Những bóng ma (PAUL AUSTER )-DỊCH HẢI NGỌC
meocon_thongminh93 25.07.2006 00:21:36 (permalink)
Những bóng ma

PAUL AUSTER

Dịch giả:HẢI NGỌC



KỲ 1
Đầu tiên xuất hiện Blue.[1] Sau đó đến White, sau đó nữa là Black và trước khi câu chuyện bắt đầu còn có Brown. Brown dạy nghề cho Blue, truyền cho anh ta những mẹo mực trong nghề, và khi Brown về già, Blue là người thay thế. Câu chuyện đã bắt đầu như vậy. Địa điểm nơi câu chuyện xảy ra là New York, thời gian là hiện tại, hai yếu tố này sẽ không thay đổi bao giờ. Hàng ngày Blue đến văn phòng, ngồi tại bàn làm việc của mình, chờ đợi một điều gì đó xảy ra. Đã một thời gian dài chẳng có chuyện gì xảy ra cả, cho đến khi một người đàn ông có tên là White bước vào văn phòng và câu chuyện đã bắt đầu như vậy.

Vụ việc xem ra cũng có vẻ đơn giản. White muốn Blue theo dõi một người đàn ông có tên là Black và để mắt coi chừng anh ta trong trong một khoảng thời gian cần thiết. Hồi còn làm việc cho Brown, Blue đã từng giải quyết nhiều vụ việc lặt vặt, vụ việc lần này có vẻ như cũng chẳng có gì khác biệt, thậm chí có lẽ còn là trường hợp dễ dàng nhất.

Blue cần công việc, vì thế anh lắng nghe White và không hỏi han gì nhiều. Anh đoán chắc đây là một vụ dính dáng đến chuyện hôn nhân và White là một anh chồng có máu ghen. White không đòi hỏi gì phức tạp. White nói rằng anh ta muốn hàng tuần nhận được một bản báo cáo gửi đến một hòm thư có số hiệu như thế… như thế…, bản báo cáo cần được đánh máy làm hai bản trên khổ giấy dài cỡ thế này, rộng cỡ thế kia. Hàng tuần, Blue cũng sẽ được nhận một tấm séc gửi qua đường bưu điện. Rồi White nói cho Blue biết nơi ở của Black, hắn ta trông như thế nào, và những điều đại loại như thế. Khi Blue hỏi White xem theo anh ta thì vụ này sẽ kéo dài độ bao lâu, White trả lời rằng anh ta không rõ. Cứ gửi báo cáo hàng tuần, anh ta bảo vậy, cho đến khi có thông báo cụ thể hơn.

Thật ra thì Blue cũng thấy vụ này có cái gì đó hơi lạ lùng. Nhưng nếu nói anh ta thấy ngần ngại thì hơi quá. Song có một điều là Blue không thể chắc chắn nổi một điều gì ở White cả . Chẳng hạn bộ râu đen cùng với hàng lông mày rậm của anh ta. Rồi nước da trắng đến bất thường của anh ta nữa, cứ như thể anh ta đắp bột lên người vậy. Blue không phải là tay mơ trong chuyện hoá trang; để phát hiện ra trường hợp này, với anh ta, không phải là một việc khó. Brown là sư phụ của anh, quan trọng hơn, hồi chưa giải nghệ, Brown là tay số một trong nghề. Do đó mà Blue bắt đầu nghĩ có thể là mình đã nhầm, vụ này chẳng có gì dính dáng đến chuyện hôn nhân. Nhưng Blue chẳng rút ra được điều gì sâu sắc hơn phỏng định này vì White vẫn đang tiếp tục truyền đạt cho anh, và Blue phải tập trung lắng nghe anh ta nói.

Mọi thứ đã được sắp đặt rồi, White bảo. Có một căn phòng nhỏ đối diện trực tiếp với nơi Black đang ở. Tôi đã thuê nó rồi, hôm nay anh có thể chuyển đến đó. Tiền thuê nhà sẽ được trả cho đến khi nào vụ này kết thúc.

Tốt rồi, Blue nói rồi nhận lấy chìa khoá căn phòng từ tay White. Như vậy sẽ khỏi phải mất thời gian đi lại lôi thôi.

Đúng vậy, White đáp, đồng thời đưa tay vuốt bộ râu.

Và thế là mọi chuyện đã được sắp đặt . Blue đồng ý nhận việc và họ bắt tay nhau tỏ sự hợp tác. Để thể hiện sự tin tưởng của mình, White còn trả trước cho Blue mười tờ năm mươi dollar.

Vậy đó, câu chuyện đã bắt đầu như thế. Một anh chàng có tên Blue và một người đàn ông tên White, người mà con người thật của anh ta không giống như vẻ bề ngoài. Không sao cả, Blue tự nhủ sau khi White ra về. Mình chắc là anh ta có những lý do riêng. Vả lại, đó không phải là vấn đề của mình. Điều duy nhất mà mình phải lo lắng bây giờ là tiến hành công việc đã nhận.

Đó là ngày 3 tháng 2 năm 1947. Dĩ nhiên, Blue không biết rằng vụ việc này sẽ kéo dài hàng năm trời. Bởi hiện tại vốn chẳng sáng sủa hơn quá khứ một chút nào, sự bí ẩn của nó cũng mịt mù như bất cứ cái gì thuộc về tương lai. Thế giới này là vậy: tại một thời khắc người ta chỉ có thể dấn được một bước, nắm bắt được một từ rồi đến bước tiếp theo, từ tiếp theo. Tại thời điểm này, có những điều nhất định mà Blue không thể hiểu được. Hiểu biết vốn đến chậm, và khi nó đến, nó thường bắt người ta phải trả một cái giá không rẻ.

White rời văn phòng và một lát sau, Blue nhấc điện thoại và gọi cho vị hôn thê tương lai của mình. Anh phải đi giải quyết một vụ việc. Anh nói với người yêu. Đừng lo lắng nếu thi thoảng không liên lạc được với anh. Lúc nào anh cũng nghĩ tới em

Blue lấy cái túi đeo vai nhỏ màu xám từ trên giá xuống và nhét vào trong đó một khẩu súng lục cỡ 38 ly, một ống nhòm, một cuốn sổ và những đồ nghề khác. Rồi anh dọn dẹp bàn làm việc, sắp xếp đống giấy tờ cho ngăn nắp và khoá cửa văn phòng lại. Từ đó, anh đến chỗ căn phòng mà White đã thuê cho anh. Địa chỉ của căn phòng đó không quan trọng. Cứ cho đó là khu phố ở Đồi Brooklyn đi, để khỏi phải tranh cãi. Một con phố yên tĩnh, ít người qua lại, không cách xa cầu lắm - có thể là phố Orange chẳng hạn. Trên con phố này, vào năm 1885, Walt Whitman đã cho ra mắt ấn bản đầu tiên tập thơ Lá cỏ và cũng tại nơi đây, Henry Ward Beecher đã lên án chế độ nô lệ ngay trên bục giảng kinh của ngôi nhà thờ mới được xây dựng của ông. Đó, dấu ấn đặc biệt của nơi này chỉ có vậy.

Đó là một căn hộ nhỏ nằm trên tầng ba của một toà nhà bốn tầng xây bằng đá cát kết nâu. Blue hài lòng vì thấy căn hộ rất đàng hoàng, tươm tất, và khi đi quanh phòng xem xét đồ đạc, anh phát hiện ra mọi thứ trong căn phòng này đều mới: giường, bàn, ghế, thảm trải sàn, khăn trải giường, đồ bếp, tất cả mọi thứ. Có cả một bộ đồ nghiêm chỉnh treo trong tủ quần áo, Blue không biết bộ đồ đó có phải dành cho mình không, anh mặc thử và thấy nó vừa như in. Đây không phải là nơi rộng rãi nhất mà mình đã từng ở nhưng căn phòng này cũng khá ổn - anh tự nhủ trong khi cứ đi đi lại lại hoài từ đầu phòng đến cuối phòng.

Anh trở ra ngoài đường, băng qua con phố, bước vào toà nhà đối diện. Tại lối vào, anh tìm xem cái tên Black có trên một cái hộp thư nào không, cuối cùng cũng phát hiện ra nó: Black- tầng 3. Tốt rồi. Anh quay về căn phòng của mình và bắt tay vào việc.

Vén tấm màn cửa sổ, anh quan sát và thấy Black đang ngồi bên một cái bàn trong căn phòng bên kia phố của y. Theo những gì Blue nắm bắt được, anh đoán Black đang viết. Kiểm tra bằng ống nhòm thì đúng là như vậy. Tuy nhiên, thấu kính của ống nhòm không đủ nét để thấy rõ những dòng viết, vả lại giả dụ nó có đủ độ nét như vậy, Blue cũng không chắc mình có thể đọc được những dòng chữ ngược đó. Bởi vậy, tất cả những gì mà Blue có thể chắc chắn được là Black đang ghi chép gì đó vào một cuốn sổ với một cây bút màu đỏ. Blue rút cuốn sổ của mình ra và ghi: ngày 3.2, lúc 3 giờ chiều, Black ngồi viết tại bàn của mình.

Thi thoảng, Black lại ngừng bút và nhìn ra ngoài cửa sổ. Thoạt đầu, Blue nghĩ rằng y đang nhìn thẳng vào mình và tìm cách lảng tránh tia mắt của y. Nhưng quan sát kỹ hơn, anh phát hiện ra đó chỉ là một cái nhìn mông lung, thể hiện dòng suy nghĩ miên man hơn là một sự chăm chú quan sát, cái nhìn ấy vô hình hoá mọi thứ hơn là nhằm thâu nhận sự vật vào tầm mắt. Chốc chốc, Black lại rời ghế và biến vào một chỗ khuất nào đó trong căn phòng, một góc nhà - Blue đoán thế - mà cũng có thể là phòng tắm, nhưng chưa bao giờ y vào trong đó lâu cả, bao giờ y cũng nhanh chóng trở lại bàn làm việc của mình. Chuyện này cứ tiếp diễn như thế vài tiếng đồng hồ và Blue vẫn không hiểu nổi y làm thế để làm gì. Vào lúc sáu giờ, Blue ghi dòng thứ hai vào cuốn sổ tay của mình: việc này kéo dài vài giờ.

Không hẳn là Blue thấy nản nhưng anh cảm thấy ấm ách. Không thể nào đọc được những gì mà Black viết, đến lúc này mọi thứ vẫn là số không. Có lẽ, y là một thằng điên âm mưu làm nổ tung thế giới này chăng, Blue nghĩ. Có thể những dòng chữ đó có liên quan đến công thức bí mật của y chăng? Nhưng lập tức Blue tự cảm thấy ngượng bởi ý nghĩ trẻ con ấy. Còn quá sớm để có thể hiểu rõ bất cứ điều gì, anh tự nhủ, và trong lúc này anh quyết định mình sẽ không đưa ra một phán xét nào cả.

Anh cứ nghĩ vơ vẩn hết chuyện này đến chuyện khác, cuối cùng, ý nghĩ của anh dừng lại ở hình ảnh vị hôn thê tương lai của mình. Tối nay họ đã định đi chơi cùng nhau, anh nhớ lại, nếu hôm nay White không xuất hiện ở văn phòng cùng với vụ việc mới này thì bây giờ anh đang ở bên nàng rồi. Đầu tiên, bọn họ sẽ đi ăn ở nhà hàng Trung Hoa ở phố 39, nơi mà bọn họ sẽ phải đánh vật với những chiếc đũa và phải lén dùng tay để ăn, sau đó, họ sẽ đến rạp Paramount xem một suất chiếu bóng đúp.[2] Trong một khoảnh khắc, anh hình dung rất rõ khuôn mặt của nàng (nàng đang cười, cặp mắt cau lại giả đò bối rối), và anh nhận ra đáng nhẽ mình nên ở bên nàng hơn là ngồi chôn chân ở đây trong căn phòng nhỏ mà việc này chỉ Chúa mới biết nó sẽ kéo dài bao lâu. Anh định nhấc điện thoại tán gẫu với nàng một chút nhưng lại do dự, rồi quyết định không làm thế. Anh không muốn tỏ ra yếu mềm. Nếu nàng biết anh cần có nàng như thế nào, anh sẽ đánh mất thế mạnh của mình và điều đó thật không hay. Đàn ông luôn phải tỏ ra là kẻ mạnh hơn.

Bây giờ Black đã dọn bàn và dẹp đám giấy tờ đi để ăn tối. Y ngồi đó, nhai từ từ, vừa ăn vừa nhìn ra ngoài cửa sổ với cái nhìn lơ đãng đặc biệt của y. Nhìn chỗ thức ăn, Blue nhận ra mình cũng đang đói, anh chạy vào chỗ trạn bếp tìm cái gì đó để ăn. Anh lấy một hộp thịt hầm và dùng một lát bánh mì trắng chấm với nước thịt. Sau bữa tối, anh chợt nhen lên hy vọng rằng Black sẽ đi ra ngoài khi nghe thấy tiếng lục xục bất ngờ từ căn phòng của Black. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Mười lăm phút sau, Black lại ngồi vào bàn, lần này y đọc một cuốn sách. Bên cạnh y có một ngọn đèn bàn và Blue có cơ hội để quan sát rõ khuôn mặt của Black hơn trước đó. Blue áng chừng tuổi y cũng trạc tuổi mình, chỉ hơn kém độ một hai tuổi. Nghĩa là y khoảng chừng hai tám hai chín hoặc hơn ba mươi một chút. Anh cảm thấy khuôn mặt của Black cũng dễ chịu, chẳng có điểm nào đặc biệt so với hàng ngàn khuôn mặt khác mà người ta nhìn thấy hàng ngày. Blue thất vọng vì điều này, vì anh vẫn nghĩ Black là một gã điên. Blue nhìn qua ống nhòm và đọc tựa đề cuốn sách mà Black đang đọc. Đó là cuốn Walden của Henry David Thoreau. Blue chưa từng biết đến cuốn sách này trước đó và anh ghi lại cẩn thận tên cuốn sách vào sổ tay của mình.

Khoảng thời gian còn lại của buổi tối hôm đó trôi qua như thế, Black chỉ ngồi đọc sách và Blue thì chỉ ngồi quan sát y đọc. Thời gian thì cứ trôi đi, Blue mỗi lúc lại thấy nản hơn. Anh không quen với việc ngồi không như thế này, xung quanh bóng tối đang vây lấy anh, anh bắt đầu thấy căng thẳng. Anh muốn hoạt động, đi lại, làm việc. Tôi không phải người làm việc theo kiểu Sherlock Holmes, anh đã nói với Brown như vậy hễ khi nào ông chủ của anh giao cho những nhiệm vụ đòi hỏi anh phải ngồi một chỗ hơi lâu. Hãy giao cho tôi một công việc gì đó khiến tôi lúc nào cũng phải luôn chân luôn tay. Giờ đây, khi chính anh trở thành ông chủ thì anh lại nhận được một việc như thế này: một vụ mà chẳng có việc gì để làm cả. Vì chỉ ngồi nhìn một người nào đó đọc sách và ghi chép thực chất là không làm gì hết. Cách duy nhất giúp Blue có thể hiểu được điều gì đang diễn ra là nhập vào trong đầu của Black để xem y đang nghĩ gì, mà cách đó dĩ nhiên là bất khả rồi. Vì thế, dần dần, đầu óc của Blue lại trở ngược lại quá khứ. Anh nhớ đến Brown, nhớ dến một số vụ mà hai người đã cùng làm với nhau, nhấm nháp lại ký ức về những vụ việc thành công của cả hai người. Vụ Redman chẳng hạn, vụ đó họ phải theo dõi một nhân viên thu ngân của ngân hàng, kẻ đã biển thủ 250.000 dollar. Lần ấy, Blue đã phải đóng giả là một tay chuyên cá độ và dụ Redman đặt cược với mình. Truy số tiền đem đặt cược đó ra thì đúng là số tiền bị mất của ngân hàng và gã Redman rốt cục phải nhận được điều mà hắn đáng phải nhận. Lý thú hơn nữa là vụ của Gray. Gray đã bị mất tích hơn một năm và vợ của ông đinh ninh rằng ông đã chết. Blue đã xem xét tất cả những nguồn tin tức thông thường và chẳng phát hiện ra điều gì. Thế rồi, vào ngày anh đang chuẩn bị cho bản báo cáo cuối cùng, bất ngờ anh gặp ông ta tại một quán bar, chỉ cách nơi vợ ông ta đang sống chưa đến hai dãy nhà, người vẫn đang tin rằng ông sẽ không bao giờ quay về. Tên của Gray giờ là Green nhưng bất chấp điều này, Blue vẫn chắc chắn Green chính là Gray vì suốt ba tháng trời lúc nào anh cũng đem theo tấm ảnh người đàn ông ấy bên mình và đã thuộc nằm lòng khuôn mặt ông ta. Câu chuyện hoá ra liên quan đến căn bệnh mất trí nhớ ở con người. Blue đưa Gray trở lại gặp vợ mình và mặc dù không thể nào nhớ nổi bà ta và vẫn tiếp tục tự xưng là Green, ông vẫn cảm thấy mến bà và vài ngày sau ông xin được kết hôn với bà. Thế là bà Gray trở thành bà Green, cưới cùng một người đàn ông lần thứ hai trong đời, trong khi Gray không bao giờ còn có thể nhớ lại quá khứ - và ông vẫn bướng bỉnh phủ nhận là mình đã quên hết mọi thứ - điều đó dưòng như vẫn không làm ông mất thoải mái với cuộc sống hiện tại. Ở quãng đời trước, Gray vốn là một thợ cơ khí, bây giờ, ông - Green - lại làm nhân viên quầy bar trong một quán rượu cách nơi trước kia mình sống hai dãy nhà. Ông thích pha các đồ uống, ông bảo vậy, thích chuyện trò với những người vào quán, ông không thể tưởng tượng mình có thể làm được một nghề nào khác. Tôi sinh ra để làm nghề rót rượu, ông nói với Brown và Blue như thế trong đám cưới của ông và bọn họ là ai mà có quyền phản đối những gì một con người đã chọn lự cho cuộc đời mình?

