Perfume toàn tập
Chuột lắc 13.07.2006 15:19:53 (permalink)
Nước hoa: Hành trình không mệt mỏi




(Netmode)- Mùi hương tươi mát của buổi sáng ban mai, mùi thơm quyến rũ mê say của những đóa hoa hồng, bạch diên vĩ, mùi của núi và cánh rừng, mùi của tình yêu nồng nàn, mùi của trái cây mọng chín, mùi của gỗ đàn hương ấm áp, hương của biển cả cồn cào...tất cả được chắt lọc trong những lọ nước hoa, là tinh túy cuả trời, đất và bàn tay tài hoa của con người.

Là sứ giả của tình yêu, nước hoa như sợi tơ mềm mại dệt thêu một cách nhẹ nhàng, vững chắc.Có những hoàng đế mất cả quốc gia của mình chỉ cho một mùi hương hoa hồng, có những người cả đời chỉ đi tìm một mùi nước hoa vương vấn ở lại, những kỷ niệm cũ cồn cào trở dậy khi mùi hương thoảng qua, tình yêu nở hoa, niềm vui trở lại và nỗi buồn tan biến.
Nước hoa là loại ngôn ngữ toàn cầu, là tinh hoa chắt lọc từ thế giới tự nhiên, ẩn chứa sức quyến rũ mạnh mẽ. Thế nhưng để có được những mùi hương đó, nước hoa đã qua cả một hành trình dài, thật dài bởi nó bắt đầu từ hàng nghìn năm trước đây thời Ai cập cổ đại. Những người Ai cập cổ đã biết đến việc sử dụng các loại dầu có mùi thơm để thoa lên mặt, lên da trước tiên như là một phần của các nghi lễ tôn giáo sau đó như là bước dạo đầu của những đêm yêu đương. Cũng rất thú vị khi biết rằng, nước hoa từ thời Ai cập cổ đại đến thế giới hiện đại ngày nay đã xoay theo một vòng tròn, càng ngày chúng ta càng yêu cầu nước hoa nguyên chất hơn, đậm đặc hương vị của thiên nhiên, giống hệt như người xưa đã làm hơn là những chất hóa học mà loài người đã dày công nghiên cứu hàng thế kỷ.
Chất nhựa thơm và hương trầm ứa ra từ các thân cây được sử dụng trong các buổi lễ, hương thơm lan tỏa trong không gian mang lại cảm giác ấm cúng, tôn nghiêm. Những loài cây khác như hoa hồng và cây bạc hà cay được ngâm vào dầu cho tới khi hình thành nên loại mỡ bôi có mùi thơm và được sử dụng cho da.
Sau người Ai Cập, người La Mã đã biết kết hợp nhiều loại mùi để tạo ra hiệu quả như ý muốn. Nhưng chính người Ả Rập đã thực hiện rất nhiều sáng chế mở đường cho những bước tiến lớn về kỹ thuật chưng cất nước thơm các loại thực vật, cây cỏ, hoa lá…Còn ở nước Pháp, mãi đến năm 1528 từ Parfum (nước thơm) mới được ghi nhận. Nơi đây đã sớm trở thành quê hương của nhiều tập đoàn sản xuất và kinh doanh nước hoa hàng đầu như Guerlain, Molinard, Roger và Gallet...
Và vào khoảng giữa 1582 đến 1612 người Ba Tư lần đầu tiên đã thử nghiệm việc trích tinh dầu bằng cách chưng cất, Do đó, họ nổi tiếng là những người thành thạo về ngành sản xuất nước hoa. Vào thời Phục hưng, vị thơm của nước hoa được phát triển và cách chưng cất nước hoa được đưa vào Âu Châu. Ðể có hoa chưng cất, người ta lấy vùng Grasse, xứ Provence ở Pháp và những miền lân cận để lập nên những đồn diền hoa hống và các loại hoa, thảo mộc khác. Phương pháp sản xuất này ngày nay vẫn còn. Tuy nhiên nước hoa hồng Grasse chỉ được sản xuất dành cho nhu cầu của hãng nước hoa Chanel. Những nước sản xuất chính tinh dầu hoa là Bungaria và Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngay từ thời xưa, những sản phẩm nhằm làm nổi bật cảm giác của da và mùi hương của cơ thể đã rất có giá trị đối với mọi nền văn hóa. Những chuyến tàu biển thương mại đã giới thiệu các loại gia vị tới nhiều nước trên thế giới và làm phong phú thêm cho việc làm ra các loại hương vị khác nhau. Người ta thường pha trộn những thành phần hiếm có được chiết xuất từ các phương pháp thủ công để tạo ra những sản phẩm dầu thơm độc đáo của riêng mình. Rất nhiều gia đình đã có một căn phòng riêng biệt để tạo nên các loại dầu thơm từ hoa và thảo mộc.
Trong suốt giai đoạn đầu của Đạo cơ đốc giáo, người ta đã không sử dụng nước hoa nhưng vào thời Trung cổ, nó đã được hồi sinh. Vào Thập niên 70, mùi hương đã được “xức” vào đồ đạc, găng tay và những chiếc quạt xòe của các quý bà, quý cô. Vào kỷ nguyên của vua George nước Anh (năm 1714 đến 1830) nước hoa eau de cologne không mỡ đã được phát triển và nó được sử dụng rất phong phú cho cả dầu tắm lẫn nước súc miệng.

Những tiến bộ của hóa học trong việc sản xuất nước hoa
Thế kỷ 19 được coi như là kỷ nguyên thực sự đầu tiên của nước hoa bởi chúng ra đều biết rằng nhiều loại nước hoa được tạo ra bởi sự tiến bộ trong những hiểu biết về hóa học hữu cơ. Những sản phẩm dầu hoa nhân tạo được sử dụng thay thế cho những loại nguyên liệu khó tìm hoặc là quá đắt. Cùng thời gian ấy, sự phát triển của những kiến thức hóa học tương tự đã có trong việc nhuộm, in trên vải.
Vùng Grasse ở xứ Provence ở Pháp đã trở thành trung tâm của hoa và thảo mộc được dùng cho ngành công nghiệp nước hoa. Những người đàn ông xử lý da thuộc trong thế kỷ này đã nhận ra những mùi rất khó chịu của những tấm da thuộc trong không gian và ám vào chính bản thân họ. Họ đã nhận thức được việc tạo ra những hương thơm thảo mộc và là những người đánh giá nước hoa sớm nhất. Nhưng chỉ trong thế kỷ 20 thì mùi hương và các loại nước hoa mang thương hiệu mới thực sự đi vào sản xuất đồng loạt. Trước đó, chỉ có một vài thương hiệu tồn tại là Coty và Yardley.

Nước hoa được làm bằng gì?
78%- 95% thành phần của nước hoa là chất cồn ethyl được biến tính đặc biệt, phần còn lại là dầu tinh chất. Perfume là loại giá trị nhất với 22% dầu tinh chất.
Tiếp sau là Eau de Parfum (EDP), với lượng dầu tinh chất trong khoảng 15 –22%
Sau nữa là Eau de Toilette (EDT) với 8 – 15% dầu tinh chất
Thấp hơn là Eau de Cologne chỉ có 4% tinh chất
Loại Eau Fraiche chỉ có 1-3% tinh chất dầu, là loại hương thơm được pha loãng nhiều nhất nhẹ nhất)
Ngày nay, chúng ta có thể thấy là rất nhiều loại nước hoa mới được quảng cáo là EDPs và còn rất ít loại EDT bởi người ta thích hương thơm lưu lại lâu hơn của loại Eau de Parfum .

Nguồn nguyên liệu sản xuất nước hoa:
Hương lài từ Réunion, Ngọc Lan từ Comores, Bạch đàn khấu từ Srrilanka, Hoa hồng từ Grasse, Hoa nhài từ Morocco, gỗ đàn hương từ Mysore, Hương chanh từ Sicily, .. đến Long điền hương từ vịnh Ba tư, xạ hương từ Tây Tạng, rồi cây hồi, lá nguyệt quế, rau thơm bergamot, tuyết tùng, hương trầm Châu Phi, cây dành dành, cây phong lữ, cây irrit, cây hoa nhài, oải hương, hoa ly, hoa violet, gỗ thông, cây mâm xôi, chanh, cam...Tất cả đều được tổng hợp theo phong cách riêng và theo sự ngẫu hứng sáng tác- chỉ nhờ vào khứu giác độc đáo của các nhà pha chế.
Những sản phẩm từ động vật chủ yếu được dùng trong nước hoa bao gồm xạ hương lấy từ những con chồn hương cái, long diên hương từ cá nhà táng, hương từ chất bài tiết của con hải ly và xạ hương lấy từ con cầy hương. Tất cả đều được sử dụng như chất hãm và được thêm vào phương thức bí truyền không xác định được để thành mùi hương đặc biệt, tuỳ thuộc vào nhà pha chế mà hai loại nước hoa có cùng thành phần lại có mùi hương khác hẳn nhau.

