THƠ CỦA BLAISE CENDRARS
meocon_thongminh93 27.07.2006 14:55:00 (permalink)

CÂU CHUYỆN TRUYỀN KỲ CỦA NOVGORODE

Chỉ lúc đó tôi mới là một nhà thơ thực sự.

Khi người ta mười bảy tuổi – như Arthur Rimbaud[1] đã nói –
người ta chỉ có thơ và tình ái trong đầu... Ấy cũng là cùng một buổi chiều ngột ngạt,
những cây ti-dơn khiến ta say như rượu bia München. Và gió nghế ngái
nếm mùi bọt sủi của những cánh bướm bao quanh bóng đèn đường... Và các biệt thự của những nhà vị vọng người Thụy-sĩ
như những đàn cừu hồng lanh lẹ bước xuống máng nước.[2]

Và tôi, như một kẻ mơ đi, tôi từ lầu năm bước xuống men theo rãnh nước;
tôi, ngày hôm ấy, tôi bỏ trốn nhà cha tôi.[3]

Tôi muốn ngụp lặn trong cuộc sống của thơ
và vì thế tôi cần phải băng qua thơ của cuộc sống.
Tôi là người Hà-lan Biết bay, bên dưới tôi lấp lánh những thời kỳ và định mệnh
và những đám mây đen tối của thương đội theo tôi thật vất vả và tôi, tôi cuốn hút chúng về phương Đông
nơi đang chờ đợi chúng tôi Novgorode –vương quốc của kim tiền nặc mùi[4]
những tấm lông thú mà, từ Địa cực, từ những thương cục và những căn chòi bằng thông của họ,
những cung thủ với gương mặt người Mông-cổ đem tới cho chúng tôi, đòi đổi lấy vodka.



Những bình nguyên lóe sáng như lông chồn trắng trong ánh tà huy,
lấm chấm điểm những con quạ trên nền tuyết mới... Tôi nhìn ngắm những đám tuyết và tôi thấy như trong mơ
những hàng dài các thày tu đang bước tới
Đấng Thượng đế kiên trì của họ.
Trong một cuốn sách lớn với mùi sáp, tôi đã đọc câu chuyện của nó.
Tôi là thày tu đang nghiêng mình tụng niệm trên cuốn sách này
cuốn sách bằng những chiếc cánh đã úa vàng trơ trụi
lướt trên khoảng bao la của các thế kỷ và các vương quốc
để chứng tỏ với chúng ta hết thảy rằng lần lượt biến đi và trở lại
những gì từng hiện hữu với chúng ta... Nhưng cuộc sống không cùng vẫn bất biến!
Ngòi viết tôi nghiến rít và cơn sốt của tôi bốc lên trong lúc tôi ngây ngô theo đuổi
danh tiếng; và dưới lớp bìa thiếp vàng của cuốn sách, tôi thấy chính tôi,
là người tu sĩ trong bóng mờ của ngôi giáo đường chính thống.
Và những từ mà tôi buông rơi là những đồng tiền vàng[5]
tôi phải trả cho bọn lái buôn
trước khi có thể phóng chúng vào thế giới.



Hai bàn tay tôi vuốt ve làn ngực mềm của những người đẹp dịu dàng nhất,
và bằng những bàn tay này tôi vặn cổ cả ngàn tên lái buôn chán ngấy và kiêu căng
– cả tôi nữa, tôi cũng là một tên lái buôn có thế lực, tế nhị phớt qua
những gì phải chi trả bằng tiền của của tôi... Nhưng, trong thực tế, tôi cũng đã chẳng thể chạm hờ
một lớp da thịt thơm tho vừa dịu mềm vừa ấm
như tuyết... hay khe trũng, cũng thật nóng, dịu mềm và mịn mướt
mà con thú bén nhạy trong người tôi hướng tới.

Ở miền Bắc là nơi bầu trời lật úp như một cái thùng tròn
thế giới toàn bằng sữa, và cố nhiên
gỉải Ngân hà sẽ không bao giờ khô cạn, và là nơi trăng, cục bơ tươi, trôi nổi –
miền Bắc này, có thực là tôi đã tới hay chăng. A những đêm trắng của Saint-Pétersbourg[6] này
như một quầng sáng của những cánh đồng trắng trong ký ức tôi.