Đó là những ngày tươi đẹp đã xa rồi, Blue tự nhắc mình như thế khi anh thấy Black đã tắt điện trong căn phòng bên kia phố. Có biết bao điều lạ lùng và những sự ngẫu nhiên nực cười. Phải, không phải vụ nào cũng thú vị cả. Mày phải quen với cả cái hay lẫn cái dở chứ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.07.2006 03:45:56 bởi Ct.Ly >
#1
    meocon_thongminh93 25.07.2006 00:22:30 (permalink)
    Những bóng ma

    PAUL AUSTER

    Dịch giả:HẢI NGỌC


    KỲ 2

    Vốn là người lạc quan, sáng hôm sau Blue thức dậy với một tâm trạng vui vẻ. Ngoài trời, tuyết đang rơi trên con phố tĩnh lặng, phủ trắng mọi vật. Sau khi quan sát Black ăn bữa sáng bên cái bàn cạnh cửa sổ và đọc mấy trang cuốn Walden, Blue thấy y vào phía bên trong căn phòng rồi lại xuất hiện bên cửa sổ trong bộ áo khoác. Lúc này độ hơn tám giờ một chút. Blue với lấy mũ, áo, khăn choàng cổ và ủng, vội vã ăn mặc và chạy xuống cầu thang ra phố sau Black chưa đến một phút. Đó là một buổi sáng không có gió, không khí yên ả đến độ Blue có thể nghe thấy tiếng tuyết rơi chạm vào những cành cây. Không có ai khác ngoài đường, giày của Black đã vạch một lối đi hoàn hảo trên vỉa hè ngập tuyết. Blue đi theo dấu giày đó vòng qua góc phố và thấy Black vẫn đang thong dong đi sang con phố kế tiếp, như thể y đang đi ngắm trời ngắm đất vậy. Đó không phải là biểu hiện của một kẻ muốn chạy trốn, Blue nghĩ, và vì thế anh cũng tự giảm tốc độ của mình lại. Sau khi đi qua hai con phố, Black rẽ vào một cửa hàng tạp phẩm nhỏ, ở đó chừng hơn dăm mười phút và rồi trở ra với hai cái túi giấy màu nâu nặng trĩu những thứ mua được. Không để ý đến Blue đang đứng theo dõi trước một ngôi nhà bên kia đường, y quay trở về hướng phố Orange.Cứ phải chờ thời cơ đến đã, Blue tự nhủ. Anh quyết định đánh liều không bám theo Black nữa và vào của hàng tạp phẩm mà Black lúc trước đã vào, làm tương tự như y. Nếu đó quả là một cái bẫy thì Black sẽ vứt béng đống đồ vừa mua sắm đó đi và tìm cách chuồn, nhưng Blue nghĩ nhiều khả năng là y chỉ đi về nhà mà thôi. Chắc bây giờ y lại đang ngồi bên cái bàn làm việc cạnh cửa sổ và viết lách như ngày hôm qua.

    Vì trời tuyết nên khả năng của thị giác bị hạn chế, Blue khó có thể phán đoán được điều gì đang diễn ra trong căn phòng của Black. Ống nhòm cũng không giúp được gì nhiều. Trời cứ sầm sì cả ngày và qua màn tuyết rơi không ngớt, hình ảnh của Black chẳng khác nào một cái bóng. Blue đành phải ngồi chờ dài và lấy mấy tờ báo của mình đọc giết thời giờ. Anh là độc giả trung thành của tờ Thám tử chân chính và cố gắng không bỏ lỡ một kỳ nào của tạp chí này. Bây giờ không biết làm gì, anh đọc nát số tạp chí mới, thậm chí còn dừng lại đọc cả những mẩu thông báo nhỏ và quảng cáo ở bìa sau. Lẫn giữa hàng tá câu chuyện về những nhân viên an ninh và những viên gián điệp, có một bài báo ngắn gây ấn tượng rất mạnh với Blue, đến nỗi sau khi đọc xong, anh vẫn không thôi nghĩ ngợi về nó. Hai mươi lăm năm về trước, tại một khu rừng nhỏ ngoài Philadelphia, người ta tìm thấy một cậu bé bị giết. Mặc dù cảnh sát khẩn trương vào cuộc, họ vẫn không đi đến được một kết luận nào. Không những họ không tìm ra một đối tượng khả nghi nào mà họ còn không thể nhận dạng được cậu bé. Cậu bé là ai, từ đâu đến, vì sao lại ở đó - tất cả những câu hỏi đó đều không có lời đáp. Dần dần hồ sơ vụ án bị loại ra khỏi đám hồ sơ cần giải quyết, và nếu như không có một nhân viên chuyên điều tra về những cái chết bất thường vốn được giao nhiệm vụ khám nghiệm tử thi cậu bé thì vụ án đã rơi vào quên lãng rồi. Người đàn ông tên Gold này bị ám ảnh bởi vụ giết người. Trước khi cậu bé được đem đi chôn, ông đã làm một cái mặt nạ tượng trưng cho cậu bé và kể từ đó, bất cứ lúc nào có thể, ông đều dành tâm trí suy nghĩ về vụ án. Sau hai mươi năm, đến tuổi về hưu, giã từ nghề nghiệp, ông bắt đầu dành toàn bộ thời gian của mình cho vụ này. Nhưng mọi việc không trôi chảy. Ông không tìm ra thêm được điều gì, không tiến được thêm bước nào trong việc giải quyết vụ án. Bài báo trong tờ Thám tử chân chính kể rằng hiện giờ ông đang treo một giải thưởng 2000 đô la cho bất cứ ai cung cấp thông tin về cậu bé. Bài báo cũng in kèm một bức ảnh hơi mờ, có nhiều nét được chấm sửa lại, chụp hình ông ta với tấm mặt nạ cậu bé cầm trên tay. Ánh nhìn từ đôi mắt ông thật ám ảnh, nó toát lên một sự khẩn nài đến nỗi Blue không thể dời mắt mình đi đâu được. Bây giờ Gold đã già và ông sợ rằng mình có thể sẽ chết trước khi giải quyết được vụ này. Blue thật sự xúc động bởi điều đó. Nếu có thể, anh chẳng muốn điều gì hơn là bỏ quách việc mình đang làm bây giờ để giúp đỡ ông. Anh nghĩ thời buổi này không có nhiều người như thế. Nếu cậu bé đó là con của Gold thì đã đành: đó là một vụ báo thù, rõ ràng và đơn giản, bất kỳ ai cũng hiểu điều đó. Nhưng thằng bé là kẻ hoàn toàn xa lạ với ông ta, nên vụ này không có lấy một chút quan hệ riêng tư nào, không có một động cơ bí ẩn nào hết. Chính ý nghĩ này đã tác động mạnh mẽ đến Blue. Gold không chấp nhận một thế giới mà ở đó kẻ giết hại một đứa trẻ lại không bị trừng phạt, thậm chí kể cả bây giờ kẻ giết người đã chết rồi thì ông vẫn sẵn lòng hy sinh cả đời mình, cả hạnh phúc của mình đỊ vạch trần tội ác. Rồi Blue lại nghĩ đến cậu bé, cố tưởng tượng xem thật sự chuyện gì đã xảy ra, thử xem cậu bé đã cảm thấy điều gì và bỗng một ý nghĩ loé lên trong đầu anh: kẻ giết người chắc hẳn là cha hoặc mẹ của thằng bé, nếu không thì đã phải có thông báo về sự mất tích của nó chứ. Nhưng điều đó chỉ khiến cho câu chuyện trở nên tồi tệ hơn, Blue nghĩ, và khi anh bắt đầu cảm thấy đau lòng khi nghĩ về câu chuyện này, anh mới thật sự thấu hiểu suốt thời gian qua, Gold đã sống trong tâm trạng gì, anh nhận ra hai mươi lăm năm trước đây, anh cũng chỉ là một cậu bé và nếu cậu bé kia còn sống thì bây giờ nó cũng trạc tuổi anh. Đó có thể là mình, Blue nghĩ. Cậu bé đó có thể là ta. Không biết làm gì nữa, Blue cắt bức ảnh ra khỏi tờ tạp chí và dán lên chỗ tường phía trên giường mình.

    Ngày đầu tiên đã trôi qua như thế. Blue quan sát Black và hầu như chẳng có chuyện gì xảy ra. Black viết, đọc, ăn, đi dạo phố một chút, dường như y không biết có Blue đang theo dõi. Về phần Blue, anh cố tỏ ra không lo nghĩ gì cả. Anh đồ rằng Black đang ẩn mình, đang nhẩn nha để đợi thời cơ đến. Black cũng chỉ là một con người nên Blue thiết nghĩ không phải lúc nào cũng cần cảnh giác về y. Vả lại không ai có thể theo dõi một kẻ khác 24 trên 24 giờ được. Phải có thời gian để người ta được ngủ, được ăn, được giặt giũ, vân vân. Nếu White muốn Black bị theo dõi suốt cả ngày thì anh ta phải thuê hai, ba người cho vụ này chứ không thể chỉ một. Mà Blue lại là người duy nhất, những cái gì vượt quá khả năng thì anh cũng đành bó tay.

    Song mặc dù đã tự nhủ như thế, Blue đã bắt đầu thấy lo lắng. Vì nếu cần phải theo dõi Black thì sẽ phải coi chừng y liên tục. Theo dõi mà không liên tục thì đó không phải là theo dõi. Toàn bộ sự việc này có thể thay đổi chỉ trong một khoảnh khắc – Blue suy luận. Chỉ cần một phút không để ý - một phút liếc xéo sang bên cạnh, dừng lại gãi đầu hay há miệng ngáp chẳng hạn - thế cũng đủ để Black tuột khỏi tay và có cơ hội thực hiện những hành vi tội ác mà hắn đã mưu tính. Mà một ngày người ta nhất thiết phải cần đến hàng nghìn khoảnh khắc như vậy. Câu chuyện khiến Blue cảm thấy bứt rứt vì mặc dù đã bao nhiêu lần thử đặt ra các phương án cho rắc rối này nhưng anh vẫn chưa thấy hé ra được một điều gì khả dĩ. Nhưng đó không phải là điều duy nhất làm anh thấy bứt rứt.

    Cho đến tận bây giờ, Blue không có nhiều dịp được ngồi yên một chỗ như thế này và giờ đây sự nhàn hạ, không có việc gì để làm khiến anh thấy bối rối. Lần đầu tiên trong đời, anh cảm thấy mình bị ném trả lại chính mình, không chộp nắm được một cái gì, không có gì phân biệt khoảnh khắc này với khoảnh khắc kế tiếp. Chưa bao giờ anh suy nghĩ nhiều về cái thế giới nằm bên trong chính mình và cho dù anh luôn ý thức được sự tồn tại của thế giới ấy thì đó vẫn là một cõi chưa được biết đến, chưa được khám phá, do đó, nó mịt mù, tối tăm với ngay bản thân anh. Bao giờ anh cũng chỉ cần lướt qua rất nhanh bề mặt của mọi vật, đủ để ghi nhớ chúng là được, anh chú ý đến cái bề mặt cốt để có được một hình dung về sự vật, ước lượng sự vật này rồi sau đó chuyển sang ngay sự vật kế tiếp, cái thế giới như vậy luôn làm anh thấy dễ chịu, không bao giờ anh đòi hỏi sự vật phải biểu hiện một ý nghĩa nào khác ngoài sự hiện diện ở đó của chính chúng. Trước thời điểm này, tất cả những sự vật đó đều hiện lộ rất rõ ràng, sáng sủa, chúng nói với anh rành mạch chúng hoàn toàn là cái gì, và chẳng có điều gì khác khiến anh phải dừng lại trước chúng và nhìn chúng đến hai lần. Bây giờ, đột nhiên cái thế giới như nó đã từng ấy biến mất, Blue chẳng nhìn thấy cái gì khác ngoài một cái bóng lờ mờ có tên Black, đầu óc anh cứ luẩn quẩn với những điều trước kia chưa bao giờ nảy sinh trong anh và cả điều này nữa cũng làm anh bứt rứt. Nếu “suy ngẫm” có thể là một từ mang sắc thái hơi mạnh để diễn tả trạng thái này thì một từ khác, sắc thái nhẹ hơn, “suy xét” chẳng hạn, có lẽ là phù hợp. “Suy xét”, xuất phát từ chữ speculatus, vốn có nghĩa là tấm gương hay mắt kính. Việc theo dõi Black ngoài phố dường như không khác nào việc Blue nhìn vào gương, và thay vì chỉ quan sát kẻ khác, Blue thấy anh cũng đang quan sát chính mình. Đối với anh, cuộc sống trở nên chậm lại một cách bất thường, bây giờ, Blue có thể nhìn thấy những gì trước kia lọt ra ngoài phạm vi chú ý của anh. Thí dụ như luồng ánh sáng xuyên qua căn phòng mỗi ngày hay cứ đến những giờ nhất định, mặt trời lại phản chiếu ánh tuyết lên góc phía xa của trần nhà. Rồi nhịp đập của tim, tiếng thở, cái chớp mắt – bây giờ Blue nhận biết được cả những thứ rất nhỏ nhặt này, cho dù anh đã cố gắng phớt lờ chúng, chúng vẫn tồn tại dai dẳng trong đầu anh như một cụm từ vô lý lặp đi lặp lại mãi không thôi. Anh thừa biết cụm từ ấy không chính xác nhưng rồi dần dà, dường như nó cũng có một ý nghĩa nào đó.

    Về Black, về White, về công việc mà anh được thuê làm, đến lúc này, Blue đã có thể đưa ra một vài giả thuyết. Không chỉ là cách giết thời giờ, anh phát hiện ra rằng hình dung ra những câu chuyện cũng là một thú vui. Anh cho rằng White và Black là hai anh em và có một khoản tiền lớn đang bị tranh giành - một khoản thừa kế hay một khoản đầu tư kinh doanh chẳng hạn. Có lẽ White muốn chứng tỏ Black là kẻ kém cỏi bất tài, muốn tống y vào một nơi quản chế nào đó rồi nắm lấy quyền cai quản toàn bộ gia sản. Nhưng Black lại quá thông minh, y hiểu mưu đồ ấy và tìm cách bỏ trốn, đợi đến khi nào tình hình bớt căng thẳng hơn. Một giả thuyết khác Blue đặt ra: White và Black là hai đối thủ, cả hai ganh đua nhằm đạt được cùng một mục tiêu - giải quyết một vấn đề khoa học chẳng hạn - và White muốn Black bị theo dõi để chắc chắn rằng anh ta không bị đối thủ chơi xỏ. Một câu chuyện khác: White là một nhân viên của FBI hoặc một tổ chức gián điệp nào đó, có thể của nước ngoài, nuôi ý đồ phản nghịch; anh ta đang tiến hành một vụ điều tra ngoài lề mà không cần cấp trên của mình cho phép. Bằng việc thuê Blue làm việc cho mình, anh ta có thể giữ bí mật về cuộc điều tra đối với Black, đồng thời vẫn có thể thực hiện những nhiệm vụ bình thường của mình. Theo từng ngày, danh sách những câu chuyện đó lại tăng thêm, thỉnh thoảng Blue lại trở về câu chuyện ban đầu thêm thắt một vài chi tiết, cũng có khi anh lại bắt đầu một câu chuyện hoàn toàn mới. Những chuyện vụ án giết người hay những kế hoạch bắt cóc nhằm đòi những món tiền chuộc khổng lồ chẳng hạn. Từng ngày trôi qua, Blue nhận ra không có một kết cục nào cả cho những câu chuyện mà anh có thể nghĩ ra. Vì Black giống như một tờ giấy trắng, một lỗ hổng trong kết cấu của các sự vật mà bất cứ câu chuyện nào cũng có thể đem lấp vào lỗ hổng ấy.

    Song, Blue không trừu tượng hoá tình huống. Anh hiểu rằng hơn bất cứ điều gì khác, cái mà anh muốn biết là thực chất câu chuyện. Nhưng ở giai đoạn này, anh cũng hiểu cần phải có sự kiên nhẫn. Vì thế, từng chút một, anh bắt đầu bình tĩnh lại, mỗi ngày trôi qua, anh lại tự thấy mình hoà hợp hơn một chút với tình thế hiện thời, dần dần chấp nhận thực tế là mình đang phải đi một quãng đường dài.