Loại nước hoa nổi tiếng - Chanel N°5



Ernest Beaux đã tạo ra loại nước hoa Chanel No.5 cho Coco Chanel vào năm 1921. Nó là dấu ấn của loài hoa nổi tiếng Ylang – ylang và dầu hoa cam, là sự lắng đọng của hương hoa nhài và hoa hồng, trên tất cả là sự hoà quyện của hương gỗ đàn hương. Chanel đã tin tưởng rằng phụ nữ nên dùng nước hoa bất cứ khi nào họ muốn nhận được những nụ hôn. Ngày nay, cứ 30 giây lại có 1 chai Chanel No.5 được bán. Gần đây Chanel đang cố gắng quảng bá loại nước hoa bằng cách khuyến khích mọi người sử dụng nó thường xuyên hơn chứ không phải là một sản phẩm được nâng niu và sử dụng rất tiết kiệm.
Một trong những loại nước hoa được ưa thích nữa là loại Guerlain của Shalimar, được tung ra thị trường lần đầu tiên vào năm 1952 và được giới thiệu lại vào năm 2001. Nó là loại nước hoa dành riêng cho phụ nữ với những hương liệu nguyên chất của phương đông như hương cây iris, hương vani và hương hoa hồng. Chất lượng của loại nước hoa này thật tuyệt vời, không bị thay đổi theo ngày tháng và luôn nhận được những lời ngợi khen. Nó là một trong những dòng nước hoa tốt nhất và dường như với mỗi người sử dụng nó lại tạo ra một hương thơm quyến rũ rất riêng. Điều này là sự thực bởi hương liệu đặc biệt được gọi là Guerlinade, nhân tố X đã được pha chế vào rất nhiều loại nước hoa mới với cái tên Guerlain, gợi nên sự riêng biệt cho giới nam và giới nữ chứ không giống như những sáng tạo mới về nước hoa dành cho cả hai giới sau này.
Vào năm 1932, Dana đã tạo ra nước hoa Tabu kỳ diệu, Worth cho ra đời loại nước hoa Je Reviens đáng nhớ, loại nước hoa đã rất phổ biến trong suốt thập niên 50 và 60 và vào năm 1932, Elizabeth Arden đã phát triển loại nước hoa Blue Grass, tất cả hiện vẫn được bán trên thị trường. Sau đó Molyneux và Schiaparelli và các nhà thiết kế khác đã cố gắng tạo ra những loại nước hoa đặc biệt nhằm cạnh tranh với Chanel. Jean Patou đã cho ra mắt sản phẩm nước hoa có tên Joy vào năm 1935 và nó đã được bình bầu là Hương thơm của Thế kỷ 20 tại giải dành cho những nhà sáng lập nước hoa vào năm 2000.
Năm 1944 nước hoa Femme ra đời trong sự ấp ủ bao năm của Rochas. Sau chiến tranh, những sản phẩm nước hoa với mùi nhẹ và trong trẻo của Dior và Valman ngày càng trở nên phổ biến hơn bởi nó phù hợp với tầng lớp trung lưu. Năm 1947, Dior tung ra dòng sản phẩm rất thông dụng là Miss Dior, một loại nước hoa tuyệt vời và được người tiêu dùng đón nhận ngay lập tức.

Nước hoa cho mọi người

Vào thời điểm này, tầng lớp lao động vẫn thường sủ dụng các loại nước hoa thủ công hoặc là những loại nước hoa mới được sản xuất tại các cửa hàng mỹ phẩm nhỏ hơn là của các hãng thiết kế thời trang tiếng tăm.
Một số loại sản phẩm nước hoa rẻ tiền hơn có mùi hương khá thú vị, nhưng chúng không có bất kỳ dấu ấn nào của các hãng thời trang đắt tiền. Cái giá bình dân nghĩa là một người bình thường có thể đủ khả năng để mua món quà nước hoa từ các nhãn hiệu như Coty, Yardley, Max Factor và Revlon mà không bị thâm hụt vào các khoản khác.
Loại nước hoa Hypnotique and Primitif của Max Factor's cũng giống như Tweed của Lentheric, và Coty của L'Aimant đã trở nên rất phổ biến vào Thập niên 50. Relvon cũng đã rất thành công với hai sản phẩm nước hoa Intimate và Aquamarine.
Goya cũng sản xuất dòng sản phẩm giá rẻ. Những loại nước hoa của Goya như Black Rose và Here's My Heart cũng đã ghi dấu ấn thường xuyên trên các trang quảng cáo. Rất nhiều người đến giờ vẫn sử dụng lăn nách 4711 Eau de Cologne, với hương thơm trong trẻo, sạch sẽ. Một cục lăn nách 4711 đặc biệt cần thiết cho mùa hè khi mồ hôi cơ thể ra nhiều. Từ Woolworth's, những cậu bé trẻ tuổi đã mua Soir de Paris của Bourjois trong những lọ màu xanh nhỏ. Chúng rất thích thú khi nghĩa của loại nước hoa này dịch từ tiếng Pháp sang là Đêm của Paris.
Yves St. Laurent tung sản phẩm nước hoa Y vào năm1964, Rive Gauche vào năm 1968. Guy Laroche giới thiệu Fidji vào năm 1966. Những nhãn hiệu nước hoa nổi tiếng đã được ưa thích trước đây như Chanel No.5 và Miss Dior vẫn là những sản phẩm được bán chạy nhất và chúng bị cạnh tranh khá quyết liệt với các sản phẩm nước hoa của Avon Topaze, Imprevu của Coty

Nước hoa của Thập niên 70
Vào năm 1977, Yves St. Laurent giới thiệu nước hoa “Opium” và nó trở nên dòng sản phẩm được phụ nữ trên toàn thế giới cực kỳ ưa thích. Nó được coi như là loại nước hoa đầy nhục cảm và quyến rũ, dành cho những đêm tình yêu lãng mạn và đắm say. Ngược lại rất nhiều phụ nữ lại thích dùng các loại nước hoa như L'Air du Temps của Nina Ricci và hương cam ngọt ngào trong dòng sản phẩm Bigarade của Nina Ricci đã trở nên rất phổ biến trong một khoảng thời gian khá dài. Các loại nước hoa Ô de Lancôme, Cinnaba của Lauder và Anais Anais của Cacharel vào 1978 đã được đón nhận rất hồ hởi (đặc biệt là nhãn hiệu Anais Anais của Cacharel được các nữ sinh đặc biệt ưa thích).
Nước hoa Charlie của Revlon là mặt hàng bán chạy nhất và được những g người tiêu dùng cũng rất chú ý tới việc sử dụng những lọ nước hoa cầu kỳ có dung tích lớn. Nhãn hiệu Maxi của Max Factor là một loại như vậy và được người tiêu dùng rất ưa chuộng bởi nó là sản phẩm đa dạng về giá cả.
Dầu xạ hương và nước hoa có mùi xạ hương giá tương đối thấp có rất nhiều ở các cửa hàng dược phẩm. Aviance Night Musk của Prince Matchabelli được sử dụng rất phổ biến và có mức giá khá mềm mại.