Nửa đêm người ta kéo cầu lên – ấy những cánh cửa bằng đá dẫn tới trời
hay ra khỏi địa ngục...
Nhưng ai vào hay ai ra, lúc ấy tôi không thể nào nhận biết
và ký ức tôi từ đấy tựa như đêm trắng
bởi người ta đã cướp mất Hélène của tôi[7]
và thành Troie đã tiêu tan thành tro bụi.

Vào thời kỳ này tôi là một chàng trai mười bảy
và Novgorode đã tiếp đón tôi với đám nhà bằng cây
nhờ đó những kẻ thù của tôi mới phá được thành trì
của mối tình của tôi, mối tình không thể lọt vào được
và chỉ còn để lại sau bọn chúng những tro là tro, là tro.[8]



Trong não sọ nào đã nảy ra cái ý tưởng ngu ngốc rằng vẻ đẹp là vĩnh cửu?
Liệu ta có thể đoạt được vĩnh cửu chăng? Ban chiều,
ngay khi những tiếng chuông bay bổng bên trên thành phố
như bọn yêu quái đeo trên cội cây trời,
tôi nhìn thấy những đám cháy tương lai và đi tới đằng sau chúng là những con chồn trắng
của nước Nga đỏ rực, là tro lạnh, trắng như sương giá
với những khúc củi đen cháy dở dang... Và tôi đã thấy chính mình là tro
sau đám cháy của những tình cảm và của hy vọng. Đám cháy muôn thủa
khêu nên do cánh cửa có cánh của ngân hàng Rostov
nơi tôi làm việc trong một gian phòng băng giá và nơi tôi luôn luôn hổ thẹn
khi ném một đồng xu đồng vào cái bát gỗ của người nghèo và có dáng vẻ một nhà triệu phú
bước xuống khách sạn Anh quốc[9] ở Saint-Pétersbourg
nơi ban nhạc tzigane với những cây đàn balalaika
quét sạch lý trí ta bằng những nhát chổi, và đột nhiên xuất hiện Rogojine[10]
ném từng bó giấy bạc vào vòng tay người yêu của mình.



Ngày mai khi Jeanne[11] của tôi và tôi đáp chuyến tàu tốc hành Xuyên-Tây bá lợi á
và khi qua khỏi rặng Oural những đồ dự trữ của chúng tôi sẽ cạn,
Rogovine,[12] người ân nhân của tôi, sẽ khiến chúng tôi ngạc nhiên, khi tự mình chăm sóc con tàu,
đút vào lò những viên gạch nhỏ tiền Nga nơi cổ họng đỏ rực của đầu máy,
để lôi kéo chúng tôi đi mãi mãi xa hơn, xa hơn, và khiến chúng tôi bỏ trốn
những gì chờ đợi chúng ta hết thảy – cả người giầu lẫn người nghèo –
ở cuối con đường trần thế...

A những bộ da lông thú của Nga này – đã có bao nhiêu lọt qua đôi tay người Thụy-sĩ của tôi,
có lẽ mọi người Thụy-sĩ đều có thể ghen với tôi... Nhưng cả nhà thơ nữa
cũng là một người thụy-sĩ – kẻ đứng gác[13] trước những cánh cửa nặng nề giữa thiên đường
và địa ngục – để cho điều tốt không thể biến thành điều xấu... và để cho điều xấu
vĩnh viễn bị ngăn chận lại. Khắp chung quanh – là bóng tối,
như trong tâm hồn của một nông dân Nga. Bên ngoài
bầu trời ẩm ướt và lạnh lẽo lấp lánh với hết thảy những đầu đinh
như thể có ai đó đang vượt thoát những điều nhơ nhớp của cuộc đời
và chỉ còn thoáng thấy được gót giầy lấp lánh của người trong đêm tối.



Trên mặt đường gỗ tôi bước, men theo những kho hàng, những căn nhà lụp xụp và những quán rượu
như trên một con đường Appia[14] lát bằng những cỗ áo quan.
Vào cái đêm không trăng này tôi suýt té, chắc là vào nấm mồ để ngỏ của người.
Phải, đúng là nấm mồ của người, mở toác, Chúa ôi, bởi những tia lửa đớn đau như thế
đã không thể nào vọt ra từ đôi mắt người phàm của tôi trong tăm tối.

