Lịch sử Nhãn Hiệu
1. Lịch sử Azzaro Loris AZZRO, ông là người Ý, một người rất yêu Paris và mang đầy tính cách của người Tuy-ni-di (Bắc Phi) khi còn thời niên thiếu từ đó đã hình thành trong ông một người nghệ sĩ thực thụ. Vào những năm 1960 ông đến Paris và thử vận may của mình, và ở đây ông đã thành công một cách tuyệt vời. Vấn đề là chỉ trong một vài tháng Loris AZZRO đã tự mở được cửa hàng trưng bày của mình tại Faubourd Saint Honore.Trang phục của ông đã được rất nhiều người nổi tiếng và rất giàu có để ý và sử dụng như Brigitte Bardot, Romy Schneider, Sophia Loren, Raquel Welch, Jane Birkin, Tina Turner, Claudia cardinale, Liza minelli, Barbara streisand… và ngay cả công chúa của Monaco, hoàng hậu của Iran, nũ công tước của Orleans cũng rất quan tâm đến.Từ thời trang đến nước hoa, câu chuyện đến rất tự nhiên. Loris AZZARO đã chế tạo ra nước hoa đầu tiên của ông mang tên AZZARO COUTURE vào năm 1975. Một loại nước hoa thật gợi cảm, sang trọng và đích thực dành cho quý bà.Tiếp theo sự thành công đó ông giới thiệu đến quý cô hương thơm AZZURA, EAU BELLE, ORANGE TONIC và sau đó mọi người biết đến AZZARO còn có cả nước hoa dành cho nam như AZZARO POUR HOMME, CHROME, và COLLECTION. Mới đây nhất (2003) là sản phẩm VISIT.AZZARO mang đậm phong cách của Ý - hiện đại thanh lịch và nhẹ nhàng. Trung thành với phương pháp truyền thống của những người pha chế nước hoa, AZZRO đã chọn và thực hiện từ những nguyên liệu chọn lọc tinh khiết nhất đã qua thử nghiệm để đảm bảo hoàn hảo chất lượng thành phẩm.Mỗi kiểu dáng chai nước hoa đều nói lên đặc tính mùi hương được chứa đựng bên trong nó mà sự trong suốt và giản dị của chất liệu thủy tinh như thể hiện sự tinh khiết, hiện đại của phong cách thiết kế kiểu Ý.Và ngày nay cùng 200 nhân viên bảo đảm cho công việc chế tạo sản xuất hàng ngày cùng với nửa triệu lít nước hoa được tinh chế với sự kiểm soát và thử nghiệm bằng hệ thống máy vi tính thông qua 16 dây chuyền thực hiện để đạt được năng suất 50 triệu thành phẩm.AZZARO một nhãn hiệu uy tín với tổng cộng 16.000 cửa hiệu nước hoa cao cấp cũng như ở các trung tâm mua sắm trên 80 quốc gia. Đặc biệt là thị trường ở Pháp và Hoa Kỳ. AZZARO là một phần của tập đoàn CLARINS, đã phát triển trên hệ thống toàn cầu với hệ thống 19 chi nhánh trên khắp thế giới hỗ trợ và phát triển cho mạng lưới kinh doanh phân phối.- AZZARO chiếm 90% nước hoa dành cho Nam chỉ có 10% là nước hoa của nữ- Chiếm 63% thị trường Châu Âu, 23% Bắc Mỹ, 5% Nam Mỹ, 3.8% ở Châu Á và 5.2% ở các thị trường khác.
2. Lịch sử ESCADA Khi Margaretha và Wolfgang Ley gặp nhau lần đầu tiên cách đây ¼ thế kỷ, đó là một sự khởi đầu một chuyện tình vĩ đại- và của một nền kinh doanh thành công vĩ đại một cách công bằng.