    Điều không hay là ý nghĩ về cô bạn gái đôi lúc lại nhen lên phá vỡ tâm thái thanh thản đang dần xuất hiện ở Blue. Chưa bao giờ Blue thấy nhớ nàng đến thế nhưng đồng thời anh cũng có cảm giác mọi thứ sẽ không trở lại như cũ được nữa. Cảm giác ấy bắt nguồn từ đâu, Blue không rõ. Nhưng nếu mỗi lần nghĩ đến Black, đến căn phòng của mình, vụ việc mình đang theo đuổi, Blue thấy lòng nhẹ nhõm thì ngược lại, hễ khi nào ý nghĩ về người yêu xuất hiện, một cảm giác hoang mang lại xâm chiếm anh. Bất ngờ, sự bình tâm biến thành nỗi khổ sở, anh cảm thấy mình như đang rơi vào một cái hang tối nào đó, không có hy vọng tìm được lối ra. Gần như là ngày nào anh cũng định nhấc máy điện thoại gọi cho nàng với ý nghĩ rằng sự liên lạc sẽ phá vỡ nỗi ám ảnh này. Nhưng rồi mỗi ngày lại trôi đi và anh vẫn chưa gọi cho nàng. Cả điều này nữa cũng làm anh bứt rứt vì anh không thể nhớ đã có lần nào trong đời, mình lại phải làm một điều mà rõ ràng mình rất muốn làm với thái độ có vẻ miễn cưỡng như vậy không? Mình đang thay đổi, anh tự nhủ. Dần dà, mình đã không còn giống mình nữa. Suy nghĩ này giúp cho anh bớt lo âu phần nào nhưng cuối cùng nó chỉ để lại trong anh thứ cảm giác còn lạ lùng hơn cả trước đó. Mỗi ngày qua đi, anh càng cảm thấy khó dứt bỏ được hình ảnh người mình yêu trong đầu, đặc biệt là những lúc đêm về, giữa bóng tối căn phòng, anh nằm dài, mắt mở trừng, cố tái hiện lại cơ thể của nàng từng chút từng chút một, bắt đầu là hình ảnh của bàn chân và gót chân, thế rồi trí tưởng tượng của anh chạy lên chân, luớt dọc theo cặp đùi của nàng, trườn từ bụng lên vùng ngực của nàng, lang thang giữa vùng thịt da mềm mại của nàng, rồi lướt xuống phần hông, sau đó lại hướng lên phần lưng, cuối cùng chạm vào cổ nàng và lượn vòng quanh khuôn mặt tròn trịa và tươi tắn của nàng. Bây giờ nàng đang làm gì? Thỉnh thoảng anh tự hỏi mình như thế. Và nàng nghĩ gì về tất cả những chuyện này? Nhưng chưa bao giờ anh tìm được một câu trả lời thỏa đáng. Nếu như anh có thể nghĩ ra vô số câu chuyện phù hợp với những dữ kiện liên quan đến Black thì đối với người mình yêu, anh không thể hình dung được điều gì đang xảy ra với nàng, chỉ thấy một sự im lặng, mơ hồ và trống rỗng.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.07.2006 04:22:45 bởi Ct.Ly >
    #2
      meocon_thongminh93 25.07.2006 00:23:06 (permalink)
      Những bóng ma

      PAUL AUSTER

      Dịch giả:HẢI NGỌC



      KỲ 3
      Đã đến ngày phải viết bản báo cáo đầu tiên. Blue đã quá quen tay soạn thảo những bản báo cáo như vậy và chưa từng gặp phải một rắc rối nào. Phương pháp của anh là bám vào các biểu hiện lộ ra bên ngoài, miêu tả các sự kiện cứ như thể mỗi từ đều quy chiếu chính xác về sự vật được miêu tả, không đi quá xa vấn đề đang điều tra. Ngôn từ là trung giới của anh, là ô cửa sổ lớn đứng giữa anh và thế giới, và từ trước đến nay, chưa bao giờ chúng ngăn trở tầm nhìn của anh, thậm chí dường như chúng còn chưa bao giờ đứng chắn ở đó nữa. Cũng có đôi khi tấm kính cửa sổ làm một sự vật nho nhỏ nào đó bị nhoè mờ và anh phải lau chùi chỗ này chỗ kia của nó, nhưng một khi tìm được từ phù hợp, tất cả mọi thứ lại trở nên sáng rõ. Dựa vào những gì đã ghi chép trước đó trong sổ tay, xem xét kỹ lưỡng những ghi chép đó để nhớ lại sự việc và gạch chân dưới những nhận định đáng chú ý, anh cố gắng tạo ra một hệ thống mạch lạc, gạt bỏ những chi tiết thừa và tô đậm những ý chính. Trong tất cả những bản báo cáo mà anh đã viết từ trước đến giờ, hành động át hẳn sự giải thích. Chẳng hạn, về một đối tượng mà anh phải theo dõi, anh sẽ tường thuật lại như sau: Đối tượng đi bộ từ Khu Colombus đến Đại sảnh Carnegie. Không có ghi chú nào về thời tiết, không đề cập đến chuyện đường sá, không thử dò đoán đối tượng có thể đã nghĩ gì. Bản báo cáo chỉ gắn với những sự kiện đã được biết đến và có thể kiểm nghiệm, nó không cố vượt qua ngoài giới hạn này.

      Song khi đối diện với vụ Black, Blue nhận ra tình thế khó khăn của mình. Anh có ghi chép vào sổ tay nhưng khi nhìn lại xem mình đã viết gì trong đó, anh thất vọng vì thấy các chi tiết mình nắm bắt được cực kỳ ít ỏi. Cứ như thể ngôn từ của anh thay vì rút ra được những sự thật và sắp xếp chúng lại một cách ngay ngắn thì lại chỉ làm cho chúng mất hút. Điều này trước đây chưa bao giờ xảy ra với Blue. Anh nhìn ra ngoài phố, vẫn thấy Black đang ngồi viết như mọi ngày. Cả Black lúc đó cũng đang nhìn ra cửa sổ và Blue hốt nhiên thấy mình không thể phụ thuộc vào phương pháp làm việc cũ được nữa. Những manh mối, việc đeo bám, cung cách điều tra thông thường – tất cả đều không còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng khi anh cố tưởng tượng xem vậy thì có thể thay thế những cách này bằng cách nào khác, anh lại chẳng đi đến đâu cả. Tại thời điểm này, Blue chỉ có thể phỏng đoán vụ việc này không phải là gì mà thôi . Còn khẳng định nó là gì thì lại vượt ra ngoài khả năng của anh.

      Blue đặt máy chữ lên bàn và cố nghĩ ra vài ý tưởng nào đó, ép mình vào công việc trước mắt. Anh nghĩ có lẽ một bản báo cáo trung thực về tuần vừa rồi phải bao hàm cả vô số những câu chuyện về Black mà anh đã thêu dệt nên. Với quá ít những điều để có thể báo cáo, những câu chuyện tưởng tượng đó ít nhất cũng gợi ra cảm giác về những gì đã xảy ra. Nhưng Blue chặn ngay ý nghĩ đó lại, anh nhận ra những điều đó thật sự không dính dáng gì đến Black cả. Xét cho cùng, đó không phải là câu chuyện về đời mình, anh nói. Mình phải viết báo cáo về y, chứ không phải mình.

      Tuy nhiên dường như có một sự cám dỗ khó dứt cứ lởn vởn trong đầu Blue và anh phải mất một lúc tự đấu tranh với chính mình trước khi đẩy lùi cám dỗ đó. Anh bắt đầu lại công việc, tìm cách tháo gỡ khó khăn, từng bước một. Sau khi quyết định làm chính xác những việc mà anh được yêu cầu, anh cẩn thận soạn bản báo cáo theo phong cách cũ, ghi chú mỗi chi tiết với sự cẩn thận và chính xác thái quá đến nỗi phải mất đến mấy tiếng đồng hồ, anh mới hoàn thành bản báo cáo. Khi đọc lại kết quả, anh phải thừa nhận mọi thứ dường như đều chính xác. Nhưng sao anh lại thấy không thoả mãn, không yên tâm về những điều mình đã viết? Anh tự nhủ: điều đã xảy ra không thật sự là chính nó. Bao nhiêu năm viết báo cáo, lần đầu tiên anh phát hiện ra rằng ngôn từ không phải lúc nào cũng hiệu quả, nó có thể làm mờ đục những điều mà nó cố biểu đạt. Blue nhìn quanh phòng mình, chú ý đến những sự vật khác nhau, lần lượt từng thứ. Anh nhìn cây đèn bàn và nói một mình: cây đèn bàn. Anh nhìn cái giường và nói một mình: cái giường. Anh nhìn cuốn sổ tay và nói: sổ tay. Không thể gọi cái đèn là cái giường hay gọi cái giường là cái đèn được, anh nghĩ. Không, những từ này trùng khít với sự vật mà nó thay thế, và lúc Blue gọi tên những sự vật này, anh cảm thấy rất thoả mãn, tựa hồ như anh vừa mới chứng minh được sự hiện hữu của thế giới vậy. Rồi anh lại nhìn ra ngoài phố và cửa sổ căn phòng của Black. Bây giờ đã khuya rồi và Black đang ngủ. Đó là vấn đề, Blue tự nhủ, cố gắng lấy lại một chút can đảm. Chỉ có thế, không còn điều gì khác nữa. Y ở đó nhưng không thể nhìn thấy y được. Và kể cả mình nhìn thấy được y đi nữa thì cũng giống như là nhìn vào một căn phòng đã tắt đèn mà thôi.

      Anh cho báo cáo của mình vào một chiếc phong bì, dán lại , đi ra ngoài, đến góc phố và thả nó vào thùng thư. Mình có thể không phải là kẻ thông minh nhất trên thế giới, anh nói với chình mình, nhưng mình đã cố gắng hết sức, mình đã cố gắng hết sức.

      Sau đó, tuyết bắt đầu tan. Buổi sáng hôm sau, mặt trời chiếu rạng ngời, trên những vòm cây ríu rít tiếng bầy sẻ, Blue có thể nghe thấy tiếng nước nhỏ từ máng nước trên mái nhà, từ cành cây, cột đèn xuống rất vui tai. Thật bất ngờ, dường như mùa xuân đã đến rất gần. Chỉ một vài tuần nữa thôi, anh tự nhủ, và buổi sáng hôm nào cũng sẽ đẹp như thế này.

      Tranh thủ ngày đẹp trời, Black dạo chơi xa hơn mấy ngày trước đó và Blue bám theo . Như được giải toả tâm trạng, Blue lấy lại khí thế làm việc và nhìn Black vẫn đang thong dong trên đường, Blue hy vọng cuộc dạo chơi này sẽ không chấm dứt trước khi anh có thể tháo gỡ được những nút thắt của vụ việc này. Hãy cứ hình dung Blue là một kẻ đi bộ bền bỉ và việc ruổi chân trên đường giữa một buổi sáng thế này đem đến cho anh ta một cảm giác khoan khoái. Khi họ đi qua những dải phố hẹp vùng đồi Brooklyn, Blue thấy phấn chấn hẳn lên vì Black vẫn tiếp tục đi xa hơn nơi mình đang ở. Nhưng đột nhiên, tâm trạng của Blue bỗng se lại. Black bắt đầu leo lên từng bậc cầu dẫn đến con đường dành cho người đi bộ phía bên kia cầu Brooklyn, và trong đầu của Blue thoáng hiện lên ý nghĩ: có thể y định nhảy xuống sông chăng? Có thể có chuyện đó lắm, anh tự nhủ. Một gã đàn ông leo lên cầu, nhìn một lần cuối cùng cái thế giới của y trong gió, trong mây thế rồi nhảy ùm xuống nước, xương cốt vỡ rạn, thân thể tan tành. Blue vội xua đuổi hình ảnh ấy, anh dặn mình phải khẩn trương. Nếu có chuyện gì xảy ra, anh quyết định, mình sẽ hành động như một người qua đường hoàn toàn vô tư để can thiệp kịp thời. Vì anh không muốn Black chết – ít nhất là chưa phải bây giờ.

      Đã bao nhiêu năm rồi, Blue mới lại đặt chân lên cầu Brooklyn. Lần cuối cùng anh lên cầu khi anh còn là một cậu bé, lần đó anh đi cùng cha mình, ký ức về ngày đó giờ đây lại sống dậy trong anh. Anh như thấy lại rõ hình ảnh mình đang nắm lấy bàn tay cha, đi bên cạnh ông và khi nghe thấy tiếng xe cộ đi lại phía dưới cây cầu bằng thép, anh nhớ mình đã nói với cha rằng những tiếng động ấy nghe như tiếng vo vo của một bầy ong khổng lồ vậy. Bên tay trái anh là tượng Nữ thần Tự Do, phía bên phải là khu Manhattan với những toà nhà sừng sững, dưới nắng sớm, chúng trông như những kỳ quan vĩ đại. Cha của anh là người biết rất nhiều câu chuyện, ông đã kể cho anh nghe câu chuyện về tất cả những tượng đài và những toà nhà chọc trời với vô số những chi tiết - về những kiến trúc sư, về ngày tháng, về những mưu đồ chính trị - và cả chuyện đã có từ thời cầu Brooklyn còn là công trình cao lớn nhất nước Mỹ nữa. Cha anh ra đời cùng thời điểm với năm cây cầu được hoàn thành và trong đầu Blue luôn xuất hiện mối liên hệ đó, đôi khi, cây cầu tựa hồ như một đài tưởng niệm về chính người cha của anh. Anh thích câu chuyện mà có một lần anh được nghe khi trên đường về nhà cùng cha, đi qua những tấm ván cầu bằng gỗ mà chính anh cũng đang dẫm lên lúc này, không hiểu sao anh không thể quên được câu chuyện đó. Câu chuyện kể về John Roebling, người thiết kế cây cầu, đã bị nghiến chân như thế nào khi chân ông bị kẹt giữa trụ cầu và một chiếc xà lan ngay sau khi hoàn thành đồ án của mình và chưa đầy ba tuần sau ông ta đã qua đời vì chứng hoại tử. Ông ấy đáng ra không phải chết, cha của Blue đã nói thế, nhưng phương pháp điều trị duy nhất ông ấy chấp nhận là ngâm chân, mà cách đó thì vô hiệu, và Blue thật sự bị ám ảnh bởi ý nghĩ: một người đã cống hiến cả đời để dựng nên những cây cầu bắc qua sông giúp cho bao người không phải chịu cảnh ướt át lại có thể tin rằng cách chữa chạy duy nhất là đem nhúng mình vào nước. Sau cái chết của John Roebling, con trai ông, Washington, đảm nhận chức tổng công trình sư và đó lại là một câu chuyện lạ khác. Washington Roebling, lúc đó, mới ba mươi mốt tuổi, chưa có kinh nghiệm gì đáng kể trong lĩnh vực xây dựng ngoài việc thiết kế những cây cầu gỗ thời Nội Chiến, nhưng ông tỏ ra còn xuất sắc hơn cả cha mình. Song, không lâu sau khi việc xây dựng cầu Brooklyn được khởi công, ông bị mắc kẹt vài tiếng đồng hồ trong một vụ hoả hoạn phát sinh từ một trong những chiếc giếng hơi ép, ông thoát chết nhưng bị mắc bệnh khí ép rất nặng, một căn bệnh trầm trọng do bọt khí ni-tơ tụ lại trong mạch máu. Sau tai nạn suýt chết đó, ông trở thành một người tàn phế, không thể đặt chân ra khỏi căn phòng trên tầng thượng của ngôi nhà mà ông và vợ đã xây dựng trên Đồi Brooklyn. Washington Roebling ngày nào cũng ngồi ở đó suốt bao năm ròng, quan sát việc xây dựng cây cầu thông qua một ống kính viễn vọng, mỗi sáng, ông lại cử vợ mình đem những chỉ dẫn của ông xuống chỗ đó, vẽ những hình ảnh màu rất tỉ mỉ để cho những người công nhân vốn không hề biết tiếng Anh hiểu được tiếp theo phải làm gì. Điều đáng chú ý là toàn bộ cây cầu thật sự đã nằm trong đầu ông: mỗi một khúc cầu đều đư ?khắc sâu trong trí nhớ của ông, thậm chí ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất như thép và đá, và mặc dù Washington Roebling chưa bao giờ đặt chân lên cầu nhưng nó đã hiện diện trong ông toàn vẹn, như thể cuối cùng, sau bao nhiêu năm, cây cầu đôi khi đã trở thành chính máu thịt của ông vậy.