Như tôi, người lao động trong cửa tiệm của người Do-thái thời danh Leuba,[15]
những dấu thương tích của người nhỉ máu, tựa những viên hồng ngọc, dưới ánh mắt của khách hàng,
và đông đảo là những kẻ mà người khoác lên vành tai và ngón tay những viên đá quý, Chúa ôi,
và người trang điểm bộ ngực để trần của biết bao nàng Mạc-đa-liên của đêm tối,
người kẻ đã từng xua đuổi bọn lái buôn ra khỏi đền thờ
bằng một nhát roi quất mạnh.

Không, tôi không muốn trọn đời mình những mua cùng bán,
tôi muốn sống như kẻ phiêu lưu, như người lang bạt, phí tổn phải chịu về phần bọn lái buôn,
tôi muốn rằng thực tại xuất hiện với tôi như một giấc mơ và sống trong một thế giới của những linh thị.

Năm đó, người ta đã nổ súng vào những khóm cây dọc đường cũng như vào những người đình công của Gapone.[16]



Ngày mai khi chúng tôi, nhỏ Jeannne và tôi, bỏ trốn trong chuyến tàu tốc hành Xuyên-Tây bá lợi á,
về Port-Arthur, về Kharbine,[17]
về những lớp sóng chì của dòng Amour,[18]
nơi, như những khúc cây tròn, những cái thây vàng vẫn trồi lên mặt nước,
chúng tôi, rốt cuộc, sẽ tìm thấy con đường dẫn tới chúng tôi và tới tình yêu
mà không biết rằng khối tình này ngập tràn những tình cảm đã chết.

Bởi không có miền đất nào xa lạ hơn cũng chẳng có nơi chốn nào cuốn hút hơn
là hồn người... Tôi sợ mình bật ra tiếng nức nở.

Bên trên đầu tôi rủ xuống ngọn đèn của toa tàu, dính phân của đám ruồi khuấy nhiễu,
như lớp mũi rãi lớn của một hành khách thảm hại.



Trong hằng giờ tôi nhìn qua khung cửa kính ban đêm mịt mờ một thứ mồ hôi nóng bỏng.
Một cây trắc-bá đơn độc, phong kín trong lớp bụi cay đắng,
nhìn những khung cửa sổ khép kín ở ngôi nhà của cha tôi
như thày tu đã theo tôi từ bao dặm dọc con đường,
mãi mãi ở bên tôi, để mãi mãi đọc cho tôi một mẩu của câu chuyện truyền kỳ
về Đô thị Mới ngời sáng,
câu chuyện truyền kỳ mà có lẽ một ngày kia tôi sẽ kể cho các người.

Trên bầu trời lạnh lẽo của miền Bắc mặt trời lăn lăn, yên hàn,
vầng mặt trời khổng lồ của người Slave: cái bánh xe với những nan hoa bằng gỗ
mãi mãi sẽ vẫn là cái bánh xe thứ năm
của cỗ xe các dân tộc.

Giấc mơ của tôi quay chậm lại như một nhịp điệu mơ mơ màng màng:

những dải bình nguyên dài dặc vô tận trên nước Nga bại trận[19]
và đột nhiên một con ngựa tơ tiến lại gần, lại gần mỗi lúc một thêm mãi – giống mới[20]
qua màn tuyết mịn.

FRÉDÉRIC SAUSER tức
BLAISE CENDRARS sau này.


Ghi chú của người dịch:
* La légende de Novgorode, 64 trang, nhà xuất bản Fontana Morgana, 1997. Gồm bài dẫn nhập và các ghi chú của Miriam Cendrars; bản sao bản dịch tiếng Nga của R.R.; bản Pháp văn “hồi phục”; và một bài viết cùng với nhiều hình minh họa của họa sĩ Pierre Alechinsky. Các chú thích vắn tắt ở sau đây phần lớn đều dựa theo Miriam Cendrars. Xin mời bạn đọc xem thêm bài dẫn nhập của bà Miriam Cendrars về "CÂU CHUYỆN TRUYỀN KỲ CỦA NOVGORODE của Frédéric Sauser, tức Blaise Cendrars sau này", đăng song song trên Tiền Vệ.