Thập niên 80- Những loại nước hoa “hấp dẫn” phù hợp với những trang phục “hấp dẫn”
Vào đầu Thập niên này, một cuộc cách mạng về Marketing nước hoa đã nổ ra, các hãng nước hoa đã rầm rộ đưa ra những quảng cáo mang đậm tính khêu gợi dục tình và nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của công chúng. Điều đó đã dẫn đến sự thành công trong kinh doanh của sản phẩm nước hoa có tên Obsession (sự ám ảnh) của Calvin Klein. Obsession với hương vani đậm đà, khêu gợi những giác quan sâu kín nhất của những cặp tình nhân, đã nhanh chóng thống lĩnh thị trường. Vào thời kỳ đó, gần như là mở bất kỳ một tạp chí hoặc một phụ trương cuối tuần nào cũng bị “tràn ngập” bởi cái mùi hương đậm đà của Giorgio Beverley Hills trên những dải vải thử nước hoa có sọc màu trắng và vàng. Cuối cùng, các khách sạn đã cấm Giorgio bởi mùi hương của nó đã át cả mùi thơm của thức ăn.
Hình ảnh và một mẹo quảng cáo là một nét đặc trưng của Thập niên 80. Jean Paul Gaultier đã khéo léo tạo nên một mẫu vỏ nước hoa hình tượng bán thân bằng thuỷ tinh đặt trong một hộp thiếc và tiếp tục sản xuất những bản sao với số lượng rất ít. Thời điểm này có rất nhiều vỏ hộp được thiết kế cầu kỳ, đẹp và lạ mắt. Vanderbilt - loại nước hoa được kết tinh bởi hương vị Phương Đông với hoa cẩm chướng, hoa hồng và mimosa đã bước vào thị trường và được công nhận là một trong những loại nước hoa có mùi hương hấp dẫn nhất. Lou Lou được tung ra vào năm 1987 và là một sự thay đổi tinh tế cho mùi hương Phương Đông đậm đà trước đó.
Một số loại nước hoa của kỷ nguyên này như mùi hoa hồng hòa quyện hoàn hảo với Violet của Yves St Laurent tại Paris đã trở thành kinh điển. Những phụ nữ gợi cảm, quyến rũ nhận ra rằng những mùi hương của loại nước hoa Ysatis cuả Givenchy, 1989 Samsara của Guerlain là không thể thay thế được. Loại nước hoa có tên Champagane là nguyên nhân đã gây nên một vụ kiện với ngành công nghiệp sản xuất sâm panh và cuối cùng nó phải rời khỏi thị trường với cái tên đó. Nó bây giờ được bán ra với mẫu mã tương tự nhưng với tên là Yvresse.

Thập niên 90 - Kỷ nguyên mới của nước hoa

Thập niên 90 là thời điểm tràn ngập các dòng sản phẩm nước hoa có mùi trong và mạnh hơn được bắt đầu từ White Linen của Estee Lauder ra đời từ những năm 80. Những loại nước hoa như là L'Eau d'Issey của Issey Miyake năm 1992, Eternity và Dazzling đều có một mùi hương mạnh hơn. Năm 1994, Lagerfeld đã cho ra đời lại nước hoa có tên là Sun Moon Stars với mùi hương Phương Đông rất dễ chịu. Và đầu những năm 1990 là loại nước hoa Safari của Ralph Lauren được đặt trong một trong những vỏ lọ nước hoa đẹp nhất đã làm cho chiếc bàn trang điểm của các quý bà, quý cô trở nên đẹp hơn, duyên dáng hơn. Năm 1996, Givenchy tung ra loại nước hoa Organza của được đặt trong 1 lọ lớn với mùi hương lâu mất và đậm đà hương vị tình yêu. Cùng thời điểm đó Chanel cũng tung ra loại nước hoa rất được ưa chuộng tên là Allure. Hai sản phẩm này đến giờ vẫng đang trong thế cạnh tranh quyết liệt.
Vào năm 1999, Cacharel giới thiệu nước hoa Noa Noa, bây giờ được đổi tên đơn giản hơn là Noa, một loại nước hoa được pha trộn tuyệt với các loại hoa phương đông tạo nên hương thơm trầm lắng, thầm kín. Những loại nước hoa mới của thiên niên kỷ này bao gồm Kenzo Flower đáng yêu, Mahora của Guerlain, Truth của Calvin Klein, Manifesto của Rossellini, Miracle của Lancôme, Initial của Boucherons , Nu của YSL, Michael của Michaels Kor , Premier Jour của Nina Ricci và Boudoir cám dỗ tuyệt vời của Vivienne Westwood.

Những điều bí mật

Có hàng tá những kẻ màu mè chạy quanh nước hoa và họ thường chỉ quan tâm đến giá trị cơ bản là độ đắt và độc của nước hoa. Nhưng mặc dù vậy khách hàng thường không quá ngu ngốc để tin theo những quảng cáo đã được thổi phồng lên. Nếu một mùi hương nước hoa không hấp dẫn với từng người thì khách hàng sẽ không mua nó.Và tất nhiên là người ta sẽ không mua nước hoa mà người ta ghét mùi hương của nó cho dù nó được tạo ra bởi những nhà thiết kế tài năng nhất. Vì vậy rất nhiều loại nước hoa đã thành công nhưng cũng có rất nhiều loại đã thất bại. Nước hoa phải thật tốt và phải có chiến dịch quảng cáo thích hợp để có thể thu hồi lại được các khoản chi phí đã bỏ ra. Để quảng bá một loại sản phẩm nước hoa mới chi phí khoảng chứng 500 nghìn đến 1 triệu bảng vì thế nước hoa phải phù hợp với xu hướng của thời đại.
Năm 2001, Dior đã giới thiệu một sản phẩm nước hoa với số lượng hạn chế có tên gọi là Remember Me, với mùi hương của hoa Lily. Nó ngay lập tức trở thành vật được các tay sưu tập chai trên mạng Internet sưu tầm nhiều nhất cho dù đó là chai có nước hoa hay không.
Có một số lượng lớn cá nhân bây giờ đang tìm kiếm những loại nước hoa cổ điển hoặc là những loại dầu thơm được pha trộn đặc biệt. Loại nước hoa cổ điển là loại nước hoa đã có mặt trên thị trường ít nhất phải là 10 năm và đã được phát triển thành một loại nước hoa rất được ưa thích ngày nay.
Một số người cũng nhận ra rằng họ hắt hơi mạnh hơn khi họ dùng những loại nước hoa hiện đại. Còn những loại nước hoa lâu đời hơn, được thiết kế hơn 50 năm lại làm giảm hắt hơi. Cũng thật là thú vị được khám phá lại những loại nước hoa từ ngày xưa và cảm nhận được độ sâu của chúng chất lượng độc đáo đặc biệt và sự khác biệt với những sản phẩm nước hoa ngày nay.
Có thể vì lý do đó mà rất nhiều người đã quay trở lại việc mua những loại dầu thơm 100% không có cồn và tự pha chế chúng theo hương vị riêng của mình.

Những loại nước hoa đã mất
Có rất nhiều loại nước hoa đã ra đời rồi vội vã biến mất. Một phần nguyên nhân chính là do lợi nhuận. Các nhà sản xuất phải loại bỏ những mặt hàng mang lại doanh thu thấp và đầu tư vào những sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Ví dụ như nước hoa Magie Mist một trong những sản phẩm nước hoa tuyệt với của dòng sản phẩm Magie, rất đẹp, nhẹ nhàng, đầy nữ tính và đáng nhớ hơn nhiều lần loại nước hoa Magie Noir, đang tồn tại trên thị trường hiện nay, đã không còn xuất hiện trên thị trường nữa.
Các nhà sản xuất trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận, nếu doanh số bán chậm họ hoặc là sẽ loại bỏ sản phẩm đó hoặc là sẽ giới thiệu lại nó với một cách thức mới nhằm đi kịp với nhu cầu của thời đại. Hai ví dụ gần đây là sản phẩm Ô de Lancôme and Opium của Yves St Laurent , cả hai đều được giới thiệu lại vào năm 2000 và 2001. Nếu bạn vẫn còn thích mùi hương cũ của nó thì hãy cố gắng mua dự trữ đi bởi nó sẽ không bao giờ xuất hiện trở lại. Sản phẩm Lou Lou của Venezia và Cacharel sắp tới cũng sẽ bị rút ra khỏi thị trường vì vậy nếu bạn nhìn thấy nó, thích nó thì hãy mua đi, có thể đó là có hội cuối cùng đấy.
Khi sử dụng Internet để mua hàng, hãy luôn luôn mua nước hoa từ các nhà kinh doanh có uy tín. Một website với 20 năm kinh nghiệm bán hàng ở Anh là directcosmetics.com là nơi bán các sản phẩm chăm sóc da, tóc và nước hoa. Bạn có thể mua được rất nhiều sản phẩm nước hoa có nhãn hiệu nổi tiếng với giá rẻ hơn rất nhiều lần bên ngoài.