Họ gặp nhau vào giữa những năm của thập kỷ 1970: một siêu mẫu đẹp người Thụy Điển Margaretha, làm công việc biểu diễn thời trang ở Jacques Fath, để rồi rời bỏ sàn diễn và nghiên cứu cho kế hoạch cho thời trang. Wolfgang Ley, là một nhà kinh doanh trẻ tuổi, năng động và đầy tham vọng, đã yêu Margaretha ngay tức thì. Họ đã là một cặp trong chuyện thần tiên và là một đội không thể nào đánh bại được. Trở về từ thời gian hưởng tuần trăng mật, họ đã mang về nhà tên của công ty họ được sáng lập vào năm 1976:Escada. Đây là tên của một con ngựa đua giống Ailen mà họ đã thắng trong cuộc cá cuộc một cách thành công – một điềm may mắn.Họ bắt đầu với việc ra bộ sưu tập hàng dệt kim. Bà Margaretha phụ trách phần thiết kế, Wolfgang Ley phụ trách phần tài chính, bán hàng, tiếp thị và sản xuất. Công ty đã tăng trưởng nhanh chóng, thêm vào là sự thành công vang dội trong thương mại của họ, cả hai dành được những giải thưởng to lớn. Năm 1990, họ sáng lập ra thêm mảng kinh doanh phụ Escada Beauté, tung ra sản phẩm nước hoa Escada lần đầu tiên vào thị trường. Và họ đã sống rất hạnh phúc sau đó, nhưng đến khi cái chếtcủa Margaretha Ley vào năm 1992, mà nó là điểm mốc của sự chấm dứt một kỷ nguyên. Tuy nhiên, một lần nữa khó khăn sóng gió đã được vượt qua và khủng hỏang không còn, mọi thứ đã bắt đầu phục hồi.Ngày nay, nhãn hiệu thời trang Escada là một trong những nhãn hiệu dẫn đầu trên thế giới, và với sự lãnh đạo có ba người đứng đầu là Wolfgang Ley và Scot Brian Rennie là nhà thiế kế chính, nó bây giờ trở thành nhãn hiệu sang trọng lớn nhất của thế giới.Thành công của nó dựa vào chất lượng của thời trang sang trọng mà nó cũng phù hợp với những người phụ nữ bình thường, dựa vào một dịch vụ tốt và đặc biệt là dựa vào cách mạng tiếp thị của nó với những sự tập hợp được cập nhật một cánh nhanh chóng mỗi bốn đến sáu tuần. Tập đoàn cũng thiết lập cho riêng nó về lĩnh vực như đồ thể thao, mắt kính, phụ tùng, thời trang và trang phục lót cho nữ, doanh thu xấp xỉ 700 triệu Euro vào năm kinh doanh vừa qua với khoảng 4500 nhân viên và 440 đại lý và cửa hành ở 60 quốc gia. Kể từ thánhg tư naăm 2002 Escada Beaté đã và đang thuộc về Cosmopolitan Cosmetics, mà nó vẫn đang tiếp tục câu chuyện thành công của những hương thơm Escada.
3. Lịch sử Salvador Dali Danh họa Dali tên thật Salvador Felipe Jacinto Dali I Domenech sinh năm 1904 tại một ngôi làng nhỏ thuộc vùng Figueres, Tây Ban Nha dưới chân ngọn đồi Pyrenees, cách biên giới nước Pháp 60 dặm. Xuất thân từ một gia đình giàu có, ông đã trải qua thời thơ ấu của mình ở Figueres và một biệt thự dùng để nghỉ hè của gia đình ở làng chài Cadaque.
Đây cũng là nơi bố mẹ ông mở riêng một phòng tranh cho con trai mình tại vùng Cadaques.
Trong suốt thời niên thiếu của mình ông sống trong một biệt thự sang trọng gần Port Lligat.Dali đến học tại viện mỹ thuật San Fernando tây Ban Nha, tiềm năng hội họa của một thiên tài được thể hiện qua buổi triển lãm riêng đầu tiên của mình tại Barcelona năm 1925, và tên tuổi của ông bắt đầu vang dội khắp thế giới khi ba tác phẩm của ông được tham dự buổi triển lãm Carnegie International Exhi Bition tại Pittsburgh vào năm 1928, và đó bước ngoặc khởi đầu cho sự nghiệp hội họa của Dali.Sau đó ông đã đến Paris và một lần nữa khi đã gia nhập vào hội họa sĩ theo trường phái siêu thực, ông lại tổ chức triễn lãm riêng của mình.Cũng trong thời gian đó ông đã gặp Gala Eluard khi cô cùng chồng là nhà thơ Pháp Paul Eluard đến Cadaques thăm Dali. Từ đó Gala thành ngừơi tình, ngừơi quản lý và là nguồn cảm hứng vô tận của thiên tài hội họa này. Sau đó họ kết hôn theo một nghi thức rất bình thường vào năm 1934 và thực hiện chuyến đi đầu tiên đến Mỹ.