_________________________
Chú thích (trong bài):
[1]Bài «Roman» của Arthur Rimbaud, in trong Reliquaire, 1891.


[2]Cảnh Neuchâtel; ở đây, 'máng nước' nơi các ngôi nhà xếp tầng xuống là một cảnh hồ.


[3]Năm 1904, khi Blaise Cendrars mười sáu tuổi.


[4]Có ý nói tới những bộ lông da thú thuộc dối nhưng lại bán giá đắt. Novgorode hay Novgorod, ở phía nam Saint-Pétersbourg, vào thế kỷ XVIII là một trong những trung tâm rực rỡ nhất của nền văn minh Nga và là một nơi quan trọng cho các thương hội liên lạc với phương Đông và vùng biển Baltique. Thành phố này có nhiều đền đài tôn giáo thời Trung cổ, được trang hoàng bằng những bức bích họa.


[5]Ý này được Blaise Cendrars dùng lại trong Moganni Nameh, 1910.


[6]Cố đô Nga, một trung tâm kỹ nghệ lớn, đã nhiều lần đổi tên.


[7]«Hélène thành Troie» nhưng cũng là nàng Hélène của tác giả. (Xem bài của Miriam Cendrars, "CÂU CHUYỆN TRUYỀN KỲ CỦA NOVGORODE của Frédéric Sauser, tức Blaise Cendrars sau này", đăng song song trên Tiền Vệ, và cuốn Blaise Cendrars của Miriam Cendrars, Balland, 2-1984, Seuil in lại, 2-1985).


[8]Theo Miriam Cendrars, 'Hélène,... những ngôi nhà bằng cây, ... tro, tro, tro' ám chỉ cái chết bi thảm của Hélène vì lửa... Nhưng vì đâu cảnh này lại đặt ở Novgorode khi chính Miriam Cendrars đã cho biết là Hélène K. «có phần chắc..» là ở ... Saint-Pétersbourg? Miriam Cendrars cũng thắc mắc như thế!


[9]Khách sạn xa hoa nổi tiếng ở Saint-Pétersbourg thời trước.


[10]Nhân vật của Dostoievski trong L'Idiot. Xin đừng lẫn với Rogovine ở đoạn sau.


[11]Xin xem 'Jehanne' trong Văn xuôi của con tầu Xuyên-Tây bá lợi á, bản dịch Nguyễn Đăng Thường, tủ sách Thơ, Trình bầy.


[12]Nhân vật này xuất hiện lần đầu ở đây, sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong Vol à voile, 1930-1931 và Bourlinguer, 1948.


[13]Chơi chữ giữa Suisse (quốc tịch) và suisse (người gác cửa...).


[14]'đường Appia': đường từ La-mã tới Brandisi do Appius Claudius khởi sự (312 trước Tây lịch); ven đường có nhiều mồ mả, hiện còn một số...


[15]Nhà kim hoàn H. Leuba nơi Frédéric Sauser (Blaise Cendrars) làm việc.


[16]Một giáo trưởng Chính thống giáo, dẫn đạo một trăm ngàn ngườI biểu tình và những người đình công của các nhà máy Poutilov ở Saint-Pétersbourg, đưa thư thỉnh nguyện tới Sa hoàng Nicholas II, ngày “chủ nhật đỏ” 22 tháng Giêng 1905. Khi đoàn người tới trước lâu đài mùa Đông (hoàng cung), một phân đội Kỵ binh đã nổ súng, làm khoảng hai trăm người thiệt mạng và hai ngàn người bị thương. Đó là khởi đầu cuộc cách mạng.


[17]Port-Arthur: cảng Lữ-thuận; Kharbine hay Harbine: Cáp-nhĩ-tân.


[18]Sông lớn (4354 cây số), phân cách miền Tây bá lợi á với vùng đông-bắc Trung-hoa và đổ ra biển Okhotsk.


[19]Trong chiến tranh với Nhật-bản.


