị kém hơn Sở Chiêu Nam, y không hề biết chuyện Ngô Tam Quế mưu phản. Nghe Sở Chiêu Nam nói thế thì thấy như sấm nổ giữa trời xanh, nhất thời chẳng thốt ra tiếng. Sở Chiêu Nam bước dấn tới, quát: “Rốt cuộc ngươi muốn thế nào?” Trương Thiên Mông đang rối trí vẫn chưa quyết định. Hai Lạt ma còn lại thấy Sở Chiêu Nam quát bằng tiếng Hán, tuy không hiểu y nói gì nhưng xem ra tựa như đang ép buộc Trương Thiên Mông, trong lòng tức giận chạy tới, thi triển Đại lực thiên cân quyền đánh vù vù ra hai quyền. Sở Chiêu Nam cố ý muốn lòe võ công, không thèm né tránh mà xông lên tiếp hai quyền. Hai quyền giáng vào ngực y kêu lên bình bình nhưng cả hai Lạt ma đều bị bắn thối lui mấy bước, song Sở Chiêu Nam cũng thấy đau nhói, y thất kinh nghĩ bụng hai Lạt ma này quả nhiên khí lực nặng đến ngàn cân. Y nào dám sơ ý, thế là nhảy vọt lên tựa như chim ưng bắt thỏ, chụp vào hậu tâm của Đạt Lai Lạt ma, xem ra sắp đắc thủ thì chợt nghe phía sau tượng Phật có một tiếng quát lớn, một trái thiết tật lê bay tới như sao xẹt. Sở Chiêu Nam đang lơ lửng trên không trung thì lập tức lộn người ra. Khi y lộn người ra ngược trở lại thì đã dùng gót chân đá bật trái thiết tật lê ngược trở về. Hàn Chí Bang vừa nhảy vọt ra, bị trái thiết tật lê bắn ngược về phía mình thì vung thanh đao trong tay lên, tuy đánh rơi trái thiết tật lê nhưng hổ khẩu cũng tê nhói. Trái thiết tật lê bị Sở Chiêu Nam đá ngược trở lại mà kình đạo mạnh như thế, Hàn Chí Bang cũng không khỏi cả kinh!
                Hàn Chí Bang vừa đứng vững chân thì Sở Chiêu Nam đã nhảy bổ tới lần nữa, Hàn Chí Bang hạ người xuống, lách về phía trước, cây đao chém vào ngực Sở Chiêu Nam, Sở Chiêu Nam tay trái phất ống ra ngoài, một luồng kình phong dồn vào mặt, Hàn Chí Bang nghiêng đầu, phóng cây đao ra. Sở Chiêu Nam đột nhiên lướt ra sau lưng Hàn Chí Bang tựa như cơn gió, Hàn Chí Bang lập tức rút cây đao quay lại chém xuống hạ bàn của Sở Chiêu Nam. Sở Chiêu Nam quát một tiếng: “Buông đao!” chưởng phải vỗ ra trước mặt, tay trái phóng ra điểm vào huyệt Tam Lý trên tay phải của Hàn Chí Bang. Hàn Chí Bang đã chém ra một đao, thấy thế không xong thì vội vàng biến chiêu ứng địch, đánh ra một chiêu Tam Dương Khai Thái, một chiêu ba thức đâm vào ngực, chém vào hai bên vai. Nhưng chàng nhanh, Sở Chiêu Nam càng nhanh hơn. Chàng vừa chém ra một đao, kẻ địch đã thay đổi phươgng vị, chàng thấy kẻ địch đánh hờ quyền trái đến trước mặt, mắt hoa lên thì tay phải đã tê rần. Sở Chiêu Nam đúng là võ công thần kỳ, y thay đổi phương vị nhưng không thay đổi chiêu số, đã điểm được huyệt đạo của Hàn Chí Bang. Chỉ nghe xoảng một tiếng, cây kim đao rơi xuống đất.
                Những chiêu này nhanh như điện chớp lửa xẹt! Hai tên vệ sĩ đi cùng Sở Chiêu Nam lúc này mới nhìn rõ mặt mũi của Hàn Chí Bang, quát lớn: “Tên này là Tổng đà chủ của Thiên Địa hội! Đừng buông tha cho y!” Sở Chiêu Nam cười rằng, định xông tới thì chợt thấy một luồng kim quang từ phía sau tượng Phật bắn ra, Sở Chiêu Nam vận công lực phất ngang tay áo, đánh bật ám khí ra, nhưng tay áo cũng bị lủng một lỗ lớn, món ám khí lướt qua da, dư thế vẫn còn nên cắm vào vách đá đối diện kêu keng một tiếng, té ra đó là một cây tụ tiễn.
                Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, phía sau tượng Phật, một đôi nam nữ phóng người ra, cả hai chặn trước mặt Sở Chiêu Nam, Sở Chiêu Nam rút soạt thanh kiếm, không xong lên mà nhảy vọt ra sau đến hơn một trượng, quát: “Ngươi là người thế nào của Hối Minh thiền sư, sao cứ ba lần bốn lượt đối chọi với ta, ngươi tưởng ta sợ ngươi đấy hử?”.
                Lúc này Lưu Úc Phương đã kéo Hàn Chí Bang đứng dậy, giải huyệt đạo cho chàng. Lăng Vị Phong cười hì hì đứng trước tượng Phật, chẳng thèm để ý đến Sở Chiêu Nam, nói bằng tiếng Tạng với bọn Lạt ma: “Các người đứng qua một bên, không thể để bọn chúng cướp Xá lợi tử”. Mấy tên Lạt ma nghe thế thì lui nhanh, hai tên vệ sĩ đi cùng Sở Chiêu Nam cũng phóng tới, Lăng Vị Phong phất tay, hai luồng kim quang bắn ra, hai tên vệ sĩ ấy cũng chẳng phải kẻ tầm thường, một tên giơ quỷ đầu đao lên gạt, chỉ nghe keng một tiếng, lửa bắn tung tóe, thanh quỷ đầu đao đã bị ám khí đánh mẻ mất một miếng. Tên còn lại dùng tuyệt kỹ khinh công Nhất hạc xung thiên phóng lên cao đến hơn ba trượng. Dù y né tránh nhanh nhẹn nhưng món ám khí vẫn lướt qua đế giày của y, dù đế giày của y bằng sắt nhưng cũng bị đánh rơi xuống. cả hai người đều toát mồ hôi lạnh. Sở Chiêu Nam quát: “Đừng lo bọn Lạt ma ấy, bọn chúng không chạy thoát nổi đâu!” hai tên vệ sĩ nghe quát như thế thì không đuổi theo nữa, lập tức chạy về phía Sở Chiêu Nam. Trương Thiên Mông cũng chẳng nói một lời, nhảy tới bên cạnh tượng Phật, đứng sát với bốn tên Lạt ma.
                Lúc này Lăng Vị Phong mới cười lạnh, nói với Sở Chiêu Nam: “Luận về quan hệ sư môn ta phải gọi ngươi một tiếng sư huynh. Luận về đạo nghĩa giang hồ ta sẽ mắng ngươi một tiếng tặc tử! Ngươi rốt cuộc muốn ta tôn ngươi làm sư huynh hay là chịu ta mắng tặc tử? Ngươi hãy mau chóng chọn lựa!”.
                Lăng Vị Phong từ Giang Nam chạy đến đại mạc, lên Thiên Sơn theo Hối Minh thiền sư học võ mười năm, bí mật này đừng nói là trong võ lâm chẳng ai biết, dù cho đệ tử của Hối Minh thiền sư là Sở Chiêu Nam cũng chẳng hề hay. Sở Chiêu Nam chỉ tưởng rằng sau khi đại sư huynh Dương Vân Thông chết đi mình có thể độc bá thiên hạ, không ngờ ngày ấy ở sơn cốc núi Ngũ Đài lại chui ra một Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong lại còn sử dụng tuyệt chiêu trong Thiên Sơn chưởng pháp, trong lúc thất kinh y đã trúng một chưởng. Nay nghe chàng ta công khai thân phận, gọi mình là sư huynh thì trong lòng hoảng lên, nhưng vẫn nghĩ: “Dù y là đệ tử quan môn của Hối Minh thiền sư, y chẳng qua chỉ mới khoảng ba mươi tuổi, thế nào đi nữa cũng chẳng bằng mình, cần gì phải sợ?”.
                Thế rồi Sở Chiêu Nam trừng mắt, ngạo mạn nói: “Ai là sư huynh của ngươi? Ngươi muốn ta nhận làm sư đệ thì phải trổ tài cho ta thấy. Nào! Ta dạy ngươi một bộ chưởng pháp!” y đã bị trúng một chưởng, vẫn còn chưa hết tức, nhất định phải lấy lại sĩ diện nhờ chưởng pháp.
                Lăng Vị Phong lạnh lùng cười, định ra tay, Sở Chiêu Nam cũng đang bước tới, một tên vệ sĩ đi cùng y đột nhiên xong ra, nói: “Giết gà đâu cần dao mổ trâu, cứ để tôi thử trước tên này!” y tên gọi Cổ Nguyên Lượng, là đệ tử của một danh gia điểm huyệt ở Hà Nam, y đã đưa phương pháp điểm huyệt vào trong chưởng pháp bởi vậy lợi hại vô cùng, cũng là đệ nhất cao thủ trong đại nội. Sở Chiêu Nam nghĩ bụng để y thử trước mấy chiêu sẽ có lợi cho mình, nếu y thắng thì mình không cần ra tay, nếu y thua thì mình cũng có thể thấy chiêu số của Lăng Vị Phong. Thế rồi khẽ gật đầu, để Cổ Nguyên Lượng bước ra.
                Lúc nãy Cổ Nguyên Lượng bị một cây ám khí của Lăng Vị Phong cắt đứt đế giày, lúc này vẫn còn giận, y bước tới quát lớn: “Ta phải thỉnh giáo chưởng pháp của ngươi trước, nếu ngươi muốn so ám khí, lát nữa ta sẽ phụng bồi. Chúng ta nói trước rồi đấy nhé, đừng âm thầm phóng ám tiễn!”.
                Lăng Vị Phong biết y sợ ám khí của mình, nên đã đưa ra qui củ giang hồ tựa như là tỉ thí công bằng với nhau, chàng chỉ mỉm cười nói: “Dù ta không dùng không cũng có thể đánh cho ngươi tơi bời hoa lá!”.
                Cổ Nguyên Lượng điểm mũi giày xuống, phóng tới như mũi tên rời cung, quát: “Không đấu mồm với ngươi, tiếp chiêu!” nói chưa dứt thì một chưởng đã vỗ của huyệt Thiên Khu của Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong thấy chưởng phong của y rất mạnh mà y lại tấn công vào huyệt đạo nên không dám coi thường, chàng hú lên một tiếng xoay tít người, chém chưởng vào vai Cổ Nguyên Lượng, Cổ Nguyên Lượng gầm lớn một tiếng đánh hất lên, Lăng Vị Phong vung tay lướt ra hơn một trượng, chụp vào bối tâm của y. Nào ngờ Cổ Nguyên Lượng tuy phải thối lui nhưng vẫn chưa thực sự bại, y đột nhiên hạ người xuống, xoay người như trôn ốc, hai chưởng phát ra liên tục, một chưởng đánh vào huyệt Nhũ Tuyền dưới be sườn của Lăng Vị Phong, một chưởng quét vào huyệt Quan Môn ở eo.
                Hàn Chí Bang thấy thế kêu ối chao, Lăng Vị Phong kêu lớn: “Lão Cổ, cẩn thận!” Hàn Chí Bang chưa kịp nhìn thấy rõ thì Cổ Nguyên Lượng đã loạng choạng thối lui đến mấy trượng, sắc mặt tái nhợt, Lăng Vị Phong quát: “Ngươi đã thua một chiêu còn muốn gì nữa!” Cổ Nguyên Lượng chẳng nói một lời, vung hai tay lại liên tục đánh tới. Lần này chỉ thấy chưởng phong phát ra rất dữ dội, Lăng Vị Phong đột nhiên thối lui, thân pháp hay bộ pháp đều vẫn rất vững vàng. Còn Cổ Nguyên Lượng tựa như con sư tử bị thương, toàn đánh vào những yếu huyệt trên người Lăng Vị Phong.
                Cổ Nguyên Lượng trong lúc sơ suất, đã trúng đòn, trong lòng cả giận nhảy bổ tới, tuy ra đòn dữ dội nhưng vẫn kín kẽ, còn Lăng Vị Phong thì cứ thấy chiêu phá chiêu, Cổ Nguyên Lượng đánh mãi không vào. Một hồi sau Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, chưởng pháp đột nhiên thay đổi, tay phải triển khai Triệt thủ pháp lợi hại nhất trong Thiên Sơn Cầm Nã thủ, tay trái thì tìm sơ hở đâm vào huyệt đạo của Cổ Nguyên Lượng. Đoạn chưởng pháp của Cổ Nguyên Lượng đã bị Tuyệt thủ pháp của Lăng Vị Phong khắc chế, y chẳng thể nào triển khai được nữa, mà tay trái của Lăng Vị Phong toàn là tấn công vào ba mươi sáu huyệt đạo quan trọng trên người Cổ Nguyên Lượng. Đây chính là lấy gậy ông đập lưng ông, Cổ Nguyên Lượng là danh gia điểm huyệt, y biết lợi hại nên trong lòng càng thất kinh, Lăng Vị Phong cứ mỗi khi điểm vào một nơi huyệt đạo của y thì quát lớn một tiếng, chàng cứ quát không ngừng “Huyệt Tam Lý?,” “Huyệt Thông Tuyền,” “Huyệt Thiên Uyên”... tựa như cố ý nhắc nhở đối phương khiến cho Cổ Nguyên Lượng toàn thân toát mồ hôi lạnh, người bên cạnh nhìn vào chỉ thấy y cứ nhảy nhót trông rất buồn cười.
                Sở Chiêu Nam càng nhìn càng bực, kêu lên: “Lui xuống! Lui xuống!” y vung hai chưởng định xông lên, chỉ nghe Lăng Vị Phong lại quát lớn một tiếng, lướt ra phía sau lưng Cổ Nguyên Lượng, vung tay chụp vào tay phải của y, tay trái xỉa vào be sườn ở phía sau của y, Cổ Nguyên Lượng chợt mềm nhũn. Lăng Vị Phong lại giở Cổ Nguyên Lượng ném ra. Sở Chiêu Nam đỡ lấy y, chỉ thấy Cổ Nguyên Lượng đã nhắm tịt mắt, Sở Chiêu Nam vội vàng vỗ một cái vào huyệt Phục Thố của y, Cổ Nguyên Lượng mới kêu ối lên một tiếng, phun ra một ngụm máu ứ, nằm gục xuống đất chẳng hề nhúc nhích nổi.
                Sở Chiêu Nam không kìm được nữa, y nhảy bổ về phía Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong lắc vai, nhẹ nhàng tránh sang một bên, Sở Chiêu Nam xông lên tới trước, hai chưởng lại vỗ ra như gió xoáy, Lăng Vị Phong vẫn không hề tiếp, chàng chỉ nghiêng người sang một bên lướt khỏi màn chưởng của Sở Chiêu Nam. Sở Chiêu Nam quát lớn, xoay người chụp lại, Lăng Vị Phong phóng vọt lên cao hơn một trượng rồi xà xuống như chim én. Sở Chiêu Nam nói: “Chạy đi đâu?” rồi lại đuổi theo. Lăng Vị Phong đột nhiên dừng bước, trừng mắt nói: “Khoan hãy động thủ, ta tôn ngươi là sư huynh, nhường ngươi ba chiêu, nếu ngươi không biết tiến thoái, ta chỉ đành quyết một trận thư hùng với ngươi. Nếu ta thua sẽ trở về Thiên Sơn, nếu ngươi thua thì thế nào?” Sở Chiêu Nam nói: “Cứ mặc cho ngươi lấy Xá lợi tử!” Lăng Vị Phong nói: “Được, phát chiêu đi!” Sở Chiêu Nam chân bước vào trung cung, hai chưởng vỗ thẳng ngực Lăng Vị Phong! Lăng Vị Phong gạt ra, hai người lao vào nhau, chỉ thấy chưởng chỉ vung lên, kình phong kêu lên vù vù, đất bấm trong thạch động bị chưởng phong đánh bốc lên mù mịt, ai nấy đều kinh tâm động phách. Đống lửa trong động bị chưởng phong quạt tới lúc thổi bùng lên lúc tắt ngấm, những người bên cạnh đều nín thở, trong lòng tựa như có tảng đá nặng ngàn cân.
                Hai người đánh một hồi thì đột nhiên thối lui mấy bước, mọi người ngạc nhiên nhìn lại chỉ thấy cả hai mở to mắt tựa như hai con gà trống chọi đang gườm nhau. Sở Chiêu Nam quát lớn một tiếng, vỗ ra một chưởng, Lăng Vị Phong chắp hai tay lại đẩy ra, hai người cách nhau đến mấy bước, chưởng phong chẳng hề chạm vào áo, càng đánh càng chậm, tựa như hai sư huynh đệ đang đổi chiêu luyện thức. Lưu Úc Phương và Hàn Chí Bang đã thấy hai người dốc hết tuyệt chiêu, tuy cách có mấy bước nhưng mỗi chiêu số đều là trong công có thủ. Khi dùng loại chưởng pháp thượng thừa này, nếu một bên nào sơ sảy, sẽ lập tức mất mạng bởi tay đối phương.
                Hai người đánh nhau đến hơn trăm chiêu, chiêu nào cũng vừa chạm đã tách ra, hai bên vẫn chưa phân cao thấp. Người bên cạnh nhìn đến nỗi hoa mắt, đột nhiên Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, Sở Chiêu Nam thối lui ra sau, Lăng Vị Phong lướt người tiến tới, trở tay đánh ra một chưởng, Sở Chiêu Nam đột nhiên phóng vọt người từ trên cao xuống, vỗ chưởng xuống thiên linh cái của Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong từ dưới đẩy hai chưởng lên, bốn chưởng giao nhau, bình bình hai tiếng vang lên, hai người đều văng ra xa đến hơn một trượng.
                Té ra thời gian Sở Chiêu Nam luyện võ tuy dài hơn Lăng Vị Phong, nhưng Lăng Vị Phong luyện Đồng tử công, từ nhỏ đã có căn cơ vững chắc mà thời trẻ tuổi Lăng Vị Phong từng rất phong lưu nên công lực kém một bậc, lại thêm Sở Chiêu Nam gần đây lơ là việc tập võ, đột nhiên gặp phải cường địch nên tuy công lực tương đường nhưng cũng khó cự nổi. Lúc nãy Lăng Vị Phong vốn đã thắng một chiêu, định tiếp tục vung đòn sát thủ nhưng không ngờ Sở Chiêu Nam lại nhảy lên bàn tay pho tượng Phật, vỗ xuống một chưởng toan hủy tượng Phật. Lăng Vị Phong sợ ném chuột bể đồ, không dám làm tổn hại báu vật trong thạch động, chỉ đành rút chưởng, Sở Chiêu Nam từ trên cao đánh xuống chiếm được tiện nghi, vì thế nhìn bề ngoài hai người có vẻ như ngang tài ngang sức.
                Sở Chiêu Nam hiểu rõ, người sư đệ chưa bao giờ gặp mặt này công lực còn cao hơn cả mình, y vừa lo vừa giận. Nhưng vì tham công danh lợi lộc nên chẳng chịu ngừng tay. Y lao lên rút soạt thanh Du Long kiếm. Thanh kiếm này chém sát như bùn, là một trong hai thanh kiếm báu của phái Thiên Sơn. Sở Chiêu Nam có kiếm thuật cao cường, lại giữ trong tay kiếm báu, bởi vậy tuy thua chiêu nhưng vẫn cuồng ngạo đòi tỉ kiếm với Lăng Vị Phong.
                Sở Chiêu Nam rút kiếm lia lên, chỉ thấy một ánh hàn quang xẹt tới, Lưu Úc Phương kinh hãi kêu lên: “Đây là thanh bảo kiếm!” Lăng Vị Phong không thèm nhìn lại, chàng đảo mũi kiếm lướt tới chém qua, lưỡi kiếm từ dưới cuộn lên cánh tay phải của Sở Chiêu Nam, đó là một tuyệt chiêu trong Thiên Sơn kiếm pháp tên gọi Cực Mục Thương Ba. Sở Chiêu Nam cũng quét ra một chiêu hiểm hóc tên gọi Long mã tảo địa, y hạ người chém ra ba nhát kiếm, quét vào hạ bàn của Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong phóng người lên, lưỡi kiếm của Sở Chiêu Nam chém xẹt qua gót chân của chàng. Sở Chiêu Nam định biến chiêu thì trong chớp mắt Lăng Vị Phong đã liên tục đánh ra năm nhát kiếm, Sở Chiêu Nam luống cuống thối lui, chẳng hề chống đỡ nổi.
                Nhưng kiếm pháp của Sở Chiêu Nam đã tung hoành mười mấy năm, đương nhiên y cũng chẳng phải hạng vừa, y thấy lối đánh của Lăng Vị Phong thì biết chàng đã dùng nhanh khắc chế chậm, buộc y phải phòng thủ, không thể lợi dụng được sở trường của thanh bảo kiếm. Y cười lạnh một tiếng đột nhiên đứng yên, mũi kiếm triển khai bốn mặt, trong căn thạch động u ám lập tức cuộn ra một luồng ngân hồng. Thanh kiếm của Lăng Vị Phong chỉ là loại vũ khí bình thường, nếu chạm phải binh khí của y sẽ bị gãy, bởi vậy chàng không dám tấn công gấp tới.
                Đang lúc kịch đấu, chợt Lăng Vị Phong rút kiếm thối lui, Sở Chiêu Nam quát lớn rút kiếm đâm tới, kiếm quang đâm vào lưng Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong đột nhiên xoay người lại, giở kiếm hất lên nhanh như điện chớp, chỉ nghe keng một tiếng, hai kiếm đã chạm nhau, Lưu Úc Phương kêu hoảng, tưởng rằng lần này Lăng Vị Phong khó tránh bất hạnh, nào ngờ sau khi tiếng kiếm chạm nhau, căn thạch động rơi vào tĩnh lặng.
                Té ra Lăng Vị Phong trở tay đánh lại một kiếm, gạt vào sóng kiếm của Sở Chiêu Nam, Sở Chiêu Nam dùng lực thúc một cái, chỉ cảm thấy kiếm của mình tựa như bị dán lại, chẳng thể rút ra được! Té ra Hối Minh thiền sư tập hợp sở trường kiếm pháp của các nhà các phái, sáng tạo ra Thiên Sơn kiếm pháp. Nhát kiếm vừa rồi thuộc tự quyết chữ “niêm” trong Thái Cực kiếm pháp.
                Sở Chiêu Nam biết nếu cứ liều rút kiếm thì chắc chắn sẽ bị Lăng Vị Phong theo sát, đánh tới không ngớt, y chỉ đành dốc hết nội công tỉ thí với chàng!
                Cuộc đấu kiếm này đúng là hiếm thấy trong võ lâm. Một hồi sau chỉ thấy Sở Chiêu Nam phát ra tiếng thở phì phò, mồ hôi trán lấm tấm, xem ra hai sư huynh đệ sắp phân sinh tử, chẳng ai can ngăn được.
                Trong lúc mọi người đang tập trung chú ý, Trương Thiên Mông lẳng lặng men theo vách đá rê đến gần bọn Lạt ma, đột nhiên vung tay ra điểm một cái, tên Lạt ma kêu hoảng ngã xuống đất. Trương Thiên Mông thọc tay vào áo của y, lấy ra một cái hộp bằng gỗ đàn hương rồi phóng tọt ra ngoài nhanh như điện chớp! Bọn Lạt ma kêu hoảng: “Xá lợi tử đã bị cướp! Xá lợi tử đã bị cướp!”.
                Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, rút mạnh thanh kiếm xoay người đuổi theo. Sở Chiêu Nam chồm người về phía trước vọt lên, lia kiếm đuổi theo. Lúc này Trương Thiên Mông đang chạy về phía trước, mọi người đuổi gấp ở phía sau. Sở Chiêu Nam vừa chạy vừa múa tít thanh kiếm, bọn Hàn Chí Bang lách người né tránh, đã bị y vượt ra phía trước nhưng y vẫn chưa đuổi kịp theo Lăng Vị Phong.
                Khinh công của Lăng Vị Phong cao cường, chỉ trong khoảnh khắc đã chạy ra khỏi thạch động. Lúc này chàng cách Trương Thiên Mông càng gần hơn, chàng lướt người tới, vung kiếm ném vào hậu tâm của Trương Thiên Mông, Trương Thiên Mông vốn đã rút binh khí ra từ trước, y sử dụng một cây roi Giao long tỏa cốt, chuyên khắc chế các loại đao kiếm. Y nghe tiếng gió lướt ở phía sau thì không thèm quay đầu lại, trở tay đánh ra một roi, cuộn lấy thanh kiếm của Lăng Vị Phong. Trương Thiên Mông cả mừng xoay người dùng lực kéo một cái, không ngờ chẳng hề nhúc nhích nổi mà trái lại bị Lăng Vị Phong đẩy mũi kiếm vạch vào mạch môn. Trương Thiên Mông cả kinh, vội vàng vung tay, cây roi đột nhiên bật ra, kiếm của Lăng Vị Phong đã đâm tới như sấm sét.
                Lăng Vị Phong múa kiếm như gió, lướt người tiến tới trong màn bóng roi. Trương Thiên Mông liều mạng chống đỡ, bị chàng đẩy thối lui liên tục, đến bên mép vực sâu thì chỉ nghe tiếng nước chảy ầm ầm, bên cạnh hai người có dòng thác lớn đổ xuống, phía dưới là dòng sông Tang Càn sâu không thấy đáy.
                Hai người động thủ chỉ trong khoảnh khắc, Sở Chiêu Nam đã đuổi tới, Trương Thiên Mông dùng lực đánh ra mấy roi, lách sang một bên, Lăng Vị Phong chém kiếm tới thì chợt thấy Trương Thiên Mông vung tay trái ném một vật về phía Sở Chiêu Nam. Lúc đầu Lăng Vị Phong còn tưởng là ám khí nhưng nghe tiếng gió thì thấy không phải, vả lại cũng không phải ném về phía mình, chàng càng ngạc nhiên hơn. Lúc này chỉ nghe Trương Thiên Mông kêu lớn: “Chụp lấy” rồi cười gằn với Lăng Vị Phong: “Ngươi cứ giết ta đi! Đừng hòng lấy Xá lợi tử!” Lăng Vị Phong chợt hiểu ra, chàng quay người nhảy vọt về phía Sở Chiêu Nam. Chỉ thấy Sở Chiêu Nam vừa chụp được vật ấy, đang định nhét vào trong áo thì Lăng Vị Phong đã gầm lớn một tiếng, buộc Trương Thiên Mông vung kiếm đâm thẳng về phía Sở Chiêu Nam, kiếm pháp của chàng nhanh nhạy cực kỳ, chỉ trong khoảnh khắc hai người đã đánh nhau đến hai ba mươi chiêu. Lúc này mọi người cũng đã lần lượt kéo tới. Trương Thiên Mông phóng vọt lên, đứng trên một ngọn đồi nhỏ, y từ trên cao lăn đá xuống. Sở Chiêu Nam và Lăng Vị Phong không thể nào né tránh, cả hai phóng về phía trước, nhảy xuống sông. Lăng Vị Phong căm giận vô cùng, đang ở trong không trung chàng bật người một cái ném thanh kiếm lên ngọn núi nhỏ, chỉ nghe Trương Thiên Mông kêu ối chao một tiếng, té ra đã bị kiếm của Lăng Vị Phong đâm trúng.
                Lăng Vị Phong roi xuống đến gần mặt nước thì đầu trút xuống, chân chổng lên, hai chân nhẹ nhàng móc vào một mỏm đá nhô ra trên vách, chàng đưa mắt nhìn lại thì thấy Sở Chiêu Nam đã rơi xuống thác, nửa người của y đã chìm xuống nước, một tay thì bám tảng đá bên bờ sông. Rõ ràng hai bên đều lâm vào tình thế nguy hiểm.
                Muốn biết tính mạng của hai người thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
                #8
                  casau 01.11.2012 16:05:38 (permalink)
                  Hồi 5
                  Đem lòng ghen tuông há vì người mới quên kẻ cũ
                  Trải qua ác đấu từ hang đá lấy được chân kinh


                  Trong tình thế cực kỳ căng thẳng, Lăng Vị Phong móc hai chân vào mõm đá, dùng lực đu người lên, một tay chụp lấy cổ Sở Chiêu Nam tựa như bắt một con gà con, giở y lên khỏi mặt nước, Sở Chiêu Nam tuy có bảo kiếm trong tay nhưng đã đuối sức, nửa thân chìm xuống nước, chẳng thể nào né tránh được, Lăng Vị Phong giở y lên, giật lấy thanh bảo kiếm của y, hai tay bóp vào cổ họng của y. Sở Chiêu Nam kêu ằng ặc, thều thào nói: “Ta đưa Xá lợi tử cho ngươi!”.
                  Lăng Vị Phong nhìn y, buông tay nói: “Đưa đây”. Sở Chiêu Nam lấy ra cái hộp bằng gỗ đàn hương ướt đẫm nước, Lăng Vị Phong cầm cái hộp, sắc mặt Sở Chiêu Nam rất khó coi, đây là lần đầu tiên y nhận thua trong đời.
                  Lăng Vị Phong định kéo y lên, đột nhiên nghe ầm một tiếng, một trái cầu lửa đã nổ bên cạnh, Lăng Vị Phong đang đu lơ lửng trên không trung, chẳng thể nào né tránh, vai đã bị lửa táp vào nóng bỏng, mặt cũng có vài chỗ cháy xém, chàng vội vàng một tay đè vào vách đá, lăn người vào vách đá, ngọn lửa mới bị dập tắt nhưng vẫn còn cảm thấy đau đớn. Sở Chiêu Nam thừa thế xoay người trở lại, ngửa mặt nhìn Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, rút cây Du Long kiếm trong tay y, Sở Chiêu Nam không dám lao tới, lúc nào chỉ nghe trên bờ vực có tiếng quát tháo và tiếng binh khí chạm nhau.
                  Cây Xà Diệm tiễn lúc nãy là do một tên vệ sĩ đi cùng Sở Chiêu Nam tên gọi Xích Đại Thụ phóng ra. Cổ Nguyên Lượng thì đã bị Lăng Vị Phong điểm huyệt bị thương, Xích Đại Thụ cùng mọi người chạy ra khỏi thạch động, y thấy Sở Chiêu Nam và Lăng Vị Phong đu người dưới vực, thế là lấy ra một cây Xà Diệm tiễn bắn xuống, cây Xà Diệm tiễn bắn ra một luồng lửa màu xanh, loại ám khí này rất lợi hại, hễ gặp thứ gì cũng bốc cháy, không thể dùng binh khí gạt đỡ, chỉ có thể né tránh. Y nghĩ phen này có thể giết chết Lăng Vị Phong, nếu Sở Chiêu Nam bị thương thì cũng chẳng tiếc.
                  Hàn Chí Bang và Lưu Úc Phương thấy thế thì cả giận, Hàn Chí Bang giơ thanh đao xông tới, mới đánh được mấy chiêu thì Lưu Úc Phương đã vung ám khí chụp y bị thương, binh khí trong tay Xích Đại Thụ cũng bị Hàn Chí Bang đánh rơi. Y liều mạng xông ra, mới chạy được vài bước thì đã bị hai Lạt ma chặn đầu. Cả hai người này quát lớn lao bổ tới, một người chụp lấy chân y giở ngược lên xoay mấy vòng rồi ném y xuống vực sâu.
                  Sở Chiêu Nam đang kinh hoảng, chợt thấy có một người rơi xuống, trong lòng cả mừng, mặc địch hay bạn, thế là vươn tay chụp lấy ném xuống nước, lúc cái xác nổi lên lềnh bềnh thì y đề khí, vận đủ nội công lao xuống sông, một chân điểm vào cái xác rồi lao vọt lên vách núi phía đối diện, chỉ trong chớp mắt đã chạy nhanh như luồng khói. Hàn Chí Bang phát ra mấy viên Thiết Liên tử nhưng vì khoảng cách quá xa nên không trúng.
                  Sở Chiêu Nam vội vã bỏ chạy, Hàn Chí Bang mắng: “Tên gian tặc lại chạy thoát!” Lưu Úc Phương nói: “Cứ mặc y, xem thử Lăng Vị Phong thế nào!” Hàn Chí Bang không nói một lời, bước đến bờ vực, chỉ thấy sóng vỗ vào bờ dữ dội, trên vách có một bóng người đang đu đưa. Hàn Chí Bang đánh đá lửa lên, Lưu Úc Phương nhìn thấy Lăng Vị Phong đang từ từ bò lên rất khó khăn, nàng thất kinh rung giọng kêu lên: “Y đã bị thương”. Nàng tháo Cẩm Vân Đâu ném xuống, Cẩm Vân Đâu là một sợi dây bằng thép dài đến mấy trượng, ở đầu mút có cột lưới thép, khi làm ám khí có thể quăng ra để chụp người khác, giờ đây lại là công cụ cứu người. Lăng Vị Phong leo lên được một nửa, Lưu Úc Phương đã móc chân vào mép vực đu người xuống, sợi dây thép chạm vào tay Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong giữ chặt lấy, Lưu Úc Phương kêu lên: “Cẩn thận!” rồi nàng dùng lực rút một cái, kéo Lăng Vị Phong ném lên. Lăng Vị Phong vọt người lên cao, Lưu Úc Phương thu người, cuộn sợi dây thép lại, đỡ Lăng Vị Phong ngồi xuống đất. Bọn Lạt ma khen rằng: “Hảo công phu”. Bọn họ không biết Lưu Úc Phương đã dùng xảo kình.
                  Lưu Úc Phương không trả lời, nàng nhìn kỹ lại Lăng Vị Phong chỉ thấy trên vai của chàng đã bị cháy xém, da thịt sưng tấy, Lăng Vị Phong quay đầu lại. Bọn Lạt ma kêu hoảng, khuôn mặt của chàng vốn có hai vết đao, nhưng giờ đây bị cháy đến nỗi vừa đen vừa sưng tấy lên, trông càng đáng sợ hơn. Lăng Vị Phong cười nói: “Tôi vốn đã khó coi, dù có xấu hơn một tí cũng chẳng sao”. Lưu Úc Phương nói: “Huynh cảm thấy thế nào?” Lăng Vị Phong nói: “Chẳng qua chỉ cháy có một chút da thịt, không hề gì!” rồi chàng lấy ra một hộp gỗ đàn, đưa cho một Lạt ma, mỉm cười nói rằng: “May mà đã cướp lại được Xá lợi tử!” bọn Lạt ma vội quỳ xuống bái tạ. Lạt ma thủ lĩnh rất cẩn thận, mở hộp gỗ ra, chỉ thấy bên trong chỉ có vài viên trân châu phát ra ánh sáng. Lạt ma nhìn kỹ lại thì kinh hoàng thất sắc, rung giọng kêu lên: “Bọn chúng đã đổi Xá lợi tử!” Lăng Vị Phong cũng thất kinh, hỏi: “Thế nào? Chẳng phải là Xá lợi tử ư?” Lạt ma nói: “Đây là trân châu, Xá lợi tử không phát ra ánh sáng!”.
                  Té ra Trương Thiên Mông rất giỏi tâm kế, y đã thấy Ngô Tam Quế trao Xá lợi tử cho các Lạt ma, bởi vậy mới len lén làm một cái hộp bằng gỗ đàn giống y hệt, bên trong bỏ trân châu. Y vốn là định đi trên đường vạn nhất có người cướp đoạt thì đem ra thay thế. Đêm nay y nghe Sở Chiêu Nam nói như thế thì cũng nổi lòng phản bội Ngô Tam Quế, bởi vậy khi Sở Chiêu Nam nguy cấp y đã ra tay cướp Xá lợi tử của Lạt ma, định rằng sẽ dâng lên Hoàng đế lập công. Sau đó y bị Lăng Vị Phong đuổi sát theo chẳng còn lối thoát, đã sử dụng kế ve sầu lột vỏ, ném hộp Xá lợi tử giả cho Sở Chiêu Nam để Lăng Vị Phong thay đổi mục tiêu.
                  Lăng Vị Phong gằn giọng nói: “Gặp thằng giặc này một lần nữa, tôi sẽ lột da y!” chàng lại xin lỗi bọn Lạt ma. Các Lạt ma cũng rất ái ngại, bái tạ mấy lần rồi nói: “Tuy không đoạt được Xá lợi tử, nhưng ngài đã dốc sức vì chúng tôi, ơn đức này mãi mãi không quên!” bọn họ thấy Lăng Vị Phong đã bị thương, lại đang nôn nóng về Tây Tạng nên không muốn quấy rầy chàng nữa, thế là cáo từ bỏ đi.
                  Lưu Úc Phương và Hàn Chí Bang đỡ Lăng Vị Phong về thạch động, vừa vào động thì Lăng Vị Phong kêu ối chao một tiếng, ngồi xuống đất. Lưu Úc Phương vội vàng chạy tới, đỡ chàng nói: “Sao thế?” Lăng Vị Phong nói: “Cô nương hãy đưa tay nải cho tôi!” chàng lấy ra hai viên thuốc màu xanh nuốt vào nói: “Không sao cả, Xà Diệm tiễn của tên tiểu tử ấy là lửa lưu huỳnh, lửa độc công tâm hơi khó chịu, mấy viên thuốc này được bào chế từ Thiên Sơn Tuyết Liên, có thể giải lửa độc”. Lưu Úc Phương không yên tâm, thấy mặt chàng đã nổi nhiều đốm nước, lại lấy dược cao của mình bôi lên cho chàng. Lăng Vị Phong quay đầu đi, tựa như không muốn. Lưu Úc Phương thấy chàng né tránh thì cười rằng: “Chúng ta đều đi lại trên giang hồ, đừng khách sáo như thế”. Rồi nàng giữ Lăng Vị Phong lại, dịu dàng nói: “Ngồi yên, người bệnh phải nghe lời. Huynh không nghe lời tôi sẽ giận!” Lăng Vị Phong nhắm mắt để cho nàng bôi. Đột nhiên Lưu Úc Phương run rẩy, bình dược cao rơi xuống đất, Hàn Chí Bang nói: “Lưu cô nương mệt ư? Để tôi giúp!”.
                  Lăng Vị Phong xoay người, nói: “Tôi đã bảo không cần”. Lưu Úc Phương im lặng không nói, cứ ngồi yên như pho tượng, đôi mắt cứ nhìn đăm đăm vào mặt Lăng Vị Phong rất lâu, đột nhiên nói: “Trước đây chắc chắn huynh không phải như thế này!”.
                  Lăng Vị Phong nói: “Đương nhiên không phải, tôi đã bị thương, lại bị lửa đốt, vốn đã rất xấu xí”. Lưu Úc Phương lắc đầu nói: “Không phải! Lúc này tôi có thể nhìn rất kỹ, trước đây huynh chắc chắn rất anh tuấn, vả lại còn giống một người bằng hữu của tôi ở Hàng Châu!” Hàn Chí Bang lạnh lùng hừ một tiếng, Lăng Vị Phong cười rộ lên: “Tôi chưa hề đến Hàng Châu!” thật ra tiếng cười ấy cố che đậy sự lo lắng trong lòng chàng. Lưu Úc Phương nửa tin nửa ngờ, đột nhiên thấy Hàn Chí Bang đang nhìn mình đăm đăm, vẻ mặt không vui. Nàng đột nhiên sực nhớ lại, nếu Lăng Vị Phong chẳng phải người khác, mình bàn luận sự xấu đẹp của một nam nhân, có thể nói là mất thân phận của một Tổng đà chủ, cũng sẽ bị Hàn Chí Bang coi thường. Nàng nóng ran mặt, cười gượng nói: “Tôi chỉ lấy làm lạ võ công của huynh cao cường, sao trên mặt lại có vết đao?” trong lúc lúng túng, nàng đã nói ra lời chẳng hợp với câu trước, Hàn Chí Bang lạnh lùng hừ một tiếng.
                  Lăng Vị Phong nói: “Khi tôi ở Hồi Cương, gặp phải một kẻ thù của đại hiệp Dương Vân Thông, y thấy tôi dắt theo một bé gái, thế là tiện tay chém một đao, nếu không có người cứu thì tôi đã mất mạng!” Lưu Úc Phương nghe thế thì lấy làm lạ, hỏi: “Kẻ thù của Dương đại hiệp có liên quan gì đến huynh? Tại sao huynh dắt theo một bé gái chạy đến Hồi Cương?” Lăng Vị Phong vừa nói xong câu ấy thì biết mình lỡ lời, vội vàng lấp liếm rằng: “Sau này tôi sẽ nói cho cô nương biết. Bé gái ấy chỉ có hai tuổi. Hàn Chí Bang tiếp lời: “Chỉ có hai tuổi, Lưu đà chủ, cô... chắc cô không còn nói gì nữa!”.
                  Chàng vốn muốn nói: “Cô có thể yên tâm”. Nhưng lời vừa đến miệng thì chợt nhớ không thể xúc phạm Lưu Úc Phương, bởi vậy mới đổi đi. Dù như thế, Lưu Úc Phương vẫn trừng mắt nhìn chàng, nàng rất không vui, cũng lấy làm lạ tại sao Hàn Chí Bang lại hơi thất thường như thế.
                  Hôm sau thương thế của Lăng Vị Phong quả nhiên đã đỡ hơn nhiều, đã có thể đi lại. Lưu Úc Phương vẫn ân cần chăm sóc chàng. Hàn Chí Bang suốt ngày chẳng nói chẳng rằng. Sáng sớm ngày thứ ba, Lưu Úc Phương vừa thức dậy đã không thấy Hàn Chí Bang, chỉ thấy dưới đất có người dùng tay viết mấy dòng chữ lớn xiên xiên xẹo xẹo.
                  Mấy dòng chữ lớn ấy chính là: “Tôi là kẻ thô lỗ, không hiểu quy củ. Tuy là bằng hữu cũ nhưng chẳng bằng người mới. Chuyện trong Thiên Địa hội có Lưu cô nương chủ trì và Lăng anh hùng giúp đỡ, chắc chắn sẽ có ngày thành công. Xin cáo biệt từ đây, mong hãy tự bảo trọng”. Phía dưới còn đề mấy chữ “Kẻ thô lỗ Hàn Chí Bang”. Lưu Úc Phương thấy thế thì im lặng không nói, Lăng Vị Phong nói: “Y đúng là một hán tử hào sảng. Có điều đã hiểu lầm tôi quá nhiều!” lại nói Hàn Chí Bang thấy Lưu Úc Phương chỉ quan tâm đến Lăng Vị Phong thì lấy làm buồn. Đêm ấy chàng lăn qua trở lại, chẳng thể nào chợp mắt, chàng nghĩ mình là một kẻ thô lỗ, võ nghệ lại kém xa Lăng Vị Phong, làm sao có thể xứng với nàng, chàng thầm nhủ: “Sao mình cứ làm tảng đá cản đường giữa hai người họ”. Bởi vậy trời chưa sáng thì đã ngồi dậy, thấy hai người kia vẫn còn đang ngủ say thì thầm thở dài, xách theo hành trang, cầm binh khí, một mình rời khỏi động.
                  Hàn Chí Bang thẫn thờ chẳng biết đi về đâu, chàng cứ bước về phía trước, lúc này sương đêm vẫn chưa khô, gió sớm phả vào mặt, chàng đang đi thì chợt nghe tiếng nai kêu, từ xa nhìn thì thấy một con nai đốm uống nước bên dòng suối. Hàn Chí Bang thầm nhủ: “Con nai này uống nước ở đây chắc chắn đã lạc mẹ, thật đáng thương”. Rồi chàng chậm rãi bước tới, lẩm bẩm: “Nai nhỏ ơi nai nhỏ, ta cũng là người không có bạn bè, nếu ngươi không chê, chúng ta hãy kết thành bằng hữu”.
                  Chợt nghe một tiếng thú gầm, ở vạt rừng đó có một con báo kim tiền gầm rú phóng ra, nhảy bổ về phía con nai nhỏ, Hàn Chí Bang cả giận mắng: “Con nai đã đáng thương như thế, ngươi còn bức hiếp!” chàng cũng vọt đến mấy trượng, phóng ra mấy cây tụ tiễn, có điều khoảng cách quá xa, da của con báo lại dày, tuy đau nhưng cũng chẳng hề hấn gì. Con nai đã bị nó ngoạm trúng chân sau, con báo kim tiền đã trúng tên nhưng cũng không buông con nai ra mà vẫn đuổi sát theo. Hàn Chí Bang đột nhiên muốn trút cơn giận vào con báo nên thi triển khinh công đuổi theo sau.
                  Đuổi một hồi con nai tựa như chẳng còn đường, chui tọt vào một hang đá nhỏ. Con báo cũng đuổi theo, Hàn Chí Bang chạy ở phía sau, khoảng cách đã gần hơn, chàng lại phóng một cây tụ tiễn cắm vào mông con báo. Con báo kêu rống lên bổ nhào xuống đất, chưa kịp chụp người trở lại thì đã bị Hàn Chí Bang tóm lấy vặn gãy cổ. Chàng ném xác con báo vào trong động rồi chậm rãi bước vào, chỉ thấy con nai kêu rất thê thảm, đột nhiên bên trong có người quát: “Ai?” chàng nheo mắt nhìn lại, chỉ thấy có một người đang ôm con nai, dùng dao chặt sừng của nó, người ấy thấy Hàn Chí Bang bước vào thì giật mình phóng ra một ngọn phi đao, Hàn Chí Bang lách qua, khi nhìn lại thì thấy người ấy chính là Trương Thiên Mông! Té ra Trương Thiên Mông đã bị Lăng Vị Phong chém trúng một kiếm, mất máu quá nhiều nên nấp trong động này dưỡng thương.
                  Hàn Chí Bang thấy Trương Thiên Mông thì cả giận, rút đao đâm tới. Trương Thiên Mông nhảy về phía trước, rút cây roi ra, Hàn Chí Bang vung đao chém tới, Trương Thiên Mông phất cây roi, cuộn vào cây đao của Hàn Chí Bang dùng lực kéo một cái, Hàn Chí Bang cả giận tấn công tới tấp. Trương Thiên Mông tựa như xoay chuyển rất khó khăn, y chỉ có thể chống đỡ. Hàn Chí Bang thấy sắp đắc thủ thì Trương Thiên Mông quát một tiếng, người hạ xuống phía sau, cây kim đao của Hàn Chí Bang lại bị y dùng roi cuộn lấy giật ra sau, cây kim đao vuột khỏi tay.
                  Trương Thiên Mông không hề lơi lỏng, lại đánh tới thêm một roi, trúng vào ngực của Hàn Chí Bang. Hàn Chí Bang ngã xuống đất, lăn mấy vòng rồi nằm im lìm.
                  Trương Thiên Mông cả mừng, bước tới toan bồi thêm một roi, khi bước tới gần thì đột nhiên Hàn Chí Bang quát lớn một tiếng, phóng Thiết Liên tử ra, Trương Thiên Mông không kịp đề phòng, đầu và hai vai đã bị trúng mấy viên, Trương Thiên Mông giật mình, đột nhiên chân tựa như đạp phải bông, mềm mại vô lực. Vết thương cũ chảy máu ròng ròng!
                  Hàn Chí Bang ngồi bật dậy, thấy Trương Thiên Mông ngồi xuống đất, cây roi dài đặt sang một bên thì rất ngạc nhiên, chàng lại ném tới thêm mấy viên Thiết Liên tử, Trương Thiên Mông tức giận nói: “Nhà ngươi thật xảo trá!”.
                  Lần này y đã phòng bị, hai tay hất một cái đã tiếp được Thiết Liên tử đánh ngược ra trở lại. Hàn Chí Bang nhảy nhót né tránh, thế nhưng vẫn bị Trương Thiên Mông ném trúng vào tay phải.
                  Hàn Chí Bang trúng ám khí nhưng cười ha hả. Té ra lúc nãy chàng chịu một roi, tuy rất đau, giờ đây bị Thiết Liên tử đánh trúng nhưng chẳng hề đau đớn. Chàng biết Trương Thiên Mông khí lực đã tận, thế là nhảy bổ tới trước người y, dùng lực đấm thêm mấy quyền vào ngực y. Hai chưởng của Trương Thiên Mông cũng vỗ trúng be sườn của Hàn Chí Bang, hai người ôm nhau lăn tròn dưới đất.
                  Nếu luận về võ công, Trương Thiên Mông chỉ thua Sở Chiêu Nam một bậc, đương nhiên là cao cường hơn Hàn Chí Bang nhiều, thế nhưng y đã trúng một kiếm của Lăng Vị Phong, vết thương lại vỡ ra, đương nhiên chẳng thể chống nỗi Hàn Chí Bang, lăn lộn một hồi thì đã bị Hàn Chí Bang đè xuống đất. Y điên cuồng há mồm táp một cái thật mạnh vào vai của Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang kêu lên đau đớn. Trương Thiên Mông thừa cơ chụp vào cổ tay của Hàn Chí Bang vặn mạnh một cái, Hàn Chí Bang đau đớn đành buông tay trái ra. Trương Thiên Mông tay trái cũng bóp vào mạch môn của Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang không thể dùng lực, đổ ập lên người Trương Thiên Mông, cắn vào cổ họng của y; Trương Thiên Mông lại cắn vào vai của chàng. Hàn Chí Bang cắn vào cổ họng y thì thấy mùi máu tanh xông vào cổ họng mình đến tởm lợm.
                  Chàng vội vàng nôn máu ra, khi mở mắt nhìn lại thì cổ họng của Trương Thiên Mông đã bị khoét một lỗ lớn, máu tươi tuôn ra òng ọc như suối, có điều hai tay của y vẫn cứ nắm chắc mình. Hàn Chí Bang dù trải qua hàng trăm trận đánh nhưng cũng không khỏi hoảng sợ, chàng dùng lực kéo một cái, tách được đôi tay của Trương Thiên Mông rồi đứng dậy. Lúc này chàng chỉ thấy tứ chi bủn rủn, chàng đi được mấy bước thì không cầm cự nổi đành nằm xuống đất nhắm mắt dưỡng thần.
                  Lúc này con nai nhỏ từ từ nhích đến gần chàng. Trong cơn mơ màng Hàn Chí Bang chỉ thấy con nai nhỏ hình như dụi đầu vào ngực của mình, chàng dần dần tỉnh dậy, cũng vuốt nhẹ con nai, lẩm bẩm: “Con báo đã chết, người ác cũng đã chết, nai nhỏ, nai nhỏ đừng sợ nữa!” chàng đang nói thì chợt thấy chất nước ngòn ngọt chảy vào miệng mình, trôi xuống cổ họng, trong khoảnh khắc Đan Điền tựa như có dòng khí ấm dâng lên, người cũng sảng khoái hơn nhiều, dòng nước đó chính là máu nai, nó bi con báo kim tiền cắn bị thương, lại bị Trương Thiên Mông đâm đao vào, máu vẫn còn chảy không ngừng, máu nai chính là loại thuốc bổ khí bổ huyết. Hàn Chí Bang dùng lực quá độ đã bị trọng thương, may mà máu nai đã giúp chàng lấy lại thể lực.
                  Hàn Chí Bang vừa tỉnh dậy thì thấy máu tươi chảy lênh láng dưới đất, trong vũng máu có một cái hộp nhỏ, chàng chợt hiểu ra, vội vàng cầm cái hộp nhỏ lấy áo chùi sạch, mở ra nhìn thì thấy có những viên trông giống như hạt trân châu nhưng không phát sáng mà có màu xám, trên hộp có khắc những dòng chữ trông rất kỳ quặc, đó chính là chữ Phạn, Hàn Chí Bang tuy không hiểu nhưng chàng đoán được rằng đó chính là Xá lợi tử, trong lòng cả mừng thế là vội vàng cất hộp vào hành trang.
                  Nhưng chàng chỉ hơi nhúc nhích thì thấy mắt hoa lên, lúc này chàng mới biết mình dùng lực quá độ, không thể đi được nữa. Chàng sờ con nai nhỏ bên cạnh, con nai nhỏ cũng đã chết. Chàng chợt cảm thấy rất cô quạnh, tựa như bản thân chưa hề có một người thân hay bằng hữu, trong lòng trống trải, chàng nằm xuống ngủ thiếp đi.
                  Không biết ngủ được bao lâu, vừa tỉnh dậy thì thấy ánh mặt trời xuyên vào trong động, lúc này đã là trưa ngày thứ hai, chàng đứng dậy nhưng vẫn có thể yếu ớt, bụng đói đến phát run, có điều tinh thần đỡ hơn hôm qua. chàng nghĩ, nếu đi ra ngoài mà không đủ sức, lỡ gặp phải kẻ địch thì không thể nào chống cự, xem ra chỉ đành nghỉ ngơi trong thạch động này vài ngày, nhưng không biết tìm thức ăn ở đâu ra? Trong hành trang lại chỉ còn một ít lương khô, mình không nỡ lòng ăn thịt con nai nhỏ”. Chàng đang lo lắng thì chợt liếc mắt, bỗng nhiên cười rằng: “Sao mình lại quên con báo kim tiền?” hôm qua chính chàng đã vặn gãy cổ con báo ném vào trong động, Hàn Chí Bang lôi con báo vào sâu hơn, nhặt củi khô trong động chất động lại rồi đành lửa lên, chàng lấy cây đao xẻ thịt báo nướng trên lửa.
                  Lửa cháy phừng phừng chiếu sáng cả thạch động, Hàn Chí Bang ngẩng đầu nhìn xung quanh, chợt thấy trên vách động có vẽ rất nhiều hình người, tư thế của những hình người này trông rất kỳ lạ.
                  Hàn Chí Bang nhìn kỹ lại, chỉ thấy có người nhắm mắt chắp tay, có người bóp quyền xoa chưởng, có người tựa như muốn lao bổ tới, có người thực hiện tư thế cầm nả, lại có người cầm đao kiếm tựa như muốn đâm ra... nhưng vì lâu năm nên cũng có những bức tranh chỉ để lại dấu vết lờ mờ. Hàn Chí Bang rảnh rỗi chẳng có chuyện gì làm nên ngồi xem chăm chú từng bước tranh, chàng đếm kỹ lại thì thấy có ba mươi sáu bức tranh vẫn còn rõ ràng, hai mươi bảy bức tranh thì chỉ còn hiện lờ mờ. Trong ba mươi sáu bức tranh con rõ thì có sáu bức tranh vẽ hình người đang ngồi đả tọa, trong đó có ba tư thế đều là xếp bằng buông tay, ba bức còn lại thì hơi khác, có một bức ngồi nghiêng mặt đả tọa, có một bức ngồi chắp tay trước ngực, có một bức như cúi người toan đứng lên.
                  Sau khi Hàn Chí Bang ăn thịt báo xong thì khí lực hơi tăng lên, dầu sao cũng chẳng có chuyện gì nên chàng thử ngồi theo tư thế của bức tranh trên vách. Sáu bức tranh đầu thì chàng chẳng hiểu gì cả, chàng chỉ chọn những bức tương đối dễ học, trước tiên luyện vài đòn chưởng pháp, nói ra cũng thật kỳ lạ, sau khi luyện xong thì thấy khí huyết lưu thông, toàn thân thoải mái, tinh thần khỏe khoắn hơn nhiều. Chàng càng luyện càng có hứng, chàng thầm nhủ dù sao vẫn chưa khỏe, cứ ở lại đây vài ngày luyện theo những bức tranh trên vách đá. Không đầy ba ngày thì chàng đã luyện thành thục.
                  Sáng sớm ngày thứ tư, chàng đã ăn hết thịt báo, củi mục trong động đã cháy hết, chàng thử luyện khí lực, chàng thấy đã hoàn toàn hồi phục, trong lòng cả mừng, thế là thu xếp hành trang ra khỏi động, chàng chợt nghe bên ngoài có tiếng người và tiếng bước chân tựa như đang đi về phía mình. Thế là chàng vội vàng nấp sau một pho tượng Phật.
                  Đám người ấy vào trong động, Hàn Chí Bang nghe một người nói: “Ồ, hình như có mùi xác chết!” Hàn Chí Bang mới nhớ rằng mình vẫn chưa chôn cái xác của Trương Thiên Mông, chàng đã ở trong động mấy ngày, lỗ mũi đã quen, trong động lại lạnh nên không hề nhận ra. Những người này từ bên ngoài bước vào, vừa ngửi đã thấy khó chịu.
                  Một hồi sau có hai người bước sâu vào bên trong, trong tay cầm ngọn đuốc, rọi vào cái xác của Trương Thiên Mông, cả hai kêu hoảng lên. Một người nói: “Có lẽ người này chính là thủ hạ của Ngô Tam Quế, nghe nói y võ công cao cường, có lẽ đã bị Lăng Vị Phong hại chết!” Hàn Chí Bang thầm hừ một tiếng, nhủ rằng: “Các ngươi chỉ biết có một mình Lăng Vị Phong!”.
                  Lúc này hai người trái lại cũng hơi sợ hãi, đùn đẩy nhau chứ không dám tìm kiếm. Một người nói: “Người khác thì còn tốt, chỉ e Lăng Vị Phong vẫn nấp ở trong này”. Hàn Chí Bang rất tức giận, gầm lớn một tiếng nhảy ra nói: “Dù ta không phải là Lăng Vị Phong cũng có thể thu thập các ngươi!” hai người ấy giật mình, ném ngọn đuốc về phía Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang lách người né tránh, vung hai chưởng lao bổ tới.
                  Hai người này là giáo đầu Cấm vệ quân, ngày đó sau khi Sở Chiêu Nam bị đánh đại bại, vội vàng chạy về tìm Trương Thừa Bân, bảo y sai thủ hạ đắc lực chia nhau đi tìm. Bởi vậy hai giáo đầu này mới đụng độ Hàn Chí Bang.
                  Hàn Chí Bang lao bổ lên, cả hai giáo đầu đã thấy trên mặt chàng không có vết đao thì biết không phải là Lăng Vị Phong nên bạo dạn nghênh đón.
                  Hàn Chí Bang một mình địch hai, chàng quát lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra. Kẻ địch tách ra hai bên, một người đánh ra ba mươi sáu lộ trường quyền, quyền phong vù vù dồn tới trước mặt, một người triển khai Thiên Long chưởng pháp của Tây Tạng. Cả hai người này một người dùng quyền một người dùng chưởng phụ trợ lẫn nhau, đánh rất hiểm hóc, một hồi sau Hàn Chí Bang đã bị đẩy lùi vào góc động.
                  Hàn Chí Bang là Tổng đà chủ của Thiên Địa hội, võ công đương nhiên chẳng phải hạng thường, kẻ địch cũng là cao thủ, lại phối hợp nhau rất kín kẽ. Hàn Chí Bang không tấn công nổi, dần dần đành lui vào phòng thủ.
                  Đang đánh thì kẻ bên trái đánh một quyền vào mặt Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang giơ chưởng ra định gạt ngang qua, kẻ bên phải đã lao bổ tới tay trái vỗ chưởng vào tay phải của Hàn Chí Bang, tay phải cũng quét ngang tới tay trái của Hàn Chí Bang, cả hai người đều tấn công rất hung mãnh. Hàn Chí Bang đang lúc gấp gáp, đột nhiên sử dụng ra bộ chưởng pháp đã học trên vách đá, chàng không lùi mà tiến, lách người sang một bên, gót chân xoay một vòng nắm quyền của kẻ bên mặt kéo vào lòng, quát lớn: “Lên!” rồi nhấc bổng kẻ địch lên, xoay tít trên không trung ném ra ngoài, kẻ ấy va trúng tên còn lại, cả hai cùng kêu hự lên một tiếng rồi ngã ra sau. Kẻ lúc nãy bị va phải, đầu đập vào tượng Phật lập tức bể óc, máu chảy lênh láng, tượng Phật cũng lung lay như sắp rơi xuống đến nơi!
                  Hàn Chí Bang đánh một chiêu đắc thủ, chàng không lơi lỏng, chàng phóng người nhảy bổ tới kẻ vừa mới ngã xuống đất, bồi thêm cho y một chưởng.