Dali hiện thân là một người tiên phong trong xu hướng tranh siêu thực, và bức “Persistance of Memory” (1931) là tác phẩm hội họa theo trường phái siêu thực tuyệt vời nhất cho đến ngày nay. Nhưng khi chiến tranh đến, là một người trung lập Dali dã tri73 thành kẻ đối lập với hội họa sĩ theo trường phái siêu thực và đã bị trục xuất khỏi hội trong một phiên tòa năm 1934; cho dù ông đã nhiều lần tham gia triển lãm với chủ đề siêu thực trong suốt thập kỹ, nhưng đến năm 1940 Dali bứơc sang thời đại mới mà ông gọi nó là “cổ điển”.
Trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ hai ông và Gala ẩn nấu tại Mỹ và sau đó về lại Tây Ban Nha khi chiến tranh kết thúc. Danh tiếng của ông ngày càng vang dội hơn nhờ vào tính lòe loẹt và nổi bật trước công chúng cũng như ý tưởng thể hiện trên mỗi nét cọ, tác phẩm thiết kế, tác phẩm văn học, thiết kế nữ trang, quần áo, thiết kế cửa hàng… ông viết rất nhiều htể loại, thơ, tiểu thuyết, và đặt biệt là cuốn hồi ký “ Bí mật về cuộc đời của Salvador Dali”, một tác phẩm gây nhiều tranh luận trong xã hội thời gian đó.
Dali trở về theo đạo thiên chúa, và tổ chức lễ kỷ niệm ngày cứơi lần thứ hai tại một nhà thờ nhỏ gần Girona, Tây Ban Nha.
Với sự cộng tác cảu Bunuel Dali đã sản xuất 2 phim “ An Andalusian Dog” năm 1928 và “ The Golden Age” năm1930, được xem là một họa sĩ siêu thực cổ điển, họ đã đưa vào phim những hình ảnh hết sức kỳ quái. “ The Persistence of Memory” 1931, vẫn còn là một bức họa theo trường phái siêu thực nổi tiếng nhất trong giới hội họa.
Năm 1974 Dali mở một bảo tàng nhỏ ở vùng quê Fgueres cảu mình và sau đó mở tiếp những ngôi nhà lưu niệm về cuộc đời của ông tại Paris, Luân Đôn…
Năm 1983 một dấu ấn của Dali được thể hiện tropng một lĩnh vực khác đó là những sản phẩm nước hoa mang tên của danh họa siêu thực bật thầy và hào hoa này, ông đã thiết kế kiểu dáng chai nước hoa đầu tiên mang hiệu Salvador Dali dành cho nữ. Tất cả nguồn cảm hứng cuối cùng dành trọn trong sản phẩm tinh túy và mang phong cách hội họa từ bức: “Appation of Aphrodite of Cnidus In A Landscape”.
Khi Gala mất, sức khỏe ông bắt đầu suy yếu. Và càng tệ hơn sau những lần lâu đài Gala ở Pubol, bị cháy năm 1984. Và hai năm sau đó ông phải sử dụng máy điều hào nhịp tim. Hầu hết thời gian cuối đời ông sống ẩn dật tại Pubol, sau đó tại nhà riêng ở Torre galatea, gần bảo tàng Teatro Museo Dali.
Ngày 23 tháng 01 năm 1989 Salvador Dali chết trong một bệnh viện ở Figueres vì chứng suy tim và biến chứng đường hô hấp.
4. Coco Chanel Câu chuyện về bà là huyền thoại về một "đế chế thời trang" được xây dựng nên bởi nỗ lực phi thường, quá trình làm việc không biết mệt mỏi với ngọn lửa sáng tạo dường như không bao giờ tắt.
Gabrielle "Coco" Chanel được coi là một trong những người phụ nữ có ảnh hưởng lớn nhất trong làng thời trang thế kỷ 20. Bà đã tạo nên rất nhiều kỳ tích trong cuộc đời mình cũng như tạo lập nên nhiều xu hướng thời trang mới, những xu hướng mà giới trẻ ngày nay vẫn coi đó là một chuẩn mực khó có thể thay đổi.