[20]Ở đây là biểu hiệu của sự hồi sinh; hình ảnh «ngựa phi» này, theo Miriam Cendrars là «rất Nga» và «cũng nhắc ta nhớ tới đoạn chót cuốn Les âmes mortes của Nicolaï Gogol», nhà văn Nga gốc người Ukraine.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.07.2006 14:56:03 bởi meocon_thongminh93 >
#1
    meocon_thongminh93 27.07.2006 14:57:51 (permalink)
    Lạy Chúa, hôm nay là ngày Thánh danh Chúa,
    Con đọc thấy trong một pho sách cổ công nghiệp của Người ngày Thương khó,

    Và nỗi thống khổ của Người và những nỗ lực và những lời lành thánh
    Đang khóc đều đều êm dịu trên trang sách.

    Một thày tu của thời xa xưa nói với con về cái chết của Người.
    Ông vạch lại câu chuyện của Người bằng những chữ nạm vàng

    Trong một cuốn sách nguyện, đặt trên đầu gối.
    Ông nắn nót từng chữ thật sùng kính mượn cảm hứng từ Người.

    Núp sau bàn thờ, khoác chiếc áo choàng trắng,
    Ông ngồi trau chuốt từng nét thật chậm rãi từ thứ Hai tới Chúa nhật.

    Những giờ phút ngừng lại trên ngưỡng cửa nơi ông ẩn lánh.
    Ông, quên mình, cúi xuống bức chân dung Người.

    Vào lúc kinh chiều, khi những quả chuông râm ran trên tháp,
    Ông thày tu không rõ ấy là tình yêu của mình

    Hay ấy chính tình yêu của Người, lạy Chúa, hay Cha Người
    Đang đập mạnh trên những cánh cửa của tu viện.


    Cũng như kẻ tu hành này, chiều nay, con lo âu.
    Trong căn buồng kế bên, có một kẻ buồn rầu và câm nín

    Đang chờ sau cánh cửa, chờ con lên tiếng gọi!
    Ấy là Người, là Chúa, là con, -- là Cõi Đời đời.


    Con không biết rõ Người trước đây, -- cũng như lúc này.
    Con không bao giờ cầu kinh khi con còn nhỏ.

    Thế nhưng, chiều nay, kinh hoàng con đã nhớ tới Người.
    Tâm hồn con là một góa phụ tang tóc phục dưới chân cây Thập giá;

    Tâm hồn con là một góa phụ mặc đồ đen, -- ấy là Mẹ Người
    Không nước mắt không hy vọng, như Carrière đã vẽ.

    Con biết rõ tất cả những pho tượng Chúa chịu nạn treo trong các bảo tàng viện;
    Nhưng chiều nay, lạy Chúa, Người đang bước bên con.


    Con bước những bước dài xuống khu thành phố dưới,
    Lưng còng, tim gợn nếp, đầu óc bỏng sốt.

    Nương long Người mở rộng như một mặt trời lớn
    Và đôi tay Người khắp chung quanh chập chờn những tia lửa.

    Tất cả những cửa kính của các ngôi nhà đều đầy máu
    Và những người đàn bà, ngồi sau cửa, tựa những bông hoa máu,

    Những tà hoa dị kỳ héo úa, những bông lan,
    Đài mở ngửa dưới ba vết thương của Người.

    Máu thánh Người hấng được, họ không bao giờ uống.
    Họ bôi môi đỏ loét và trên mông mặc hàng ren.

    Những bông hoa Thương khó thời trắng, như những ngọn nến,
    Ấy là những bông hoa dịu hiền nhất trong khu Vườn của Đức Nữ Đồng trinh.

    Chính là vào giờ này, vào khoảng giờ thứ chín,
    Lạy Chúa, Người đã gục đầu xuống Trái tim.

    Con đang ngồi bên bờ đại dương
    Và con tưởng tới một bài thánh ca Đức,

    Bài thánh ca nói tới, với những lời rất dịu, rất thanh, rất giản dị,
    Vẻ đẹp của khuôn mặt Người trong khổ nạn.

    Ở một ngôi nhà thờ, tại Sienne, trong một hầm mộ
    Con đã thấy cùng một khuôn mặt ấy, trên tường, sau một lớp màn.

    Và trong một viện ẩn tu, tại Bourrié-Wladislasz,
    Khuôn mặt ấy được đắp vàng nổi trong một tấm khung.

    Những viên ngọc thạch đục mờ thế cho đôi mắt
    Và các nông dân quỳ gối hôn lên mắt Người.

    Khuôn mặt ấy in trên tấm khăn của bà Vêrônica
    Và bởi thế mà nữ thánh Vêrônica là nữ thánh của Người.