                  Hàn Chí Bang chỉ sử dụng vài chiêu thức mới học được mà đã đánh bại được kẻ cường địch thì trong lòng mừng rỡ. Chàng thấy tượng Phật lung lay sắp đổ xuống thì vội vàng chạy đến đỡ, chàng chợt thấy dưới bức tượng Phật có một quyển sách, chàng nhặt lên, thổi bụi trong quyển sách, mở ra nhìn thì thấy chữ viết trong quyển sách rất kỳ dị, trông chẳng khắc gì những chữ khắc trên hộp đựng Xá lợi. Lật đến cuối cùng thì mới thấy hai hàng chữ Hán viết rằng: “Đạt Ma Dịch cân kinh, tặng cho người có duyên”. Bên dưới có mấy hàng chữ nhỏ chú thích: “Một trăm lẻ tám thức, thức nào cũng thần kỳ, chín hình sáu tượng rất căn cơ”. Hàng chữ nhỏ cuối cùng có ghi rằng: “Kẻ hậu học vô trụ kính đề, tháng chín năm Trinh Quán thứ năm thời Đường”. Hàn Chí Bang thấy thế thì lấy làm ngạc nhiên nhưng cũng cảm thấy quyển sách này trông hay hay nên tiện tay đút vào hành trang. Cho đến nhiều năm sau chàng mới biết rằng Đạt Ma thiền sư là một bậc cao tăng từ Ấn Độ đến Trung Hoa vào thời Lương Vũ Đế, cũng là người sáng lập ra thiền tông, hai kinh Dịch cân và Tẩy tủy là tinh hoa võ công của Đạt Ma thiền sư, một trăm lẻ tám bức tranh trên vách đá chính là bản gốc của một trăm lẻ tám thức Đạt Ma nổi tiếng. Đáng tiếng Hàn Chí Bang chỉ học được ba mươi thức, sáu thức đả tọa căn cơ quan trọng nhất thì chàng lại không học, bởi vậy tuy gặp được kỳ ngộ nhưng sau đó vẫn thua to, chuyện này sẽ được kể ở phần sau (chú thích của tác giả: Theo các nhà sử học cận đại khảo chứng, hai kinh Dịch Cân và Tẩy Tủy là do văn nhân thời Minh lấy danh nghĩa của Đạt Ma để viết ra. Nhưng tiểu thuyết không cần phải chính xác một cách nghiêm ngặt. Bạn đọc cứ coi đây là lời của nhà tiểu thuyết)
                  Hàn Chí Bang chậm bước ra khỏi thạch động, chỉ thấy ánh mặt trời rải khắp muôn nơi, trong sơn cốc trăm hoa đua sắc, Hàn Chí Bang nấp trong thạch động mấy ngày chẳng thấy mặt trời, lúc này giữa bầu trời xanh mây trắng, hoa núi thắm tươi, lòng rất thoải mái, nỗi buồn bực mấy ngày hôm nay tan biến như làn khói nhạt. Chàng đưa mắt nhìn xung quanh, chợt thấy cách đó mấy trượng, trên vách đá có người dùng đao khắc một mũi tên, ngoài ra còn có những ám hiệu kỳ lạ.
                  Hàn Chí Bang đang ngạc nhiên thì chợt nghe trên núi có truyền lại tiếng quát tháo, lại còn có cát đá rơi xuống. Hàn Chí Bang biết bên trên có người đánh nhau, lòng tò mò trỗi dậy, chàng đu dây leo lên xem, lên đến nơi chỉ thấy có bốn vệ sĩ áo đen vây quanh ba Lạt ma, đôi bên đang đánh nhau rất hăng. Hàn Chí Bang vừa nhìn thấy thì ngạc nhiên, trong số ba Lạt ma có một người là kẻ đi cùng Trương Thiên Mông hộ tống Xá lợi tử.
                  Hàn Chí Bang nhìn một hồi thì thấy bốn vệ sĩ càng đánh càng dữ, ba Lạt ma kia chỉ có thể chống đỡ chứ chẳng thể trả đòn, chàng không nén được quát lớn một tiếng như hổ gầm rồi rút đao xông tới. Lạt ma nọ cả mừng, kêu lên mấy tiếng, Hàn Chí Bang định trả lời, nhưng thấy hai võ sĩ đã rút khỏi vòng chiến đến chặn mình, y cười gằng nói? Té ra là Hàn tổng đà chủ!” hai kẻ ấy một người sử dụng Phán Quan bút, một người sử dụng đao răng cưa, vừa xông tới đã dùng những chiêu hiểm độc, bút điểm vào huyệt đạo, đao chém vào hai vai.
                  Hàn Chí Bang muốn dùng những chiêu số mới học để đối phó với bọn chúng. Nhưng nghĩ lại chàng vẫn sử dụng Bát quái tử kim đao pháp của bổn môn. Chàng muốn thử xem đao pháp của bổn môn và võ công mới học hơn thua nhau thế nào.
                  Bát quái tử kim đao có sáu mươi bốn thức, đây là một trong những loại đao pháp mà võ sư thời Minh Đơn Tư Nam đã sử dụng (một loại khác là Câu liêm đao), đao pháp của chàng múa như điện xẹt, cũng rất lợi hại. Chỉ có điều binh khí của hai người này đều là binh đao ngoại môn hiếm thấy. Nhất là sẽ sử dụng Phán Quan bút dùng công phu rất khéo léo, y chuyên môn tìm chỗ sơ hở để điểm vào huyệt đạo của đối phương. Nếu một địch một thì Hàn Chí Bang có thể ứng phó nổi, nhưng nay thì một mình chàng phải đối phó với hai tên, dù Hàn Chí Bang dốc hết sức mình cũng chỉ có thể đánh ngang bằng.
                  Đánh được nửa canh giờ, Hàn Chí Bang đã thấy đuối sức, chàng nhìn lén qua Lạt ma, tuy đã được giảm áp lực nhưng cũng chưa chiếm được thượng phong. Chàng rất lo lắng, nhân lúc tên sử dụng đao răng cưa chém tới một đao, chàng lách người qua vung cây kim đao lên không trung, đánh hờ trước mặt tên sử dụng Phán Quan bút, y tưởng rằng chàng sẽ sử dụng chiêu số chém ngang, thế là hai vai lách tới, định rút bút tiến chiêu, không ngờ đao pháp của Hàn Chí Bang rất đặc biệt, khi đao quang lóe lên, mũi đao hất cây bút, đâm thấu vài vai của người ấy.
                  Hàn Chí Bang nghe tiếng gió sau lưng, chàng không xoay người mà bước vòng qua, trở tay đánh lại một đao, tên sử dụng đao răng cưa chém hụt, bị Hàn Chí Bang trở tay lại chém thẳng vào đao đánh choang một tiếng, cây đao rơi xuống đất. Lúc này Hàn Chí Bang mới xoay người lại, từ trên bổ xuống, chặt người ấy thành hai đoạn. Tên sử dụng Phán Quan bút vội vàng co giò chạy thẳng, Hàn Chí Bang không thèm đuổi theo y mà giơ đao xông vào vòng chiến, giúp cho ba Lạt ma kia.
                  Hai tên võ quan còn lại đang đấu rất hăng. Hàn Chí Bang xông vào, vung đao đâm thẳng tới, thân pháp của chàng nhanh cực kỳ, trong chớp mắt đã có một tên ngã xuống đất. Tên còn lại thấy thế cả kinh, tay cầm ngân thương gạt ra ngoài, Hàn Chí Bang quay lại, cả người lẫn đao xoay một vòng, đao quang chém xéo ra, lưỡi đao chặt vào cán thương. Người ấy vội vàng buông tay, cây ngân thương rơi xuống đất, Hàn Chí Bang lướt nhanh tới, tay trái vung lên chụp vào cổ tay của người ấy giật mạnh, người ấy đau đến nỗi kêu hoảng lên.
                  Hôm nay Hàn Chí Bang liên tục đánh bại sáu võ quan, đao pháp và chưởng pháp mà chàng đã dùng toàn là loại đã học trong hình vẽ trên vách đá, mỗi chiêu đánh ra đều thấy hiệu quả, chàng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Lúc này chàng rất đắc ý, nói với tên võ quan: “Bình thường các ngươi hay bức hiếp dân lành, hôm nay ta sẽ cho ngươi nếm khổ”. Rồi chàng vặn mạnh một cái, người ấy kêu hoảng: “Hảo hán tha mạng!” Hàn Chí Bang nói: “Muốn được tha không khó, ngươi phải nói cho bọn ta biết, các ngươi đến đây làm gì?” tên võ quan nói: “Chúng tôi vâng lệnh chia nhau đi tìm Lăng Vị Phong”. Hàn Chí Bang cả cười: “Cả ta các ngươi cũng đánh không lại mà còn dám truy đuổi Lăng Vị Phong”. Tên võ quan ấy nói: “Võ công của ngài còn giỏi hơn cả Lăng Vị Phong!” Hàn Chí Bang nói: “Ta không cần ngươi khen bừa!” chàng tuy mắng nhưng cũng cảm thấy sung sướng, thầm nhủ: “Thế là có kẻ biết đến mình rồi!” rồi chàng dùng đao đẩy một cái, quát: “Nếu ngươi đã nói thực, ta tha cho ngươi!” tên võ quan ôm đầu lủi mất, chẳng dám quay nhìn lại.
                  Ba Lạt ma bước tới đáp tạ, Lạt ma lúc nãy còn ôm chàng, hôn lên trán của chàng. Hàn Chí Bang không quen lễ tiết này, ái ngại cười rằng: “Thôi đi, có phải các người tìm Xá lợi tử không?” Lạt ma quen biết chàng tên gọi là Tông Đạt Hoàng Chân, nói rằng: “Hôm ấy sau khi họ mất Xá lợi tử vẫn chưa quay về Tây Tạng, cũng đã liên tục gặp vài người đến đón thánh vật, ngày nào họ cũng đi tìm Trương Thiên Mông. Tuy đoán rằng Trương Thiên Mông có thể đã cao chạy xa bay nhưng vẫn cứ cố tìm. Nhất là những Lạt ma chưa từng thấy Xá lợi tử thì cứ đòi y phải đi cùng, bởi vậy cứ quanh quẩn ở đây, không ngờ gặp phải bọn võ quan này.
                  Hàn Chí Bang nghe xong thì cả cười: “Các người cũng có lòng thành tìm thánh vật, hãy xem đây!” nói xong thì lấy cái hộp gõ đàn hương ra, mở cho họ xem.
                  Tông Đạt Hoàng Chân mừng rỡ kêu lên: “Chính là Xá lợi tử!” rồi quỳ sụp xuống dập đầu, hai Lạt ma kia cũng chưng hửng rồi hiểu ra, cũng vội vàng quỳ xuống.
                  Hàn Chí Bang đang lúng túng chẳng biết làm thế nào, đột nhiên cả ba người đứng dậy, lấy ra một tấm khăn vàng đưa đến trước mặt Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang biết đó là lễ tiết thiêng liêng nhất của những Lạt ma, đó là Hiến cáp đạt. Chàng vội vàng nói: “Làm sao dám nhận!”
                  Tông Đạt Hoàng Chân nói: “Từ nay người là đại ân nhân của Lạt ma chúng tôi, chúng tôi mong người có thể theo chúng tôi về Tây Tạng”.
                  Hàn Chí Bang lúc đầu còn từ chối khi nghĩ kỹ lại thì mỉm cười gật đầu chấp nhận. Chàng ra đi chuyến ấy đến mấy năm sau mới gặp lại Lăng Vị Phong, Lưu Úc Phương.
                  #9
                    casau 01.11.2012 16:08:53 (permalink)
                    Hồi 6
                    Mây che phủ làng vắng dị sĩ đến
                    Nước hồ trong veo u cốc kinh kỵ


                    Khi Hàn Chí Bang và đám Lạt ma vượt qua cao nguyên Lệ Tạng, Lăng Vị Phong và Lưu Úc Phương cũng đang rong ruổi ở cao nguyên Vân Quý. Chuyến đi kéo dài hơn mười ngày, giữa họ đã nảy sinh một thứ tình cảm kỳ lạ. Lưu Úc Phương cảm thấy, Lăng Vị Phong có lúc tựa như là một người bằng hữu lâu năm của nàng, có lúc như là một người hoàn toàn xa lạ. Trên suốt quãng đường chàng rất phách lối. Nhưng trong sự lạnh nhạt cố ý ấy, đôi lúc chàng để lộ sự quan tâm của mình đối với Lưu Úc Phương. Lưu Úc Phương chưa bao giờ bị người ta lạnh nhạt như thế, cũng chưa bao giờ được người ta quan tâm như thế. Tình cảm phức tạp ấy vừa như mâu thuẫn, vừa rất ly kỳ, tuy nàng là bậc nữ trung hào kiệt già dặn giang hồ, quen với phong ba nhưng khi rơi vào lưới tình nàng cũng chẳng thể vùng vẫy nổi. Đúng thế, nàng nghi ngờ Lăng Vị Phong chính là người bằng hữu thời thiếu niên, nhưng làm sao có thể như thế? Trong đêm xảy ra chuyện, rõ ràng nàng đã thấy quần áo và giày của chàng nổi lền bền trên sông Tiền Đường, có lẽ thân xác chàng đã trôi ra biển khơi! Mà dung mạo, giọng nói của Lăng Vị Phong lại khác hẳn với một hình bóng ẩn sâu trong lòng nàng nhiều năm. Có điều thói quen bẻ ngón tay khi trầm tư của Lăng Vị Phong lại hoàn toàn giống như người ấy. Lưu Úc Phương là một Đà chủ, nàng không dám nói thẳng ra nỗi nghi ngờ của mình, nhưng vẫn thường thầm để ý Lăng Vị Phong, hy vọng có thể phát hiện thêm điều gì từ chàng, Lăng Vị Phong cũng thấy nàng để ý đến mình, đôi lúc cũng mỉm cười đáp lại.
                    Nhưng trong suốt mười ngày, trong lòng cả hai đều có thứ tình cảm rất kỳ lạ.
                    Hôm nay họ đến Hoa Ninh, cách Côn Minh chỉ có ba trăm dặm đường. Sáng sớm tinh mơ họ đã lên đường, đi được một đoạn Lăng Vị Phong cười chỉ về phía trước: “Theo cước trình của chúng ta, sập tối hôm nay có thể tới Côn Minh”. Họ bước vào một u cốc, đột nhiên sắc trời tối tăm, trong u cốc khói bốc mù mịt, càng lúc càng dày, dần dần trời tối như mực, họ cũng chẳng nhìn thấy con đường ở phía trước. Lăng Vị Phong kinh hãi kêu lên: “Đây là mây mù núi Ô Mông, trong mây mù thường có chướng khí, chúng ta phải cẩn thận!” Họ nín thở, lần dò tiến về phía trước, đi một đoạn thì phía trước xuất hiện một mặt hồ lớn. Hồ nước nằm im lìm giữa rặng núi, mặt nước chẳng gợn sóng, mây trắng in bóng xuống mặt hồ. Từ lưng chừng núi cho tới chân núi đều có cây sam và cây bách xanh thẫm, phong cảnh trông rất đẹp đẽ. Lúc này trên không trung vẫn còn mây mù, thế nhưng hồ nước thì xanh biếc, mặt hồ như một phiến bạch ngọc khổng lồ, Lưu Úc Phương chỉ bản đồ nói: “Đây là hồ Phủ Tiên, chướng khí ở đây mỏng, chúng ta ngừng lại ở đây nghỉ ngơi một lát”.
                    Hai người vừa nói vừa đi, chướng khí cũng kéo tới theo sương mù, tuy nói hơi nước trong hồ có thể chống lại chướng khí nhưng họ cũng cảm thấy hít thở khó khăn. Hai người định nghỉ ngơi một lát thì chợt thấy có làn hương thoang thoảng thổi tới, chướng khí đột nhiên giảm dần. Hai người cả mừng tìm theo làn hương ấy, không bao lâu thì phát hiện có một đống lửa, có rất nhiều người nam nữ ngồi vây quanh đống lửa.
                    Lăng Vị Phong biết đây là loại cỏ tranh có mùi thơm của người Di, có lẽ bên hồ có một thôn làng nào đó nên hễ gặp có chướng khí là dân làng đốt cỏ tranh lên để tránh chướng khí. Lăng Vị Phong và Lưu Úc Phương vội vàng chạy tới, chào hỏi dân làng. Người Di vốn đơn thuần, lập tức mời họ ngồi xuống. khi Lăng Vị Phong ngồi xuống thì thấy trong đám người có lẩn hai người Hán, hai người ấy đang nhìn mình chằm chằm, Lăng Vị Phong giật mình, vội vàng dùng tay che mặt, giấu vết đao, cúi đầu xuống. Một hồi sau, khói mù trên đầu càng dày hơn, dân làng lại cho thêm nhiều cỏ thơm, lửa càng cháy mạnh hơn, lúc này lại có một người hạy nhanh đến, Lăng Vị Phong thấy bước chân của y vững chãi, biết ngay rằng đó là một cao thủ võ lâm. Khi ấy chạy đến gần thì chàng mới thấy y ăn mặc theo kiểu thư sinh, mặt mũi rất thanh tú, xem ra cũng chỉ có khoảng hai mươi tuổi, người này biết tiếng nói của người Di, vừa đến đã cười cười nói nói với họ, tựa như người quen. Một hồi sau, trong u cốc lại có thêm mấy đại hán mặc áo vàng, Lăng Vị Phong nhìn từ xa thì kêu ồ một tiếng, dùng tay hích nhẹ Lưu Úc Phương, bảo nàng quay mặt đi, đừng chạm mặt với những người ấy. Đám người này rất ngang ngược, bọn chúng không thèm chào hỏi dân làng đã chen vào, ngồi bên cạnh hai người Hán. Trong màn chướng khí dày đặc, chợt nghe tiếng thú gầm, một bầy chim bay ào lên, đảo mấy vòng bên trên đống lửa. Có lẽ bày chim này không chịu nổi chướng khí. Vài người dân tộc Di cầm trong tay cây sào dài, khi chim bay thấp thì đột nhiên phóng cây sào ra, đánh rơi hơn mười con chim. Nhưng sau đó thì bầy chim cũng cảnh giác, chúng tuy phải bay thấp xuống để tránh chướng khí, nhưng vừa thấy bóng sào đã bay vút lên cao nên người Di cũng chẳng làm gì được họ. Hai người Hán kia thì cười ha hả, mượn hai cây sào đứng dậy, chỉ thấy họ múa tít cây sào, bầy chim rơi xuống lả tả, chỉ trong chớp mắt đã có một đống chim. Bày chim hoảng hốt bay ào ra khỏi phạm vi của cây sào. Sau đó đại hán áo vàng phát ra tiếng cười lạnh, một người đứng dậy nhặt lấy một hòn đá, cười nói: “Cần gì phải nhọc sức như thế, xem đây!” rồi y nhặt hòn đá, vung tay lên, chỉ thấy đá vụn bay ra, chim trên không trung rơi xuống đồm độp. Một người hán vội vàng buông cây sào, ôm quyền hỏi. Người áo vàng lại cười lạnh, nói với người kia rằng: “Kim Nhai, ngươi không nhận ra ta nhưng ta nhận ra ngươi, nghe nói trong phủ Bình Nam vương Thượng Chi Tín ngươi rất được coi trọng, bằng hữu này chắc cũng là nhân vật có tài trong vương phủ đây”.
                    Người được gọi Kim Nhai nhìn y một hồi rồi đột nhiên nói: “Tiền bối có phải là Khưu Đông Lạc tiên sinh mười năm trước hình như tôi đã gặp ông ở Lịch thành, tiền bối ở đó chắc cũng đắc ý lắm?” Khưu Đông Lạc thấy y tự xưng là vãn bối, sắc mặt giãn ra, nhưng vẫn tiến tới hỏi lớn: “Ngươi từ chỗ Thương Trị Tín đến đây, mang theo vật gì gặp Ngô Tam Quế, lấy ra cho ta xem thử?” Kim Nhai đổi sắc mặt, nói: “Xin thứ cho vãn bối không thể tuân theo điều này!” Khưu Đông Lạc cười hềnh hệch nói với ba người đi cùng: “Soát người!” ba người áo vàng nhảy bổ tới, Kim Nhai vung chưởng lên, nhắm vào người ở phía trước đánh ra một đòn Loan cung xạ điêu, người ấy lách người, Kim Nhai phóng vọt ra như tên bắn, ba người quát lớn xông lên bao vây. Đồng bọn của Kim Nhai vừa định ra tay tương trợ thì bị Khưu Đông Lạc ném một hòn đá trúng vào huyệt đạo nên ngã ngửa xuống đất. Bọn người này xông vào nhau, người dân tộc Di vội vàng tháo chạy. Lăng Vị Phong cũng đứng lên, ngay lúc này bọn họ đã đánh sát đến bên người chàng. Ba đại hán áo vàng dũng mãnh lạ thương, bao vây Kim Nhai ba mặt, quyền chưởng đánh ra như mưa. Kim Nhai vừa chống đỡ vừa né tránh, lẩn vào trong đám người, đại hán áo vàng đi đầu quát lớn một tiếng, chém xéo ra một chưởng, Kim Nhai hạ người rụt cổ, vết chưởng quét qua đầu y, tuy nhiên chưởng của đại hán ấy đánh vào người Lăng Vị Phong.
                    Lăng Vị Phong vốn không muốn để lộ thân phận nhưng đột nhiên bị đại hán áo vàng đánh một chưởng, vốn có thể dùng công phu thượng thừa ngự lực giải thế, chàng lách người qua, người ấy tựa như vỗ chưởng vào một khối bông, chẳng hề có chút lực nào, vết chưởng của y lướt qua ngực chàng, không kịp thu thế người chồm về phía trước, Kim Nhai đột nhiên bật dậy, tung cước đá một cú, quét tên áo vàng ra xa đến hai trượng.
                    Khưu Đông Lạc cả kinh, lúc này y không dám nghênh ngang nữa, vội vàng chạy tới nheo mắt nhìn, thế rồi y trợn mắt cười ha hả nói: “Ta tưởng là ai, té ra là tên tiểu tử nhà ngươi”. Lăng Vị Phong ngạo mạn nói: “May mắn được gặp, mười sáu năm trước lãnh hai đao của ông, may mà vẫn chưa bị đâm chết!” Khưu Đông Lạc cả cười: “Ngươi muốn tính nợ cũ, ta thì muốn tính nợ mới với ngươi! Hay, hay lắm. Chúng ta đơn đả độc đấu một trận!”.
                    Lúc này một đại hán áo vàng cũng chỉ tay nói: “Khưu lão tiền bối, nữ đầu phỉ của miền Triết Nam cũng ở đây!” Khưu Đông Lạc trợn mắt, rồi lại cười rộ lên: “Hôm nay may mắn được gặp anh hùng!” y nghiêm mặt, nói với các đại hán: “Các ngươi đối phó ả nha đầu, còn tên tiểu tử này để cho ta!” lúc này Kim Nhai cũng nhận ra Lăng Vị Phong, biết rằng người này chính là nhân vật thần kỳ tung hoành Tây Bắc mà trong võ lâm vẫn đồn. Còn Khưu Đông Lạc cũng là một người khét tiếng trên giang hồ, hai mươi năm trước y đột nhiên xuất hiện ở Giang Nam, không ai biết lai lịch của y, sau đó y đột nhiên biến mất, cũng không ai biết y đi về đâu. Hai người này đều khó ứng phó, y thấy thế nên vội vàng ôm quyền nói: “Khưu lão tiền bối, tôi và bọn chúng không phải cùng một giuộc!” Khưu Đông Lạc hừ một tiếng rồi nói: “Lát nữa sẽ tính chuyện với ngươi, chỉ cần ngươi không lo chuyện bao đồng, chúng ta vẫn có thể thương lượng”. Khưu Đông Lạc tự tin có thể đối phó nổi với Lăng Vị Phong nhưng lại không biết Lưu Úc Phương võ công thế nào, mà Kim Nhai cũng là một tay hảo thủ bởi vậy y cân nhắc nặng nhẹ, định hạ Lăng Vị Phong rồi tính tiếp.
                    Khưu Đông Lạc tính ra cũng rất có tiếng tăm, y là sư thúc của Ngạc Thân Vương Đa Thích, là đồng môn sư huynh đệ với Nữu Cô Lư, kẻ đã bị Dương Vân Thông giết chết năm xưa. Y là đệ tử của Phong Lôi Kiếm Tề Chân Quân phái Trường Bạch, xếp hàng thứ ba, võ công cao cường nhất, y vốn là người tộc Nữ Chân Mãn Châu, theo quân Thanh nhập quan, đổi thành tên người Hán, sau khi nhập quan thì vừa âm thầm lôi kéo hảo thủ giang hồ cho triều đình nhà Thanh vừa quan sát tình hình võ lâm, y không biết Dương Vân Thông đã chết, bởi vậy đuổi đến tận Thiên Sơn, định tìm Dương Vân Thông hỏi tội, lúc đó Lăng Vị Phong vừa đến Hồi Cương, võ công không cao nên bị trúng hai đao, sau đó nhờ Hối Minh thiền sư dùng công phu Miên chưởng mới dọa y bỏ chạy. Nay y đến Vân Nam là vì theo đuổi Lăng Vị Phong! Ba đại hán áo vàng đi cùng Khưu Đông Lạc đều là vệ sĩ trong đại nội. Số là sau khi Sở Chiêu Nam chiến bại ở núi Ngũ Đài, trở về báo cáo, Khang Hy cũng nổi giận, nghĩ bụng nếu để một cao thủ như Lăng Vị Phong sống trên đời thì đúng là một mối đại họa, vì thế mới ra lệnh cho Khưu Đông Lạc dắt theo một trợ thủ đích thân đi tìm Lăng Vị Phong, lại phái hai vệ sĩ còn lại đến Côn Minh. Khưu Đông Lạc cùng tên trợ thủ đến Vân Cương, thấy trên vách đá có dòng chữ của Lưu Úc Phương viết cho Hàn Chí Bang, trong đó có câu “Mong tiếp tục đi về phía tây, cùng dựng nghiệp lớn,” Hàn Chí Bang không đọc được những dòng chữ này nhưng Khưu Đông Lạc đã thấy. Khưu Đông Lạc đoán được họ chắc chắn vào Côn Minh nên vội vàng đuổi theo, đến gần Côn Minh thì gặp hai vệ sĩ do Khang Hy phái đi, thế là cả bốn người kéo đến hồ Phủ Tiên vừa vặn chạm mặt Lăng Vị Phong!
                    Lần này Khưu Đông Lạc ra tay đúng là kẻ thù gặp mặt, Lăng Vị Phong rút kiếm phóng lên, vừa mới đi được hai bước thì chợt xoay người tay trái rút cây kiếm thép từ eo của Lưu Úc Phương ra, tay phải thì đưa thanh kiếm Du long cướp được của Sở Chiêu Nam nói: “Cô nương hãy sử dụng thanh này!” Lưu Úc Phương ngạc nhiên định hỏi thì Lăng Vị Phong đã phóng ra. Lưu Úc Phương hiểu ngay rằng đó là vì địch thủ quá cao cường nên chàng mới đưa thanh bảo kiếm cho mình hộ thân, trong lòng cảm động lắm, cứ cầm cây Du Long kiếm đứng sững ở đấy, nước mắt ứa ra.
                    Lúc này Khưu Đông Lạc đã động thủ với Lăng Vị Phong, Khưu Đông Lạc tay trái múa đao, tay phải cầm kiếm, trên hai tay của y có hai món binh khí khác nhau, đây là loại công phu khó học nhất trong võ lâm. Nhất là đao và kiếm rất giống nhau, những chiêu số rất ảo diệu, tựa như giống mà thật ra là khác nhau. Tục ngữ có nói: “Một lúc khó làm hai việc,” hai tay sử dụng hai món binh khí cũng giống như có một người tay phải cầm bút viết, tay trái cầm kim may. Nhưng Khưu Đông Lạc tay trái dùng đao, tay phải dùng kiếm khi thi triển rất ảo diệu, không những chẳng có sơ hở mà vả lại nhìn từ bề ngoài chiêu số của hai tay rất giống nhau nhưng lại hư hư thực thực, biến hóa vô cùng. Dù Thiên Sơn kiếm pháp của Lăng Vị Phong độc bộ võ lâm nhưng mười chiêu đầu vẫn cảm thấy khó ứng phó lọt xuống thế hạ phong.
                    Khi đánh xong hơn mười chiêu, Lăng Vị Phong đã nhận ra lối đánh của Khưu Đông Lạc, chàng đột nhiên thay đổi kiếm chiêu, triển khai chiêu số tinh kỳ Miên Lý Tàng Châm, người chàng lướt như cơn gió, kiếm pháp sử dụng cả hư lẫn thực, kiếm đến là thân đến, mỗi chiêu đều ẩn chứa mấy biến hóa. Phong Lôi đao kiếm của Khưu Đông Lạc biến hóa cũng rất phức tạp, mà kiếm pháp của Lăng Vị Phong càng thần kỳ khó đoán hơn. Hai người càng đánh càng gấp, càng đánh càng mạnh, người bên ngoài nhìn vào chỉ thấy ánh đao kiếm khí, bóng người thấp thoáng, không thể nhận ra ai mạnh ai yếu, ai hơn ai thua!
                    Khưu Đông Lạc nằm mơ cũng không ngờ rằng kiếm pháp của Lăng Vị Phong lại thần kỳ đến thế. Y chợt thấy Lưu Úc Phương tiến tới từng bước, mắt nhìn kỹ cuộc đấu tựa như rất quan tâm, y đột nhiên nảy ra một ý, quát lớn: “Các ngươi hãy bắt con giặc cái này lại!”.
                    Trong ba tên vệ sĩ đang bao vây có một kẻ tên Trương Đẩu sử dụng một cây xích đồng đao, một tên tên gọi Bành Côn Lâm, sử dụng một cây bạch tích can tử dài bảy thước bốn tấc, loại binh khí này có thể dùng như thương, cũng có thể dùng như trường côn. Tên còn lại tên gọi Hắc Kế Minh, tay cầm một đôi suy trảo, y là kẻ lợi hại nhất. Bành Côn Lâm đánh cây tích can tử đến trước, bị Lưu Úc Phương giơ kiếm chặn lại, cây tích can tử bị chặt thành hai đoạn, Bành Côn Lâm vội vàng thối lui, kêu lên: “Ả giặc cái sử dụng bảo kiếm!” Hắc Kế Minh không nói một lời, vung hai tay ra, một đôi phi trảo bay vù vù đến trước mặt Lưu Úc Phương. Lưu Úc Phương vung kiếm thành một vòng tròn, toan chặt đứt sợi phi trảo, nào ngờ Hắc Kế Minh rất xảo quyệt, Lưu Úc Phương vừa phát ra kiếm chiêu, đôi phi trảo của y chợt quét xuống hạ bàn, khi Lưu Úc Phương trở kiếm chém xuống thì đôi phi trảo của y lại vòng qua hai be sườn của nàng. Đôi phi trảo trong tay của y bay lượn tựa như một món ám khí, Lưu Úc Phương phải nhờ vào thanh bảo kiếm tránh trái né phải thế nhưng vẫn lúng túng.
                    Bành Côn Lâm và Trương Đẩu thấy thế thì nhảy bổ vào từ hai bên. Lúc này Bành Côn Lâm đã biết sợ, y múa tít nửa cây côn tử còn lại, phối hợp tấn công với đôi phi trảo, chỉ là không dám chạm với bảo kiếm của nàng, cây xích đồng đao của Trương Đẩu thì lại nặng nề vô cùng, mỗi khi bị kiếm chạm vào thì bị mẻ một miếng chứ không bị gãy. Phi trảo tấn công từ xa, cây xích đồng đao tấn công ở gần, cây tích can đánh một bên, cả ba món binh khí với ba lối đánh khác nhau cùng tấn công Lưu Úc Phương. Lưu Úc Phương ứng phó rất khó khăn, may mà nàng có cây Du Long kiếm nên kẻ địch cũng không dám liều tiến tới.
                    Lúc này khói mù dần giảm, trời sáng trở lại, bầy chim hoảng hốt bay vút lên, lượn mấy vòng trên không trung, thấy trời vừa sáng thì vỗ cánh bay mất tựa như trận ác đấu còn đáng sợ hơn cả chướng khí.
                    Lăng Vị Phong vừa chiếm được thượng phong, đang từng bên át tới thì chợt nghe Lưu Úc Phương đã ra tay, chàng nghe tiếng binh khí chạm nhau thì biết nàng bị vây công, trong lòng thầm kêu không xong. Chàng đưa mắt liếc nhìn qua chỉ thấy Lưu Úc Phương múa tít cây kiếm đến gió mưa không lọt nhưng cũng chỉ có thể chống đỡ chứ không thể trả đòn. Lăng Vị Phong vừa lo lắng thì lập tức để lộ sơ hở, Khưu Đông Lạc lại tấn công gấp vào, chuyển khách thành chủ, lại chiếm được thượng phong. Lăng Vị Phong hiểu rằng tốc quyết không phải là cách, chàng vội vàng thâu nhiếp tinh thần, vừa nghênh địch vừa lần lần dích về phía Lưu Úc Phương.
                    Thời gian kéo dài, Lưu Úc Phương càng lúc càng khó khăn, nàng đã toát mồ hôi trán, hơi thở càng lúc càng gấp gáp, tim đập mạnh, kiếm chiêu phát ra đều bị kìm chế, không thể thu phát tùy ý. Đang nguy cấp thì trái phi trảo của Hắc Kế Minh từ trên đầu chụp xuống, Lưu Úc Phương xử ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên, xỉa mũi kiếm lên trên, cây tích can tử của Bành Côn Lâm đâm tới trước ngực, Lưu Úc Phương không đổi chiêu thế, chém hất thân kiếm ra ngoài, Bành Côn Lâm đột nhiên rút cây tích can tử về để cây xích đồng đao của Trương Đẩu đâm vào trước ngực nàng. Lưu Úc Phương chẳng thể nào gạt đỡ, đành phải chạm với cây xích đồng đao, thanh kiếm lại chém mẻ một miếng trên cây đao, nàng chưa rút ra thì cái phi trảo đã chụp xuống đầu, Lưu Úc Phương chẳng thể nào chống đỡ, trong khoảnh khắc nguy cấp, chợt nghe Hắc Kế Minh kêu ồ một tiếng, cái phi trảo đột nhiên bay lướt ra ngoài. Hắc Kế Minh đột nhiên rút phi trảo về, cả giận quát: “Cao nhân phương nào sao không ra ban dạy mà lấp ló đánh lén?” Quát vừa dứt lời thì chợt nghe một thiếu niên lên tiếng: “Ba người các ngươi vây đánh một cô nương đâu có phải là anh hùng”. Hắc Kế Minh đột nhiên phóng về phía phát ra tiếng hai cây phi chùy, thiếu niên ấy cười lạnh một tiếng, lại nghe hai tiếng soạt soạt vang lên trên không trung, hai cây phi chùy, chạm vào nhau rơi xuống đất. Lưu Úc Phương lúc này mới nhìn rõ ám khí của chàng thiếu niên trông giống như một con bươm bướm lướt gió bay tới, cây phi chùy đầu tiên của Hắc Kế Minh bị ám khí chạm trúng bay ngược về, chạm phải cây phi chùy thứ hai. Lưu Úc Phương nhận ra đó chính là ám khí hồ điệp tiêu của nhà họ Đường ở Tứ Xuyên, nàng thầm lấy làm lạ, chàng thiếu niên này trẻ tuổi như thế mà đã biết sử dụng loại ám khí này.
                    Hắc Kế Minh xưng hùng võ lâm nhờ phi trảo và phi chùy, thấy thế thì vừa kinh vừa giận. Bởi vì phi chùy của y là loại nặng nề nhất trong ám khí, thế mà giờ đây lại bị một mảnh hồ điệp tiêu nhỏ bé bắn ngược trở lại, công lực của thiếu niên này đúng là ghê gớm. Y tuy nổi giận nhưng không dám khinh địch, thế rồi phóng hai cái phi trảo ra, một cái dùng hộ thân một cái nghênh địch.
                    Binh khí của chàng thiếu niên rất kỳ lạ, đó là hai cái chùy lưu tinh có hai sợi dây, ở đầu có một trái cầu sắt, khi không dùng thì buộc ở eo, khi dùng thì vung tay ném ra, cũng là loại binh khí có thể quăng ném như phi trảo. Hai người này đứng cách nhau năm sáu trượng, khi giao thủ phi chùy và phi trảo chạm nhau choang choang trên không trung, bốn sợi dây như bốn con rồng bay lượn, trông rất đẹp mắt. Chỉ thấy phi chùy và phi trảo chạm nhau bắn lửa tung tóe.
                    Lưu Úc Phương bớt được một địch thủ, tinh thần phấn chấn, cây Du Long kiếm điểm tới như linh xà phun nọc, ánh hàn quang loang loáng, khí lạnh căm căm, ép Trương Đẩu và Bành Côn Lâm thối lui từng bước. Chỉ trong khoảnh khắc, chợt nghe một tiếng choang vang lên, nửa cây tích can còn lại của Bành Côn Lâm lại bị chặt gãy.
                    Lúc này Lăng Vị Phong và Khưu Đông Lạc đã đánh nhau rất hăng, Lăng Vị Phong thấy Lưu Úc Phương đã thoát hiểm, chẳng còn lo lắng, cây kiếm thép triển khai mạnh mẽ, lúc thì mềm mại như cành liễu, lúc thì dữ dội như sóng dồi. Lôi phong đao kiếm của Khưu Đông Lạc tuy đầy đủ kình lực, biến hóa phức tạp nhưng đều bị Lăng Vị Phong nhẹ nhàng hóa giải, khi phòng thủ lại bị Lăng Vị Phong ép tới, cả hai món binh khí đều bị một cây kiếm của Lăng Vị Phong khắc chế. Đến lúc gây cấn, chợt nghe Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, hất qua một kiếm, cây đao trên tay trái của Khưu Đông Lạc vuột ra khỏi tay, Lăng Vị Phong phóng vút lên như điện xẹt, giơ kiếm vạch vào mặt của Khưu Đông Lạc, rồi lại xoáy sang bên phải, cắt đứt tay trái của Khưu Đông Lạc, quát lớn: “Đao này trả cả vốn lẫn lời!” Lăng Vị Phong nói xong thì cười ha hả, cũng chẳng ép tới nữa.
                    Khưu Đông Lạc co giò vừa chạy vừa kêu lớn: “Rút lui!” lúc đó y còn phóng một mảnh phi hoàng thạch về phía thiếu niên đang đánh với Hắc Kế Minh, kêu lên: “Lão Hắc, rút lui!” Lăng Vị Phong thấy y chỉ gọi Hắc Kế Minh thì nổi lòng nghi ngờ, vung thanh kiếm chặn lại, Hắc Kế Minh quả nhiên cũng rút phi chùy về bỏ chạy, bị Lăng Vị Phong chặn lại, Hắc Kế Minh vung hai tay lên, hai cái phi trảo đánh về phía Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong chẳng thèm né tránh, đợi phi trảo đến gần mình thì vung thanh kiếm lên, bị một cái phi trảo cuộn vào. Lăng Vị Phong lui người ra phía sau hạ xuống, Hắc Kế Minh bị kéo về phía trước mấy bước. Lúc này cái phi trảo thứ hai cũng đã chụp tới nhanh như điện chớp, Lăng Vị Phong nghiêng mặt qua, tránh cái phi trảo, tay trái vung lên chụp vào sợi dây, quát lớn: “Lên!” rồi tay trái dùng lực phất lên, tay phải đẩy kiếm ra ngoài, Hắc Kế Minh không kịp đề phòng, bị Lưu Vĩnh Phúc ném lên không trung!
                    Hắc Kế Minh lơ lửng trên không trung, tuy bại nhưng không loạn, y lộn người một cái hạ xuống đất, lại vung tay ném ra ba cây phi chùy về phía Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong dùng phi trảo làm binh khí giơ lên đón lấy phi chùy, ba cây phi chùy đều bị chấn động bay lên không trung rơi tõm xuống hồ nước.
                    Khi Lăng Vị Phong chặn Hắc Kế Minh, Lưu Úc Phương một mình đánh với Bành Côn Lâm, Trương Đẩu cũng chiếm được thượng phong. Trương Đẩu ỷ thanh đao nặng nề, y xoáy lưỡi đao sử ra một chiêu Thiết ngưu canh địa, chém xéo ra hai đao, đó rõ ràng là tấn công nhưng thực ra là để rút lui. Lưu Úc Phương cười lạnh, cây Du Long kiếm đột nhiên rút về phía sau để cho kẻ địch đánh tới, rồi nàng chồm người về phía trước chặt vào cổ tay của kẻ địch. Trương Đẩu đã đâm sâu tới, đang định xoay người, chưa kịp giơ đao lên thì một cánh tay đã bị Du Long kiếm chặt đứt, y đau đớn kêu rú lên, máu tươi phun ra, Bành Côn Lâm vội xoay người bỏ chạy thì chạm phải thư sinh thiếu niên, hai trái lưu tinh chùy từ trên đầu bổ xuống kết liễu y!
                    Hắc Kế Minh tiếp tục chạy, Lăng Vị Phong quát lớn: “Chạy đi đâu cho thoát!” rồi một luồng kim quang bay xẹt ra, Hắc Kế Minh không quay đầu lại, trở tay ném ra một cây phi chùy tính đánh rơi ám khí của Lăng Vị Phong. Không ngờ ám khí của chàng có kình đạo ghê người, một vật tựa như tên mà chẳng phải tên chạm với cái phi chùy, cắm sâu vào trong cây phi chùy, cây phi chùy bắn ngược trở lại, Hắc Kế Minh nghe có tiếng gió lướt sau lưng, né tránh không kịp nữa, vai đã bị đâm thủng lỗ lớn!
                    Lúc này Lưu Úc Phương vội chạy tới. Hắc Kế Minh định rút phi chùy nghênh địch. Lưu Úc Phương quát lên một tiếng lanh lảnh: “Xem ám khí!” rồi nàng vung tay, một vật như tấm lưới đen kịt phủ xuống đầu của y, Lưu Úc Phương rút tay, món ám khí Cẩm Vân Đâu của nàng thít chặt, kéo Hắc Kế Minh qua, nàng vung cây Du Long kiếm toan chém xuống. Lăng Vị Phong đã lướt tới, chụp cổ tay của Lưu Úc Phương, nói: “Khoan đã!” Lưu Úc Phương chưng hửng, tháo Cẩm Vân Đâu ra, Lăng Vị Phong thò tay lấy trên người y một bức thư, trên thư đề: “An Tây tướng quân Lý”. Lăng Vị Phong xem qua bức thư rồi cười lạnh, gấp bức thư lại nói: “Giờ có thể xử lý tên này!” rồi chàng vung tay tóm lấy Hắc Kế Minh ném xuống hồ nước!
                    Sương mù đã tản, chướng khí đã tan, sau một hồi ác đấu thì u cốc trở lại tĩnh mịt, người dân tộc Di đều hoảng sợ đến nỗi trợn mắt há mồm đứng từ xa nhìn tới với ánh mắt kinh hoảng. Thiếu niên thư sinh bước tới, dùng tiếng Di nói với bọn họ rằng những kẻ lúc nãy toàn là người xấu, bảo bọn họ đừng sợ.
                    Lúc này Kim Nhai cũng run như cầy sấy, vái dài Lăng Vị Phong nói: “Tôi chẳng cùng đường với bọn chúng, ngài đừng giết tôi!” Lăng Vị Phong cười rằng: “Ta biết ngươi không phải cùng đường với bọn chúng, ngươi có phải là sứ giả của Bình Nam vương không?” Kim Nhai gật đầu nói phải. Lăng Vị Phong cười nói: “Ta biết ngươi cũng chỉ là một con dơi!” ý muốn nói rằng y là kẻ thấy gió bẻ đà. Kim Nhai nghe thế thì lúng túng. Lăng Vị Phong cười hì hì: “Ta cũng muốn xem thử ngươi đem theo thứ gì!” rồi chàng chậm rãi bước tới.
                    Kim Nhai thấy võ công của Lăng Vị Phong còn hơn cả Khưu Đông Lạc, biết có muốn chạy cũng khó thoát, thế là hoảng sợ đến tái mặt, thối lui từng bước. Đang lúc đó chợt nghe u cốc vang lên tiếng chuông lanh lảnh, tiếp theo là tiếng vó ngựa từ xa vọng tới, chàng thiếu niên thư sinh gọi Lăng Vị Phong: “Khoan hãy xử lý gã này, y cũng chỉ là hạng nhãi nhép”. Lăng Vị Phong mỉm cười quay đầu lại: “Nể mặt của huynh, tôi sẽ không ra tay”. Nói xong thì bước tới thiếu niên ấy.
                    Lăng Vị Phong chưa kịp lên tiếng thì chàng ta đã bước lên giơ cây phi chùy, trên cây phi chùy vẫn còn cắm một vật trông giống như một mũi tên, nói: “Đây là ám khí của huynh!” rồi cười ha hả: “Huynh hãy khoan nói tên, để tôi đoán thử xem, dựa vào cái ám khí này, tôi đoán huynh chính là Thiên Sơn Thần Mãng!”.
                    Lăng Vị Phong thấy y nói được ám khí của mình thì cũng thất kinh, thầm nhủ: “Nhà ngươi trẻ tuổi mà hiểu biết rộng rãi!” chàng quay sang hỏi tên của thiếu niên, thiếu niên cười rằng: “Ở phía xa hình như có quân mã, chờ gặp bọn chúng, chúng ta sẽ nói kỹ hơn!”.
                    Lăng Vị Phong thấy chàng ta rất hảo sảng, tựa như không có gì e dè. Lăng Vị Phong là kẻ già dặn giang hồ, chàng cũng không hỏi, đang định nói thì u cốc có một đám người ngựa xông ra, kẻ đi đầu cầm một cây cờ lớn trên có đề mấy chữ “Bình Tây vương phủ,” kỵ binh trên ngựa đều che mặt, chắc là vừa gặp phải chướng khí.
                    Kim Nhai vừa thấy toán người ngựa ấy thì cả mừng, vội vàng gọi đồng bọn chạy lên đón, kêu lớn: “Sứ giả Bình Nam vương bái kiến Bình Tây vương!” võ quan trên ngựa nhìn thấy thế thì khẽ gật đầu, dặn cho hai tên tì tướng đến đón Kim Nhai, còn y thì vỗ ngựa chạy vòng quanh hồ, đưa mắt nhìn khắp nơi. Đột nhiên y nhảy xuống ngựa vái dài thư sinh trẻ tuổi, cung kính nói: “Bình Tây vương biết hôm nay ngài đến, ra lệnh cho tì tướng ra ngoài ba trăm dặm nghênh đón!” Đội người ngựa lập tức khua chuông gióng trống, người ấy vừa nói ra Lăng Vị Phong cũng không khỏi cả kinh.
                    Thiếu niên hờ hững mỉm cười: “Cần gì phải nhiều lễ như thế!” lúc này có hai tên nha tướng dắt một con ngựa trắng xuống, nói: “Xin mời Lý công tử lên ngựa”.
                    Thư sinh ấy nhìn Lăng Vị Phong và Lưu Úc Phương, phẫy tay nói: “Các người hãy cho ta mượn hai con ngựa, họ là bằng hữu của ta”. Tuy y nói với tên võ quan trên ngựa nhưng mắt thì nhìn Lăng Vị Phong, ánh mắt tỏ vẻ chờ đợi.
                    Lăng Vị Phong nhìn Lưu Úc Phương rồi khảng khái nói: “Được!” rồi chàng phóng lên lưng ngựa, tên nha tướng đã chỉnh xong dây cương, trao roi ngựa cho chàng. Kim Nhai cũng mượn hai con ngựa nhưng không được bọn chúng tôn kính bằng Lăng Vị Phong. Kim Nhai vừa lúng túng vừa lấy làm lạ, thầm nhủ: “Mình là sứ giả của Bình Nam vương, Bình Nam vương là phiên vương cũng như Ngô Tam Quế, y lại có việc cần đến mình, sao đám người này hình như không phải đến đón mình mà chỉ đón thiếu niên thư sinh. Chả lẽ thân phận của thiếu niên thư sinh này còn cao hơn cả mình?” y không vui trong bụng, trên suốt quãng đường chẳng nói lời nào.
                    Tốp ngựa phóng nhanh, đến hoàng hồn thì đã đến Côn Minh, viên võ quan dắt họ đến phủ Bình Tây vương nghỉ ngơi, vương phủ được xây dựng dựa theo thế núi, chỉ thấy lầu các trùng điệp, hành lang quanh co trông rất rộng rãi. Viên tổng quản của vương phủ sắp xếp cho Lăng Vị Phong và thiếu niên thư sinh ở một nơi, Lưu Úc Phương thì do nữ quan trong vương phủ hầu hạ, Kim Nhai thì được đưa đến một nơi khác.
                    Thư sinh ấy vào trong vương phủ tựa như rất hờ hững, ăn uống tắm rửa xong thì đã ngủ. Lăng Vị Phong cũng không đoán được y là kẻ nào.
                    Ngày thứ hai và ngày thứ ba, người trong vương phủ cùng đại tướng của Ngô Tam Quế đưa họ đi chơi ở các danh thắng của Côn Minh. Thiếu niên ấy vừa đi vừa chỉ trỏ, đàm luận binh pháp, ở mỗi nơi đều nói sách lược công thủ, bọn võ quan nghe thế đều gật đầu. Lăng Vị Phong nghĩ bụng, thiếu niên tuy là dị nhân nhưng hình như cũng quá phô trương, chàng không biết rằng thiếu niên ấy là có dụng ý khác, bởi vì chàng ta vào chốn hiểm nghèo nên cố ý nói đến chuyện binh pháp để gõ núi dọa hổ.
                    Chiều ngày thứ ba, tổng quản của vương phủ đột nhiên đến bảo rằng Bình Tây vương Ngô Tam Quế bày tiệc đãi khách, thiếu niên thư sinh và Lăng Vị Phong, Lưu Úc Phương, Kim Nhai cũng đều được mời, bọn Lăng Vị Phong mang theo binh khí, người trong vương phủ thấy họ đem theo đao kiếm thì cũng không dám cản trở.
                    Bàn tiệc được bày trong đại đường của vương phủ, vách tường xung quanh đều được lót bằng gỗ đàn hương, ở dưới đường toàn là thân binh mặc giáp, trên đường thì có đại tướng và cận thần của Ngô Tam Quế. Ngoài ra còn có đội ca múa biểu diễn. Thiếu niên thư sinh ngẩng đầu bước vào, không thấy Ngô Tam Quế mà chỉ thấy một viên tướng lưng hổ eo gấu thay Ngô Tam Quế khoãn đãi khách quý. Thiếu niên thư sinh khẽ nói với Lăng Vị Phong: “Đây có phải hộ tướng của Ngô Tam Quế tên gọi Bảo Trụ hay không?”.
                    Bảo Trụ vừa thấy họ tiến vào thì lập tức mời lên ghế trên, có một võ sĩ bước tới rót rượu. Võ sĩ rót rượu này hơi quái lạ, chỉ thấy y rót đầy chén rượu thì đặt tay xuống, những chén rượu ăn sâu vào trong bàn.
                    Bảo Trụ đưa tay nói: “Xin mời”. Rồi y cầm mép chén rượu rút nhẹ lên, rượu chẳng hề sánh ra, y đã uống cạn. Thư sinh thiếu niên mỉm cười, dùng thiếu niên giữa xoay mép chén rượu, chén rượu đột nhiên bật lên, thiếu niên ngoạm một cái, giữ chặt chén rượu, cũng uống cạn, rượu chẳng rơi ra một giọt. Đến lượt Lăng Vị Phong và Lưu Úc Phương, Lăng Vị Phong liếc mắt thấy Lưu Úc Phương nhíu mày, lòng thầm nhủ: “Lưu Úc Phương tuy giỏi kiếm thuật nhưng không có công lực nội gia như thế này”. Khi chàng đang trầm ngâm thì thấy Bảo Trụ tỏ vẻ ngông nghênh, thúc giục Lăng Vị Phong: “Xin mời tráng sĩ cũng cạn chén!”.
                    Lăng Vị Phong nhíu mày, đưa mắt nhìn xung quanh, hai tay chàng đè lên bàn vỗ nhẹ một cái, nói: “Xin mời mọi người cũng cạn chén!” đột nhiên chén rượu bị ấn sâu trong mặt bàn nảy lên, Lăng Vị Phong, Lưu Úc Phương và Kim Nhai đều đưa tay ra cầm chén rượu uống cạn, những người còn lại thì đều thất kinh, không dám tiếp, mấy chén rượu rơi xuống bàn vỡ loảng xoảng.
                    Bảo Trụ biến sắc, cười ha hả nói: “Khoan đã, khoan đã! Hãy thay bằng chén uống rượu khác”. Y giấu chén uống rượu trong hai ống tay, y vung hai ống tay áo lên, một bộ mười cái chén uống rượu bay ra trong sâu vào vách tường cách đó mấy trượng. Những chén rượu này đều được làm bằng sắt thép, thủ pháp phóng ly rượu này chính là công phu đánh ám khí thượng thừa.
                    Trên bàn tiệc đã được thay bộ đồ uống rượu khác, Bảo Trụ đích thân rót rượu cho mọi người, khi đưa cho Lăng Vị Phong, y dùng tay vỗ một cái, rượu trong chén bay thẳng lên, Lăng Vị Phong dùng chưởng lực từ xa đẩy tới, rượu lại lui trở về, chàng đưa tay nhẹ nhàng cầm lấy uống cạn rồi cười nói: “Đa tạ tướng quân ban rượu!”.
                    Bảo Trụ lúng túng cười khan mấy tiếng, nói với thư sinh thiếu niên: “Người tùy tùng này có công phu giỏi lắm!” thư sinh thiếu niên hơi ngạc nhiên, đang định nói rõ thân phận của Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong đã nháy mắt ngăn lại, nói: “Tôi chỉ là kẻ nhà quê, làm sao có thể bằng tướng quân”.
                    Rượu được ba tuần, Bảo Trụ giơ tay nói: “Bình Tây vương có việc, lát nữa mới đến, trước tiên xin mời các vị nghe ca xem múa”. Y vỗ tay, dưới đường xuất hiện hai nam hai nữ chia thành hai đôi vừa hát vừa múa.
                    Tiếng ca vang lên như mây bay, điệu múa trông như rồng lượn. Họ càng múa càng nhanh, càng hát càng cao. Chàng thiếu niên thư sinh vỗ tay khen: “Hay lắm!” khen chưa dứt lời, hai đôi nam nữ ấy hát đến câu: “Ngựa chạy nhanh hơn lừa! Cung như sấm khảy dây đàn”.
                    Họ múa nhanh như bay, hai tay làm ra vẻ như đang kéo cung ra ngoài, bên trái cái bàn của Lăng Vị Phong có mấy ngọn đèn mỡ trâu, ánh lửa đột nhiên lập lòe tựa như sắp tắt, bọn họ xoay người, hai tay chắp lại từ xa phất chưởng về phía Lăng Vị Phong, chưởng phong dồn tới. Tuy Lăng Vị Phong cách họ một cái bàn nhưng vẫn có thể cảm nhận được.
                    Lăng Vị Phong vẫn ngồi yên, chợt thấy ngọn đèn trên bàn bị chưởng phong quạt tới lập lòe, chàng hơi lách người, vận chưởng đánh về phía ấy, ngọn lửa đang nghiêng về phía Lăng Vị Phong, bị hai luồng chưởng phong dồn vào thì lập tức dựng đứng lên. Lăng Vị Phong mỉm cười với Bảo Trụ: “Ca múa đang hay, làm sao có thể để đèn tắt?” hai đôi nam nữ mà Bảo Trụ đã chọn vốn là những cao thủ đánh Phách không chưởng, bọn chúng mượn danh ca múa để lòe võ nghệ. Giờ đây âm thầm tỉ thí, hợp chưởng lực của bốn người mới chống nổi Lăng Vị Phong, bởi vậy Bảo Trụ thấy ngượng ngùng lắm, nhưng nghe Lăng Vị Phong nói như thế thì cười ha hả: “Tráng sĩ nói rất hợp ý ta, bảo bọn chúng ngừng lại”. Rồi y phất tay, hai đôi nam nữ ngừng ca ngừng hát lặng lẽ lui.
                    Bảo Trụ chẳng làm khó nổi thiếu niên thư sinh và Lăng Vị Phong thì thấy không vui. Một võ quan ngồi cùng bàn đứng dậy nói với Bảo Trụ: “Mọi người đang vui, ti chức cũng muốn múa kiếm góp vui. Từ lâu đã nghe Lý công tử kiếm thuật tinh thâm, xin được chỉ bảo thêm”. Thư sinh thiếu niên chỉ mỉm cười, chẳng đáp lời. Bảo Trụ nói: “Ngươi hãy múa trước, không lo Lý công tử chẳng chịu ban dạy!” Bảo Trụ biết thân phận của thiếu niên thư sinh, chắc chắn sẽ chẳng thể nào múa kiếm với một võ quan dưới trướng của mình, bởi vậy cố ý một xướng một hòa để buộc chàng ta ra tay.
                    Võ quan này tên gọi Phạm Tân, cùng với Sở Chiêu Nam và Trương Thiên Mông gọi là Vương phủ tam kiệt, y có học được Ma vân kiếm của Nam phái, lúc này sải bước ra, hai tay cung về phía thiếu niên thư sinh, nói: “Thứ tội!” rồi tay phải rút kiếm ra khỏi bao đánh một vòng tròn, tay trái nắm kiếm quyết, vận kiếm như gió, càng múa càng nhanh, lúc thì phóng vọt người lên cao, lúc thì áp sát người xuống đất, kiếm khí lạnh lẽo, ánh kiếm chói mắt, càng múa càng gần. Bảo Trụ đắc ý dương dương, nói với thư sinh rằng: “Lý công tử, kiếm thuật của kẻ này thế nào?”.
                    Thiếu niên thư sinh mỉm cười, chưa kịp đáp, Lăng Vị Phong đã đứng phắt dậy, nói: “Múa một người đâu hay bằng hai người múa!” Chàng lấy thân phận kẻ tùy tùng của Lý công tử, không đợi Bảo Trụ gật đầu đã bước ra.
                    Lăng Vị Phong vừa bước ra, Phạm Tân lập tức thu kiếm về, trợn mắt nhìn Lăng Vị Phong, nói: “Xin mời!” Lăng Vị Phong chẳng nói lời nào, rút soạt thanh Du Long kiếm ra. Phạm Tân và Sở Chiêu Nam rất thân thiết nhau, y vừa nhìn thì đã nhận ra đó là thanh kiếm của Sở Chiêu Nam, mặt biến sắc quát: “Ngươi lấy ở đâu ra thanh kiếm này?” Lăng Vị Phong hờ hững nói: “Có một tên họ Sở, tự xưng kiếm thuật vô địch, ta đã thử với y, té ra chỉ là một kẻ tầm thường. Song thanh kiếm của y rất tốt, ta không khách sáo nên giữ lấy, bởi vậy ta cũng tha mạng cho y. Ngươi xem, thanh kiếm này còn tốt đấy chứ?” nói xong rồi ném tới, tựa như ném một món đồ chơi.
                    Phạm Tân chẳng nói một lời. Y biết kiếm thuật của mình chẳng tinh diệu bằng Sở Chiêu Nam, kiếm của Sở Chiêu Nam đã bị người ta đoạt, y làm sao địch nổi? Lúc này y tiến thoái lưỡng nan, một lúc sau vẫn không nói ra lời, Lăng Vị Phong mỉm cười, đút kiếm vào bao, nói: “Đây là thanh bảo kiếm, thủ thắng nhờ binh khí chẳng hay ho gì, ta sẽ dùng đôi chưởng tiếp vài chiêu của các hạ!” Nói rồi cung tay, liền miệng nói “Xin mời”.
                    Phạm Tân bị Lăng Vị Phong dọa, nghĩ bụng Sở Chiêu Nam không dám lấy đôi chưởng tiếp thanh kiếm của mình, người này dù có giỏi hơn Sở Chiêu Nam nhưng Ma vân kiếm pháp cũng chẳng phải đồ bỏ, thế là vung thanh kiếm lên nói: “Ngươi dùng đôi chưởng tỉ thí kiếm pháp của ta, thật là cao minh. Chỉ có điều kiếm bén vô tình, nếu tử thương thì làm thế nào?” y vừa nói vừa nhìn Bảo Trụ và thiếu niên thư sinh.
                    Lăng Vị Phong cười ha hả: “Nếu có tử thương thì đó là do ý trời. Chúng ta đã nói trước, chẳng ai trách được ai. Ngươi cứ mặc ra chiêu, chỉ e rằng thanh kiếm của ngươi tuy bén nhưng cũng không dễ đâm nổi đôi chưởng của ta”. Khi chàng đang nói thì mắt nhìn y trừng trừng.
                    Bảo Trụ bị Lăng Vị Phong khích đến nỗi không kìm được nữa, nghĩ bụng ngươi không dễ dàng mạo phạm thiếu niên thư sinh nhưng nếu hạ khí thế của Lăng Vị Phong thì cũng làm mất mặt chàng, thế rồi mới nên dặn: “Phạm Tân, ngươi đã gặp bậc cao minh thì phải nên lãnh giáo, học thêm vài chiêu ba thức.