Hiếu Nhi (NetMode)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.07.2006 17:04:53 bởi Ct.Ly >
#1
    Chuột lắc 13.07.2006 15:36:44 (permalink)
    Một số loại nước hoa tiêu biểu


    Trésor của Lancôme với mùi hương quý phái, ấn tượng va sang trọng
    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/8565/000729A658824CBFB9689C58F1EE599C.jpg[/image]


    J'adore của Christian Dior



    Sui Love cua Anna Sui



    Angel của Thierry Mugler
    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/8565/28FB9EAE698A4528BE551E23C76C06C0.jpg[/image]


    Lolita Lempicka của Lolita Lempicka: Có vị ngọt chat chát như chè
    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/8565/0479F3D2603C429EAA088DF672D0045D.jpg[/image]


    Jean-Paul Gaultier của Jean Paul Gaultier



    Rykiel Rose của Sonia Rykiel



    Un Jardin En Mediterranee
    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/8565/CBF070B2CB224ADCBCCEB00FD6F7B9A3.jpg[/image]


    Michel Germain - Sexual Eau de Parfum



    Baby Doll Paris của Yves Saint Laurent: Sắc hồng kỳ diệu
    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/8565/289DF2E2AFB94C008323A8FAD7414331.jpg[/image]
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.07.2006 15:53:51 bởi Chuột lắc >
    Attached Image(s)
    #2
      Chuột lắc 13.07.2006 15:59:17 (permalink)
      Nghệ thuật sử dụng nước hoa


      (Netmode)- Thoạt đầu nước hoa chỉ là sản phẩm dành riêng cho phái đẹp, dành riêng cho những quý bà quyền quý bởi tự nó toát lên sự sang trọng, quyến rũ và gợi cảm. Còn ngày nay, nước hoa đã trở nên quen thuộc với mọi người, mọi lứa tuổi. Đã qua rồi những ý tưởng cho rằng nước hoa là phù phiếm, ẻo lả và yếu ớt.


      Be Dilicious nam

      Nhưng lọ nước hoa dù đắt tiền đến mấy, nhãn hiệu nổi tiếng đến mấy nếu sử dụng không đúng cách sẽ mang lại nhiều phản cảm. Nước hoa không chỉ đóng khung ở hương thơm và chiếc lọ đẹp đựng nó mà là cả một vũ trụ mà bạn phát hiện ra sự cuốn hút mãnh liệt bởi các mùi hương. Nếu cho rằng nước hoa cũng là một loại trang sức thì đây quả là loại trang sức kín đáo và thần diệu nhất. Nó là vũ khí quyến rũ hiệu quả nhất và lâu bền bởi nó "đánh" vào giác quan của con người, khiến người đi rồi mùi hương còn đọng lại mãi, và ký ức có thể bùng lên bất kỳ lúc nào khi có mùi hương tương đồng thoảng nhẹ qua.
      Nghệ thuật sử dụng nước hoa nhiều hay ít, xức lúc nào và tại đâu là rất quan trọng như chất lượng nước hoa vậy.
      Khi bạn sử dụng nước hoa, hãy xịt hoặc bôi chúng vào những điểm có mạch đập như là những nếp gấp của khuỷu tay, đằng sau đầu gối, cổ tay và đằng sau tai. Đừng chà xát cổ tay lại với nhau bởi điều này sẽ làm hỏng mùi hương. Xịt một chút vào không khí xung quanh bạn cũng tốt bởi hương thơm sẽ “đậu” vào bạn nhẹ nhàng, đều khắp cả cơ thể. Đừng dại dột sử dụng quá nhiều nước hoa ở vùng cổ bởi nó rất dễ gây cảm giác đậm mùi, không thật. Cũng nên xem xét đến việc xịt một chút vào bên trong áo lót, phía trong lần vải cotton, hương thơm sẽ rất ngọt ngào, gợi cảm.
      Cũng nên cân nhắc đến việc dùng chung các sản phẩm hương thơm khác. Sử dụng cùng mùi hương cho tất cả các dòng sản phẩm như sữa tắm, sữa dưỡng thể, dầu gội đầu, dầu dưỡng tóc,… hoặc là các loại mùi hương phải tương đồng nhau. Việc sử dụng sữa dưỡng thể sẽ kiến bạn cảm nhận mùi hương rõ ràng hơn. Hãy thoa sữa bắt đầu từ bàn chân lên đến toàn cơ thể, bạn sẽ nhận thấy hương thơm thoảng xung quanh, ngọt ngào và quyến rũ vô cùng.
      Hãy luôn ghi nhớ việc đóng chặt nút của các chai dầu thơm, tránh ánh nắng hoặc nóng trực tiếp vào chai nước hoa bởi sẽ mùi hương sẽ bị loãng và không khí dễ làm cho nước hoa sậm lại. Có lẽ vì vậy, một số loại nước hoa thường có màu xanh sậm hoặc đựng trong các chai mờ đục và chúng bảo quản mùi hương rất tốt.
      Hãy chọn nước hoa phù hợp với bạn chứ không phải là cho những khác. Điều đầu tiên mà một người mua nước hoa phải lựa chọn là phân biệt được các mùi của một loại nước hoa. Hầu hết các lọai nước hoa đều cấu tạo bởi ba phần: phần đầu – phần giữa – phần cuối. Nếu bạn để để nước hoa quá lâu, mùi của nó sẽ thay đổi.
      Khi bạn mới bôi lên cổ tay, mùi hương nước hoa thường chỉ kéo dài từ 30 giây đến hai hoặc ba phút. Mùi thơm của giai đoạn này rất quan trọng bởi vì hầu hết khách hàng quyết định mua hay không là ở lúc mới bôi thấy thơm ngát chứ không phải là mùi thơm lúc sau cùng. Mùi thơm sẽ kéo dài từ năm đến muời phút. Giai đọan thứ hai, mùi hương tương tự như giai đoạn đầu nhưng được “sắp xếp” hơi khác một chút. Giai đọan thứ ba lại khác thêm một chút nữa. Khoảng thời gian này kéo dài một vài giờ và đã đến lúc bạn quyết định có mua hay không.
      Vì vậy, hãy thử nước hoa tại cửa hàng và sau đó đi bộ ít nhất là 10 phút. Một số nước hoa cần đến nửa tiếng hoặc 1 tiếng mới thể hiện được mùi thực sự của nó. Lấy ví dụ như sản phẩm Boudoir của Vivienne Westwood, Jicky của Guerlain và Must de Cartier có những mùi hương rất đáng yêu mà nó chỉ bộc lộ được hoàn toàn sau 1 tiếng đồng hồ.
      Để tạo ra những mùi thơm ở trong nhà, bạn có thể dụng những bình hoa khô với mùi hương dịu dàng, phảng phất của hoa hồng, hoa nhài, hoa cúc hay mùi ấm áp của gỗ thông… Khi mùi thơm bay hết, bạn có thể tái tạo mùi thơm bằng cách vẩy nước hoa hồng, hoa nhài hay tinh dầu xả, hoặc xịt ít nước hoa lên những bông hoa này. Cứ như vậy trong nhà bạn lúc nào cũng ngát hương thơm dễ chịu, giúp bạn thấy sảng khoái lúc thức dậy, làm dịu đi sự căn thẳng mệt mỏi lúc chiều buông, khi bạn trở về nhà sau một ngày làm việc. Bạn cũng có thể đặt lọ nước hoa đã hết vào ngăn tủ quần áo hoặc xịt một ít nước hoa lên vách gỗ phía trong tủ, mùi hương sẽ thấm vào quần áo bạn, rất lâu phai. Cuối cùng, để gửi hương thơm của bạn tới bạn bè, bạn có thể xịt nước hoa lên giấy cho khô rồi viết thư thăm bạn hay người yêu. Hương thơm của bạn sẽ đọng lại mãi trong ký ức của người thân.
      Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, mùi hương thoang thoảng luôn đem lại sự quyến rũ nhiều nhất và trong mỗi hoàn cảnh cần có sự lựa chọn nước hoa cho phù hợp.
      Sử dụng tại nơi làm việc: Nên sử dụng các loại nước hoa có mùi nhẹ, mùi hoa hoặc mùi thảo mộc, tạo cảm giác thân thiện dễ gần.
      Khi vui chơi: Nên chọn loại nước hoa có mùi trong, sạch, dịu dàng, tạo cảm giác thải mái, tự tin bởi cơ thể vận động nhiều. Những mùi thơm nồng kết hợp với mùi cơ thể sẽ trở nên khó chịu.
      Trong những buổi hẹn hò buổi tối: Dùng nước hoa có mùi thơm quyến rũ, nồng ấm đặc biệt là những mùi hương “đối tác” thích.
      Thỉnh thoảng, bạn hãy thử phá cách một chút, tự mình khám phá một mùi hương mới lạ bằng cách kết hợp một vài loại nước hoa. Tuy nhiên, thử nghiệm này không nên dành cho những dịp quan trọng bởi bạn không biết chắc được nó có thành công hay không?