    Ấy là thánh tích quý báu nhất được rước qua những cánh đồng,
    Chữa lành mọi người đau yếu, mọi kẻ độc ác.

    Thánh tích ấy còn làm cả ngàn phép lạ khác,
    Nhưng con không bao giờ được chứng kiến cảnh tượng này.

    Có lẽ vì, lạy Chúa, con thiếu đức tin và sự ngay lành
    Để nhìn thấy vẻ Đẹp của Người tỏa rạng.

    Tuy nhiên, lạy Chúa, con đã thực hiện một chuyến đi thật hiểm nghèo
    Để chiêm ngưỡng trong một khối ngọc xanh, nét chạm chìm của hình ảnh Người.

    Xin hãy khiến khuôn mặt con, lạy Chúa, khuôn mặt đang úp trên đôi tay
    Để rơi xuống đó cái mặt nạ âu lo, nỗi âu lo đang siết chặt tim con.

    Xin hãy khiến đôi tay con, lạy Chúa, đôi tay đang úp trên miệng
    Không phải liếm lớp bọt của nỗi tuyệt vọng cùng cực.

    Con buồn bã và đau. Có lẽ là vì Người,
    Có lẽ là vì một kẻ khác. Có lẽ là vì Người.


    Lạy Chúa, đám đông những người nghèo khổ mà Người đã xả thân cứu chuộc
    Đang có mặt ở đây, dồn đống, như súc vật, trong các trại tế bần.

    Những con tầu đen bát ngát từ khắp các chân trời tới
    Đổ họ xuống, hỗn độn, trên những cầu tầu.

    Có những người Ý, người Hy-lạp, người Tây-ban-nha,
    Người Nga, người Bảo-gia-lợi, người Ba-tư, người Mông-cổ.
    Ấy là bầy thú của gánh xiệc đã nhảy qua những kinh tuyến.
    Người ta ném cho họ một miếng thịt đen, như ném cho những con chó.

    Hạnh phúc của họ lúc này là cái khẩu phần dơ bẩn đó.
    Lạy Chúa, xin đoái thương các dân tộc đang đau khổ.


    Lạy Chúa, trong những khu biệt lập lúc nhúc đám người Do-thái nghèo hèn
    Họ từ Ba-lan tới và đều là những kẻ chạy trốn.

    Con biết rõ, họ đã đưa Người ra xử;
    Nhưng con cam đoan với Người, họ không phải hoàn toàn xấu.

    Họ ở trong những cửa tiệm dưới những cây đèn bằng đồng,
    Bán quần áo cũ, những huy hiệu và những cuốn sách.

    Rembrandt rất ưa vẽ họ với những lớp áo quần phế thải
    Chính con, chiều nay, con đã mặc cả mua một chiếc kính hiển vi với họ.

    Than ôi! Lạy Chúa, Người sẽ không còn đó, sau lễ Phục sinh!
    Xin thương xót những người Do-thái trong những túp chòi lụp xụp.


    Lạy Chúa, những người đàn bà hèn mọn đã theo Người tới Golgotha,
    Đang lẩn trốn. Ở phía trong cùng những quán rượu tồi tàn, trên những chiếc ghế dài dơ bẩn,

    Họ ô uế vì sự cùng khổ của loài người.
    Những con chó gặm xương họ, và trong hớp rượu rhum

    Họ che giấu sự trụy lạc chai lì đâ tróc vẩy của mình.
    Lạy Chúa, con muốn xỉu khi một người đàn bà trong bọn họ nói với con.

    Con muốn được là Chúa để yêu thương những người làm điếm.
    Lạy Chúa, xin Chúa thương xót những người làm điếm.


    Lạy Chúa, con đang ở khu những người trộm lành,
    Những kẻ lang thang, bần cùng, oa trữ đồ trộm cắp.

    Con nghĩ tới hai tên trộm cướp ở bên Người trên giá gỗ,
    Con biết Người đã đoái thương mỉm cười với nỗi rủi ro của họ.

    Lạy Chúa, một trong hai người muốn có được một sợi giây thòng lọng,
    Nhưng cái đó, sợi thừng ấy, đâu có cho không, cái đó giá hai mươi xu.