                    Trong võ lâm ấn chứng võ công với nhau là chuyện bình thường, dù có ngộ thương, Lý công tử làm sao có thể trách ngươi?” Nói xong thì quay sang thiếu niên thư sinh cười rằng: “Lý công tử, tôi nói có sai không?” Thiếu niên thư sinh thấy Phạm Tân lúc nãy ra tay bất phàm, rất lo lắng cho Lăng Vị Phong, chỉ vì Lăng Vị Phong đã nói trước nên chỉ đành gật đầu.
                    Phạm Tân thấy Bảo Trụ ra mặt, trong lòng cả mừng, đánh tới một chiêu Bạch hồng quán nhật, đâm thẳng vào cổ họng của Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong phất hai chưởng, tay phải đè vào chui kiếm, tay trái đánh một chiêu Tà quải đơn tiên, chém xéo vào mạch môn của Phạm Tân. Phạm Tân cũng rất lanh lẹ, chân trái lướt một cái, mũi kiếm đánh lệch qua, ánh hàn quang lướt tới, chém soạt vào vai của Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong hú dài đôi chưởng triển khai, mũi kiếm lướt qua trước ngực chàng, chàng đột nhiên lao bổ về phía trước, hai chưởng vỗ bốp xuống, vai của Phạm Tân đã trúng một chưởng.
                    Chưởng này chàng chỉ dùng ba thành lực đạo, Phạm Tân cảm thấy đau nhói! Y toan tung người ra phía sau né tránh. Lăng Vị Phong đã cười rằng: “Đã nhường!” Phạm Tân nghiến răng cố chịu đựng, chẳng kêu một tiếng, chàng lại tiếp tục đánh tới, kiếm nào cũng đâm vào chỗ yếu hại của đối phương. Lăng Vị Phong thấy y vô lễ thì cả giận, triển khai tự quyết chữ “tiệt” trong Thiên Sơn chưởng pháp. Chàng luồn lách trong làn kiếm quang áp sát tới, tay trái điểm thẳng vào huyệt khổng môn bên trái của Phạm Tân. Phạm Tân không ngờ kẻ địch lại nhanh nhẹn đến thế, y chỉ đành rút lui. Y tưởng rằng lui đã nhanh, nào ngờ Lăng Vị Phong tiến càng nhanh hơn, chưởng phải chàng luồn xuống bên trái, vỗ bốp vào Đan Điền của Phạm Tân, Phạm Tân phóng vọt người lên, cây kiếm cũng rơi xuống đất. Lăng Vị Phong tiếp lấy thanh kiếm, còn Phạm Tân cũng có người nhảy ra đỡ.
                    Lăng Vị Phong tiếp lấy thanh kiếm, cười hì hì ném lên rồi rút phắt thanh Du Long kiếm đưa ra đón lấy, cây kiếm của Phạm Tân bị gãy làm đôi, chàng quay trở về chỗ ngồi.
                    Lúc này võ sĩ dưới trướng Ngô Tam Quế đều nổi giận, trong nhất thời có bảy tám người nhảy ra trước mặt Lăng Vị Phong, nói: “Tráng sĩ này đã thắng được Phạm Tân, chúng tôi chẳng còn lời gì. Nhưng thanh kiếm là của giáo đầu Sở Chiêu Nam, y cướp thanh kiếm đến đây quấy rối. Đã thắng được người ta mà còn chặt gãy cả binh khí, bọn chúng tôi cũng muốn thỉnh giáo!” đột nhiên hậu đường vang lên ba tiếng trống, có người kêu lớn: “Bình Tây vương giá đáo!”.
                    Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
                    #10
                      casau 01.11.2012 16:11:11 (permalink)
                      Hồi 7
                      Trong cơn nguy hiểm người xưa vẫn im hơi lặng tiếng
                      Qua cơn khói lửa lại chẳng biết mình là ai


                      Ba tiếng trống vang lên, Ngô Tam Quế chậm rãi bước vào, tướng lĩnh trong đường đều đứng dậy. Thư sinh thiếu niên và Lưu Úc Phương vẫn ngồi yên. Lăng Vị Phong vốn muốn tranh luận với bọn võ sĩ, lúc này chàng cũng ngồi xuống.
                      Lăng Vị Phong nhìn thì chỉ thấy Ngô Tam Quế tuổi quá lục tuần, đỉnh đầu đã cạo nhẵn bóng, mặt có vẻ hơi tiều tụy. Chàng thiếu niên thư sinh vẫn lạnh lùng, đôi mắt hơi giận, hai tay nắm chặt mép bàn, tựa như đang cố kìm chế mình.
                      Ngô Tam Quế nhìn thiếu niên thư sinh, mừng rỡ nói: “Lý công tử đúng là người đáng tin, quả nhiên từ ngàn dặm đến đây, may mắn được gặp, may mắn được gặp!” thiếu niên thư sinh mới đứng dậy, hơi khom người nói: “Xin chào Bình Tây vương!” chàng ta nói ba chữ Bình Tây vương rất lớn, Ngô Tam Quế biến sắc, lúng túng vô cùng nói: “Lý công tử xin đừng gọi như thế, hôm nay chúng ta gặp nhau bằng sự chí thành!”.
                      Bọn võ sĩ vây quanh Lăng Vị Phong cũng nhấp nhổm muốn đứng dậy. Ngô Tam Quế thấy Lăng Vị Phong tỏ vẻ cao ngạo, ngạc nhiên hỏi: “Lý công tử, bằng hữu này là ai?” Thiếu niên thư sinh mỉm cười: “Y là đại hiệp nổi danh miền Tây Bắc Lăng Vị Phong!” Bảo Trụ nghe thế thì cả kinh, y đã từng nghe tiếng tăm của Lăng Vị Phong, nhưng không ngờ rằng chàng đã đến Côn Minh, mà lại đi cùng đường với thư sinh thiếu niên.
                      Lăng Vị Phong vẫn đứng hiên ngang, nói với Ngô Tam Quế: “Người dưới trướng của Vương gia muốn lấy thanh bảo kiếm này...” rồi chàng chỉ vào cây Du Long kiếm, chậm rãi nói: “Tôi đã lấy thanh kiếm này từ tay Sở Chiêu Nam, giờ đây y đã là vệ sĩ tâm phúc bên cạnh Hoàng thượng, Vương gia có biết người này không?” Chàng vừa nói ra lời ấy, tất cả các võ sĩ đều giật mình. Lăng Vị Phong lấy một phong thư đưa cho Bảo Trụ, nói: “Xin hãy đưa cho Vương gia!”.
                      Ngô Tam Quế bóc thư ra xem, toàn thân toát mồ hôi lạnh. Té ra bức thư này là mật chiếu của triều đình gởi cho Tây An tướng quân Lý Bản Thâm đóng tại Côn Minh, bảo ông ta cùng tuần phủ Vân Nam Chu Quốc Trị mật mưu trừ khử Ngô Tam Quế. Y xem xong, gấp bức thư lại, định thần cười lạnh một tiếng, nói vài câu với bọn võ sĩ tùy tùng, bảo bọn chúng lui ra trước.
                      Song xuôi Ngô Tam Quế nghiêm mặt, quát bảo bọn võ sĩ và ca nữ: “Các ngươi hãy lui hết cho ta”. Trong khoảnh khắc, đại đường trở lại yên tĩnh, bọn võ sĩ đều ra ngoài chờ đợi, bên trong chỉ còn lại Ngô Tam Quế và mấy nha tướng tâm phúc.
                      Ngô Tam Quế lại bảo sắp xếp bàn tiệc, đích thân bưng chén rượu, nói với thư sinh thiếu niên: “Lệnh thúc tổ là bậc anh hùng trùm đời, công lao lu mờ nhật nguyệt. Năm xưa tôi tuổi trẻ khí thịnh, chỉ vì đi sai một nước cờ, vốn là chẳng có ý phản đối lệnh thúc tổ, chỉ muốn tiêu diệt kẻ gian tà bên cạnh lệnh thúc tổ, đập tan bọn Lưu Tông Mẫn Ngưu Kim Tinh, không ngờ xảy ra sự thể như hôm nay. Ba mươi năm qua, mỗi khi nhớ đến đều thấy lòng đau như cắt. Ngày trước cùng lệnh huynh viết thư thông chang, hôm nay lại được công tử không chê bai mà vượt đường xa đến đây. Xin mượn chén rượu nhạt này để giải mối hiềm giữa hai nhà!” Lăng Vị Phong nghe thế thì cả kinh. Té ra thư sinh thiếu niên này là cháu của Lý Tự Thành. Kim Nhai nghe xong cũng vỡ lẽ ra, biết rằng thân phận của mình kém xa y. Chỉ có điều ai cũng biết Lý Tự Thành thất bại là bởi Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh vào Trung Nguyên, mối đại hận này làm sao có thể hóa giải? Họ không thể nào hiểu nổi tại sao cháu của Lý Tự Thành lại dám đến đây, mà Ngô Tam Quế lại đối đãi như thượng khách?
                      Nói đến buổi gặp gỡ ly kỳ này phải nhắc đến một câu chuyện xảy ra cách đây ba mươi ba năm. Lúc đó vua cuối cùng của triều Minh là Sùng Trinh đang ở trên ngôi, quân nông dân của Lý Tự Thành từ Tây An đánh thẳng vào Bắc Kinh, Sùng Trinh phải treo cổ tự sát trên Môi Sơn, còn Ngô Tam Quế là Tổng binh trấn Liêu Đông, trấn giữ Sơn Hải quan, trong tay có hơn mười vạn binh. Khi Lý Tự Thành tấn công vào, kinh sư gặp nguy cấp, triều đình phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương, bảo y mau mau đem binh về cứu. Nào ngờ y đi được nửa đường thì kinh thành đã bị phá, đành trở lại Sơn Hải quan chờ đợi.
                      Sau khi Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh, lực lượng của triều Minh tan rã chỉ còn lại cánh quân của Ngô Tam Quế là có chút thực lực. Lý Tự Thành vì muốn mau chóng thu dọn đại cuộc đã bảo cha của Ngô Tam Quế là Ngô Tương ra khuyên hàng. Lúc đầu Ngô Tam Quế thế lực của mình mỏng manh, chẳng phải là đối thủ của Lý Tự Thành, buộc phải chấp nhận đầu hàng. Không ngờ y chưa về đến Bắc Kinh thì nghe nói ái thiếp Trần Viên Viên bị Lưu Tông Mẫn đoạt mất, Ngô Tông Mẫn chính là một viên đại tướng dưới trướng Lý Tự Thành. Trong cơn đại nộ, y nghĩ nếu mình đầu hàng Lý Tự Thành thì chắc chắn sẽ bị bọn Lưu Tông Mẫn Ngưu Kim Tinh (tức là Tể tướng của Lý Tự Thành) ngồi trên đầu, lợi lộc không được như ý, cái hận bị đoạt tì thiếp khó tan, thế là đột nhiên thay đổi kế hoạch, mở cửa Sơn Hải quan rước quân Thanh vào, tiêu diệt Lý Tự Thành và chính quyền Nam Minh còn sót lại, tuy giành lại được Trần Viên Viên nhưng phải đội cái mũ Hán gian.
                      Lý Tự Thành bị quân Thanh và Ngô Tam Quế vây đánh, đã tử chiến ở núi Cửu Cung tỉnh Hồ Bắc. Nhưng sau khi ông ta chết đi còn để lại bốn mươi vạn quân nông dân, do cháu của ông ta là Lý Cẩm xuất lãnh, vì đại địch đang ở phía trước, quân nông dân quyết định hợp tác với triều đình Nam Minh, triều đình Nam Minh còn phong quân của Lý Cẩm là Trung trinh doanh, phong vợ của Lý Tự Thành là Trung trinh phu nhân. Tuy Lý Cẩm hợp tác với triều đình Nam Minh nhưng vẫn giữ thế độc lập, gọi Lý Tự Thành là tiên đế, gọi Cao thị, vợ của Lý Tự Thành là Thái hậu. Sau đó Lý Cẩm chết trận ở Hồ Nam, quân đội do con nuôi của Lý Cẩm là Lý Lai Hanh xuất lãnh, chiến đấu ở miền Tứ Xuyên Vân Nam, mười vạn quân đều phan tán ẩn nấp ở nơi rừng núi. sau đó triều đình nhà Thanh phong Ngô Tam Quế làm Bình Tây vương, ra lệnh y quản hạt hai tỉnh Vân Nam, Tứ Xuyên, dụng ý là muốn y đối phó tàn dư của Lý Tự Thành. (Chú thích của tác giả: Truyền rằng Lý Lai Hanh đã tự thiêu ở bãi Cửu Niên núi Mao Lộc tỉnh Hồ Bắc vào năm Khang Hy thứ ba. Nhưng tiểu thuyết không phải là lịch sử, vả lại nói không chừng ông ta đã giả chết, bởi vậy tác giả mới viết rằng vẫn còn sống cho đến năm Khang Hy thứ mười hai).
                      Sau khi Ngô Tam Quế lập phủ ở Côn Minh, đã nhiều lần sai quân càn quét, nhưng vùng giáp ranh hai tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên có núi sâu sông lớn, địa thế hiểm trở, quân của Lý Lai Hanh xuất quỷ nhập thần, nhanh nhẹn như cơn gió, bởi vậy trở thành một mầm họa lớn cho triều đình nhà Thanh từ sau khi nhà Minh bị diệt.
                      Thế cuộc giằng co ấy kéo dài đến hơn mười năm. Lý Lai Hanh tuy không thể đánh ra ngoài nhưng Ngô Tam Quế cũng không dám đi sâu vào. Chàng thư sinh thiếu niên này tên gọi Lý Tư Vĩnh, là em của Lý Lai Hanh, văn tài võ lược đều suất sắc, tuy y không phải la chủ soái, nhưng tiếng tăm còn hơn cả anh trai của mình.
                      Đến năm Khang Hy mười ba, Ngô Tam Quế bị triều đình nhà Thanh ép buộc, phải mưu phản tự cứu, lúc này mới nhớ đến bộ thuộc của Lý Tự Thành có thể sẽ đâm sau lưng của mình, nếu chưa giảng hòa với họ mà đã cất binh thì họ sẽ từ miền rừng núi đánh ra, lúc đó trước sau đều gặp địch, bởi vậy rất lo lắng.
                      Lúc này Côn Minh đang là đêm trước ngày giông bão, người của triều đình, người của đốc phủ các tỉnh Tây Nam, sứ giả Bình Nam vương, Tĩnh Nam vương, bộ thuộc của Lý Lai Hanh, người các phe đều âm thầm hoạt động ở Côn Minh. Ngô Tam Quế vắt óc suy nghĩ, cuối cùng nghe lời một mưu sĩ, làm mặt dày sai sứ giả đến vùng giáp ranh Tứ Xuyên và Vân Nam gởi thư cho Lý Lai Hanh, yêu cầu bỏ mối hiềm khí cũ. Lý Lai Hanh và đại tướng dưới trướng bàn bạc ba ngày, có người bảo Ngô Tam Quế đã bức tử “tiên đế” (chỉ Lý Tự Thành), nên không thể hợp tác. Có người nói y đã quyết tâm kháng Thanh thì cũng nên hợp tác với y. Sau đó Lý Tư Vĩnh đã đưa ra tám chữ lớn: “Lấy ta làm chủ, trước ngoài sau trong”. Ý nghĩ của câu trên là nếu Ngô Tam Quế chịu chấp nhận hợp tác, hai nghĩa quân nông dân phải nắm chủ động; ý nghĩ của câu dưới là vì đối phó với Mãn Thanh, tạm thời gác xích mích với Ngô Tam Quế sang một bên. Kế sách đã định, Lý Tư Vĩnh liều thân đơn thương độc mã đến Côn Minh.
                      Lại nói tiếp chuyện phía trước. Chuyện đang kể rằng Ngô Tam Quế thấy Lý Tư Vĩnh thì mừng rỡ, vội vàng giải thích, Lý Tư Vĩnh lạnh lùng nói: “Vương gia không cần nhiều lời, nếu chúng tôi nhớ đến thù xưa thì hôm nay đã không đến đây”.
                      Ngô Tam Quế khen rằng: “Đúng thế! Nên chúng tôi rất bội phục Lý công tử! Chuyện hôm nay là phải đuổi Hồ Lỗ ra khỏi trầm ngâm trước”. Lăng Vị Phong nghe thế thì chợt hát một đoạn kịch: “Đó gọi là tháo chuông cần người buộc chuông, thành cũng Tiêu Hà, bại cũng Tiêu Hà”. Ý nghĩa rất rõ ràng. Chàng cười kẻ đã rước quân Thanh vào là Ngô Tam Quế, giờ đây đuổi quân Thanh cũng là Ngô Tam Quế.
                      Bảo Trụ trừng mắt, quát lớn: “Nhà ngươi nói gì?” Lăng Vị Phong cười hì hì: “Không có gì làm, rảnh rỗi hát vài câu”. Ngô Tam Quế sợ mọi chuyện lại đổ bể, cười khan mấy tiếng rồi nói: “Tráng sĩ này thật vui tính, nhưng chúng ta đang bàn chuyện quan trọng”. Rồi y lại kể ra một lô một lốc tên của những viên đốc phủ triều đình, nói: “Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ và Tĩnh Nam vương Cẩn Tinh Trung đều đã hưởng ứng, ta thấy nếu không phất cờ nghĩa thì thôi, hễ phất thì việc lớn tất thành. Đây chính là sứ giả của Bình Nam vương”. Nói xong thì chỉ Kim Nhai, Kim Nhai cúi người nói: “Chúng tôi đều nghe theo Bình Tây vương”. Ngô Tam Quế nhìn y nói: “Từ rày về sau đừng gọi ta là Bình Tây vương nữa, chức quan của ta giờ đây là Thiên hạ thủy lục đại nguyên soái, hưng Minh phạt Lỗ đại tướng quân!” nói xong thì mỉm cười với Lý Tư Vĩnh: “Hiền côn trọng xưa nay lấy phạt Lỗ làm trách nhiệm, chắc làn này cũng không phản đối!”.
                      Lý Tư Vĩnh lạnh nhạt nói: “Phất cờ nghĩ nói thì dễ nhưng chỉ e làm thì khó!” Lăng Vị Phong chợt chen vào nói: “Xin hỏi Thiên hạ thủy lục đại nguyên soái, hưng Minh phạt Lỗ đại tướng quân là do ai phong? Nếu có người hỏi đến kết cuộc của Vĩnh Minh vương, đại tướng quân trả lời thế nào đây?” Vĩnh Minh vương là tông thất của nhà Minh, cũng là cánh quân Nam Minh kháng Thanh cuối cùng. Ngô Tam Quế đã đích thân đuổi Vĩnh Minh vương đến Miến Điện, bắt sống rồi giết. Lăng Vị Phong hỏi một cách mỉa mai, Ngô Tam Quế chẳng trả lời được, Bảo Trụ đã rút phắt thanh kiếm, đâm với tới, Lý Tư Vĩnh đứng dậy phất ống tay áo, chắn giữa hai người. Ngô Tam Quế kêu lớn: “Ngừng tay!” Bảo Trụ đỏ mặt, rút thanh kiếm về nhưng vẫn trừng mắt nhìn chàng.
                      Lý Tư Vĩnh chậm rãi nói: “Mong đại tướng quân bớt giận, Lăng đại hiệp tuy có lời phạm đến oai hổ nhưng cũng không phải không có lý!” Ngô Tam Quế ngồi yên, lạnh lùng hỏi: “Lý lẽ gì? Mong được nghe!”.
                      Lý Tư Vĩnh nói: “Nếu đại tướng quân đã chân thành gặp gỡ, chắc không ngại tôi nói thẳng. Với thân phận của đại tướng quân, hôm nay vẫn lấy phản Thanh phục Minh làm lời hiệu triệu thì e rằng không tiện lắm. Danh không chính thì ngôn không thuận, minh triều mất bởi tay tướng quân, thiên hạ đều biết. Hôm nay tướng quân tự xưng hưng Minh phạt Lỗ e rằng trăm họ khó tin!”.
                      Ngô Tam Quế lúng túng và tức giận vô cùng nhưng không dám phát tác, y chỉ nhíu mày cố hỏi: “Vậy công tử có cao kiến gì?” Lý Tư Vĩnh thản nhiên nói: “Chi bằng dùng đuổi Lỗ hưng Hán, lấy danh nghĩa của nghĩa quân kêu gọi bốn phương, rồi gia huynh lại sẽ ra mặt”. Bảo Trụ tức giận hỏi: “Nói đi nói lại cũng là do các ngươi làm chủ. Còn bọn ta thì phải giành giang sơn cho các ngươi!” Lý Tư Vĩnh bực dọc nói: “Ta chỉ làm theo điều lợi cho thiên hạ, chỉ cần đuổi bọn Hồ Lỗ, không cần tính toán những điều khác, cũng không khiêm nhường né tránh!”.
                      Ngô Tam Quế phất ống tay áo đứng dậy, cười khan nói mấy tiếng: “Lý công tử quả nhiên rất mau mắn, chuyện này trong nhất thời khó quyết, sau này hãy bản tiếp! Bảo Trụ, tiễn khách cho ta!” y nháy mắt với Bảo Trụ rồi bước ra ngoài.
                      Bảo Trụ hiểu ý ngay, bưng trà tiễn khách, lúc này trong đại đường chỉ có Lý Tư Vĩnh, Lưu Úc Phương, Lăng Vị Phong và một mình Bảo Trụ. Bảo Trụ bưng chén trà, làm ra vẻ tiễn khách nhưng không đưa họ ra ngoài, cũng không bảo người dẫn đường. Lý Tư Vĩnh chỉ nghĩ đôi bên xung đột lời nói với nhau nên bọn chúng cố ý lạnh nhạt, trong lòng cười thầm Ngô Tam Quế hẹp lượng. Lăng Vị Phong thì lão luyện giang hồ, trong lòng rất nghi. Chàng đi được mười mấy bước, quay đầu lại nhìn thì chỉ thấy Bảo Trụ cười gằng, Lăng Vị Phong kêu lớn: “Lý công tử để ý!” Bảo Trụ dùng tay nhấn lên bức vách, đột nhiên nghe ầm một tiếng, ở giữa đại đường lõm xuống, Lăng Vị Phong thi triển khinh công tuyệt thế phóng vọt người như mũi tên về phía Bảo Trụ, Bảo Trụ vung hai ống tay áo, một cái vòng vàng phóng vút ra, Lăng Vị Phong thu người lại trên không trung rồi lộn qua né tránh cái vòng vàng nhảy bổ xuống chụp lấy Bảo Trụ. Chàng phóng tới nhanh như điện chớp khiến Bảo Trụ thất kinh, lúc này chàng đã xông đến trước mặt y. Bảo Trụ vung hai quyền ra, Lăng Vị Phong không né cũng chẳng tránh, ôm chặt lấy y, cả hai người cùng rơi xuống địa lao.
                      Trong địa lao tối om om chẳng thấy nổi năm ngón tay, Lăng Vị Phong vừa đứng vững thì lập tức kêu lên: “Lưu cô nương, các người có ở đây không?” trong góc phòng vang lên giọng nói trong trẻo: “Là Lăng đại ca đấy ư? Chúng tôi đều ở đây cả!” Lăng Vị Phong buông Bảo Trụ, lò giò bước về hướng nàng. Nào ngờ Bảo Trụ vừa thoát thân thì đã đấm tới một quyền, Lăng Vị Phong gạt ra, quát: “Ngươi muốn chết?” Bảo Trụ chẳng nói một lời, liên tục đánh ra đến bảy tám quyền.
                      Lăng Vị Phong bị Bảo Trụ đánh vào mấy quyền, biết không thể coi thường công lực của người này, làm sao có thể để cho y đánh tiếp, thế là thi triển chưởng pháp Bát quái du thân đi vòng quanh Bảo Trụ, Bảo Trụ không hề ngơi tay, mỗi quyền đều đánh vào chỗ yếu hại của Lăng Vị Phong tựa như toàn thân đều có mắt.
                      Lăng Vị Phong biết y đánh La Hán quyền của Thiếu Lâm, loại quyền này coi trọng kình đạo, tốc độ, bởi vậy chàng không thể tiếp quyền. Chàng quát lên một tiếng, hai chưởng múa ra liên tục, chỉ đánh vào những chỗ trống, lúc này đôi chưởng của chàng tựa như hai món binh khí, chưởng phải thì như một cây ngũ hành kiếm, chưởng trái xỉa tới như đơn đao đâm vào huyệt đạo. Bảo Trụ chỉ cảm thấy chưởng phong vù vù, hiểm hóc vô cùng, chiêu số của Lăng Vị Phong đều đánh vào huyệt đạo của y, y không khỏi kinh hãi, thầm nhủ: “Lăng Vị Phong quả nhiên danh đồn không ngoa, trong bóng tối mà có thể nhận rõ huyệt đạo như thế!”.
                      Lý Tư Vĩnh, Lưu Úc Phương nghe tiếng quyền chưởng đánh nhau bôm bốp, không biết là Lăng Vị Phong đã đánh nhau với ai, Lý Tư Vĩnh nói: “Lưu cô nương, có mang theo mồi lửa không?” mồi lửa là một trong những vật dụng cần thiết mà người giang hồ mang theo bên người. Lưu Úc Phương nghe chàng nhắc nhở thì mới thổi bùng mồi lửa lên, nàng cầm mồi lửa bước đến gần, Lăng Vị Phong thấy Lưu Úc Phương chậm rãi đi về phía mình thì dốc hết thần oai, quát lớn một tiếng, tung ra một cú đá khiến Bảo Trụ té sấp xuống đất. Bảo Trụ lộn người dậy, rút ra thanh thiết đao chém tới, Lăng Vị Phong lại tung ra một cú đá trúng vào cổ tay của Bảo Trụ, thanh thiết đao bay bổng lên không trung, Lăng Vị Phong dấn tới vỗ một chưởng vào lưng của y, Bảo Trụ lại lăn xuống đất, chàng giở chân đạp lên người y quát hỏi: “Ngươi có muốn đánh nữa không?” Bảo Trụ bị chàng đạp trúng huyệt Thông Tuyền, y chỉ cảm thấy xương cốt toàn thân rã rời, đau đớn đến tận gan phổi, thều thào nói: “Ngươi cứ giết chết ta! Dù ta có chết ngươi cũng chẳng sống nổi”. Lăng Vị Phong nhíu mày, giở chân đá thanh đao của y sang một góc, nói: “Ta không rảnh giết ngươi!” Lăng Vị Phong đang định bước tới Lưu Úc Phương thì chợt nghe xung quanh có tiếng nước chảy.
                      Lăng Vị Phong cười khổ nói: “Đây là thủy lao” Bảo Trụ cười ha hả. Lý Tư Vĩnh nổi giận, giở y lên, đưa ra cửa sổ dìm xuống nước, Bảo Trụ xưa nay sống ở cao nguyên Vân Quý, chẳng hề biết bơi, bị nhúng xuống nước thì lập tức kêu hoảng nhưng lợn bị chọc tiết. Lý Tư Vĩnh cứ nhấc y lên rồi nhúng xuống nước trở lại, cười nói: “Ngươi có kêu nữa không?” lúc này tiếng nước bên ngoài ngừng lại, có người kêu lên: “Mời Lý công tử đáp lời!”.
                      Lăng Vị Phong thấy thủy lao này được ghép lại bằng gỗ, ở cửa sổ tuy có tấm sắt nhưng cũng rất dễ gãy, có điều bên ngoài toàn là nước, lại được chôn dưới đất nên dù có phá hủy căn thủy lao cũng khó thoát. Chàng tiến đến sát cửa sổ, quát hỏi: “Ai thế?” người bên ngoài quát lớn: “Không cần nhà ngươi xen vào, kêu Lý công tử tới đây”.
                      Lý Tư Vĩnh chậm rãi bước đến cửa sổ, lớn giọng nói: “Vương gia của các người nghĩ ra kế thật hay, nhưng đáng tiếc dù ngươi có ép chết mấy người bọn ta cũng không thể nào giết chết mười vạn huynh đệ của chúng ta!” người bên ngoài đổi giọng, khuyên rằng: “Vương gia nào dám coi thường công tử, chỉ vì công tử quá cố chấp, ý của Vương gia mà muốn công tử viết thư cho lệnh huynh, mời ông ta xuất binh đến Hồ Bắc, hai nhà vẫn thân thiết với nhau! Nếu công tử chịu chấp nhận thì hãy lập tức ra đây!” Lý Tư Vĩnh biết bọn chúng muốn bắt mình làm con tin để cho cánh quân của mình đánh thay bọn chúng. Chàng cười lạnh rồi hừ một tiếng nói: “Có gì mà kỳ kèo nữa? Nếu các ngươi có thánh ý kháng Thanh thì hãy lập tức đổi phiên hiệu, thay đổi cách ăn mặc, qui thuận vương triều Đại Thuận. Dù Ngô Tam Quế không chịu tự sát để tạ lỗi với người trong cả nước thì cũng giao ra binh quyền rút lui từ đây!” một lúc sau bên ngoài vẫn không nói, nước đổ vào òng ọc, đã sắp tràn lên đến cửa, Lý Tư Vĩnh vẫn tự nhiên, không ngừng cười lạnh, đột nhiên tiếng nước đổ ngừng lại, trên cửa thủy lao mở ra một cái lỗ, có người thòng giỏ thức ăn xuống, nói: “Xin mời Lý công tử dùng cơm”.
                      Lưu Úc Phương chẳng dám động tay vào thức ăn. Lăng Vị Phong thì ăn uống nhồm nhoàm, cười nói: “Lúc này bọn chúng không dám bỏ độc!” nói xong thì nhìn Bảo Trụ, ném thức ăn sang cho y, Bảo Trụ quát lên: “Bên trên đừng thả thức ăn nữa, ta chịu đói được!” Lý Tư Vĩnh tung cước đá y một cái. Bảo Trụ đoán rằng, trong tình huống này, Ngô Tam Quế không giết bọn họ, bọn họ cũng không giết mình, chi bằng mình cứ nhịn đói thế nào bọn chúng cũng chịu khuất phục. Vả lại y đoán rằng, nếu bọn Lăng Vị Phong bị đói đến bủn rủn tay chân, võ sĩ bên ngoài sẽ xông vào thủy lao, lúc đó mình có thể thoát ra.
                      Thế là bên trên cũng ngừng đứa thức ăn xuống. Bốn ngày sau, mọi người đều đói đến vàng mắt, Lăng Vị Phong đột nhiên sinh bệnh, toàn thân run bần bật, Lưu Úc Phương cũng ủ rũ chân tay, nàng nhích đến gần nắm tay chàng! Tuy trong thủy lao tối om nhưng Lăng Vị Phong vẫn có thể nhìn thấy đôi mắt đen láy của nàng, chàng cảm thấy tâm hồn mình đang run rẩy, so với nỗi khổ trong tâm hồn, căn bệnh thể xác chẳng đáng là gì.
                      Lưu Úc Phương nắm tay chàng hỏi: “Vị Phong, e rằng chúng ta không thể ra khỏi đây! Hãy hứa với muội, huynh có thể nói thực cho họ biết không?” Lăng Vị Phong rút tay ra, lại bẻ ngón tay theo thói quen, rầu rĩ nói: “Nếu tôi muốn nói, trước khi chết tôi sẽ cho cô nương biết”.
                      Lưu Úc Phương nín thở, nhìn chàng bẻ ngón tay, đột nhiên nắm lấy hai tay chàng, nói với giọng hết sức tự tin: “Suốt đời mình huynh có làm chuyện gì thật sự tàn nhẫn hay không? Nếu huynh đã làm thì phải biết điều đó càng khó chịu hơn cả cái chết! Tôi đã giết chết người bạn thời thơ ấu của mình, nếu y thật sự chết đi, tôi sẽ hối hận suốt đời. Nhưng nếu y giống như huynh, không chết đi, mà chỉ đi đến một nơi rất xa, suốt đời hận tôi, tôi không chỉ hối tiếc mà mỗi đêm đều nằm ác mộng, trong mộng tôi thấy xung quanh tối mịt, tựa như thủy lao này...”.
                      Lăng Vị Phong đau đớn trả lời: “Cô nương nói thế đã quá tàn khốc! Tôi mong bằng hữu của cô nương chết đi thì hơn, nếu sống trở về thì e rằng càng tàn khốc hơn. Tôi chưa bao giờ cho cô nương biết chuyện thời thơ ấu của tôi như thế nào có đúng không? Giờ đây chúng ta sắp chết, cũng nên nhớ về thời thơ ấu một chút!”.
                      Lưu Úc Phương nhìn chàng với ánh mắt chờ đợi, khẽ nói: “Huynh nói đi!” Lăng Vị Phong lại rút tay ra, vặn bẻ ngón tay của mình: “Mẹ tôi rất thương tôi, có lúc người cũng rất nghiêm khắc. Có lần có mấy đứa trẻ bức hiếp tôi, tôi đánh chúng một trận. Mẹ tôi trách tôi, tôi thấy rất ấm ức, đột nhiên tôi len lén bỏ nhà đi, nằm trên một đỉnh núi, lúc đó tôi nghĩ rằng, mẹ chắc chắn tưởng rằng tôi đã chết, lúc này người chắc chắn đang khóc. Tôi cứ nghĩ mãi như thế, trong lòng cũng cảm thấy khoái trá, nhưng cảm thấy rất đau buồn... Úc Phương, cô đang cười hay khóc? Cô có cảm thấy đứa trẻ này buồn cười hay không?”.
                      Lưu Úc Phương thút thít nói: “Tại sao huynh phải hành hạ một người mình thương yêu?” Lăng Vị Phong nói: “Bản thân tôi cũng không biết, lúc đó có lẽ tôi cảm thấy mẹ thương tôi như thế thì không nên trách tôi khi chưa hỏi rõ ràng, ý nghĩ của trẻ con là như thế, đúng không?” Lưu Úc Phương thở gấp, lần thứ ba nàng nắm lấy tay chàng, nói: “Giờ huynh không còn là một đứa trẻ nữa!” Lăng Vị Phong thấy rất đau khổ, cố gượng cười: “Tôi không kể chuyện của chúng ta. Đương nhiên tôi không phải là người bằng hữu của cô nương. Song tôi nghĩ y có lẽ cũng sẽ nghĩ như môt đứa trẻ, vả lại nếu từ rất nhỏ y cũng giống như tôi, chạy đến một nơi lạnh lẽo!”.
                      Lưu Úc Phương đột nhiên nắm tay chàng, nói bằng giọng tuyệt vọng: “Thật sự không thể tha thứ hay sao?” Lăng Vị Phong khẽ nói: “Tôi nghĩ y có thể tha thứ...” chàng vừa nói xong thì chợt từ trên thủy lao có một người đu dây xuống.
                      Lý Tư Vĩnh đã bị đói mấy ngày, nhưng chàng vẫn có thể đi đứng được, lúc này thấy có một người từ trên đu dây xuống thì vội vàng bước đến hỏi: “Ai?” người ấy đội mũ che quá mặt, chẳng nói một lời chậm rãi bước tới. Lý Tư Vĩnh đợi y bước đến gần, vung tay ra chụp lấy mạch môn của y, ngón tay cái đè chặt vào huyệt Quan Nguyên. Huyệt Quan Nguyên là một trong ba mươi sáu đại huyệt, nếu bị người ta nắm thì sẽ lập tức mềm nhũn người. Chỉ nghe người ấy kêu hừ một tiếng, Lý Tư Vĩnh cảm thấy như bóp phải một khối bông, mềm mại chẳng hề chịu lực, chàng chợt giật mình, đây chính là công phu bế huyệt thượng thừa nhất mà Lý Tư Vĩnh chẳng hề biết. Thầm nhủ: “Sao trong phủ Ngô Tam Quế lại có một nhân vật như thế này?”.
                      Người ấy kêu hừ một tiếng thì đột nhiên ghé tai Lý Tư Vĩnh nói: “Công tử đừng lo, tôi sẽ không hại công tử. Đừng kêu lên, chỉ cần cho tôi biết có phải Lăng Vị Phong ở đây không?”.
                      Lý Tư Vĩnh đỏ mặt, vội vàng buông tay y ra, chỉ về phía Lăng Vị Phong, người ấy đảo mắt đi về phía Lăng Vị Phong.
                      Lưu Úc Phương đang mê man, có người bước tới mà nàng vẫn không biết, vẫn nắm tay Lăng Vị Phong hỏi: “Huynh nói gì? Nói lại một lần nữa xem... huynh nói có thể tha thứ hay không? Vậy huynh là... là người ấy sao?” Lăng Vị Phong chợt vùng ra khỏi tay nàng, đẩy nàng ra, khẽ nói: “Có người đến!” Lưu Úc Phương thẫn thờ ngồi xuống đất, bị Lăng Vị Phong đẩy một cái thì như tỉnh cơn mơ, không biết nàng lấy đâu ra sức mà đứng bật dậy đánh một chưởng về phía người ấy. Người ấy nhẹ nhàng tránh qua một bên, Lưu Úc Phương không kìm lại được, chồm người về phía trước, người ấy đỡ nàng dậy, khẽ nói bên tai: “Điệt nữ, tỉnh dậy! Là ta! Ta đến trị bệnh cho điệt nữ!” người ấy nói hai lần Lưu Úc Phương mới nghe ra giọng, nàng khóc òa lên.
                      Người này nhìn Lưu Úc Phương rồi lại nhìn xuống Lăng Vị Phong, khẽ vỗ vai nàng nói: “Điệt nữ đừng lo, ta sẽ trị bệnh cho Lăng Vị Phong”. Ông ta tưởng rằng Lưu Úc Phương chịu không nổi đau khổ nên khóc lên chứ không biết nàng có tâm bệnh.
                      Nhắc đến bệnh xuống Lăng Vị Phong, Lưu Úc Phương tỉnh táo trở lại, nàng thút thít nói: “Thúc thúc, con không sao, người hãy xem trước cho y...” nàng nói đến đây thì ngừng lại, người ấy ngạc nhiên nhìn nàng, lắc đầu rồi ngồi xuống bắt mạch cho Lăng Vị Phong.
                      Lăng Vị Phong lúc này cũng nhận ra người ấy, đang định kêu thì người ấy xua tay tỏ ý bảo chàng đừng lên tiếng. Bắt mạch xong người ấy lấy ra một cây ngân châm dài hơn một thước, ông ta cởi áo ngoài Lăng Vị Phong, đột nhiên dùng châm đâm lên người chàng. Lý Tư Vĩnh thấy thế cả kinh, vội vàng quát: “Ngươi làm gì?” Người ấy rút cây ngân châm ra, khi cởi áo ngoài của Lăng Vị Phong ra, Lưu Úc Phương cũng quay đầu xem, thấy Lý Tư Vĩnh định xông lên cản trở thì vội vàng ngăn lại: “Ông ta đang trị bệnh cho Vị Phong! Ông ta là thần y!” Lý Tư Vĩnh thấy cây kim đâm vào xương sống lưng Lăng Vị Phong đến hơn một nửa, Lăng Vị Phong thì vẫn tỉnh táo, chẳng kêu một tiếng, lúc này mới nửa tin nửa ngờ.
                      Một hồi xuống Lăng Vị Phong kêu ối lên một tiếng, người ấy rút cân ngân châm ra, nói: “Tốt rồi, tốt rồi!” Lăng Vị Phong ngồi dậy, dập đầu lạy rằng: “Tuyệt kỹ chữa trị bằng ngân châm quả nhiên danh đồn không ngoa!” Lý Tư Vĩnh ngạc nhiên nhìn lại, chỉ thấy Bảo Trụ cũng bước tới gần.
                      Lăng Vị Phong thấy Bảo Trụ bước đến gần thì đột nhiên điểm ra một chỉ, đâm vào Hôn huyệt của y, Bảo Trụ không kịp kêu lên một tiếng đã ngã xuống đất. Người ấy chỉ lên thủy lao, Lý Tư Vĩnh ngẩng đầu, chỉ thấy bên trên thủy lao ánh lửa bập bùng, bóng người thấp thoáng. Người ấy đột nhiên kêu lớn: “Lý công tử, Vương gia có ý tốt ra lệnh cho tôi đến đây trị bệnh cho các người, một lòng muốn kết minh, Lý công tử cần gì phải cứng rắn như thế!” nói xong thì khẽ bảo: “Lý công tử hãy mau đáp lời!” Lý Tư Vĩnh thông minh tuyệt đỉnh, chàng nghe là hiểu ngay, thế rồi nói lớn: “Đại phu hãy im miệng! Công trị bệnh đương nhiên phải đáp tạ, nếu nói đến việc lớn thì ngươi không được xen vào!” người ấy thở dài rồi giả vờ lầm bầm, Lý Tư Vĩnh nói giọng ôn hòa hơn: “Tôi sẽ kết giao cùng một người bằng hữu như ông, nhưng ông muốn làm thuyết khách cho Ngô Tam Quế thì đã phí công!” người ấy thở dài một tiếng, đu lên sợi dây, người trên thủy lao đã kéo y lên.
                      Lăng Vị Phong và Lý Tư Vĩnh nhìn nhau cười, tiện tay giải huyệt đạo cho Bảo Trụ, cười nói: “Ngươi muốn bọn ta chết đói? Vương gia của ngươi chẳng nghe lời ngươi”. nói vừa dứt lời thì quả nhiên thức ăn lại được thả xuống, bọn Lý Tư Vĩnh ăn uống nhồm nhoàm, chỉ ném xương dư cho Bảo Trụ khiến Bảo Trụ tức đến suýt ngất đi, y tiếc mình đã chịu nhịn đói cùng với bọn họ, kết quả là mọi chuyện diễn ra khác hẳn.
                      Từ đó về sau, cứ cách mỗi hai ngày thì đại phu xuống một lần, đem theo những loại trà thuốc khiến họ bổ huyết khí, mỗi lần xuống đều cố ý nói cười với bọn Lý Tư Vĩnh, hai ngày sau thì bóng người bên trên cũng không còn nhiều như lúc đầu nữa.
                      Mười ngày sau bọn Lăng Vị Phong hoàn toàn hồi phục. Một ngày nọ, đại phu ấy đột nhiên phóng xuống, vừa gặp đã kêu lên: “Mau chạy theo ta!” Bảo Trụ đang lúc ngạc nhiên thì bị y đánh trúng một chưởng ngã lăn cù, y sử dụng thủ pháp phân thân thác cốt khiến toàn thân Bảo Trụ mềm nhĩn, rồi y lấy ra một cây trủy thủ, nói với Lưu Úc Phương: “Ta mượn Cẩm Vân Đâu của điệt nữ một lát!” Lý Tư Vĩnh biết ông ta cần dùng gấp nên tháo sợi lưu tinh chùy ở eo ra, đưa cho ông ta nói: “Cái này tốt hơn Cẩm Vân Đâu!” người ấy khen rằng: “Lý công tử đúng là người tài giỏi!” rồi ném cây trủy thủ trong tay lên cắm vào vách đá cao hơn mười trượng, dùng lực vọt một cái, tay phải chụp vào cây trủy thủ, tay trái buông sợi lưu tinh chùy xuống, Lưu Úc Phương nhảy lên cao đến mấy trượng, vừa vặn chụp trúng đầu chùy, người ấy giật mạnh lên, Lưu Úc Phương phóng vọt người thoát khỏi thủy lao.
                      Té ra từ đáy thủy lao lên đến bên trên cao đến hơn ba mươi trượng, với công lực của ông ta tuy không cần dùng cây trủy thủ vẫn có thể phóng ra ngoài, nhưng ông ta đoán rằng Lưu Úc Phương chưa có được công lực như thế bởi vậy mới bám vào cây trủy thủ, dùng khinh công tuyệt đỉnh đẩy Lưu Úc Phương ra khỏi thủy lao. Tiếp theo Lý Tư Vĩnh cũng phóng ra như thế. Cuối cùng thì đến lượt Lăng Vị Phong, chàng kẹp Bảo Trụ, không cần nắm phi chùy mà phóng vọt người lên cao đến hơn mười trượng, rồi lại dùng mũi chân điểm vào vách đá, đổi thế cũng vọt lên tiếp, người ấy khen rằng: “Khinh công giỏi!” rồi thu phi chùy phóng ra ngoài!
                      Ra khỏi thủy lao, chỉ thấy có năm sáu võ sĩ nằm la liệt dưới đất, không hỏi cũng biết là do người này đã điểm huyệt đạo của chúng. Có điều lúc nãy dưới thủy lao lúc nãy không hề nghe tiếng đánh nhau, có thể thấy ông ta đã ra tay nhanh đến mức nào. Điểm huyệt không khó, nhưng khó là ở chỗ chỉ trong khoảnh khắc đã chế phục được tất cả người này.
                      Lý Tư Vĩnh rất khâm phục, lúc trước trong thủy lao nhìn không rõ, giờ đây đang ở chỗ sáng, chỉ thấy người này tóc bạc mặt hồng hào, râu dài ba chòm, trông rất tiên phong đạo cốt. Lý Tư Vĩnh đang định hỏi họ tên, Lưu Úc Phương đã nói: “Trong thủy lao không tiện nói cho công tử biết, ông ta chính là sư thúc của tôi, Phó Thanh Chủ tiên sinh!” Lý Tư Vĩnh kêu ồ một tiếng, vui mừng nói: “Té ra là lão tiền bối phái Chung Nam, chả trách nào võ công tinh thuần đến thế!” đang định thi lễ thì Phó Thanh Chủ đã kéo chàng, mỉm cười nói: “Đây không phải là nơi nói chuyện. Mau theo ta!”.
                      Phó Thanh Chủ rất quen thuộc đường lối trong vương phủ, ông ta dắt mọi người phóng lên mái ngói, chạy thẳng ra hậu viên. Đang chạy thì Bảo Trụ đột nhiên kêu lớn: “Bọn ngươi chạy đi đâu cho thoát!” đột nhiên một loại ám khí như phi hoàn thạch bay tới, Lăng Vị Phong quát lớn: “Ngươi đã chán sống!” rồi tay phải kẹp mạnh, Bảo Trụ lập tức ngất đi. chàng đã lia Du Long kiếm ra múa thành một vòng thanh quang, số ám khí ấy rơi xuống như mưa. Ám khí bên dưới vẫn không ngừng đánh lên, lúc này Lý Tư Vĩnh đã múa sợi lưu tinh chùy, những món ám khí đều bị đánh bật ra! thủ pháp ứng phó ám khí của Phó Thanh Chủ càng đặc biệt hơn, chỉ thấy ông ta múa đôi tay áo phần phật, cuốn hết những ám khí bắn về phía mình.
                      Lăng Vị Phong nhân lúc hai người Phó, Lý tiếp ám khí thì đút kiếm vào bao, lấy ra mấy cây phi mãng quát lớn: “Có đi mà không có lại chẳng lễ!” rồi chàng vung tay lên, mấy luồng kim quang bắn ra, bên dưới tiếng kêu thảm nổi lên liên tục, vài tên võ sĩ đã bị thần mãng cắm vào ngực lập tức đứt hơi. Sau một hồi đại loạn, Phó Thanh Chủ dắt mọi người nhảy vọt qua mấy lớp ngói chạy ra đến hậu viên.
                      Lúc này Bảo Trụ cũng vừa mới tỉnh dậy, Lý Tư Vĩnh đi ở phía trước, thấy y tuy bị Lăng Vị Phong dùng lực kẹp nhưng vẫn cười gằng. Chàng chợt giật mình thì thấy phía trước vù một tiếng, một luồng lửa phun tới, mọi người đều biết loại lửa lưu huỳnh này rất lợi hại, vội vàng nhảy xuống bên dưới né tránh, đột nhiên bốn bề đều có lửa phụt ra, quét về phía Lăng Vị Phong trông như vài con rồng lửa toan nuốt chửng chàng. Lăng Vị Phong gầm lớn một tiếng, phóng vọt lên khỏi màn lửa, lao bổ xuống hoa viên, lăn người xuống đất dập tắt lửa bị táp vào người, Bảo Trụ cũng bị ném ra cách đó mấy trượng, đầu và mặt đều bị lửa táp. Y vừa thoát khỏi tay Lăng Vị Phong thì lập tức giật một cây côn trong tay một tên võ sĩ, hò hét bọn võ sĩ cùng tiến lên bao vây, quả nhiên không hổ là một viên mãnh tướng.
                      Bọn Phó Thanh Chủ nhảy xuống vườn hoa theo Lăng Vị Phong, thấy trong vườn thấp thoáng bóng người, mười mấy tên võ sĩ trước mặt đều cầm ống phun lửa quét tới, hễ ngọn lửa phun đến đâu thì cây cối trong vườn đều bốc cháy. Bọn bốn người Lăng Vị Phong thi triển khinh công tuyệt đỉnh, luồn qua lách lại trong màn lửa, lại còn phải đối phó với các loại ám khí bên ngoài bắn vào, tình thế quả thực rất nguy hiểm!
                      Dưới màn lửa lưu huỳnh của bọn võ sĩ, bọn bốn người Lăng Vị Phong chẳng thể nào tương trợ nhau được, ai nấy đều tách ra dùng khinh công tuyệt đỉnh đối phó với bọn chúng, nhưng dù họ chạy đi đâu lửa cũng phun theo. Lăng Vị Phong cả giận, cởi áo ngoài vung một cái. Một vòi lửa bắn tới như con hỏa xà, Lăng Vị Phong không né tránh mà lao tới chụp áo xuống, người phóng vọt lên, tay trái đã cầm Thiên Sơn thần mãng, khi chàng vọt người lên thì vòi lửa đã bị chiếc áo bao trùm. Lúc này chiếc áo đã bốc lửa cháy phừng phừng, nhưng Lăng Vị Phong nhờ có chiếc áo che chắn nên không bị thương.
                      Tên võ sĩ ấy không ngờ rằng Lăng Vị Phong lợi hại đến thế, đột nhiên thấy chàng phóng vọt người lên không trung như con quái điểu, y trợn mắt há mồm. Nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, một luồng ô kim bắn qua màn lửa, y không né tránh kịp, vội vàng giơ ống phun lửa lên cản theo bản năng, chỉ nghe bốp một tiếng, lửa bắn tung tóe, lập tức ngọn lửa bao phủ toàn thân, bị thiêu cháy như con lợn quay! Không những thế bọn võ sĩ gần đấy đều hoảng hồn chạy tránh, lúc này Lăng Vị Phong đã từ trên không hạ người xuống, cầm chiếc áo đã bắt lửa quét quanh một vòng, tiện tay ném vào đám người ấy, tay phải thì rút cây Du Long kiếm đánh tới như mưa bão, ống phun lửa chỉ tiện đánh xa chứ không tiện đánh gần. Bọn võ sĩ chỉ đành đặt ống phun lửa xuống, rút ra binh khí.
                      Lăng Vị Phong mở được một đường máu, bọn Phó Thanh Chủ vội vàng phóng người thoát theo đường ấy. cả bốn người như bốn con mãnh hổ, chẳng ai ngăn cản nổi. Có điều bọn vệ sĩ trong vườn hoa không ít, vừa thấy bóng người toan xông ra khỏi vòng vây thì lập tức từ bốn phương tám hướng kéo tới bao vây trùng trùng. Lăng Vị Phong dẫn đầu đi trước, Phó Thanh Chủ ở phía sau, Lý Tư Vĩnh và Lưu Úc Phương ở giữa, Lý Tư Vĩnh múa tít trái chùy lưu tinh, đẩy những tên võ sĩ đứng gần mình ra xa. Lưu Úc Phương thì ném ám khí giúp Lăng Vị Phong mở đường.
                      Du Long kiếm tuy có thể chém sắt như bùn, người vì kẻ địch quá đông, chẳng thể nào chém xuể, vả lại gặp phải những loại binh khí nặng nề cũng chẳng làm gì được chúng. Tuy bốn người đánh đến nỗi trời xoay đất chuyển, nhưng vừa xông ra được ba bước thì phải lùi hai bước, chẳng thể nào thoát thân.
                      Đang gây cấn Phó Thanh Chủ chợt hú dài mấy tiếng, tiếp theo tiếng hú dài ấy, một tràng tiếng tù và rúc lên, võ sĩ trong vương phủ ngạc nhiên nhìn xung quanh, đột nhiên có một tiếng nổ như trời long đất lở, bốn bức tường của hoa viên đổ xuống ào ào theo tiếng nổ, bọn võ sĩ đến gần đều nằm chúi xuống, Lăng Vị Phong thừa thế đại triển thần oai, mở ra một đường máu!
                      Sau tiếng nổ khủng khiếp ấy, hai ha ba mươi đại hán từ bên ngoài xông vào, kẻ đi đầu là một thiếu nữ áo xanh và một thiếu niên áo vàng. hai người này vừa xông vào thì liên tục phóng tên, chỉ chọn những chỗ đông người mà bắn vào, dù bọn võ sĩ trong vương phủ được huấn luyện kỹ càng nhưng cũng lúng túng!
                      Lưu Úc Phương nhận ra thiếu nữ dẫn đầu chính là Mạo Hoàn Liên. Còn chàng thiếu niên áo vàng thì nàng không biết là nhân vật thế nào.
                      Còn Lý Tư Vĩnh thì không quen biết thiếu niên nam nữ dẫn đầu, nhưng những người còn lại đều là thuộc hạ của chàng. Khi chàng đến Côn Minh đã sắp đặt trước. Có điều chàng rất không hiểu tại sao thuộc hạ của mình lại nghe theo sự chỉ huy của đôi thiếu niên nam nữ lạ mặt này?
                      Đám người ấy càng đánh càng dữ, nhất là thiếu niên áo vàng, chàng ta sử dụng một đôi trường kiếm, ánh ngân quang chói mắt, thi triển toàn những chiêu số sấm sét! Bảo Trụ tức tối nhảy bổ về phía Lý Tư Vĩnh, múa tròn cây gậy trong tay, vạch ra một màn gậy đến cả trượng vuông rồi bổ xuống đầu chàng. Lý Tư Vĩnh phóng vút trái chùy lưu tinh ra, quấn vào một đầu cây gậy, dùng lực kéo một cái nhưng chàng lại bị kéo tới hai bước. Lăng Vị Phong đứng hơi xa, không kịp quay lại cứu chỉ thấy thiếu niên áo vàng gầm lớn một tiếng lao bổ tới, hai kiếm chém xuống, sợi dây chùy cũng bị chém đứt. Trái chùy bay thẳng lên không trung! Lý Tư Vĩnh vả Bảo Trụ đều cả kinh thất sắc, đôi bên lùi đến mấy bước. Thiếu nữ áo xanh chỉ Lý Tư Vĩnh kêu lớn: “Là người của chúng ta”. Thiếu niên áo vàng không nói một lời, xoay người đuổi theo Bảo Trụ, lại chém xuống một kiếm. Bảo Trụ xoay bước lách người, cây gậy đánh ra một chiêu Trường Xà Nhập Động đâm thẳng vào, cây kiếm trên tay phải của chàng thiếu niên chém ra, kiếm tay trái đâm ngược lên, rồi chàng thét lên một tiếng, chặt thêm một đoạn trên cây gậy của Bảo Trụ, kiếm phải đổi chém thành đâm vừa nhanh vừa chuẩn, đã đâm thủng vai của Bảo Trụ. Bảo Trụ nhảy vọt ra sau, ôm vết thương tháo chạy. Phạm Tân vội vàng chạy đến ngăn cản, Ma vân kiếm pháp của y có sở trường nhanh nhẹn nhẹ nhàng, y lướt người tới đâm xuống đầu thiếu niên áo vàng, khi hạ người xuống thì gót chân đạp vào ngực của thiếu niên áo vàng. Thiếu niên áo vàng hai tay đánh ra một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên, chàng hất kiếm lên, gạt kiếm của Phạm Tân từ trên không trung nhưng ngực của chàng cũng bị Phạm Tân đá trúng một cú. Lăng Vị Phong đang xoay người lại giải vây thì thấy chàng ta đã bị đá trúng, thế là vội vàng dùng thân pháp Long hình phi bộ lướt tới mấy trượng, nào ngờ chưa đến nơi thì chỉ thấy Phạm Tân đã bị đánh văng ra cách đó mấy trượng, đầu chảy máu ròng ròng, té ra thiếu niên ấy bị đá mà không hề biết đau! Lăng Vị Phong cũng thầm thất kinh, trông chàng ta chỉ mới hơn hai mươi tuổi mà võ công nội ngoại kiêm tu, chỉ trong vòng ba chiêu hai thức đã đánh bại Bảo Trụ và Phạm Tân, quả thực võ công của chàng ta chẳng kém gì mình!
                      Phía vương phủ, hai tướng vừa đại bại thì bọn võ sĩ cũng tháo chạy, Mạo Hoàn Liên huýt một tiếng sáo, dắt mọi người chạy ra khỏi vườn hoa, bên ngoài vườn hoa đã có hơn hai mươi thớt tuấn mã. Mạo Hoàn Liên nói: “Hai người một ngựa, mau rút lui!” Lăng Vị Phong kéo thiếu niên áo vàng: “Tôi và huynh đệ đi cùng một ngựa”. Rồi kéo tay chàng lên ngựa, thiếu niên áo vàng vẫn chẳng nói một lời, vừa lên ngựa đã kẹp bụng ngựa một cái, thớt ngựa phóng vọt tới hí dài trên đường phố. Chỉ trong chớp mắt mọi người đã chạy ra đến ngoại ô, Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Thiếu niên này thật kỳ quái!” chàng vỗ nhẹ vai thiếu niên nói: “Chậm một chút!” thiếu niên chỉ lầm lì nói: “Được!” rồi chàng phóng vọt người nhảy xuống lưng ngựa, nói: “Huynh đài sợ nhanh, tôi không đi ngựa với huynh đài nữa!” nói xong thì co giò chạy gấp còn nhanh hơn cả chạy ngựa. Chỉ trong chốc lát mọi người chạy đến một vạt rừng, chàng ta đang đứng dưới một gốc liễu, đột nhiên miệng ngâm nga một tiểu khúc. Lăng Vị Phong bước đến gần, chàng ta cũng chẳng thèm để ý!
                      Lăng Vị Phong nghe chàng ngâm nga rằng: “Trong hồ có con cá nhảy, chỉ rong chơi trên mặt nước. Trên bờ có người, chỉ nên nghe chứ chẳng nên nhìn. Càng không nên cầm theo cần câu bắt cá ta. Người đã nghĩ nhầm lẫn rồi đấy, cá tuy nhỏ, năm hồ bốn biển đều rong chơi, cũng từng làm nên sóng gió!”.
                      Lăng Vị Phong nghe chàng ta hát thì bất giác thở dài. Thầm nhủ: “Chả lẽ y cũng như mình, đang tuổi thanh xuân mà trải qua nỗi đau khổ của kiếp người?” Chàng tiến về phía trước mấy bước, nói với thiếu niên áo vàng: “Tôi tên Lăng Vị Phong, từ Hồi Cương đến đây. Xin hỏi huynh đài tôn tính đại danh, là người ở phương nào?”.
                      Lăng Vị Phong tự báo họ tên, tưởng rằng chàng ta sẽ động dung, không ngờ chàng ta chỉ lạnh lùng nhìn mình như chưa từng nghe tên, khẽ gật đầu rồi đáp: “Tôi không biết họ của tôi là gì, cũng không biết tôi từ đâu tới, tôi đang muốn hỏi người ta!”.
                      Lăng Vị Phong không khỏi ngạc nhiên, nhủ rằng: “Chả lẽ y có tâm sự gì đau lòng, không chịu nói rõ họ tên?” rồi Lăng Vị Phong bước lên nắm tay chàng ta nói: “Cùng là người trầm luân trong cõi thế, gặp nhau cần gì phải quen nhau? Huynh đài không chịu nói cũng chẳng sao. Chỉ là hôm nay được giúp đỡ, chúng ta đã là bằng hữu, hãy nói chuyện với nhau một lát!” thiếu niên áo vàng vung tay ra, nói: “Ngươi muốn nói gì với ta? Ta chỉ như đứa trẻ mới sinh ra đời, chẳng biết gì cả!”
                      Chàng ta thấy Lăng Vị Phong không vui, mới nói tiếp: “Ta nói toàn là lời thật, ngươi không tin ta cũng chẳng còn cách nào!”.
                      Lăng Vị Phong chưa bao giờ thấy một người quái lạ như thế, chàng không khỏi bực mình, khi thiếu niên vùng tay ra, chàng đã ngầm vận nội lực nắm chặt, thiếu niên kêu ối một tiếng, đột nhiên hạ cổ tay xuống rút phắt ra, nói: “Ngươi thật vô lý!” Lăng Vị Phong không giữ được tay của chàng, cũng kêu ối lên một tiếng, công lực của hai người đều là tám lạng nửa cân, Lăng Vị Phong thấy chàng thiếu niên lộ vẻ giận dữ, tưởng rằng chàng ta sẽ trở mặt, không ngờ chàng ta lại bước ra, dựa vào gốc cây, hai tay ôm đầu tựa như đang suy nghĩ một điều gì đó rất khó khăn, miệng cứ lẩm bẩm: “Sao ai gặp cũng hỏi họ tên của ta, ta phải tìm ai để hỏi đây? Ta là ai?” khi lẩm bẩm thì nước mắt tuôn rơi!