      Hiếu Nhi


      #3
        Chuột lắc 13.07.2006 16:59:50 (permalink)
        Lịch sử Nhãn Hiệu


        1. Lịch sử Azzaro

        Loris AZZRO, ông là người Ý, một người rất yêu Paris và mang đầy tính cách của người Tuy-ni-di (Bắc Phi) khi còn thời niên thiếu từ đó đã hình thành trong ông một người nghệ sĩ thực thụ.


        Vào những năm 1960 ông đến Paris và thử vận may của mình, và ở đây ông đã thành công một cách tuyệt vời. Vấn đề là chỉ trong một vài tháng Loris AZZRO đã tự mở được cửa hàng trưng bày của mình tại Faubourd Saint Honore.Trang phục của ông đã được rất nhiều người nổi tiếng và rất giàu có để ý và sử dụng như Brigitte Bardot, Romy Schneider, Sophia Loren, Raquel Welch, Jane Birkin, Tina Turner, Claudia cardinale, Liza minelli, Barbara streisand… và ngay cả công chúa của Monaco, hoàng hậu của Iran, nũ công tước của Orleans cũng rất quan tâm đến.Từ thời trang đến nước hoa, câu chuyện đến rất tự nhiên. Loris AZZARO đã chế tạo ra nước hoa đầu tiên của ông mang tên AZZARO COUTURE vào năm 1975. Một loại nước hoa thật gợi cảm, sang trọng và đích thực dành cho quý bà.Tiếp theo sự thành công đó ông giới thiệu đến quý cô hương thơm AZZURA, EAU BELLE, ORANGE TONIC và sau đó mọi người biết đến AZZARO còn có cả nước hoa dành cho nam như AZZARO POUR HOMME, CHROME, và COLLECTION. Mới đây nhất (2003) là sản phẩm VISIT.AZZARO mang đậm phong cách của Ý - hiện đại thanh lịch và nhẹ nhàng. Trung thành với phương pháp truyền thống của những người pha chế nước hoa, AZZRO đã chọn và thực hiện từ những nguyên liệu chọn lọc tinh khiết nhất đã qua thử nghiệm để đảm bảo hoàn hảo chất lượng thành phẩm.Mỗi kiểu dáng chai nước hoa đều nói lên đặc tính mùi hương được chứa đựng bên trong nó mà sự trong suốt và giản dị của chất liệu thủy tinh như thể hiện sự tinh khiết, hiện đại của phong cách thiết kế kiểu Ý.Và ngày nay cùng 200 nhân viên bảo đảm cho công việc chế tạo sản xuất hàng ngày cùng với nửa triệu lít nước hoa được tinh chế với sự kiểm soát và thử nghiệm bằng hệ thống máy vi tính thông qua 16 dây chuyền thực hiện để đạt được năng suất 50 triệu thành phẩm.AZZARO một nhãn hiệu uy tín với tổng cộng 16.000 cửa hiệu nước hoa cao cấp cũng như ở các trung tâm mua sắm trên 80 quốc gia. Đặc biệt là thị trường ở Pháp và Hoa Kỳ. AZZARO là một phần của tập đoàn CLARINS, đã phát triển trên hệ thống toàn cầu với hệ thống 19 chi nhánh trên khắp thế giới hỗ trợ và phát triển cho mạng lưới kinh doanh phân phối.- AZZARO chiếm 90% nước hoa dành cho Nam chỉ có 10% là nước hoa của nữ- Chiếm 63% thị trường Châu Âu, 23% Bắc Mỹ, 5% Nam Mỹ, 3.8% ở Châu Á và 5.2% ở các thị trường khác.


        2. Lịch sử ESCADA

        Khi Margaretha và Wolfgang Ley gặp nhau lần đầu tiên cách đây ¼ thế kỷ, đó là một sự khởi đầu một chuyện tình vĩ đại- và của một nền kinh doanh thành công vĩ đại một cách công bằng.
        Họ gặp nhau vào giữa những năm của thập kỷ 1970: một siêu mẫu đẹp người Thụy Điển Margaretha, làm công việc biểu diễn thời trang ở Jacques Fath, để rồi rời bỏ sàn diễn và nghiên cứu cho kế hoạch cho thời trang. Wolfgang Ley, là một nhà kinh doanh trẻ tuổi, năng động và đầy tham vọng, đã yêu Margaretha ngay tức thì. Họ đã là một cặp trong chuyện thần tiên và là một đội không thể nào đánh bại được. Trở về từ thời gian hưởng tuần trăng mật, họ đã mang về nhà tên của công ty họ được sáng lập vào năm 1976:Escada. Đây là tên của một con ngựa đua giống Ailen mà họ đã thắng trong cuộc cá cuộc một cách thành công – một điềm may mắn.Họ bắt đầu với việc ra bộ sưu tập hàng dệt kim. Bà Margaretha phụ trách phần thiết kế, Wolfgang Ley phụ trách phần tài chính, bán hàng, tiếp thị và sản xuất. Công ty đã tăng trưởng nhanh chóng, thêm vào là sự thành công vang dội trong thương mại của họ, cả hai dành được những giải thưởng to lớn. Năm 1990, họ sáng lập ra thêm mảng kinh doanh phụ Escada Beauté, tung ra sản phẩm nước hoa Escada lần đầu tiên vào thị trường. Và họ đã sống rất hạnh phúc sau đó, nhưng đến khi cái chếtcủa Margaretha Ley vào năm 1992, mà nó là điểm mốc của sự chấm dứt một kỷ nguyên. Tuy nhiên, một lần nữa khó khăn sóng gió đã được vượt qua và khủng hỏang không còn, mọi thứ đã bắt đầu phục hồi.Ngày nay, nhãn hiệu thời trang Escada là một trong những nhãn hiệu dẫn đầu trên thế giới, và với sự lãnh đạo có ba người đứng đầu là Wolfgang Ley và Scot Brian Rennie là nhà thiế kế chính, nó bây giờ trở thành nhãn hiệu sang trọng lớn nhất của thế giới.Thành công của nó dựa vào chất lượng của thời trang sang trọng mà nó cũng phù hợp với những người phụ nữ bình thường, dựa vào một dịch vụ tốt và đặc biệt là dựa vào cách mạng tiếp thị của nó với những sự tập hợp được cập nhật một cánh nhanh chóng mỗi bốn đến sáu tuần. Tập đoàn cũng thiết lập cho riêng nó về lĩnh vực như đồ thể thao, mắt kính, phụ tùng, thời trang và trang phục lót cho nữ, doanh thu xấp xỉ 700 triệu Euro vào năm kinh doanh vừa qua với khoảng 4500 nhân viên và 440 đại lý và cửa hành ở 60 quốc gia. Kể từ thánhg tư naăm 2002 Escada Beaté đã và đang thuộc về Cosmopolitan Cosmetics, mà nó vẫn đang tiếp tục câu chuyện thành công của những hương thơm Escada.