Dior đã nói rằng "Với chiếc áo len chui cổ màu đen và mười vòng hạt trai cuốn quanh cổ, Chanel đã cách mạng hóa thời trang". Chanel không chỉ biết đến bởi "bộ váy đen bé nhỏ" và nước hoa Chanel No5, mà bà còn nổi tiếng bởi những bộ trang phục, những đôi giầy, những đồ trang sức, những chiếc túi, ví cổ điển và luôn thời trang. Những thiết kế của bà đã giúp cho việc định hướng rõ ràng thời trang phụ nữ trong thế kỷ 20.
Gabrielle Chanel sinh ra tại Saumur, Pháp vào năm 1883, Coco là biệt danh được đặt sau này. Chanel đã khẳng định rằng bà là con duy nhất trong gia đình trong khi đó mẹ bà, bà Jeanne Devolle đã có tới 5 người con. Chanel và chị gái Julie là con hoang của Albert Chanel và Jeanne Devolle. Họ đã cưới nhau sau khi Chanel được sinh ra. Sau khi cưới họ đã có thêm 3 người con nữa Alphonse, Antoinette và Lucien. Vào tháng 2 năm 1895, sức khỏe của bà Jeanne ngày càng đi xuống và bà mất vào tuổi 32.
Tuổi thơ còn lại của Chanel là chuỗi ngày ở trong một trại trẻ mồ côi. Những người họ hàng của Chanel đã không thể bảo bọc được bà và bốn anh chị em của bà. Khi Chanel và Julie về nhà trong ngày lễ, họ đã ở nhà Henri Adrien và Virginie, những người họ hàng bên họ mẹ. Tại đây, lần đầu tiên Chanel đã gặp em ruột của mẹ - dì Adrienne. Họ bằng tuổi nhau và nhanh chóng trở thành những người bạn thân thiết nhất. Họ quá gần gũi đến mức nhiều người đã ngỡ rằng họ là chị em gái.
Chanel đã không bao giờ nói về khoảng thời gian của bà tại Aubazine, cái trại trẻ mồ côi mà bà đã ở đó. Khi được hỏi về khoảng thời gian này, Chanel chỉ nói đơn giản rằng bà sống với rất nhiều người dì mà bà nghĩ rằng họ không thích bà lắm. Chanel đã khẳng định rằng: "Tôi sẽ thật vô ơn nếu nói rằng đó là những bà dì "ghê tởm" bởi tôi đã nợ họ mọi thứ. Một đứa trẻ nổi loạn ngày đó đã trở thành một người mạnh mẽ và kiên cường. Đứa trẻ đó có thể yếu ớt và không hạnh phúc nếu nó nhận được quá nhiều nụ hôn, quá nhiều sự chăm sóc, quá nhiều sự dạy dỗ và quá nhiều chất bổ dưỡng. Những bà dì ích kỷ và xấu xa đó đã làm cho nhiều đứa trẻ trở nên rất tự ti trước cuộc đời nhưng trong trường hợp của tôi kết quả lại ngược lại, cách đối xử của họ đã nâng cao thêm lòng tự tôn của tôi. ..."
Khi Gabrielle Chanel 20 tuổi, bà và Adrienne đã cùng vào làm tại một cửa hàng quần áo nhỏ nhưng đắt khách có tên là The House of Grampayne.
"Coco" là cái gì? Vào mùa hè năm bước vào tuổi 21, Chanel đã chuyển đến căn hộ riêng của bà ở Moulins. Adrienne ở cùng bà. Năm đó, hai người bắt đầu hẹn hò với những trung úy hải quân mà Chanel đã tình cờ làm quen khi đang bán hàng. Những chàng trai này đã đưa hai bà tới La Rotonde, một nhà hát opera nổi tiếng. Không ai biết có phải do sự thuyết phục của các chàng lính hải quân hay là thực chất là do Chanel mà ông giám đốc nhà hát La Rotonde đã thuê Chanel làm ca sĩ. Một trong những bài hát mà Chanel thể hiện là về một phụ nữ đã mất con chó của bà ta với cái tên "Coco". Từ đó Chanel đã có một biệt danh rất nổi tiếng "Coco", một cái tên ghi dấu ấn rất sâu đậm trong làng thời trang sau này.