      Giờ đây, Blue lại nhớ lại câu chuyện đó khi đang đi qua cầu, dõi theo Black ở phía trước, và những ký ức về người cha và thời thơ ấu ở Gravesend ùa về trong anh. Cha anh vốn là một cảnh sát, sau đó là thám tử ở hạt 77. Cuộc đời đã có thể tốt đẹp, Blue nghĩ như thế, nếu không xảy ra vụ Russo và ông không bị một viên đạn bắn xuyên qua não năm 1927. Hai mươi năm đã trôi qua rồi, anh nhủ thầm, lòng chợt bàng hoàng khi nghĩ đến khoảng thời gian đã trôi qua đó, anh băn khoăn không biết có thiên đường thật chăng, và nếu có, liệu anh có thể gặp lại cha ở đó sau khi mình chết không? Anh nhớ đến một câu chuyện nhặt ra từ một trong rất nhiều tờ báo mà anh đã đọc trong tuần, một tờ nguyệt san số mới có tên Lạ hơn cả chuyện bịa, không hiểu sao câu chuyện ấy lại hiện lên trong đầu anh sau tất cả những ý nghĩ vừa đến đó. Ở một nơi trên dãy Alps nước Pháp, anh nhớ lại, cách đây chừng hai mươi hoặc hai mươi lăm năm, có một người đàn ông bị lạc trong khi đi trượt tuyết và bị chết vùi trong một vụ lở tuyết, người ta không sao tìm được xác ông. Con trai ông ta, lúc đó hãy còn là một cậu bé, sau này lớn lên và trở thành một vận động viên trượt tuyết. Một hôm, anh đi trượt tuyết, tới chỗ không cách xa lắm so với nơi cha của anh bị mất tích - mặc dù anh không biết được điều này. Theo thời gian và sự thay đổi liên tục của các lớp băng qua các thập kỷ kể từ khi cha anh chết, vùng đất đó, lúc này, đã hoàn toàn đổi khác so với trước kia. Một mình giữa những rặng núi, cách xa hàng dặm với những người khác, cậu con trai bất chợt bắt gặp một xác chết vùi trong tuyết - một xác chết, hoàn toàn nguyên vẹn, cứ như thể nó được bảo quản bằng cách ướp lạnh vậy. Khỏi cần phải nói, chàng thanh niên dừng lại xem xét cái xác và khi cúi xuống nhìn vào khuôn mặt của người chết, anh sững sờ, sợ hãi bởi dường như anh đang nhìn thấy chính anh. Theo bài báo tả lại, anh ta đã run lên vì sợ, anh xem xét cái xác cẩn thận hơn, toàn bộ cái xác được bọc trong băng giống như là một người nào đó ở phía sau một mặt kính cửa sổ rất dày, và rồi anh phát hiện ra cái xác đó chính là thi thể của cha mình. Cha anh ta trông vẫn còn trẻ, thậm chí còn trẻ hơn chính anh ta lúc bấy giờ và còn Blue cảm thấy có điều gì đó thật đáng sợ, kỳ quặc và tệ hại khi người ta lại già hơn cả chính cha mình, và thật sự anh đã phải cố cầm nước mắt khi đọc bài báo đó. Bây giờ, khi anh đang đi đến gần cuối cầu, những cảm xúc đó lại quặn lên trong lòng, anh thầm ước với Chúa giá như bây giờ cha anh ở đây, cùng đi qua cầu với anh và kể chuyện cho anh. Thế rồi, sực nhớ mình đang làm gì, anh bỗng ngạc nhiên không hiểu sao mình lại trở nên đa cảm như vậy, tại sao tất cả những ý nghĩ này lại dội về trong anh, điều mà bao nhiêu năm trước đó chưa bao giờ xuất hiện. Một phần là do tình cảnh của mình lúc này, anh nghĩ và thấy bối rối bởi mình lại trở nên như vậy. Khi người ta không có ai để trò chuyện, người ta thường có cảm giác đó.

      Anh đã đi đến phía cuối cầu, đến lúc này, anh hiểu rằng mình đã sai khi phán đoán về Black. Hôm nay sẽ chẳng có vụ tự tử nào, cũng sẽ không có một vụ nhảy cầu hay một trò liều lĩnh nào cả. Đó, cái gã mà anh phải theo dõi đó, y vô tư và bình thản như bất cứ người nào khác, y đang đi xuống cầu về phía con đường dành cho người đi bộ và lang thang dọc theo con phố chạy quanh Toà Thị Chính, băng qua trụ sở toà án và những toà nhà khác của Hội đồng thành phố, chưa bao giờ y bước chân một cách uể oải cả, y tiếp tục xuyên qua khu người Hoa và các khu phố khác. Cuộc dạo chơi này kéo dài đến mấy tiếng đồng hồ và thật sự Blue có cảm giác Black đi lang thang như thế không nhằm một mục đích gì hết. Dường như y đi chỉ để cho nở phổi, đi chỉ vì khoái thú mà việc đi bộ đem lại, và càng bám theo hành trình của y, Blue phải thú nhận trong mình nhen lên một niềm cảm mến đối với y.

      Bây giờ Black đang vào một hiệu sách và Blue theo sát. Black ngó nghiêng sách vở chừng một tiếng đồng hồ và chọn ra một chồng sách, còn Blue, không biết làm gì hơn, cũng đành chọn sách vậy, trong lúc vẫn luôn phải tìm cách tránh để Black nhìn thấy mặt. Thoáng nhìn trộm Black những lúc có vẻ như y không nhìn thấy anh, Blue có cảm giác trước đây mình cũng đã trông thấy y rồi, nhưng không rõ ở đâu. Có thể mắt của mình có vấn đề, anh tự nhủ, nhưng đó là cảm nhận của anh, anh không muốn bận tâm về mình, cũng không thật sự chắc chắn liệu có điều gì liên quan đến cảm giác đó không.

      Một phút sau, Blue tình cờ bắt gặp cuốn Walden của Henry David Thoreau. Lướt qua vài trang, Blue ngạc nhiên khi phát hiện tên của người đứng ra xuất bản là Black: "Ấn bản Câu Lạc Bộ Cổ Điển, Tổ hợp xuất bản Walter J. Black, 1942." Blue như bị chấn động trong giây lát bởi sự trùng hợp ngẫu nhiên này, anh nghĩ có thể điều này ẩn chứa một thông điệp nào đó đối với anh, một ý nghĩ vụt hiện thôi cũng có thể tạo ra sự khác biệt. Nhưng sau phút ngỡ ngàng đó, anh nghĩ không phải vậy. Đó chỉ là một cái tên cũng khá phổ biến, anh tự nhủ - hơn nữa anh cũng biết rằng tên đầy đủ của Black không phải là Walter Black. Cũng có thể là họ hàng của y, hay thậm chí cha của y, anh bổ sung thêm cho suy nghĩ của mình. Sau một hồi đắn đo, anh quyết định mua cuốn sách này. Nếu không thể đọc những gì mà Black viết thì chí ít anh cũng đọc được những gì mà y đọc. Dựa vào điều này thì chỉ có thể rút ra được một phỏng đoán vu vơ mà thôi, nhưng biết đâu nó lại chẳng hé mở cho anh một vài đầu mối cho biết Black đang làm gì.

      Thế cũng tốt. Black trả tiền cho đống sách y mua, Blue trả tiền cho cuốn sách của mình và rồi cuộc dạo chơi lại tiếp tục. Blue vẫn cố chờ xem có một cái gì đó sẽ lòi ra vì chỉ cần Black sơ ý để lộ một manh mối nào đó khi đang đi trên đường thế này cũng có thể dẫn lối cho Blue tìm ra bí mật của y. Nhưng Blue quả đã quá ngây thơ khi tạo cho mình một ảo tưởng như vậy, đến lúc này, vẫn chưa có cách giải thích hợp lý nào cho những điều đã xảy ra. Song chỉ mới một lần, điều này vẫn chưa làm cho anh nản được. Thực ra, khi nhìn lại chính mình, anh nhận thấy xét cho cùng, điều đó còn làm anh thấy như có thêm sinh lực. Ở trong tình trạng mịt mùng như thế này cũng có cái hay, anh nghĩ, có một cảm giác rất hồi hộp khi ta không biết điều gì sẽ xảy đến tiếp theo. Nó khiến ta phải luôn tỉnh táo, linh hoạt và điều đó có hại gì đâu? Thận trọng và cảnh giác, chuẩn bị đầy đủ mọi thứ, sẵn sàng trước bất cứ chuyện gì.

      Nghĩ như vậy được một lúc thì cuối cùng cũng có một diến biến mới xuất hiện trước mắt Blue, vụ việc bắt đầu có bước ngoặt đầu tiên. Black rẽ vào một góc phố ở trung tâm thành phố, đi chừng đến nửa dãy phố, phân vân một lát, như thể đang tìm kiếm một địa chỉ nào đó, y quay ngược lại một đoạn, rồi lại đi tiếp, vài giây sau đó, y bước vào một nhà hàng. Blue cũng vào theo, anh không băn khoăn gì nhiều vì hành động của y vì thực sự cũng đã đến giờ ăn trưa, và người ta ai cũng phải ăn, nhưng có một điều không lọt khỏi mắt Blue: sự ngập ngừng của Black dường như cho thấy trước đó y chưa từng đến nơi này, do đó, suy ra, có thể Black có một cuộc hẹn. Đó là một chỗ khá tối nhưng cũng khá đông người, với một nhóm người tụ tập quanh quầy bar trước mặt, phía sau nhà đầy những tiếng lách cách, lọc xọc của những đồ bạc, bát đĩa. Nhà hàng này có vẻ đắt, Blue nghĩ thầm, khi nhìn những tấm gỗ lát tường và những tấm khăn trải bàn trong quán, anh quyết định phải cố chi tiêu thật ít. Bàn ăn được bày sẵn, Blue cho là một điểm hay khi ngồi ngay trong tầm mắt có thể kiểm soát được Black, không gần đến mức có thể gây khó chịu cũng không quá xa đến nỗi không quan sát được y làm gì. Black gõ tay ra hiệu xin hai thực đơn, và ba bốn phút sau, y tươi cười khi có một người phụ nữ bước vào trong quán, đi đến chỗ bàn của Black, hôn lên má y trước khi ngồi xuống. Cô nàng trông cũng được, Blue nghĩ. Hơi gầy một chút, theo quan niệm về phụ nữ đẹp của anh, nhưng trông rất được. Và anh nghĩ thầm: nào, bây giờ, phần thú vị của câu chuyện mới bắt đầu.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.07.2006 04:23:52 bởi Ct.Ly >
      #3
        meocon_thongminh93 25.07.2006 00:23:35 (permalink)
        KỲ 4
        Thật không may, người phụ nữ ngồi xây lưng lại với Blue vì thế anh không thể quan sát được gương mặt của cô ta trong bữa ăn. Anh ngồi ở bàn mình, ăn món thịt bò Salisbury, lòng thầm nghĩ, linh cảm đầu tiên của mình hoá ra lại đúng, đây là một vụ dính dáng đến tình ái. Blue đã hình dung xong những gì sẽ phải viết trong bản báo cáo tới đây của mình, trong anh có một nỗi khoái cảm khi ngẫm nghĩ những cụm từ mà anh sẽ sử dụng để miêu

        tả những gì anh đang nhìn thấy hiện giờ. Với sự xuất hiện thêm của một nhân vật nữa, anh biết mình phải đưa ra một số quyết định nào đó. Ví dụ: anh chỉ nên bám theo Black hay chuyển sang để tâm đến người phụ nữ này? Điều này có khả năng khiến vụ việc tiến triển hơn nhưng đồng thời điều đó cũng có nghiã Black có thể chớp lấy cơ hội để chuồn mất, có thể y sẽ trốn thoát mãi mãi. Nói cách khác, cuộc hẹn hò với người phụ nữ là một cách đánh lạc hướng hay là một cuộc hẹn hò thật sự ? Nó có phải là một phần của vụ việc này hay không, nó là một sự kiện tất yếu hay chỉ là ngẫu nhiên? Blue cân nhắc những câu hỏi này một lát và kết luận: bây giờ hãy còn qua sớm để có thể khẳng định điều gì. Đúng vậy, anh tự nhủ, nó có thể là thế này. Nhưng cũng có thể là thế kia.

        Đến chừng giữa bữa ăn thì hình như có chuyện gì không hay xảy ra. Blue nhận ra trên khuôn mặt của Black có một nỗi buồn sâu sắc, và trước khi phát hiện điều này, anh cũng có cảm giác dường như người phụ nữ đang bật khóc. Ít nhất, đó là những gì anh phán đoán được từ sự biến đổi bất ngờ trong tư thế của người phụ nữ: bờ vai của cô ta hạ thấp, đầu cúi xuống, hai tay có lẽ đang ôm mặt, lưng cô như khẽ run run. Cũng có thể cô ta bật cười thì sao, Blue tự vặn lại mình, nhưng nếu vậy sao Black lại trông khổ não đến như thế ? Cứ như thể đất đang sụp dưới chân y vậy. Một lát sau, người phụ nữ ngoảnh mặt đi khỏi Black, Blue bắt gặp khuôn mặt nhìn nghiêng của cô ta: rõ ràng cô ấy đã khóc, anh nghĩ thầm khi nhìn cô lấy khăn lau mắt, một vệt sáp tô lông mày quệt xuống gò má lấp lánh. Cô ta đột ngột đứng dậy và đi vào nhà vệ sinh nữ. Một lần nữa, Blue có thể quan sát Black mà không có gì chắn tầm mắt, anh nhận thấy nỗi buồn trên khuôn mặt y, khuôn mặt thể hiện một nỗi thất vọng tột cùng và dường như anh bắt đầu cảm thấy thương y. Ánh mắt của Black đang hướng về phía về Blue nhưng rõ ràng y chẳng để ý đến điều gì cả, và sau đó chỉ giây lát, y úp mặt trong tay. Blue cố đoán xem đã có chuyện gì xảy ra nhưng không đoán được. Có vẻ như chuyện của họ đã kết thúc rồi, anh nghĩ, tất cả những điều này gợi cảm giác về một điều gì đó đã chấm dứt. Nhưng cũng có thể đó chỉ là một xích mích nhỏ mà thôi.

        Người phụ nữ quay trở lại bàn, khuôn mặt trông có vẻ đã khá hơn một chút và hai người ngồi im lặng liền mấy phút, không ai nói năng gì, không đụng đến thức ăn. Thỉnh thoảng, Black lại thở dài, nhìn xa xăm đâu đó, và cuối cùng y gọi thanh toán bữa ăn. Blue cũng làm tương tự và đi theo hai người ra khỏi nhà hàng. Anh để ý thấy Black khoác tay người phụ nữ nhưng đó có thể chỉ là phản xạ tự nhiên, anh tự nhủ, và không có ý nghĩa gì cả. Họ đi trong im lặng, và đến cuối phố, Black vẫy một chiếc tắc xi. Y mở cửa xe cho người phụ nữ bước, và trước khi cô ta bước vào, y khẽ vuốt nhẹ má cô. Cô nở một nụ cười lịch thiệp đáp lại nhưng họ vẫn không nói một lời nào. Rồi cô ngồi xuống ghế sau, Black đóng cửa xe lại và chiếc xe rời bánh.

        Black đi lòng vòng thêm một lát nữa rồi y dừng lại một lúc trước văn phòng đại lý của một hãng du lịch, ngắm nghía tấm ảnh quảng cáo chụp hình dãy núi White, sau đó y bắt một chiếc tắc xi. Blue lại gặp may, vài giây sau, anh đã kiếm được một chiếc tắc xi khác. Anh bảo người lái xe bám theo xe của Black, rồi anh ngồi ở ghế sau quan sát trong khi hai chiếc xe màu vàng chầm chậm chạy xuyên qua dòng lưu thông, băng qua cầu Brooklyn và cuối cùng đến phố Orange. Blue ngỡ ngàng vì lộ trình của chuyến xe, anh thấy mình thật ngu ngốc khi không bám theo người phụ nữ. Đáng ra, anh phải biết rằng Black chỉ đi về nhà mà thôi.

        Tâm trạng của anh khá phấn chấn khi anh bước vào khu nhà của mình và nhận được một lá thư trong hộp thư. Chỉ có thể là một thứ, anh tự nhủ và đinh ninh như vậy, lúc anh bước lên cầu thang và mở phong bì, quả là thế: tấm ngân phiếu đầu tiên, một phiếu giấy chuyển tiền qua bưu điện đúng với mức đã thoả thuận với White. Tuy nhiên, anh thấy hơi khó hiểu một chút, vì cách trả tiền này không tiết lộ danh tính người gửi. Tại sao White không trả bằng chi phiếu cá nhân? Câu hỏi này khiến Blue nhen lên ý nghĩ: White thực chất là một tay phản gián, y muốn che giấu những dấu vết của mình và do đó, y không muốn chuyện chi trả số tiền này bị lộ ra. Rồi bỏ mũ, cởi áo và nằm dài trên giường, Blue bỗng cảm thấy hơi thất vọng vì không nhận được một lời nhận xét nào về bản báo cáo. Nghĩ đến mình đã phải vất vả như thế nào với nó, anh thấy mình đáng được nhận một lời động viên. Việc White chỉ gửi tiền đến mà thôi không có nghĩa là White không hài lòng. Nhưng im lặng cũng không phải là một sự hồi âm làm anh thoả mãn, bất kể nó mang ngụ ý gì đi nữa. Nếu cung cách của vụ việc này phải là như thế, Blue nói với chính mình, thì mình cũng đành phải tập làm quen với điều đó vậy, biết làm sao.

        Rồi những ngày tiếp theo lại trôi qua, mọi thứ một lần nữa lại chỉ là những công việc thường lệ tẻ nhạt nhất. Black đọc, viết, đi mua sắm ở gần nhà, đến bưu điện, thỉnh thoảng lại đi dạo chơi. Người phụ nữ nọ không thấy xuất hiện trở lại, và Black cũng không lần nào đi quá khu Mahattan nữa. Blue bắt đầu nghĩ rằng bất một ngày nào trong lúc này, anh sẽ nhận được một bức thư thông báo vụ việc đã kết thúc. Người phụ nữ đã đi rồi, anh suy luận, và đó có thể là dấu chấm hết cho vụ này. Nhưng chẳng có chuyện gì đại loại như thế xảy ra cả. Bản báo cáo miêu tả tường tận cảnh tượng trong nhà hàng hôm vừa rồi không nhận được một phản ứng nào từ White, và hàng tuần những tấm ngân phiếu vẫn được đều đặn chuyển đến đúng hẹn. Quá đủ cho chuyện tình, Blue tự nhủ. Người phụ nữ đó chẳng bao giờ có một ý nghĩa gì. Cô ta chỉ là một trò nghi binh được bày ra mà thôi.