    Lão lý luận như một triết nhân, tên cướp già đó.
    Con đã tặng lão á-phiện để lão lên thiên đường mau hơn.

    Con cũng nghĩ tới những nhạc sĩ lang thang ngoài đường phố,
    Tới người kéo vĩ cầm mù, tới người cụt một tay đang quay quản cầm,

    Tới cô ca sĩ nón rơm với những bông hồng bằng giấy;
    Con biết chính họ là những kẻ ca hát suốt thiên thu.

    Lạy Chúa, xin bố thí cho họ, thứ gì khác hơn ánh đèn khí,
    Lạy Chúa, xin bố thí cho họ xu hào rủng rỉnh ngay ở dưới thế này.


    Lạy Chúa, khi Người chết, tấm màn đã rẽ ra,
    Những gì người ta thấy đằng sau, không một ai nói tới.

    Đường phố trong đêm tựa một vết rách,
    Đầy vàng và máu, lửa và rác.

    Những kẻ mà Người đã dùng roi xua đuổi khỏi đền thờ,
    Đang thẳng tay quất lên người qua lại bằng những điều xằng bậy.

    Ngôi sao biến đi từ tủ đựng Giao ước và thánh tích ngày đó,
    Đang bốc cháy trên những bức tường trong ánh sáng chói chang của các tuồng hát.

    Lạy Chúa, cái Ngân hàng thắp đèn sáng kia cũng tựa như cái két sắt,
    Nơi đông tụ Máu thánh Người ngày tử nạn.

    Các đường phố vắng vẻ dần và đen tối thêm.
    Con lảo đảo như một người say trên hè phố.

    Con sợ những vạt bóng to lớn mà những ngôi nhà chiếu xuống.
    Con sợ. Có kẻ theo rõi con. Con không dám quay đầu lại.

    Một bước chân khập khễnh nhảy tới mỗi lúc một gần.
    Con sợ. Mặt mày con choáng váng. Và con cố tình dừng bước.

    Một tên vô lại thật ghê rợn đưa mắt nhìn con
    Một cái nhìn nhọn hoắt, rồi bước qua, hiểm độc, như một lưỡi dao găm.

    Lạy Chúa, mọi sự không có gì thay đổi kể từ ngày Người thôi là Vua
    Sự Xấu đã lấy Thánh giá Người làm nạng.


    Con bước xuống những bậc cấp hư hỏng của một quán nước
    Và giờ đây con đang ngồi trước ly trà.

    Con đang ở tiệm Tầu, những người như bằng cả tấm lưng
    Mỉm cười, cúi xuống, nhẵn nhụi như những pho tượng mập bằng sứ.

    Cửa tiệm nhỏ bé, tường quét vôi đỏ
    Và những tấm tranh màu kỳ quái lồng khung tre.

    Ho-Kousai đã vẽ cả trăm vẻ khác nhau của một ngọn núi.
    Khuôn mặt Người sẽ ra sao nếu do một người Tầu vẽ?...

    Ý nghĩ sau cùng này, lạy Chúa, thoạt đầu đã khiến con mỉm cười.
    Con nhìn thấy Người lùn xủn trong cảnh chịu nạn.

    Nhưng có lẽ người họa sĩ ấy, dẫu sao, cũng đã vẽ cuộc khổ nạn của Người
    Ác nghiệt hơn là các họa sĩ phương Tây.

    Rất có thể những lưỡi dao vặn vẹo đã xẻ thịt da Người,
    Những kềm kẹp và cào bén đã chuốt những đường gân,

    Có lẽ Người đã bị cùm cổ,
    Có lẽ Người đã bị nhổ móng tay và răng,

    Rất có thể có những con rồng đen khổng lồ bổ xuống đầu Người,
    Và phun lửa vào gáy,

    Có lẽ Người đã bị cắt lưỡi và móc mắt,
    Có lẽ Người đã bị xuyên cọc.

    Như vậy, lạy Chúa, có lẽ Người đã phải chịu tất cả nỗi khổ nhục,
    Bởi không có thế gia hình nào độc ác hơn.

    Kế đó, có lẽ người ta đã ném xác Người cho bầy heo
    Có lẽ chúng đã gặm nát bụng và ruột Người.