        3. Lịch sử Salvador Dali

        Danh họa Dali tên thật Salvador Felipe Jacinto Dali I Domenech sinh năm 1904 tại một ngôi làng nhỏ thuộc vùng Figueres, Tây Ban Nha dưới chân ngọn đồi Pyrenees, cách biên giới nước Pháp 60 dặm. Xuất thân từ một gia đình giàu có, ông đã trải qua thời thơ ấu của mình ở Figueres và một biệt thự dùng để nghỉ hè của gia đình ở làng chài Cadaque.
        Đây cũng là nơi bố mẹ ông mở riêng một phòng tranh cho con trai mình tại vùng Cadaques.
        Trong suốt thời niên thiếu của mình ông sống trong một biệt thự sang trọng gần Port Lligat.Dali đến học tại viện mỹ thuật San Fernando tây Ban Nha, tiềm năng hội họa của một thiên tài được thể hiện qua buổi triển lãm riêng đầu tiên của mình tại Barcelona năm 1925, và tên tuổi của ông bắt đầu vang dội khắp thế giới khi ba tác phẩm của ông được tham dự buổi triển lãm Carnegie International Exhi Bition tại Pittsburgh vào năm 1928, và đó bước ngoặc khởi đầu cho sự nghiệp hội họa của Dali.Sau đó ông đã đến Paris và một lần nữa khi đã gia nhập vào hội họa sĩ theo trường phái siêu thực, ông lại tổ chức triễn lãm riêng của mình.Cũng trong thời gian đó ông đã gặp Gala Eluard khi cô cùng chồng là nhà thơ Pháp Paul Eluard đến Cadaques thăm Dali. Từ đó Gala thành ngừơi tình, ngừơi quản lý và là nguồn cảm hứng vô tận của thiên tài hội họa này. Sau đó họ kết hôn theo một nghi thức rất bình thường vào năm 1934 và thực hiện chuyến đi đầu tiên đến Mỹ.
        Dali hiện thân là một người tiên phong trong xu hướng tranh siêu thực, và bức “Persistance of Memory” (1931) là tác phẩm hội họa theo trường phái siêu thực tuyệt vời nhất cho đến ngày nay. Nhưng khi chiến tranh đến, là một người trung lập Dali dã tri73 thành kẻ đối lập với hội họa sĩ theo trường phái siêu thực và đã bị trục xuất khỏi hội trong một phiên tòa năm 1934; cho dù ông đã nhiều lần tham gia triển lãm với chủ đề siêu thực trong suốt thập kỹ, nhưng đến năm 1940 Dali bứơc sang thời đại mới mà ông gọi nó là “cổ điển”.
        Trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ hai ông và Gala ẩn nấu tại Mỹ và sau đó về lại Tây Ban Nha khi chiến tranh kết thúc. Danh tiếng của ông ngày càng vang dội hơn nhờ vào tính lòe loẹt và nổi bật trước công chúng cũng như ý tưởng thể hiện trên mỗi nét cọ, tác phẩm thiết kế, tác phẩm văn học, thiết kế nữ trang, quần áo, thiết kế cửa hàng… ông viết rất nhiều htể loại, thơ, tiểu thuyết, và đặt biệt là cuốn hồi ký “ Bí mật về cuộc đời của Salvador Dali”, một tác phẩm gây nhiều tranh luận trong xã hội thời gian đó.
        Dali trở về theo đạo thiên chúa, và tổ chức lễ kỷ niệm ngày cứơi lần thứ hai tại một nhà thờ nhỏ gần Girona, Tây Ban Nha.
        Với sự cộng tác cảu Bunuel Dali đã sản xuất 2 phim “ An Andalusian Dog” năm 1928 và “ The Golden Age” năm1930, được xem là một họa sĩ siêu thực cổ điển, họ đã đưa vào phim những hình ảnh hết sức kỳ quái. “ The Persistence of Memory” 1931, vẫn còn là một bức họa theo trường phái siêu thực nổi tiếng nhất trong giới hội họa.
        Năm 1974 Dali mở một bảo tàng nhỏ ở vùng quê Fgueres cảu mình và sau đó mở tiếp những ngôi nhà lưu niệm về cuộc đời của ông tại Paris, Luân Đôn…
        Năm 1983 một dấu ấn của Dali được thể hiện tropng một lĩnh vực khác đó là những sản phẩm nước hoa mang tên của danh họa siêu thực bật thầy và hào hoa này, ông đã thiết kế kiểu dáng chai nước hoa đầu tiên mang hiệu Salvador Dali dành cho nữ. Tất cả nguồn cảm hứng cuối cùng dành trọn trong sản phẩm tinh túy và mang phong cách hội họa từ bức: “Appation of Aphrodite of Cnidus In A Landscape”.
        Khi Gala mất, sức khỏe ông bắt đầu suy yếu. Và càng tệ hơn sau những lần lâu đài Gala ở Pubol, bị cháy năm 1984. Và hai năm sau đó ông phải sử dụng máy điều hào nhịp tim. Hầu hết thời gian cuối đời ông sống ẩn dật tại Pubol, sau đó tại nhà riêng ở Torre galatea, gần bảo tàng Teatro Museo Dali.
        Ngày 23 tháng 01 năm 1989 Salvador Dali chết trong một bệnh viện ở Figueres vì chứng suy tim và biến chứng đường hô hấp.



        4. Coco Chanel




        Câu chuyện về bà là huyền thoại về một "đế chế thời trang" được xây dựng nên bởi nỗ lực phi thường, quá trình làm việc không biết mệt mỏi với ngọn lửa sáng tạo dường như không bao giờ tắt.
        Gabrielle "Coco" Chanel được coi là một trong những người phụ nữ có ảnh hưởng lớn nhất trong làng thời trang thế kỷ 20. Bà đã tạo nên rất nhiều kỳ tích trong cuộc đời mình cũng như tạo lập nên nhiều xu hướng thời trang mới, những xu hướng mà giới trẻ ngày nay vẫn coi đó là một chuẩn mực khó có thể thay đổi.
        Dior đã nói rằng "Với chiếc áo len chui cổ màu đen và mười vòng hạt trai cuốn quanh cổ, Chanel đã cách mạng hóa thời trang". Chanel không chỉ biết đến bởi "bộ váy đen bé nhỏ" và nước hoa Chanel No5, mà bà còn nổi tiếng bởi những bộ trang phục, những đôi giầy, những đồ trang sức, những chiếc túi, ví cổ điển và luôn thời trang. Những thiết kế của bà đã giúp cho việc định hướng rõ ràng thời trang phụ nữ trong thế kỷ 20.
        Gabrielle Chanel sinh ra tại Saumur, Pháp vào năm 1883, Coco là biệt danh được đặt sau này. Chanel đã khẳng định rằng bà là con duy nhất trong gia đình trong khi đó mẹ bà, bà Jeanne Devolle đã có tới 5 người con. Chanel và chị gái Julie là con hoang của Albert Chanel và Jeanne Devolle. Họ đã cưới nhau sau khi Chanel được sinh ra. Sau khi cưới họ đã có thêm 3 người con nữa Alphonse, Antoinette và Lucien. Vào tháng 2 năm 1895, sức khỏe của bà Jeanne ngày càng đi xuống và bà mất vào tuổi 32.
        Tuổi thơ còn lại của Chanel là chuỗi ngày ở trong một trại trẻ mồ côi. Những người họ hàng của Chanel đã không thể bảo bọc được bà và bốn anh chị em của bà. Khi Chanel và Julie về nhà trong ngày lễ, họ đã ở nhà Henri Adrien và Virginie, những người họ hàng bên họ mẹ. Tại đây, lần đầu tiên Chanel đã gặp em ruột của mẹ - dì Adrienne. Họ bằng tuổi nhau và nhanh chóng trở thành những người bạn thân thiết nhất. Họ quá gần gũi đến mức nhiều người đã ngỡ rằng họ là chị em gái.
        Chanel đã không bao giờ nói về khoảng thời gian của bà tại Aubazine, cái trại trẻ mồ côi mà bà đã ở đó. Khi được hỏi về khoảng thời gian này, Chanel chỉ nói đơn giản rằng bà sống với rất nhiều người dì mà bà nghĩ rằng họ không thích bà lắm. Chanel đã khẳng định rằng: "Tôi sẽ thật vô ơn nếu nói rằng đó là những bà dì "ghê tởm" bởi tôi đã nợ họ mọi thứ. Một đứa trẻ nổi loạn ngày đó đã trở thành một người mạnh mẽ và kiên cường. Đứa trẻ đó có thể yếu ớt và không hạnh phúc nếu nó nhận được quá nhiều nụ hôn, quá nhiều sự chăm sóc, quá nhiều sự dạy dỗ và quá nhiều chất bổ dưỡng. Những bà dì ích kỷ và xấu xa đó đã làm cho nhiều đứa trẻ trở nên rất tự ti trước cuộc đời nhưng trong trường hợp của tôi kết quả lại ngược lại, cách đối xử của họ đã nâng cao thêm lòng tự tôn của tôi. ..."
        Khi Gabrielle Chanel 20 tuổi, bà và Adrienne đã cùng vào làm tại một cửa hàng quần áo nhỏ nhưng đắt khách có tên là The House of Grampayne.