        Trạng thái tinh thần của Blue, ở thời kỳ đầu này, có thể nói là đầy mâu thuẫn, nhập nhằng. Có những lúc anh cảm thấy hoàn toàn hoà đồng với Black, ăn ý hết sức tự nhiên với người đàn ông này đến mức để có thể đoán trước những gì Black định làm, biết được khi nào y sẽ ngồi trong phòng, khi nào y đi ra ngoài, Blue chỉ cần nhìn vào chính mình mà thôi. Thậm chí, có khi, cả ngày trôi qua, anh chẳng buồn bận tâm nhìn ra cửa sổ hay bám theo Black ngoài đường nữa. Thỉnh thoảng, anh còn tự cho phép mình được đi chơi một mình bởi biết rõ rằng cả khoảng thời gian ấy, Black sẽ chẳng hề nhích chân ra khỏi phòng của y. Làm sao anh có thể biết được điều ấy, đó vẫn là một thứ gì đấy còn bí ẩn đối với chính anh, nhưng rõ ràng trên thực tế phán đoán của anh chưa bao giờ nhầm và khi cảm giác này đến trong anh, anh cảm thấy không có chút hồ nghi, lưỡng lự nào hết. Nhưng mặt khác, không phải lúc nào cũng như vậy. Có những lúc, anh cảm thấy hoàn toàn xa cách với Black, như thể bị cắt lìa khỏi y một cách thẳng thừng, tuyệt đối đến nỗi anh bắt đầu đánh mất cảm giác mình là ai. Sự cô độc phong kín anh, giam anh lại và cùng với điều đó là một nỗi sợ hãi còn tồi tệ hơn bất cứ điều gì anh từng biết. Điều làm anh bối rối là anh phải thay đổi quá nhanh chóng từ trạng thái này sang trạng thái kia, và một thời gian dài, anh cứ luân chuyển từ thái cực này đến thái cực khác, không biết cái gì là đúng, cái gì là sai.

        Sau một chuỗi ngày tồi tệ, anh bắt đầu nghĩ đến việc tìm sự giúp đỡ từ bạn bè. Anh ngồi xuống viết một lá thư thật chi tiết gửi cho Brown, tóm tắt lại vụ việc và xin lời khuyên từ ông ấy. Brown đã về nghỉ hưu tại Florida, nơi đó ông dành hầu hết thời giờ của mình để câu cá, và Blue cũng biết rằng phải chờ một thời gian mới nhận được hồi âm. Thế nhưng, sau ngày gửi bức thư đi, anh đã bắt đầu mong ngóng nhận thư hồi âm với một niềm háo hức để rồi sự háo hức đó lại sớm biến thành nỗi ám ảnh. Mỗi sáng, khoảng độ một tiếng trước giờ thư được chuyển đến, anh trồng mình bên cửa sổ, đợi người bưu tá vòng qua góc phố và xuất hiện trước mặt, anh trông chờ tất cả vào những gì mà Brown sẽ nói với anh. Không rõ anh chờ đợi gì ở lá thư. Blue thậm chí không đặt câu hỏi, nhưng chắc chắn đó phải là một cái gì rất đặc biệt, những lời lẽ có tính chất khai thị và khác thường, có thể mang anh trở lại với thế giới của sự sống.

        Mỗi ngày trôi qua, vẫn không có lá thư nào của Brown, nỗi thất vọng của Blue biến thành một sự tuyệt vọng đau đớn vô lý. Nhưng không gì có thể sánh được với cảm giác của anh khi lá thư cuối cùng cũng đến. Vì thậm chí Brown còn chẳng thèm đếm xỉa gì đến những gì mà Blue viết. Thật vui khi nhận được thư của anh, lá thư mở đầu như vậy, và thật vui khi biết anh làm việc tích cực đến thế. Vụ này nghe có vẻ lý thú đấy. Tuy nhiên, không thể nói là ta còn chút nào nhớ nhung đến công việc ấy nữa. Giờ ta đang sống một cuộc sống rất thoải mái - sáng dậy sớm, câu cá, thỉnh thoảng để thì giờ chuyện trò với vợ, đọc một chút, ngủ dưới nắng mặt trời, không có gì để phàn nàn cả. Điều duy nhất mà ta không hiểu là tại sao bao năm trước đây ta lại không chuyển về sống ở nơi này.

        Lá thư cứ kể lể với giọng điệu như vậy đến vài trang giấy, không một lần nào đụng đến vấn đề khiến Blue phải khổ sở, lo lắng lúc này. Blue có cảm tưởng như bị phản bội bởi con người mình từng có lần coi như cha, và khi đọc xong bức thư anh cảm thấy trống rỗng, mọi thứ ấy chẳng có chút ý nghĩa nào đối với anh cả. Mình phải tự thân vận động thôi, anh nói với mình, không có ai để dựa dẫm cả. Điều này khiến Blue ngã lòng và tủi thân suốt mấy tiếng đồng hồ, và một đôi lần, Blue nghĩ, tốt hơn là anh nên chết quách đi cho xong. Nhưng cuối cùng thì anh cũng thoát khỏi trạng thái u ám đó. Vì Blue vốn là người có tính cách cứng cỏi, ít khi để cho những ý nghĩ tối tăm đánh quỵ và nếu có lúc nào anh nghĩ rằng thế giới này là một nơi điên rồ, ai có thể có quyền trách cứ anh chứ? Đến khoảng giờ ăn tối, tâm trạng của anh đã bắt đầu sáng sủa hơn rồi. Có lẽ, đây là biệt tài lớn nhất của anh: không phải là anh không biết tuyệt vọng, nhưng chưa bao giờ anh tuyệt vọng quá lâu cả. Xét cho cùng, đó có thể là một điều hay, anh tự nhủ. Tự thân vận động có thể sẽ tốt hơn là phụ thuộc vào một ai đó. Blue nghĩ lại về mình một lát và quyết định phải khẳng định rõ điều này. Anh không còn là thợ học việc nữa. Trên anh không có ông thầy nào cả. Mình không phụ thuộc vào ai hết, anh tự nhủ. Mình không phụ thuộc vào ai hết, mình chẳng phải chịu trách nhiệm với ai khác ngoài mình.

        Được thúc đẩy bởi ý nghĩ mới này, anh nhận thấy cuối cùng mình cũng tìm được can đảm để liên lạc với cô vợ tương lai của mình. Nhưng khi anh nhấc điện thoại và quay số máy của cô thì không có tín hiệu trả lời. Đó là một điều đáng thất vọng nhưng anh không buồn nản. Để khi khác mình sẽ gọi lại, anh nói. Sẽ sớm thôi.

        Từng ngày vẫn tiếp tục qua đi. Cuộc sống của Blue lại ăn nhịp với Black, thậm chí còn có vẻ hoà điệu hơn cả trước đó. Ở trạng thái đó, anh bỗng phát hiện ra sự nghịch lý cố hữu của tình huống mà mình rơi vào. Càng cảm thấy gần với Black bao nhiêu, anh lại càng cảm thấy ít cần thiết phải nghĩ ngợi về y bấy nhiêu. Nói khác đi, càng dấn sâu vào vụ này, anh lại càng cảm thấy tự do hơn. Trở ngại đối với anh không phải là việc thâm nhập vào đời sống của y mà là những khi y cách biệt với anh. Vì chỉ những khi Black dường như rời xa anh, anh mới phải đi ra ngoài theo dõi y, việc này vừa mất thời gian vừa mất sức, nói đó là sự chiến đấu cũng không hẳn đã quá lời. Thế nhưng, những lúc thấy gần gũi với Black nhất, anh lại có cảm giác mình đang sống một cuộc sống độc lập. Thoạt đầu, anh chưa cho phép mình làm việc gì quá táo bạo, song ngay cả khi ấy, anh vẫn xem đây như một thắng lợi, thậm chí một hành động dũng cảm. Chẳng hạn, anh có thể cho phép mình đi dạo lòng vòng trong khu phố. Hành động đó có thể rất nhỏ nhặt nhưng nó đem đến cho anh niềm vui, khi lang thang trên phố Orange giữa tiết trời mùa xuân dễ chịu, anh thấy mình như được sống lại với một cảm giác mà bao năm rồi anh không cảm thấy. Ở đầu bên này khu phố là dòng sông, là bến cảng, là khu nhà chọc trời Mahattan, là những cây cầu. Trong mắt Blue, tất cả cảnh tượng này thật tuyệt vời, thậm chí có những ngày Blue còn tự cho phép mình ngồi lại nhiều phút trên những chiếc ghế băng, ngắm những con thuyền. Đầu bên kia là nhà thờ, thỉnh thoảng Blue lại đến vuông cỏ nhỏ ở đó ngồi lặng một lúc, chiêm ngưỡng bức tượng Henry Ward Beecher bằng đồng. Hai người nô lệ níu lấy chân ông như thể cầu xin ông giúp đỡ họ, giải phóng cho họ, và phía sau bức tường gạch có một bức phù điêu Abraham Lincoln bằng sứ. Trước những hình ảnh này, Blue bao giờ cũng thấy như được truyền thêm cảm hứng. Mỗi lần đến sân nhà thờ, đầu óc anh đầy ắp những ý nghĩ cao cả về giá trị của con người.

        Dần dần, anh càng mạnh dạn tách mình khỏi Black hơn. Đó là năm 1947, năm mà Jackie Robinson bắt đầu thi đấu cùng với đội Dodgers và Blue rất quan tâm theo dõi phong độ thi đấu của anh ta, anh nhớ đến khoảng sân nhà thờ và biết rằng đối với nơi này, còn có nhiều điều có ý nghĩa hơn là môn bóng chày. Vào một buổi chiều thứ ba trong tháng năm, tiết trời sáng sủa, Blue quyết định đến sân Ebbetts và khi bỏ lại Black trong căn phòng của y ở phố Orange, mặc kệ cho y cứ ngồi hý hoáy bên bàn với cây bút và đống giấy tờ như thường ngày, Blue thấy không có lý do gì để lo lắng cả, anh chắc chắn mọi thứ sẽ vẫn như cũ khi anh trở về. Anh bắt xe điện ngầm, chen vai với đám đông, cảm thấy mình như đang lao theo một cảm giác nhất thời. Lúc ngồi ở sân bóng, anh thấy choáng ngợp trước vẻ trong trẻo sắc nét của những màu sắc xung quanh mình: thảm cỏ xanh, màu đất nâu, trái cầu trắng, bầu trời xanh trên cao. Mỗi sự vật đều khác hẳn với tất cả những sự vật còn lại, hoàn toàn riêng biệt và được định vị, và vẻ đơn giản về mặt địa hình của lối bài trí gây ấn tượng đối với Blue qua sức mạnh của nó.

        thứ đều có nét đặc trưng so với những sự vật khác, tất cả đều riêng biệt và xác định, sự đơn giản của biểu trưng được tạo nên bởi những hình kỷ hà học có một lực hấp dẫn đặc biệt với Blue. Theo dõi trận đấu, Blue hầu như không thể rời mắt khỏi Robinson, anh liên tục bị cuốn hút bởi gương mặt đen nhẫy của anh ta, lòng thầm nghĩ, phải can đảm lắm mới có thể hành động được như anh ta, một mình đương đầu với bao nhiêu kẻ xa lạ như thế, mà một nửa trong số bọn họ, chắc chắn, chỉ mong anh ta chết đi mà thôi. Trong khi trận đấu diễn ra, Blue thấy mình vỗ tay reo mừng trước bất cứ điều gì Robinson làm được, và ở lượt đánh thứ ba, khi chàng da đen ghi điểm, anh đã nhảy dựng lên, và sau đó, sang hiệp bảy, khi Robinson đánh trái cầu bay qua khỏi tường chắn bên trái, Blue đã đấm thùm thụp vào lưng người ngồi bên cạnh anh vì sung sướng. Hiệp chín, đội Dodgers giành phần thắng chung cuộc với cú liều mình bắt trái cầu, và khi Blue rẽ đám đông ra về, anh thấy chưa một lần nào ý nghĩ về Black gợn lên trong đầu anh cả.

        Nhưng những trận đấu bóng mới chỉ là màn mở đầu. Có những đêm, khi Blue chắc chắn rằng Black sẽ chẳng đi đâu hết, anh chuồn ra ngoài, đến một quán bar không cách xa nhà lắm để uống một vài cốc bia, chuyện trò vui vẻ một đôi lần với người phục vụ quầy bar có tên là Red, ông này giống hệt Green, người phục vụ quầy rượu trong vụ Gray xảy ra cách đây đã lâu. Một ả gái làng chơi tóc tai xoã xượi có tên Violet cũng thường xuyên đến quán rượu này, và một vài lần, Blue ngà ngà say và được ả đưa về nơi ả đang ở cũng gần gần đó. Anh biết cô ả thích anh vì chưa bao giờ cô đòi anh phải trả tiền cho những "chuyện ấy", nhưng anh cũng biết điều đó chẳng có dính dự gì đến tình yêu. Cô ả gọi anh là "cưng", thân thể ả cũng mềm mại và đầy đặn nhưng cứ hễ khi nào quá chén một chút là cô ả lại khóc và Blue lại phải dỗ dành, an ủi, và anh thầm tự hỏi có đáng phải làm như vậy không. Anh ít cảm thấy hối hận với cô vợ tương lai của mình về chuyện này, bởi anh biện minh cho việc quan hệ với Violet bằng cách so sánh mình với một người lính phải chiến đấu ở một đất nước khác. Thằng đàn ông nào chẳng cần thoải mái một chút, nhất là khi chỉ ngay ngày mai thôi có thể mình đã tới số rồi. Hơn nữa, mình cũng đâu phải là gỗ đá, anh tự biện hộ cho mình như vậy.



        #4
          meocon_thongminh93 25.07.2006 00:24:07 (permalink)
          KỲ 5
          Tuy thế, Blue vẫn thường đi vòng qua quán rượu đến rạp chiếu bóng cách đó mấy dãy phố. Bây giờ mùa hè đang đến và căn phòng nhỏ của anh bắt đầu trở nên ngột ngạt, thế nên sẽ dễ chịu hơn nếu được ngồi trong một phòng lạnh, thưởng thức một bộ phim. Blue yêu phim ảnh, không phải chỉ vì truyện phim hấp dẫn hay vì những phụ nữ đẹp trong phim, mà còn bởi chính bóng tối trong rạp, bởi những hình ảnh lúc hiện trên màn bạc có cái gì đó giống như sự xuất hiện của những ý nghĩ trong đầu anh mỗi khi nhắm mắt lại. Anh ít khi quan tâm đến loại phim mà mình xem, chẳng hạn, không cần biết đó là phim hài hay phim bi, phim đen trắng hay phim màu. Nhưng anh có một hứng thú đặc biệt đối với những bộ phim trinh thám, bởi chúng có một mối liên hệ tự nhiên với anh, và bao giờ anh cũng bị cuốn hút bởi những câu chuyện trinh thám hơn những câu chuyện khác. Thời gian này, anh xem đến mấy bộ phim như thế, phim nào cũng thấy hay: Thiếu phụ bên hồ, Thiên thần sa ngã, Hẻm tối, Thể xác và linh hồn, Trên lưng con ngựa hồng, Liều mạng...vv. Song đối với Blue, có một bộ phim vượt trội hơn tất cả, anh cực kỳ thích thú đến nỗi ngay tối hôm sau anh lại đến rạp để xem lần nữa.