    Lúc này con chỉ còn một mình, những người khác đã đi khỏi,
    Con nằm dài trên chiếc ghế dài ở sát tường.

    Có lẽ con đã muốn bước vào, lạy Chúa, một ngôi giáo đường;
    Nhưng trong thành phố này, lạy Chúa, không có những quả chuông.

    Con nghĩ tới những tiếng chuông đã tắt: -- đâu rồi những tiếng chuông xưa?
    Đâu những bài kinh cầu đều đều và những bài ca ân đức êm dịu?

    Đâu những buổi lễ lâu giờ và đâu những bài thánh ca tuyệt đẹp?
    Đâu những nghi thức và nhã nhạc?

    Đâu những vị giáo chủ oai vệ, lạy Chúa, đâu những nữ tu của Người?
    Đâu áo lễ trắng, khăn choàng vai của các vị Thánh Nam Thánh Nữ?

    Niềm vui của Thiên đường chìm trong bụi bặm,
    Những ánh lửa huyền nhiệm không còn ngời sáng trong những cánh cửa lồng kính vẽ hình.


    Hừng đông chậm tới, và trong quán nước tồi tàn
    Những chiếc bóng bị đóng đinh câu-rút hấp hối trên vách.

    Ấy cảnh Golgotha về đêm trong một tấm gương
    Người ta thấy, chập chờn, ánh đỏ trên nền đen.

    Làn khói, dưới ngọn đèn, tựa một tấm vải đã bay màu
    Xoay tròn, quấn quít, khắp chung quanh thắt lưng Người.

    Ở bên trên, ngọn đèn mờ lơ lửng,
    Như đầu tóc Người, rầu buồn, chết chóc và không còn chút máu.

    Những phản ảnh dị kỳ chập chờn trên kính cửa...
    Con sợ, -- và con buồn, lạy Chúa, vĩ mình buồn quá đỗi.


    «Hãy nói cho chúng tôi hay, Maria, chị đã thấy gì trên đường?»
    -- Ánh sáng run rẩy, yếu ớt trong sớm mai.

    «Hãy nói cho chúng tôi hay, Maria, chị đã thấy gì trên đường?»
    -- Những sắc trắng loạn cuồng chấp chới như những bàn tay.

    «Hãy nói cho chúng tôi hay, Maria, chị đã thấy gì trên đường?»
    -- Điềm Xuân rung nhè nhẹ trong lòng tôi.

    Lạy Chúa, hừng đông đã trườn tới lạnh lẽo như một tấm khăn liệm xác
    Và phanh trần những tòa nhà chọc trời trong không trung.

    Tiếng xao động mênh mang đã vang dội trên thành phố.
    Những chuyến xe lửa đã vọt lên, gầm thét và lướt đi.

    Những xe điện ngầm lăn bánh ầm ầm vang động trong lòng đất,
    Những cây cầu bị đường sắt lắc lay.

    Đô thị rung lên. Những tiếng kêu, lửa và khói,
    Những còi hụ bằng hơi nước rồ lên khàn khàn như những tiếng hò la.

    Một đám đông sốt nóng vì lớp mồ hôi của vàng
    Chen lấn xô đẩy nhau lọt vào những hành lang thăm thẳm.

    Đục mờ, giữa đám hỗn độn tua tủa những mái nhà,
    Mặt trời, ấy gương Mặt Người bị vấy dơ vì đờm rãi.


    Lạy Chúa, con đã trở về mỏi mệt, cô đơn và sầu thảm...
    Căn buồng con trần trụi như một nhà mồ...

    Lạy Chúa, con có một mình, và con lên cơn sốt...
    Giường con nằm lạnh lẽo như một cỗ áo quan...

    Lạy Chúa, con nhắm mắt lại và hàm răng con đánh lập cập...
    Con quá cô đơn. Con lạnh. Con kêu gọi Người...

    Một trăm ngàn con quay vần vụ trước mắt con...
    Không, một trăm ngàn người đàn bà... Không, một trăm ngàn cây đại vĩ cầm...

    Con nghĩ tới, lạy Chúa, những giờ con khốn khổ...
    Con nghĩ tới, lạy Chúa, những giờ con đi hoang...

    Con không còn nghĩ tới Người. Con không còn nghĩ tới Người.

    Nữu Ước, tháng Tư 1912.

    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9