                      Lăng Vị Phong thấy thế thì cũng chẳng biết làm gì. đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy bụi cuốn lên mù trời, bọn Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên, Lý Tư Vĩnh đã đuổi tới. Mạo Hoàn Liên nhảy xuống ngựa, mỉm cười nói với Phó Thanh Chủ: “Phó bá bá, điệt nữ đoán y đang ở đây, bá bá thấy có phải không? Y vẫn còn nhớ nơi chúng tôi đã hẹn với y, sao không thể chữa trị được?” Phó Thanh Chủ lắc đầu, nói: “Ta thấy rất khó!” Mạo Hoàn Liên phụng phịu nói: “Khó không có nghĩa là không có hy vọng”.
                      Mạo Hoàn Liên bước tới, dịu dàng nói với thiếu niên áo vàng: “Huynh hãy theo tôi, chúng tôi có rất nhiều bằng hữu, họ cũng là bằng hữu của huynh, nhà bằng hữu cũng là nhà của huynh! Huynh nghe lời tôi, vài ngày nữa tôi sẽ cho huynh biết huynh là ai”. Rồi nàng quay sang Lý Tư Vĩnh nói: “Đây là con cháu của Sấm vương”. Thiếu niên áo vàng lẩm bẩm: “Lý Sấm vương, Lý Sấm vương”. Mạo Hoàn Liên vội vàng hỏi: “Huynh đã từng nghe có ai tên gọi Lý Sấm chưa?” thiếu niên áo vàng nói: “Không nhớ nổi, không biết có nghe hay chưa, chỉ là cái tên này hình như rất quen thuộc”. Nói xong thì ôm đầu khổ sở suy nghĩ.
                      Mạo Hoàn Liên nhoẻn miệng cười, nói: “Nghĩ không ra thì tạm thời đừng nghĩ nữa. Được, chúng ta đi”. Thiếu niên áo vàng rất nghe lời nàng, Lăng Vị Phong nhảy lên lưng ngựa nói: “Huynh đệ là bằng hữu của nàng cũng là bằng hữu của ta. Ta và huynh đệ sẽ đi chung một ngựa”. Phó Thanh Chủ quay sang Mạo Hoàn Liên mỉm cười, Mạo Hoàn Liên đỏ mặt, bảo Lưu Úc Phương thúc ngựa đi.
                      Họ chạy đến nhà một người bằng hữu của Lý Tư Vĩnh. Trước đây người này là nha tướng của Lý Cẩm, sau thời Sấm vương, ông ta được lệnh của Lý Cẩm ẩn cư ở ngoại ô Côn Minh, hai mươi năm qua vẫn thường liên lạc với thuộc hạ cũ của Sấm vương.
                      Mọi người đến nơi thì trời đã về chiều, chủ nhà đã chuẩn bị sẵn, lập tức bày cơm rượu ra khoản đãi quần hùng.
                      Trong sân ngôi nhà này có hai cây đơn quế, khí hậu Côn Minh ôn hòa, lúc này là đầu mùa thu, hoa quế nở rộ, hương hoa thơm ngát khiến ai cũng ngây ngất. Thiếu niên áo vàng khi bước vào sân thì đột nhiên nhíu mày, trong lòng rất lo lắng, Mạo Hoàn Liên thấy thế nhưng cũng không lên tiếng.
                      Cơm nước xong chủ nhà lấy kẹo hoa quế ra đãi khách, thiếu niên áo vàng chợt nổi giận, ném kẹo hoa quế xuống đất, chủ nhà rất lấy làm lạ, Phó Thanh Chủ khẽ nói bên tai chàng mấy câu, chàng ta lập tức xin lỗi rằng: “Thấy hoa quế hình như tôi nhớ được điều gì, nhưng không nghĩ ra nỗi, không biết thế nào lại cảm thấy bực dọc. Mong ông đừng trách”. Mọi tuy thấy thiếu niên áo vàng hành động quái lạ nhưng cũng không trách chàng.
                      Lý Tư Vĩnh và Lăng Vị Phong đều lấy làm thắc mắc. Lý Tư Vĩnh muốn hỏi thuộc hạ của mình tại sao lại gặp thiếu niên áo vàng. Lăng Vị Phong cũng muốn hỏi Phó Thanh Chủ tại sao đột nhiên đến Côn Minh mà lại lẩn vào vương phủ giả thành đại phu, Phó Thanh Chủ hình như cũng biết tâm sự của họ, cơm nước xong thì nói với họ rằng: “Các huynh đệ chắc cũng đã mệt. Nhân lúc còn sớm hãy nghỉ ngơi, đợi sáng mai ta sẽ kể rõ mọi việc!” Phó Thanh Chủ cũng là một lão tiền bối, Lăng Vị Phong thấy ông ta nói thế, tuy rất thắc mắc nhưng cũng đành đi ngủ.
                      Đêm ấy Lăng Vị Phong suy nghĩ mông lung, chẳng thể nào ngủ say nổi. Lúc thì chàng chợt nhớ đến tâm trạng kích động của Lưu Úc Phương trong thủy lao, lúc thì nhớ đến hành vi quái dị của chàng thiếu niên áo vàng. Chàng không thể ngủ được nên vén mền ngồi dậy, dạo một mình dưới ánh trăng.
                      Bên ngoài phòng chàng chính là sảnh đường, chàng vừa ra thì gặp một chuyện lạ, Phó Thanh Chủ ngồi đoc sách một mình trong sảnh đường, vừa thấy chàng bước ra đã nói: “Lăng tráng sĩ, hãy đến đây, lát nữa dù có xảy ra chuyện tráng sĩ cũng đừng la, cũng đừng ra tay!” Lăng Vị Phong thấy ông ta nghiêm nghị trịnh trọng như thế thì chỉ đành lui vào trong phòng, để ý động tịnh ở bên ngoài.
                      Khoảng nửa canh giờ sau, lúc này đã là nửa đêm, Lăng Vị Phong thấy bên ngoài chẳng hề có động tĩnh gì, Phó Thanh Chủ vẫn ngồi yên như pho tượng đá, mắt không rời sách, chàng rất lấy làm lạ, toan quay vào nằm xuống ngủ. Đột nhiên có một người từ trên lầu bước xuống, Lăng Vị Phong vội vàng nhìn ra thì chỉ thấy thiếu niên áo vàng ấy tay cầm hai kiếm, tựa như một cái xác khô, mắt đã đứng tròng, mặt đầy sát khí, từng bước đi về phía Phó Thanh Chủ. Lăng Vị Phong kinh hoảng, định ra ngăn cản nhưng nhớ Phó Thanh Chủ đã dặn nên ngừng tay lại. Phó Thanh Chủ hình như cũng chẳng hề hay biết, ông ta vẫn ngồi yên đọc sách.
                      Đúng là: Nửa đêm gặp chuyện lạ, hào hiệp cũng lạnh mình.
                      Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
                      #11
                        casau 01.11.2012 16:14:01 (permalink)
                        Hồi 8
                        Ân oán khó phân núi hoang xảy ác đấu
                        Gốc rễ chưa đoạn một lời nghe mênh mang


                        Lăng Vị Phong lăn lộn trong giang hồ, đã trải qua vô số nguy nan, đúng là chưa có chuyện nguy hiểm gì mà chưa từng gặp, dù kẻ địch hung ác đến bao nhiêu chàng cũng chẳng hề sợ hãi, nhưng lúc này chàng thiếu niên áo vàng cứ thẳng tiến ngay đơ tới như một cái xác khô, tròng mắt đứng yên, phát tia nhìn lạnh lẽo, chàng bất giác cũng nổi da gà. Chàng ta đã sắp đến gần trước mặt Phó Thanh Chủ, sát khí trên mặt càng lộ hơn, Lăng Vị Phong suýt nữa kêu lên. Nhưng chàng biết Phó Thanh Chủ đã chuẩn bị trước, trông ông ta vẫn tự nhiên tựa như chẳng có chuyện gì xảy ra thì chàng cũng hơi yên lòng, thầm nhủ: “Tuy võ công của thiếu niên áo vàng cực kỳ cao cường nhưng Phó Thanh Chủ cũng là nhân vật lừng lẫy trên võ lâm, chẳng thể nào trong khoảnh khắc mà đã bị thiếu niên áo vàng chế phục, nếu ông ta ra tay mình sẽ đến tương trợ. Hai người hợp lực lẽ nào không chế phục được y?”.
                        Phó Thanh Chủ vẫn đợi thiếu niên áo vàng đến bên cạnh, ông ta mới chậm rãi đứng dậy, hờ hững hỏi: “Ngủ có ngon không?” thiếu niên áo vàng nhìn Phó Thanh Chủ đờ đẫn. Phó Thanh Chủ mỉm cười, bưng chén trà đưa tới nói: “Uống một chén trà”. Thiếu niên áo vàng buông tay phải, cây kiếm rớt keng xuống đất, cầm cái ly trà uống cạn, Phó Thanh Chủ nói: “Nếu mệt thì ngủ một lát nữa”. Nói chưa xong lời thiếu niên áo vàng đã ngã xuống đất, trong khoảnh khắc đã phát ra tiếng ngáy.
                        Lăng Vị Phong đang định nhảy ra thì chợt nghe tiếng lạch cạch ở trên lầu, thầm nhủ: “Chả lẽ có gã nào mất hồn nữa?” chỉ nghe tiếng bước chân rất gấp gáp, một nàng thiếu nữ vội vã chạy xuống, thiếu nữ ấy chính là Mạo Hoàn Liên.
                        Khi Mạo Hoàn Liên thấy thiếu niên áo vàng nằm dưới đất, trường kiếm rơi bên cạnh thì lạc giọng hỏi: “Y có đả thương bá bá không?” Phó Thanh Chủ nói: “Không, y chẳng hề động thủ với ta”. Rồi mỉm cười nói: “Tiểu cô nương, ta phế võ công của y, con thấy có được không?” Mạo Hoàn Liên kêu lên: “Làm sao mà được?” Phó Thanh Chủ nói: “Ta không giết y, cũng không làm cho y tàn phế, ta chỉ phế võ công của y mà thôi, ta chỉ cần thi triển một chút thủ thuật thì y chẳng thể nào dùng được võ công nữa!” Mạo Hoàn Liên phụng phịu nói: “Làm sao bá bá nhẫn tâm như thế? Bình sinh bá bá trị bệnh cho người khác, giờ đây không trị cho y thì thôi, cần gì phải hành hạ y như thế?” Phó Thanh Chủ nói: “Chính vì ta không trị nổi bệnh của y, y chắc chắn đã gặp phải biến cố gì to lớn nên mới mắc chứng ly hồn, thế nhưng y lại quên hết tất cả mọi thức, chẳng thể nào tìm ra nguyên nhân căn bệnh, làm sao mà trị được? Điều đáng sợ nhất là khi y phát tác, y chẳng còn biết gì cả, ban ngày y tuy là người tốt, nhưng khi phát tác vào ban đêm thì y chẳng biết mình đã giết ai, võ công của y lại lợi hại như thế, ta không phế thì ai có thể chế phục được y?” Mạo Hoàn Liên nói: “Lúc nãy y muốn giết bá bá?” Phó Thanh Chủ nói: “Ta cũng chưa biết, nhưng sắc mặt y đầy sát khí”. Mạo Hoàn Liên nói: “Trước đây con có từng nhớ bá bá nói về chứng ly hồn, có những người trong lòng ấp ủ tâm sự gì đấy mà bình thường bản thân cũng chẳng biết, đến khi nằm mơ thì phát ra, nhưng họ chỉ vì thỏa mãn giục vọng bị áp chế của mình, họ không thể nào làm chuyện ác thật sự. Lúc đó y tuy là “y” nhưng lại không nguy hại cho người đời, đây còn gọi là chứng ly hồn tính lành, đúng không?” Phó Thanh Chủ nghe đến đây thì đột nhiên đứng phắt dậy.
                        Mạo Hoàn Liên kinh hãi hỏi: “Phó bá bá, người muốn làm gì thế?” Phó Thanh Chủ nói: “Ngay lúc này mà con còn giảng y thuật cho ta. Không ai biết y có hại người hay không, ta cũng không dám mạo hiểm giữ lại võ công cho y”. Ông ta nói xong thì đủng đỉnh bước về phía thiếu niên áo vàng, Mạo Hoàn Liên lo đến nỗi tung đôi dòng nước mắt, nói: “Phó bá bá, người chẳng thương con nữa rồi!” Phó Thanh Chủ chưa kịp trả lời thì chợt thấy một bóng đen bay lướt tới, Phó Thanh Chủ thối lui ra phía sau, cười ha hả: “Tôi biết đại hiệp nhịn không được sẽ chạy ra, sao đại hiệp không nghe lời tôi?” bóng đen ấy chính là Lăng Vị Phong.
                        Lăng Vị Phong thở gấp, vội vàng nói: “Người ta nghe lời của ông, ông lại phế võ công của người ta. Tôi không chấp nhận. Ông nghĩ công phu của y dễ luyện thành lắm sao? Tôi không nỡ lòng nhìn thấy ông phế bỏ một nhân tài như thế!” Mạo Hoàn Liên tiếp lời: “Phó bá bá, Lăng đại hiệp nói như thế mà người còn nỡ lòng ra tay sao?”.
                        Phó Thanh Chủ lại cười ha hả, đột nhiên ngồi xuống nói: “Tôi phải vắt óc suy nghĩ làm sao chữa trị cho thiếu niên này, cuối cùng thì đã tìm ra cách”. Mạo Hoàn Liên ngạc nhiên hỏi: “Sao...” Phó Thanh Chủ nói: “Con nghĩ ta thực sự phế bỏ võ công của y? Ta chẳng qua chỉ muốn thử xem lòng dạ của con đối với y như thế nào? Bây giờ ta đã biết”. Mạo Hoàn Liên phụng phịu nói: “Bá bá cứ đùa với con”. Phó Thanh Chủ nghiêm mặt nói: “Ta không hề đùa! Con nên biết tâm bệnh phải cần trị bằng dược tâm, y cần một thiếu nữ dịu dàng đáng mến bên cạnh, mà thiếu nữ này là người y tin phục, như thế y mới nghe lời nàng. Cũng chỉ có một thiếu nữ có lòng kiên nhẫn mới tìm ra được nguyên nhân căn bệnh của y. Nhưng y lại là một kẻ quá nguy hiểm, nếu thiếu nữ này không chịu hy sinh tất cả vì y, không đối xử tốt với y, không dám ở bên cạnh một con bệnh như thế này, dù có chịu ở bên cạnh y cũng chẳng có kết quả gì. Những người bệnh như y rất nhạy cảm. Ai không thật sự lo lắng cho y, y cũng có thể nhận ra. Y cần một người mẹ, một người bằng hữu, một người mà y có thể dốc lòng tâm sự. Nhưng lúc nãy ta vẫn chưa biết lòng dạ của con đối với y, nên ta phải thử con trước”. Phó Thanh Chủ nói xong, Mạo Hoàn Liên im lặng, Phó Thanh Chủ lại cười nói tiếp: “Con thấy Phó bá bá có thương con hay không?” Lăng Vị Phong cũng bật cười.
                        Phó Thanh Chủ nhìn Lăng Vị Phong, cười nói: “Hôm nay ta không những thử được Hoàn Liên mà còn thử được Lăng đại hiệp”.
                        Lăng Vị Phong ngạc nhiên hỏi: “Ông thử tôi làm gì?” Phó Thanh Chủ cười nói: “Có câu chỉ có anh hùng trọng anh hùng, đại hiệp là nhân vật lẫy lừng võ lâm nên nhất định có lòng thương mến nhân tài. Quả nhiên đại hiệp rất mến tiếc y. Suýt nữa đã trở mặt với lão phu! Thật ra ta tuy biết biết Hoàn Liên chấp nhận đi bên cạnh y nhưng cũng lo chẳng may y phát tác, thật sự làm chuyện xấu, chẳng ai có thể chế phục được y. Giờ đây có đại hiệp và Hoàn Liên đi theo y, vậy thì chẳng còn lo gì nữa. Khi đi bên cạnh y, đại hiệp phải để cho Hoàn Liên gần gũi với y nhiều hơn, đại hiệp chỉ cần đi bên cạnh bảo vệ”. Nói xong thì lại cười ha hả.
                        Lăng Vị Phong nói: “Tôi rất khâm phục y thuật của Phó lão tiên sinh, nếu có việc sai khiến tôi sẽ không từ chối. Nhưng Phó lão tiên sinh có thể cho tôi biết lai lịch của người bệnh không? Chẳng hạn các người gặp y ở đâu?”.
                        Phó Thanh Chủ bắt đầu kể ra một câu chuyện kinh tâm động phách.
                        Té ra Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên chia tay với anh hùng ở Võ gia trang, từ Sơn Tây đến Tứ Xuyên. Đi được nhiều ngày thì đến Kiếm Các là một nơi hiểm trở có tiếng, “đường Thục khó, khó còn hơn lên trời”. Đây là một câu thơ nổi tiếng nói lên sự hiểm trở của Kiếm Các.
                        Ngày hôm ấy họ vượt qua Kiếm Môn quan, đi trên con sạn đạo nổi tiếng trong lịch sử. Sạn đạo có nghĩa là một con đường ruột dê vắt ngang sườn núi cheo leo hiểm trở. Ở những nơi này chẳng hề có lối nào ra, vì thế người ta mới đục máng đá gác gỗ, bắc thành lối đi lơ lửng trên không trung; có nơi người ta men theo vách đá, đục thành những bậc cầu thang đến mấy ngàn bước, hai người Phó, Mạo đi trên con sạn đạo, ngửa mặt thấy núi non che kín bầu trời, bên dưới là vực sâu chẳng thấy đáy. Phó Thanh Chủ thì chẳng thấy gì còn Mạo Hoàn Liên thì hơi lo lắng, mồ hôi tuôn ra như tắm. Lúc này tuy là đầu mùa hạ nhưng trên con sạn đạo gió lạnh dồn tới, áo chẳng chống được rét.
                        Câu chuyện của Phó Thanh Chủ bắt đầu từ đây. Ông ta kể với Lăng Vị Phong: “Ngày hôm ấy chúng tôi đi trên con sạn đạo, nói ra cũng thật xấu hổ, chúng tôi tuy là người có chút công phu, nhưng đi một ngày mà vẫn chưa hết đường. Phía trước ráng chiều buông lơi, trời đã sắp hoàng hôn, tôi cũng hơi lo, nếu ở lại giữa chốn núi rừng hoang vắng, tôi đương nhiên chẳng có gì, có điều Hoàn Liên là thân đàn bà con gái, vả lại tôi thấy hình như nó có vẻ sắp ngã bệnh, lòng càng lo hơn”.
                        Mạo Hoàn Liên chen vào nói: “Người cứ coi con như là đứa trẻ, thật ra con chẳng bệnh gì cả. Chỉ là từ sau đêm lên núi Ngũ Đài thì thấy trong lòng khó chịu!” Lăng Vị Phong nghe xong thì thầm than. Trong đêm ở núi Ngũ Đài, Mạo Hoàn Liên tìm mẹ nhưng đã gặp ngôi mộ của mẹ. Chàng đã tận mắt chứng kiến bi kịch ấy. Chàng đương nhiên hiểu tại sao Mạo Hoàn Liên khó chịu trong lòng.
                        Phó Thanh Chủ buồn bã nói: “Làm sao ta không biết điều đó, ta chỉ lo con kìm nén quá thành bệnh!” Mạo Hoàn Liên đỏ ửng mắt, nàng chợt đưa mắt nhìn thiếu niên áo vàng đang nằm ngủ say, nước mắt tuôn rơi. Lăng Vị Phong thở dài: “Chả trách nào nàng đã yêu thiếu niên áo vàng này, hai người đều là kẻ mồ côi cha mẹ, một người là thiếu niên không biết mình xuất thân từ đâu, số phận giống nhau đã nối họ lại với nhau”.
                        Phó Thanh Chủ tiếp tục nói: “Đang lúc lo lắng chúng tôi chợt thấy ở góc núi có một thiếu nữ đang hái dây núi, nàng chỉ giật một cái thì được một sợi dây. Loại dây núi này rất dai, người thường dùng dao cắt cũng phải mắt nhiều thời gian, thế nhưng nàng chỉ nhẹ nhàng giật đứt, tôi cũng lấy làm lạ, Mạo Hoàn Liên kêu lên, thiếu nữ ấy quay đầu lại thấy Mạo Hoàn Liên thì hình như rất vui mừng, nàng chạy đến kéo tay Hoàn Liên, hỏi Hoàn Liên có phải là tiên nữ bị gió thổi xuống đây hay không? Bởi vì nàng ta ở nơi này rất lâu mà chẳng thấy người lạ”.
                        Mạo Hoàn Liên tiếp lời: “Thật ra nàng ta cũng rất đẹp! Đẹp như hoa bách hợp nơi u cốc! Tôi bảo chúng tôi chỉ là du khách bình thường, hình như nàng rất lo, vội vàng gọi chúng tôi đến nhà nàng tá túc. Tôi nghĩ, ở nơi đỉnh núi cheo leo hiểm trở mà có người, người này chắc chắn chẳng phải kẻ tầm thường!”.
                        Phó Thanh Chủ nói tiếp: “Nhà của cô nương ấy ở gần đó nhưng chúng tôi chẳng nhìn thấy tí gì. Té ra nhà nàng được dựng ở giữa hai vách núi, trên vách núi lại có hai gốc tùng che căn nhà lại. Chúng tôi bước vào nhà chỉ thấy một ông già tuổi khoảng lục tuần vừa đen vừa ốm, tay có móng dài như vuốt chim, tinh thần vẫn còn khỏe khoắn. Ông ta rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi, chúng tôi bảo rằng chỉ là những người lạc đường, ông ta nửa tin nửa ngờ nhưng rốt cuộc vẫn tiếp đã chúng tôi, chúng tôi thấy ông ta rầu rĩ khi nói chuyện thì có vẻ hơi lo ra. Yôi tưởng rằng ông ta không vui vì chúng tôi đã quấy nhiễu, nếu không thì hoài nghi chúng tôi là người xấu. Nhưng ông ta lại tiếp đãi rất chu đáo. Chúng tôi dùng bữa xong thì trời đã tối, ông ta đột nhiên nói với chúng tôi: ‘Khách quan, tôi thấy các vị không phải là người khách bình thường, chắc là có chút võ công, nếu hôm nay xảy ra chuyện gì, các người không được lên tiếng cũng không nên động thủ!’.”
                        Lăng Vị Phong nghe nói thế thì chen vào nói: “Cũng đột nhiên ông dặn chúng tôi lúc nãy?” Phó Thanh Chủ nói: “Lúc nãy tôi chỉ đùa, nhưng ông thì nghiêm khắc hơn nhiều, thần thái đáng sợ hơn!”.
                        Mạo Hoàn Liên nói: “Lúc đó vị cô nương kia cũng hỏi: ‘Cha, mẹ đã không quay về nữa! Có phải người xấu ấy lại đến, lần này con đã lớn, con có thể giúp cha’. Ông già nghe xong thì mặt biến sắc, trách rằng: ‘Con không được ra tay. Người ta sẽ không nhận con. Dù cho ta có bị đánh chết con cũng không được ra tay với người đó, dù y dắt con đi con cũng phải đi theo, không được trả thù cho cha. Con có nghe không?’ Thiếu nữ ấy khóc rằng: ‘Cha, sao ha lại nói thế?’ ông già nghiêm giọng nói: ‘Con không được cãi lời ta, ta chết không nhắm mắt!’ tôi nghe xong cũng thấy ông già này thật vô lý. Tôi nhìn Phó bá bá, người chẳng nói câu nào, tôi muốn nói sẽ rút đao tương trợ nhưng cảm thấy không đủ sức. Bởi vì vị cô nương ấy còn giỏi hơn cả tôi. Không khí trong nhà nặng nề, lòng tôi cũng nặng như có tảng chì”.
                        Phó Thanh Chủ nói: “Tôi đi lại trên giang hồ đã mấy mươi năm, chưa bao giờ gặp phải chuyện lạ như thế này. Hình như ông già ấy luyện công phu Đại Lực Ưng Trảo, hai mắt sáng quắc vừa nhìn thì đã biết cao thủ nội gia, nhưng tôi lại không biết ông ta là ai. Tôi đoán có lẽ là kẻ thù trên giang hồ đến tìm. Nhưng nếu bị kẻ thù trên giang hồ đến tìm thì người trong cuộc có lẽ nào không chịu nhận sự giúp đỡ, cả con mình mà ông già cũng không cho giúp, điều đó khiến tôi nghĩ mãi không ra!”.
                        Lúc này ngoài cửa gió đêm thổi vù vù, tiếng hạc đêm kêu váng lên, Lăng Vị Phong vỗ tay nói: “Tôi đã đoán được ông già ấy là ai!” Chàng nói vừa dứt lời thì bên ngoài cửa sổ cũng có người tiếp lời: “Tôi cũng đoán được ông già ấy là ai!” Lăng Vị Phong nhảy vọt lên, chỉ thấy bóng đen ấy đã chui tọt vào cửa.
                        Người đó chính là Lý Tư Vĩnh, chàng ta cũng thắc mắc trong lòng, suốt đêm chẳng ngủ được nên khi Mạo Hoàn Liên bước ra ngoài thì chàng cũng đi theo. Lăng Vị Phong đang say sưa lắng nghe nên chẳng biết chàng đang nấp ngoài cửa.
                        Lúc này Phó Thanh Chủ thấy Lăng Vị Phong và Lý Tư Vĩnh đều nói biết ông già ấy là ai thì rất ngạc nhiên. Lăng Vị Phong nói: “Tôi đã từng nghe sư phụ nói về các bậc danh túc các phái. Nghe nói trên đỉnh cáo của sạn đạo Kiếm Các, có một ông già ẩn cư tên gọi là Quế Thiên Lan, rất giỏi Đại Lực Ưng Trảo công và Miên chưởng, Ưng Trảo công là tuyệt kỹ ngoại gia, Miên chưởng là công phu khó luyện nhất của nội gia nhưng ông ta có thể giỏi hết cả hai thứ có thể nói là bậc quái kiệt trong võ lâm”. Mạo Hoàn Liên nghe thế thì ồ một tiếng, vội vàng hỏi: “Ông ta họ Quế?” Lăng Vị Phong khẽ gật đầu, Mạo Hoàn Liên ngẩn người ra tựa như đang suy nghĩ chuyện gì đấy.
                        Lý Tư Vĩnh nói: “Tôi cũng từng nghe sư phụ nói có một người tên gọi Quế Thiên Lan, võ công cực kỳ cao cường, khi Trương Thắng Trung ở đất Xuyên đã từng đi theo đại tướng Lý Định quốc, khi Trương Thắng Trung làm chủ đất Xuyên, ông ta đã từng theo đại tướng Lý Định Quốc. Không lâu sau Trương Thắng Trung và Lý Định Quốc liên tiếp bại vong, không biết người này đã đi đâu. Sau đó có người bảo ông ẩn thân ở Kiếm Các, sư phụ tôi sai người đi tìm mấy lần mà không gặp. Phó lão tiền bối bảo có người tìm ông ta trả thù, tôi nghĩ có lẽ không phải là vì ân oán cá nhân mà cao thủ triều đình nhà Thanh đã tìm được tung tích của ông ta”.
                        Phó Thanh Chủ lắc đầu nói: “Huynh đệ chỉ đoán được đúng một nửa, lúc đầu những kẻ ấy không phải là người của triều đình nhà Thanh”. Rồi ông ta lại nói tiếp: “Khi ông già đang nói chuyện với con gái, trên mái nhà chợt nghe tiếng tên bay, tiếp theo là tiếng hú nghe rất thê lương. Đó là tín hiệu báo cho biết đã tìm được kẻ thù trên giang hồ, mà lại nếu chẳng tự tin bắt được đối phương thì quyết sẽ không dùng phương thức truyền tin ấy. Tôi đang cảm thấy rất ngạc nhiên, võ công của cha con nhà này đã là hiếm thấy trong võ lâm đồng đạo, chả lẽ còn có cao nhân nào giỏi hơn? Sau tiếng tên bay, quả nhiên bên ngoài có tiếng quát như sấp dậy vọng vào: “Ngươi vẫn còn chưa ra đây đáp lời?
                        Ông già mặt rầu rĩ, từ từ đứng dậy nói với con gái: “Con phải nghe lời cha!” rồi quay sang chúng tôi nói: “Các vị cũng đừng lo chuyện bao đồng!” nói xong thì phóng ra ngoài, tôi cũng đi theo, tiểu cô nương ấy và Hoàn Liên cũng theo sau!
                        Bên ngoài có một ông già mặt đỏ râu xồm vừa thấy tôi bước ra đã trợn mắt, cười lạnh nói: “Ngươi thật vô sĩ, còn tìm người giúp đỡ!” tôi vội nói: “Tôi chỉ là khách qua đường!” tôi biết hễ một mình đi tìm kẻ thù tức là phải đơn đả độc đấu. Dù người ngoài vô tình gặp cũng phải né tránh. Trừ phi bên tự thấy yếu hơn hạng trước bằng hữu thân cận thì sẽ đánh khác. Tôi vốn định tránh mặt nhưng không cưỡng lại nổi sự tò mò nên vẫn đứng từ xa nhìn họ tỉ thí. Lúc này tôi chợt thấy bên dưới sạn đạo, ở nơi sườn núi có một bóng đen di chuyển. Tôi đang nhìn thì ông già mặt đỏ quát lớn: “Dù có người giúp ta cũng chẳng sợ”. Rồi hai vung lên, chẳng nói một lời đã xông về phía ông già đen gần, tôi đứng cách đó mười trượng cũng nghe chưởng phong của y kêu lên vù vù”.
                        Chưởng pháp và kiếm pháp của Lăng Vị Phong đều rất cao cường, nghe Phó Thanh Chủ nói hai ông già đọ chưởng với nhau ở sạn đạo Kiếm Các thì không khỏi thích thú. Chàng nói: “Với võ công của Quế Thiên Lan mà cũng có người đến tận nơi khiêu chiến, đáng tiếc tôi không nhìn thấy tình cảnh ấy”. Chàng ngập ngừng rồi lại nói với Phó Thanh Chủ: “Tôi nghĩ đen gầy trên Kiếm Các chín phần là Quế Thiên Lan”.
                        Phó Thanh Chủ gật đầu nói: “Đúng thế, tôi cứ coi như ông già đen gầy là Quế Thiên Lan, khi kể cũng dễ nhớ. Tôi nói đến đoạn ông già mặt đỏ râu xồm thấy Quế Thiên Lan thì tựa như nổi điên, vung hai chưởng nhảy bổ tới. Có điều Quế Thiên Lan không động thủ, hai chân vừa phát kình thì người đã phóng vọt lên như mũi tên ra đến hai ba trượng, miệng kêu lên: “Ông hãy chậm động thủ có được không? Cũng phải để cho tôi nói rõ cái đã!” ông già mặt đỏ không thèm để ý, lao bổ đuổi theo. Quế Thiên Lan lui mấy lần thì đã đến mép vực, chẳng còn đường lui nữa! Ông già mặt đỏ liên tục phát hai chưởng đẩy về phía Quế Thiên Lan. Quế Thiên Lan đột nhiên phân hai chưởng ra, lướt người đến bảy bước, chưởng phải gạt ngang, chưởng trái lật lại phất xuống cổ tay ông già áo đỏ, đồng thời xỉa chỉ, chồm người về phía trước, hai ngón tay điểm vào be sườn của ông già mặt đỏ, ông già mặt đỏ chặn hai chưởng lại, tiếp theo chưởng trái chém xuống, đồng thời giở chân quét ngang qua”. Lăng Vị Phong lắng nghe, chợt nói: “Ông già áo đỏ tiếp chiêu này không đúng. Quế Thiên Lan đã dùng chiêu Khổng Tước Đẩu Linh trong Miên chưởng, được một nữa đã thêm vào điểm huyệt. Ông già áo đỏ giải như thế chỉ có thể hóa giải được chưởng lực của đối phương chứ không tránh được đòn điểm huyệt. Cú quét chân của ông ta chỉ là hư chiêu lấy công làm thủ, Quế Thiên Lan chỉ cần tiến xéo người thì ông già mặt đỏ sẽ toi đời. Xem ra ông già áo đỏ tuy hung hăng nhưng nói về công phu thật sự thì chẳng bằng Quế Thiên Lan”.
                        Phó Thanh Chủ nói: “Chưởng pháp của đại hiệp quả nhiên cao minh, Quế Thiên Lan lùi xéo sang bên trái, ngón tay đã điểm vào be sườn của ông già mặt đỏ. Nhưng Quế Thiên Lan tựa như có ý nhường ông ta, ông ta chỉ điểm hờ một cái, nhân lúc ông già mặt đỏ lách người thì đã chui tọt sang bên phải, tránh khỏi mép vực”. Lăng Vị Phong nói: “Ông già mặt đỏ đã thua một chiêu, chắc là cũng ngừng tay chứ?” Phó Thanh Chủ nói: “Ông ta chẳng chịu ngừng tay!” dưới ánh trăng, tôi thấy bộ mặt đỏ kè của ông ta biến thành màu tím, lại nhảy bổ tới tựa như liều mạng, ông ta cũng hơi quái dị, quyền pháo triển khai, thân tựa như phi ngư, bước như nước chảy, xoay vòng vòng bên cạnh Quế Thiên Lan, hai tay lúc quyền lúc chưởng, đánh như bánh xay gió, thân pháp càng lúc càng nhanh, dưới chân thì bước theo phương vị cửu cung bát quái, chẳng hề rối loạn”. Lăng Vị Phong nói: “Ông ta chắc chắn sẽ cửu cung thành hành chưởng, loại chưởng pháp này ẩn chứa bảy mươi hai điểm ngự pháp, điểm là điểm huyệt, ngự là ngự cốt. Chém, vỗ, điểm, chụp phụ trợ lẫn nhau. Đó là loại chưởng pháp thượng thừa đối phó với hai nhà nội ngoại. Chao ôi! Ông già mặt đỏ võ công thật cao cường, lúc nãy ông ta thua một chiêu có lẽ là vì quá coi thường kẻ địch. Cửu Cung Thần Hành chưởng của ông ta đúng là loại chưởng pháp trấn sơn của phái Võ Đang!”.
                        Phó Thanh Chủ nói: “Công phu của Quế Thiên Lan cũng cực kỳ cao cường, ông già mặt đỏ cứ xoay vòng vòng bên cạnh, ông ta cũng xoay theo, ông ta phát chưởng hình như rất mềm mại, nhưng chưởng pháp chỉ lực lực của đối phương kều bị ông ta hóa giải”.
                        Lăng Vị Phong nói: “Cuộc đọ chưởng này chắc chắn rất đẹp mắt”. Mạo Hoàn Liên nói: “Chẳng sai tí nào, hai người này cứ xoay như đèn cù, chợt phải chợt trái, chợt thuận chợt nghịch, một hồi sau thì chỉ thấy dưới bóng trăng có hai bóng đen kết thành một có vòng, xoay như điện xẹt, đừng nói là không nhìn thấy chiêu số, chúng tôi chẳng biết ai là ông già mặt đỏ ai là Quế Thiên Lan”.
                        Phó Thanh Chủ cười nói: “Họ ra tay cực kỳ nhanh, nhưng nhìn kỹ thì vẫn biết ai mạnh ai yếu, ông già mặt đỏ to bằng tựa như con mãnh sư, còn Quế Thiên Lan thì tựa như linh hạc. Mỗi chiêu của ông già mặt đỏ đều rất hung hiểm, còn Quế Thiên Lan thì né tránh rất hợp lúc. Có mấy chiêu cả tôi cũng không thấy ông ta đã tránh như thế nào. Theo lẽ thường mà nói, với công lực của ông ta nếu kẻ địch không đánh trúng thì ông ta có thể thừa cơ phản công nhưng rất lạ là ông ta chỉ thủ chứ không công, thậm chí kẻ địch rõ ràng đã có sơ hở mà ông ta chẳng chịu nhắm mắt. Tôi thấy có một chiêu, ông già áo đỏ dùng Khiên duyên thủ đánh tới từ hai bên trái phải, Quế Thiên Lan né tránh chính diện, phản công ngược trở lại chém chưởng xuống, ông già áo đỏ chắc chắn sẽ bị trọng thương, nhưng ông ta chỉ đánh hờ ra rồi lập tức đổi thức bỏ qua cơ hội ấy”.
                        Lăng Vị Phong nói: “Thế thì sẽ thua to! Công lực, chưởng pháp của ông già mặt đỏ chỉ hơi kém hơn Quế Thiên Lan, ông ta bỏ qua như thế thì rất dễ dàng bị đối phương thừa cơ phản công”. Phó Thanh Chủ nói: “Đúng thế. Đáng tiếc là tôi không thể nhắc ông ta. Đánh thêm được một hồi ông già mặt đỏ chợt tung ra một cú đá vào huyệt đạo dưới be sườn của Quế Thiên Lan. Quế Thiên Lan đã chụp trúng chân trái của ông già, nếu chỉ cần giật mạnh thì lập tức khiến cho kẻ địch rơi xuống vực sâu, nhưng ông ta lại hạ cổ tay xuống, có lẽ là muốn đặt chân của kẻ địch xuống đất. Nào ngờ chỉ hơi chậm lại thì lập tức bị ông già mặt đỏ thi triển Uyên Ương Liên Hoàn Thoái, chân trái đá mạnh vào ngực của Quế Thiên Lan, Quế Thiên Lan kêu lớn một tiếng buông hai tay ra. Ông già mặt đỏ đã lướt ra mấy trượng, xoay người bắn trở lại ba mũi tụ tiễn, lúc này Quế Thiên Lan mặt tái nhợt, thân pháp chậm lại, không tránh nổi ba mũi tên thế là bụng dưới đã bị trúng tên”.
                        Mạo Hoàn Liên lo lắng nói tiếp: “Tiểu cô nương ấy cũng đứng bên cạnh tôi, lúc này nàng chợt xông ra, tay phải vung lên, ném sợi dây núi xuống ông già, tay trái cũng đánh ra ba mũi cương tiêu. Ông già mặt đỏ cũng thật kỳ lạ, vừa thấy tiểu cô nương ấy xông ra thì không hề né tránh mà phóng lên nói: ‘Kẻ xấu đã bị đánh chết, oắt con hãy theo ta!’ tiểu cô nương ra tay, ông ta chợt bước chậm lại, thế là hai chân đã bị sợi dây dài cuộn lấy, vai trái cũng trúng mục tiêu! Quế Thiên Lan chợt kêu lên: ‘Trúc Quân, đừng ra tay, ông ta chính là cha của con!’ ông già mặt đỏ cười thảm mấy tiếng, tiểu cô nương ấy run bần bật dưới ánh trăng, lúc này tôi thấy phía sau có tiếng gió lướt lên, đột nhiên Phó bá bá đột nhiên đẩy tôi bay ra đến ba trượng, tôi quay đầu nhìn lại chỉ thấy bốn người mặc đồ đen nhảy bổ vào như bốn con phi điểu, có một người đã lướt tới gần tiểu cô nương, ông già mặt đỏ gầm lên, hai chân nhảy bật lên, sợi dây bị đứt thành mấy đoạn, đại hán áo đen vừa chụp được vai của thiếu nữ thì bị ông già mặt đỏ ôm chặt, cả hai ngã xuống đầt rồi lăn qua kẽ núi!”.
                        Lăng Vị Phong nghe thế thì kêu lên: “Thế là ông già mặt đỏ đã liều chết với kẻ địch, đáng tiếc!” Mạo Hoàn Liên vẫn cứ tiếp tục nói: “Tiểu cô nương ấy thấy ông già mặt đỏ ôm một đại hán lăn xuống vực sâu thì sững người ra, nàng đột nhiên phóng về phía trước, kêu lớn một tiếng rồi cũng nhảy xuống vực sâu. Tôi muốn nhảy ra cứu nhưng cũng đã không kịp. Bên tai chỉ nghe tiếng kêu thảm của Quế Thiên Lan, tiếp theo là tiếng binh khí giao nhau, Phó bá bá kêu tôi trở về. Ôi chao! Khi nhảy xuống vực sâu vẻ mặt của tiểu cô nương ấy thật đáng sợ!” Mạo Hoàn Liên nói xong thì sắc mặt tái nhợt, giọng rung rung, trong nhà chợt lặng hẳn đến nỗi họ có thể nghe được nhịp tim của mình!
                        Một hồi sau Phó Thanh Chủ thủng thỉnh nói: “Bốn đại hán áo đen ấy đều là cao thủ đại nội. Tôi nhận ra kẻ bị ông già mặt đỏ ôm lăn xuống núi, y tên là Bát Tý Na Tra Tiêu Bá, trước đây là một đại đạo giang hồ, sau khi quân Thanh vào Trung Nguyên y dắt theo một đám giặc cướp đầu hàng quân Thanh, nghe nói sau này đã là thị vệ đại nội, công phu của y chẳng kém gì ta, ta không kịp nói gì cả, chỉ đành đẩy Hoàn Liên ra, ba tên kia thì ta không nhận ra, nhưng nhìn thân pháp thì đều là những kẻ cao thủ thuộc hàng đệ nhất. Bọn chúng vừa xuất hiện trên Kiếm Các thì lập tức nhảy bổ về phía Quế Thiên Lan, ta vội rút kiếm ra phóng tới chặn cho Quế Thiên Lan một hồi”. Ông ta ngập ngừng rồi thở dài: “May mà kẻ có võ công cao cường nhất là Tiêu Bá đã bị ông già mặt đỏ ôm lăn xuống núi, chứ nếu không đêm ấy bọn ta cũng đã rơi máu ở chốn núi hoang!”.
                        Bọn Lý Tư Vĩnh phẫn nộ nói: “Bọn Thát Tử Mãn Châu cũng thật đáng ghét, đã mấy mươi năm trôi qua mà không chịu tha cho một bậc danh tướng của tổ tiên và Trương Hiến Trung. Quế Thiên Lan cũng thật là, tiên phụ đã nhiều lần tìm đến ông ta, nếu ông ta chịu đi theo chúng tôi thì đã không có chuyện xảy ra, ông ta cứ ẩn cư. Lúc này nước nhà chẳng giữ nổi, sao có thể làm cao nhân ngoài đời?”.
                        Phó Thanh Chủ nói: “Tôi thấy bọn vệ sĩ hung dữ như thế, cũng đành liều mạng với bọn chúng! Nhưng ba tên vệ sĩ này võ công cao cường, tôi không chặn hết nổi, kết quả là có một tên xông về phía Quế Thiên Lan, tôi bị hai tên vệ sĩ kìm chân, chẳng giúp được ông ta, cũng chẳng thể nào để ý nhìn sang. Đánh một hồi thì nghe Hoàn Liên kêu lớn, tôi mới biết tên kia đã bị tiêu diệt”.
                        Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi chạy đến giúp Quế Thiên Lan, trái lại ông ta đã giúp tôi, tên vệ sĩ ấy tay cầm đao hồng mao đánh rất lợi hại. Kiếm của tôi không chạm vào y được, chỉ bị đao phong quạt ra! tôi triển khai công phu khéo léo, khi thấy y sắp đắc thủ thì từ một bên đã đâm y một kiếm. Võ công của Quế Thiên Lan cũng thật kinh người, sắc mặt ông ta trắng bệt như tờ giấy, người đã lảo đảo nhưng một tay vẫn đè chặt vào bụng, một tay ứng chiến. Đao quang của tên vệ sĩ ấy loang loáng nhưng cũng chỉ có thể xoay một vòng bên ngoài chứ không dám tiến vào sát. Có lẽ y sợ nội lực Ưng Trảo công của ông ta, đánh được một hồi thì tên vệ sĩ ấy tựa như rất nôn nóng, y đột nhiên xoay người đánh ra một chiêu Vân Long Tam Hiện, đâm ba mũi đao về phía tôi, quát lớn: ‘Ta sẽ trừ ả nha đầu nhà ngươi trước!’ khi y đâm ra đao thứ hai thì kiếm của tôi đã bị đánh bay ra!”.
                        Khi Mạo Hoàn Liên nói đến đây thì Lý Tư Vĩnh bất đồ kêu lên. Lăng Vị Phong cũng thở phào, nhẹ nhàng nói: “Tên vệ sĩ áo đen sắp hỏng bét!” Mạo Hoàn Liên ngạc nhiên hỏi: “Lăng đại hiệp, sao ông biết rõ như thế! Nhát đao đầu tiên của y đẩy tôi lùi hai bước, nhát đao thứ hai đánh rơi binh khí của tôi, nhất đao thứ ba sắp đánh xuống đầu tôi, tôi chẳng thể nào chống cự nổi, chỉ đành nhắm mắt chờ chết. Không ngờ ngay lúc đó chỉ nghe tên vệ sĩ kêu thảm một tiếng, tôi mở mắt ra nhìn thì thấy Quế Thiên Lan đã một tay nhấc bổng tên vệ sĩ lên. Y cũng thật ghê gớm, y đột nhiên ngửa người ra sau, trở tay đâm vào eo Quế Thiên Lan một nhát, Quế Thiên Lan gầm lớn đưa tay còn lại ra, lập tức xé tên vệ sĩ này thành hai mảnh, máu chảy lênh láng trông thật đáng sợ. Tôi hoảng đến nỗi toàn thân mềm nhũn, Quế Thiên Lan ném hai mảnh xác người xuống, đỡ tôi dậy rồi chỉ về phía Phó bá bá tựa như muốn tôi đến giúp. Tôi thấy ông ta máu chảy ra như suối, áo quần toàn thân đều nhuộm đỏ. Tôi vội vàng xé khăn bó lại cho ông ta. Ông ta ngồi dưới đất chẳng nói lời nào nữa nhưng vẫn chỉ về phía Phó bá bá, tựa như rất tức giận!”.
                        Mạo Hoàn Liên nói đến đây thì nàng thở phào, Lăng Vị Phong khen rằng: “Hay cho Đại Lực Ưng Trảo thần công!” kẻ địch chỉ hơi phân tâm mà đã bị ông ta thừa cơ tấn công, đáng tiếc ông ta đã bị trọng thương, xoay chuyển không lanh lẹ, sau khi đắc thủ mà vẫn bị kẻ địch ám toán”.
                        Phó Thanh Chủ nói tiếp: “Tôi đã đánh nhau với hai tên vệ sĩ rất vất vả, chợt nghe Hoàn Liên kêu lớn: “Chúng tôi đã đánh chết được một tên”. Nó cũng thật lanh lẹ, từ xa đã ném Thiết Liên tử tới. Nó biết tôi có công phu Song tụ tiếp ám khí, không sợ đánh nhầm, hai tên vệ sĩ phải tránh đông né tây, tuy bọn chúng chẳng bị thương nhưng cũng đã phân tâm. Hai tên này quay nhìn lại, có lẽ đã phát giác không còn đồng bọn nữa nên kêu hoảng: “Rút lui!” tôi thừa thế nhảy bổ tới, dùng tuyệt chiêu Triển Dực Lăng Vân trong Vô Cực kiếm, kết liễu cả hai! Thật không ngờ hai kẻ cường địch lại bị tôi dễ dàng trừ khử như thế!”.
                        Phó Thanh Chủ ngừng lại nhắp ngụm trà, gõ ống tay lên mặt bàn đá kêu lên cạch cạch, rầu rĩ nói: “Kẻ địch đã bị đánh chết nhưng Quế Thiên Lan cũng thoi thóp thở. Tôi vội vàng chạy đến, chỉ thấy ông ta toàn thân đầy máu. Tôi dùng thuốc kim sang rịt lại rồi rửa sạch vết thương cho ông ta. Chỉ thấy áo trước ngực đã rách, trên ngực có một dấu giày, chắc là đã bị ông già mặt đỏ đá trúng, cú đá của ông già mặt đỏ cũng rất hiểm hóc, nhưng Quế Thiên Lan có thể cầm cự đến lúc này, vả lại đã trọng thương mà vẫn có thể đánh chết kẻ địch, quả thực công lực rất thâm hậu! Ngoài trừ vết thương ở ngực, bụng dưới của ông ta cũng bị cắm một mũi tụ tiễn, cả ruột cũng lòi ra. Ngoài ra ở be sườn còn bị võ sĩ áo đen điểm trúng huyệt Khí Du. Tôi nhìn là biết ông ta đã cố vận công bế huyệt. Tôi vội vàng giải khai cho ông ta, chỉ là thời gian đã quá lâu, giải được huyệt đạo ông ta cũng chỉ có thể rùng mình, chẳng nói ra lời nào. Tôi đưa ông ta vào nhà, nhìn kỹ lại, tuy y thuật của tôi không phải tầm thường, nhưng không thể nào cải tử hồi sinh. Ông ta bị thương nặng như thế, khí lực và tinh thần đã chẳng còn, tôi làm sao có thể cứu được. Tôi thấy ông ta ứa nước mắt, cố gắng vạch ngón tay xuống đất viết một dòng chữ: ‘Xin hãy đến Ngũ Long bang ở miền đông Vân Nam, có một...’ lúc mới viết thì bụi bay lên, mỗi chữ đều ăn sâu vào đất mấy phân, sau đó càng viết càng chậm, chữ chỉ hiện lờ mờ dưới đất, chưa viết xong thì ông ta đã đứt hơi!”.
                        Phó Thanh Chủ kề xong thì ai nấy đều trầm ngâm. Một lúc lâu sau Lăng Vị Phong ngẩng đầu hỏi: “Còn thiếu niên áo vàng này thì sao? Y có liên quan gì đến Quế Thiên Lan?”.
                        Phó Thanh Chủ nói: “Tôi cũng không biết! Lúc đó tôi chẳng hề biết tên của Quế Thiên Lan, ông ta lại viết chẳng đầu chẳng đuôi, song tôi nghĩ đây là một hiệp ẩn võ lâm, chắc chuyện đêm nay có liên quan đến Ngũ Long bang. Nếu tôi không giúp được ông ta, ông ta chắc chắn chết cũng chẳng nhắm mắt”. Rồi ông ta lại kể câu chuyện kinh tâm động phách thứ hai.
                        Sau khi Quế Thiên Lan chết được một ngày, Phó Thanh Chủ vượt qua Kiếm Các đi thẳng về phía nam, ven đường thì thấy binh mã chạy đến, ông ta đoán rằng tuần phủ Tứ Xuyên La Sâm chắc chắn đã liên lạc với Ngô Tam Quế, bởi vậy mới điều binh chuyển tướng chuẩn bị ứng biến. Ông ta tìm đến phân đà của Thiên Địa hội ở Tứ Xuyên, kể cho bọn họ biết chuyện Ngô Tam Quế mưu đồ phản Thanh, bảo họ chuẩn bị ứng biến, xong xuôi mọi việc thì Vân Nam. Đi được hơn mười hai ngày thì đến miền đông, vừa đi vừa dò hỏi nhưng vẫn không tìm ra Ngũ Long bang. Thậm chí chẳng ai biết Ngũ Long bang là bang hội như thế nào. Một ngày nọ đến Triêm Ích, ông ta đột nhiên phát hiện hơn mười đại hán bước vào một tửu lầu. Bọn họ ai nấy bước chân vững chắc, vừa nhìn thì đã biết là nhân vật giang hồ. Phó Thanh Chủ thấy tò mò cũng cùng Mạo Hoàn Liên bước vào. Vừa vào tửu lầu, chỉ thấy có một người nằm dưới đất, mặt vàng như nghệ, các đại hán vây quanh, có người thôi cung quá huyệt cho y, nhưng người đó vẫn nằm im lìm, chẳng hề nhúc nhích.
                        Phó Thanh Chủ vốn cải trang thành một lang trung trong giang hồ, trên lưng có đeo túi thuốc. Ông ta bước tới nhìn. Có một hán tử hỏi: “Ngươi nhìn cái gì? Ngươi chẳng thể nào trị nổi vết thương cho y!” Phó Thanh Chủ vừa nhìn thì biết người này đã bị Thiết Sa chưởng đánh trúng huyệt đạo, đúng là lang trung bình thường không thể chữa trị, mỉm cười nói: “Ta còn có thể chưa trị được, y bị thương chưa quá hai mươi bốn canh giờ!” ông ta vừa nói ra, bọn hán tử xung quanh đều thất kinh, vội vàng cung kính nhờ ông ta chữa trị. Ông ta xoa bóp cho hán tử ấy, chỉ trong chốc lát đã giải huyệt đạo cho y, một hồi sau hán tử ấy phun ra một ngụm máu bầm rồi mắng rằng: “Ta phải san bằng sơn trại Ngũ Long bang của các ngươi!” Phó Thanh Chủ nghe thế thì bất giác cả mừng, đúng là đi rách gót giày chẳng tìm được, nhặt được lại chẳng hề mất công phu. Hán tử ấy vừa tỉnh dậy, thấy các huynh đệ vây quanh mình, lại có một ông già lạ mặt xoa bóp cho mình thì rất ngạc nhiên, Phó Thanh Chủ cười nói: “Không sao, nghỉ ngơi hai ngày sẽ đi lại như thường”. Bọn họ thấy ông ta tinh thông y thuật thì vừa ngạc nhiên vừa khâm phục. Một hán tử có tuổi người bé loắt choắt, tựa như là kẻ đứng đầu bọn này, bước tới nói: “Đa tạ tiên sinh đã cứu huynh đệ của tôi! Xin hỏi tôn tính đại danh?” rồi lấy ra một nén bạc đưa cho ông ta nói: “Một chút này vẫn chưa đủ báo đáp, chỉ mong tỏ chút kính ý”. Phó Thanh Chủ mỉm cười, nói: “Ta sẽ lấy thù lao, nhưng không phải là bạc!” hán tử ngạc nhiên hỏi: “Ông muốn gì?” Phó Thanh Chủ nói: “Thứ tôi muốn là Ngũ Long bang. Hãy nói cho tôi biết Ngũ Long bang ở đâu, các người có xích mích gì với họ?”.
                        Ông ta vừa nói ra bọn đại hán đều nhao nhao lên hỏi: “Ông hỏi thế làm gì?” “Ông có liên quan gì với Ngũ Long bang?” “Ông là ai?”... Đại hán lúc nãy chưng hửng, rồi nói: “Ông đã cứu huynh đệ của chúng tôi, chúng tôi đương nhiên cho ông biết. Nhưng chuyện này quan hệ quá lớn, tôi phải biết lai lịch của ông”. Phó Thanh Chủ cười nói: “Tôi họ Phó, tiện danh là Thanh Chủ, cũng có chút xích mích với Ngũ Long bang”. Đại hán kêu ối chà một tiếng, vội vàng quỳ xuống nói: “Sao ông không nói sớm, té ra là rồng đến nhà tôm, đều là người một nhà cả”. Rồi nói với mọi người: “Phó tiên sinh là người mầu mục chúng ta thường hay nhắc đến, ông ta là võ lâm tiền bối, lại là thần y hiện nay. Đầu mục chúng tôi đã nhiều lần định sai người đến thăm hỏi ông, có điều chúng tôi ở nơi biên thùy, còn ông thì ở tít tận Giang Nam, sơn núi cách trở, chẳng được như ý muốn. Hôm nay may mắn mới được gặp”.
                        Hán tử đứng đầu tự báo họ tên, y tên là Trương Thanh Nguyên, là một tướng lĩnh dưới trướng Lý Lai Hanh. Y sợ Phó Thanh Chủ không hiểu mới nói rằng: “Đầu mục của chúng tôi là con nuôi của Lý Cẩm, thuộc hàng cháu của Lý Sấm vương”. Phó Thanh Chủ nghe bọn họ tự xưng là thuộc hạ của Lý Lai Hanh thì nói: “Từ lâu tôi đã muốn đến gặp đầu lĩnh của các người”. Thế rồi Trương Thanh Nguyên nói ra lý do tại sao họ xích mích với Ngũ Long bang. Té ra khi Lý Tư Vĩnh một mình đến Côn Minh gặp Ngô Tam Quế đã sắp xếp trước. Từng tốp người chia nhau trà trộn vào Côn Minh để tiếp ứng. Họ chính là tốp đi đến phía nam Vân Nam, có cả thảy mười tám người do Trương Thanh Nguyên cầm đầu. Không ngờ đến nơi này, không biết thế nào mà Ngũ Long bang nghe việc tin phong thanh, xuất hiện ngăn cản, đả thương phó tướng của Trương Thanh Nguyên, lại bắt sống hai huynh đệ của họ.
                        Trương Thanh Nguyên nói: “Ngũ Long bang vốn chỉ là một bang hội nhỏ bé, lại không có chỗ đứng chân cố định. Thực ra chỉ là một đám cướp. Mấy năm gần mới nấp trong núi Lục Chương ở Triêm Ích, chúng tôi đã từng phái người chiêu dụ bọn chúng, bọn chúng không chịu, chúng tôi cũng không ép. Không ngờ lần này bọn chúng lại lớn gan dám bắt cóc huynh đệ của chúng tôi, sau này chúng tôi cũng bắt được một người của bọn chúng, tra hỏi khẩu cung thì mới biết một tháng nay Ngũ Long bang đã bị Ngô Tam Quế mua chuộc, có điều vẫn chưa chính thức thay đổi mà thôi”.
                        Phó Thanh Chủ hỏi: “Đầu lĩnh của Ngũ Long bang là ai? Có bao nhiêu người?” Trương Thanh Nguyên nói: “Đầu lĩnh của Ngũ Long bang cũng có chút bản lĩnh. Bọn chúng là năm đồ đệ của lão võ sư Cáp Trung Long ở miền Điện Nam. Nghe nói Cáp Trung Long có năm loại tuyệt kỹ, mỗi người được học một món”.
                        Phó Thanh Chủ ngạc nhiên hỏi: “Năm loại tuyệt kỹ?” Trương Thanh Nguyên nói: “Cáp Trung Long nổi tiếng nhờ Thiết Sa chưởng, ngoại trừ Thiết Sa chưởng ông ta còn có một môn võ công tự sang tạo tên gọi Địa Đường Thoái. Đây vốn là loại công phu Cổn địa đường, lâu nay tý quyền làm chủ, nên chỉ có địa đường quyền chứ không có địa đường thoái, nhưng Cáp Trung Long lấy chân làm chủ, có thể nói đã sáng tạo ra một con đường khác, ngoài ra sở dưới về binh khí của ông ta là tam thiết côn, ám khí tật lê và Ngũ hành quyền bởi vậy mới gọi là Cáp môn ngũ tuyệt!” Phó Thanh Chủ mỉm cười nói: “Trong năm loại công phu này, điền đàn thoái tương đối mới mẻ, còn những môn khác rất bình thường, sao có thể gọi là ngũ tuyệt?”.
                        Trương Thanh Nguyên nói: “Trước đây các bậc võ sư thích phô trương. Một mình ông ta có thể biết được vài loại võ công coi như đã hiếm thấy”. Trương Thanh Nguyên ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Năm đệ tử của Cáp Trung Long tên là Trương Nhất Hổ, Lý Nhị Báo, Triệu Tam Kỳ, Tiền Tứ Kỳ và Đường Ngũ Hùng. Mỗi tên học được một môn công phu nên đặt tên là Ngũ Long bang, số người trong bang không nhiều, chỉ có khoảng bốn năm trăm người”.
                        Phó Thanh Chủ nhìn sắc trời, hỏi đường lên núi Lục Chương, đứng dậy nói: “Trời đã sắp tới, đêm nay chúng ta sẽ đi thăm dò, ngày mai mới chính thức lên núi đấu vời Ngũ Long bang một trận”. Trước khi đi còn để lại một ít thuốc, nói: “Uống thuốc này, ngày mai ngươi có thể cùng bọn là lên đấu Ngũ long”.