          Bộ phim có tên Thoát khỏi quá khứ với diễn viên chính là Robert Mitchum thủ vai một cựu thám tử tư, người đang cố tạo dựng cho mình một cuộc sống mới ở một thị trấn nhỏ dưới một cái tên khác. Anh ta có một cô bạn gái, một cô gái miền quê thuần hậu, tên Ann, và anh ta hiện đang điều hành một trạm bơm gas cùng với một cậu bé câm điếc phụ việc có tên là Jimmy, cậu bé này đặc biệt trung thành với anh. Nhưng quá khứ không buông tha Mitchum, và anh hầu như chẳng có cách nào để thoát khỏi nó. Nhiều năm trước đây, anh đã được người ta thuê để tìm Jane Greer, tình nhân của tên du đãng do Kirk Douglas đóng, nhưng khi tìm thấy cô ta thì anh và cô ta lại yêu nhau rồi cả hai cùng bỏ trốn để sống ở một nơi bí mật. Việc này lại dây dưa đến hàng loạt biến cố khác — tiền bị mất, một vụ giết người lại xảy ra — và cuối cùng Mitchum cũng nhận ra vấn đề, anh từ bỏ Greer, sau khi rốt cuộc đã hiểu bản chất sa đoạ của cô ả. Bấy giờ, anh ta đang bị Douglas và Greer tống tiền, họ muốn anh tham dự vào một vụ tội phạm mà anh hiểu vụ này chỉ là một sự sắp đặt, bởi khi hình dung được những gì đang diễn ra, anh biết bọn họ âm mưu gài anh vào một vụ giết người khác. Một câu chuyện phức tạp mở ra, thuật lại nỗ lực tuyệt vọng của Mitchum để thoát khỏi cái bẫy đó. Có một dạo, anh trở lại thị trấn nhỏ nơi mình đang sống, nói với Ann rằng anh vô tội, và một lần nữa anh thuyết phục nàng tin vào tình yêu của mình. Nhưng, thật sự đã quá muộn, và Mitchum biết rõ như thế. Cuối cùng, anh thuyết phục Douglas tố cáo Greer về vụ giết người mà cô ả là thủ phạm, nhưng ngay lúc đó, Greer bước vào, lẳng lặng rút ra một khẩu súng lục và giết chết Douglas. Cô ta nói với Mitchum rằng họ thuộc về nhau và anh, như định mệnh đã an bài, đành phải đi theo cô ta. Họ quyết định sẽ cùng nhau bỏ trốn khỏi xứ sở này, nhưng khi Greer đi thu xếp đồ đạc, Mitchum nhấc điện thoại gọi cho cảnh sát. Họ lên xe ô tô và tẩu thoát, nhưng mới được một đoạn, họ đã bị cảnh sát chặn đường. Nhận ra mình đã bị lừa, Greer rút súng ra khỏi túi xách và bắn chết Mitchum. Cảnh sát lập tức xả đạn vào chiếc xe và rốt cuộc thì Greer cũng bị bắn chết. Sau đó, bộ phim còn một cảnh nữa — buổi sáng hôm sau, tại thị trấn nhỏ vùng Bridgeport. Jimmy đang ngồi trên chiếc ghế dài bên ngoài trạm bơm gas và Ann đi đến và ngồi xuống bên cạnh cậu. Nói cho chị một điều, Jimmy, chị muốn biết điều này: có phải anh ấy bỏ trốn cùng cô ta hay không? Cậu bé nghĩ một lát, phân vân lựa chọn giữa một bên là sự thật và một bên là lòng thương người. Bảo vệ danh dự của bạn mình hay giải thoát cho cô gái là quan trọng hơn? Cậu bé quyết định một cách xuất thần. Nhìn vào mắt của cô gái, cậu gật đầu, ý muốn nói: phải, xét cho cùng thì anh ta yêu Greer. Ann vỗ vào cánh tay cậu bé cảm ơn rồi đi thẳng đến chố người bạn trai trước đây của cô, một anh chàng cảnh sát địa phương có bản tính thẳng thừng, người vốn luôn có ý khinh miệt Mitchum. Jimmy nhìn lại trạm bơm gas có treo tên của Mitchum trên đó, biểu thị một lời chào tạm biệt thân ái rồi bỏ đi, bóng cậu xa dần trên con đường. Cậu là người duy nhất biết được sự thật và cậu sẽ chẳng bao giờ kỊ nó ra.

          Suốt mấy ngày sau đó, câu chuyện này cứ trở đi trở lại trong đầu Blue. Thật là hay, anh nhận định, khi cuốn phim kết thúc với hình ảnh cậu bé câm điếc. Bí mật bị chôn vùi và Mitchum vĩnh viễn là một kẻ bị gạt bỏ, đến tận cả lúc chết. Mơ ước của anh ta quá đỗi giản dị: được trở thành một công dân bình thường trong một thị trấn bình thường của nước Mỹ, kết hôn với cô gái láng giềng, sống một cuộc đời bình lặng. Thật lạ, Blue nghĩ, cái tên mới mà Mitchum chọn cho mình lại là Jeff Bailey. Cái tên này rất gần với tên của một nhân vật khác trong một cuốn phim mà anh đã đi xem cùng cô vợ tương lai của mình hồi năm ngoái – George Bailey, nhân vật do James Stewart diễn xuất trong vở Đó là một cuộc sống diệu kỳ. Vở kịch đó cũng lại xoay quanh một thị trấn nhỏ của nước Mỹ, nhưng lại theo một điểm nhìn ngược lại: câu chuyện kể về những nỗi uẩn ức của một con người đã bỏ cả đời mình để cố gắng trốn chạy cuộc sống. Nhưng cuối cùng, anh ta nhận ra rằng cuộc sống của mình là một cuộc sống tốt đẹp, rằng anh đã luôn luôn sống theo lẽ phải. Nhân vật Bailey của Mitchum chắc chắn cũng không mơ ước gì hơn là được như nhân vật Bailey do Stewart đóng. Nhưng trong trường hợp của Mitchum thì cái tên Bailey chỉ là một cái tên giả, một sản phẩm đến từ một mơ ước không thành. Tên thật của anh ta là Markham – hoặc, theo lối phát âm của Blue thì cái tên đó nghe như là "mark him" (đánh dấu anh ta) vậy — và tất cả vấn đề là ở đó. Anh ta đã bị đánh dấu bởi quá khứ, và một khi điều này xảy ra, người ta chẳng thể làm được điều gì hơn. Một điều gì đó xảy ra, Blue nghĩ, và rồi nó cứ tiếp tục xảy ra mãi mãi. Nó chẳng bao giờ thay đổi được, cũng không bao giờ trở thành một cái gì khác. Blue bắt đầu cảm thấy bị ám ảnh bởi ý nghĩ này, bởi anh thấy nó giống như một lời cảnh báo, một thông điệp từ chính nội tâm mình, anh cố xua đuổi nó đi nhưng ý nghĩ tối tăm ấy vẫn không buông rời anh.

          Vì thế, cuối cùng, có một đêm, Blue sờ đến cuốn Walden. Đã đến lúc phải trở lại làm việc rồi, anh tự nhủ, nếu bây giờ anh không cố gắng, anh biết anh sẽ chẳng bao giờ cố gắng được. Nhưng, đọc cuốn sách này không phải là một việc đơn giản. Khi Blue bắt đầu đọc, anh có cảm giác như bị lạc vào một thế giới xa lạ. Bước lê đi giữa những đầm lầy và bụi gai, treo mình trên những sườn núi âm u và những tảng đá cheo leo, anh thấy mình giống như một tù nhân bị bắt giải đi, và ý nghĩ duy nhất nhen lên trong đầu là bỏ trốn. Anh mệt mỏi bởi ngôn từ của Thoreau và cảm thấy rất khó tập trung vào cuốn sách. Lướt qua tất cả các chương sách, đến chương cuối cùng, anh nhận ra mình không giữ lại được trong đầu một chút gì cả. Sao lại có người muốn bỏ vào rừng sống một mình? Trồng những cây đậu, không uống cà phê, không ăn thịt thì có ý nghĩa gì? Những đoạn miêu tả chim chóc tràng giang đại hải như vậy cốt để làm gì? Blue cứ nghĩ là anh sẽ được đọc một câu chuyện, hay chí ít một cái gì đó từa tựa một câu chuyện, hoá ra cả cuốn sách không có gì hơn những lời lẽ rỗng tuếch hay một bài diễn văn lan man chẳng nói được điều gì hết.

          Tuy nhiên, thật bất công nếu chê trách anh ta. Blue vốn chưa bao giờ đọc gì nhiều ngoài báo và tạp chí, và hồi còn nhỏ, thi thoảng anh cũng đọc một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu. Đã có trường hợp ngay cả những độc giả nhiều kinh nghiện và tinh tế cũng gặp khó khăn khi đọc Walden, và thậm chí chính Emerson đã có lần viết trong một bài báo rằng đọc Thoreau khiến ông cảm thấy căng thẳng và khổ sở. Điều đáng ghi nhận về Blue là anh đã không chịu bỏ cuộc. Ngày hôm sau, anh lại bắt đầu đọc một lần nữa, và lần đọc thứ hai này xem chừng bớt vất vả hơn lần đầu. Ở chương thứ ba, anh bắt gặp một câu văn dường như mách bảo cho anh một điều gì đó — Những cuốn sách cần phải được đọc với sự khoan thai và cẩn trọng như khi chúng được viết ra — và bất ngờ anh phát hiện ra mẹo đọc tác phẩm: phải đọc thật chậm, chậm hơn cách anh vẫn lướt qua những dòng chữ như trước kia. Trong một chừng mực nhất định, phép đọc này tỏ ra hiệu quả, và một số đoạn bắt đầu trở nên sáng rõ: những mô tả về quần áo ở đoạn mở đầu, trận chiến giữa loài kiến đỏ và kiến đen, cuộc biện luận phản đối sự làm việc. Nhưng, Blue vẫn thấy nhức đầu và mặc dù anh phải thừa nhận một cách tức tối rằng Thoreau có lẽ không hẳn đã ngớ ngẩn như mình nghĩ, anh bắt đầu thấy khó chịu với Black vì y bắt anh trải qua cuộc hành hạ này. Điều mà anh đã không biết là nếu anh có đủ kiên nhẫn để đọc cuốn sách này theo một tinh thần đọc đúng như nó đòi hỏi thì toàn bộ cuộc sống của anh đã bắt đầu thay đổi rồi, và dần dần anh sẽ hiểu đầy đủ về tình huống của mình, nghĩa là, hiểu rõ về Black, về White, về vụ việc, về tất cả mọi thứ liên quan đến bản thân anh. Nhưng trong đời, những cơ hội bị đánh mất bao giờ cũng nhiều không kém những cơ hội mà ta nhận được, và một câu chuyện không thể tồn tại được nếu nó chỉ dựa vào những cái đáng lẽ đã xảy ra. Vứt cuốn sách đi trong bực bội, Blue mặc áo khoác (giờ đã sang thu rồi) đi ra ngoài hít thở không khí. Anh đã không biết rằng đó chính là khởi đầu của sự kết thúc. Bởi lẽ có một điều gì đó sắp xảy ra, và một khi nó xảy ra, mọi thứ sẽ không còn như trước nữa.

          Anh lang thang đến khu Mahattan, rời khỏi Black còn xa hơn cả những lần trước đó, trút bỏ nỗi uẩn ức của mình bằng sự di chuyển, hy vọng khi cơ thể của mình mệt rũ ra thì tâm trí của mình được bình thản trở lại. Anh đi về hướng bắc, đầu óc miên man với những ý nghĩ, chẳng buồn để ý gì đến mọi thứ xung quanh mình. Đến phố 26 phía Đông, dây giày bên trái của anh bị tuột ra và chính lúc ấy, khi anh cúi xuống thắt nó lại, gập người lên một bên đầu gối, thì bầu trời đổ sụp xuống đầu anh. Vì người mà anh thoáng thấy đúng ngay lúc ấy chẳng ai khác là cô vợ tương lai của anh. Nàng đang đi trên phố, hai tay ôm vòng lấy cánh tay phải của một gã đàn ông mà Blue chưa từng gặp bao giờ, và nàng đang cười thật rạng rỡ, như thể bị hút hồn bởi những gì mà gã đàn ông kia nói. Trong giây lát, Blue lúng túng không biết nên cúi đầu xuống thấp hơn và tránh mặt đi đâu đó hay đứng lên chào hỏi người phụ nữ mà giờ đây anh hiểu — với một cái hiểu biết vừa bất ngờ vừa bất khả cứu vãn như cú đóng sầm một cánh cửa lại — rằng nàng sẽ chẳng bao giờ có thể trở thành vợ anh được nữa. Đến lúc này, Blue không biết chọn xử sự theo cách nào — thoạt đầu, anh cúi gằm mặt xuống để rồi ngay lập tức anh nhận ra mình muốn cô ta trông thấy mình, và khi thấy rằng nàng sẽ không nhìn thấy anh trong lúc đang say sưa thế kia với câu chuyện của người bạn trai đi cùng, đột nhiên Blue từ lề đường đứng dậy khi bọn họ chỉ cách anh chưa đến hai mét. Như thể có một bóng ma nào đó bất ngờ hiện hình ngay trước mặt cô ta, cô người yêu của của Blue hớp một hơi thở thảng thốt, thậm chí trước cả khi cô ta nhận ra bóng ma đó là ai. Blue gọi tên cô ta bằng một giọng nói dường như khác lạ với chính bản thân anh, và cô gái như đứng chết trân trên đường. Gương mặt cô lộ rõ một vẻ sửng sốt đến tột độ khi nhìn thấy Blue, và rồi, một cách nhanh chóng, nét mặt đó chuyển sang giận dữ.

          Trời ơi, anh. Nàng nói.

          Trước khi anh có cơ hội để nói được một lời thì nàng đã vùng ra khỏi vòng tay của gã tình nhân, đấm thùm thụp vào ngực anh, gào thét như điên dại trước mặt anh, kể hết tội lỗi ngu ngốc này đến tội lỗi ngu ngốc khác của anh . Tất cả những gì mà Blue có thể làm là lặp đi lặp lại tên nàng, như thể cố gắng một cách tuyệt vọng để phân biệt nàng, người phụ nữ mà anh yêu với con quái vật dữ tợn đang tấn công anh lúc này. Anh hoàn toàn không kháng cự, và trong lúc cuộc đánh chửi dữ dội tiếp diễn, anh bắt đầu có cảm giác đón nhận mỗi cú đấm của nàng như một sự trùng phạt thích đáng cho cách mà anh đã xử sự với nàng. Tuy nhiên, gã tình nhân mới của nàng kịp thời ngăn nàng lại, và mặc dù Blue định liều giáng cho gã một cú đấm, nhưng anh vẫn quá sững sờ để có thể ra tay đúng lúc, và trước khi anh nhận ra điều này, gã đã đưa cô vợ hụt đang nức nở của anh đi đến cuối con lộ và khuất sau góc phố, thế là chấm hết câu chuyện.

          Cảnh tượng ngắn ngủi, quá đỗi bất ngờ và tan nát đến thế khiến Blue như chết lặng. Đến khi lấy lại được bình tĩnh và về được đến nhà, anh nhận ra mình đã đem vứt đi cả cuộc đời mình rồi. Đó không phải là lỗi của cô ấy, anh tự nhủ, anh muốn nguyền rủa cô ta nhưng lại biết mình không thể. Có thể theo tất cả những gì cô ấy biết thì anh đã chết rồi, và làm sao anh có thể ngăn cản cô sống cuộc đời của mình được? Nước mắt Blue ngân ngấn, nhưng hơn cả sự nuối tiếc, anh thấy tức giận chính bản thân anh vì đã làm một thằng ngốc đến thế. Anh đã đánh mất tất cả những cơ hội để có được hạnh phúc mà lẽ ra đã thuộc về anh, và nếu thế, quả không hề sai khi nói rằng đây thực sự là đoạn mở đầu của phần kết thúc.

          Blue trở lại căn phòng của mình trên phố Orange, nằm vật xuống giường, và cố gắng cân nhắc những khả năng. Cuối cùng, anh ngước nhìn lên tường và bắt gặp tấm ảnh của Gold, ông thanh tra của thành phố Philadelphia. Anh nghĩ đến cái khoảng rỗng buồn bã của một vụ án chưa được tìm ra, đến đứa trẻ nằm dưới mồ không ai biết tên tuổi, và khi xem lại tấm mặt nạ cậu bé, trong anh, bỗng có sự chuyển hướng ý nghĩ. Có lẽ có những cách để tiếp cận Black, anh nghĩ, những cách mà không cần anh để lộ mình ra. Chúa biết là có những cách như vậy. Cần phải vận động, phải vạch ra các kế hoạch – có lẽ phải làm hai, ba việc cùng một lúc. Bất chấp những điều gì khác, anh dặn mình như vậy. Đây là lúc giở sang trang mới.

          #5
            meocon_thongminh93 25.07.2006 00:24:38 (permalink)
            KỲ 6
            Ngày kia là đến thời hạn nộp bản báo cáo tiếp theo, và vì vậy anh ngồi xuống bắt tay vào việc ngay bây giờ để kịp gửi nó đi đúng như lịch làm việc. Mấy tháng vừa qua, những bản báo cáo của anh đều hết sức mơ hồ, khoảng chừng một, hai đoạn, chỉ vạch được cái khung của sự kiện mà thôi, ngoài ra không có gì khác và lần này anh vẫn viết theo khuôn mẫu ấy. Tuy nhiên, ở cuối trang, anh có ghi thêm một nhận xét khó hiểu như là một phép thử, hy vọng sẽ khơi thêm một điều gì đó từ White chứ không chỉ sự im lặng: Black trông có vẻ đang lâm bệnh. Tôi e y có thể sắp chết. Rồi anh niêm bản báo cáo lại, tự nói với chính mình: đây mới chỉ là mở đầu.