Vào tháng 8 năm 1908, Coco bước sang tuổi 25, bà đã có một chuyến du ngoạn tới Pyrenees. Nơi đây Coco đã gặp tình yêu đầu tiên của mình là Arthur Capel, một người rất giàu có với biệt danh được nhiều người biết đến là "Boy". Trong giai đoạn này, Coco đã nói với Boy rằng "Em sẽ chỉ biết được rằng em có yêu anh hay không khi em không cần anh thêm nữa". Bà nhận ra rằng, một người phụ nữ phải sống dựa vào những người đàn ông thì thật là tẻ nhạt.
Trong suốt mùa hè của năm 1913, Boy và Coco đã sống ở Deauvil, một khu nghỉ dưỡng. Coco đã mở một cửa hiệu trên một trục đường phố chính nơi mà bà đã bán những thiết kế của bà, bao gồm những chiếc áo len dài tay cao cổ và những chiếc mũ. Cửa hiệu này được Boy trả tiền thuê.
Cửa hàng quần áo của Coco nằm giữa khách sạn Normandy, sòng bạc và biển. Coco đã đặt một mái hiên màu trắng trên đó bà đặt chữ "Gabrielle Chanel". Coco treo đầy cửa hàng những thiết kế mới của bà. Những bộ quần áo của bà thường rộng, tự nhiên và có gam màu tối. Bà yêu thích những bộ váy dài với những đồ trang sức thanh nhã. Giới nữ cũng rất thích chúng.
Coco đã đi đúng đường Coco đã làm nên một cuộc cách mạng trong thế giới thời trang. Mọi người yêu quý bà. Cocco ngày càng trở nên rất thanh mảnh và cao lên vì vậy tất cả khách hàng của bà đều cố gắng giảm cân để trông giống bà. Coco cắt ngắn mái tóc của mình và trông bà giống hệt như một cậu con trai trẻ tuổi. Tất cả các khách hàng của bà đều rất mê thích kiểu tóc đó. Rất nhiều bộ váy liền của Coco, vừa vặn ôm lấy thân hình dong dỏng cao, rất dài, với đường eo thấp đã trở thành vẻ đẹp chuẩn mực của nhiều phụ nữ thời đó.
Vào ngày 15 tháng 7 năm 1915, Coco mở một cửa hàng thời trang tại Biarritz. Giờ đây bà đã có ba cửa hàng tại Rue Cambon, Paris và Biarritz. Coco phụ trách hoàn toàn mảng nguyên liệu và các thiết kế của cả ba cửa hàng thời trang đó.
Loại vải đầu tiên của Coco là loại dệt len, loại sản phẩm rất thuận tiện và ôm người nhưng nó không phải là loại vải thích hợp cho những bộ quần áo thời trang. Tuy nhiên bà đã kết hợp với nó rất nhiều loại "phụ tùng" đi kèm như những dây ngọc trai, những chiếc túi xách tay may trần, đôi giầy gót thấp màu ngà xỏ ngón với mũi giầy màu đen, và tất nhiên là sự kết hợp giữa đồ trang sức và quần áo thể thao.
Trong suốt những năm 20 đầy biến động, thời trang của Chanel đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Chúng đã tạo ra một lời tuyên bố: "Hãy nhìn xem, Tôi trẻ trung và xinh đẹp". Đó là khoảng thời gian mà những chiếc váy được cắt ngắn hơn và đường eo hạ thấp xuống. Sau đó Chanel giới thiệu "chiếc váy đen bé nhỏ". Một thiết kế được coi là "kỳ quan" của giới nữ trong thập niên đó, nó kéo theo một cơn sốt mê say những đôi chân dài và những khhuôn mặt quý phái nổi bật nhờ "chiếc váy đen bé nhỏ" đó.
Lúc này, phong cách của Chanel đã được định hình với hàng dệt len cổ điển và bộ đồ len và " chiếc váy đen bé nhỏ". Từ cơ sở vững chắc này, bà đã cho ra đời hàng loạt những thiết kế mới, những bộ sưu tập mới.