                        Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên đều có khinh công tuyệt đỉnh, trước kia lên núi Ngũ Đài giữa thiên quân vạn mã mà vẫn như không, huống chi là một sơn trại nhỏ bé. Đến canh ba, họ đã lên đại trại của núi Lục Chương. Nói là đại trại nhưng thực ra rất thô sơ, những căn phòng được kết bằng cỏ tranh và gỗ ván, được dựng theo thế núi, vừa không chỉnh tề vừa chẳng liền nhau, ở giữ có một ngôi nhà gạch, có lẽ là nghị sự sảnh của đại trại. Hai người Liên, Mạo nhân đêm tối trời, triển khai thân pháp lướt qua mái nhà, xông thảng vào canh nhà bằng gạch. Bên trong có hai tên lâu la canh gác, đã bị bọn họ dùng thủ pháp chớp nhoáng điểm huyệt chẳng thể động đậy nổi. Bọn họ ghe đầu nhìn xuống, chỉ thấy bên trong còn có năm người đang ngồi, đây chắc là Ngũ long. Một người nói: “Nếu bắt được người của Lý tặc phái đi, đem cho Bình Tây vương sẽ lập được công lớn”. Người kia nói: “Nghe nói Bình Tây vương sắp hợp tác với Lý Lai Hanh”. Người lúc nãy lại nói: “Đó chẳng qua chỉ là lời đồn, Bình Tây vương lúc nào cũng cẩn thạ? với bọn chúng, dù có hợp tác cũng chẳng xong”. Một người nói: “Dưới trướng Lý Lai Hanh lính đông tướng nhiều, chúng ta phải chuẩn bị trước”. Mộn người lớn tuổi nhất lên tiếng: “Bọn chúng ở miền biên thùy, ngày mai chúng ta nhổ trại đến phủ Côn Minh, bọn chúng chẳng theo kịp”. Một người lại nói: “Chỉ lo là bọn chúng đột nhiên sai cao thủ đến đột kích”. Người lớn tuổi nói: “Dù sao thời gian cũng ngắn ngủi, bọn chúng chẳng thể nào mời được cao thủ. Vả lại chúng ta cũng có một cao thủ công phu tuyệt đỉnh, còn sợ gì nữa?” người kia hỏi: “Ngươi chăm sóc tên tiểu tử này. Ta chỉ cần nói ai là kẻ xấu, bảo y đi giết, y chẳng chần chừ”. Phó Thanh Chủ nghe thế thì kinh ngạc, sao lại có một cao thủ công phu tuyệt đỉnh nghe lời người khác như một đứa trẻ như thế?” Ông ta đang thắc mắt thì Mạo Hoàn Liên hơi nhúc nhích người, đột nhiên bên dưới có người quát: “Bằng hữu phương nào đang ở bên trên, nửa đêm đến đây có gì chỉ giáo?”.
                        Người ấy vừa lên tiếng, Phó Thanh Chủ đã bấm Mạo Hoàn Liên khẽ nói: “Con đi đến phía đông phóng hỏa”.
                        Mạo Hoàn Liên thi triển khinh công lướt qua mấy gian nhà. Phó Thanh Chủ phóng người xuống cười ha hả: “Ta chỉ là một kẻ qua đường, đến đây thăm bằng hữu!” lão đại Trương Nhất Hổ quát lớn: “Con bà nó, thăm bằng hữu sao lại đến đại trại của bọn ta, ngươi tưởng rằng Ngũ Long bang dễ bức hiếp lắm đấy hử?” năm người cùng phóng ra, Trương Nhất Hổ quát: “Đánh!” rồi hai tay vung lên, bốn trái độc tật lê bắn về phía hai bên Phó Thanh Chủ. Phó Thanh Chủ lại cười ha hả, phất ống tay áo cuộn bốn trái độc tật lê, Đường Ngũ Hùng không nhìn thấy rõ Phó Thanh Chủ đã cuộn ám khí của y như thế nào, y thất tật lê bay tới mà chẳng hề phát ra tiếng thì rất kinh hãi. Y nghĩ dù kẻ địch biết tiếp ám khí cũng không thể nào trong một lúc lại tiếp bốn trái tật lê, huống chi tật lê có độc, vốn chẳng thể nào chụp được, điều này hơi quái dị. Y không kìm được kêu lên: “Ngươi thật gan dạ!” Phó Thanh Chủ điểm mũi chân xuống đất, dùng thế Kim kê độc lập ngạo mạn nói: “Vậy thì thế nào?” Lý Nhị Báo cả giận, vung cây roi tam tiết phóng lên mái nhà đánh vù một tiếng quét vào hạ bàn của Phó Thanh Chủ. Phó Thanh Chủ biết tam tiết côn hễ gặp binh khí chặn lại thì đốt thứ nhất sẽ buông xuống đánh sang hướng khác. Ông ta không rút kiếm, Lý Nhị Báo đánh tới, ông ta rút hai tay vào ống, phất lên cuộn cây gậy quát lớn: “Xuống!” rồi chân trái đạp một cái, Lý Nhị Báo chổng cẳng lên trời, hầu như chẳng bò dậy nổi. Phó Thanh Chủ đang cười ha hả chợt một bóng đen phóng tới, vung chưởng đánh xuống mặt. Người ấy chính là lão đại Trương Nhất Hổ.
                        Trương Nhất Hổ học được công phu Thiết Sa chưởng của Cáp Trung Long, một chưởng có thể đâm thủng bụng trâu. Phó Thanh Chủ rút giò ra sau nửa bước, giơ chưởng lên đỡ, Trương Nhất Hổ đánh tới một chưởng, chỉ cảm thấy như vỗ trúng một khối bông, chẳng hề có lực, Phó Thanh Chủ nhẹ nhàng dùng tự quyết chữ “nả” thi triển công phu Cầm Nã thủ, ba ngón chụp vào Mạch Môn của y, ông ta vận chưởng phất một cái, lại đánh y ngã xuống đất.
                        Trương Tứ Kỳ thấy thế thì nổi giận xông lên, Ngũ hành quyền đánh ra như gió, trong chốc lát đã đánh ra đến bảy tám quyền, Phó Thanh Chủ thầm nhủ: “Tên tiểu tử này quả nhiên giỏi hơn tên lúc nãy”. Ngũ hành quyền hoàn toàn sử dụng thế công, Phó Thanh Chủ lại thối lui một bước, dùng Vô cực quyền hóa giải. Vô cực quyền chủ yếu lấy nhu khắc cương, không đầy mười chiêu thì thế công của Tiền Tứ Kỳ đã hoàn toàn bị chặn lại.
                        Lúc này bọn lâu la trong sơn trại đã chạy tới nhưng Mạo Hoàn Liên cũng đã phóng hỏa. Mùa thu tiết trời hanh khô, gió núi lại mạnh, chỉ trong khoảnh khắc một dãy nhà đã chìm trong biển lửa. Bọn lâu la vội vàng chia nhau cứu hỏa, trong chốc lát cả sơn trại lộn xộn chẳng còn thể thống gì nữa. Phó Thanh Chủ thấy thế thì quát: “Ngũ long chẳng qua là thế, lãnh giáo! Lãnh giáo!” rồi ông ta phóng người lên, lúc này Mạo Hoàn Liên cũng đã hiện thân ở trước nhà. Hai người cùng nhảy vọt ra khỏi đại trại. Bọn chúng cố bắn tên theo nhưng đều bị Phó Thanh Chủ phất ống tay áo gạt rơi hết cả.
                        Phó Thanh Chủ lui khỏi đại trại, đi xuống sơn cốc, trên đường cứ cười bọn Ngũ long chỉ có hư danh, chợt ở khe núi có tiếng cười quái dị, dưới ánh sao trời chỉ thấy một người đang đi xăm xăm về phía mình!
                        Phó Thanh Chủ quát lớn hỏi: “Ai?” người ấy hai tay che mặt tựa như bị mộng dụ, chẳng hề hay biết gì cả. Phó Thanh Chủ đợi y đến gần đột nhiên quát hỏi: “Ngươi là ai? Ngươi có điếc không?” người ấy buông tay, hoang mang hỏi lại: “Ngươi là ai? Sao ngươi lại hung hăng như thế?” Phó Thanh Chủ đột nhiên dùng thủ pháp cầm nả, tay trái đưa lên, ngán vào be sườn của y, tay phải luồn qua bóp vào cổ tay của y vặn ra sau, người ấy trầm tay trái xuống, tay phải thúc ra sau, lập tức hóa giải được đòn đánh ấy. Phó Thanh Chủ lật chưởng, đổi thành Bạt Vân Kiến Nhật, thừa thế đánh tới, người ấy giở chưởng chặn lại hai chưởng chạm nhau. Phó Thanh Chủ kêu lên: “Công phu giỏi!” rồi thối lui đến bảy tám bước. Người ấy cũng bị chưởng lực của Phó Thanh Chủ đánh loạng choạng, lướt ra đến mấy trượng rồi mới ngừng lại.
                        Phó Thanh Chủ đã thấy người này là một thiếu niên anh tuấn, mặc bộ áo vàng trông rất tiêu sái, chỉ là dưới ánh sao mặt y trông tái nhợt, nhãn thần tán loạn. Ông ta định hỏi tiếp thì thiếu niên áo vàng đã nổi giận nói: “Ngươi có phải là người xấu không? Sao vừa gặp đã đánh người ta?” Phó Thanh Chủ tiến tới hai bước, nhẹ giọng nói: “Bọn chúng tôi không phải người xấu, chỉ là thấy tiểu huynh đệ đi tới tưởng tiểu huynh đệ là Ngũ Long bang. Tiểu huynh đệ có phải là người của Ngũ Long bang không?” Thiếu niên hỏi: “Ngũ Long bang là ai?” Phó Thanh Chủ chỉ tay: “Chính là người trong sơn trại kia”. Thiếu niên nói: “Sơn trại kia đấy à? À, ta đã hiểu, ta sống ở nơi đó. Chả lẽ người ở nơi đó là kẻ xấu?” Phó Thanh Chủ nói: “Đương nhiên là kẻ xấu!” thiếu niên lắc đầu nói: “Tôi không tin”. Phó Thanh Chủ nói: “Tiểu huynh đệ có biết thế nào gọi là người xấu không?” thiếu niên nói: “Không rõ lắm, hễ ai đánh người khác chính là kẻ xấu”. Phó Thanh Chủ cười nói: “Không đúng, chẳng hạn như tiểu huynh đệ biết một người là kẻ ác, tiểu huynh đệ sẽ đánh hắn trước chứ?” thiếu niên gật đầu nói: “Đúng thế!” Phó Thanh Chủ lại nói: “Vậy thì đúng, người trong sơn trại này cấu kết với triều đình nhà Thanh, tiểu huynh đệ có biết triều đình nhà Thanh là gì không? Triều đình nhà Thanh là triều đình của bọn Thát Tử Mãn Châu chuyên bức hiếp người Hán chúng ta”. Thiếu niên áo vàng suy nghĩ một hồi rồi nói: “Thát Tử triều đình nhà Thanh? Ồ, hình như nhiều năm trước có người nhắc với tôi điều này. Đúng thế! Bọn Thát Tử là người xấu?”.
                        Lúc này Mạo Hoàn Liên mới bước tới, khẽ nói: “Giờ thì người có thể cho chúng tôi biết người là ai không?” thiếu niên áo vàng nói: “Tôi là ai? Không ai nói cho tôi biết cả, tôi làm sao biết?” lời lẽ nghe khổ não dị thường. Mạo Hoàn Liên nói: “Cha mẹ của người đâu?” thiếu niên vừa nghe thế đột nhiên toàn thân run bần bật, sắc mặt tái nhợt, đột nhiên nước mắt tuôn trào, Mạo Hoàn Liên thấy chàng ta trông giống như một đứa trẻ, bất giác đưa tay vuốt tóc chàng nhưng chợt nhớ chàng là một thiếu niên anh tuấn, nàng e thẹn rụt tay lại nói: “Có phải tôi đã làm người phiền lòng không? Người đừng trách” thiếu niên ngừng khóc ngẩng đầu nhìn khuôn mặt dịu dàng của Mạo Hoàn Liên, chợt nói: “Cô nương rất tốt, hình như tôi có một người thân cũng giống như cô nương”.
                        Khi họ đang nói chuyện thì trên núi đi xuống, bọn chúng giơ đuốc kêu lớn: “Bé áo vàng, bé áo vàng, ngươi đang ở đâu?” chàng thiếu niên trả lời một tiếng rồi nói với Phó Thanh Chủ: “Họ đang gọi tôi”.
                        Mạo Hoàn Liên ứa nước mắt, khẽ nói: “Người hãy đi theo chúng tôi!” thiếu niên áo vàng nghe nàng nói với giọng đầy vẻ quan tâm thì trong lòng thấy rất ấm áp, ngẩn người ra nhìn Mạo Hoàn Liên mà nước ắt tuôn rơi, nghĩ một hồi thì chàng dời bước, thế nhưng đột nhiên ngừng lại nói: “Không được, chừng nào tôi biết người trong sơn trại đúng là người xấu thì tôi mới đi”. Thiếu niên áo vàng giơ tay tạm biệt, xoay người đi rồi bước lên núi. Phó Thanh Chủ khen: “Thiếu niên này quả nhiên võ công thật giỏi, chỉ tiếc đã mắc tâm bệnh!” Mạo Hoàn Liên nói: “Bệnh này cũng thật là lạ, cả bản thân mình cũng quên đi! Bá bá, sao người lại để y trở về?” Phó Thanh Chủ nói: “Người này có lẽ đã gặp biến cố rất nặng nề, họ đã làm một chuyện sai không thể cứu vãn nổi nên đã bị một sức mạnh tinh thần tiềm tàng chèn ép cả ký ức. Giả sử không tìm ra nguyên nhân thì rất khó trị căn bệnh này. Y chỉ quên đi quá khứ chứ không quên hiện tại. Những điều con nói, y vẫn có thể nhớ lại. Chúng ta không nên ép buộc y, cứ để cho y làm theo ý mình”.
                        Quả nhiên đúng theo lời Phó Thanh Chủ, thiếu niên áo vàng đang mải mê suy nghĩ. Chàng ta nhớ lại thời gian ba năm mà chàng ở trong sơn trại này, nhưng chàng không thể nhớ chuyện xa hơn nữa. Chàng nhớ mình hình như nằm vùi mình trong tuyết trắng vào một ngày mùa đông, đang mơ màng thì được một đám người phát hiện. Lúc đó có hai người cầm đao định giết chàng, chàng không thể động đậy, chỉ bất giác đánh vào huyệt đạo của hai người ấy. Sau đó có một người tên Trương Nhất Hổ bảo mọi người dừng tay, đưa thức ăn cho chàng ăn, thế rồi bảo chàng đi theo họ. Nhưng chàng lại không nhớ tại sao lại nằm phơi mình trên tuyết, chàng chỉ nhớ rằng hình như mình đã giết một người rất thân thiết với mình, còn người đó là ai thì không nhớ nổi. Mỗi khi nhớ đến chuyện này thì chàng thấy rất bất an, đau khổ bởi vậy không thể nào nhớ được nữa.
                        Chàng nhớ rằng mình đã đi theo đám người này, lúc đầu bị bọn chúng tra hỏi lai lịch, bọn chúng hỏi không ra, toan dọa chàng chàng cũng chẳng màng. Lúc đầu bọn người ấy rất thất vọng, sau đó lại vui mừng, đến đâu cũng sắp xếp cho mình ở một căn phòng, lại có người đi cùng, bảo mình không được đi lung tung, hễ gặp phải người có võ công cao cường chống đối với bọn chúng, khi bọn chúng đánh không lại thì bảo mình ra tay giúp đỡ. Nhưng mình vốn không muốn giết người, cũng chưa bao giờ từng giúp chúng giết người, chỉ đuổi kẻ địch bỏ chạy mà thôi.
                        Chàng nhớ gần đây bọn người ấy thường nói đến những lời như “triều đình nhà Thanh” và “chiêu an”, hễ chàng bước ra thì bọn chúng không nói nữa. Chàng cũng không hiểu triều đình nhà Thanh hay chiêu an là gì. Đêm nay được ông già và nàng thiếu nữ nhắc nhở, chàng mới nhớ lại rằng rất lâu trước đây hình như có người thường căn dặn mình rằng phải lật đổ triều đình nhà Thanh, đuổi bọn Thát Tử đi. Hình như người ấy cũng là người rất thân thiết với mình. Chàng nghĩ ngợi, chắc triều đình nhà Thanh là một thứ gì đó rất xấu xa, còn chiêu an là gì chàng không hiểu. Nhưng chắc cũng chẳng phải thứ tốt lành gì.
                        Chàng thiếu niên áo vàng ngẫm nghĩ cho đến khi trời sáng.
                        Lại nói hai người Phó, Mạo đêm khuya trở về tửu quán, chỉ thấy bên trong có rất đông người, có người không có chỗ đứng phải ngồi bên ngoài.
                        Trương Thanh Nguyên thấy Phó Thanh Chủ thì cũng hơi ngạc nhiên, nói: “Có nhiều huynh đệ đến đây, đều là người của chúng tôi cả”. Phó Thanh Chủ nghĩ thầm: “Triêm Ích là nơi hoang vắng, trong thời gian ngắn mà bọn họ có thể tìm được nhiều người thì thật hiếm có”.
                        Thế rồi Phó Thanh Chủ kể lại mọi chuyện đêm qua, mọi người lại lập tức lên đường. Đến trưa thì tới nơi. Chỉ thấy trên núi Lục Chương cổng trại mở lớn, Ngũ long đã dắt bọn lâu la ra nghênh đón. Phó Thanh Chủ cùng Trương Thanh Nguyên sánh vai bước lên, Trương Thanh Nguyên bày ra lá cờ lớn có chữ Sấm, quát lớn rằng: “Bọn ta và Ngũ Long bang các người xưa nay chẳng có oán thù gì. Sao các người lại bắt giữ huynh đệ của bọn ta? Nếu hôm nay bọn ngươi thả người thì mọi chuyện sẽ chấm dứt. Bằng không đại quân đến đây thì cái sơn trại bé nhỏ của ngươi sẽ bị san bằng”.
                        Trương Nhất Hổ thấy Phó Thanh Chủ cũng đến, thì biến sắc, nghe Trương Thanh Nguyên nói như thế, y tròn mắt quát rằng: “Ai mà không biết các ngươi là di nghiệt của Sấm tặc. Các ngươi dọa được người khác chứ chẳng dọa nổi ta!” nói xong thì trừng mắt nhìn Phó Thanh Chủ, gằng giọng nói: “Tên lão tặc nhà ngươi hiếp người quá thể!” rồi y phẫy tay, Đường Ngũ Hùng vung ra ba trái độc tật lê, hai trái bắn về phía Phó Thanh Chủ, một trái bay về phía Trương Thanh Nguyên. Phó Thanh Chủ phóng vọt lên, mở rộng ống tay áo đánh rơi trái độc tật lê bây về phía Trương Thanh Nguyên rồi xoay người lại vỗ ra hai chưởng, đánh rơi hai trái độc tật lê bay về phía mình. Lý Nhị Hổ quát lớn, vung cây gậy tam tiết đánh rơi trái độc tật lê. Phó Thanh Chủ lướt bước lắc vai, xông vào giữa trận địch, hai ống tay áo phất lên liên hồi tựa như hai ngọn roi mềm, khiến bọn Ngũ long luống cuống tay chân.
                        Lúc này của Trương Thanh Nguyên cũng đã hỗn chiến với đám lâu la. Đám lâu la tuy người đông nhưng người của Trương Thanh Nguyên là những tráng sĩ tinh tuyển, càng đánh càng dũng, bọn Ngũ long xem ra đã sắp bại.
                        Lúc này ở nơi chân núi có tiếng tù và rúc lên, lại có một tốp nhân mã phóng tới. Ngũ long cũng không ngừng kêu: “Bé áo vàng! Bé áo vàng!” Trương Thanh Nguyên đang cầm đại đao xông thẳng vào trận địch trước cả sĩ tốt, chợt thấy một thiếu niên áo vàng buông tay ngẩng đầu bước tới trông giống như tản bộ sau bữa cơm, thần thái trầm tư tựa như đang suy nghĩ điều gì. Tiếng binh khí giao nhau loảng xoảng, tiếng trống trận thúc lên mà chàng ta chẳng hề để ý đến. Bọn Ngũ Long bang thấy chàng ta xuất hiện thì lập tức chia ra hai mặt. Trương Thanh Nguyên rất ngạc nhiên, chưa kịp suy nghĩ thì đã vung đao chém xuống đầu thiếu niên áo vàng, không ngờ chàng ta hơi lắc người, lại lướt tới, cũng không biết chàng ta đã dùng thủ pháp gì mà đã giật được cây đại đao của Trương Thanh Nguyên. Thiếu niên áo vàng ném đao xuống đất, kêu lên: “Ngươi không được hung hăng như thế!” rồi ngón tay bóp vào mạch môn của Trương Thanh Nguyên, tay trái nắm thành quyền toan đánh xuống. Trương Thanh Nguyên cũng là một dũng sĩ dưới tay Lý Lai Hanh, không ngờ chỉ trong chớp mắt đã bị thiếu niên áo vàng chế phục. Bọn người của Trương Thanh Nguyên cũng không khỏi kêu hoảng.
                        Chính là: Hai quân đang ác đấu, quái kiệt lộ thần công.
                        Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
                        #12
                          casau 01.11.2012 16:23:49 (permalink)
                          Hồi 9
                          Gốc gác ly kỳ nhẫn nại giả quái mộng
                          Truy tìm bí mật vô tình biết cao nhân


                          Trương Thanh Nguyên đang kinh hoảng, chợt nghe một giọng nói thiếu nữ trong trẻo vang lên: “Đừng đánh, y là người tốt!” thiếu niên áo vàng mỉm cười, hạ quyền xuống, nói: “Đắc tội!” rồi chàng màng đến Trương Thanh Nguyên đã bước lên, Trương Thanh Nguyên quay đầu nhìn lại thì thấy Mạo Hoàn Liên cầm kiếm đi tới. Y lấy làm lạ thở phào, tiện tay đánh ngã mấy tên lâu la, cướp được một cây trường thương rồi xông tới xem hai người họ đang xảy ra chuyện gì.
                          Đội nhân mã dưới chân núi khoảng bốn năm trăm người cũng đã xông lên, kẻ đi đầu cầm lá cờ có mấy chữ: “Đại Thanh Bình Tây vương”. Té ra một tên đại tướng của Ngô Tam Quế cầm đầu cánh quân này vốn đóng ở huyện thành Bá Ích, vâng lệnh Ngô Tam Quế theo vương phủ đến chiêu an Ngũ Long bang. Lúc này Ngô Tam Quế vẫn chưa chính thức phản Thanh nên trên lá cờ vẫn thêu hai chữ Đại Thanh. Mạo Hoàn Liên chỉ lá cờ nói: “Huynh có nhìn thấy trên lá cờ có chữ gì không? Tôi đâu có gạt huynh!” thiếu niên áo vàng nhìn rất rõ ràng. Lại thấy Ngũ Long bang đã chia người đến đón, kẻ ngồi trên ngựa lại cúi người vái chào, rồi chỉ huy quân Thanh bao vây bọn người Trương Thanh Nguyên. Thiếu niên áo vàng không khỏi cả giận, chỉ trong chớp mắt chàng ta đã xông về phía tên võ quan ấy.
                          Tên võ quan thấy Ngũ Long bang tản ra, một thiếu niên trừng mắt nắm quyền chạy xăm xăm về phía mình, bọn quân lính không cản chàng ta được thì lại nổi giận giật cương ngựa phóng tới, chàng thiếu niên phóng tới như bay, sau mấy cái trồi hụp thì đã chặn trước ngựa, chàng ta trừng mắt quát lớn tựa như sấm giữa mùa xuân. Con ngựa chổng ngược hai vó trước lên, tên võ quan vội vàng đè xuống đầu ngựa, dùng trường mâu đâm vào mông ngựa. Chàng thiếu niên không hề lùi bước, đã vung tay chụp lấy cây trường mâu quát: “Xuống!” rồi dùng lực kéo một cái, tên võ quan rơi xuống ngựa. Một viên phó tướng gần đó nhảy bổ tới. Thiếu niên áo vàng lại quát lớn: “Trở về!” rồi vung chưởng trái vỗ mạnh vào ngực của kẻ địch. Viên phó tướng bị đánh bay bổng lên không, cây đao trong tay rơi xuống. Thiếu niên áo vàng cướp được cây đao chém soạt một tiếng, cắt đứt đầu tên võ quan ấy. Bọn quân Thanh và đám lâu la đều hồn bay phách tán, chẳng ai dám gần, thiếu niên áo vàng tung hoành giữa chiến trường tựa như nơi không người.
                          Năm tên đầu lĩnh Ngũ Long bang lúc đầu nghe tiếng chàng ta thì mừng rỡ ra mặt, thầm nhủ: “Viện quân đã đến, thiếu niên áo vàng lại xuất hiện, kẻ địch dù có lợi hại hơn cũng chẳng sợ”. Một hồi sau Đường Ngũ Hùng thấy thiếu niên áo vàng giở cái đầu người lên chạy về thì cả mừng nói: “Bé áo vàng đã về!” Lý Nhị Hổ vội vàng kêu: “Bé áo vàng, ngươi đến đây, lão già phía trước mặt là người xấu!” thiếu niên áo vàng vung tay, một cái đầu người đầy máu me đã bay vào đánh bốp một tiếng lên mặt Lý Nhị Báo.
                          Thiếu niên áo vàng ném cái đầu người, ghìm lại quát: “Ngươi mới là người xấu!” Lý Nhị Báo bất ngờ bị người ta ném trúng đầu người thì côn pháp cũng rối loạn. Phó Thanh Chủ nhân thế tấn công tới, ông ta phất ống tay áo, cây côn tam tiết bị cuốn vù ra. Tiền Tứ Kỳ từ bên mặt đấm tới một quyền, Phó Thanh Chủ không thèm quay đầu, hai ống tay áo bạt ra sau, dùng tuyệt chiêu Phản Thủ Cầm Dương trong Lưu Vân Phi Tụ, chỉ nghe bốp một tiếng Tiền Tứ Kỳ đã bị ngã xuống đất, đồng thời ông ta cũng tung chân phải đá ra một cú khiến Tiền Nhị Báo bay ra đến hơn ba trượng, lập tức mất mạng.
                          Ngũ long đã mất hai người, trận thế rối loạn. Cả Ngũ long mà cũng chẳng địch nổi Phó Thanh Chủ huống chi là chỉ còn lại Tam long? Tiền Tứ Kỳ chống hai tay xuống đất, phát chiêu chỉ nhờ hai chân, thời gian kéo dài thì cũng cảm thấy mỏi, lúc này đang định xoay người thì bị Phó Thanh Chủ quét tới một đòn, quát: “Ngươi cũng nếm mùi vị Tiền Đề Đàn Thoái quét trúng!” Triệu Tam Kỳ hai chân chổng ngược lên trời, chưa kịp xoay người lại thì đã bị Phó Thanh Chủ quét gãy hai chân, lập tức lăn lộn ở dưới đất.
                          Đường Ngũ Hùng ném ra ba trái độc tật lê cuối cùng thì co giò bỏ chạy. Phó Thanh Chủ cuộn ống tay áo, để lộ cả hai tay. Ông ta đã luyện công phu Thiết Chỉ Thiền, không sợ độc tật lê, dù độc tật lê nổ cũng chẳng sao. Thế là chỉ một cú chộp đã trúng được hai trái tật lê, cười ha hả rằng: “Ngươi cũng tiếp thử xem sao?” rồi ông ta vung ra, hai trái thiết tật lê bay ngược trở lại. Trái thứ nhất chạm vào trái thứ ba của Đường Ngũ Hùng, cả hai đều rơi xuống, còn trái thứ hai thì bay thẳng vào phần thượng bàn của Đường Ngũ Hùng, Đường Ngũ Hùng tuy là tay giỏi sử dụng thiết tật lê nhưng cũng không né được ám khí của mình. Thế là vai bị thủng một lỗ lớn, y kêu thảm một tiếng ngã lăn xuống đất.
                          Trương Nhất Hổ thấy tình thế không xong, vội vàng bỏ chạy. Thiếu niên áo vàng lạnh lùng cản trước mặt y, khi Trương Nhất Hổ vội vàng kêu lên: “Ngươi hãy mau giúp ta, ta đã nuôi ngươi bao nhiêu năm”. Thiếu niên áo vàng hờ hững lắc đầu. Trương Nhất Hổ luồn qua bên trái, chân chưa chạm đất thì chàng thiếu niên áo vàng đã lắc người đứng trước mặt y. Trương Nhất Hổ lại luồn sang bên phải, chân chưa chạm đất thì lại bị thiếu niên áo vàng lạnh lùng chặn trước mặt. Trương Nhất Hổ hoảng lên, vội vàng vỗ ra hai chưởng, dốc đủ mười thành lực đạo đánh về phía thiếu niên áo vàng. Y đã luyện công phu Thiết Sa chưởng, cú đánh này mạnh đâu chỉ ngàn cân. Thiếu niên áo vàng giơ tay lên cản, nói: “Ngươi muốn đánh?” rồi chàng gồng tay lên, Trương Nhất Hổ tựa như đánh vào một khối sắt, thế là bị bật trở lại. Phó Thanh Chủ vừa chạy tới nơi, vung tay vào huyệt Nhuyễn Ma của y.
                          Lúc này trong Ngũ long đã có bốn chết một bị thương, chủ tướng của quân Thanh cũng bị thiếu niên áo vàng chém chết, bọn quân Thanh và lâu la bỏ chạy tán loạn, bọn Trương Thanh Nguyên cũng không thèm đuổi theo, chỉ trong khoảnh khắc bọn chúng đã chạy không còn một mống.
                          Lúc này thiếu niên áo vàng hai tay chắp sau lưng, chậm rãi cúi đầu bước đi, Mạo Hoàn Liên chạy theo sánh vai cùng chàng, khẽ nói nói chuyện với chàng tựa như an ủi chàng. Thiếu niên áo vàng ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn ra xa, trong mắt lệ chứa chan, chợt chàng ta bật cười ngờ nghệch, khẽ nói với Mạo Hoàn Liên: “Cô nương thật là tốt, tôi nghe lời cô nương!”.
                          Phó Thanh Chủ nhìn một hồi tựa như hiểu ra, không để ý đến họ nữa mà đưa mắt nhìn về phía Trương Nhất Hổ, nói: “Bây giờ ta hỏi ngươi, nếu ngươi trả lời thực ta có thể tha chết”. Trương Nhất Hổ cả mừng, nói: “Xin cứ hỏi”. Phó Thanh Chủ nói: “Trên tuyệt đỉnh ở sạn đạo Kiếm Các có một ông già gầy đen, ngươi có biết ông ta không?” Trương Nhất Hổ ngạc nhiên nói: “Tôi chưa bao giờ đến Kiếm Các!” Phó Thanh Chủ quát hỏi: “Ngươi có nói thực không?” Trương Nhất Hổ nói: “Tại sao tôi phải gạt ông?” Phó Thanh Chủ vỗ vào sau lưng y, dùng thuật Phân thân thác cốt khiến y kêu thảm lên. Thủ pháp Phân thân thác cốt này lợi hại hơn bất cứ hình phạt nào, người bị thi triển gân cốt toàn thân sẽ rã rời, đau đớn khó chịu. Trương Nhất Hổ la lên: “Ông bảo tôi nói gì? Tôi thật sự chẳng biết gì cả”. Phó Thanh Chủ thấy y chịu đau mà vẫn nói không biết, lại nghĩ với bản lĩnh của y quyết chẳng thể nào đến được nơi ông già ấy. Xem ra y thật sự không biết ông ta. Nhưng tại sao ông già trước khi chết lại nhắc đến Ngũ Long bang, bảo mình đến Ngũ Long bang tìm một người, người đó là ai? Chả lẽ là thiếu niên áo vàng. Y lại vỗ một chưởng lên người Trương Nhất Hổ, quát hỏi: “Thiếu niên áo vàng này từ đâu đến?” một chưởng ấy vỗ xuống, Trương Nhất Hổ lại phun ra một ngụm máu tươi, té ra y sợ bị hành hạ nên cắn lưỡi tự sát.
                          Bọn Trương Thanh Nguyên dồn cả lại, nói lời cảm tạ Phó Thanh Chủ. Hỏi: “Phó tiền bối có muốn chúng tôi cùng đến Côn Minh không”. Phó Thanh Chủ nghĩ bụng chẳng điều tra được gì ở Ngũ Long bang, đến Côn Minh cũng tiện đường hỏi thăm Lăng Vị Phong và Lưu Úc Phương, vả lại cũng có thể giúp Lý Lai Hanh, nên chấp nhận ngay.
                          Thế là Phó Thanh Chủ, Mạo Hoàn Liên và thiếu niên áo vàng cùng Trương Thanh Nguyên đến Côn Minh, vừa đến nơi đã lập tức kinh hãi vì một chuyện bất ngờ.
                          Bọn Trương Thanh Nguyên đến Côn Minh, tìm người của Lý Tư Vĩnh đã cài sẵn ở Côn Minh, nên mới biết sự việc có thay đổi.
                          Lý Tư Vĩnh đến Côn Minh, trong lúc du sơn ngoạn thủy đã ngầm liên lạc với họ. Từ ngày thứ tư trở đi thì mất hẳn tin tức. Mười ngày sau mới tìm hiểu được rằng Lý Tư Vĩnh và một nam tử mặt có vết đao đã bị nhốt trong vương phủ. Bọn Trương Thanh Nguyên lo như kiến bò chảo lửa, muốn đột kích vương phủ nhưng không đủ sức. Muốn kêu thêm viện binh nhưng núi non cách trở.
                          May mà trời không tuyệt đường người, mấy ngày sau người trong vương phủ lại báo ra rằng đứa cháu yêu của Ngô Tam Quế là Ngô Thế Ba bị mắc chứng bệnh lạ, toàn thân tê liệt không thể ngồi dậy được, đã mời nhiều danh y nhưng vẫn bó tay. Phó Thanh Chủ nghe thế thì mang túi thuốc đến Bình Tây vương phủ.
                          Bọn giữ cửa vương phủ không chịu cho ông ta vào, Phó Thanh Chủ đánh liều báo họ tên khiến y hoảng hồn. Tên tuổi của Phó Thanh Chủ nổi tiếng khắp cả nước, ai ai cũng biết, Ngô Tam Quế từ lâu đã nghe danh, có điều không biết ông ta là một danh y, đồng thời cũng là một hiệp ẩn trong chốn võ lâm. Thế rồi lập tức mời vào gặp đãi như thượng khách. Phó Thanh Chủ bảo rằng thích tham quan cảnh sông núi ở Côn Minh nên từ xa ngàn dặm đến đây, gặp lúc vương phủ cần danh y nên đến ứng thí.
                          Với tài chữa bệnh của Phó Thanh Chủ, đương nhiên thuốc đến thì bệnh hết, chỉ uống một lần thuốc thì Ngô Thế Ba đã có thể cử động, năm ngày sau đã đi lại như người thường. Ngô Tam Quế kính ông ta như người trời, mà Phó Thanh Chủ lại khéo lấy lòng, bởi vậy không lâu sau có thể tự do đi lại trong vương phủ. Lúc ấy Bảo Trụ bị Lăng Vị Phong kéo xuống thủy lao đã được nhiều ngày. Người canh giữ báo kẻ trong thủy lao hình như đã bị bệnh. Ngô Tam Quế muốn kết minh với Lý Tư Vĩnh, đương nhiên không muốn chàng chết, huống chi còn có ái tướng Bảo Trụ của mình trong số đó. Nếu mời danh y khác thì e rằng sẽ để lộ cơ mật, suy đi tính lại thì chỉ có Phó Thanh Chủ là hợp nhất.
                          Thế là Phó Thanh Chủ mượn danh hành y đã cứu được Lý Tư Vĩnh và bọn Lăng Vị Phong, gián điệp trong vương phủ đã hẹn với thiếu niên áo vàng và Mạo Hoàn Liên tiếp ứng, gây náo động Bình Tây vương phủ.
                          Lại nói tiếp chuyện ở đoạn trước, Phó Thanh Chủ và Mạo Hoàn Liên thay nhau kể chuyện, kể xong thì thiếu niên áo vàng vẫn chưa tỉnh ngủ. Lý Tư Vĩnh đáp tạ ơn cứu mạng của Phó Thanh Chủ, chỉ thiếu niên áo vàng nói: “Thân thế của người này chắc chắn có bí mật. Đáng tiếc y võ công cao cường mà mắc phải bệnh lạ. Nay đang lúc cần người, Phó lão tiền bối và Mạo cô nương phải cứu y mới được”. Phó Thanh Chủ cười nói: “Tôi cũng phải đa tạ Lý công tử, Lý công tử và Lăng đại hiệp đã chứng thực ông già trên đỉnh Kiếm Các là Quế Thiên Lan, chỉ cần biết ông già này họ Quế, tôi có cách trị cho thiếu niên áo vàng!” Lý Tư Vĩnh ngạc nhiên hỏi: “Có nghĩa là sao?” Mạo Hoàn Liên mỉm cười: “Người không thấy đêm qua y đi ngang qua cây hoa quế thì cảm thấy bất an sao? Sau đó ăn bánh hoa quế thì lại đột nhiên nổi giận, gạt bánh hoa quế xuống đất?”.
                          Phó Thanh Chủ vỗ tay cười: “Tiểu cô nương, con càng lúc càng giỏi. Ta đã sắp chẳng còn gì để mà dạy con!” nói xong đứng dậy, lấy một mảnh giấy khều vào mũi thiếu niên áo vàng.
                          Thiếu niên áo vàng thở phì một tiếng, cử động tay chân. Phó Thanh Chủ nhìn Mạo Hoàn Liên: “Chúng ta ra ngoài, giờ phải xem y thuật của tiểu cô nương!”.
                          Thiếu niên áo vàng cử động rồi đột nhiên nhảy bật dậy, kêu lên: “Cọp! Cọp!” Mạo Hoàn Liên nhẹ nhàng bước tới, mỉm cười nói: “Đừng sợ, tôi ở đây. Huynh gặp phải ác mộng gì thế?” Thiếu niên áo vàng khẽ vỗ đầu, mở mắt nhìn xung quanh, thấy hai thanh kiếm của mình rơi xuống đất thì ngạc nhiên hỏi: “Có phải tôi đánh nhau với ai đấy không? Tôi có giết người không?” Mạo Hoàn Liên lắc đầu, nói: “Không! Huynh từ trên lầu bước xuống rồi nằm ngủ ở đây”.
                          Thiếu niên áo vàng định thần, ngọn đèn trong phòng lập lòe, gió đêm bên ngoài thổi gấp, Mạo Hoàn Liên bước tới nhìn chàng. Chàng lại gãi đầu hỏi: “Đây có phải là mơ không?” Mạo Hoàn Liên cười rằng: “Đương nhiên không phải, không tin huynh cứ thử cắn đầu ngón tay xem”. Thiếu niên áo vàng nói: “Vậy cô nương đến đây làm gì?” Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi đến đây để nói cho huynh biết huynh là ai!”.
                          Thiếu niên áo vàng thất kinh, kêu lên: “Xin hãy nói!” Mạo Hoàn Liên nói: “Huynh hãy kể ác mộng của huynh cho tôi nghe rồi tôi sẽ nói!” thiếu niên áo vàng nghĩ ngợi một hồi rồi nói: “Được, tôi sẽ kể cho cô nương nghe”.
                          Chàng ta nói: “Tôi nằm chiêm bao thấy mình đang ở trên một hòn núi lớn, trên núi có một cây quế”. Nói đến cây quế sắc mặt chàng tái nhợt, chàng ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Dưới cây quế có hai con dê, một lớn một nhỏ. Đột nhiên trên không trung có một con cọp bay tới, con cọp này mọc cánh. Con cọp này rất thân thiện, đùa giỡn với hai con dê. Sau đó không biết thế nào mà con dê lớn đánh nhau với nó, con dê lớn dùng sừng húc con cọp thối lui, con cọp bay trở lại há mồm ra ngoạm con dê, trông thật đáng sợ. Tôi ném một hòn đá tới, đánh gãy cánh của con cọp, hai con dê kêu lên be be. Sau đó là một trận gió thổi qua, cây quế bị thổi gãy, cành quế đập vào sóng mũi của tôi, thế là tôi tỉnh dậy!”.
                          Mạo Hoàn Liên vừa nghe thì vừa suy nghĩ, nghe xong thì nàng kêu lên: “Nghe đây, bây giờ tôi có thể cho huynh biết. Có phải huynh nghi ngờ mình trước đây đã giết một người rất thân nhưng không nhớ người đó là ai?” Thiếu niên áo vàng run bần bật, khẽ gật đầu. Mạo Hoàn Liên nói: “Huynh không dám nhớ, bởi vì người đó là cha của huynh, huynh tưởng rằng mình đã giết cha”.
                          Thiếu niên áo vàng nghe xong thì biến sắc, vươn tay chụp xuống đầu Mạo Hoàn Liên, Mạo Hoàn Liên vẫn đứng yên, bình tĩnh nhìn chàng. Bàn tay của thiếu niên áo vàng đã chạm vào tóc của Mạo Hoàn Liên. Với công phu của chàng ta, chỉ cần bóp xuống thì Mạo Hoàn Liên cũng chẳng sống nổi.
                          Mạo Hoàn Liên mỉm cười, nhìn chàng đăm đăm, thiếu niên ấy hơi chậm tạy lại. Mạo Hoàn Liên chậm rãi nói: “Nhưng huynh không hề giết cha của mình! Huynh hãy mau buông tay, đừng làm rối tóc của tôi, huynh không buông tôi giận đấy”.
                          Thiếu niên áo vàng thở phào, đột nhiên tiu nghỉu ngồi xuống đất như con gà trống bại trận, chàng ta bưng mặt khóc thút thít. Mạo Hoàn Liên sửa lại mái tóc, để chàng ta khóc một hồi rồi mới đặt tay lên vai chàng, khẽ nói: “Huynh hãy đứng dậy, huynh đã nhớ mình là ai chưa?” thiếu niên áo vàng đứng dậy, nói: “Vẫn không nhớ nổi! Tôi chỉ nhớ là đã thực sự giết cha của mình!” Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi đã bảo huynh không giết có nghĩa là không giết, huynh không nghe lời tôi sao? Được, tôi cho huynh xem vật này!”.
                          Mạo Hoàn Liên ngồi xuống, lấy bút và giấy trên bàn, chấm mực, chỉ trong chốc lát thì đã vẽ một bức tranh sơn thủy. Bức tranh chính là cảnh tượng của sạn đạo Kiếm Các, bên cạnh sạn đạo có một u cốc, nàng vẽ xong thì đặt bút xuống nói với thiếu niên áo vàng: “Huynh xem thử nơi này có quen thuộc không?”
                          Thiếu niên áo vàng kêu ồ một tiếng, chăm chú nói: “Nơi này rất quen thuộc, hình như ngôi nhà của tôi nằm ở giữa hai cây tùng”. Mạo Hoàn Liên nói: “Đúng thế, huynh nói rất chính xác. Tôi chỉ cố ý vẽ sai một vài điểm, huynh vẫn có thể nhớ ra”.
                          Thiếu niên áo vàng im lặng ngồi xuống chống đầu. Mạo Hoàn Liên không thèm để ý đến chàng nữa mà vẽ một ông già gầy đen và một ông già mặt đỏ. Mạo Hoàn Liên là con gái của tài tử Mạo Tị Cương, đương nhiên cũng vẽ rất đẹp. Sau khi vẽ xong, nàng đẩy bức tranh đến trước mặt thiếu niên áo vàng, nói: “Huynh hãy xem thử ai là cha của huynh?”.
                          Thiếu niên áo vàng mở to mắt, vừa nhìn chàng đã nhảy nhổm, Mạo Hoàn Liên kêu lên: “Huynh bình tĩnh, đừng hoảng!” Thiếu niên áo vàng đổi sắc mặt, chàng cứ đứng lặng bên bức tranh, từ sau khi họ đại náo Bình Tây vương phủ, chia tay với bọn Lý Tư Vĩnh, Lý Tư Vĩnh đoán rằng Ngô Tam Quế sắp nổi dậy phản nhà Thanh, bởi vậy ngay hôm sau đã dắt người của mình trở về căn cứ địa. Bọn Phó Thanh Chủ, Lưu Úc Phương cũng nhận được lời mời của Lý Tư Vĩnh đến ở tạm tại căn cứ địa của chàng. Trước khi đi Phó Thanh Chủ đã nói riêng với Mạo Hoàn Liên: “Từ sau cha của con chết, ba năm qua chúng ta dựa vào nhau mà sống, tình như cha con, nhưng cha con cũng không thể suốt đời ở bên cạnh nhau. Thiếu niên áo vàng cũng giống như ngọc chưa dũa, một khi hồi phục tâm trí thì sẽ làm được nhiều điều kinh thiên động địa. Trong lúc mất trí nhớ mà tâm địa người này cũng tỏ rất thuần hậu, con phải chăm sóc y cho tốt!” ông ta còn chỉ cho Mạo Hoàn Liên vài cách chữa trị bệnh thất thường tinh thần rồi mới tạm biệt nàng. Lưu Úc Phương cũng âm thầm cáo biệt Lăng Vị Phong, nói: “Nếu huynh giúp Hoàn Liên cô nương chữa trị xong cho thiếu niên áo vàng thì hãy mau chóng trở về. Muội mong một ngày nọ có thể cùng huynh đến sông Tiền Đường xem triều! Chúng ta sẽ nhớ lại chuyện xưa đã tan đi trong sóng nước!” Lăng Vị Phong ngạc nhiên, nói: “Huynh không mất trí nhớ như thiếu niên áo vàng, có một ngày huynh sẽ nói với muội”. Lưu Úc Phương ứa nước mắt, chẳng nói lời nào nữa.
                          Lăng Vị Phong và Mạo Hoàn Liên đã từ biệt những người thân yêu nhất của mình như thế. Nhưng Mạo Hoàn Liên sau khi rời Phó Thanh Chủ thì đi bên cạnh thiếu niên áo vàng, trông lúc nào cũng hớn hở, càng lúc càng giống một thiếu nữ đã trưởng thành. Sự màu nhiệm của tình yêu đã xua tan bóng đêm thân thế của nàng. Lăng Vị Phong thì cõi lòng trĩu nặng, khi còn trong thủy lao, suýt nữa chàng đã nói ra thân thế của mình. Lần này cáo biệt, chàng cũng suýt nữa đã thừa nhận chuyện xưa với Lưu Úc Phương. Nhưng chàng đã cố kìm lại, chàng thích tính cách quật cường của mình, nhưng lúc này chàng cũng hơi giận vì mình đã quá cứng cỏi.
                          Trên suốt quãng đường, chàng cứ mãi đi sau Mạo Hoàn Liên và thiếu niên áo vàng, thấy họ sánh vai đi cùng, trong lòng thầm cười vì mình đã đảm nhận một trách nhiệm kỳ lạ nhất. Phó Thanh Chủ và Lý Tư Vĩnh lo rằng thiếu niên áo vàng trong cơn mất trí, hoặc chợt nửa đêm mộng du sẽ làm tổn thương đến Mạo Hoàn Liên. Bởi vậy họ nhà chàng đi theo bảo vệ. Giờ đây thấy hai người họ thân thiết với nhau như thế, Lăng Vị Phong nghĩ thầm: “Dẫm rằng thiếu niên áo vàng mất hết lí trí, không nhận ra tất cả mọi người trên đời này, chàng ta vẫn nghe theo lời Mạo Hoàn Liên. Mà sự thật là trên suốt quãng đường thiếu niên áo vàng ngày một tỉnh táo hơn, cũng chẳng gây ra chuyện gì.
                          Đến chiều thì họ lên đến đỉnh Kiếm Các. Thiếu niên áo vàng hai mắt sáng quắc, vạch cỏ cây tìm lối, mau chóng tìm ra được căn nhà nằm giữa hai kẽ núi, chàng xông vào trong nhà, trong nhà chẳng có ai. Chàng sờ những thứ còn lại trong căn nhà, từng chiếc bàn chiếc ghế, từng mũi tên cây cung, tựa như chàng có tình cảm với tất cả những thứ này. Đột nhiên chàng khóc rống lên, chạy ra ngoài chỉ xuống u cốc nói: “Ta đã giết cha mình ở đây. Ta lớn lên trong căn nhà này, ông già đen gầy dạy ta võ công, lúc đầu ông là cha ta, sau đó lại không phải. Liên cô nương, nay tôi đã về nơi cũ, cha tôi ở đâu? Mau tìm cho tôi!”.
                          Mạo Hoàn Liên tưởng rằng về đến nơi mình lớn lên thì chàng ta sẽ hoàn toàn tỉnh táo. Nào ngờ chàng vẫn cứ điên dại như thế, đang lúc chần chừ thì chợt Lăng Vị Phong bước tới chỉ xuống u cốc...” ở nơi xa u cốc có ánh lửa lập lòe, nếu mắt không tinh thì chẳng thấy nổi. Lăng Vị Phong nhủ thầm nếu có ánh lửa chắc chắn có nhà cửa. Chàng đã đứng bên mép vực, nhìn xuống cốc sâu đen hun hút, trong đầu nhớ lại cảnh cuộc đấu khốc liệt, hai người lăn xuống vách núi mà chẳng hề mất mạng. Sạn đạo Kiếm Các tuy hiểm trở hơn dãy Vân Cương nhiều nhưng nếu người võ công cực kỳ giỏi, lại giả sử có người tiếp ứng thì lăn xuống chưa chắc mất mạng.
                          Chàng chợt nghĩ như thế, quay đầu lại thì thấy thiếu niên áo vàng vẫn cứ đứng khóc, thần trí mơ hồ. Chàng vẫy Mạo Hoàn Liên tới nói: “Cô nương hãy ở bên cạnh y, tôi xuống xem thử”. Rồi chàng vung hai tay lên nhảy vọt xuống u cốc.
                          Khi thi triển khinh công tuyệt đỉnh nhảy xuống, chàng đã thấy nơi lưng núi có một mõm đá nhô ra, chàng điểm mũi chân một cái, đổi thế tiếp tục vọt xuống tảng đá thứ hai, cứ như thế sau mấy lần đổi thế thì chận đã chạm đất.
                          Dưới u cốc quái thạch lô nhô. Lăng Vị Phong đốt mồi lửa lên, đi xem xung quanh. Chàng chẳng thấy có điều gì khác lạ, đang định dập lửa trở ra thì đột nhiên nghe một luồng gió đâm tới. Lăng Vị Phong nhẹ nhàng vọt lên, né tránh ám khí ấy nhưng mồi lửa đã bị dập tắt.
                          Lăng Vị Phong cả kinh, ném mồi lửa xuống đất. Nói thì chậm, sự việc lúc đó diễn ra rất nhanh, chỉ nghe tiếng gió rít bên tai, Lăng Vị Phong xoay eo, một mảnh ám khí lướt qua người, khi xoay người lại thì chàng vỗ ra một chưởng đánh rơi mảnh ám khí thứ hai, rồi chàng đưa tay hớt lên trên, chụp được mảnh ám khí thứ ba.
                          Mảnh ám khí thứ hai đánh vào huyệt đạo chí mạng của Lăng Vị Phong, trong đêm tối chàng cảm thấy nhận huyệt rất chuẩn, Lăng Vị Phong bóp nhẹ hai ngón tay, chỉ cảm thấy món ám khí trong tay mình rất nhỏ, bên trong trống rỗng như một chiếc khuyên tai. Lăng Vị Phong quát: “Ai? Trong đêm tối tăm lén ám toán đâu phải là hảo hán?”.
                          Một giọng nói lạnh lẽo từ xa vọng tới: “Bọn tặc tử các ngươi trong đêm tối mà đả thương người khác một cách vô sỉ mà còn dám quát nạt ta. Ngươi tiếp thêm ba mảnh ám khí của ta nữa”. Nói vừa dứt lời thì ba mảnh ám khí đã liên tiếp bay tới, Lăng Vị Phong nghe tiếng ám khí đã né tránh, không ngờ lần này không biết người đó đã dùng thủ pháp gì mà món ám khí bay sau thì đến trước, vả lại nghe ở bên trái nhưng đột nhiên ám khí bay sang phải. Lăng Vị Phong đã mắc lừa, chỉ tránh được một mảnh, bị hai mảnh kia đánh trúng vào huyệt đạo.
                          Ở trong bãi cây cỏ um tùm, có một người đàn bà áo đen bước ra, bà ta tưởng rằng Lăng Vị Phong bị đánh trúng huyệt đạo, gằng giọng quát: “Tiểu tặc, cho ngươi biết sự lợi hại của ta!” nói vừa dứt lời thì Lăng Vị Phong đã xuất hiện trước mặt bà ta, ba món ám khí độc môn cũng đã bắn ra, quát rằng: “Mụ tặc bà cũng nếm sự lợi hại của Thiên Sơn thần mãng!”.
                          Bà già chỉ thấy ba luồng ánh sáng ô kim quét tới trước mặt, bà ta chỉ hơi lắc người, cây kiếm trong tay vung lên phía trước, chỉ nghe soạt một tiếng, ánh lửa bắn tung tóe, bà ta thuận thế giở chân trái bật lên trên không, đầu ngửa ra phía sau, toan dùng công phu Thiết bản kiều né tránh cây thần mãng thứ hai. Không ngờ thủ pháp của Lăng Vị Phong cũng rất quái dị, cây thần mãng thứ nhất bay tới thì chẳng có gì lạ, nhưng tốc độ của cây thứ hai thì hơi chậm hơn, khi lên đến trên đầu bà ta thì cây thần mãng thứ ba đã đuổi theo như điện chớp, hai cây chạm vào nhau bay xéo ra, bà già thi triển võ công kinh người, treo nửa thân lên không trung, đầu xoay qua, một chân điểm xuống đất, người đã lộn một vòng lớn, phương vị chẳng hề thay đổi. Dù như thế vẫn bị cây thần mãng thứ ba quét tới đánh đứt khăn trùm đầu, lộ ra mái tóc bạc phơ!
                          Bà già đứng lên, miệng nói một tiếng: “Nguy hiểm thật!” nhìn lại thì thấy thanh kiếm đã bị cây Thiên Sơn thần mãng đánh mẻ một miếng nhỏ. Bà ta chưa bao giờ gặp phải kẻ cường địch như thế này trong đời, thế là người phóng vọt lên không, lao bổ về phía Lăng Vị Phong, dùng Ngũ Cầm kiếm pháp từ trên không đánh xuống, lợi hại lạ thường!
                          Lăng Vị Phong tung người ra phía sau hạ xuống đất, chưa kịp quay lại thì chỉ thấy có tiếng xé gió lướt tới sau lưng, chàng trở tay đánh lại một kiếm, trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt, đã chạm với thanh kiếm của đối phương. Hai người đều cảm thấy thanh kiếm kêu lên ong ong, thanh kiếm không ngừng rung lên. Lăng Vị Phong nhủ thầm: “Đáng tiếc mình đã trao Du Long kiếm cho Lưu Úc Phương, nếu không có thể chặt gãy binh khí của bà ta”. Bà già thì nghĩ, đáng tiếc Ngũ Cầm kiếm của mình khi đánh xuống không chịu thêm biến hóa, nếu không đã khiến tên tiểu tử này đổ máu.
                          Lăng Vị Phong rút kiếm về, vội vàng quát: “Khoan ra tay, bà là ai?” Bà già hừ một tiếng, chẳng thèm để ý đến chàng, chỉ đâm soạt soạt mấy kiếm, nhát nào cũng đâm vào chỗ yếu hại. Lăng Vị Phong giận lên quát: “Tôi nể mặt bà là một bà già, nhường bà vài phần, bà tưởng rằng tôi sợ đấy hử!” Bà già nói: “Ai cần ngươi nhường?” rồi thanh kiếm trong tay chợt trái chợt phải tựa như gió quét mưa sa, bao trùm Lăng Vị Phong trong màn kiếm quang.
                          Lăng Vị Phong lắc người, cây kiếm trong tay đánh như gió thổi lá bay, từ phía dưới cuộn lên. Chàng nhận ra bà già đã sử dụng Ngũ Cầm kiếm pháp, Ngũ Cầm kiếm pháp rất lợi hại, từ trên không chém và đâm xuống, tóm lại là phải đè lên kiếm của đối phương, nếu kẻ địch muốn giành lại vị trí thì sẽ bị đánh vào chỗ sơ hở. Kiếm pháp của Lăng Vị Phong thì ngược lại, kiếm đảo từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới đánh vào trung lộ của kẻ địch, mỗi kiếm đánh ra đều là những chiêu số tinh diệu trong Thiên Sơn kiếm pháp.
                          Thiên Sơn kiếm pháp vốn tập trung sở trường của các nhà các phái, chẳng hề câu nệ, chàng đã đánh ra những chiêu số chuyên khắc chế Ngũ Cầm kiếm pháp nhưng vẫn chứa đựng kiếm pháp của các nhà khác, đúng là lợi hại vô cùng.
                          Bà già ấy công lực rất thâm hậu, kiếm pháp tuy hơi kém một bậc nhưng Lăng Vị Phong vẫn chưa thể giành thắng trong chốc lát, chỉ trong chớp mắt hai người đã đánh nhau đến trăm chiêu. Lăng Vị Phong vừa hóa giải được thế công của kẻ địch giành được tiên cơ, đang định chuyển sang phản công thì chợt thấy từ trên núi có hai bóng đen hạ xuống. Một giọng nói trong trẻo từ xa vang lên: “Lăng đại hiệp, huynh đánh với ai thế?”.
                          Lăng Vị Phong nói: “Hoàn Liên cô nương, các người cũng tới đấy sao? Ở đây có một bà già điên rất ghê gớm. Các người khoan xuống đây, để tôi đấu xong với bà ta rồi tính tiếp”. Chàng lo bà già võ công cao cường, ám khí lợi hại sẽ làm hại đến Mạo Hoàn Liên.
                          Khi Lăng Vị Phong đang nói thì đã bị bà già tấn công mười mấy chiêu rơi vào nguy hiểm. Bà già đột nhiên lật tay phải, đánh ra một chiêu Toàn Phong Tảo Diệp, thay đổi lối đánh từ trên không tấn công xuống, bà ta đè kiếm xuống thuận thế quét chân vào mặt trong của chân phải Lăng Vị Phong. Chiêu này rất hiểm hóc, Lăng Vị Phong buộc phải rút kiếm về phòng thủ. Rõ ràng bà ta đánh chiêu này để rút lui, Lăng Vị Phong rút kiếm về chặn, bà ta đã tung mình vượt ra đến mấy trượng, tức giận nói: “Bọn tặc tử các ngươi, chúng ta và bọn ngươi chẳng có thù oán, sao cứ nhiều lần đến đây quấy rối? Nếu các ngươi muốn hỗn chiến, bọn ta cũng có người chìu theo. Có gan đuổi theo ta!”.
                          Lăng Vị Phong nghe thế thì đuổi theo, lớn giọng nói: “Lão bà bà, chúng tôi không phải kẻ xấu, bà phải nói cho rõ ràng!” lúc này thiếu niên áo vàng cũng đã từ chân núi chạy tới, lớn giọng kêu: “Ai đang nói thế? Ai đang nói thế? Ta đến đây!” bà già xoay người giơ kiếm, Lăng Vị Phong tưởng rằng bà ta sẽ lại đâm kiếm ra, không ngờ bà ta chỉ đứng sững ra, giơ kiếm chặn trước ngực, chẳng hề nhúc nhích, Lăng Vị Phong vội vàng rút kiếm về, chỉ nghe bà già cũng kêu lên: “Là con đấy ư? Con trai của ta!”.
                          Vốn là Mạo Hoàn Liên cùng thiếu niên áo vàng trên đỉnh Kiếm Các đang rất bồn chồn, nàng thấy sau khi Lăng Vị Phong xuống mà vẫn không lên tiếng trả lời thì kéo thiếu niên áo vàng xuống. Nhưng nàng không có công lực như Lăng Vị Phong, phải nhờ thiếu niên áo vàng giúp đỡ, chỉ đành bò xuống chứ không thể dùng khinh công tuyệt đỉnh như Lăng Vị Phong. Thiếu niên áo vàng vừa cùng Mạo Hoàn Liên đi vào u cốc, chợt nghe bà già kêu lên: “Con ơi!” thì toàn thân run bần bật, đột nhiên vụt ra khỏi tay Mạo Hoàn Liên phóng lên, Lăng Vị Phong lách người, thiếu niên áo vàng lao tới, khóc rằng: “Sao người lại đi lâu như thế, người không nhớ chúng con sao?”.
                          Mẹ con gặp nhau tựa như cách thế, một lúc rất lâu rất lâu thiếu niên áo vàng mới đứng dậy, Mạo Hoàn Liên đã đứng bên cạnh chàng, ứa nước mắt mỉm cười. Thiếu niên áo vàng chợt nói: “Đây là Mạo Hoàn Liên cô nương, mẹ. Nàng rất tốt!” bà già nắm tay Mạo Hoàn Liên, hỏi: “Cô nương, cô nương đã đưa con tôi đến đây, đa tạ”. Mạo Hoàn Liên nói: “Bá mẫu, chàng đã tỉnh, bá mẫu cứ dắt chàng đi thôi”. Thiếu niên áo vàng nói: “Đúng thế! Mẹ hãy dắt con đi gặp cha, chúng ta cùng đi thôi! Mẹ, ông già mặt đỏ ấy là cha phải không? Hôm ấy con có giết ông ta không?” bà già vội vàng nói: “Không có, không có! Con gặp ông ta rồi tính tiếp”.