            Hai ngày sau, Blue dậy sớm và chạy ngay đến bưu điện Brooklyn, một toà nhà có kiến trúc như một lâu đài vĩ đại có thể nhìn thấy được từ cầu Mahattan. Tất cả những báo cáo của Blue đều được gửi đến một hộp thư có số 1001 và anh giả bộ tình cờ đi đến chỗ đặt hộp thư đó, thong thả lượn qua nó, kín đáo liếc vào bên trong xem lá thư đã đến nơi chưa. Nó đã đến. Hay chí ít, có một lá thư trong đó, duy nhất một phong thư trắng nằm chếch 45 độ dưới đáy hộp — Blue không có lý do gì để nghi ngờ rằng có một lá thư nào khác ngoài lá thư của chính anh. Thế rồi anh tản bộ xung quanh khu vực đó, nhất quyết đợi đến khi nào White hay một người nào đó làm việc cho White xuất hiện, mắt anh luôn dán chặt vào bức tường lớn nơi đặt các hộp thư được gắn số, mỗi hộp thư có một ổ khoá số riêng, mỗi chiếc cất giấu một bí mật riêng. Người ta đến rồi đi, mở các hộp thư rồi lại đóng lại, và Blue cứ tha thẩn quanh khu này, thi thoảng lại dừng chân ở một vị trí ngẫu nhiên nào đó rồi lại đi tiếp. Mọi thứ đối với anh dường như đều mang màu nâu, như thể tiết trời mùa thu ngoài kia tràn vào bên trong bưu điện và không gian toả một mùi xì gà dễ chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ, anh đã bắt đầu thấy đói, nhưng anh cố kìm nén, anh tự dặn mình hoặc là bây giờ hoặc là không bao giờ, vì thế phải bám trụ bằng được ở đây. Blue chăm chú theo dõi bất cứ ai đến gần dãy đặt hộp thư, đặc biệt những kẻ lân la quanh hộp thư số 1001, nhận thức rõ nếu không phải là White đến lấy bản báo cáo thì việc này cũng có thể do bất kỳ ai khác làm – một bà già, một đứa trẻ, và vì thế, anh không được xem thường bất cứ chi tiết nào. Nhưng chẳng một khả năng nào trong số này xảy ra cả, bởi suốt buổi sáng không có ai đụng đến hộp thư này, và mặc dù Blue cứ từng chặp liên tục nghĩ ra những câu chuyện ứng với mỗi đối tượng đến gần, cố hình dung xem người đó có thể có liên hệ như thế nào với White hay Black, anh ta hay cô ta đóng vai trò gì trong vụ việc này, vân vân, nhưng rồi anh lần lượt phải loại bỏ từng câu chuyện, cho chúng vào quên lãng.

            Đến quá trưa, lúc bưu điện bắt đầu đông dần — một dòng người nhân giờ nghỉ trưa hối hả đến đây để gửi thư, mua tem, giao dịch linh tinh — có một người đeo mặt nạ bước qua khung cửa. Thoạt tiên, Blue không lưu ý đến anh ta, một phần bởi khi đó có quá nhiều người đi qua khung cửa ấy, nhưng lúc người đàn ông đó tách khỏi đám đông và bắt đầu bước về chỗ đặt những hộp thư gắn số, thì Blue nhìn thấy tấm mặt nạ — loại mặt nạ mà trẻ con thường đeo trong dịp lễ Hallowe'en, làm bằng cao su, có hình khuôn mặt một con quỷ gớm ghiếc nào đấy với những vết rạch hằn trên trán, đôi con ngươi đẫm máu và những chiếc răng nanh. Ngoại trừ chiếc mặt nạ, trông người đàn ông đó hoàn toàn bình thường (anh ta khoác bên ngoài một chiếc áo bành tô may bằng vải tuýt, quấn một chiếc khăn quàng màu đỏ quanh cổ), và Blue có linh cảm ngay người đằng sau tấm mặt nạ kia chính là White. Lúc người này tiếp tục bước về phía hộp thư 1001, linh cảm trong Blue lại càng mạnh mẽ hơn. Cùng lúc đó anh lại có cảm giác rằng người đàn ông ấy không thật sự hiện hữu ở đó, rằng cho dù anh biết rõ là mình đang nhìn thấy hắn, thật ra chỉ có anh là người duy nhất có thể thấy. Song, ở điểm này thì cảm giác của Blue đã sai, bởi khi người đàn ông đeo mặt nạ đó tiếp tục bước đi trên cái sàn nhà rộng lớn lót cẩm thạch, Blue nhận thấy một số người đã chỉ trỏ anh ta và cười — thế nhưng, điều này có khiến cho mọi chuyện trở nên tốt đẹp hơn hay tồi tệ đi không thì anh cũng không rõ. Người đàn ông đeo mặt nạ chạm vào hộp thư 1001, xoay ổ khoá số và mở hộp thư. Ngay khi Blue nhận ra đó chính xác là người mà anh đang cần, anh bắt đầu tiến đến về phía hắn, không thật sự chắc chắn mình sẽ làm gì với hắn, nhưng trong thâm tâm anh có ý định rõ ràng là phải tóm được hắn và lột tấm mặt nạ đó ra. Nhưng, người đàn ông ấy đã quá cảnh giác, và ngay khi nhét bức thư vào túi và khoá hộp thư lại, hắn vội liếc mắt ra xung quanh, thấy Blue đang đến gần, liền đánh tháo, chạy ra cửa thật nhanh. Blue đuổi theo, hy vọng sẽ túm được hắn từ phía sau và chặn anh ta lại nhưng ngay lúc đó, anh lại kẹt giữa đám đông qua lại chỗ cánh cửa ra vào và khi lách được qua đám đông thì nguời đàn ông đeo mặt nạ đã xuống hết cầu thang và ra đến vỉa hè, và chạy dọc theo con phố. Blue tiếp tục bám riết, thậm chí anh có cảm giác khoảng cách giữa mình và đối phương đang rút ngắn dần, nhưng khi người đàn ông ấy đến góc phố thì có một chiếc xe bus trờ ra và hắn bắt vội chuyến xe đó, Blue bị bỏ lại phía sau, miệng thở dốc và đứng ngây ra như một tên ngớ ngẩn.

            Hai ngày sau, Blue nhận được tấm ngân phiếu qua đường bưu điện, kèm với nó, cuối cùng, cũng có vài dòng của White gửi đến. Đừng đùa nữa, White chỉ viết có vậy, cho dù đó không hẳn là một lời nhắn nhe nhưng Blue cũng thấy vui mừng khi nhận được nó vì cuối cùng anh cũng phá vỡ được bức tường im lặng của White. Tuy vậy, anh không rõ phải chăng thông điệp của White ám chỉ đến bản báo cáo cuối cùng, hay ám chỉ sự việc xảy ra nơi bưu điện. Sau khi nghĩ đi nghĩ lại một hồi, anh thấy chuyện đó không quan trọng. Dù có thế nào đi nữa thì chìa khoá cho vụ việc này vẫn là hành động. Anh phải tiếp tục phá vỡ từng thứ ở bất cứ nơi nào có thể, một chút ở chỗ này, một chút ở chỗ kia, đẽo dần dần từng điểm hóc búa cho đến khi toàn bộ cấu trúc của chúng nứt rạn, cho đến khi toàn bộ công việc thối tha này sẽ đổ nhào xuống đất.

            Mấy tuần sau đó, Blue trở lại bưu điện vài lần, hy vọng có thể bắt gặp lại White lần nữa. Nhưng không có chuyện đó xảy ra. Khi thì bản báo cáo đã được lấy đi trước khi White đến đó, khi thì White không xuất hiện. Việc khu vực bưu điện này mở cửa 24 giờ mỗi ngày khiến Blue có rất ít sự lựa chọn. Bây giờ White đã biết được ý định của Blue và y sẽ không phạm sai lầm thêm lần thứ hai. Y chỉ đơn giản chờ tới khi nào Blue đi khỏi thì mới đến mở hộp thư, và trừ phi Blue sẵn sàng đem cả cuộc đời mình đến gác nơi bưu điện, anh không có cách nào khác để có thể rình bắt White lần nữa.

            Câu chuyện trở nên phức tạp hơn rất nhiều so với những gì Blue hằng tưởng tượng. Gần một năm trở lại đây, Blue luôn xem mình là một kẻ hoàn toàn tự do. Hay hoặc dở thế nào đi nữa thì anh vẫn làm công việc của mình, nhìn thẳng về phía trước và theo dõi Black, chờ đợi một khả năng nào đó mở ra, cố gắng bám theo nó, nhưng khi làm tất cả những việc đó, anh không hề mảy may nghĩ đến chuyện gì có thể đang diễn ra sau lưng mình. Giờ đây, sau sự việc xảy ra với người đàn ông đeo mặt nạ và tiếp đó là những trở ngại khác, Blue không biết nghĩ gì nữa. Anh có cảm giác rất rõ là chính anh cũng đang bị người khác theo dõi, quan sát trong cùng một cách mà anh đã và đang theo dõi, quan sát Black. Nếu đúng như thế thì chưa bao giờ anh tự do cả. Ngay từ ban đầu, anh đã là kẻ đứng ở giữa, bị chặn lại ở đằng trước và bị vây bủa từ phía sau. Khá kỳ cục là ý nghĩ này lại khiến anh nhớ đến mấy câu trong cuốn Walden, anh lục lại sổ tay của mình để xem nguyên văn chính xác là thế nào, chắc chắn là anh đã ghi chúng lại. Anh tìm ra nó: "Chúng ta không ở đúng chỗ của mình, mà ở vào một vị trí giả. Bởi bản chất yếu đuối của mình, chúng ta giả định một tình thế, và tự đặt mình vào đó, và vì thế chúng ta cùng lúc nằm trong hai tình thế, và sẽ khó gấp đôi để thoát ra."[1] Blue hiểu câu này, và mặc dù anh bắt đầu hơi sợ một chút, anh nghĩ có lẽ cũng chưa quá muộn để anh có thể làm được một cái gì đó trong tình huống này.

            Vấn đề thực sự bây giờ tóm lại chỉ còn là việc xác định đúng bản chất của chính tình thế nan giải này. Trước hết, ai là mối đe doạ lớn hơn đối với anh, là White hay Black? White vẫn tiếp tục duy trì giao kèo của y với Blue: hàng tuần những tấm ngân phiếu vẫn được gửi đến đúng hẹn, và nếu bây giờ anh phản lại y, Blue hiểu, như thế chẳng khác nào cắn lấy cái bàn tay đút thức ăn cho mình. Mặt khác, White chính là kẻ bày ra diễn biến của vụ việc này — đẩy Blue vào một căn phòng trống trơn, đúng là thế, rồi tắt đèn đi và khoá cửa lại. Thế là từ đó, Blue cứ phải mò mẫm trong bóng tối, sờ soạng tìm không ra cái công tắc bật điện, và trở thành một tù nhân của chính vụ việc này. Thì cũng được thôi, nhưng tại sao White lại làm một việc như thế ? Khi câu hỏi này nảy sinh trong đầu Blue, anh không biết nghĩ sao nữa. Đầu óc anh bị tê liệt, anh không thể nghĩ ngợi được một điều gì xa hơn.

            Rồi Black nữa chứ. Cho đến lúc này y chính là toàn bộ vấn đề, là nguyên nhân hiển nhiên của tất cả những phiền nhiễu cho Blue. Song nếu thật sự White muốn theo dõi Blue chứ không phải Black, thì có lẽ Black cũng chẳng có dính dấp gì vào việc này cả, có lẽ y chỉ là một kẻ ngoại cuộc vô hại. Trong trường hợp này, chính Black là kẻ chiếm lấy cái vị trí mà Blue vẫn tưởng là của mình suốt thời gian vừa qua, và Blue lại giữ vai trò của Black. Có một điều gì đó uẩn khúc trong chuyện này. Mặt khác, cũng rất có thể Black là đồng bọn với White và cả hai người cùng âm mưu gài Blue kẹt vào tình thế này.

            Nếu quả như vậy thì bọn họ đang làm gì đối với anh? Rốt cuộc chẳng có điều gì quá khủng khiếp cả — ít nhất cũng không đến nỗi như vậy, nếu xét cho kỳ cùng. Bọn họ đã đặt một cái bẫy đẩy Blue rơi vào tình huống không biết làm cái gì cả, hoàn toàn thụ động, để giảm thiểu sự sống của anh đến mức gần như không còn là cuộc sống nữa. Phải, Blue nhủ thầm, tình trạng này giống như vậy: một trạng thái hư vô. Anh thấy mình giống như một kẻ bị kết án phải ngồi im trong một căn phòng và đọc mãi một cuốn sách cho đến hết đời. Chỉ điều này thôi cũng đã đủ lạ lùng – khá lắm là dở sống dở chết, chỉ nhìn thấy thế giới thông qua những con chữ, chỉ sống qua sự sống của những kẻ khác. Song, nếu đó là một cuốn sách hay, có lẽ cuộc sống đó không hẳn đã tệ hại. Nghĩa là, anh có thể hoà mình vào câu chuyện, tạm cho là thế, và dần dà, có thể quên đi chính mình. Nhưng, cuốn sách này lại không đem đến cho anh một điều gì. Không có tình tiết, không có cốt truyện, không có hành động — không có gì ngoài một người ngồi một mình trong phòng và viết một cuốn sách. Tất cả chỉ có thế, Blue nhận ra, và anh không còn cần câu chuyện ấy một chút nào cả. Nhưng làm sao thoát ra khỏi nó được? Làm sao thoát ra khỏi căn phòng đó, căn phòng mà chính nó là cuốn sách sẽ tiếp tục được viết mãi cho đến chừng nào anh ta còn ở trong đó?

            Đối với Black, người tạm gọi là tác giả của cuốn sách này, Blue không còn tin vào những gì mình thấy được ở y nữa. Liệu có thể thực sự có một người chẳng làm cái gì cả, chỉ ngồi trong phòng và viết ? Blue đã bám theo y ở mọi nơi, đến tận những ngõ ngách xa xôi nhất, đã quan sát y chăm chú đến độ mắt anh dường như muốn loà đi. Ngay cả khi ra khỏi nhà, Black cũng cũng chẳng đi đến đâu cả, cũng chẳng có hoạt động gì đáng kể: mua thực phẩm, thỉnh thoảng cắt tóc, đến rạp chiếu bóng, vân vân. Nhưng, chủ yếu y chỉ đi lang thang quanh phố, quan sát những cảnh tượng lạ hay những sự việc ngẫu nhiên nào đó, nhưng ngay cả điều này cũng chỉ xảy ra thất thường. Có một dạo, y ngắm những toà nhà – y nghểnh cổ lên để liếc nhìn những mái nhà, xem xét lối ra vào, hay mân mê những lớp đá lát ở tiền diện toà nhà. Thế rồi, một đôi tuần, y đi ngắm những tượng đài công viên, hay ra bờ sông nhìn những con thuyền qua lại, hay quan sát những biển hiệu trên đường phố. Chỉ có vậy, không hơn, rất hiếm khi y nói năng với ai, và cũng không gặp gỡ ai khác ngoại trừ người phụ nữ đã khóc trong bữa ăn trưa đó cách đây cũng quá lâu rồi. Theo một nghĩa nào đó, Blue biết được tất cả những thứ có thể biết được về Black: y mua loại xà phòng nào, y đọc tờ báo nào, mặc bộ quần áo nào, và mỗi thứ anh đều ghi chép cẩn thận vào trong sổ tay. Anh biết được cả hàng nghìn chi tiết, song tất cả ngần ấy chi tiết ấy chỉ nói cho anh một điều duy nhất rằng anh chẳng biết gì hết. Bởi còn lại sự kiện là chẳng có điều gì khả hữu trong ấy. Thật bất khả để một con người như Black tồn tại trên đời.

            Bởi thế, Blue bắt đầu nghi Black không gì khác hơn là một trò đánh lừa, một trong những tay sai khác của White, được trả lương hàng tuần để ngồi trong căn phòng đó và không làm gì cả. Có lẽ tất cả việc viết lách kia chỉ là một cách trá hình – hết trang này đến trang khác chỉ là một bảng liệt kê từng tên người trong cuốn danh bạ điện thoại, chẳng hạn, hay từng chữ trong từ điển được chép lại theo hệ thống mẫu tự, hay một bản chép tay cuốn Walden. Hay có lẽ thậm chí đó không phải là những chữ, mà chỉ là những nét nguệch ngoạc vô nghĩa, những đường vạch ngẫu nhiên của một cây bút, một mớ tích luỹ của những điều vô nghĩa và nhập nhằng linh tinh. Nếu vậy thì White mới là tác giả thật sự — và Black, do đó, không gì khác hơn là kẻ đóng thế vai của y, một trò giả trang, một diễn viên không có nội dung riêng của mình. Rồi có những lúc, theo dòng suy nghĩ này, Blue tin rằng cách giải thích hữu lý duy nhất là Black không phải là một người mà do vài người đóng. Để diễn trò cho Blue xem, hai, ba hay bốn kẻ giống nhau thay phiên đóng vai Black theo khoảng thời gian đã được phân công cho mỗi người, rồi sau đó, từng người được trở về nhà nghỉ ngơi ấm áp. Nhưng, ý tưởng này quá đỗi kì quái nên Blue không nghĩ ngợi lâu. Nhiều tháng trời trôi qua, và cuối cùng, Blue gào lên với chính mình: Tôi không thở được nữa. Đây là kết thúc rồi. Tôi đang chết.



            #6
              meocon_thongminh93 25.07.2006 00:25:02 (permalink)
              KỲ 7
              Ngày kia là đến thời hạn nộp bản báo cáo tiếp theo, và vì vậy anh ngồi xuống bắt tay vào việc ngay bây giờ để kịp gửi nó đi đúng như lịch làm việc. Mấy tháng vừa qua, những bản báo cáo của anh đều hết sức mơ hồ, khoảng chừng một, hai đoạn, chỉ vạch được cái khung của sự kiện mà thôi, ngoài ra không có gì khác và lần này anh vẫn viết theo khuôn mẫu ấy. Tuy nhiên, ở cuối trang, anh có ghi thêm một nhận xét khó hiểu như là một phép thử, hy vọng sẽ khơi thêm một điều gì đó từ White chứ không chỉ sự im lặng: Black trông có vẻ đang lâm bệnh. Tôi e y có thể sắp chết. Rồi anh niêm bản báo cáo lại, tự nói với chính mình: đây mới chỉ là mở đầu.