        "Coco" là cái gì?
        Vào mùa hè năm bước vào tuổi 21, Chanel đã chuyển đến căn hộ riêng của bà ở Moulins. Adrienne ở cùng bà. Năm đó, hai người bắt đầu hẹn hò với những trung úy hải quân mà Chanel đã tình cờ làm quen khi đang bán hàng. Những chàng trai này đã đưa hai bà tới La Rotonde, một nhà hát opera nổi tiếng. Không ai biết có phải do sự thuyết phục của các chàng lính hải quân hay là thực chất là do Chanel mà ông giám đốc nhà hát La Rotonde đã thuê Chanel làm ca sĩ. Một trong những bài hát mà Chanel thể hiện là về một phụ nữ đã mất con chó của bà ta với cái tên "Coco". Từ đó Chanel đã có một biệt danh rất nổi tiếng "Coco", một cái tên ghi dấu ấn rất sâu đậm trong làng thời trang sau này.
        Vào tháng 8 năm 1908, Coco bước sang tuổi 25, bà đã có một chuyến du ngoạn tới Pyrenees. Nơi đây Coco đã gặp tình yêu đầu tiên của mình là Arthur Capel, một người rất giàu có với biệt danh được nhiều người biết đến là "Boy". Trong giai đoạn này, Coco đã nói với Boy rằng "Em sẽ chỉ biết được rằng em có yêu anh hay không khi em không cần anh thêm nữa". Bà nhận ra rằng, một người phụ nữ phải sống dựa vào những người đàn ông thì thật là tẻ nhạt.
        Trong suốt mùa hè của năm 1913, Boy và Coco đã sống ở Deauvil, một khu nghỉ dưỡng. Coco đã mở một cửa hiệu trên một trục đường phố chính nơi mà bà đã bán những thiết kế của bà, bao gồm những chiếc áo len dài tay cao cổ và những chiếc mũ. Cửa hiệu này được Boy trả tiền thuê.
        Cửa hàng quần áo của Coco nằm giữa khách sạn Normandy, sòng bạc và biển. Coco đã đặt một mái hiên màu trắng trên đó bà đặt chữ "Gabrielle Chanel". Coco treo đầy cửa hàng những thiết kế mới của bà. Những bộ quần áo của bà thường rộng, tự nhiên và có gam màu tối. Bà yêu thích những bộ váy dài với những đồ trang sức thanh nhã. Giới nữ cũng rất thích chúng.

        Coco đã đi đúng đường
        Coco đã làm nên một cuộc cách mạng trong thế giới thời trang. Mọi người yêu quý bà. Cocco ngày càng trở nên rất thanh mảnh và cao lên vì vậy tất cả khách hàng của bà đều cố gắng giảm cân để trông giống bà. Coco cắt ngắn mái tóc của mình và trông bà giống hệt như một cậu con trai trẻ tuổi. Tất cả các khách hàng của bà đều rất mê thích kiểu tóc đó. Rất nhiều bộ váy liền của Coco, vừa vặn ôm lấy thân hình dong dỏng cao, rất dài, với đường eo thấp đã trở thành vẻ đẹp chuẩn mực của nhiều phụ nữ thời đó.
        Vào ngày 15 tháng 7 năm 1915, Coco mở một cửa hàng thời trang tại Biarritz. Giờ đây bà đã có ba cửa hàng tại Rue Cambon, Paris và Biarritz. Coco phụ trách hoàn toàn mảng nguyên liệu và các thiết kế của cả ba cửa hàng thời trang đó.
        Loại vải đầu tiên của Coco là loại dệt len, loại sản phẩm rất thuận tiện và ôm người nhưng nó không phải là loại vải thích hợp cho những bộ quần áo thời trang. Tuy nhiên bà đã kết hợp với nó rất nhiều loại "phụ tùng" đi kèm như những dây ngọc trai, những chiếc túi xách tay may trần, đôi giầy gót thấp màu ngà xỏ ngón với mũi giầy màu đen, và tất nhiên là sự kết hợp giữa đồ trang sức và quần áo thể thao.
        Trong suốt những năm 20 đầy biến động, thời trang của Chanel đã trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Chúng đã tạo ra một lời tuyên bố: "Hãy nhìn xem, Tôi trẻ trung và xinh đẹp". Đó là khoảng thời gian mà những chiếc váy được cắt ngắn hơn và đường eo hạ thấp xuống. Sau đó Chanel giới thiệu "chiếc váy đen bé nhỏ". Một thiết kế được coi là "kỳ quan" của giới nữ trong thập niên đó, nó kéo theo một cơn sốt mê say những đôi chân dài và những khhuôn mặt quý phái nổi bật nhờ "chiếc váy đen bé nhỏ" đó.
        Lúc này, phong cách của Chanel đã được định hình với hàng dệt len cổ điển và bộ đồ len và " chiếc váy đen bé nhỏ". Từ cơ sở vững chắc này, bà đã cho ra đời hàng loạt những thiết kế mới, những bộ sưu tập mới.
        Coco đã tin rằng tất cả sự chuyển động của cơ thể con người bắt đầu từ phía sau lưng và mọi thứ là trên những đôi vai. Coco thiết kế cho mọi mẫu hình cơ thể, thanh mảnh hay nặng nề. Bà đã tạo nên những bộ quần áo mà phụ nữ có thể vận động thoải mái đôi tay, chơi gôn và có thể uốn cong người để cài dây giầy. Bà đã đã nhấn mạnh rằng "Tạo sao tôi lại quá chú trọng đến việc xác định những cái cầu vai sao cho nó phù hợp? Phụ nữ có những cái vai rất tròn và khi chuyển động nó thường nhẹ nhàng đẩy lên phí trước, điều đó tác động rất mạnh đến các thiết kế của tôi bởi tôi nghĩ rằng phải thiết kế được một thứ phải không được che dấu nó đi. Sau đó, một số người đã nói với tôi rằng những cái cầu vai nên để ở đằng sau. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một người phụ nữ có cái vai ở đằng sau lưng cả".
        Tiếng tăm của Coco lại càng "nổi như cồn" khi bà tung ra sản phẩm nước hoa ghi dấu ấn của tiêng mình, Chanel No. 5, một loại nước hoa độc nhất vô nhị. Trước đó, chưa có ai quan tâm đến việc tạo ra những loại nước hoa có mùi khác mùi hoa thiên nhiên, nhưng Coco đã thay đổi điều đó. Chanel No. 5 có mùi của xạ hương và sự ấm áp của của hương gỗ.
        Vào năm 1931, Samuel Goldwin đã thuê Chanel 1 triệu USD để thiết kế trang phục cho các ngôi sao của ông, trong đó có Kathrine Hepburn, Grace Kelly, Elizabeth Taylor và Gloria Swanson. Mặc dù vậy, điều này kéo dài trong thời gian rất ngắn bởi vì rất nhiều ngôi sao mới nổi đã từ chối trang phục của Chanel.
        Vào giai đoạn đầu của chiến tranh thế giới thứ 2, giai đoạn khó khăn chung của toàn thế giới. Công ty của Chanel bắt đầu đi xuống. Bà mất rất nhiều tiền. Chanel giải quyết vấn đề này bằng việc đóng các cơ sở kinh doanh thời trang. Hơn thế nữa bà còn để tình trạng này tồi tệ hơn bằng việc hẹn hò với một đảng viên Đức quốc xã, Hans Gunther Von Dincklage. Mối quan hệ này chẳng giúp gì cho bà mà lại làm cho bà trở nên tuột dốc thảm hại trong thế giới thời trang. Và trên hết bà đã làm mất đi sự trân trọng của khách hàng đối với mình.
        Năm 1939, Chanel cho đóng cửa hàng thời trang lại. Càng ngày bà càng thấy bà đơn độc hơ. Cuối cùng, bà đã từ bỏ mọi quyền lực của mình đối với công ty nước hoa của bà và đã bán lại cho anh em nhà Wertheimer, những người mà ngày nay vẫn đang sở hữu công ty.
        Năm 1954, Chanel đã có một sự quay trở lại rất thành công. Bà ra quyết định này bởi hai lý do: đầu tiên là doanh số nước hoa của bà đang giảm sút và các cố vấn tài chính của bà đưa ra lời khuyên rằng một buổi mở cửa trở lại của Salons de Couture của bà sẽ giúp cho doanh số bán nước hoa tăng lên. Thứ hai: xu hướng được ưa thích của thời trang năm 1954 rất tương đồng với những trang phục mà bà đã đưa ra rất thành công 6 năm trước đó - thời điểm bà bắt đầu sự nghiệp.
        Ngày 5 tháng 2 năm 1954, Chanel thông báo rằng bà sẽ có một buổi trình diễn bộ sưu tập đầu tiên kể từ sau chiến tranh. Đêm trình diễn đó, bào đã không dám xuất hiện trước bạn bè mà ngồi xem các người mẫu trình diễn từ trên cầu thang gác. Bà thực sự lo sợ mọi người sẽ không chấp nhận và không tha thứ cho bà. Nhưng Chanel đã nhầm, thế giới thời trang nồng nhiệt chào đón bà trở lại.
        Cho dù đó là những bộ đồ của thập kỷ 30 hay 60 hoặc một "thiên niên kỷ" trang phục thì những bộ trang phục cổ điển của Chanel luôn đứng ở hàng cao nhất. Ngày nay, giá trung bình cho một bộ trang phục của Chanel là 5.000 USD và chỉ có thể mua được ở những cửa hàng của Chanel hoặc shop cao cấp như Saks Fifth Avenue.
        Khi Chanel 71 tuổi, bà đã mở lại cửa hàng tại Paris và nhanh chóng thử nghiệm một loại trang phục mới, không cổ, có đường viền, làm bằng vải len và và tuýt. Mặc dù thời trẻ bà phản đối việc sử dụng trang sức đi kèm trang phục, nhưng trong những mẫu trang phục này bà luôn kết hợp chúng với bộ dây chuyền hoặc những chuỗi ngọc trai.
        Coco mất tại Paris vào ngày 10 tháng 1 năm 1971. Sau cái chết của bà, Karl Lagarfeld đã tiếp quản toàn bộ công việc kinh doanh của bà. Ngày nay, ông vẫn cho ra mắt những bộ sưu tập có tên Chanel.
        Mãi đến tận bây giờ, phụ nữ trên khắp thế giới vẫn đang mua những "bộ váy đen bé nhỏ" và những bộ trang phục bằng vải tuýt mà Chanel đã làm nên tiếng tăm lừng lẫy. Phong cách của bà đã ảnh hưởng tới trang phục của nhiều người phụ nữ trong suốt sự nghiệp của bà và cả sau khi bà đã mất. Thời trang của bà vẫn sống ngay cả khi bà không còn nữa.