                          “Ồ! Trời cao trêu đùa chúng ta đến khổ!” rồi bà ta bưng mặt, nước mắt rơi lả chả.
                          Lăng Vị Phong cúi người nhặt kiếm đưa cho bà ta nói: “Bá mẫu, kiếm của người!” Bà già đột nhiên tỉnh táo, ngừng khóc nói: “Đúng thế, ta cũng nên dắt các người đi, chỉ e tặc tử lại đến!”.
                          Lăng Vị Phong cúi người chào bà già, lại nói mấy tiếng xin tội. Bà già vỗ vai Lăng Vị Phong nói: “Ồ! Các người đến cùng với nhau, kiếm pháp của ngươi rất giỏi, hôm nay sẽ giúp bọn ta một tay!” Lăng Vị Phong nói: “Bá mẫu, có chuyện gì cần đến bọn tiểu bối cứ sai khiến”. Bà già chỉ thiếu niên áo vàng nói: “Cha của hắn đang bị trọng thương, ta đã ở đây chăm sóc cho ông ta hơn ba tháng. Nơi này cực kỳ bí mật nhưng không biết thế nào mà gần đây thường có người lạ đến, ta đã dùng ám khí chiêu hoàn dọa bọn chúng. Ta vừa ra tay thì bọn chúng chạy xa, cũng không biết là địch hay bạn. Ta thường phát hiện trong sơn cốc có vài ký hiệu lạ”. Lăng Vị Phong nói: “Lúc nãy bá mẫu bảo tặc tử chính là những người này ư?” bà già lắc đầu nói: “Không phải, bọn này hình như không phải cùng một tốp, mỗi lần phát hiện là một hai kẻ võ công cao cường, không giống như ưng khuyển của bạch đạo”. Lăng Vị Phong nói: “Vậy ngoài ra còn có ai nữa?” Bà già nói: “Hai đêm trước thì không phải, ta phát hiện người của triều đình đến đây!” Mạo Hoàn Liên nói: “Người của triều đình? Ồ, có lẽ bọn chúng tưởng Quế lão tiền bối chưa chết nên đến thăm, cũng có thể đến tìm xác bốn tên đồng bọn của chúng”.
                          Bà già nghe Mạo Hoàn Liên nhắc đến “Quế lão tiền bối” thì mái tóc bạc rung rung, mặt đầy vẻ âu sầu, rầu rĩ nói: “Ông ta đã chôn thân nơi này cùng với bốn tên vệ sĩ triều đình!” rồi bà ta im lặng không nói, thiếu niên áo vàng đột nhiên khóc òa lên, nói: “Con nhớ rồi, Quế, Quế...” bà già tiếp lới: “Ông ta là dưỡng phụ của con”. Thiếu niên áo vàng ngẩn người ra, hai dòng nước mắt tuôn lả chả, chàng nhìn sững bà già.
                          Chính là: Hai mươi năm như một giấc mộng, thân thế thật ly kỳ.
                          Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
                          #13
                            casau 01.11.2012 16:44:34 (permalink)
                            Hồi 10
                            Ở chốn thâm sơn áo vàng chứa bí mật
                            Tung hoành hai kiếm u cốc gặp quần hào


                            Bà ta dùng tay áo lau nước mắt cho chàng thiếu niên áo vàng, nói: “Lát nữa cha con sẽ nói với con”. Bà ta ngập ngừng rồi quay đầu nói với Lăng Vị Phong: “Hai đêm trước có vài tên vệ sĩ triều đình tìm đến thạch thất của bọn ta. Đêm đầu tiên ta và học trò của phụ thân nó hợp lực đuổi đi. Đêm thứ hai bọn chúng lại đến, Trúc Quân không cẩn thận đã bị Sũy Thủ tiễn của chúng đánh bị thương cánh tay trái, may mà chỉ bị thương nhẹ. Trúc Quân là muội muội của nó”. Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi quen lệnh ái, nàng rất xinh đẹp”. Bà già lại nói: “Tôi quên mất, lúc nãy cô nương kể lại chuyện ngày hôm ấy, lẽ ra tôi phải nhớ chứ. Lúc đó tuy tôi không ở Kiếm Các nhưng nghe Trúc Quân kể lại có một ông già đội mũ nho và một thiếu nữ đến tá túc, rút đao trợ chiến, giết chết bọn vệ sĩ, thiếu nữ ấy chắc là cô nương đây!” Mạo Hoàn Liên gật đầu nói: “Ông già đội mũ nho ấy chính là bá phụ Phó Thanh Chủ”. Bà già ngạc nhiên nói: “Ồ, té ra là đương kim cao thủ Phó lão tiên sinh, trên giang hồ gọi ông ta là Thái Cực kiếm Phó Thanh Chủ. Nếu đêm ấy không nhờ có các người, dưỡng phụ của nó nói không chừng đã chết”.
                            Mọi người vừa đi vừa nói, ánh lửa đã hiện ra. Đột nhiên bà già lướt người, nói: “Bọn tặc tử quả nhiên lại đến!” Lăng Vị Phong đi vòng qua một đống đá, trong tai nghe tiếng quát tháo, chàng nhìn lại thì chỉ thấy có một bóng đen cao lớn đang chống lại hai tên vệ sĩ rất vất vả. Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, hai cây Thiên Sơn thần mãng bay ra, phía trước hai tiếng kêu thảm vang lên, một tên co giò bỏ chạy, bà già vung cái vòng ra thì y đã chạy xa.
                            Bà già phóng tới, chỉ thấy một tên vệ sĩ nằm phơi thây dưới đất, biết ngay chết bởi thần mãng, hán tử cao lớn ấy đỡ bà già nói: “Sư nương, mau trở về xem sư phụ”.
                            Mọi người cùng hán tử cao lớn vào trong thạch thất, chỉ thấy bên trong phòng có một cái giường, xung quanh giường cắp rất nhiều cọc gỗ, ba cây cọc gỗ bách ở giữa đã bị gãy đến gốc. Ông già mặt đỏ nằm ngủ trên giường, bên giường có một thiếu nữ cầm kiếm, trong phòng còn có thi thể của một tên vệ sĩ triều đình.
                            Bà già bước vào thì hỏi: “Không sao chứ?” Thiếu nữ nói: “Ồ, không sao, cha đã đá chết tên tặc tử này rồi!” lúc này thiếu niên áo vàng đã xông vào trong, thiếu nữ vừa thấy thì mừng mừng tủi tủi! Nàng kéo tay thiếu niên áo vàng nói: “Đại ca!” thiếu niên áo vàng cũng trả lời một tiếng, rồi rút tay ra khỏi tay nàng, lao bổ tới giường như cơn gió, ôm ông già mặt đỏ, khóc lên: “Cha, cha vẫn còn sống đây mà!” ông già mặt đỏ vừa rồi dùng lực quá độ, chỉ nằm nghỉ ngơi dưỡng thần, nghe chàng ta kêu lên như thế thì đột nhiên mở mắt, kêu lớn: “Ai đánh chết ta nổi! Ồ... sao con lại trở về!” ông ta đưa mắt nhìn rồi đột nhiên ngồi bật dậy sau đó ngất đi.
                            Bà già kinh hoảng, Mạo Hoàn Liên chạy tới, bắt mạch cho ông ta rồi lớn giọng nói: “Bá mẫu, ông ta chắc chắn sẽ tỉnh dậy, các người đừng nên kêu khóc, ông ta vì kích động quá độ chứ chẳng hề chi”.
                            Lúc này thiếu niên áo vàng đã kéo tay Mạo Hoàn Liên đáp tạ: “Tỷ tỷ, có nhận ra muội không? Đa tạ tỷ tỷ hai lần giúp đỡ chúng tôi”. Mạo Hoàn Liên nói: “Không cần nói những lời khách sáo. Xem ra lão bá bán thân bất toại mà vẫn còn kịch đấu với kẻ địch, có đúng không?” Nàng thiếu nữ chỉ cái xác ở dưới đất, nói: “Cũng chẳng kịch đấu gì cả, tên tặc tử này lao bổ đến giường bị cọc gỗ trước giường chặn lại, cha dùng tay chống người lên tung ra một cước, đá gãy luôn ba cây cọc gỗ, kẻ địch thì chết tươi”. Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Công phu hạ bàn của ông già này thật cao, chả trách nào Quế Thiên Lan đã bị thương bởi tay ông ta”.
                            Thời gian khoảng nguội một chén trà trôi qua, ông già mặt đỏ quả nhiên từ từ tỉnh dậy, kéo thiếu niên áo vàng nhìn trân trân, người trong phòng đều nín thở, Mạo Hoàn Liên chan chứa nước mắt. Một lúc rất lâu sau, chàng thiếu niên áo vàng khẽ nói: “Cha, cha hãy cho con biết lai lịch của con đi!”.
                            Sắc mặt của ông già mặt đỏ đột nhiên tái nhợt, ông ta vẫy tay nói: “Để mẹ của con nói trước, chỗ nào còn thiếu thì ta sẽ nói tiếp”. Bà già bước đến thiếu niên mà chân run lẩy bẩy, nói: “Con tên là Thạch Trọng Minh...” ông già mặt đỏ chợt nói: “Lẽ ra phải tên là Quế Trọng Minh”. Bà già trợn mắt, nhìn ông già nói: “Tôi muốn nó phải nhớ đến dưỡng phụ của nó”. Bà già hít một hơi, bình tĩnh rồi nói tiếp: “Cha của con tên gọi Thạch Thiên Thành, ông ta và Quế Thiên Lan đều là đồ đệ của ngoại tổ con. Quế Thiên Lan là sư huynh, ông ta là sư đệ. Ngoại tổ con là Xuyên Trung đại hiệp Diệp Vân Tôn vào năm mươi năm trước. Ta là con gái duy nhất của người. Ngoại tổ của con không có con trai, coi cả hai người họ như con ruột, ta tập võ cùng với họ, chẳng hề kiêng dè. Hai sư huynh đệ rất thân thiết nhau, có điều Thiên Thành tính tình nóng nảy, Thiên Lan cực kỳ trầm tĩnh. Ta coi họ như huynh đệ nhưng Thiên Thành tánh tình ngay thẳng, tuy nóng nảy nhưng lại rất hợp với ta. Nhiều năm trôi qua, ba người bọn ta đều trưởng thành, ngày nọ ngoại tổ hỏi riêng ta rằng: ‘Con gái, con cũng nên kết hôn. Con nói thực cho ta biết, trong hai người họ con thích ai hơn’.”
                            Ông già mặt đỏ nhìn bà già nói: “Sao chuyện này tôi chưa bao giờ nghe bà kể?” bà già vẫn tiếp tục nói với thiếu niên áo vàng: “Ngoại tổ của con hỏi ta, lúc đó ta cũng chỉ giống như Hoàn Liên cô nương, ta làm sao dám nói. Ngoại tổ mới nói: ‘Thiên Lan rất già dặn’. Ta chen vào nói: ‘Chính vì quá già dặn nên tuổi con trẻ mà cứ như một ông già!’ người lại lẩm bẩm: ‘Thiên Thành thì lại nóng tính’. Ta nói: ‘Cũng chẳng hề chi!’ ngoại tổ của con cười ha hả: ‘Mấy ngày trước bọn chúng đã nhờ người đến cầu thân với ta. Ta vẫn chưa quyết định, giờ đây thì được! Con đã tự nói ra rồi đấy. Ta hổ thẹn vội chạy đi, ngày hôm sau ngoại tổ của ta nhận sính lễ của Thiên Thành’.” Ông già mặt đỏ nghe đến đây thì mỉm cười, trông có vẻ rất vui!
                            Bà già sầm mặt, thở dài nói: “Không bao lâu sau, ta và cha con đã kết hôn, một năm sau thì sinh được con, ngày tháng trôi qua rất vui vẻ, trong chớp mắt đã được sáu năm, Quế Thiên Lan đã hơn hai mươi tuổi mà vẫn chưa kết hơn. Bọn ta đều sống ở nhà ngoại tổ phụ, vẫn coi như huynh đệ tỷ muội, rất thân thiết với nhau. Cha con hỏi y làm sao vẫn chưa kết hôn, y không nói. Ta cũng đoán được tâm sự của y nhưng không tiện nói ra. Nhưng y đối với ta chưa hề lỗ mãng, càng chưa hề nói nửa câu gió trăng.
                            Khi bọn ta kết hôn, quân Mãn Châu đã đánh vào Sơn Hải quan, lúc đó bọn ta sống ở tận Tứ Xuyên. Tứ Xuyên và còn là thiên hạ của Trương Hiến Trung. Bọn ta không biết chuyện ở bên ngoài, sau đó Trương Hiến Trung chiến bại, thuộc hạ của y là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc vẫn chiếm Tứ Xuyên, quân Mãn Châu mau chóng lấy được Trung Nguyên nhưng vẫn chưa đánh vào. Bọn ta sống như thế ngoại đào viên. Lúc con năm tuổi thì quân Mãn Thanh bắt đầu đánh vào Tứ Xuyên, nhà của cha con ở Xuyên Nam, bởi vậy phải quay về đón người nhà lên Xuyên Bắc tránh nạn. Lúc đó ta lại có mang hai tháng không thể đi cùng. Trước khi đi ông ấy còn dặn Thiên Lan đại ca chăm sóc chúng tôi rồi mới yên tâm trở về quê.
                            Không ngờ ông ta đi được nửa tháng, đại quân Mãn Châu đã tấn công đến Tứ Xuyên, đường sá cách trở, trăm họ lưu lạc. Trong buổi cuối đời mà ngoại tổ phụ của con gặp đại biến như thế, quân Mãn Châu chưa đánh vào thì ông đã chết. Trước khi chết còn bảo Thiên Lan bảo vệ chúng ta chạy nạn. Ngày tháng chạy nạn thật thê thảm, không ăn không uống là chuyện thường, càng không có chỗ ở, có lúc rất nhiều người dồn ở một nơi, có lúc phải ngủ ngoài đồng hoang, Thiên Lan lại cố gắng né tránh, thế nhưng ta đang có mang, không rời được ông ta, những nỗi khổ ấy đúng là một lời khó nói hết. Ta đã sinh muội muội con ở trong một rừng trúc hoang. Bởi vậy mới đặt tên là Trúc Quân.
                            Sau khi quân Thanh đánh vào Tứ Xuyên, hỗn chiến kéo dài nhiều năm, chúng ta chạy nạn được hai năm, đến đâu cũng hỏi tung tích của cha con. Sau đó nghe võ lâm đồng đạo đồn rằng cha con đã chết trong binh mã loạn lạc. Bọn chúng ta nửa tin nửa ngờ.
                            Cuộc sống chạy nạn càng lúc càng khổ cực, ta dắt theo huynh muội các con đi cùng với Thiên Lan rất không tiện. Lúc đó Thiên Lan cùng vài trăm nạn dân khỏe mạnh tụ tập lại, bàn nhau đi theo Lý Định Quốc. Thiên Lan lo lắng cho ta và huynh muội các con, có người nói với ông ta rằng ở nơi Lý Định Quốc có đặt nữ doanh, có thể thu nạp gia quyến của binh sĩ. Họ đều nói: ‘Trong cơn chạy nạn chẳng thể nghĩ ngợi được nhiều, chi bằng hai người cứ thành hôn đi thôi!’.”
                            Bà già nói đến đây thì lại liếc nhìn ông già mặt đỏ, ông già mặt đỏ nói: “Bà cứ nói tiếp, bây giờ tôi đã hiểu. Đó không phải lỗi của bà”. Bà già thở dài nói: “Chúng ta đã là người mấy mươi tuổi, cần gì phải e dè nữa. Cứ nói thẳng trước mặt con cái cũng tốt”. Rồi bà ta hít một hơi, tiếp tục nói: “Đêm đó Thiên Lan hỏi ta: ‘Ý của muội thế nào?’ ta nghĩ ngợi rất lâu rồi trả lời: ‘Thiên Thành bặt vô âm tín, con cái lại còn nhỏ, chạy nạn chẳng có gì ăn, nước mất nhà tan, ngoại trừ đi theo Lý Định Quốc e rằng chẳng còn con đường nào khác mà chọn lựa!’ Thiên Lan nói: ‘Tôi vốn coi Thiên Thành và muội như người ruột thịt. Khi học võ nghệ ở sư môn, không giấu gì muội, tôi đã có lòng với muội. Nhưng từ sau khi các người thành thân, ta đã sớm bỏ ý nghĩ này. Vì sợ Thiên Thành sinh nghi, ta đã phải né tránh. Nhưng giờ đây thời thế buộc chúng ta phải đi chung với nhau. Chúng ta là người trong giang hồ, lại chẳng phải là học trò của Khổng phu tử. Muội không để ý đến trinh tiết bài phương, ta cũng không màng đến quả phụ cô nhi. Những lễ pháp này chúng ta đừng để trong lòng. Muội tử, chúng ta trải đất làm nhang, bẩm cáo với Thiên Thành hiền đệ, mong y lượng thứ!’ Việc đã đến nước này cũng đành tuân theo tình thế. Ta và Thiên Lan nguyện kết làm đôi bạn cùng vượt qua hoạn nạn, tuy trong hoạn nạn nhưng chúng ta không hề sơ sài. Đến hôm sau thì bọn ta đã ở lại với mọi người, họ đều rất vui mừng. Họ bới được rất nhiều vỏ cây gốc cỏ có thể ăn được, lại mau mắn đánh được hai con lợn rừng, tìm được một ngôi nhà hoang để làm tân phòng cho chúng ta. Có người lại dùng than viết lên cánh cửa hai chữ đại hỉ. Sau khi thành hôn với Thiên Lan đại ca, bọn chúng ta cùng kéo nhau đến chỗ Lý Định Quốc. Ai ngờ sự việc lại trùng hợp đến thế, trong đêm hôm ấy cha con đã trở về!”.
                            Ông già gật đầu nói: “Nếu không trùng hợp như thế, không đến nỗi có chuyện bi thảm sau này. Sau khi chia tay với mẹ con, ta đến Xuyên Nam đón người nhà, trên đường gặp phải quân Thanh bởi vậy mới đi đường nhỏ, không ngờ đến quê nhà thì nhà ta đã trở thành đống gạch vụn, cả nhà đều chết cả, ta bi phẫn cùng cực muốn đi theo nghĩa quân nhưng lại nhớ đến thê nhi, bởi vậy mới trở về tìm.
                            Nhưng khắp nơi chiến hỏa đang xảy ra, ta tìm không ra thê nhi, chỉ đành chạy theo lưu dân, vừa kiếm cái ăn vừa tìm các người.
                            Chạy nạn được hai năm, ta vẫn chẳng tìm được tông tích của các người. Một bữa chiều nọ ta cùng mười mấy nạn dân chạy đến một trấn nhỏ, thấy có một đám nạn dân hớn hở vui mừng, vừa ca vừa nhảy thì lấy làm lạ. Ta hỏi thì mới biết đại ca Quế Thiên Lan đang thành thân. Ta vội vàng hỏi tân nương tử là ai. Họ nói là một quả phụ có hai con, lại còn nghe nói là con gái của Xuyên Trung đại hiệp Diệp Vân Tôn!
                            Ta nghe mà máu nóng dâng trào, lửa giận bốc cao, thế là quay đầu bỏ chạy. Lúc đó ta đau đớn vì mất người nhà, lại trải qua nhiều nỗi ưu phiền, chuyện không như ý quá nhiều, tính nóng nảy càng tăng hơn! Ta cũng không chịu nghĩ cho hoàn cảnh của người khác, chỉ tức tối nhủ rằng: Ta coi Quế Thiên Lan như người anh ruột, gởi gắm thê tử, thế mà trong lúc thê tử của ta gặp nạn, lại buộc họ thành thân. Đúng là lòng dạ của kẻ tặc tử chẳng thể nào tha thứ nổi, chỉ vì ta và thê tử xưa nay cứ thương yêu nhau, nên vừa nghe chuyện này thì đổ hết mọi tội lỗi cho Quế Thiên Lan. Nhưng nghĩ lại không biết thê tử có đổi lòng thay dạ hay không? Đêm ấy ta không chịu suy nghĩ nên đến xem động phòng của họ”.
                            Ông già mặt đỏ ngừng lại, tiếp tục nói: “Ta còn nhớ đó là một đêm tối trời, ta bôi tro lên mặt rồi đến xem động phòng của họ. Ta muốn xem họ rốt cuộc sẽ làm gì? Nếu thê tử của ta bị Quế Thiên Lan ép thành thân thì ta sẽ giết cái giống mặt người dạ thú ấy đi. Nhưng nếu nàng tự nguyện thì ta sẽ giết cả đôi.
                            Ta vốn định canh ba sẽ đi nhưng trời vừa tối thì đã như kiến bò chảo lửa, chẳng thể nào kìm chế được. Ta đứng từ xa thấy đám nạn dân lần lượt ra khỏi căn nhà thì mới thi triển thuật dạ hành đến nghe lén tân phòng của họ.
                            Ta vừa nghe thì tức đến muốn bể phổi. Thê tử của ta dặn con cái rằng: ‘Các con nhớ từ ngày mai phải gọi Quế bá bá là cha’. Giọng nói của nàng rất bình thản, chẳng hề có cảm giác đau buồn. Ta định ra tay thì chợt nghe Quế Thiên Lan kêu lớn một tiếng có trộm, ta nổi giận bắn ra mấy cây Sũy Thủ tTiễn, vợ của ta cũng vung tay đánh ra mấy vòng kim hoàn, đó chính là ám khí độc môn bà đã luyện từ nhỏ!”.
                            Bà già sắc mặt tái nhợt, nói tiếp: “Lúc đó chúng tôi nằm mơ cũng không ngờ là ông. Trong hai năm chạy nạn bao nhiêu khổ cực cũng đã trải qua, nước mắt đã cạn khô. lúc đó chúng tôi tưởng rằng ông đã chết, dù không chết cũng khó gặp lại. Thiên Lan đối với tôi rất tốt, tôi chấp nhận lấy ông ta đương nhiên phải bảo con mình gọi ông ta là cha, không ngờ ông đột nhiên trở về, không hỏi rõ trắng đen thì đã vung tay ném ám khí. Chúng tôi biết ông chẳng phải người xấu, bởi vậy tôi mới dùng kim hoàn đánh vào huyệt đạo của ông”.
                            Ông già mặt đỏ cười buồn bã nói: “Bà không cần nói nữa, giờ đây tôi đã hiểu tất cả, là lỗi lầm của tôi. Nhưng lúc đó lửa giận công tâm, chẳng hề biết chuyện gì cả. Thiên Lan tung mình vọt ra, tôi vừa gặp mặt đã đánh mấy chiêu hiểm hóc.
                            Nhưng lúc đó công lực của Thiên Lan thâm hậu hơn tôi rất nhiều, đánh xong mấy chiêu tôi biết không phải là đối thủ của ông ta. Lúc đó bà chạy ra giúp ông ta, tôi tức giận thầm nhủ: ‘Được! Hai người các ngươi cùng một giuộc với nhau, đêm nay ta sẽ nhận nhục chạy trốn rồi sẽ tìm danh sư luyện thành tuyệt kỹ, thế nào cũng trả được thù cướp con đoạt vợ!’.
                            Lúc đó Thiên Lan tránh xong mấy đòn của ta, có lẽ đã nhận ra là chiêu số của đồng môn, lớn giọng hỏi: ‘Ngươi là ai? Nói mau để khỏi đánh nhầm!’ khi ông ta quát lớn, một vòng kim hoàn của bà đã trúng vào huyệt đạo Tam Lý của tôi, bọn khách đến ăn tiệc lại bắn tên ra, tôi chẳng đáp một lời cởi phăng bộ áo vàng đang mặc trên người. Đó là bộ áo bà đã may cho tôi, tôi không nỡ mặc. Hôm ấy tôi mặc là để muốn chọc giận bà, nhưng bà không nhận ra. Tôi cởi chiếc áo thi triển công phu Thiết Bố Sam, tên và đá bắn tới đều bị rơi xuống đất, nhưng vì tránh mấy vòng kim hoàn của bà nên tôi đã bị trúng hai mũi tên, máu tươi nhuộm lên chiếc áo. Tôi trùm chiếc áo về phía Thiên Lan, quát lớn: ‘Có gan thì hãy giết chết ta!’ ông ta hự một tiếng rồi ngã xuống đất. Tôi xoay người bỏ chạy, sau này các người làm gì tôi chẳng biết nữa”.
                            Bà già nói: “Lúc đó tôi nghe được giọng của ông, tôi sững người ra, đến khi tỉnh dậy thì chẳng thấy bóng dáng của ông đâu nữa! Tôi chỉ đành cứu tỉnh Thiên Lan”.
                            Bà già nói đến đây, mọi người đều cảm thấy nặng nề trong lòng, không khí trong phòng tựa như ngưng tụ lại. Mạo Hoàn Liên thở dài nói: “Tất cả chỉ vì chiến tranh!” bà già lẩm bẩm: “Đúng thế, chẳng có ai sai cả, kẻ sai là chiến tranh. Chiến tranh làm tan nát gia đình, bạn bè ly tán, khiến mọi người hiểu lầm để rồi trở thành bi kịch. Tất cả món nợ này đều là do bọn Thát Tử Mãn Châu!”.
                            Bà già thở dài rồi tiếp tục nói: “Sau khi Thiên Lan tỉnh dậy, nước mắt tuôn trào. Một lúc lâu sau mới nói: ‘Muội tử, Thiên Thành vẫn còn sống, dù thế nào chúng ta cũng phải tìm y để gia đình các người đoàn tụ’. Tôi đương nhiên cũng nghĩ như thế, nhưng ta biết tính Thiên Thành nóng nảy. Có lẽ đến chết ông ta cũng không tha thứ cho bọn ta.
                            Sau khi bình tĩnh chúng ta bàn kế lâu dài. Thiên Lan nói: ‘Việc đã đến nước này, muội tử, muội đành phải chịu thiệt thòi, chúng ta hãy làm vợ chồng hữu danh vô thực. Biển người mênh mông, trong một lúc khó tìm được Thiên Thành, ngày tháng chạy nạn sẽ rất khó khăn, huống chi muội còn có hai con nhỏ, chúng ta hãy đi theo Lý Định Quốc rồi tính tiếp!’ Thế là bọn ta dắt theo một đám nạn dân đi theo Lý Định Quốc. Bề ngoài bọn ta tuy là phu thê nhưng thực sự chỉ coi nhau như huynh muội. Giờ đây tôi không ngại nói rằng, mấy mươi năm qua tôi và Thiên Lan có thể nói là trong sạch như băng tuyết, chẳng hề có chuyện đáng hổ thẹn!”.
                            Ông già mặt đỏ lau nước mắt rồi nói: “Tôi đã biết chuyện này!” bà già nhìn ông ta, đang định hỏi thì ông ta đã nói: “Nhưng lúc đó tôi rất ân hận hai người. Tôi chỉ một mình chẳng hề thân thích, phiêu bạt bốn phương. Sau đó đi thẳng đến Hồi Cương, ở phía nam Thiên Sơn đã gặp bậc danh túc của phái Võ Đang là Trác Nhất Hàng, học được hai món tuyệt kỹ của ông ta là Cửu Cung Thần Hành chưởng và Uyên Ương Liên Hoàn Thoái. Lúc đó tôi vì hận các người, thề rằng không dùng công phu của cha bà truyền dạy. Tôi biết, nếu luận về công phu bổn môn, Thiên Lan còn cao hơn cả tôi”.
                            Lăng Vị Phong chen vào hỏi: “Lúc còn nhỏ tôi có nghe nói đến Trác Nhất Hàng, ông ta là bằng hữu của gia sư Hối Minh thiền sư. Đáng tiếc tôi lên Thiên Sơn không bao lâu thì ông ta đã chết. Ông già mặt đỏ mở mắt nhìn Lăng Vị Phong, kêu ủa một tiếng rồi nói: “Té ra ngươi chính là đệ tử quan môn của Hối Minh thiền sư. Khi ta lưu lạc đến Hồi Cương cũng từng nghe nói đến Hối Minh thiền sư. Muốn theo ông ta học kiếm nhưng ông ta chẳng chịu dạy. Sau đó mới bảo ta đến gặp Trác Nhất Hàng. Có lẽ giờ đây người đã gần trăm tuổi”. Bà già tiếp lời: “Chả trách nào kiếm pháp của ngươi lại lợi hại đến thế! Tính ra tên tiểu tử nhà ngươi cũng cùng vai vế với hai người già bọn ta”. Lăng Vị Phong mỉm cười, nói: “Không dám!” ông già mặt đỏ tiếp tục nói: “Trác Nhất Hàng là bằng hữu thân thiết của Hối Minh thiền sư, võ công đương nhiên cũng cao cường. Tôi học được bảy năm, thì trở về Tứ Xuyên tìm các người báo thù. Lúc đó Tứ Xuyên đã bị quân Thanh san bằng, chỉ có tàn dư của Lý Sấm vương vẫn chiếm ở ranh giới Tứ Xuyên và Vân Nam. Sau trận kiếp nạn, tất cả người thân bằng hữu quá nửa đều đã qua đời. Tôi chẳng tìm ra các người, cũng chẳng dò hỏi. Sau đó nghe các cao thủ võ lâm nói rằng trên đỉnh Kiếm Các có một cao nhân ẩn cư, tôi đoán đó là Thiên Lan nên mới hai phen đến báo thù!
                            Bà già nói: “Từ sau khi chúng tôi đầu hàng Lý Định Quốc, không lâu sau thì đã được trọng dụng. Thiên Lan trở thành ái tướng tâm phúc của Lý Định Quốc, tôi cũng giúp coi sóc sự vụ trong doanh trại, vốn là có thể ở cùng với người thân của các tướng lĩnh cao cấp nhưng chúng tôi tự nguyên tách ra. Ngày nọ Lý Định Quốc hỏi thì Thiên Lan đã kể toàn bộ sự việc. Lý Định Quốc mới bảo sẽ giúp chúng ta tìm lại nhau. Ông ta cũng thật nghĩa khí, dù sự vụ trong quân bận rộn nhưng vẫn sai người tìm tung tích của Thiên Thành, nào ngờ lúc đó Thiên Thành đã đến Hồi Cương!
                            Ta đã cất giữ chiếc áo vàng mà Thiên Thành bỏ lại. Trên chiếc áo vẫn còn vài giọt máu của Thiên Thành, ta phải giữ lại chiếc áo ấy cho Trọng Minh. Từ lúc còn bé ta đã may đồ màu vàng cho Trọng Minh, mọi người gọi hắn là bé áo vàng. Có người lấy làm lạ hỏi ta tại sao chỉ may áo vàng cho con trai? Ta chỉ cười không đáp. Nguyên nhân này ta chưa bao giờ nói với Trọng Minh, ta thề rằng sau khi cha con họ gặp nhau ta mới nói. Trời cao thương xót, hôm nay rốt cuộc hai cha con đã gặp được nhau!”.
                            Thiếu niên áo vàng nghe đến đây thì nước mắt tuôn trào, chàng khẽ gọi một tiếng “mẹ”. Bà già vuốt mái tóc chàng rồi tiếp tục nói: “Lúc đầu Lý Định Quốc chiếm được Tứ Xuyên và Quý Châu chống lại quân Thanh, thanh thế rất lớn, đáng tiếc hoàng hôn tuy đẹp nhưng mau tàn. Sau khi quân Thanh bình định Trung Nguyên thì kết minh thành ba đường tấn công mạnh. Bọn đại hán gian Hồng Thừa Tụ, Ngô Tam Quế đều là tiên phong của quân Thanh, mà một cánh quân chủ lực của Trương Hiến Trung là Tôn Khả Vọng đột nhiên đầu hàng quân Thanh. Lý Định Quốc đại bại, bị đuổi chạy đến Miến Điện, thổ huyết mà chết ở Mãnh Lạp. Trước khi chết ông ta đã giao một bức thư cho Thiên Lan, nói: “Nếu ngày sau gặp Thiên Thành thì hãy trao bức thư này cho ông ta! Thiên Thành đã là đệ tử bậc cao thủ võ lâm, ông ta không tin ông cũng phải tin tôi!” Lý Định Quốc là chủ soái mà lòng đầy nghĩa hiệp, có thể nói rất đáng kính ngưỡng. Ông ta nói một lời nặng như chín đỉnh, trước khi chết mà vẫn không quên chuyện của Thiên Lan!
                            Sau khi Lý Định Quốc chết đi, chúng tôi từ Miến Điện trở về, lúc đó nghĩa quân ở Tứ Xuyên đã hoàn toàn tan vỡ. Thiên Lan bảo tôi cùng đến Kiếm Các ẩn cư. Ông ta nói trước đây đã từng tuân theo lệnh Lý Định Quốc đến Kiếm Các vài lần, nơi đó trái cây thú hoang rất nhiều, có thể sống mà chẳng lo lắng gì. Ông ta cũng không nói tại sao đến Kiếm Các, tôi cũng chẳng hỏi”.
                            Ông già mặt đỏ nói tiếp: “Sau khi tôi biết các người đến Kiếm Các ẩn cư, tôi đã lên sạn đạo tìm các người, lúc đó tôi cũng thu được một học trò tên gọi Hoán Vu Trung, công phu cũng rất khá. Tôi dắt hắn đến Kiếm Các, bảo hắn ở dưới đáy cốc chờ tôi, tôi chuẩn bị chẳng may vùi thây nơi núi hoang cũng có người chôn xác.
                            Tôi đến lúc nửa đêm khiến Thiên Lan bất ngờ. Ông ta định giải thích với tôi, nhưng hai mươi năm qua tôi nuốt nhục chờ đợi, nào có thể nghe ông ta nói. Vừa gặp mặt đã dùng Cửu Cung Thần Hành chưởng đánh ông ta, ông ta chỉ chống đỡ. Tôi tưởng rằng học thành tuyệt kỹ, có thể nắm chắc phần thắng, không ngờ công phu của ông ta chẳng kém gì tôi, không những Đại Lực Ưng Trảo công của bổn môn đã luyện đến mức lư hỏa thuần thanh mà cũng đã học được tuyệt kỹ Miên chưởng trong võ lâm, so với Cửu Cung Thần Hành chưởng của tôi còn lợi hại hơn! Ông ta cứ nhường tôi, nhưng tôi tưởng rằng ông ta áy náy nên mới làm thế, bởi vậy càng bực tức hơn, càng đánh càng gấp, định rằng sẽ liều mình cùng ông ta. Chúng tôi càng đánh càng dữ, ông ta cứ lùi ra phía sau, tôi cứ tiến tới phía trước, khi dồn ông ta đến mép vực thì đột nhiên có người kêu lớn Thiên Thành, tôi nhìn lại thì quả nhiên thấy thê tử và một thiếu niên áo vàng bước tới! Tôi nghĩ thiếu niên áo vàng này chắc chắn là con của tôi. Từ nhỏ nó đã xa rời tôi, tôi cũng không biết nó trông như thế nào, tôi không khỏi ngẩn người ra bước lên nhìn nó. Không ngờ nó vung tay, phát ra ba mảnh kim hoàn, công phu ám khí của nó đều do mẹ nó truyền thụ, kình đạo còn lợi hại hơn cả bà ta! Thiên Lan vọt lên vỗ một cái, đánh rơi một mảnh ám khí, tôi đang thẫn thờ chẳng thể nào né tránh, hai mảnh còn lại đều đánh trúng vào người tôi, tôi vội bế huyệt đạo, nhưng vẫn rất đau đớn. Lúc đó tôi phẫn nộ vô cùng, tưởng rằng bà ta không nhận tôi là phu quân, con không nhận tôi là cha, lại còn hợp lực mưu hại tôi. Tôi còn ở đây làm gì? Thế là tôi nhảy xuống vực sâu! Bên tai còn nghe tiếng kêu của vợ và tiếng khóc của con!”
                            Ông già mặt đỏ kể đến đây thì ngừng lại, đồ đệ của ông ta bưng một mâm trái cây xuống rồi rót một chén trà đưa cho ông già: “Sư phụ, hãy ăn chút đồ!” ông già gật đầu nói: “Đồ đệ ngoan, sư phụ thật tệ với con, mọi người cũng ăn chút đồ đi thôi!”.
                            Một hồi sau Hoán Vu Trung nói: “Tôi vâng lệnh sư phụ chờ ở phía dưới tiếp ứng cho người. Người cũng chẳng hề dặn tôi sẽ làm gì, chỉ bảo rằng người sẽ gặp kẻ thù lớn nhất trong đời, tôi bên dưới nghe tiếng sư phụ quát thì tim đập thình thình, không lâu sau thì chợt thấy sư phụ từ trên rơi xuống, tôi vội vàng chạy đến tiếp, may mà sư phụ bị thương không nặng, người vừa đứng dậy thì đã xua tay bảo tôi chạy cho mau. Tôi hỏi người không nói gì cả, chỉ bảo rằng tôi phải cố học tuyệt kỹ cho giỏi!”.
                            Bà ta nhắp ngụm trà rồi nói tiếp: “Đêm ấy tôi ngủ cùng Trúc Quân, nửa đêm tỉnh dậy thì nghe bên ngoài có tiếng đánh nhau. Tôi vốn định rằng khi chết mới cho con biết, bởi vì tôi không muốn tâm hồn trong trẻo của chúng có bóng đen. Nên nó vẫn không biết rằng ông là cha của nó. Nó vừa ra tay Thiên Lan đã kêu lớn: “Đó là cha con”. Nhưng đã muộn!”.
                            Thiếu niên áo vàng nói: “Tôi lớn lên ở Kiếm Các, cũng cảm thấy cha có điều khác lạ, chúng tôi tuy sống rất hòa thuận nhưng đến tối thì tôi theo cha, em gái theo mẹ. Mười năm như một ngày, ngày thường đối đãi nhau cũng rất khách sáo, chẳng khác gì bằng hữu. Nhưng tôi không ngờ rằng bên trong lại có tình tiết phức tạp như thế, đêm hôm ấy dưỡng phụ và mẹ đã chảy nước mắt nói thực với tôi, chuyện ấy như sấm nổ giữa trời xanh. Tôi cũng không biết hận ai mới phải, tôi chỉ có thể hận bản thân! Tôi hoang mang cầm kiếm chạy xuống núi, dưỡng phụ ở phía sau chỉ thở dài chứ không cản tôi. Sau khi xuống núi tôi chẳng suy nghĩ gì cả, cũng không biết tìm đâu ra cha ruột của mình, chỉ là ngày cũng như đêm, lúc nào cũng tựa như có giọng nói vang lên bên tai tôi: ‘Ngươi đã giết cha ruột của ngươi!’ tôi không chịu nổi nữa, ngày nọ cứ chạy bừa ngoài đồng trống, tự dày vò mình, trong một ngày mùa đông tuyết rơi tôi đã nằm ngất giữa đồng hoang!”.
                            Nói đến đây chợt nghe bên ngoài có tiếng động nhỏ, bà già chỉ Lăng Vị Phong, chưa kịp lên tiếng thì chàng đã rút soạt thanh kiếm ra khỏi vỏ, lướt ra khỏi căn nhà như con chim én. Bà già nói: “Có tiếng động cũng chưa chắc là người, nhưng phải phòng bị thì tốt hơn. Có Lăng đại hiệp ra ngoài xem xét, chúng ta không cần sợ bọn tiểu tặc đến quấy nhiễu nữa!”.
                            Thiếu niên áo vàng tiếp tục nói: “Không biết tôi đã ngất bao lâu, lúc đó mới được bọn người Ngũ Long bang cứu tỉnh. Sau đó đã mất trí nhớ, cả tên mình cũng quên hẳn”.
                            Mạo Hoàn Liên nói: “Chuyện sau đó muội sẽ kể dùm huynh”. Nàng kể lại một lượt chuyện đã chữa trị thế nào cho thiếu niên áo vàng. Bà già nghe mà mừng mừng tủi tủi, khẽ kéo tay nàng nói: “Hoàn Liên cô nương, tôi không biết cám ơn cô nương thế nào mới đúng!” ông già mặt đỏ mở mắt nhìn Mạo Hoàn Liên, lại nhắp một ngụm trà, nói tiếp: “Cô nương, tôi đã nhớ được cô nương, cô nương là người đứng trên Kiếm Các xem chúng tôi đánh nhau vào ngày hôm đó. Nghe Trúc Quân nói, cô nương đã giúp chúng tôi rất nhiều! Đó là lần thứ hai tôi đến tìm Thiên Lan tính sổ. Sự việc cũng đúng là trùng hợp, Trúc Quân đã lớn, cũng giống như ca ca của nó, dùng ám khí đả thương tôi. Tôi vì cứu nó nên đã ôm Bát Tý Na Tra Tiêu Bá cùng lăn xuống cốc sâu, tuy tôi đã giết chết y nhưng cũng đã tàn phế”.
                            Trúc Quân nghe xong thì vuốt tóc, nắm tay Mạo Hoàn Liên nói: “Đêm ấy tôi đau lòng nhảy xuống vực sâu, may mà tôi lớn lên ở chốn núi rừng, vẫn thường leo trèo với khỉ vượn. Tuy không dám nói có khinh công tuyệt đỉnh nhưng thân thủ cũng rất linh hoạt, tôi lăn xuống cốc sâu, phát hiện cha tôi đã được Trung sư huynh cứu tỉnh, thế là tôi đến gặp người. Lúc ấy người tuy bị trọng thương nhưng thấy tôi thì vẫn rất vui mừng, kéo tôi hỏi han này nọ. Tôi nói với người hai mươi năm qua, tôi vẫn thường ngủ với mẹ, mẹ rất yêu thương tôi. Người nghe xong thì lẩm bẩm: ‘Chả lẽ họ chỉ là phu phụ trên danh nghĩa?’ tôi nghe mà chẳng hiểu gì cả”.
                            Bà già thầm gật đầu, nhủ bụng: “Chả trách nào lúc nãy ông ta nói đã biết”. Ông già mặt đỏ lúng túng mỉm cười, nói tiếp: “Vài ngày sau mẹ của Trọng Minh trở về. Lúc đó tôi vì bị thương nặng không thể cử động, Vu Trung và Trúc Quân chỉ đành hầu hạ tôi. Sau khi bà ấy đến thì mới hợp lực tạo ra căn thạch thất này.
                            Phu thê chúng tôi gặp lại tựa như cách thế. Bà ngồi bên giường bệnh mà ứa nước mắt kể lại sự tình tôi mới hiểu tất cả. Lửa giận đã tiêu tan! Sau đó bà còn sợ tôi không tin, lấy một bức thư ra. chính Lý Định Quốc trước khi chết đã nhờ Thiên Lan sư huynh gởi bức thư này cho tôi, lời lẽ bức thư rất khẩn thiết, ông ta lấy thân phận chủ soái đảm bảo rằng Thiên Lan không phải người xấu, đồng thời chứng thực Thiên Lan và bà chỉ là một cặp vợ chồng trên danh nghĩa”.
                            Ông già mặt đỏ nói đến đây thì vuốt tóc thiếu niên áo vàng: “Nếu chẳng phải cha còn muốn gặp mặt con, lúc đó cha đã liều mình! Thiên Lan sư huynh đối với ta ân sâu nghĩa nặng thế mà cha đã bức tử ông ta! Cha thật sự chẳng phải con người! Con ơi! Cha muốn con từ rày về sau mang họ Quế chính là vì báo đáp ông ta. Đứa con đầu tiên của con coi như là cháu của Quế Thiên Lan, nó sẽ kế thừa hương hỏa nhà họ Quế. Đứa con thứ hai mới là cháu nội của ta, kế thừa hương hỏa nhà họ Thạch. Con ơi! Con phải nhớ ơn đức của nghĩa phụ con suốt đời!”.
                            Bao nhiêu ân oán giữa Thạch Thiên Thành và Quế Thiên Lan đến đây đã rõ, tất cả mọi người đều không khỏi đau lòng, thở dài thườn thượt! Bà già chợt lấy hành lý trên lưng thiếu niên áo vàng, mở ra, bên trong có mấy bộ áo vàng. Ông già mặt đỏ chép miệng: “Con ơi! Mấy năm nay đã cực khổ cho con, may mà con vẫn có thể hiểu cho nỗi khổ tâm của mẹ con, tuy mất hết trí nhớ nhưng vẫn luôn mặc y phục màu vàng”. Bà già vẫn không nói gì, chọn một bộ áo vàng đưa tới rồi nói: “Thiên Thành, ông hãy xem chiếc áo vàng này có phải là chiếc áo vàng năm ấy tôi đã may, trên áo còn dính vết máu của ông?” ông già mặt đỏ nhìn chiếc áo mà lệ tuôn rơi. Bà già nói: “Chúng tôi vẫn cất giữ bộ áo này, năm Trọng Minh mười tám tuổi mới để cho nó giữ. Chúng tôi bảo đó là một tín vật gia truyền, có thể nhờ bộ áo này để tìm một người thân đã thất lạc. Lúc đó nó rất nghi hoặc, cũng đã hỏi nhưng tôi bảo vẫn chưa đến lúc, đừng hỏi nhiều. Đứa con này rất nghe lời, quả nhiên đã cất giữ. Ông thấy không, nó lưu lạc bao nhiêu năm mà vẫn giữ kỹ chiếc áo này!”.
                            Ông già mặt đỏ mở chiếc áo vàng ra, câu chuyện hai mươi năm trước như hiện về trước mắt, trong nhất thời đau đớn như muôn ngàn mũi tên đâm vào trong tim! Bộ áo vàng này đã cũ kỹ nhưng trong mắt ông ta vẫn còn như lúc vợ mới may. Ông ta chợt bảo thiếu niên áo vàng châm một cành cây tùng đem tới. Ở nơi cốc hoang không có đèn, trong thạch thất chỉ đốt cành tùng chiếu sáng. Thiếu niên áo vàng lấy cành tùng tới, ông già mặt đỏ bỏ chiếc áo lên ngọn lửa, chiếc áo bốc cháy phừng phừng. Ông ta nói: “Hôm nay cả nhà đoàn viên, vật không may này đừng nên giữ nữa!”.
                            Đột nhiên thiếu niên áo vàng kêu lên: “Mọi người xem đây là gì?” khi mọi người nhìn lại chỉ thấy trong ánh lửa xuất hiện một bức tranh, trong tranh là một dòng thác, ở cuối dòng thác nước đổ xuống như rèm châu trước cửa một sơn động, cửa đá sơn động đóng chặt, trong ánh lửa còn hiện bảy chữ lớn “Trái ba phải bốn giữa mười hai”. Ai nấy đều lấy làm lạ, không biết đó là ý nghĩa gì, chiếc áo cháy rất nhanh, trong chốc lát đã biến thành tro. Mạo Hoàn Liên vẫn nhớ bức tranh ấy, định rằng ngày sau sẽ vẽ lại.
                            Thạch Thiên Thành thắc mắc hỏi: “Cái gì thế này?” Mạo Hoàn Liên nói: “Tôi nghe Phó bá bá nói có một loại cỏ dại, đốt thành tro pha với nước dùng để viết chữ, nét chữ không hiện ra, nếu đem đốt đi thì sẽ lộ ra. có một số bang hội bí mật đã từng dùng loại cỏ dại này chế thành mực nước ẩn hình để viết những bức thư bí mật. Đáng tiếc loại cỏ hoang này rất khó tìm, cũng rất ít người biết cách dùng”.
                            Thạch Thiên Thành nói: “Tôi nhận ra nét chữ ấy là của Thiên Lan sư ca, nhưng không biết bức tranh ấy có ý nghĩa gì?” bà già ngạc nhiên nói: “Tôi cũng từng nghe ông ta nói. Từ sau khi ẩn cư ở Kiếm Các, ông ta càng lúc càng trầm mặc, có những ngày chẳng nói một câu, tôi cũng không biết ông ta đã vẽ bức tranh này khi nào!”
                            Lại nói Lăng Vị Phong cầm kiếm ra ngoài tuần tra. Trong sơn cốc nước chảy róc rách, đom đóm ẩn hiện, chàng nghĩ đến câu chuyện bi thảm của những người trong nhà thì liên tưởng đến thương thế của mình, chàng bất giác thẫn thờ. Đang suy nghĩ thì chợt thấy có hai bóng đen từ xa lướt tới.
                            Lăng Vị Phong thầm nhủ: “Hai kẻ này chắc là bọn người mà bà già đã nói, xem thử bọn chúng làm gì?” rồi chàng nằm phục xuống trong đám cỏ. Thân pháp của hai người này rất nhanh, trong chớp mắt đã đến trước mặt chàng, chỉ nghe người ở giữa nói: “Nghe nói Quế lão đầu nấp ở Kiếm Các! Nhưng sao tìm không thấy y mà chỉ có một căn nhà tranh rách nát?” người kia nói: “Chờ Hàn đại ca đến thì sẽ có cách thôi, có điều chỉ sợ y không đến”. khi đang nói thì cả hai người chỉ còn cách Lăng Vị Phong bốn năm trượng. Lăng Vị Phong vò một viên bùn rồi búng vào vai của kẻ đứng phía sau, kẻ ấy nhảy nhổm lên, đưa mắt nhìn xung quanh nhưng chẳng thế bóng người. Lúc này một trận gió thổi tới, cây cổ thụ bên cạnh rơi xuống mấy chiếc lá. Người ấy cũng là cao thủ nội gia, lúc đầu còn tưởng là bùn trên cây rơi xuống, nhưng nghĩ lại nếu là rơi từ trên cây xuống mình sẽ không đau điếng như thế. Y vỗ người phía trước nói: “Đứng sánh vai với nhau, có bằng hữu phương khác đến!” người phía trước quay đầu nói: “Đào đại ca, huynh thấy gì thế?” kẻ được gọi là Đào đại ca chẳng nói lời nào, vén tà áo phóng lướt lên cây, đưa mắt nhìn xung quanh, đột nhiên cành cây y đang đứng chân kêu răng rắc rồi gãy lìa. May mà công phu khinh thân của y cao cường, y mới nhẹ nhàng hạ xuống đất rồi đưa mắt nhìn xung quanh. Lăng Vị Phong không khỏi bật cười.
                            Hai người ấy quay lại mắng: “Bằng hữu phương nào xin mời ra đây chỉ giáo cho ba chiêu hai thức, cứ lén lút như thế đâu phải là anh hùng?” Lăng Vị Phong đứng dậy, nói: “Ta đang ở đây? Ai bảo các người không nhận ra?”.
                            Hai người ấy tên gọi là Bát Phương Đao Trương Nguyên Chấn, một kẻ là Hắc Sát Thần Đào Hoằng, đều là đại đạo độc cước ở miền Thiểm Tây, luận về công phu chẳng phải tay thường nhưng thuật khinh công ám khí thì kém xa Lăng Vị Phong. Lúc này bọn chúng bị Lăng Vị Phong ngầm thử tài, đều rất nổi giận, thế là nhảy bổ đến chàng!
                            Lăng Vị Phong giở chưởng thử trước ngực, đứng yên chẳng hề nhúc nhích. Trương Nguyên Chấn đấm tới một quyền từ bên trái, chàng đột nhiên hạ chưởng chặn lại, Trương Nguyên Chấn hơi thất kinh, đánh ra một chiêu Thủ Huy Tì Bà, hóa giải đòn hoành kình của Lăng Vị Phong. Đào Hoằng lao bổ tới từ bên phải, điểm chỉ vào huyệt Thông Tuyền của Lăng Vị Phong.
                            Lăng Vị Phong lắc người tránh qua, trở tay điểm lại vào huyệt Kính Cơ ở eo của Đào Hoằng, miệng cười rằng: “Nhà ngươi mà cũng biết điểm huyệt?” Lăng Vị Phong ra tay nhanh như điện, Đào Hoằng hóp ngực thu bụng tuy chưa bị điểm trúng nhưng áo cũng bị Lăng Vị Phong đâm một lỗ nhỏ, chàng thừ thế móc hai ngón tay xé được một mảng áo của y.
                            Đào Hoằng nhảy bổ đến hỏi: “Ngươi là ai?” Lăng Vị Phong nói: “Các ngươi là ai?” Trương Nguyên Chấn lúc này đã thấy vết đao trên mặt Lăng Vị Phong, thất kinh kêu lên: “Ngươi có phải là Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong đấy không?” Lăng Vị Phong kiêu ngạo nói: “Ngươi cũng biết đến tên ta?” Trương Nguyên Chấn nói: “Ngươi ở miền Tây bắc cũng khó lắm, cần gì phải đến đây?” Lăng Vị Phong quát hỏi: “Người trong thiên hạ quản chuyện thiên hạ, các ngươi dám đến bức hiếp người già tàn tật, ta không thể không quản!”.
                            Đào Hoằng vội vàng ôm quyền nói: “Lăng đại hiệp, ông nói Quế Thiên Lan đã tàn phế rồi sao? Chúng tôi chẳng phải là kẻ thù của y, y đang ở đâu? Làm phiền ông dẫn kiến”.
                            Lăng Vị Phong chưa lên tiếng thì từ xa đã có ba người phóng tới, Lăng Vị Phong thấy toàn là những ông già tuổi trên năm mươi. Trương Nguyên Chấn, Đào Hoằng vái dài rồi nói: “La đương gia, Đạt thổ ty và Lưu đà chủ đều đến. Chúng ta là bằng hữu hợp nhau, có dưa thì mọi người cùng ăn!” Lăng Vị Phong nghe xong thì biết đó là tiếng lóng của bọn lục lâm. Người trong chốn lục lâm khi cướp được một món đồ, hễ gặp một nhóm khác, nếu không muốn đổ máu thì cùng chia nhau. Lăng Vị Phong lấy làm lạ, bọn người này có vụ làm ăn nào trong hoang cốc?”.
                            Trương Nguyên Chấn chỉ Lăng Vị Phong nói: “Đây là Tây Bắc du hiệp Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong”. Ba người kia hờ hững khẽ gật đầu, Trương Nguyên Chấn lại giới thiệu với Lăng Vị Phong: “Vị này là La đương gia La Đạt ở miền Xuyên Bắc Mi Sơn, còn đây là Thổ ty ở Thạch Để tên gọi Đạt Tam Công. Còn đây là Đà chủ của bang Thanh Dương Lư Đại”. Lăng Vị Phong vừa nghe thì biết ba người này là những kẻ có tên tuổi ở miền Tứ Xuyên, chàng tuy nổi tiếng ở miền Tây Bắc, nhưng lại chưa từng đến Tứ Xuyên, chả trách nào bọn họ vừa nghe tên của mình thì chỉ hờ hững. Nhưng không biết thế nào mà trong một đêm có nhiều lục lâm cao thủ đến đây, vả lại trong đó còn có cả cao thủ ngoại gia Đạt thổ ty!
                            Thế rồi Trương Nguyên Chấn nói: “Lăng đại hiệp là bằng hữu của Quế lão đầu. Y bảo Quế lão đầu đã tàn phế, chúng tôi định nhờ y dẫn kiến”. Ba người kia đều khen tốt. Lăng Vị Phong vốn muon bảo rằng Quế Thiên Lan đã chết nhưng nghĩ lại thì im bặt. Chàng nghĩ bọn chúng đã bảo chàng là bằng hữu của Quế Thiên Lan vậy thì cứ dẫn bọn chúng đến gặp Thạch thái thái rồi tính tiếp”.
                            Lại nói mọi người đang ở trong thạch thất đoán bức tranh của Quế Thiên Lan. Chợt nghe bên ngoài có tiếng bước chân, bà già tuốt kiếm ra nói: “Chả lẽ có tặc tử nào lại đến, cả Lăng Vị Phong mà chẳng chặn kịp?” bà ta phóng ra, chỉ thấy Lăng Vị Phong đi trước cao giọng kêu: “Thạch lão thái thái, có vài bằng hữu đến gặp bà, họ nói quen biết với Quế Thiên Lan!”.
                            Trương Nguyên Chấn và Đạt thổ ty nghe Lăng Vị Phong kêu Thạch lão thái thái thì cảm thấy ngạc nhiên, bọn chúng nói: “Quế lão tẩu, có còn nhớ chúng tôi không? Thiên Lan huynh có ở đây không?” bà già sầm mặt, nói: “Quế Thiên Lan đã bị bọn người của triều đình hại chết. Các người đã đến muộn một bước, đương gia của ta Thạch Thiên Thành thì nằm trong nhà, có điều giờ đây ông ta đã là một phế nhân, không dám mời các bằng hữu vào!” nói xong thì giơ kiếm chặn trước cửa.
                            Khi bà ta và Quế Thiên Lan ở chỗ Lý Định Quốc đã quen biết Trương Nguyên Chấn và Đạt thổ ty. Trương Nguyên Chấn là kẻ cầm đầu một nhóm sơn tặc, lúc đó cũng nghe theo hiệu lệnh của Lý Định Quốc, Đạt thổ ty đã có một lần mượn đường đi ngang qua căn cứ địa của Lý Định Quốc, lúc đó người đứng ra giải quyết sự vụ là Quế Thiên Lan.
                            Trương Nguyên Chấn và Đạt thổ ty nghe bà già nói như thế thì đều chưng hửng! Bọn chúng không hề biết bà già còn có một đương gia khác, chỉ tưởng rằng bà nói dối, nhưng thấy bà ta cầm kiếm đứng ngang trước cửa thì không dám ra tay bừa bãi. Bởi vì năm xưa bà cũng là một bậc nữ kiệt trong quân của Lý Định Quốc, Ngũ Cầm kiếm pháp nổi tiếng miền Xuyên Trung. Không biết Đạt thổ ty thế nào nhưng Trương Nguyên Chấn thì đã hơi khiếp sợ. Đang chần chừ thì chợt thấy từ xa có bóng người loáng thoáng.
                            Mọi người nheo mắt nhìn chỉ thấy Đà chủ của Thanh Dương bang là Lư Đại hỏi: “Có phải là Thạch tẩu tẩu đấy không? Tôi là Lư Đại đây, năm xưa đã từng nhận ân điển của lệnh tôn, cũng đã uống rượu mừng của hiền khang lệ, nếu Thạch đại ca ở đây, theo lý phải để tiểu đệ vào bái kiến”. Lư Đại là đệ tử tục gia của phái Nga Mi, thời còn trẻ đã đắc tội với hai nhân vật giang hồ cực kỳ lợi hại, may mà được cha của Thạch đại nương là Diệp Vân Tôn ra mặt hóa giải nên mới yên. Nhờ đó y cũng đã thay đổi rất nhiều, bởi vậy có thiện cảm với Diệp Vân Tôn. Sau này Thạch đại nương kết hôn, y cũng đến chúc mừng, từ ngày uống xong bữa rượu mừng đó đến nay đã ba mươi năm. Chuyện của Thạch đại nương và Quế Thiên Lan y hoàn toàn không biết.
                            Bà già trợn mắt, vẫn giơ ngang kiếm đứng trước cửa, nhìn Lư Đại nói: “Đa tạ các vị bằng hữu đã có ý tốt, chỉ là đương gia của tôi bị vệ sĩ đại nội ám toán khiến cho trở thành phế nhân, đêm qua bọn chúng cùng từng đến nơi này lục soát, đả thương con gái của tôi, giờ đây đương gia của chúng tôi đang đợi bọn ưng khuyển đến, không muốn làm phiền đến bằng hữu”. Lư Đại nổi giận đùng đùng hỏi: “Có chuyện này nữa hay sao?”.
                            Khi đang nói thì bóng người đã đến trước căn thạch thất. Bà già cười gằng hỏi: “Hãy nhìn xem, đó chẳng phải là bọn vệ sĩ đến hay sao?” Lư Đại xoay đầu nhìn lại, quả nhiên có năm tên vệ sĩ mặc toàn đồ màu xanh tản ra tạo thành thế bao vây.
                            Lư Đại nói: “Để tôi trừ khử bọn chúng trước!” rồi phóng vọt người lên, nhưng lại bị Mi Sơn trại chủ La Đạt kéo lại: “Lư đại ca, khoan đã, chúng ta đừng bỏ qua cơ hội này!”.
                            Trong năm tên vệ sĩ thì có ba tên là đại nội cao thủ, kẻ đứng đầu tên gọi Vương Cương, nổi tiếng võ lâm nhờ môn Kim Cương Tán Thủ, hai người kia là Thân Thiên Hổ và Thân Thiên Báo, hai người này là một cặp huynh đệ, nổi tiếng nhờ môn Ngô Câu kiếm pháp. Hai tên còn lại là vệ sĩ trong phủ Tổng Đốc Xuyên Thiểm tên gọi Hồng Đào và Tiêu Trực. Trước đây bọn chúng cũng là nhân vật lục lâm, sau đó mới đi theo Tổng Đốc Xuyên Thiểm. Hai người này đã dắt đường cho bọn Vương Cương.