Coco đã tin rằng tất cả sự chuyển động của cơ thể con người bắt đầu từ phía sau lưng và mọi thứ là trên những đôi vai. Coco thiết kế cho mọi mẫu hình cơ thể, thanh mảnh hay nặng nề. Bà đã tạo nên những bộ quần áo mà phụ nữ có thể vận động thoải mái đôi tay, chơi gôn và có thể uốn cong người để cài dây giầy. Bà đã đã nhấn mạnh rằng "Tạo sao tôi lại quá chú trọng đến việc xác định những cái cầu vai sao cho nó phù hợp? Phụ nữ có những cái vai rất tròn và khi chuyển động nó thường nhẹ nhàng đẩy lên phí trước, điều đó tác động rất mạnh đến các thiết kế của tôi bởi tôi nghĩ rằng phải thiết kế được một thứ phải không được che dấu nó đi. Sau đó, một số người đã nói với tôi rằng những cái cầu vai nên để ở đằng sau. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một người phụ nữ có cái vai ở đằng sau lưng cả".
Tiếng tăm của Coco lại càng "nổi như cồn" khi bà tung ra sản phẩm nước hoa ghi dấu ấn của tiêng mình, Chanel No. 5, một loại nước hoa độc nhất vô nhị. Trước đó, chưa có ai quan tâm đến việc tạo ra những loại nước hoa có mùi khác mùi hoa thiên nhiên, nhưng Coco đã thay đổi điều đó. Chanel No. 5 có mùi của xạ hương và sự ấm áp của của hương gỗ.
Vào năm 1931, Samuel Goldwin đã thuê Chanel 1 triệu USD để thiết kế trang phục cho các ngôi sao của ông, trong đó có Kathrine Hepburn, Grace Kelly, Elizabeth Taylor và Gloria Swanson. Mặc dù vậy, điều này kéo dài trong thời gian rất ngắn bởi vì rất nhiều ngôi sao mới nổi đã từ chối trang phục của Chanel.
Vào giai đoạn đầu của chiến tranh thế giới thứ 2, giai đoạn khó khăn chung của toàn thế giới. Công ty của Chanel bắt đầu đi xuống. Bà mất rất nhiều tiền. Chanel giải quyết vấn đề này bằng việc đóng các cơ sở kinh doanh thời trang. Hơn thế nữa bà còn để tình trạng này tồi tệ hơn bằng việc hẹn hò với một đảng viên Đức quốc xã, Hans Gunther Von Dincklage. Mối quan hệ này chẳng giúp gì cho bà mà lại làm cho bà trở nên tuột dốc thảm hại trong thế giới thời trang. Và trên hết bà đã làm mất đi sự trân trọng của khách hàng đối với mình.
Năm 1939, Chanel cho đóng cửa hàng thời trang lại. Càng ngày bà càng thấy bà đơn độc hơ. Cuối cùng, bà đã từ bỏ mọi quyền lực của mình đối với công ty nước hoa của bà và đã bán lại cho anh em nhà Wertheimer, những người mà ngày nay vẫn đang sở hữu công ty.
Năm 1954, Chanel đã có một sự quay trở lại rất thành công. Bà ra quyết định này bởi hai lý do: đầu tiên là doanh số nước hoa của bà đang giảm sút và các cố vấn tài chính của bà đưa ra lời khuyên rằng một buổi mở cửa trở lại của Salons de Couture của bà sẽ giúp cho doanh số bán nước hoa tăng lên. Thứ hai: xu hướng được ưa thích của thời trang năm 1954 rất tương đồng với những trang phục mà bà đã đưa ra rất thành công 6 năm trước đó - thời điểm bà bắt đầu sự nghiệp.
Ngày 5 tháng 2 năm 1954, Chanel thông báo rằng bà sẽ có một buổi trình diễn bộ sưu tập đầu tiên kể từ sau chiến tranh. Đêm trình diễn đó, bào đã không dám xuất hiện trước bạn bè mà ngồi xem các người mẫu trình diễn từ trên cầu thang gác. Bà thực sự lo sợ mọi người sẽ không chấp nhận và không tha thứ cho bà. Nhưng Chanel đã nhầm, thế giới thời trang nồng nhiệt chào đón bà trở lại.
Cho dù đó là những bộ đồ của thập kỷ 30 hay 60 hoặc một "thiên niên kỷ" trang phục thì những bộ trang phục cổ điển của Chanel luôn đứng ở hàng cao nhất. Ngày nay, giá trung bình cho một bộ trang phục của Chanel là 5.000 USD và chỉ có thể mua được ở những cửa hàng của Chanel hoặc shop cao cấp như Saks Fifth Avenue.