        ---------***---------


        Lịch sử CHANEL - bí mật một huyền thoại

        Chắc chắn là những kỷ niệm thời thơ ấu đã khiến cho Gabrie lle Chanel vào những năm cuối đời đã phải nói “Nếu bạn sinh ra mà không có đôi cánh, thì cũng đừng bắt ai không được chấp cánh”.
        Người ta không rõ những năm đầu đời của bà như thế nào, chỉ biết bà mồ côi mẹ năm tuổi 12 và được cha bỏ vào cô nhi viện miền trung nước Pháp. Ở tuổi vị thành niên bà đã tỏ ra cứng cõi và độc lập; ngay khi rời ghế nhà trường, bà đã vào giúp việc cho một xưởng làm bít tất ở Moulins. Những lúc rảnh rỗi, bà đi hát ở thính phòng La Rotonde nơi lui tới của những sĩ quan trung đồn trú gần đó. Bà chỉ hát hai bài, Ko Ko Ri Ko và Qui qu’a vu Coco; và khán giả mến giọng ca đã đặt cho bà biệt danh Coco.
        Năm 1910 Chanel khai trương cửa hiệu của riêng mình ở phố Cambon của Paris, bảng hiệu như sau ”Chanel, thợ làm nón". Vài năm sau bà lấy Étienne Balsan, một thanh niên giàu có cho bà một cuộc sống xa hoa nhàn nhã. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau Coco đâm chán cuộc sống quá dễ dãi ấy, và khi Boy Capel, bạn thân nhất của Étienne và sau này là người yêu của bà, đồng ý giúp vốn cho tiệm nón của bà ở Paris, bà đã lập tức nhận lời.
        Nổi tiếng với nghề làm nón, bà bước ngay sang nghề cắt may với tác phẩm đầu tay chưa từng có trước đó: đồ thể thao dành cho phái nữ. Bà mặc một cái áo khoác ngoài bằng len của một ngư dân và một cái váy dài rũ xuống rồi đi qua đi lại trên bãi tắm. Thời ấy quần áo đan là không hợp mốt.
        Năm 1913 bà mở hiệu may đầu tiên ở Deauville và cho ra đời thời trang Chanel vừa đơn giản, tiện dụng lại thanh lịch và đã sớm thu hút được lượng khách trung thành.
        Chiến tranh bùng nổ năm 1914, nữ giới cần bộ y phục thích ứng với hoàn cảnh mới, và thế là kiểu áo may rộng không cần nịt vú của Chanel là một giải pháp lý tưởng.
        Hai năm sau bà tung ra mốt áo chui cổ, thiết kế một kiểu áo khoác ngoài không đai lưng, không họa tiết với những đường cắt vuông vức đầy nam tính để che giấu ngực và hông. Bà còn sáng tạo ra “áo sơ mi duyên dáng”được nhiệt liệt đón nhận. Sau khi Paul Poiret, nhà cắt may lớn đầu thế kỷ, nâng gấu áo lên khỏi mặt đất, bà đã nâng thêm một bước nữa lên khỏi mắt cá chân. Thế là phụ nữ đổ xô đến những cửa hàng của Chanel, và Chanel là thời trang.
        Một buổi tối bà đến rạp Opéra của Paris trong mái tóc cắt ngắn, và theo truyền thuyết thì sau đó có 35.000 mỹ viện ra đời ở Pháp. Bà may giày mũi tròn, và mọi phụ nữ đều quẳng đi đôi giày mũi nhọn ba dây. Bà đeo ngọc trai lên áo len, và mọi phụ nữ đều đeo ngọc. Bà thử đủ trò, kể cả chường mặt ra nắng trời vào cái thời mà nước da rám nắng được xem là quê mùa. Với óc sáng tạo, bà khởi xướng ra rất nhiều thời trang: thắt lưng xệ, quần tây cho phái nữ, Pyjama bãi tắm, áo dài đen mà người Mỹ gọi là “Model. T Ford của Chanel”, váy xếp nếp, áo mưa, áo khoác đính nút vàng, bộ quần áo vải tweed, nữ trang cài áo, chuỗi ngọc trai, túi khoác vai, túi xách chần bông có quai xích vàng, giày cao gót màu beige mũi đen, ruban cột tóc, và bộ y phục Chanel nổi tiếng trên toàn thế giới.
        Chỉ còn thiếu có nước hoa, và cái đầu sáng tạo của Chanel không bỏ qua điều đó. Coco thường xuyên mượn lời của bạn bà là Pau Valéry “phụ nữ mà không có nước hoa là không có tương lai”. Bà không muốn mọi người dùng thứ phấn vô duyên thơm mùi hoa tím. Thế là bà nhờ đến Ernest Beaux, nhà pha chế nước hoa lớn nhất lúc bấy giờ, người ta không ngần ngại sử dụng chất tổng hợp aldehyde có mùi hương cực kỳ mạnh mà lúc bấy giờ chỉ được người ta dùng hàm lượng rất nhỏ. Pha chung với những hương tự nhiên khác, thế là ra đời nước hoa số 5, tiền thân của tất cả nước hoa thuộc nhánh Aldehidic Floral của dòng họ hoa. Nó không chỉ nổi tiếng ở Pháp, và sau khi Paris được giải phóng, người lính Mỹ nào cũng xếp hàng đến tận cuối phố để chờ mua một lọ số 5 mang về nước. Khi các phóng viên hỏi Marilyn Monroe thích xức nước hoa gì lúc đi ngủ, nàng đã thì thầm “ vài giọt số 5”. Sau khi Catherine Deneuve và Carole Bouquet dùng số 5,thì nóđã trở nên bất tử, là biểu tượng truyền thuyết của thời đại chúng ta. Sau số 5 là số 22, Cuir de Russie, Gardena và Bois des Iles. Tất cả nước hoa này sau đó đã được “cái mũi” của nhà Chanel là Jacques Polge cải biên lại năm 1983. Rồi sau đến nước hoa Cristalle, nước hoa số 19 (ngày sinh cua Chanel), nước hoa Pour Monsieur, nước hoa Antaeus. Năm 1984 Polge lại làm mọi người thán phục với nước hoa Coco có mùi cay nồng để lại dấu ấn lâu dài trong ngành nước hoa.
        Năm 1990 nhà Chanel lại tung ra nước hoa Égoiste dành cho đàn ông với mùi gỗ đàn hương của Ấn Độ, bản thân nước hoa đã đôc đáo mà cả chiến dịch quảng cáo của Gonde cũng không kém phần độc đáo.
        Năm 1996 ra đời nước hoa Allure là sản phẩm mới nhất của nhà Chanel. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, Chanel đóng cửa hiệu cắt may và chỉ khai trương lại 15 năm sau, lúc ấy thời trang “New Look” của nhà Doir đã làm cuộc cách mạng về thời trang rồi. Chanel nhanh chóng lấy lại sự thành công và vẫn còn mãi thành công. Có thể nhà văn Paul Morand, bạn của Coco, đã nhận ra bí quyết thành công của bà khi ông mô tả bà có “cái khát khao trả thù mãnh liệt đã làm nên những cuộc cách mạng”.





        nguồn: Trung tâm nước hoa
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.07.2006 17:01:14 bởi Chuột lắc >
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9