                            Hồng Đào, Tiêu Trực đều quen biết với bọn La trại chủ, Đạt thổ ty, Trương Nguyên Chấn, thế rồi nói với Vương Cương rồi chào rằng: “Chúng tôi vâng lệnh đến đây bắt khâm phạm Thạch Thiên Thành, những người khác đều không có liên quan. Các bằng hữu, xin nhường đường!”.
                            Lư Đại gầm lên quát: “Không được!” La Đạt lại bảo: “Đại ca, người ta đang có chuyện gấp, huynh lo gì?” bọn La Đạt, Trương Nguyên Chấn, Đào Hoằng, Đạt thổ ty tuy là nhân vật lục lâm hùng bá một phương nhưng cũng chỉ là lục lâm bình thường, chắc không thể so sánh với bọn Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung. Bọn chúng tụ tập ở chốn núi rừng chỉ muốn có chỗ đứng chân mà thôi, bởi vậy xưa nay chẳng xích mích hay qua lại gì với quan binh. Nếu bọn chúng đối đầu với vệ sĩ đãi nội, bao che cho khâm phạm, bọn chúng cũng chẳng muốn. Vả lại cả bọn cũng chẳng có giao tình thân thiết với Quế Thiên Lan, Thạch Thiên Thành.
                            Bà lão ôm kiếm trước ngực, vái dài Lư Đại rồi nói: “Bà già này xin đa tạ người bằng hữu, cũng không dám làm khó bằng hữu, tôi tuy già nhưng cũng không đến nỗi lẩm cẩm. Các bằng hữu xin tránh ra! Ta cũng muốn xem tay chân của Hoàng đế lão tặc ra thế nào?”.
                            Bà già múa thanh kiếm toan phóng vọt ra. Lăng Vị Phong tiến lên một bước, chặn ở phía trước cao giọng kêu: “Đại nương, cứ để bọn thỏ này cho tôi. Đã lâu rồi tôi không ăn thịt thỏ, nếu bà muốn, tôi sẽ để giành cho bà hai con!” nói xong thì điểm mũi chân phóng vọt tới trước mặt ba tên vệ sĩ. Bà già cười ha hả: “Được, ta nhường cho ngươi, ngươi có đói thì ăn hết cũng được!”.
                            Lăng Vị Phong điểm mũi chân xoay người, nhìn ba tên vệ sĩ rồi lạnh lùng hỏi: “Chủ nhân đã giao mọi chuyện cho ta, các người hãy xông về phía ta!” Hồng Đào cao giọng nói: “Ngươi chẳng phải nhân vật chủ chốt, dựa vào cái gì mà ra nói chuyện với bọn ta? Bằng hữu, chúng ta nước sông không phạm nước giếng, đừng xen vào chuyện của nhau. Non xanh còn đấy, nước biếc chảy dài, sao không kết bằng hữu với nhau. Chúng tôi thấy ngươi là một người tốt!”.
                            Lăng Vị Phong nặng lời như thế mà tại sao Hồng Đào vẫn khách sáo với chàng? Té ra lúc nãy Hồng Đào đã nhận ra bọn La Đạt, Đạt thổ ty cùng một đường với chàng. Y chỉ lo Lăng Vị Phong ra tay thì bọn này sẽ giúp chàng. Những kẻ này toàn là cao thủ lục lâm, tuy y không biết Lăng Vị Phong nhưng từ khinh công của chàng có thể thấy chàng chẳng phải tay tầm thường. Năm người bọn chúng nếu chỉ đối phó với vợ chồng Thạch Thiên Thành, con gái và đồ đệ của ông ta thì dư sức. Nhưng nếu đấu với cả những người kia thì không dễ tí nào. Bởi vậy y tuy bực dọc nhưng cũng phải nói lời tốt đẹp. Y tưởng Lăng Vị Phong cũng giống như La Đạt, đều là nhân vật lục lâm có thể lợi dụng được.
                            Nào ngờ y không nói thì thôi, nhưng đã nói xong thì Lăng Vị Phong chợt quát lớn: “Đánh rắm, ai là bằng hữu của ngươi!” chàng thấy Hồng Đào nhìn quần hào thì lớn giọng nói: “Các người cứ xông về phía một mình ta là đủ!” rồi quay sang bọn La Đạt nói: “Các bằng hữu, nếu coi trọng tôi xin đừng giúp đỡ để kẻo bọn chúng nói chúng ta lấy đông hiếp ít”.
                            Lúc này màn đêm dần tan, trời đã hửng sáng, Vương Cương đã thấy rõ mặt mũi Lăng Vị Phong, y chợt bước tới một bước, lạnh lùng nói: “Nhà ngươi có phải là Lăng Vị Phong đấy không?” Lăng Vị Phong ngạo mạn nói: “Phải thì thế nào?” Vương Cương cười quái dị mấy tiếng rồi vẫy tay với bọn vệ sĩ: “Các người đã thấy rõ rồi đấy, đây chính là đỉnh đỉnh đại danh Thiên Sơn Thần Mãng Lăng Vị Phong, nửa đêm đã đại náo núi Ngũ Đài, cướp đi Xá lợi tử toàn là do y cả. Lăng Vị Phong, người khác sợ ngươi nhưng bọn ta thì không. Ngươi hãy ngoan ngoãn theo bọn ta!”.
                            Té ra sau khi Sở Chiêu Nam thoát khỏi Vân Cương về kinh báo cáo. Triều đình liền vẽ hình Lăng Vị Phong gởi đi các nơi, xem chàng là khâm phạm nguy hiểm nhất. Tính ra chàng còn quan trọng hơn cả vợ chồng Thạch Thiên Thành, bọn Vương Cương tình cờ gặp được chàng vừa lo vừa mừng. Vương Cương cậy mình có ngón Kim Cương Tán Thủ bình sinh chẳng ai địch nổi. Y vốn muốn giành địa vị thống lĩnh Cấm vệ quân, không ngờ Sở Chiêu Nam về kinh thì Khang Hy đã trao vị trí này cho Sở Chiêu Nam, cả Phó thống lĩnh Trương Thừa Bân cũng chẳng thể nào ngóc đầu lên nỗi. Vương Cương rất hậm hực, đã muốn tìm cơ hội đấu thử với Lăng Vị Phong để gián tiếp làm bẽ mặt Sở Chiêu Nam.
                            Lăng Vị Phong cười lạnh, rút cây kiếm thép ra, chĩa mũi kiếm về phía trước, đang định lên tiếng thì phía sau có người quát: “Lăng đại ca, hãy chừa phần cho tôi!” trong nhà có một người cầm song kiếm phóng ra như cơn gió lốc, người ấy chính là thiếu niên áo vàng Quế Trọng Minh.
                            Lăng Vị Phong buông kiếm cười hì hì: “Y là công tử của Thạch lão tiền bối, một trong những kẻ các ngươi tìm chính là y, có mặt y ta không thể chiếm phần riêng”.
                            Vương Cương đanh mặt, lạnh lùng nói: “Nếu các ngươi đã ra tay dùm cho Thạch lão đầu, vậy chắc chắn đã có bản lĩnh. Nếu hai người bọn ngươi thua thì thế nào?”.
                            Quế Trọng Minh nói: “Nếu ta thua thì các ngươi sẽ bắt cả nhà!” Lăng Vị Phong cười nói: “Cả ta cũng thế”. Lư Đại chen vào nói: “Thật không công bằng, nếu họ không thua thì sao?” Lăng Vị Phong nói: “Cũng chưa chắc, dầu sao bọn chúng cũng chẳng thoát nổi”.
                            Vương Cương tức giận nói: “Hảo tiểu tử, các ngươi có bao nhiêu bản lĩnh mà dám coi thường người khác như thế? Chúng ta không quen đấu mồm, hãy ra bên ngoài tỉ thí!” Hồng Đào kêu lên: “Khoan đã, bọn ta tuy nói bắt khâm phạm, nhưng chúng ta đều là người trong võ lâm. Ta xin mời bọn La đại ca, Đạt thổ ty làm chứng, kẻo các người lại bảo bọn ta lấy mạnh hiếp ít, lấy đông hiếp nhiều”. Hồng Đào rốt cuộc vẫn lo bọn Đạt thổ ty, sợ rằng họ sẽ giúp Lăng Vị Phong nên lên tiếng trước để chặn lại, bởi vì nếu họ đã là người làm chứng thì không thể nào ra tay.
                            Lư Đại hừ một tiếng, La Đạt đã nói: “Điều đó đương nhiên, bọn ta cũng muốn mở rộng tầm mắt!” Lăng Vị Phong ôm kiếm vái dài nói: “Nếu các vị đã coi trọng tôi như thế, hai bên đều không trợ quyền thì thật là hay! Thạch đại nương, bà cũng không cần ra”. Bà già cầm kiếm đứng trước cửa, cao giọng nói: “Ta ra làm gì? Nếu mụ không tin ngươi, đã không trao sinh mạng của cả nhà cho ngươi! Nếu các ngươi muốn đánh thì cứ đánh cho mau, nhưng phải ra xa một chút, các ngươi không được cãi nhau ở đây”.
                            Lăng Vị Phong cười ha hả: “Các ngươi đã nghe thấy chưa? Lão đại nương không thích chúng ta đánh nhau ở đây, sơn cốc bên ngoài rộng rãi, chúng ta ra ngoài đi thôi”. Vương Cương phẫy tay, năm tên vệ sĩ cùng chạy ra ngoài sơn cốc. Thân Thiên Hổ khẽ hỏi: “Ngộ nhỡ bọn chúng bỏ chạy, không dám theo chúng ta thì thế nào?” Vương Cương nói: “Không sao cả”. Thân Thiên Báo quay đầu lại hỏi: “Vương đại ca, cũng chưa chắc, giờ đây chúng cũng chưa dời bước!”
                            Huynh đệ họ Thân đột nhiên ngừng bước, toan ngoác mồm khích tướng thì đột nhiên chỉ thấy hai bóng đen lướt ra như điện chớp, chưa nhìn rõ là ai thì đã thấy tà áo lướt qua mặt. Vương Cương phóng thẳng người lên đuổi theo, huynh đệ nhà họ Thân cũng vội vàng chạy theo.
                            Cả hai chạy đến góc núi, chỉ thấy hai bóng đen đã đứng ở đấy. Lăng Vị Phong giơ ngang kiếm trước ngực, Quế Trọng Minh đặt chéo hai kiếm, lạnh lùng cười nói: “Các vệ sĩ lão gia, chỉ có mấy bước mà các ngươi lại đi chậm như thế!” Cả hai huynh đệ nhà họ Thân vừa kinh vừa lo, biết rằng kẻ địch cố tình tỉ thí họ. Lòng thầm mắng: “Các người đừng ngông cuồng, công phu khinh công có đáng là gì? Để lát nữa các ngươi hãy nếm mùi vị Ngô Câu kiếm pháp của bọn ta!”.
                            Một hồi sau, bọn La Đạt đã chạy ra, trong đó lại có thêm một thiếu nữ áo đỏ, đôi mắt long lanh cứ nhìn chằm chằm về phía Quế Trọng Minh.
                            Thiếu nữ áo đỏ ấy chính là Mạo Hoàn Liên, nàng đeo kiếm ngang eo, trong tay cầm một nắm Đoạt Mệnh thần sa. Nàng vốn không muốn ra nhưng vừa bước đến cửa thì bà già đã nói với nàng, nếu kẻ địch không đả thương nàng thì đừng ra tay để khỏi tổn hại đến uy danh của Lăng Vị Phong. Bởi vậy nàng mới đi lẩn trong quần hào, mắt cứ nhìn chằm chằm Quế Trọng Minh. Vương Cương thấy có thêm một thiếu nữ thì bất giác nhìn nàng.
                            Lúc ấy mặt trời vừa mới lên, ánh nắng sớm chiếu xuống muôn nơi, quái thạch trong sơn cốc hiện rõ ràng, quần hào và Mạo Hoàn Liên đứng lẩn trong đống quái thạch.
                            Đúng là: Núi hoang kiếm khí đằng đằng, muôn cây lặng tiếng chờ mưa đến.
                            #14
                              casau 01.11.2012 16:53:30 (permalink)
                              Hồi 11
                              Thiếu nữ lanh trí Quế Trọng Minh vô tình được bảo kiếm
                              Quần hào kính phục Lăng Vị Phong cá cược đoạt vàng ròng


                              Lăng Vị Phong quát lớn: “Các ngươi muốn đánh như thế nào? Cùng nhau xông lên hay là xa luân chiến?” Vương Cương tỏ ra cứng cỏi, cao giọng đáp: “Bọn ta đông ngươi ít, các ngươi cứ thi triển bản lĩnh trước!” Lăng Vị Phong nhướng mày nói: “Xin mời võ lâm tiền bối có mặt nói một lời!” bên đại hiệp có hai người, lấy hai địch năm là không công bằng. Tốt nhất mỗi bên chỉ có thể bước ra hai người, là liên thủ hay độc đấu, xin tùy ý”.
                              Vương Cương nghe xong thì định bảo huynh đệ nhà họ Thân ra trận, nhưng Tiêu Trực và Hồng Đào đã phóng ra trước, cao giọng kêu: “Bọn chúng tôi từ lâu đã nghe võ công của Thạch lão tiền bối cao cường, muốn thỉnh giáo công tử của ông ta mấy chiêu, nếu Lăng đại hiệp muốn cùng xông ra cũng được”. Hai người này rất giỏi tâm kế, bọn chúng biết rằng võ công không bằng cao thủ đại nội, lại sợ người ta coi thường nên vừa bước ra đã dùng lời kìm Lăng Vị Phong, bọn chúng bảo “Lăng đại hiệp muốn xông lên cũng được,” nhưng bọn chúng biết với tên tuổi của Lăng Vị Phong, chàng nhất định sẽ không làm thế. Còn thiếu niên áo vàng thì bọn chúng chẳng hề lo.
                              Lăng Vị Phong mỉm cười, quả nhiên vẫn cầm kiếm đứng yên. Quế Trọng Minh cười ha hả, tay cầm hai kiếm hờ hững bước lên nói: “Xin mời phát chiêu! Làm sao các người có đủ tư cách động thủ với Lăng đại ca!”.
                              Tiêu Trực sử dụng một đôi phương thiên họa kích, võ công thuộc hàng đệ nhất trong phủ tổng đốc Xuyên Thiểm. Thấy Quế Trọng Minh chẳng hề thủ thế, thừa lúc chàng đang nói thì đột nhiên tách đôi kích ra, đánh một chiêu Chỉ Thiên Hoạch Địa, cây kích đâm vù một tiếng về phía tay trái của Quế Trọng Minh. Hồng Đào sử dụng một cây kim đao, y bước vòng ra bên phải của Quế Trọng Minh, thuận thế chém ngang một đao vào eo chàng.
                              Quế Trọng Minh chợt quát lớn một tiếng như sấm nổ giữa trời xanh, cây kiếm bên phải hất lên trên, chỉ nghe keng một tiếng, cây phương thiên họa kích của Tiêu Trực bị chặt gãy mũi! Chàng không thèm quay đầu, tay trái phất ngược ra phía sau, chặn vào lưỡi đao của Hồng Đào, thuận thế đẩy một cái, Hồng Đào chỉ cảm thấy một luồng đại lực dồn tới, cây đại đao nặng hai mươi tám cân xuýt nữa vuột khỏi tay. Tiêu Trực vội vàng kêu lên: “Hồng nhị đệ, đánh ở mặt trái, lên!” y múa cây Phương thiên họa kích như gió, xử ra toàn là những hoa chiêu, gắng gượng chống đỡ đôi kiếm của Quế Trọng Minh.
                              Quế Trọng Minh thấy Mạo Hoàn Liên dựa tảng đá mỉm cười nhìn mình, tinh thần phấn chấn, triển khai đôi kiếm, luồng tinh quang lóe lên như điện chớp, chỉ trong một chốc hai người Tiêu Trực và Hồng Đào đều bị bao bọc trong luồng kiếm quang. Bọn La Đạt thấy thế thì cả kinh, không ngờ rằng con trai của Thạch Thiên Thành lại có công phu giỏi như thế!
                              Một hồi sau Quế Trọng Minh đã thấy lối đánh kích của Tiêu Trực toàn là hoa chiêu, y không dám chạm với mình thì cười ha hả, chàng nhắm kỹ rồi đánh ra một chiêu Xảo Nữ Xuyên Châm đâm tới nhanh như điện chớp. Chân phải của Tiêu Trực lướt ra sau, tay trái cầm kích đánh lên một chiêu Cử Hỏa Thiêu Thiên, tay phải trầm xuống quét một chiêu Bạch Hạc Lượng Xí. Kích phải chủ công là hư thế, kích trái phòng thủ là thực chiêu. Không ngờ chiêu ấy của Quế Trọng Minh cũng là hư chiêu, Tiêu Trực vừa đẩy kích trái lên thì chàng đã thu kiếm lại, bộ pháp thay đổi, người hạ xuống biến thành chiêu Viên Hầu Trích Quả, cầm kiếm từ dưới đâm hất lên! Tiêu Trực kêu lớn một tiếng, đồng thời rút hai kích về chặn lại. Quế Trọng Minh quát lớn một tiếng, kiếm quang vung tới, chặt gãy đôi một cây Phương thiên họa kích, chân phải đá tạt lên, hất một cây phương thiên họa kích bay lên không trung. Trong tiếng kêu thảm, một cánh tay của Tiêu Trực lìa khỏi người, Quế Trọng Minh cũng tung cước đá Tiêu Trực văng ra xa cách đó mấy trượng, va phải một tảng đá thế là toi đời.
                              Chỉ trong mấy chiêu nhanh như điện chớp lửa xẹt, Hồng Đào nhìn thấy rất rõ ràng, y vội vàng rút lui nhưng đã không kịp nữa. Quế Trọng Minh phóng vọt người lên rồi từ trên không bổ xuống như một con chim đại bàng chụp xuống đầu Hồng Đào, Hồng Đào giơ cây đao lên nhưng nào có thể chặn được! Chỉ nghe soạt một tiếng, cổ tay đứt lìa rồi cả người cũng bị chém thành hai đoạn. Tuyệt chiêu này gọi là Miêu ưng phốc thố, đều là do mẹ của chàng truyền thụ.
                              Bọn Vương Cương tuy không coi vệ sĩ trong phủ Tổng đốc Xuyên Thiểm ra gì nhưng cũng không ngờ rằng chỉ trong thời gian chưa nguội một chén trà thì cả hai người đều mất mạng, vả lại Lăng Vị Phong vẫn chưa bước ra. Vương Cương nhíu mày đang định đích thân ra trận để dùng Kim Cương thủ đoạt đôi kiếm của Quế Trọng Minh. Chỉ thấy huynh đệ nhà họ Thân đã phóng vọt ra. Quế Trọng Minh cầm kiếm đứng chờ. Lăng Vị Phong kêu lớn: “Quế hiền đệ, đệ đã đủ vốn, nhường hai tên này cho ta!”.
                              Thân Thiên Hổ sử dụng một đôi hộ thủ câu, chuyên dùng để bắt khóa đao kiếm của kẻ địch, trong thủ có công. Thân Thiên Báo sử dụng một cây trường kiếm hoàn toàn là những chiêu số tấn công. Ngô Câu kiếm pháp của đôi huynh đệ này có thể nói là nhất tuyệt trong võ lâm, đó là vì bọn chúng phối hợp công thủ rất kín kẽ. Ba mươi năm qua cả hai huynh đệ ra tay chưa bao giờ lọt xuống thế hạ phong. Dù ngay trong kinh thành, Sở Chiêu Nam đã từng tỉ thí với bọn chúng, có dốc hết sức cũng chỉ ngang tài ngang sức.
                              Lăng Vị Phong lăn lộn trong giang hồ đã lâu, hiểu biết rộng rãi, biết Ngô Câu kiếm pháp rất lợi hại. Vừa thấy huynh đệ họ Thân cùng nhảy ra thì biết đó là đệ tử của Hồng gia ở Thương Châu. Chàng lo rằng Quế Trọng Minh võ công tuy cao cường nhưng kinh nghiệm vẫn còn kém, không biết ứng biến nên vội vàng nhảy lên thay thế.
                              Anh em nhà họ Thân bày sẵn môn hộ, quát rằng: “Tiếp chiêu!” Cây trường kiếm của Thân Thiên Báo đâm thẳng vào ngực Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong biết bọn chúng một công một thủ chuyên tìm sơ hở của người khác để tấn công, chàng mỉm cười đứng vững, đợi Thân Thiên Báo đâm mũi kiếm tới ngực thì người đột nhiên lắc lư, cây kiếm thép tạt ngang qua hất mũi kiếm của Thân Thiên Báo ra, rồi chàng không thèm ngó lại đã trở tay đâm một kiếm, gạt được đôi câu của Thân Thiên Hổ. Chàng đã nắm đúng thời cơ, vị trí, huynh đệ họ Thân đều thất kinh. Cả ba người vừa chạm đã phân ra, nhìn nhau gườm gườm. Ba mươi năm trước Đạt thổ ty từng thấy sư phụ của hai người này biểu diễn của hai người này biểu diễn Ngô Câu kiếm pháp bởi vậy khẽ nói với Lư Đại rằng: “Khi gặp phải đối thủ cực kỳ cao cường mới như thế. Huynh đệ nhà này muốn đợi Lăng Vị Phong phát chiêu trước rồi mới tìm sơ hở tấn công. Xem ra Thiên Sơn Thần Mãng quả thật cũng có chút bản lĩnh”. Nói chưa dứt lời chỉ thấy Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, cây kiếm thép vung lên, chém ngang về phía Thân Thiên Báo, mũi kiếm lay động, kiếm quang lốm đốm như sao xa dồn tới, huynh đệ nhà họ Thân đứng thành thế ỷ giác, hai câu một kiếm, thế công cũng như mưa gió bão bùng. Ánh kiếm quang lấp loáng, vòng câu kêu lên leng keng, đôi bên đánh nhau đến khó phân thắng bại!
                              Đấu được khoảng hơn trăm chiêu, huynh đệ nhà họ Thân đổ mồ hôi trán, Lăng Vị Phong thì vẫn bình tĩnh, người bên ngoài chẳng nhận ra, Vương Cương đã biết không xong, y vung hai chưởng nhảy bổ ra, cao giọng quát: “Hai vị huynh đệ hãy tạm lui, đợi ta lãnh giáo kiếm chiêu của Lăng đại hiệp”.
                              Anh em nhà họ Thân liều mạng đánh gấp mấy chiêu để hiểm hộ thoái lui. Lăng Vị Phong đột nhiên cười lớn, quát rằng: “Các ngươi muốn nhận thua cũng không được!” kiếm pháp chợt thay đổi, anh em nhà họ Thân chỉ cảm thấy khí lạnh căm căm, ánh hàn quang loang loáng, bốn phương tám hướng đều là bóng dáng của Lăng Vị Phong.
                              Vương Cương vừa nhảy ra thì thấy ba người vẫn đánh nhau rất hăng, kiếm quang loang loáng, kiếm khí tung hoành nào có thể chen vào được! Vả lại cả hai bên đều đã có lời trước, lấy hai đánh một đã là mất mặt, nếu mình lại xen vào thì dù có thắng thì cũng bị anh hùng thiên hạ chê cười. Huống chi Vương Cương là nhân vật đã có tiếng tăm, ba mươi năm nay y nổi danh nhờ Kim Cương Tán Thủ, bởi vậy trước cao thủ các phương y không muốn để cho người ta cười mình.
                              Vương Cương vẫn còn đang đắn đo, chợt thấy Quế Trọng Minh chậm rãi bước ra, cao giọng kêu: “Lăng đại ca không rảnh đấu với ngươi, ta sẽ tiếp ngươi vài chiêu”. Vương Cương đang khổ vì không có cách xuống thang, thấy chàng bước ra thì cả mừng, nói: “Nếu như thế thì hãy rút kiếm đi thôi!” Quế Trọng Minh nói: “Tiểu gia không dùng binh khí, binh khí của ngươi đâu? Ngươi muốn đơn đả độc đấu, ta sẽ nhường ngươi trước ba chiêu”.
                              Vương Cương cười ha hả, nghĩ bụng thiếu niên này chắc là một tên nhãi nhép mới xuất đạo, Kim Cương Tán Thủ của mình lừng lẫy võ lâm, chưa bao giờ dùng vũ khí, thế mà y lại bảo mình rút ra binh khí, quả thật không biết trời cao đất dày, thế rồi mới xòe đôi bàn tay ra cười ngặt nghẽo, nói: “Ngươi hỏi các thúc bá ở đây, có bao giờ nghe nói Vương Cương này sử dụng binh khí chưa? Ngươi cứ mặc sức chém kiếm tới, xem ta có thể tiếp được ngươi hay không?”.
                              Quế Trọng Minh sầm mặt, lạnh lùng nói: “Ngươi cũng cười hơi sớm đấy, thấy được thắng thua thì ngươi hẵng cười! Lúc đó ngươi mà cười được mới là một trang hảo hán. Được! Nếu ngươi đã không dùng binh khí, tiểu gia cũng dùng đôi tay không tiếp ngươi vài chiêu”. Nói xong rồi kém đôi kiếm vào vách núi, đôi kiếm cắm sâu đến tận chui. Chàng nói: “Giờ ta cũng chẳng còn binh khí, ngươi đã yên tâm chưa? Hừ, ngươi không xuất chiêu có nghĩa là sao? Rốt cuộc ngươi có muốn đánh hay không?”.
                              Quế Trọng Minh xòe hai tay ra, quần hào đều thất kinh. Tuy họ thấy Quế Trọng Minh đã đấu với bọn Tiêu Trực, Hồng Đào nhưng họ cũng biết sự lợi hại của Vương Cương, ai nấy đều nghĩ rằng Quế Trọng Minh dùng đôi kiếm cũng chưa chắc thắng, làm sao có thể sử dụng đôi tay không mà đấu với một nhân vật đã có tiếng tăm trên võ lâm, đúng là ngông cuồng tự đại?
                              Mạo Hoàn Liên thấy quần hào đều xì xầm bàn tán, mặt lộ vẻ kinh hãi, lại thấy thanh thế của Vương Cương, biết rằng người này là kẻ đứng đầu trong năm tên vệ sĩ, có võ công chẳng phải tầm thường, bất giác bước về phía trước mấy bước. Lư Đại tưởng rằng nàng là con gái của Thạch Thiên Thành, khẽ bảo: “Cô nương hãy kêu lệnh huynh trở về đi thôi, công phu ngoại gia của người này đã đến mức đăng phong tạo cực. Kim Cương Tán Thủ xưa nay chẳng ai địch nổi, cứ để Lăng đại hiệp đấu với y có lẽ có thể chống trả nổi”. Mạo Hoàn Liên nghe thế thì thất kinh, nghe xong thì mới thấy bớt lo. Nàng nghĩ bụng: “Công phu của Quế Trọng Minh không kém Lăng Vị Phong bao nhiêu, người này nói Lăng Vị Phong có thể chống trả, dù cho chàng không đấu lại cũng có thể cầm cự được một lúc. Lúc đó Lăng Vị Phong đã thu thập được hai tên kia. Nhưng dù như thế, Mạo Hoàn Liên vẫn thấy lo, nàng bất giác vẫn lướt về phía trước. Lư Đại tuy phát giác nhưng nghĩ cứ để ả đi ra, lát nữa nếu nguy cấp thì cứu cũng không muộn. Dù sao các đại nội cao thủ cũng đều đã ra tay, nàng có giúp Quế Trọng Minh cũng chỉ là ba đấu với ba, không phạm quy.
                              Vương Cương nghe Quế Trọng Minh kêu mình ra chiêu trước thì không kìm được cơn giận, thầm nhủ: “Ta mà vung chưởng ra chắc chắn ngươi nát như tương”. Quế Trọng Minh ngạo nghễ hừ một tiếng rồi nói: “Còn chưa động thủ, ngươi định dặn dò chuyện hậu sự đấy phải không?” Vương Cương gầm lớn một tiếng, vung đôi tay to bè đánh ra, một chưởng vỗ vào huyệt Thái Dương của Quế Trọng Minh. Quế Trọng Minh lách người, nhẹ nhàng né tránh. Vương Cương lại đánh tiếp chưởng trái, Quế Trọng Minh lại thối lùi ba bước mà vẫn chưa né tránh. Vương Cương đột nhiên vọt người về phía trước, hai chưởng hóa thành quyền đánh ra một chiêu Nhị Quỷ Phách Môn đấm vào hai bên má của Quế Trọng Minh. Chiêu này nhanh như lửa xẹt, Lư Đại kinh hoảng kêu lên, Mạo Hoàn Liên tim đập thình thình, nhắm mắt lại không dám nhìn. Tất cả các cao thủ đều cho rằng Quế Trọng Minh sẽ trúng đòn, nào ngờ thân pháp của Quế Trọng Minh cực kỳ nhanh nhẹn, trong khoảnh khắc chớp mắt chàng quát lớn: “Ta đã nhường ngươi ba chiêu, ngươi thấy có phải không?”.
                              Té ra Quế Trọng Minh từ nhỏ đã luyện Đại Lực Ưng Trảo công cùng Quế Thiên Lan. Đại Lực Ưng Trảo công cùng một đường với Kim Cương Tán Thủ, chàng đã từng nghe nghĩa phụ nói, công phu ngạnh công coi trọng thanh thế, tấn công mãnh liệt liên hoàn, kỵ nhất là tấn công mạnh mà không xong, nhuệ khí chẳng còn. Quế Trọng Minh lớn lên ở Kiếm Các, suốt ngày làm bạn với khỉ vượn, bẩm sinh có công phu khinh thân tuyệt đỉnh. Bởi vậy chàng ta mới cố ý chọc giận Vương Cương, chàng né liền ba chiêu để dập tắt ngọn lửa kiêu ngạo của y nhưng vai vẫn bị chưởng phong của Vương Cương đánh trúng, chàng cảm thấy đau nhói.
                              Vương Cương không biết Quế Trọng Minh cũng trúng đòn, thấy chàng né liền ba chiêu thì quả nhiên nhuệ khí giảm xuống, y vừa kinh vừa giận, thế rồi không dám khinh địch, chưởng trái hộ ở trước ngực, chưởng phải lại vỗ vù một tiếng về phía ngực của Quế Trọng Minh. Y dùng công phu Bài sơn vận chưởng trong Kim Cương Tán Thủ, Quế Trọng Minh chỉ cảm thấy một luồng lực lớn dồn tới trước ngực!
                              Quế Trọng Minh dốc hết oai thần phóng người vọt lên không trung, vận Đại Lực Ưng Trảo công chụp xuống mặt của Vương Cương, hai người chạm nhau một chiêu. Quế Trọng Minh quát lớn một tiếng, mười ngón tay như móc sắt tóm vào cổ tay của Vương Cương. Vương Cương lật hai chưởng, dùng tự quyết chữ “suất” (ném) trong Kim Cương Tán Thủ phất mu bàn tay lên trên, Quế Trọng Minh đang lơ lửng trên không trung, đã chịu thiệt về mặt vận lực, lần thứ hai chàng ta đánh ra quái chiêu, lại dùng thân pháp trong Ngũ Cầm chưởng, ngửa người ra phía sau, chân trái đạp một cú vào ngực của Vương Cương rồi quát lớn một tiếng “Lên”! Vương Cương dùng lực phất ra, Quế Trọng Minh buông hai tay lộn người ra phía sau đến mấy trượng. Khi Quế Trọng Minh sử dụng quái chiêu, Vương Cương buộc phải hạ thấp người xuống né tránh, tuy tránh được ngực nhưng be sườn bên trái vẫn trúng đòn, văng ra xa đến mấy trượng.
                              Quế Trọng Minh hạ xuống đất nhìn lại, chàng đã ném Vương Cương, nhưng ở chỗ ngón tay cũng bị chảy máu. Vương Cương đứng dậy, cổ tay cũng như bị sợi dây thừng bằng lửa in vào mười vệt đỏ. Hai người đều kinh hãi, không ngờ công lực của đối phương lại thâm hậu đến thế!
                              Hai người tuy đều bị trúng đòn của đối phương nhưng người ngoài nhìn vào thì Quế Trọng Minh đã dùng khinh công tuyệt đỉnh để né tránh hiểm chiêu còn Vương Cương thì phải lộn ra ngoài để né tránh, rõ ràng là Vương Cương thua một chiêu. Ai nấy đều không khỏi chép miệng kêu lạ, những người lúc đầu coi thường Quế Trọng Minh thì nay phải nhìn bằng con mắt khác.
                              Từ ngày thành danh đến nay Vương Cương chưa bao giờ gặp phải một kình địch như thế, lại càng không ngờ rằng suýt bại bởi tay một tên tiểu tử hậu sinh. Lúc này y không dám nôn nóng cầu thắng nữa mà vận khí điều tức, dùng những chiêu số lợi hại của Kim Cương Tán Thủ, trong công có thủ để quần thảo với Đại Lực Ưng Trảo công của Quế Trọng Minh!
                              Cứ như thế tình thế lập tức thay đổi. Vốn là luận theo công lực hai người đều không kém nhau bao nhiêu, nhưng Vương Cương ngang dọc giang hồ hơn ba mươi năm, không biết đã chạm phải bao nhiêu hảo hán anh hùng bởi vậy kinh nghiệm phong phú hơn Quế Trọng Minh nhiều. Y lập tức né thực đánh hư, chuyên đánh vào những chỗ trống buộc Quế Trọng Minh phải chuyển công làm thủ! Hai người đều chưởng phong vù vù, chưởng vung ra thì lập tức thu lại, không dám dùng chiêu số quá đà. Dưới mắt các cao thủ, tuy họ không chạm nhau nhưng những chiêu số đánh ra còn nguy hiểm hơn cả lúc nãy, ai nấy đều trợn mắt há mồm. Chỉ thấy dưới đất cát chạy đá bay, những nơi chưởng phong quét đến đều rơi lá lả tả.
                              Đang lúc đánh nhau rất hăng, Quế Trọng Minh dần dần lọt xuống hạ phong, chàng ta đột nhiên quát lớn một tiếng, hai chưởng vung ra, hai người đều bị chưởng lực của đối phương đánh lùi đến mấy bước. Quế Trọng Minh kìm người lại, đợi khi Vương Cương nhảy bổ tới thì đột nhiên chưởng pháp thay đổi, chưởng phong phát ra hình như không mạnh mẽ như trước nữa nhưng mỗi chiêu mỗi thức đều hàm chứa kình đạo, Vương Cương chạm vào chỉ cảm thấy bàn tay của đối phương mềm mại, thế nhưng lại bị tiềm lực mạnh mẽ của đối phương phản công trở lại. Y kinh hoảng vội vàng thâu nhiếp tinh thần, dốc tuyệt kỹ bình sinh đấu với Quế Trọng Minh!
                              Lúc nãy Quế Trọng Minh đã dùng nội kình của Miên chưởng kết hợp với ngạnh công của ưng trảo. Té ra nghĩa phụ của chàng Quế Thiên Lan ngoại trừ tinh thông Đại Lực Ưng Trảo của bổn môn, đã bỏ ra hai mươi năm tìm hiểu Miên chưởng nội gia. Trong võ lâm chỉ có một mình ông ta học được hai môn này mà đạt được đến công lực thượng thừa.
                              Lúc này Lăng Vị Phong và huynh đệ họ Thân cũng đang đánh nhau rất gấp. Lăng Vị Phong đánh hết kiếm này ra kiếm khác dồn anh em họ thân đến luống cuống tay chân. Anh em họ Thân thi triển sở học bình sinh, đánh ra toàn là những chiêu số tinh diệu trong Ngô Câu kiếm pháp, hai người phối hợp kín kẽ như áo trời, chiêu nào cũng đều rất hiểm độc. Nhưng dù như thế cả hai vẫn lọt xuống thế hạ phong.
                              Lăng Vị Phong dùng Thiên Sơn kiếm pháp ác đấu với Ngô Câu kiếm pháp của anh em họ Thân vốn là một cuộc tỉ kiếm xưa nay khó gặp trong võ lâm, nhưng từ khi Quế Trọng Minh đấu với Vương Cương thì quần hào không để ý đến họ nữa. Lư Đại chép miệng: “Cuộc tỉ kiếm này đúng là khó gặp trong đời! Nhưng đáng tiếc hôm nay tuồng hay diễn liên tục, cuộc đấu chưởng bên kia càng là kỳ tích trong võ lâm, tiếc là cha mẹ không sinh thêm một đôi mắt nữa!”.
                              Các cao thủ đang ngưng thần nín thở xem cuộc ác chiến của hai người Quế, Vương. Lăng Vị Phong và huynh đệ họ Thân đã đến lúc mạnh được yếu thua, sinh tử khắc biết. Thân Thiên Báo sử dụng một chiêu Hoành Giang Tiệt Đấu chém ngang eo, toan cản thế công liên miên không ngớt của Lăng Vị Phong, nào ngờ Lăng Vị Phong cười hì hì lướt người đi như cơn gió, tay phải cầm kiếm trở ngược lại, ánh sáng xanh lóe lên, đã chém xuống cổ của Thân Thiên Báo. Đôi câu của Thân Thiên Hổ đã quét vào lưng của Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong xoay người, Thân Thiên Hổ quét hụt, chưa kịp biến chiêu thì đã bị Lăng Vị Phong vỗ một chưởng trúng ngực, cũng trong lúc đó Thân Thiên Báo cũng bị cây kiếm của Lăng Vị Phong đâm thấu từ sau ra phía trước.
                              Lăng Vị Phong lau vết máu trên kiếm, quay đầu nhìn xung quanh rồi vung kiếm hú dài, tiếng hú vang vọng sơn cốc không ngớt. Quần hào đều nhìn nhau kinh hãi, Vương Cương càng kinh hoàng thất sắc.
                              Lúc này Quế Trọng Minh càng đấu càng dũng, chàng ta vận dụng cả Miên chưởng và Ưng trảo, hai chưởng vung lên toàn mang theo kình phong! Vương Cương đã chẳng muốn đánh nhau nữa, y đột nhiên nảy ra kế, đánh hờ một chiêu. Quế Trọng Minh bổ chưởng xuống như đao chém, nhanh như sao xẹt. Vương Cương đột nhiên hích vai trái về phía trước, binh một tiếng đã trúng chưởng của Quế Trọng Minh! Y thừa thế vươn tay về phía trước chụp vào cổ tay phải của Quế Trọng Minh, dùng tay vặn mạnh một cái. Vương Cương đánh liều để cho vai bị thương để toan tìm thắng trong bại, thi triển thủ pháp cầm nã lợi hại nhất trong Kim cương thủ, toan bắt sống Quế Trọng Minh để làm con tin. Y thấy huynh đệ họ Thân hợp công mà vẫn chết dưới kiếm của Lăng Vị Phong, biết mình chẳng phải là địch thủ của chàng bởi vậy mới dùng Quế Trọng Minh để uy hiếm Lăng Vị Phong.
                              Nào ngờ Quế Trọng Minh tuy kinh nghiệm đối địch còn kém, đã trúng kế dụ địch nhưng rốt cuộc công lực rất thâm hậu, chàng ta lâm nguy mà không loạn, cánh tay phải gồng lên tựa như một cây gậy sắt, tuy không vùng ra được nhưng Vương Cương cũng chẳng thể nào vặn được tay chàng, tay trái của chàng đánh binh một cú lên cằm của Vương Cương. Vương Cương kêu ối một tiếng, máu tươi phun ra, hai hàng răng cửa bị gãy nát, đau đến tận gan phổi, tay phải đành phải buông ra còn người thì ngã ngửa ra sau!
                              Mạo Hoàn Liên vì quá lo lắng cho Quế Trọng Minh, nàng cứ bước tới từng bước, lúc này nàng đã đến gần hai đối thủ. Khi Quế Trọng Minh gặp nguy hiểm thì nàng không màng mọi thứ, phóng vọt người lên, Vương Cương đã ngã ngửa ra sau, khi đứng dậy thì chạm mặt với Mạo Hoàn Liên. Y cả mừng vung tay phải chụp tới, Mạo Hoàn Liên ném một ném Đoạt Mệnh thần sa, Vương Cương chẳng né tránh nổi, từng hạt cát lún sâu vào trong da thịt, y vẫn đánh liều nhảy bổ tới tóm lấy Mạo Hoàn Liên làm vũ khí đẩy ra phía trước mặt, Quế Trọng Minh đã cầm cái kim hoàn trong tay định ra nhưng sợ trúng Mạo Hoàn Liên nên đành buông xuống, phóng người đuổi theo sau lưng Vương Cương kêu lớn: “Ngươi buông nàng xuống, ta tha cho ngươi!”.
                              Vương Cương cười gằng, co giò chạy như điên. Quế Trọng Minh tiện tay rút đôi kiếm bay lướt tới. Lăng Vị Phong cũng đuổi theo. Cao thủ các phương bất giác cũng chạy theo họ nhưng thấy bộ dạng hung hăng của Vương Cương nên chẳng ai dám ra tay.
                              Trong chớp mắt họ đã đuổi qua hai ngọn núi, phía trước chợt sáng bừng. Lúc này ánh mặt trời đã chiếu xuống muôn nơi, mọi người chợt nghe tiếng nước chảy như sấm dậy, một dòng thác từ trên đỉnh núi tuôn xuống ầm ầm tạo thành một cái đầm nước ở dưới đáy cốc, bên đầm nước còn có một sơn động, trước cửa sơn động tựa như có một tấm rèm nước, ánh sáng chiếu vào bí ảo thành một dải lụa bảy màu trông đẹp đẽ vô cùng! Nhưng không ai có lòng ngắm cảnh, ai nấy đều chẳng nói một lời, chỉ đuổi về phía trước.
                              Thân pháp của Lăng Vị Phong nhanh nhạy cực kỳ, chàng đã sớm vượt qua khỏi quần hào, lúc này đã đuổi theo kịp Quế Trọng Minh, đã cách Vương Cương không xa lắm. Chàng vỗ vai Quế Trọng Minh, khẽ kêu: “Đệ tạm tránh ra để ta cứu nàng!” Quế Trọng Minh lách qua một bên, chỉ thấy Lăng Vị Phong vung tay phải, ba cây Thiên Sơn thần mãng bay vọt ra như điện chớp. Quế Trọng Minh kinh hãi kêu lên: “Huynh làm gì thế?” chàng toan ngăn nhưng không kịp nữa!
                              Vương Cương tưởng rằng có Mạo Hoàn Liên thì chẳng chuyện gì xảy ra, nào ngờ thủ pháp ném ám khí của Lăng Vị Phong thần diệu lạ thường. Chàng chỉ giả vờ phát ra ba cây Thiên Sơn thần mãng, Vương Cương túm Mạo Hoàn Liên làm cái thuẫn giơ lên đỡ thế là cây Thiên Sơn thần mãng thứ tư đã bắn tới như sao chổi đuổi trăng, Vương Cương toan giở Mạo Hoàn Liên lên đỡ thì bốp một tiếng, tay phải đã bị thần mãng cắm vào, lập tức đau đến thấu xương, bàn tay lỏng ra buông Mạo Hoàn Liên rơi xuống đất. Vương Cương nghe Lăng Vị Phong quát thì không kịp nhìn đến Mạo Hoàn Liên đã vội vàng lướt ra mấy trượng liều mạng bỏ chạy!
                              Lăng Vị Phong nhảy vọt tới trước, đỡ Mạo Hoàn Liên dậy, đưa tay giải khai huyệt đạo cho nàng, mỉm cười nói với Quế Trọng Minh: “Trao cho đệ, nàng vẫn chưa bị thương, đệ hãy yên tâm!”.
                              Vương Cương dốc hết sức bình sinh ra chạy, ngoại trừ cánh tay phải đau nhói y đột nhiên cảm thấy toàn thân tê rần, thần trí dần dần mơ hồ. Y kinh hoảng vội vàng thâu nhiếp tinh thần, lúc này y mới nhớ rằng ban nãy đã trúng độc sa, bởi vậy sợ đến nỗi hồn bay phách tán, mà Lăng Vị Phong đã đuổi theo sát phía sau! Y toát mồ hôi lạnh, rơi vào trạng thái cuồng loạn nên chạy bừa đi, chỉ vừa vọt được mấy trượng thì đã nhảy xuống đầm nước. Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, lại vung ra một cây Thiên Sơn thần mãng từ phía sau bắn tới, Vương Cương không thể né tránh được buộc phải lao về phía trước, y vọt qua bức rèm nước trước sơn động, y tập trung sức lực toàn thân lên tay trái vỗ bốp một tiếng trên hòn đá ở sơn động. Kim cương thủ của Vương Cương có mấy mươi năm công lực, y liều chết vỗ một đòn, sức lực ấy rất kinh người, chỉ thấy y vừa vỡ xỗ xong thì đá vụn bay lả tả, cánh cửa đá bật ra kèn kẹt, té ra bên trong có một thanh chắn đá nặng đến ngàn cân nhưng đã bị chưởng lực của Vương Cương chấn gãy, cánh cửa đá đương nhiên mở ra. Mà Vương Cương đã dùng lực quá mạnh nên bị cánh cửa đá phản chấn ngược trở ra, cổ tay gãy lìa, bị thác nước từ trên tuôn xuống đẩy rơi xuống đầm nước sâu không đáy, y vùng vẫy mấy cái rồi chìm nghỉm. Đến khi Lăng Vị Phong và các cao thủ đuổi đến mặt đầm thì nước trong đầm chỉ còn gợn sóng. Một tên phản đồ của võ lâm, một cao thủ ngoại gia đã chết chìm.
                              Cao thủ các nơi đều đứng lặng trước mặt đầm, im lìm chẳng nói. Họ đã chứng kiến một trận ác chiến kinh tâm động phách, lại thấy Vương Cương chết thảm, xác thân chẳng còn thì trợn mắt há mồm, ai nấy đều đều có muôn và cảm xúc. Một lúc lâu sau Lư Đại mới cất tiếng: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Lẽ ra phải có người sớm thu phục tên tặc tử này!” Đạt thổ ty nhìn Lăng Vị Phong rồi thầm nhủ: “Mình tuy chưa tỉ thí với Vương Cương nhưng cũng biết chưởng lực của Vương Cương tựa như chẳng kém gì công phu Thiết bố sam của mình thế mà vẫn bị Lăng Vị Phong dùng mấy cây ám khí bức tử, xem ra Thiên Sơn thần mãng đúng là danh đồn không ngoa”. La Đạt thì lại mở cặp mắt to tròn nhìn sững sờ vào trong thạch động.
                              Lúc này Mạo Hoàn Liên mới cùng Quế Trọng Minh chậm rãi bước tới, nàng thấy bức rèm nước trước cửa động tựa như một dải lụa, nàng chợt nhớ đến bức tranh nên giật nảy người.
                              Quế Trọng Minh chột dạ, kéo Mạo Hoàn Liên nói: “Đây chẳng phải là bức họa ẩn hình mà nghĩa phụ đã vẽ trên tấm áo vàng sao?” Mạo Hoàn Liên khẽ nói: “Chẳng sai tí nào, đây chính là nơi trong bức tranh”. Nói xong thì vẫy tay gọi Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong thấy họ cứ thì thầm với nhau, mỉm cười: “Ta không muốn làm kỳ đà cản mũi”. Mạo Hoàn Liên đỏ mặt, nói: “Lăng đại ca, muội đang nói chuyện quan trọng”.
                              Lăng Vị Phong không hề biết chuyện bức tranh trong tấm áo vàng. Giờ đây chàng nghe Mạo Hoàn Liên kể lại thì mời nhắm mắt ngẫm nghĩ, hồi sau mới lên tiếng hỏi: “Quế lão tiền bối để lại bức tranh ẩn hình, cả Thạch đại nương cũng không biết, trong đó chắc chắn có sự việc gì rất hệ trọng, sao chúng ta không vào xem thử?” Mạo Hoàn Liên nói: “Hãy thong thả, trong bức họa có bảy chữ lớn trái ba, phái bốn, giữa mười hai, đó là ý gì? Huynh hãy nghĩ hộ muội”. Lăng Vị Phong nói: “Đó có lẽ là ám hiệu gì đấy, cũng có lẽ là vị trí chỉ nơi cất đồ”.
                              Lúc này quần hào đều đang đứng trước cửa động, thấy ba người bọn họ cứ to nhỏ thì thầm, ai nấy đều đưa mắt nhìn nhau, Mi Sơn trại chủ La Đạt là kẻ nóng lòng nhất, y cứ nhấp nhổm lúc thì nhìn cửa động, lúc thì nhìn bọn Lăng Vị Phong.
                              Khi mọi người đều đang nín thở để ý, ai nấy đều có suy nghĩ riêng tư, đột nhiên ở u cốc vút lên một mũi tên, tiếp theo là hai mũi, La Đạt đứng dậy, chúm môi huýt một tiếng sáo. Lăng Vị Phong đang rất ngạc nhiên, một lúc sau trong cốc xuất hiện một ông già gù lưng, bề ngoài ông ta tuy xấu xí nhưng thân pháp nhanh nhẹn lạ thường, ông ta chạy đi mà bụi dưới chân chẳng hề bốc lên. Trong chớp mắt đã đến trước mặt quần hào. La Đạt cả mừng, bước lên nói: “Hàn đại ca, chúng tôi chờ huynh đến khổ”. Lư Đại và Đạt thổ ty cũng đứng dậy chào hỏi, Đào Hoằng, Trương Nguyên Chấn tuy không biết người này nhưng thấy bọn La Đạt tỏ vẻ tôn kính như thế cũng bước ra nghênh đón. Lăng Vị Phong, Quế Trọng Minh và Mạo Hoàn Liên vẫn ngồi bên bờ đầm, chẳng hề động thanh sắc, xem thử ý định của quần hào lục lâm và ông già gù này.
                              Ông già gù được gọi là Hàn đại ca không thèm hỏi đến họ tên của Lăng Vị Phong, vừa thấy rèm nước lay động, cửa sơn động mở rộng thì sắc mặt căng thẳng, vỗ vai La Đạt nói: “Hiền đệ, chính là nơi này! Có ai vào chưa?” La Đạt khẽ lắc đầu. Đạt thổ ty nói: “Chúng ta cùng vào thôi, một trái dưa chia làm sáu phần, mọi người đều có của ăn!” Lư Đại chỉ bọn Lăng Vị Phong nói: “Còn phải chia cho bên kia ba phần!” Đạt thổ ty khẽ nói: “Họ không biết, không có phần của họ!” Lăng Vị Phong rất thính tai, từ xa mà nghe được những lời của họ, thầm nhủ: “Chả lẽ trong sơn động có báu vật gì qúy giá đến nỗi bọn ma đầu này tụ tập ở đây bàn cách chia chác?”.
                              Bọn Đạt thổ ty, La Đạt đang muốn khích hai người Đào, Trương vào. Ông già lưng gù chợt nói: “Hãy thong thả, cứ để một người đi vào trước xem sao. Ai chịu đi chúng ta sẽ nhường cho y thêm một phần nữa!” La Đạt đứng dậy nói: “Tôi đi!” rồi vung tay phóng người nhảy qua đầm nước rộng đến sáu bảy trượng, băng qua rèm nước chui vào trong sơn động. Quần hào ngưng thần chờ đợi, bọn ba người Lăng Vị Phong cũng đứng dậy xem. Không khí lúc này tựa như muôn cây lặng yên, mây đen kéo tới, bấc bối vô cùng. Một hồi sau chợt nghe bên trong có một tiếng kêu thét lên, ai nấy đều ngưng thần lắng nghe, chỉ thấy La Đạt đầu bù tóc rối mình đầy máu chạy ra. Trong sơn động còn có tiếng tên bay kêu vun vút, tựa như bên trong có một đội phục binh. La Đạt thân thủ cũng rất bất phàm, đã bị trúng tên mà vẫn xông ra đầm nước, y điểm một chân xuống thi triển khinh công Nhất hạc xung thiên bay vọt qua đầm nước. Nhưng đầm nước rộng đến bảy tám trượng, sau khi bị thương công lực đã giảm, đi được nửa đường thì người rơi tõm xuống mặt đầm. Lư Đại kêu lớn một tiếng, phóng vọt người lướt ra giữa mặt đầm, đưa một chưởng đẩy ra nâng người của La Đạt lên rồi phóng qua bờ bên kia. Ai nấy đều ồ lên khen hay. Lăng Vị Phong cũng thầm khen khinh công của Lư Đại đã đạt đến mức lư hỏa thuần thanh.
                              Lư Đại và La Đạt là bằng hữu hơn ba mươi năm, lúc đầu hai người là cường đạo chuyên giết người cướp của, sau đó Lư Đại được Xuyên Trung đại hiệp Diệp Vân Tôn khuyên nhủ, nên dần dần thay đổi. Còn Lư Đạt thì ngày càng tệ hơn, cả mấy phần hiệp nghĩa vốn có cũng dần dần biến mất, ngày càng tham lam, hẹp dạ, bởi vậy đôi bên cũng ít qua lại. Nhưng tuy là thế, Lư Đại vẫn trọng tình nghĩa, thấy La Đạt lâm nguy đã cứu y.
                              Lư Đại đỡ y ra bờ bên kia, cúi đầu nhìn thì thấy trên người y có nhiều chỗ bị thương, máu chảy như suối, hơi thở phì phò, buồn bã nói: “La đại ca, huynh hãy định thần điều hòa hơi thở, đừng sợ!” nói xong thì kẹp y dưới be sườn rồi thi triển khinh công tuyệt đỉnh nhảy qua mặt đầm.
                              Qua đến nơi, quần hào đều đến xem, Lư Đại xin Đạt thổ ty một ít bạch dược Vân Nam bôi lên vết thương, máu tuy đã cầm, nhưng người đã hôn mê, chắc là sau khi bị trọng thương bỏ chạy điên cuồng, khí lực đã tận bởi vậy mới như thế. Lư Đại buồn bã nói: “E rằng La đại ca khó giữ mạng!” Lăng Vị Phong chợt lấy ra một viên thuốc màu xanh đưa đến nói: “Hãy cho y uống vào!” Lư Đại nhìn viên thuốc, Lăng Vị Phong nói: “Đây là bích linh đơn được luyện từ Thiên Sơn tuyết liên, dù có trúng độc tiễn cũng có thể giữ được mạng”. Quần hào nghe đều thất kinh, Thiên Sơn tuyết liên là vật hiếm có, tốt hơn bạch dược Vân Nam nhiều, bạch dược chỉ là thuốc trị ngoại thương nhưng bích linh đơn thì có thể trị cả nội thương. Không ngờ Lăng Vị Phong chỉ mới gặp lần đầu mà đã ra tay tặng thuốc quý. Lư Đại rất cảm kích.
                              Mọi người chăm sóc cho La Đạt xong thì im lặng trong khoảnh khắc. Đạt thổ ty nói: “Lý Định Quốc có bao nhiêu binh lính, lẽ nào y đoán rằng mấy mươi năm sau chúng ta sẽ đến lấy đồ của y?” Trương Nguyên Chấn nói: “Chúng ta có vào không?” ông già lưng gù trầm ngâm rồi nói: “Hãy chờ thêm hai người nữa!”.
                              Lăng Vị Phong nghe bọn họ bàn tán xôn xao, trong lòng đã đoán được vài phần, đang suy nghĩ thì chợt thấy Mạo Hoàn Liên đứng dậy kéo tay Quế Trọng Minh, nói với Lăng Vị Phong: “Ba người chúng ta vào trước!” Trương Nguyên Chấn thầm nhủ cứ để cho ba người bọn họ vào chịu tai nạn trước cũng được nên mới giơ ngón tay cái lên nói: “Hay lắm! Có Lăng đại hiệp đi trước dò đường chắc chắn sẽ chẳng có chuyện gì xui rủi!” Lư Đại kêu lên: “Lăng đại hiệp, ông hãy chờ một lát”.
                              Lăng Vị Phong nhìn Mạo Hoàn Liên, thấy nàng đầy vẻ tự tin thì cao giọng nói: “Không sao cả!” rồi vung tay lướt qua mặt đầm.
                              Quế Trọng Minh và Mạo Hoàn Liên cùng bay lướt qua mặt đầm, theo sau Lăng Vị Phong. Đến trước cửa động, Mạo Hoàn Liên nhìn lại thì thấy trên người Lăng Vị Phong chỉ có dính vài giọt nước, Quế Trọng Minh cũng thế, chỉ có mình là ướt đẫm một mảng. Nàng thầm nhủ mình theo Phó bá bá học nghệ, giỏi nhất là khinh công, cả quái đầu đà Thông Minh hòa thượng cũng phải khâm phục mình, không ngờ hôm nay chẳng bằng hai người họ. Chả trách nào Lăng Vị Phong nổi danh miền Tây Bắc, công phu nào của chàng cũng đến mức xuất thần nhập hóa.
                              Họ vừa đến trước cửa động thì ngừng lại, Lăng Vị Phong giơ ngang kiếm đứng trước cửa nói với Quế Trọng Minh: “Đệ hãy đẩy cánh cửa đá phía bên trái để chúng ta nhìn kỹ xem sao”. Quế Trọng Minh kêu vâng một tiếng rồi vận chưởng đẩy vào cánh cửa, quát lên: “Mở!” cánh cửa đá lập tức xoay chuyển. Lúc này cửa động đã mở rộng, ánh sáng bên ngoài len qua rèm nước lọt vào bên trong. Cả ba người ngưng thần nhìn vào, chỉ thấy có hai hàng người bằng đá chia nhau đứng hai bên trái phải, mỗi người đều cách nhau khoảng một trượng, có người trên tay cầm kiếm, có người cầm mâu, những người đá này trông rất kỳ quái, tướng mạo nanh ác, trong động rất tối tăm bởi vậy ai cũng thấy thần bí đáng sợ.
                              Khi nhìn kỹ lại thì thấy dưới đất cung tên bừa bộn, lại còn một số đao kiếm bị gãy, lúc này mới nhìn thấy rõ binh khí trên tay người đá chỉ còn lại một nửa. Thông đạo ở giữa thạch động thì trống trải. Bên ngoài tuy có ánh sáng chiếu vào nhưng trong động âm u, nhìn sâu bên trong cũng chẳng thấy gì nữa.
                              Lăng Vị Phong trầm ngâm rồi nói với hai người Quế, Mạo: “Ta thấy ở đây chắc có cơ quan, cả người đá cũng có thể hoạt động. Chắc là La Đạt lúc nãy đã chạm phải cơ quan nên mới có cung tên ở dưới đất, còn những binh khí này là do y vận chưởng đánh gãy. Chúng ta phải cẩn thận hơn đừng dẵm vào vết xe đổ của La Đạt”. Quế Trọng Minh nói: “Chúng ta đã thành thế leo lên lưng cọp, nếu ra trở lại chắc sẽ bị bọn họ chê cười”.
                              Mạo Hoàn Liên mỉm cười, tiện tay nhặt mấy hòn đá ở dưới đất, bảo hai người Lăng, Quê lui ra sau mấy bước rồi đưa cho Lăng Vị Phong nói: “Huynh hãy thử ném hòn đá thứ nhất về phía bên trái của cửa động, hòn đá thứ hai ở nơi cách đó một bước chân, hòn đá thứ ba cách hòn đá thứ hai một bước, xem thử có biến cố gì?” rồi lại bảo Quế Trọng Minh: “Huynh hãy cầm kiếm canh ở bên cạnh Lăng đại hiệp, nếu có ám tiễn bắn ra thì hãy dùng kiếm gạt”. Lăng Vị Phong ném ba hòn đá, chẳng hề có chuyện gì xảy ra. Mạo Hoàn Liên nói: “Huynh ném thử hòn đá thứ tư”. Lăng Vị Phong ném ra mà chỉ thấy ở góc bên phải mặt đất lún xuống một ít, đột nhiên bắn ra một hàng mũi tên, lại có hai ba mũi bắn về phía cửa động. Quế Trọng Minh chưa kịp rút kiếm thì đã bị Lăng Vị Phong vung chưởng đánh rơi.
                              Lăng Vị Phong mừng rỡ nói: “Mạo cô nương, cô thật thông minh. Cứ theo cách tính này, nếu ném ở bên phải thạch động, có lẽ bốn hòn đá đầu tiên không có chuyện gì xảy ra, đến hòn thứ năm thì tên sẽ bắn ra. Tôi thử xem sao”. Nói rồi nhặt năm hòn đá ném ra cửa động. không ngờ hòn thứ nhất vừa rơi xuống đất thì tên đã bắn ra!
                              Luồng tên này bắn ra bất ngờ, khoảng cách lại gần, Lăng Vị Phong không kịp vận chưởng đánh rơi, chàng lướt qua một bên tránh tên. Quế Trọng Minh múa tít đôi kiếm chém tên bay rào rào.