Khi Chanel 71 tuổi, bà đã mở lại cửa hàng tại Paris và nhanh chóng thử nghiệm một loại trang phục mới, không cổ, có đường viền, làm bằng vải len và và tuýt. Mặc dù thời trẻ bà phản đối việc sử dụng trang sức đi kèm trang phục, nhưng trong những mẫu trang phục này bà luôn kết hợp chúng với bộ dây chuyền hoặc những chuỗi ngọc trai.
Coco mất tại Paris vào ngày 10 tháng 1 năm 1971. Sau cái chết của bà, Karl Lagarfeld đã tiếp quản toàn bộ công việc kinh doanh của bà. Ngày nay, ông vẫn cho ra mắt những bộ sưu tập có tên Chanel.
Mãi đến tận bây giờ, phụ nữ trên khắp thế giới vẫn đang mua những "bộ váy đen bé nhỏ" và những bộ trang phục bằng vải tuýt mà Chanel đã làm nên tiếng tăm lừng lẫy. Phong cách của bà đã ảnh hưởng tới trang phục của nhiều người phụ nữ trong suốt sự nghiệp của bà và cả sau khi bà đã mất. Thời trang của bà vẫn sống ngay cả khi bà không còn nữa.
---------***---------
Lịch sử CHANEL - bí mật một huyền thoại Chắc chắn là những kỷ niệm thời thơ ấu đã khiến cho Gabrie lle Chanel vào những năm cuối đời đã phải nói “Nếu bạn sinh ra mà không có đôi cánh, thì cũng đừng bắt ai không được chấp cánh”.
Người ta không rõ những năm đầu đời của bà như thế nào, chỉ biết bà mồ côi mẹ năm tuổi 12 và được cha bỏ vào cô nhi viện miền trung nước Pháp. Ở tuổi vị thành niên bà đã tỏ ra cứng cõi và độc lập; ngay khi rời ghế nhà trường, bà đã vào giúp việc cho một xưởng làm bít tất ở Moulins. Những lúc rảnh rỗi, bà đi hát ở thính phòng La Rotonde nơi lui tới của những sĩ quan trung đồn trú gần đó. Bà chỉ hát hai bài, Ko Ko Ri Ko và Qui qu’a vu Coco; và khán giả mến giọng ca đã đặt cho bà biệt danh Coco.
Năm 1910 Chanel khai trương cửa hiệu của riêng mình ở phố Cambon của Paris, bảng hiệu như sau ”Chanel, thợ làm nón". Vài năm sau bà lấy Étienne Balsan, một thanh niên giàu có cho bà một cuộc sống xa hoa nhàn nhã. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau Coco đâm chán cuộc sống quá dễ dãi ấy, và khi Boy Capel, bạn thân nhất của Étienne và sau này là người yêu của bà, đồng ý giúp vốn cho tiệm nón của bà ở Paris, bà đã lập tức nhận lời.
Nổi tiếng với nghề làm nón, bà bước ngay sang nghề cắt may với tác phẩm đầu tay chưa từng có trước đó: đồ thể thao dành cho phái nữ. Bà mặc một cái áo khoác ngoài bằng len của một ngư dân và một cái váy dài rũ xuống rồi đi qua đi lại trên bãi tắm. Thời ấy quần áo đan là không hợp mốt.
Năm 1913 bà mở hiệu may đầu tiên ở Deauville và cho ra đời thời trang Chanel vừa đơn giản, tiện dụng lại thanh lịch và đã sớm thu hút được lượng khách trung thành.
Chiến tranh bùng nổ năm 1914, nữ giới cần bộ y phục thích ứng với hoàn cảnh mới, và thế là kiểu áo may rộng không cần nịt vú của Chanel là một giải pháp lý tưởng.
Hai năm sau bà tung ra mốt áo chui cổ, thiết kế một kiểu áo khoác ngoài không đai lưng, không họa tiết với những đường cắt vuông vức đầy nam tính để che giấu ngực và hông. Bà còn sáng tạo ra “áo sơ mi duyên dáng”được nhiệt liệt đón nhận. Sau khi Paul Poiret, nhà cắt may lớn đầu thế kỷ, nâng gấu áo lên khỏi mặt đất, bà đã nâng thêm một bước nữa lên khỏi mắt cá chân. Thế là phụ nữ đổ xô đến những cửa hàng của Chanel, và Chanel là thời trang.