              Hai ngày sau, Blue dậy sớm và chạy ngay đến bưu điện Brooklyn, một toà nhà có kiến trúc như một lâu đài vĩ đại có thể nhìn thấy được từ cầu Mahattan. Tất cả những báo cáo của Blue đều được gửi đến một hộp thư có số 1001 và anh giả bộ tình cờ đi đến chỗ đặt hộp thư đó, thong thả lượn qua nó, kín đáo liếc vào bên trong xem lá thư đã đến nơi chưa. Nó đã đến. Hay chí ít, có một lá thư trong đó, duy nhất một phong thư trắng nằm chếch 45 độ dưới đáy hộp — Blue không có lý do gì để nghi ngờ rằng có một lá thư nào khác ngoài lá thư của chính anh. Thế rồi anh tản bộ xung quanh khu vực đó, nhất quyết đợi đến khi nào White hay một người nào đó làm việc cho White xuất hiện, mắt anh luôn dán chặt vào bức tường lớn nơi đặt các hộp thư được gắn số, mỗi hộp thư có một ổ khoá số riêng, mỗi chiếc cất giấu một bí mật riêng. Người ta đến rồi đi, mở các hộp thư rồi lại đóng lại, và Blue cứ tha thẩn quanh khu này, thi thoảng lại dừng chân ở một vị trí ngẫu nhiên nào đó rồi lại đi tiếp. Mọi thứ đối với anh dường như đều mang màu nâu, như thể tiết trời mùa thu ngoài kia tràn vào bên trong bưu điện và không gian toả một mùi xì gà dễ chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ, anh đã bắt đầu thấy đói, nhưng anh cố kìm nén, anh tự dặn mình hoặc là bây giờ hoặc là không bao giờ, vì thế phải bám trụ bằng được ở đây. Blue chăm chú theo dõi bất cứ ai đến gần dãy đặt hộp thư, đặc biệt những kẻ lân la quanh hộp thư số 1001, nhận thức rõ nếu không phải là White đến lấy bản báo cáo thì việc này cũng có thể do bất kỳ ai khác làm – một bà già, một đứa trẻ, và vì thế, anh không được xem thường bất cứ chi tiết nào. Nhưng chẳng một khả năng nào trong số này xảy ra cả, bởi suốt buổi sáng không có ai đụng đến hộp thư này, và mặc dù Blue cứ từng chặp liên tục nghĩ ra những câu chuyện ứng với mỗi đối tượng đến gần, cố hình dung xem người đó có thể có liên hệ như thế nào với White hay Black, anh ta hay cô ta đóng vai trò gì trong vụ việc này, vân vân, nhưng rồi anh lần lượt phải loại bỏ từng câu chuyện, cho chúng vào quên lãng.

              Đến quá trưa, lúc bưu điện bắt đầu đông dần — một dòng người nhân giờ nghỉ trưa hối hả đến đây để gửi thư, mua tem, giao dịch linh tinh — có một người đeo mặt nạ bước qua khung cửa. Thoạt tiên, Blue không lưu ý đến anh ta, một phần bởi khi đó có quá nhiều người đi qua khung cửa ấy, nhưng lúc người đàn ông đó tách khỏi đám đông và bắt đầu bước về chỗ đặt những hộp thư gắn số, thì Blue nhìn thấy tấm mặt nạ — loại mặt nạ mà trẻ con thường đeo trong dịp lễ Hallowe'en, làm bằng cao su, có hình khuôn mặt một con quỷ gớm ghiếc nào đấy với những vết rạch hằn trên trán, đôi con ngươi đẫm máu và những chiếc răng nanh. Ngoại trừ chiếc mặt nạ, trông người đàn ông đó hoàn toàn bình thường (anh ta khoác bên ngoài một chiếc áo bành tô may bằng vải tuýt, quấn một chiếc khăn quàng màu đỏ quanh cổ), và Blue có linh cảm ngay người đằng sau tấm mặt nạ kia chính là White. Lúc người này tiếp tục bước về phía hộp thư 1001, linh cảm trong Blue lại càng mạnh mẽ hơn. Cùng lúc đó anh lại có cảm giác rằng người đàn ông ấy không thật sự hiện hữu ở đó, rằng cho dù anh biết rõ là mình đang nhìn thấy hắn, thật ra chỉ có anh là người duy nhất có thể thấy. Song, ở điểm này thì cảm giác của Blue đã sai, bởi khi người đàn ông đeo mặt nạ đó tiếp tục bước đi trên cái sàn nhà rộng lớn lót cẩm thạch, Blue nhận thấy một số người đã chỉ trỏ anh ta và cười — thế nhưng, điều này có khiến cho mọi chuyện trở nên tốt đẹp hơn hay tồi tệ đi không thì anh cũng không rõ. Người đàn ông đeo mặt nạ chạm vào hộp thư 1001, xoay ổ khoá số và mở hộp thư. Ngay khi Blue nhận ra đó chính xác là người mà anh đang cần, anh bắt đầu tiến đến về phía hắn, không thật sự chắc chắn mình sẽ làm gì với hắn, nhưng trong thâm tâm anh có ý định rõ ràng là phải tóm được hắn và lột tấm mặt nạ đó ra. Nhưng, người đàn ông ấy đã quá cảnh giác, và ngay khi nhét bức thư vào túi và khoá hộp thư lại, hắn vội liếc mắt ra xung quanh, thấy Blue đang đến gần, liền đánh tháo, chạy ra cửa thật nhanh. Blue đuổi theo, hy vọng sẽ túm được hắn từ phía sau và chặn anh ta lại nhưng ngay lúc đó, anh lại kẹt giữa đám đông qua lại chỗ cánh cửa ra vào và khi lách được qua đám đông thì nguời đàn ông đeo mặt nạ đã xuống hết cầu thang và ra đến vỉa hè, và chạy dọc theo con phố. Blue tiếp tục bám riết, thậm chí anh có cảm giác khoảng cách giữa mình và đối phương đang rút ngắn dần, nhưng khi người đàn ông ấy đến góc phố thì có một chiếc xe bus trờ ra và hắn bắt vội chuyến xe đó, Blue bị bỏ lại phía sau, miệng thở dốc và đứng ngây ra như một tên ngớ ngẩn.

              Hai ngày sau, Blue nhận được tấm ngân phiếu qua đường bưu điện, kèm với nó, cuối cùng, cũng có vài dòng của White gửi đến. Đừng đùa nữa, White chỉ viết có vậy, cho dù đó không hẳn là một lời nhắn nhe nhưng Blue cũng thấy vui mừng khi nhận được nó vì cuối cùng anh cũng phá vỡ được bức tường im lặng của White. Tuy vậy, anh không rõ phải chăng thông điệp của White ám chỉ đến bản báo cáo cuối cùng, hay ám chỉ sự việc xảy ra nơi bưu điện. Sau khi nghĩ đi nghĩ lại một hồi, anh thấy chuyện đó không quan trọng. Dù có thế nào đi nữa thì chìa khoá cho vụ việc này vẫn là hành động. Anh phải tiếp tục phá vỡ từng thứ ở bất cứ nơi nào có thể, một chút ở chỗ này, một chút ở chỗ kia, đẽo dần dần từng điểm hóc búa cho đến khi toàn bộ cấu trúc của chúng nứt rạn, cho đến khi toàn bộ công việc thối tha này sẽ đổ nhào xuống đất.

              Mấy tuần sau đó, Blue trở lại bưu điện vài lần, hy vọng có thể bắt gặp lại White lần nữa. Nhưng không có chuyện đó xảy ra. Khi thì bản báo cáo đã được lấy đi trước khi White đến đó, khi thì White không xuất hiện. Việc khu vực bưu điện này mở cửa 24 giờ mỗi ngày khiến Blue có rất ít sự lựa chọn. Bây giờ White đã biết được ý định của Blue và y sẽ không phạm sai lầm thêm lần thứ hai. Y chỉ đơn giản chờ tới khi nào Blue đi khỏi thì mới đến mở hộp thư, và trừ phi Blue sẵn sàng đem cả cuộc đời mình đến gác nơi bưu điện, anh không có cách nào khác để có thể rình bắt White lần nữa.

              Câu chuyện trở nên phức tạp hơn rất nhiều so với những gì Blue hằng tưởng tượng. Gần một năm trở lại đây, Blue luôn xem mình là một kẻ hoàn toàn tự do. Hay hoặc dở thế nào đi nữa thì anh vẫn làm công việc của mình, nhìn thẳng về phía trước và theo dõi Black, chờ đợi một khả năng nào đó mở ra, cố gắng bám theo nó, nhưng khi làm tất cả những việc đó, anh không hề mảy may nghĩ đến chuyện gì có thể đang diễn ra sau lưng mình. Giờ đây, sau sự việc xảy ra với người đàn ông đeo mặt nạ và tiếp đó là những trở ngại khác, Blue không biết nghĩ gì nữa. Anh có cảm giác rất rõ là chính anh cũng đang bị người khác theo dõi, quan sát trong cùng một cách mà anh đã và đang theo dõi, quan sát Black. Nếu đúng như thế thì chưa bao giờ anh tự do cả. Ngay từ ban đầu, anh đã là kẻ đứng ở giữa, bị chặn lại ở đằng trước và bị vây bủa từ phía sau. Khá kỳ cục là ý nghĩ này lại khiến anh nhớ đến mấy câu trong cuốn Walden, anh lục lại sổ tay của mình để xem nguyên văn chính xác là thế nào, chắc chắn là anh đã ghi chúng lại. Anh tìm ra nó: "Chúng ta không ở đúng chỗ của mình, mà ở vào một vị trí giả. Bởi bản chất yếu đuối của mình, chúng ta giả định một tình thế, và tự đặt mình vào đó, và vì thế chúng ta cùng lúc nằm trong hai tình thế, và sẽ khó gấp đôi để thoát ra."[1] Blue hiểu câu này, và mặc dù anh bắt đầu hơi sợ một chút, anh nghĩ có lẽ cũng chưa quá muộn để anh có thể làm được một cái gì đó trong tình huống này.

              Vấn đề thực sự bây giờ tóm lại chỉ còn là việc xác định đúng bản chất của chính tình thế nan giải này. Trước hết, ai là mối đe doạ lớn hơn đối với anh, là White hay Black? White vẫn tiếp tục duy trì giao kèo của y với Blue: hàng tuần những tấm ngân phiếu vẫn được gửi đến đúng hẹn, và nếu bây giờ anh phản lại y, Blue hiểu, như thế chẳng khác nào cắn lấy cái bàn tay đút thức ăn cho mình. Mặt khác, White chính là kẻ bày ra diễn biến của vụ việc này — đẩy Blue vào một căn phòng trống trơn, đúng là thế, rồi tắt đèn đi và khoá cửa lại. Thế là từ đó, Blue cứ phải mò mẫm trong bóng tối, sờ soạng tìm không ra cái công tắc bật điện, và trở thành một tù nhân của chính vụ việc này. Thì cũng được thôi, nhưng tại sao White lại làm một việc như thế ? Khi câu hỏi này nảy sinh trong đầu Blue, anh không biết nghĩ sao nữa. Đầu óc anh bị tê liệt, anh không thể nghĩ ngợi được một điều gì xa hơn.

              Rồi Black nữa chứ. Cho đến lúc này y chính là toàn bộ vấn đề, là nguyên nhân hiển nhiên của tất cả những phiền nhiễu cho Blue. Song nếu thật sự White muốn theo dõi Blue chứ không phải Black, thì có lẽ Black cũng chẳng có dính dấp gì vào việc này cả, có lẽ y chỉ là một kẻ ngoại cuộc vô hại. Trong trường hợp này, chính Black là kẻ chiếm lấy cái vị trí mà Blue vẫn tưởng là của mình suốt thời gian vừa qua, và Blue lại giữ vai trò của Black. Có một điều gì đó uẩn khúc trong chuyện này. Mặt khác, cũng rất có thể Black là đồng bọn với White và cả hai người cùng âm mưu gài Blue kẹt vào tình thế này.

              Nếu quả như vậy thì bọn họ đang làm gì đối với anh? Rốt cuộc chẳng có điều gì quá khủng khiếp cả — ít nhất cũng không đến nỗi như vậy, nếu xét cho kỳ cùng. Bọn họ đã đặt một cái bẫy đẩy Blue rơi vào tình huống không biết làm cái gì cả, hoàn toàn thụ động, để giảm thiểu sự sống của anh đến mức gần như không còn là cuộc sống nữa. Phải, Blue nhủ thầm, tình trạng này giống như vậy: một trạng thái hư vô. Anh thấy mình giống như một kẻ bị kết án phải ngồi im trong một căn phòng và đọc mãi một cuốn sách cho đến hết đời. Chỉ điều này thôi cũng đã đủ lạ lùng – khá lắm là dở sống dở chết, chỉ nhìn thấy thế giới thông qua những con chữ, chỉ sống qua sự sống của những kẻ khác. Song, nếu đó là một cuốn sách hay, có lẽ cuộc sống đó không hẳn đã tệ hại. Nghĩa là, anh có thể hoà mình vào câu chuyện, tạm cho là thế, và dần dà, có thể quên đi chính mình. Nhưng, cuốn sách này lại không đem đến cho anh một điều gì. Không có tình tiết, không có cốt truyện, không có hành động — không có gì ngoài một người ngồi một mình trong phòng và viết một cuốn sách. Tất cả chỉ có thế, Blue nhận ra, và anh không còn cần câu chuyện ấy một chút nào cả. Nhưng làm sao thoát ra khỏi nó được? Làm sao thoát ra khỏi căn phòng đó, căn phòng mà chính nó là cuốn sách sẽ tiếp tục được viết mãi cho đến chừng nào anh ta còn ở trong đó?

              Đối với Black, người tạm gọi là tác giả của cuốn sách này, Blue không còn tin vào những gì mình thấy được ở y nữa. Liệu có thể thực sự có một người chẳng làm cái gì cả, chỉ ngồi trong phòng và viết ? Blue đã bám theo y ở mọi nơi, đến tận những ngõ ngách xa xôi nhất, đã quan sát y chăm chú đến độ mắt anh dường như muốn loà đi. Ngay cả khi ra khỏi nhà, Black cũng cũng chẳng đi đến đâu cả, cũng chẳng có hoạt động gì đáng kể: mua thực phẩm, thỉnh thoảng cắt tóc, đến rạp chiếu bóng, vân vân. Nhưng, chủ yếu y chỉ đi lang thang quanh phố, quan sát những cảnh tượng lạ hay những sự việc ngẫu nhiên nào đó, nhưng ngay cả điều này cũng chỉ xảy ra thất thường. Có một dạo, y ngắm những toà nhà – y nghểnh cổ lên để liếc nhìn những mái nhà, xem xét lối ra vào, hay mân mê những lớp đá lát ở tiền diện toà nhà. Thế rồi, một đôi tuần, y đi ngắm những tượng đài công viên, hay ra bờ sông nhìn những con thuyền qua lại, hay quan sát những biển hiệu trên đường phố. Chỉ có vậy, không hơn, rất hiếm khi y nói năng với ai, và cũng không gặp gỡ ai khác ngoại trừ người phụ nữ đã khóc trong bữa ăn trưa đó cách đây cũng quá lâu rồi. Theo một nghĩa nào đó, Blue biết được tất cả những thứ có thể biết được về Black: y mua loại xà phòng nào, y đọc tờ báo nào, mặc bộ quần áo nào, và mỗi thứ anh đều ghi chép cẩn thận vào trong sổ tay. Anh biết được cả hàng nghìn chi tiết, song tất cả ngần ấy chi tiết ấy chỉ nói cho anh một điều duy nhất rằng anh chẳng biết gì hết. Bởi còn lại sự kiện là chẳng có điều gì khả hữu trong ấy. Thật bất khả để một con người như Black tồn tại trên đời.

              Bởi thế, Blue bắt đầu nghi Black không gì khác hơn là một trò đánh lừa, một trong những tay sai khác của White, được trả lương hàng tuần để ngồi trong căn phòng đó và không làm gì cả. Có lẽ tất cả việc viết lách kia chỉ là một cách trá hình – hết trang này đến trang khác chỉ là một bảng liệt kê từng tên người trong cuốn danh bạ điện thoại, chẳng hạn, hay từng chữ trong từ điển được chép lại theo hệ thống mẫu tự, hay một bản chép tay cuốn Walden. Hay có lẽ thậm chí đó không phải là những chữ, mà chỉ là những nét nguệch ngoạc vô nghĩa, những đường vạch ngẫu nhiên của một cây bút, một mớ tích luỹ của những điều vô nghĩa và nhập nhằng linh tinh. Nếu vậy thì White mới là tác giả thật sự — và Black, do đó, không gì khác hơn là kẻ đóng thế vai của y, một trò giả trang, một diễn viên không có nội dung riêng của mình. Rồi có những lúc, theo dòng suy nghĩ này, Blue tin rằng cách giải thích hữu lý duy nhất là Black không phải là một người mà do vài người đóng. Để diễn trò cho Blue xem, hai, ba hay bốn kẻ giống nhau thay phiên đóng vai Black theo khoảng thời gian đã được phân công cho mỗi người, rồi sau đó, từng người được trở về nhà nghỉ ngơi ấm áp. Nhưng, ý tưởng này quá đỗi kì quái nên Blue không nghĩ ngợi lâu. Nhiều tháng trời trôi qua, và cuối cùng, Blue gào lên với chính mình: Tôi không thở được nữa. Đây là kết thúc rồi. Tôi đang chết.



              #7
                Chuyển nhanh đến:

                Thống kê hiện tại

                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                Kiểu:
                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9