                              Lăng Vị Phong nhíu mày cười khổ, nhìn Mạo Hoàn Liên nói: “Cô nương, cách tính bên trái là đúng, nhưng bên phải lại không đúng, làm sao đây?” Mạo Hoàn Liên ngẫm nghĩ một hồi chợt nói: “Huynh thử làm xem sao. Lần này nếu không đúng thì chúng ta chỉ đành lui ra”. Lăng Vị Phong nói: “Thử thế nào?” Mạo Hoàn Liên nói: “Tính từ bước thứ ba bên trái thạch động, giả sử huynh ở đây, vọt ngang thì gạt xuống giữa hai người đá bên phải, sau đó lại đi bốn bước, giả sử bốn bước đều không có chuyện gì là đúng. Huynh vẫn dùng đá để thứ tiếp”. Lăng Vị Phong thử y như thế, hòn đá thứ nhất ném ở nơi cách cửa động ba bước, quả nhiên chẳng có chuyện gì, hòn đá thứ hai, thứ ba, thứ tư liên tục ném ra, mỗi hòn đá đều rơi cách nhau một bước vẫn chẳng có chuyện gì xảy ra, Mạo Hoàn Liên cả mừng nói: “Hoàn toàn đúng, huynh lại ném tiếp hòn đá thứ năm, lần này chắc chắn sẽ có tên bay ra”. Lăng Vị Phong ném hòn đá thứ năm, bỗng nhiên một loạt tên phóng ra, lần này khoảng cách tương đối xa, tên chưa bắn đến trước cửa động thì đã rơi xuống.
                              Lăng Vị Phong nói: “Cứ theo cách tính này, sau khi đi bốn bước ở bên phải, lập tức nhảy vọt đến trung lộ, lại đi tiếp mười hai bước nữa, sau đó lại xoay sang bên trái đi ba bước, có đúng không?” Mạo Hoàn Liên gật đầu: “Đúng là thế”. Lăng Vị Phong lại nhặt một nắm đá, dùng thủ pháp mạnh ném tới, quả nhiên ném được mười ba viên ở bên trái thì có tên bắn ra, Lăng Vị Phong cười nói: “Xong rồi! chúng ta vào thôi!” Mạo Hoàn Liên nói: “Khoan đã. Chúng ta còn phải tính vị trí của người đá, phải chăng cũng đếm số bước”. Lăng Vị Phong ném hòn đá đến bên cạnh người đá, tên bắn ra vun vút, nhưng nếu tính đúng số bước, ném ra trước mặt người đá cũng không có tên bay. Lăng Vị Phong vỗ tay cười nói: “Giờ thì đã rõ hoàn toàn, khi gặp phải người đá không thể đi lách qua một bên, đương nhiên phải vượt qua đỉnh đầu nhưng lại không thể nhảy quá xa, phải hạ xuống trước mặt người đá một bước mới hợp theo cách tính”. Mạo Hoàn Liên nói: “Đúng thế. Huynh hãy thử dùng đá ném người đá”. Lăng Vị Phong chọn bừa một người đá, ném hòn đá qua, chỉ thấy người đá đột nhiên chồm về phía trước, cây đại đao trong tay chém xuống đất, bụi tung mù. Một hồi sau người đá lại xoay máy vòng rồi trở về nguyên dạng. Mạo Hoàn Liên nói: “Huynh thử chạm vào những người đá này”. Lăng Vị Phong cười nói: “Chạm cũng không sao, người đá này chỉ có thể hoạt động một lúc, lại không thể di chuyển, chỉ cần né tránh là được. Đương nhiên để tránh phiền phức, đừng chạm vào thì hơn”.
                              Quế Trọng Minh nói: “Giờ thì có thể vào chưa?” Lăng Vị Phong nói: “Có thể. May mà Mạo cô nương lanh lẹ, đã nghĩ ra ẩn ngữ trong tấm áo vàng”.
                              Lăng Vị Phong dẫn đầu đi trước, Quế Trọng Minh cầm kiếm đi đoạn hậu, Mạo Hoàn Liên đi ở giữa cùng từ bên trái tiến vào sơn động. đi được mấy bước, Lăng Vị Phong nhảy vọt một cái, phóng vào giữa hai người đá bên phải, lúc này Mạo Hoàn Liên cũng đã đạp lên một bước, đứng vào vị trí của Lăng Vị Phong, tạo thành một đường thẳng với chàng.
                              Lăng Vị Phong lại bước sang phải, vẫy tay: “Muội qua đây”. Quế Trọng Minh chợt nghĩ ra, nhảy ngang qua thì không có nhưng muốn đặt chân đúng nơi thì khinh công phải đạt đến mức lư hỏa thuần thanh. chàng khẽ nắm tay Mạo Hoàn Liên nói: “Cô nương cứ canh ở đây, để tôi đi theo Lăng đại hiệp”. Mạo Hoàn Liên mỉm cười, thấy chàng nhìn mình đăm đăm, vừa cảm kích vừa buồn cười, khẽ nói: “Huynh hãy yên tâm, tôi không hề gì”. Nói xong thì rút tay ra khỏi tay Quế Trọng Minh, nàng nhẹ nhàng vọt một cái lên chỗ Lăng Vị Phong vừa mới bước ra, khinh công tuy không bằng hai người Lăng, Quế, nhưng cũng coi như thuộc hạng nhất lưu trên võ lâm.
                              Hai người cứ bước theo lối “Trái ba bốn phải giữa mười hai lần lần tiến về phía trước, không bao lâu thì vào sâu trong sơn động, Lăng Vị Phong đốt mồi lửa lên tiếp tục đi về phía trước. Cả ba người càng lúc càng căng thẳng, đi được một hồi thì thấy phía trước rất nhiều tượng Phật, Lăng Vị Phong giơ mồi lửa lên xem, chàng đếm kỹ thì thấy đó chính là tượng của mười tám vị La Hán. Mỗi bức tượng đều cao hơn một trượng, lúc này họ đã đến cuối động đá.
                              Lúc này ba người đã đứng nối đuôi nhau trước mười tám bức tượng Phật, Lăng Vị Phong nói với Quế Trọng Minh: “Đệ hãy lấy ra mấy vòng kim hoàn ném sang hai bên trái phải xem thử thế nào?” Quế Trọng Minh làm theo, Lăng Vị Phong và Mạo Hoàn Liên đều rút kiếm phòng bị. Quế Trọng Minh ném ra ba vòng kim hoàn mà chẳng thấy điều gì khác lạ. Lăng Vị Phong nói: “Nếu trong sơn động này có chứa báu vật, chắc chắn là trên bàn thờ Phật hoặc dưới những bức tượng La Hán. nên không có gì khác lạ dưới hàng bức tượng này, chắc là họ muốn tạo thuận lợi cho những người chôn bảo vật trước kia”. Quế Trọng Minh nói: “Tại sao họ không chôn báu vật xong rồi mới đặt cơ quan?”.
                              Mạo Hoàn Liên nhíu mày suy nghĩ, chậm rãi nói: “Sự việc này rất kỳ lạ, nếu bên dưới có chôn báu vật, báu vật có thể rất nặng nề, phải có nhiều người mới di chuyển được nên nơi này không đặt mai phục để tiện ra vào. Nhưng luận theo lẽ thường, báu vật chắc không nặng nề kềnh càng, giải thích thế nào đây?” Nàng ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Đương nhiên đó chỉ là suy đoán của muội. Trước bức tượng La Hán không có cơ quan, chúng ta hãy nhìn kỹ xem sao”. Nàng nói xong thì cùng Lăng Vị Phong chia nhau tìm kiếm. Quế Trọng Minh vẫn đứng yên chẳng hề nhúc nhích, mắt nhìn chăm chăm hàng La Hán, không biết chàng đang nghĩ gì.
                              Lăng Vị Phong xem xét kỹ càng chín pho tượng La Hán bên phải, mỗi pho tượng đều sơn đen kịt, sờ vào thì thấy rắn chắc lạ thường, tựa như được đúc bằng sắt thép, chẳng khác gì với những tượng La Hán trong những chùa chiền bình thường ở miền Tây Bắc. Chàng kêu Mạo Hoàn Liên nhìn ở sau lưng cũng chẳng thấy gì. Lăng Vị Phong định đẩy một bức ra xem, chợt nghe Mạo Hoàn Liên kêu lên: “Trọng Minh, huynh làm gì thế?”
                              Té ra khi Mạo Hoàn Liên đang xem xét mấy bức tượng La Hán, nàng quay đầu nhìn lại thì thấy Quế Trọng Minh đứng ngẩn người ra cứ nhìn đăm đăm bức tượng Phật ở giữa, chẳng hề nhúc nhích, nàng chỉ tưởng rằng Quế Trọng Minh lại phát bệnh bởi vậy mới kêu hoảng lên!
                              Té ra bức tượng Phật ở giữa không giống như những bức tượng La Hán bình thường mà giống với một người chàng quen thuộc, lúc đầu chàng nghĩ mãi mà không ra, sau đó lục tìm trong ký ức mới nhớ rằng mặt của bức tượng Phật chính là Lý Định Quốc, chủ soái của nghĩa quân năm xưa. Nghĩ phụ Quế Thiên Lan đã dắt chàng đi theo nghĩa quân của Lý Định Quốc bốn năm năm trời, Lý Định Quốc đã từng bồng bế chàng. Mạo Hoàn Liên tưởng rằng chàng phát bệnh trở lại nhưng thật ra không phải. Chàng đang dần dần nhớ lại chuyện thời ấu thơ!
                              Quế Trọng Minh mừng rỡ vô cùng, chàng ôm eo bức tượng Phật lay mấy cái rồi cao giọng nói: “Lý bá bá, có còn nhớ con không?” bàn tay chàng như chạm phải một vật trơn tuột mà vật ấy lại nhúc nhích, chàng cả kinh, hai tay dùng lực đẩy một cái, người thối lui ra sau, chạm vào cơ quan, loạn tiễn bay ra vun vút. May mà chàng khinh công cao siêu, chân vừa chạm đất thì đã hiểu ra, chàng vội vàng vọt về phía trước, Lăng Vị Phong vỗ hai chưởng ra, đánh rơi được loạn tiễn!
                              Khi chàng tung người vọt về phía trước, một chuyện lạ lại xảy ra, ở giữa eo bức tượng Phật đột nhiên bay ra một luồng bạch quang, Lăng Vị Phong vung một cây thần mãng chạm phải luồng bạch quang ấy, luồng bạch quang ấy bay hơi chậm lại nhưng vẫn bắn ra, lúc này Quế Trọng Minh đã rút đôi kiếm hất lên, chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau, hai cây trường kiếm của chàng đều bị gãy đôi, luồng bạch quang ấy cũng rơi xuống đất.
                              Lúc này Lăng Vị Phong và Mạo Hoàn Liên cũng đã chạy tới, chỉ thấy ở dưới đất có một vật trông giống kiếm mà chẳng phải kiếm nằm ở dưới đất, thân của vật ấy rất hẹp, chui rất ngắn. Quế Trọng Minh cầm vật ấy lên xem, chỉ cảm thấy mềm oặt tựa như đai lưng, chàng thử cuộn lại, quả nhiên vòng thành một vòng tròn, chàng ngạc nhiên hỏi: “Đây là binh khí gì?” Lăng Vị Phong hai mắt sáng quắc, cả mừng kêu lên: “Quế hiền đệ, hãy thử dùng lực vẫy cho nó thẳng ra xem thử thế nào?”.
                              Quế Trọng Minh làm theo lời chàng, vật ấy vươn dài đến bốn năm thước, ánh sáng chói lòa, chẳng hề có cảm giác mềm dẻo. Quế Trọng Minh múa một hồi thì thâu lại, nói: “Thanh kiếm này thật kỳ lạ!” Mạo Hoàn Liên vội vàng hỏi: “Huynh thế nào rồi? Có nhớ được chuyện trước kia không?” Quế Trọng Minh nói: “Huynh nhớ được tất cả, chuyện lúc nhỏ cũng đã nhớ lại”. Chàng chỉ bức tượng Phật ngồi ở giữa nói: “Bức tượng Phật này trông rất giống Lý bá bá”. Lăng Vị Phong hỏi: “Lý bá bá nào?” Quế Trọng Minh nói: “Chính là là Lý Định Quốc tướng quân!”.
                              Lăng Vị Phong mừng rỡ nói: “Đệ hãy đưa kiếm ta xem thử”. Quế Trọng Minh cầm lấy thanh kiếm, Lăng Vị Phong xem qua kiếm một lượt, chỉ hàng chữ nhỏ trên chui kiếm nói: “Đệ có thấy ở đây viết cái gì không?” Quế Trọng Minh đọc: “Đằng dao bảo kiếm, truyền từ tiên hiền, lưu tặng anh hào, Lý Định Quốc bái”. Mạo Hoàn Liên nói: “Đây chắc chắn là bảo kiếm của Lý Định Quốc, chả trách nào lợi hại đến thế. Nhưng tại sao ông ta để hàng chữ nhỏ này? Tại sao lại giấu thanh bảo kiếm ở đây? Vả lại nó làm sao đột nhiên bay ra? Chả lẽ trên thế gian thật sự có phi kiếm?” Lăng Vị Phong nói: “Phi kiếm thì không thể có, nó bay ra là vì Quế hiền đệ dùng lực phát động, nếu muội không tin hãy theo ta”.
                              Lăng Vị Phong nhặt cây Thiên Sơn thần mãng đã bị chém làm hai đoạn, nói: “Thiên Sơn thần mãng cứng rắn như sắc thép, ta lại dùng thủ pháp mạnh đánh ra mà vẫn bị chặt thành hai đoạn, thanh bảo kiếm này xem ra còn hơn cả Du Long kiếm của Sở Chiêu Nam”. Chàng ta vừa nói vừa bước đến trước pho tượng Phật, Quế Trọng Minh và Mạo Hoàn Liên đi theo phía sau. Lăng Vị Phong chỉ một vật trên bàn thờ nói: “Các người có thấy cái gì đây không?” Quế Trọng Minh cầm lên xem, quả nhiên chỉ thấy một vật tựa như đai lưng đen thui. Chàng ta dùng tay bóp mới biết bên trong trống rỗng, thử đút bảo kiếm vào thì đúng là một cái vỏ kiếm. Lăng Vị Phong cười nói: “Vỏ kiếm này có thể cuộn lại, đệ thử xem sao”. Quế Trọng Minh làm theo, quả nhiên chẳng hề sai.
                              Lăng Vị Phong nhìn xung quanh tượng Phật, nói với Quế Trọng Minh: “Thanh kiếm này vốn được đeo ở eo bức tượng Phật như đai lưng, lúc nãy đệ đã dùng lực đè vào, đã phát động lò xo nên thanh kiếm bay khỏi bao”. Quế Trọng Minh nói: “Lăng đại ca, hình như huynh biết lai lịch của thanh kiếm này?” Lăng Vị Phong nói: “Khi ta ở Thiên Sơn học kiếm, Hối Minh thiền sư đã từng kể về các nhân vật võ lâm lừng danh và các thanh bảo kiếm cho ta nghe. Người nói có một thanh Đằng Giao kiếm là của kinh lược Liêu Đông Hùng Dương Mật triều Minh. Thanh kiếm này dùng bạch kim của miền Đông Bắc đúc thành, có thể co duỗi như ý, có thể đeo ở eo như đai lưng. Hùng Dương Mật đã dùng thanh kiếm này giết được rất nhiều Thát Tử, sau đó ông ta bị gian thần Ngụy Trung Hiền hại chết. Thanh kiếm này mất tích. Không ngờ lại xuất hiện ở đây. Những dòng chữ trên kiếm có lẽ là do Lý Định Quốc lấy được, sau khi thất bại ông đã giao thanh kiếm này cho ái tướng tâm phúc cất giữ để họ truyền cho bậc anh hùng sau này”. Quế Trọng Minh ngạc nhiên nói: “Tôi thường nghe nghĩa phụ nói Hùng Dương Mật có thể sánh bậc danh tướng ái quốc Nhạc Vũ Mục, tôi làm sao dám sử dụng thanh kiếm này? Lăng đại ca, kiếm pháp của huynh cao cường, chi bằng huynh cứ giữ lấy”. Lăng Vị Phong cười rằng: “Đó là do đệ phát hiện, đương nhiên phải thuộc về đệ. Hơn nữa ta và đệ học kiếm pháp khác nhau, kiếm pháp của ta chỉ cần dùng kiếm bình thường có thể địch lại với bảo kiếm của đối phương. Ta lấy thanh kiếm này cũng vô ích, nhưng đối với đệ thì trái lại. Nếu đệ sợ không xứng với thanh bảo kiếm này thì cứ giữa lại để sau này truyền cho người thích hợp hơn”. Quế Trọng Minh nghe chàng nói thẳng thắn như thế thì cũng không nói gì nữa.
                              Khi Quế Trọng Minh, và Lăng Vị Phong đang bàn luận, ở cửa động đột nhiên phát hiện có ánh lửa, Lăng Vị Phong vỗ vai Quế Trọng Minh nói: “Đệ hãy thử thanh kiếm này xem sao! Bên ngoài có người đến”. Ba người nín thở chờ đợi, chỉ thấy ở cửa động có mấy bóng người, trong chốc lát bọn họ đã đến trước tượng Phật. Một người là ông già gù Hàn Kinh, một người là Đạt thổ ty, người kia thì họ không biết.
                              Té ra bọn Lăng Vị Phong vào trong động, quần hào bên ngoài càng nôn nóng hơn. Một hồi sau vẫn không thấy họ ra, Đạt thổ ty toan xông vào trong động. Hàn Kinh nghe từ xa có tiếng huýt gió vọng tới thì nói với Đạt thổ ty: “Đừng lo, để cho ba người bọn chúng mở đường, đảm bảo chúng ta có thể lấy được báu vật”.
                              Trương Nguyên Chấn Lư Đại nhìn kỹ lại, chỉ thấy có một ông già vẫn tay chào Hàn Kinh. Hàn Kinh giơ tay nói: “Hạ lão huynh đã đến, chuyện này sẽ dễ dàng hơn. Hạ lão huynh là người năm xưa được Lý Định Quốc phái đi giúp Quế Thiên Lan tạo ra cơ quan trong thạch động này”. Thế rồi Hàn Kinh mới giới thiệu cho hai bên, quần hào mới biết kẻ này là thợ mộc nổi tiếng Hạ Vạn Phương vào ba mươi năm trước. lão ta tinh thông các loại ám khí, võ công cũng rất khá, Hạ Vạn Phương từ lâu đã nổi danh, thế rồi đôi bên chào hỏi nhau, Hàn Kinh hỏi: “Còn hai người nữa đâu?” Hạ Vạn Phương nói: “Khi vào sơn cốc, chúng tôi đã tách nhau ra. Họ đi đánh Quế lão đầu, còn tôi đến đây”. Hàn Kinh cười nói: “Khi chúng ta đến đây còn sợ Quế lão đầu ngăn cản nên hẹn nhiều cao thủ, ai ngờ lúc này mới biết lão đã chết”.
                              Hạ Vạn Phương nói: “Nếu biết như thế đã không hẹn bọn họ đến để khỏi chia thêm phần”. Đạt thổ ty nói: “Quế lão đầu tuy đã chết nhưng e rằng chúng ta vẫn còn gặp trở ngại. Lúc nãy còn có một tên Thiên Sơn Thần Mãng và thiếu niên áo vàng, e rằng bọn chúng chẳng kém gì Quế Thiên Lan”. Lư Đại nói: “Mỗi người cứ chia cho y một phần là xong”.
                              Khi Hoàn Liên đến nơi, bọn Vương Cương đã bị giết, y không thấy hai người Lăng, Quế ra tay, y bật cười rằng: “Uổng cho ông là nhân vật võ công cao cường, cớ gì lại sợ hai tên hậu bối!” Đạt thổ ty tức giận nói: “Ai mà sợ? Nhưng bọn họ cũng là cao thủ, ông không nên xem thường. Ông đưa bản đồ đây, tôi vào một mình”. Hạ Vạn Phương vội vàng nói: “Chúng ta vào động xem thử, đi nhiều cũng không hay lắm. Ba người vào là được. Đạt thổ ty đúng là có lòng tốt, chúng ta phải cẩn thận hơn!” Hàn Kinh lạnh lùng gật đầu cùng Đạt thổ ty, Hạ Vạn Phương phóng vọt qua rèm nước lướt vào trong sơn động.
                              Hạ Vạn Phương hiểu rõ các cơ quan trong động, đương nhiên biết cách đi. Chỉ trong chốc lát y đã dẫn hai người kia đến trước bàn thờ. Hàn Kinh thấy Quế Trọng Minh đang sờ bức tượng Phật thì giật mình, tưởng rằng họ đã phát hiện ra bí mật, không kịp suy nghĩ đã phóng vọt tới trước vung cây gậy trong tay bổ xuống đỉnh đầu Quế Trọng Minh. Cây gậy này được làm bằng thép bách luyện, cực kỳ cứng rắn. Quế Trọng Minh vẫy tay, cây Đằng Giao kiếm đột nhiên vươn dài, chỉ nghe keng một tiếng, cây gậy lập tức bị chặt đứt một nửa. Hàn Kinh cả kinh, y chưng hững rồi đột nhiên nổi giận, quét nửa cây gậy còn lại tới. Quế Trọng Minh tựa như thấy phía trước mặt có mười mấy cây gậy đánh tới thì quát lớn một tiếng, phóng vọt người lên né tránh cây gậy, cây Đằng Giao kiếm múa tròn, kiếm hoa chụp xuống đầu đối thủ. Đó là tuyệt chiêu Triển Dịch Ma Vân trong Ngũ Cầm kiếm pháp. Lối đánh gậy của Hàn Kinh tuy nhanh nhẹn đến cực điểm nhưng không thể nào tránh nổi thanh kiếm, chỉ nghe keng một tiếng, cây gậy lại bị chẻ mất một đoạn. Hàn Kinh hai mắt long lên sòng sọc, không đợi Quế Trọng Minh hạ chân xuống đất đã vội vàng dùng tuyệt chiêu trong Thiên Ma trượng pháp, phóng vọt người qua, cây gậy trong tay đâm vào huyệt Đan Điền của Quế Trọng Minh. Quế Trọng Minh thâu kiếm không được, buộc phải vận dụng khinh công tuyệt đỉnh xoay thanh kiếm, điểm mũi kiếm vào đầu gậy rồi mượn lực điểm ấy đảo ngược người ra sau. Trong tiếng kêu hoảng của Mạo Hoàn Liên, chàng đã lộn người sang phía bên trái của pho tượng Phật, cây kiếm trong tay chạm vào bàn tay pho tượng kêu xẹt một tiếng, cánh tay bị đứt xuống. Cánh tay rơi xuống phát ra màu vàng, Quế Trọng Minh cúi đầu nhìn thì thấy cánh tay đó làm bằng xích kim bọc sắt bên ngoài, chàng không khỏi kêu lên: “Bức tượng La Hán này làm bằng vàng!”.
                              Hàn Kinh cười ha hả, cao giọng nói: “Đúng thế, mười tám pho tượng La Hán đều được đúc bằng vàng nhưng đây là vật đã có chủ. Các người không được nhòm ngó!” Lăng Vị Phong quát: “Ai là chủ nhân?” Hàn Kinh chỉ mình nói: “Là bọn ta, các ngươi hãy mau cút ra khỏi động!”.
                              Lăng Vị Phong cười lạnh bước tới, nói: “Xem ra lảo già gù nhà ngươi đã lú lẫn, bọn ta có thể chia cho ngươi ít tiền mua quan tàn!” Hàn Kinh cả giận, thấy Lăng Vị Phong bước tới thì đột nhiên đẩy vào pho tượng Phật, pho tượng lắc lư tựa như muốn ngã ra phía sau. Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra phía trước đánh ầm một tiếng, bức tượng ngã xuống đất. Hàn Kinh thất kinh, y vốn muốn đẩy bức tượng ngã, nào ngờ khí lực không đủ, lực đẩy ngược lại của Lăng Vị Phong còn mạnh hơn y rất nhiều.
                              Sau khi bức tượng ngã, trên bệ xuất hiện một cái hộp gấm, Lăng Vị Phong mở cái hộp gấm ra, bên trong có một bức thư, Quế Trọng Minh phóng tới bên cạnh chàng, vung cây Đằng Giao kiếm loang loáng, Hàn Kinh cầm cây gậy gãy hơi thở dốc, không dám tiến đến gần. Y nhìn Đạt thổ ty, Đạt thổ ty vẫn đứng lặng một chỗ, chẳng hề có ý ra tay.
                              Lăng Vị Phong cầm bức thư lên nhìn, thư đề rằng: “Năm Ất Dậu, tháng Mạnh Thu, đại tặc cướp nước, tông thất dời xuống miền Nam, chạy đến ranh giới Vân Nam, chẳng thể gượng dậy nổi, gởi gắm hy vọng cho đời sau. Định Quốc phụng lệnh của Đại Tây vương và ý chỉ của Vĩnh Lịch đế dùng mười vạn tám ngàn cân vàng đúc thành mười tám pho tượng La Hán giấu trong động này để người hào kiệt phục quốc. Nếu có kẻ chiếm làm của riêng thì trời tru đất diệt”.
                              Trước khi Lý Định Quốc chạy đến Miến Điện, đã ra lệnh cho Quế Thiên Lan cất giữ số vàng này trong động. đại tặc chính là Ngô Tam Quế, Đại Tây vương là niên hiệu của Trương Hiến Trung, vua Vĩnh Lịch chính là Quế vương Chu Giao Lang bị Ngô Tam Quế bắt và giết ở Miến Điện (vào thời Sùng Trinh Chu Do Lang được phong làm Vĩnh Minh vương, cháu của Minh Thần Tôn”. Lý Định Quốc vốn là một đại tướng của Trương Hiến Trung, sau đó tôn Quế vương làm vua để kháng Thanh. Sau khi Trương Hiến Trung thất bại, trong cơn tức giận đã đổ kim ngân châu báu xuống Xuyên Giang. Lúc đó vẫn còn có mấy vạn cân vàng trong quân của Lý Định Quốc, Trương Hiến Trung gởi thư bảo ông ta tiêu hủy vàng nhưng ông ta không chịu tuân theo lệnh này, sai sứ giả về báo rằng sẽ cố gắng hết sức để bảo vệ cho số vàng này. Thật ra lúc đó Trương Hiến Trung đã bị thương, thoi thóp sắp chết, nghe thế thì nói với sứ giả rằng: “Hoàng đế của chúng ta vốn muốn tài sản trong thiên hạ đều tiêu tan cùng ta, tên tiểu tử Lý Định Quốc lại coi trọng số vàng này như thế. Ngươi hãy về nói với y, không hủy cũng được nhưng không thể để cho kẻ địch lấy”. Số kim ngân châu báu Trương Hiến Trung vứt bỏ xuống Xuyên Giang có giá trị cao hơn số vàng này rất nhiều. Ông ta đâu coi một chút ít vàng này ra gì, bởi vậy cũng mặc kệ Lý Định Quốc đã chống lệnh. Nếu không với tính cách của ông ta thì đâu để cho Lý Định Quốc yên thân.
                              Sau khi Lý Định Quốc lập vua Vĩnh Lịch lại bị Ngô Tam Quế xua đại quân truy kích, vua Vĩnh Lịch biết chẳng có hy vọng phục quốc, bởi vậy mới trao mấy vạn cân vàng của mình cho Lý Định Quốc, bảo ông ta cất giữ. Cả hai số vàng cộng lại là mười vạn tám ngàn cân, Lý Định Quốc chọn ra ba trăm người tâm phúc, mỗi người đều cắt máu thề rằng sẽ không tiết lộ chuyện này. Ba trăm người ấy do Quế Thiên Lan suất lãnh, bí mật đem số vàng vào sơn cốc, đúc thành mười tám bức tượng La Hán.
                              Quế Thiên Lan một mặt đào hang một mặt đúc tượng. Sau đó rất nhiều thợ quay trở lại trong quân, cuối cùng chỉ còn sáu bảy thợ khéo, sắp đặt cơ quan trong động, Hạ Vạn Phương là một trong những thợ khéo tham gia chuyện này, ông già lưng gù Hàn Kinh là phó tướng của Quế Thiên Lan. Khi mọi việc sắp xong xuôi, Quế Thiên Lan đã cho Hàn Kinh trở về trong quân, không để ông ta biết bí mật cơ quan, lúc đó Hàn Kinh rất bực bội nhưng không thể nói ra, bởi vậy mới bực bội đến hơn hai mươi năm.
                              Sau khi giấu mười vạn tám ngàn cân vàng, Quế Thiên Lan cùng các thợ khéo cũng trở về trong quân, sau nhiều năm kịch chiến bị đuổi đến tận Miến Điện, ba trăm người thân tín của Lý Định Quốc chỉ còn lại vài người. Lý Định Quốc chết đi, số người này cũng thất tán.
                              Quế Thiên Lan ẩn cư ở Kiếm Các, một mặt là tránh triều đình truy bắt, hai là bảo vệ cho số vàng. Bởi vì ông ta đã cắt máu ăn thề, nên trước khi chết cũng chẳng cho Thạch đại nương biết. Năm này qua năm nọ, thời gian trôi nhanh, triều nhà Thanh đã sắp bình định Trung Nguyên, các nhóm nghĩa quân lẻ loi cũng chẳng làm nên trò trống gì, Quế Thiên Lan thấy hy vọng phục quốc khó thành. Bởi vậy mới để lại một bức bản đồ ẩn hình trong tấm áo vàng vốn là muốn đợi Quế Trọng Minh lớn lên thì sẽ cho chàng biết bí mật để chàng mưu đồ phục quốc. Không ngờ mối ân oán giữa Thạch Thiên Thành lại trỗi dậy Quế Trọng Minh đau đớn bỏ đi, Quế Thiên Lan cũng chết thảm nơi núi hoang.
                              Lại nói Hàn Kinh từ sau khi Lý Định Quốc chết đã ẩn cư ở Xuyên Đông hơn hai mươi năm, cũng luyện được một thân tuyệt kỹ, trở thành một người có tên tuổi ở Xuyên Đông, cao thủ võ lâm các nơi rất tôn kính y. Y vốn chẳng có lòng làm chuyện lớn, cũng không muốn lấy vàng. Không ngờ một người thợ khéo tham gia vào công việc cất giấu vàng còn sống sót, sau nhiều phen gian khổ đã đi theo Mi Sơn trại chủ La Đạt, kẻ này nổi lòng tham kể cho La Đạt biết bí mật rồi xúi giục y đi lấy, đồng thời nói với y rằng Hàn Kinh cũng là một trong những kẻ cầm đầu ngày ấy. La Đạt nghe thế cả mừng, đích thân đến gặp Hàn Kinh, cầu xin Hàn Kinh giúp đỡ. Y nói rất khéo léo, một mặt khơi dậy hùng tâm của Hàn Kinh, bảo ông ta lấy vàng để xưng bá võ lâm, một mặt khích cho ông ta quyết một trận thư hùng với Quế Thiên Lan để tăng danh tiếng trên võ lâm. Hàn Kinh vốn là một kẻ kiêu ngạo, khi về già thì lẩm cẩm, nghĩ rằng số vàng ấy dẫu sao cũng vô chủ, nếu mình lấy được thì sẽ lập tức trở nên giàu có bởi vậy cũng động lòng tham, đi cùng La Đạt, lại mời thêm hai cao thủ nữa chuẩn bị đối phó với Quế Thiên Lan.
                              Sự việc tuy kín đáo nhưng không biết thế nào đã lộ ra, những kẻ võ công cao cường ở Tứ Xuyên không hẹn mà đều kéo nhau đến Kiếm Các, những kẻ này cũng như La Đạt, chẳng có chí lớn gì mà chỉ muốn lấy được số vàng lớn ấy.
                              Trước khi chết Lý Định Quốc cũng đã giao cây Đằng Giao kiếm cho Quế Thiên Lan, bảo ông ta cất giữ cho mình để sau này tặng cho bậc anh hào. Quế Thiên Lan thử dùng cây kiếm buộc ngàng bức tượng Phật làm như đai lưng. Ông ta vì nhớ Lý Định Quốc, nên đã đúc gương mặt của bức tượng giống như của Lý Định Quốc. Thế là cây bảo kiếm đã rơi vào tay Quế Trọng Minh.
                              Lăng Vị Phong xem xong di thư của Lý Định Quốc thì đã hiểu rõ nguồn gốc của số vàng. Vì thế cười lạnh một tiếng với Hàn Kinh, hờ hững nói: “Thất kính, thất kính, té ra ông là chủ nhân của số vàng này? Vậy ông chính là Lý Định Quốc tướng quân? Từ lâu tôi đã nghe nói Lý Định Quốc chết ở Miến Điện, không ngờ ông ta lại còn sống trên đời!”.
                              Hàn Kinh đỏ ửng mặt, tức giận quát: “Khi xưa và Lý Định Quốc sống chết có nhau, tên nhãi nhép nhà ngươi vẫn còn đang bú sữa. Ngươi biết cái gì?” Lăng Vị Phong cười hì hì: “Nếu đã cùng sống chết có nhau với Lý Định Quốc thì càng tốt. Chắc ông biết y của ông ta”. Hàn Kinh đột nhiên ném cây gậy về phía Lăng Vị Phong, quát: “Dù ngươi muốn ra tay ngăn cản cũng không được”. Lăng Vị Phong vung tay phóng ra một luồng kim quang đánh bật khúc gậy ấy đi, nói: “Ta chính là muốn cản ngươi!” Hàn Kinh vội vàng lách người qua, rút cây gậy trở về, chỉ thấy trên đầu gậy có cắm một vật dài năm sáu tấc như tên mà không phải tên, y thất kinh thầm nhủ: “Tên tiểu tử có thể nhớ vào món ám khí nhỏ bé thế này mà đánh ngược cây gậy của mình trở về, công lực thật không thể coi thường. Muốn thắng y có lẽ sẽ rất khó, nhưng dẫu sao mình cũng là nhân vật lừng lẫy trên võ lâm, làm sao có thể nuốt nổi cơn giận này”. Lăng Vị Phong nói: “Ngươi muốn lấy vàng cứ đến đây!” thế rồi cây kiếm thép vung lên. Quế Trọng Minh cũng cầm Đằng Giao kiếm đứng bên cạnh Lăng Vị Phong.
                              Hạ Vạn Phương là người tham dự chuyện này từ đầu đến cuối, y biết mỗi bức tượng La Hán nặng đến sáu ngàn bốn trăm cân, sáu ngàn cân là xích kim, bốn trăm cân là sắt thép, Hàn Kinh chỉ cảm thấy lay động bức tượng La Hán nhưng Lăng Vị Phong có thể đẩy La Hán ngã xuống đất, xem ra chàng hơn Hàn Kinh một bậc. Thế rồi y vội nói: “Muốn tỉ thí phải ra bên ngoài, ở đây toàn là cơ quan. Vả lại phải nói qui củ để mà quyết định cho dễ!” có nghĩa là đôi bên phải nói mục đích, lai lịch và yêu cầu của mình ra. Hạ Vạn Phương nói thế là muốn bảo bọn Lăng Vị Phong ra ngoài thương lượng. Đạt thổ ty nói: “Đúng thế! Cần gì vì chút vàng này mà tổn thương hòa khí, ra bên ngoài mời đồng đạo võ lâm cùng bàn, chúng ta sẽ chia nhau một chén nước là xong!” thật ra Đạt thổ ty chẳng hề muốn chia vàng cho Lăng Vị Phong. Chỉ vì y thấy hai người Lăng, Quế đều là những kình địch khó xơi, nghĩ bụng nếu động thủ trong động thì phía bên mình sẽ lọt xuống thế hạ phong, chi bằng ra ngoài rồi tính tiếp.
                              Lăng Vị Phong cắm kiếm vào bao, nói: “Thôi được! Muốn đánh cũng phải tìm nơi cho tốt, ra ngoài đi thôi. Xin mời!” Hàn Kinh chẳng nói lời nào, chạy ra ngoài cửa động theo quy tắc “Trái ba phải bốn giữa mười hai,” cả đoàn người cũng theo y chạy ra ngoài.
                              Sáu người vọt qua rèm nước, quần hào trong góc chạy lên, sáu bảy cái miệng nhao nhao hỏi kết quả, Hạ Vạn Phương nói: “Mười vạn tám ngàn cân vàng ở bên trong, chúng ta đều gặp may!” Đạt thổ ty nói: “Vàng thì có nhưng phải bàn xem nên chia như thế nào”. Trương Nguyên Chấn nói: “Bảy người chúng ta đều biết nơi này giấu vàng nên đến đây, đương nhiên ai nấy cũng có phần, còn ba người còn họ...” Lư Đại chen vào nói: “Bọn ba người Lăng đại hiệp cũng có phần, chúng ta cứ chia thành mười phần thì không cần phải tranh cãi nữa”. Lư Đạt đã được cầm máu, nằm ở dưới đất rên lên nói: “Tôi vào động trước nhất, đã bị thương vì mọi người, các người đã có lời trước, phải chia cho tôi hai phần!” Hàn Kinh hừ một tiếng rồi nói: “Nếu ngươi tìm ra kết quả đương nhiên sẽ chia cho ngươi hai phần, nhưng ngươi vừa vào đã bị tên bắn chạy ra!” y hơi ngập ngừng rồi nói: “Không thể chia vàng như thế!”.
                              Quần hào ngạc nhiên nói: “Vậy phải nên chia như thế nào?” Hàn Kinh chỉ Hạ Vạn Phương nói: “Vàng là do ta chôn, cơ quan là do y sắp đặt. Bọn ta mỗi người chiếm hai phần, năm người các ngươi mỗi người một phần, ngoài ra ta còn mời hai người bằng hữu đi cùng với Hạ lão đệ đến đây, tuy họ chưa đến nhưng cũng phải tính cho họ mọt phần. Còn ba người khách bên kia...”.
                              Y chỉ Lăng Vị Phong tiếp tục nói: “Chiếu thi định chỉ có thể chiếm một phần. Họ chỉ may mắn tìm ra, không thể chia theo cách của chúng ta”.
                              La Đạt rất bực tức, y đã bị thương mà chỉ chia được một phần còn hai người bằng hữu chưa lộ mặt của Hàn Kinh lại cũng chiếm một phần nhưng vừa mới cầm máu, toàn thân yếu ớt, y không dám lên tiếng. Đạt thổ ty cũng không phục, y vốn muốn lên tiếng nhưng Lư Đại đã cướp lời: “Hàn đại ca và Hạ đại ca mỗi người chiếm hai phần, điều đó đương nhiên. Có điều ba người phe Lăng đại hiệp cộng lại cũng chỉ được một phần thì không công bằng. Theo tôi nếu có nước mọi người cùng uống, mỗi người họ cũng phải được chia cho một phần. Còn bằng hữu của Hàn đại ca, theo lý mà nói vẫn chưa lộ mặt, vốn là khó cho họ xen vào. Nhưng Hàn đại ca đã mời họ, huynh đệ chúng tôi có thể nể mặt, tôi thấy cứ để cho hai người họ chiếm một phần, cộng lại là mười ba phần bằng nhau. Mọi người thấy thế nào?” La Đạt cảm kích ơn cứu mạng của Lăng Vị Phong, lên tiếng khen hay. Đạt thổ ty tuy không phải là đối thủ của bọn Lăng Vị Phong nhưng y muốn khích bác cho Hàn Kinh và Lăng Vị Phong ra tay để mình ngồi yên hưởng lợi cũng khen hay. Hàn Kinh vừa nhìn thì phía bên mình có ba người đòi chia phần cho Lăng Vị Phong thì trong lòng lại hoảng lên, nghĩ thầm nếu cứ kiên quyết nữa thì bọn họ liên thủ, mình cũng không xong, thế rồi mới cười khan mấy tiếng: “Được, chúng ta không đánh không quen nhau. Tiền tài là chuyện nhỏ, nghĩa khí là chuyện lớn, cứ theo Lư đà chủ vậy, chia thành mười ba phần bằng nhau”. Đạt thổ ty vừa nghe thì rất thất vọng!
                              Trong khi quần hào lục lâm đang tranh cãi nhau chuyện chia phần, Lăng Vị Phong đứng lặng một bên, hững hờ chẳng thèm để ý, đến lúc này mới đột nhiên trợn mắt đứng phắt dậy, quát: “Ai chia phần với ngươi? Các người chẳng qua chỉ tự biên tự diễn”. Hàn Kinh ngạc nhiên hỏi: “Vậy phải chia thế nào?” Lăng Vị Phong nói: “Toàn bộ số vàng này là của ta, ai muốn chia cứ nói chuyện với ta!” Chàng vừa nói ra lời ấy, không những quần hào thất sắc mà ngay cả Quế Trọng Minh và Mạo Hoàn Liên cũng ngạc nhiên, thầm nhủ: “Sao Lăng đại hiệp đột nhiên cũng trở nên ham vàng?” Quế Trọng Minh khẽ kéo tay áo Lăng Vị Phong, nói: “Chúng ta cần nhiều vàng thế để làm gì?” Lăng Vị Phong nói bên tai chàng: “Các người đừng lo. Ta sẽ dựa vào số vàng này để thu phục đám ma đầu làm một chuyện lớn”.
                              Lăng Vị Phong muốn độc chiếm số vàng, điều đó đúng là gây bất ngờ cho mọi người. Trong nhất thời họ chẳng nói ra lời nào trái lại thấy Lăng Vị Phong và Quế Trọng Minh to nhỏ thì thầm thì tưởng rằng hai người bàn cách đối phó với mình, ai nấy đều phẫn nộ. Dù Lư Đại vốn cảm kích Lăng Vị Phong cũng lấy làm bực mình, thầm nhủ: “Té ra Thiên Sơn Thần Mãng chỉ có cái hư danh, là một kẻ thấy lợi quên nghĩa”. Y không đợi Hàn Kinh lên tiếng đã tiến về phía trước hai bước, cung tay nói: “Lăng đại hiệp, dựa vào cái danh Thiên Sơn Thần Mãng, chúng tôi vốn phải kiêng dè. Nhưng bọn huynh đệ từ xa đến đây, Lăng đại hiệp bảo chúng tôi trở về bằng tay không thì biết ăn nói thế nào!”.
                              Quần hào chợt kêu lên: “Đúng thế? Đó là qui củ gì?” Lăng Vị Phong trợn mắt cười hì hì rồi nói: “Đó là qui củ của hắc đạo các ngươi. Bọn ta đã phát hiện ra vàng trước, bát nước này không thể chia ra được, phải do ta làm chủ!” Khi người trong lục lâm chiếm tài vật, nếu có một đồng đạo khác phát hiện, theo qui củ họ có thể đòi chia nhưng phải được người phát hiện ra trước đồng ý. Nếu không đồng ý mà người đòi chia không chịu buông tay thì phải dùng võ lực giải quyết. Bởi vậy Lăng Vị Phong làm thế cũng không phải là không hợp qui củ.
                              Lư Đại nghe Lăng Vị Phong trả lời thì cảm thấy khó mở miệng. Y tuy không phục Lăng Vị Phong ỷ mạnh độc chiếm nhưng cũng không muốn xích mích với chàng, thế rồi lùi sang một bên, im lặng chẳng nói. Hàn Kinh và Đạt thổ ty tức giận đến mắt long lên sòng sọc, cười lạnh nói: “Vậy chúng ta chỉ đành tỉ thí với nhau!” Lăng Vị Phong nói: “Giờ đây số vàng này coi như là của ta, nếu ai muốn lấy thì phải tỉ thì với ta. Dù dùng tuyệt kỹ gì ta cũng chìu theo. Lần này chúng ta tỉ thí tuyệt kỹ đoạt vàng, vốn của mỗi môn là một pho tượng La Hán, ai thắng thì người đó lấy một pho tượng, cũng có thể cộng thêm vào để tỉ thí tiếp. Nếu các ngươi chịu tỉ thí như thế, một mình ta sẽ tiếp. Nếu các ngươi muốn cùng xông lên, ba người chúng ta sẽ chìu theo”.
                              Hàn Kinh nghĩ bụng: “Mỗi người chúng ta đều có võ công độc môn, dù Lăng Vị Phong nhà ngươi có giỏi hơn cũng không thể tinh thông tuyệt kỹ các nhà. Tỉ thí như thế có lợi hơn cùng xông lên”. Ở đây toàn là những nhân vật có tiếng tăm, chẳng thể nào ỷ đông hiếp yếu, vả lại nếu cùng xông lên thì cây bảo kiếm của Quế Trọng Minh có thể khắc chế tất cả các loại binh khí khác, Lư Đại thầm nhủ: “Nếu tỉ thí như thế, khi đến lượt mình có thể tỉ thí bằng văn để giữ trọn hòa khí”. Thế rồi cũng tỏ vẻ tán đồng.
                              Lăng Vị Phong thấy quần hào lục lâm đều chấp nhận thì mỉm cười, phóng lên một tảng đá lớn rồi cao giọng nói: “Ai lên trước?” Đạt thổ ty bước ra nói: “Ngươi xuống đây, ta muốn chơi với ngươi một trò”.
                              Lăng Vị Phong ôm quyền nói: “Trò gì?” Đạt thổ ty cởi áo ngoài, lộ ra làn da đen bóng, hai tay gồng lên, xương cốt kêu răng rắc, cao giọng nói: “Chúng ta sẽ chơi trò mượn ba trả năm! Trước tiên ngươi cho ta đánh ba quyền, ta sẽ trả lại cho ngươi cả vốn lẫn lời năm quyền. Khi đánh không ai được dùng khinh công né tránh, cũng không được trả đòn. Nếu tử thương đó là do số trời!” Đạt thổ ty là đệ nhất cao thủ ngoại gia quyền, mình đồng da sắt, đã luyện được công phu tuyệt đỉnh Thiết bố sam, cả đao kiếm cũng chẳng chém y được huống chi nắm đấm. Y nghĩ Lăng Vị Phong nếu bị đấm ba quyền không chết cũng bị thương. dù không bị thương, chàng đánh năm quyền y cũng chẳng sợ.
                              Lư Đại nghe thế thì thầm nhủ Đạt thổ ty đã chiếm được phần hơn, y đòi đấm trước ba quyền, Lăng Vị Phong chắc chắn sẽ không chấp nhận. Quả nhiên Lăng Vị Phong nói: “Không công bằng tý nào”. Đạt thổ ty nói: “Vậy ngươi đấm ta trước ba quyền, ta đấm ngươi năm quyền”. Nào ngờ Lăng Vị Phong không phải có ý này, chàng không để Đạt thổ ty lên tiếng mà không ngừng nói: “Không công bằng, ta cần gì phải hơn ngươi hai quyền? Ta không cần lấy lời, ngươi đấm ta ba quyền, ta trả lại ngươi hai quyền!” Đạt thổ ty cả giận, thầm nhủ: “Ngươi dám coi thường ta”. Rồi cao giọng nói: “Vậy ngươi xuống đây, chúng ta tỉ thí!”.
                              Lăng Vị Phong đứng một chân trên tảng đá, hai quyền đưa ra, cũng nói: “Ngươi lên đây, tỉ thí trên tảng đá này tốt hơn nhiều, ai rơi xuống người ấy thua”.
                              Đạt thổ ty nhìn, quả nhiên tảng đá ấy chỉ có thể đứng được hai người, đừng nói là dùng khinh công né tránh, dù xoay người lại tránh cũng chẳng được. Y thầm nhủ: “Lần này là ngươi tự tìm cái chết”. Rồi y vung tay phóng lên tảng đá, Lăng Vị Phong vẫn đứng một chân, nói: “Ngươi đứng cho vững đấy! Tảng đá này rất hẹp! Được, ngươi phát quyền đi thôi!”.
                              Đạt thổ ty thấy chàng đứng một chân, rõ ràng là có ý nhường cho mình. Y đã nổi danh trên võ lâm ba mươi năm, đã có bao giờ bị coi thường như thế, thế là lửa giận ngất trời, quát lớn: “Ngươi cũng đứng cho vững đấy!” rồi đấm vù tới một quyền trước ngực Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong ưỡn ngực đón lấy, chỉ nghe binh một tiếng, Lăng Vị Phong lắc lư người như muốn ngã xuống, Quế Trọng Minh cả kinh, định nhảy đến cứu thì Lăng Vị Phong đã kìm người lại, kêu ối chao một tiếng rồi nói: “Không sao cả!”.
                              Đạt thổ ty như đấm vào một tảng sắt, nắm tay đau nhói, người chỉ hơi lắc lư như Quế Trọng Minh chỉ để ý đến Lăng Vị Phong, quần hào đều cả kinh.
                              Té ra Lăng Vị Phong cố ý tiếp đòn để xem thử kình lực của y. Kết quả là Lăng Vị Phong tuy không ngã nhưng ngực cũng đau nhói. Chàng điều chỉnh hơi thở, vận khí đi một vòng, khí dồn đến tứ chi, biết mình không bị thương thì bớt lo hơn, lại cười hì hì rằng: “Đã đấm xong quyền thứ nhất. Quyền thứ hai!” Đạt thổ ty chẳng nói một lời, vận thần lực đấm vù ra một quyền vào đơn điền của Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong hơi lắc người sang trái, cú đấm của Đạt thổ ty lướt qua da, kình đạo chẳng thể nào đẩy ra được. Lăng Vị Phong đã dùng tự quyết chữ “ngự” để hóa giải kình lực của y, chàng lại cười hì hì: “Đã đấm xong quyền thứ hai, còn một quyền cuối cùng, xin mời!” Đạt thổ ty trợn mắt, gầm lớn một tiếng, hai quyền cùng phát ra, Lăng Vị Phong đột nhiên ngửa người ra sau, một chân giở lên trời, đầu cúi ra phía sau, nửa thân người giở hỏng lên khỏi tảng đá, lực của hai cú đấm đâu chỉ nặng ngàn cân, nhưng Lăng Vị Phong ngửa ra sau mà chân làm trụ vẫn không hề nhúc nhích, bụng đã hóp vào ba tấc, hai cú đấm của Đạt thổ ty đều trúng vào bụng chàng nhưng bị cơ bụng của chàng húc lấy, Đạt thổ ty đã vươn dài tay, chẳng thể nào đẩy xích ra nữa, Lăng Vị Phong ngửa người dậy, quát: “Buông!” Đạt thổ ty chỉ cảm thấy một luồng đại lực dồn tới, người lảo đảo như muốn ngã xuống, may mà công lực của y cũng thâm hậu, hai chân y bấu xuống đất, dùng Đại lực thiên cân trụy mới kìm người lại được. Quần hào thấy thế thì đều không khỏi kêu ầm lên!
                              Lăng Vị Phong tiếp ba quyền (chú thích: Lần cuối cùng tuy hai quyền cùng phát ra nhưng cũng tính là một quyền. Một quyền mà nhà võ nói tính cả hai tay), hai chân vững chãi đứng đối diện với Đạt thổ ty, cười hì hì rằng: “Giờ đến lượt ta phát quyền, ngươi đứng vững chưa?” Đạt thổ ty thầm lo, nói: “Ngươi đợi một lát”. Y điều chỉnh xong hơi thở, dùng lực gồng lên, xương cốt toàn thân kêu lên răng rắc, lúc này y mới định thần, thầm nhủ: “Lăng Vị Phong nhà ngươi dù công lực thâm hậu nhưng cũng chưa chắc phá nổi công lực Thiết bố sam của ta”. Thế rồi hai chân như đóng cứng lên tảng đá, kêu lên: “Ngươi đánh đi!” Lăng Vị Phong mỉm cười, chưởng phải vung lên, quyền trái đấm xuống, nói: “Đây là quyền thứ nhất!”.
                              Đạt thổ ty đột nhiên hạ người xuống, hích vai về phía trước, Lăng Vị Phong đấm bình một tiếng, chỉ cảm thấy một luồng đại lực phản kích trở lại, chàng lập tức thâu quyền, Đạt thổ ty hừ một tiếng, khi chàng thâu quyền lại thì dùng niêm kình kéo người đi thêm hai bước, Lăng Vị Phong hơi lắc qua một bên, quát: “Đứng cho vững!” Đạt thổ ty đỏ ửng mặt, cố gắng dùng trọng thân pháp kìm người lại, chẳng nói một lời.
                              Té ra Đạt thổ ty đã dùng xảo kình trong quyền ấy. Số là “Mượn quyền trả quyền” là qui định khi người ta đấm thì không được phản công, y hích vai về phía trước thực ra là đã phản công nhưng y không động thủ, bởi vậy không tính là phạm qui.
                              Lăng Vị Phong đánh một quyền mà y không ngã, dùng niêm lực nội gia cũng chỉ có thể dắt y được hai bước, chàng bất giác ngạc nhiên, thầm nhủ: “Gã này đúng là danh đồn không ngoa, tuy dùng xảo kình nhưng công lực thật là thâm hậu. Mình phải thử xem Thiết bố sam của y như thế nào?” thế rồi chàng mỉm cười xoay gót chân, đấm thẳng quyền vào ngực phải của y, kêu lên: “Quyền thứ hai đây!”.
                              Lần này Đạt thổ ty không dám dùng xảo kình phản công nữa, y ưỡn ngực đón lấy quyền ấy. Lăng Vị Phong như đấm vào một tảng đá, khi chàng đã đấm trúng lại dùng lực đẩy một cái, Đạt thổ ty chỉ cảm thấy như có một cái búa sắt nặng ngàn cân đấm vào, y lại hự một tiếng, người lảo đảo rồi dùng lực kìm lại. Lăng Vị Phong đã dùng ngạnh công cho quyền ấy, thấy Đạt thổ ty tuy lảo đảo nhưng cũng chẳng hề tổn thương, chàng nghĩ trong bụng: “Công phu Thiết Bố Sam của kẻ này có thể nói thuộc hàng đệ nhất trên giang hồ”.
                              Đạt thổ ty tiếp hai quyền, bụng đã hơi vững, y muốn lấy lại sĩ diện trước mặt quần hào, thế rồi làm ra vẻ cứng cỏi, cười ha hả: “Lão phu tuy già nhưng bộ xương này vẫn còn cứng lắm. Ngươi còn một quyền nữa hãy mau đấm đi thôi!” Cười chưa dứt Lăng Vị Phong đột nhiên đấm thẳng ra hai quyền vào be sườn của y, Đạt thổ ty tuy luyện Thiết Bố Sam, không sợ điểm huyệt nhưng huyệt Thông Tuyền là một trong ba mươi sáu điểm huyệt của con người, lại thêm Lăng Vị Phong có thần lực thì y làm sao chịu nổi. Y chỉ cảm thấy toàn thân tê rần, nhẹ nhàng rơi xuống như một con dìu đứt dây vì bị chưởng lực chấn động. Lư Đại đứng gần vội vàng nhảy tới đỡ, Đạt thổ ty cũng rất ghê gớm, y bật người dậy, mặt đỏ ửng, nói: “Ta không cần lấy vàng nữa!” thế rồi cắm đầu đi thẳng ra ngoài.
                              Hàn Kinh vội vàng chặn lại nói: “Khoan đã, còn có bọn chúng tôi nữa”. Y muốn giữ Đạt thổ ty lại để chuẩn bị cùng xông lên.
                              Đạt thổ ty nói: “Ta đã nhận thua, còn ở đây làm gì nữa?” Lăng Vị Phong cũng cao giọng kêu: “Đạt thổ ty, ông dùng công phu Thiết bố sam thật ra tôi thắng không được. Tôi chỉ nhờ công phu đánh huyệt mà may bắn thắng được một chiêu, lát nữa tôi sẽ còn lãnh giáo với ông”. Đạt thổ ty cũng đành ở lại.
                              Người thứ hai lên tỉ thí với Lăng Vị Phong là Hắc Sát Thần Đào Hoằng, công phu hạ bàn của y rất vững chãi, y muốn đấu vật với Lăng Vị Phong nhưng luận về công lực thì kém hơn Đạt thổ ty nhiều, bởi vậy chỉ sau vài hiệp đã bị Lăng Vị Phong quật ngã.
                              Người thứ ba bước ra, Lăng Vị Phong cũng hơi đắn đo, bởi vì kẻ ấy là Lư Đại. Lăng Vị Phong thầm nhủ kẻ này dẫu sao cũng là một hán tử hào, nếu y không biết dừng lại đúng lúc, tỉ thí binh đao quyền cước, đả thương y cũng không hay lắm.
                              Chàng đang chần chừ thì Lư Đại khách sáo ôm quyền nói: “Lăng đại hiệp, tôi muốn tỉ thí khinh công với ông. Lư Đại này tuy nghèo nhưng ngày cũng đủ ăn ba bữa, nếu Lăng đại hiệp cần vàng, tôi không dám tỉ thí đoạt vàng. Dù tôi thắng hay thua, ông cứ việc lấy bức tượng La Hán của tôi!” Lăng Vị Phong thầm cười, biết rằng Lư Đại đã nghĩ chàng là kẻ tham tiền tài, thầm nhủ: “Lát nữa ta sẽ nói cho ngươi hiểu, giờ đây ngươi cứ hiểu thế nào cũng được”. Rồi chàng ôm quyền khách sáo nói: “Lư đà chủ đã nặng lời, tỉ thí xong sẽ nói chuyện vàng bạc. Giờ xin mời ông hãy nói tỉ thí khinh công như thế nào?”.
                              Lư Đại chỉ ngọn núi nhỏ trước mặt, nói: “Chúng ta cùng chạy lên ngọn núi ấy, nửa đường không được nghỉ ngơi. Chúng ta chạy lên một vòng rồi về trở lại, lúc đó sẽ biết ai giỏi khinh công hơn. Ở đây toàn là những nhân vật có tên tuổi, chắc không khó phán đoán ai thắng ai thua”. Lăng Vị Phong nói: “Được, cứ như thế, xin mời Lư đà chủ!”.
                              Nhìn bề ngoài tỉ thí khinh công có vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực sự không dễ tí nào, Kiếm Các là nơi hiểm trở, mỗi ngọn núi đều trơn tuột, dù khỉ vượn cũng khó trèo. Nếu công phu kém thì chắc chắn sẽ rơi xuống mà chết. Lư Đại giỏi khinh công, lúc nãy khi cứu La Đạt đã trổ tài, giờ nghe Lăng Vị Phong bảo y lên trước thì nói một tiếng “Xin mời!” rồi chân dặm xuống đất, lướt đi như tên bắn cao đến bốn năm trượng, hai chân điểm vào vách đá, người xoay sang hai bên trái phải, chỉ thấy y xoay như trôn ốc trên vách núi, lúc lật trái ngửa phải, đột nhiên đã lên đến đỉnh núi. Lăng Vị Phong biết đó là Bàn đà công, dùng thân pháp chữ tri để giữ cân bằng, chả trách nào y có thể xoay chuyển tự do trên vách núi, quả thật công phu này đã đạt đến mức lư hỏa thuần thanh.
                              Lư Đại lên đến đỉnh núi thì không ngừng, y lại xoay người lướt xuống phía dưới, khi cách mặt đất năm sáu trượng thì đột nhiên vung tay vọt lên rồi hạ xuống như một con chim nhạn, thân pháp khéo léo lạ thường. Quần hào đều kêu ầm lên, Quế Trọng Minh thầm nhủ: “Mình lớn lên ở Kiếm Các, nhưng luận về khinh công cũng kém y một bậc, không biết Lăng Vị Phong thắng y thế nào đây”.
                              Lăng Vị Phong đợi y hạ xuống đất thì nói: “Thân thủ của tiền bối quả nhiên bất phàm, vãn bối xin bày trò, mong đường cười chê”. Nói xong thì mũi chân điểm nhẹ xuống đất, người phóng vọt lên cao đến hơn mười trương, khi lên đến vách núi thì hai chân không hạ xuống đất, chỉ dùng tay vỗ nhẹ lên vách núi, người lại phóng vọt lên nữa, cứ liên tục đổi chưởng như thế, chàng lướt lên như sao xẹt. Những người phía dưới nhìn lên thì thấy chàng cứ bay lên như chim, lên đến đỉnh núi thì chàng xoay người lại dùng phương pháp đổi chưởng hạ xuống mặt đất mười lăm mười sáu trượng, đột nhiên đầu chúc xuống chân chổng lên, phóng vọt người xuống như sao xẹt. Trong tiếng kêu hoảng xuống mọi người, khi còn cách mặt đất không đầy một trượng, chàng đột nhiên lộn người, hạ ngang xuống đất, quần hào tuy đối địch với Lăng Vị Phong nhưng cũng không khỏi cất tiếng khen ngợi, Lư Đại nói: “Ta đã thua”. Rồi lui sang một bên chẳng nói lời nào.
                              Lăng Vị Phong liên tiếp thắng ba trận, Hàn Kinh không kìm được nữa, y bước ra cao giọng nói: “Lăng đại hiệp, chúng ta tỉ thí xem sao!”.
                              Chính là: Chim sẻ làm sao biết chí chim hồng, lại khinh nhân nghĩa trọng hoàng kim.
                              Muốn biết sau đó thế nào, mời xem hồi sau sẽ rõ.
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 36 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9