Một buổi tối bà đến rạp Opéra của Paris trong mái tóc cắt ngắn, và theo truyền thuyết thì sau đó có 35.000 mỹ viện ra đời ở Pháp. Bà may giày mũi tròn, và mọi phụ nữ đều quẳng đi đôi giày mũi nhọn ba dây. Bà đeo ngọc trai lên áo len, và mọi phụ nữ đều đeo ngọc. Bà thử đủ trò, kể cả chường mặt ra nắng trời vào cái thời mà nước da rám nắng được xem là quê mùa. Với óc sáng tạo, bà khởi xướng ra rất nhiều thời trang: thắt lưng xệ, quần tây cho phái nữ, Pyjama bãi tắm, áo dài đen mà người Mỹ gọi là “Model. T Ford của Chanel”, váy xếp nếp, áo mưa, áo khoác đính nút vàng, bộ quần áo vải tweed, nữ trang cài áo, chuỗi ngọc trai, túi khoác vai, túi xách chần bông có quai xích vàng, giày cao gót màu beige mũi đen, ruban cột tóc, và bộ y phục Chanel nổi tiếng trên toàn thế giới.
Chỉ còn thiếu có nước hoa, và cái đầu sáng tạo của Chanel không bỏ qua điều đó. Coco thường xuyên mượn lời của bạn bà là Pau Valéry “phụ nữ mà không có nước hoa là không có tương lai”. Bà không muốn mọi người dùng thứ phấn vô duyên thơm mùi hoa tím. Thế là bà nhờ đến Ernest Beaux, nhà pha chế nước hoa lớn nhất lúc bấy giờ, người ta không ngần ngại sử dụng chất tổng hợp aldehyde có mùi hương cực kỳ mạnh mà lúc bấy giờ chỉ được người ta dùng hàm lượng rất nhỏ. Pha chung với những hương tự nhiên khác, thế là ra đời nước hoa số 5, tiền thân của tất cả nước hoa thuộc nhánh Aldehidic Floral của dòng họ hoa. Nó không chỉ nổi tiếng ở Pháp, và sau khi Paris được giải phóng, người lính Mỹ nào cũng xếp hàng đến tận cuối phố để chờ mua một lọ số 5 mang về nước. Khi các phóng viên hỏi Marilyn Monroe thích xức nước hoa gì lúc đi ngủ, nàng đã thì thầm “ vài giọt số 5”. Sau khi Catherine Deneuve và Carole Bouquet dùng số 5,thì nóđã trở nên bất tử, là biểu tượng truyền thuyết của thời đại chúng ta. Sau số 5 là số 22, Cuir de Russie, Gardena và Bois des Iles. Tất cả nước hoa này sau đó đã được “cái mũi” của nhà Chanel là Jacques Polge cải biên lại năm 1983. Rồi sau đến nước hoa Cristalle, nước hoa số 19 (ngày sinh cua Chanel), nước hoa Pour Monsieur, nước hoa Antaeus. Năm 1984 Polge lại làm mọi người thán phục với nước hoa Coco có mùi cay nồng để lại dấu ấn lâu dài trong ngành nước hoa.
Năm 1990 nhà Chanel lại tung ra nước hoa Égoiste dành cho đàn ông với mùi gỗ đàn hương của Ấn Độ, bản thân nước hoa đã đôc đáo mà cả chiến dịch quảng cáo của Gonde cũng không kém phần độc đáo.
Năm 1996 ra đời nước hoa Allure là sản phẩm mới nhất của nhà Chanel. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, Chanel đóng cửa hiệu cắt may và chỉ khai trương lại 15 năm sau, lúc ấy thời trang “New Look” của nhà Doir đã làm cuộc cách mạng về thời trang rồi. Chanel nhanh chóng lấy lại sự thành công và vẫn còn mãi thành công. Có thể nhà văn Paul Morand, bạn của Coco, đã nhận ra bí quyết thành công của bà khi ông mô tả bà có “cái khát khao trả thù mãnh liệt đã làm nên những cuộc cách mạng”.
nguồn: Trung tâm nước hoa
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.07.2006 17:01:14 bởi Chuột lắc >