TRUYỆN CỦA HÒANG LONG
meocon_thongminh93 02.08.2006 08:55:58 (permalink)
Bông hồng cho ngày tháng không tên

Hoàng Long

Con người vẫn hay ngã lòng trước sự kiện và không biết làm gì trong những tháng ngày mỏi mòn chờ đợi. Thật ra thì chính những ngày tháng không tên này đã ban tặng một bông hồng vô cùng quý giá cho đời sống. Nó làm cho ta biết cái giá phải trả của mọi sự và biết trân quý những gì ta gặt hái được trong tay ngay từ bây giờ đây.

“Mòn con mắt sầu đưa từ cổ độ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay”

(Bùi Giáng)

“…Tri nhân giả trí, tự tri giả minh, thắng nhân giả lực, tự thắng giả cường…”
(Lão Tử)

Triết gia B. Spinoza trong tác phẩm “Đạo đức học”, đã viết một câu thời danh: “Đối với hình tam giác, Thượng đế sẽ là một hình tam giác. Và đối với hình tròn, Thượng Đế sẽ là một hình tròn”. Rõ ràng khi chúng ta ý thức là ý thức về thế giới và thế giới trình hiện với chúng ta như thế giới được chúng ta ý thức. Mỗi một cá thể, cảm nhận thế giới theo một chiều kích sai biệt của mình. Vấn đề là ở chỗ làm sao ta biết rằng đối tượng sẽ là chính nó hay chỉ là những mảnh vỡ mờ nhạt bởi những ý nghĩa riêng tư mù quáng của trí năng lang thang. Triết gia Trần Đức Thảo viết: “Mọi sự kiện thiết thực của cuộc sống không mất đi khi chúng ta nhìn tất cả với tư duy triết học, mà trái lại hiện rõ lên với chân tính. Thế giới có thể bị thu gọn và lên khung trong một cảm nhận lý tính nhưng không bị sai lạc bởi lý thuyết vì thế giới vẫn còn đó mà trở nên sinh động dưới một hình thức khác, cho phép chúng ta ý thức và hoàn toàn tự thức…, một bước nhảy dẫn tới một thực tại hiện sinh mới, hiện sinh siêu nhiên và tuyệt đối. Một ý niệm bao hàm bản sinh tự do của con người”[1].

Con người khi ý thức được sự hiện hữu của mình sẽ tìm cách ban tặng cho đời mình một ý nghĩa. Theo ngôn từ hình ảnh của Malraux thì con người, khi biết mình sẽ hoại diệt, “…đã rứt ra từ cái chua chát của các thiên hà khúc hát chòm sao mà nó sẽ phóng vào thế kỷ tháng năm tình cờ, nơi nó sẽ buộc những lời xa lạ…”[2]. Những ẩn ngữ gửi lại là cách tìm về một ý nghĩa sống. Nói hình ảnh hơn, đó là đạo sống. Rilke nói nghệ thuật cũng chỉ như là một thứ đạo sống mà thôi. Đạo sống này, trao gửi qua bao nhiêu thế hệ để nhắn nhủ con người luôn sống được và sống qua mọi hoàn cảnh. Quá trình sống này, trải qua từng giai đoạn, kích thích con người phát triển tiềm năng bằng cách tạo ra những nghịch cảnh cưỡng kháng, khiến y phải dùng một ý chí phi thường để vượt qua và gặt hái những kinh nghiệm khái quát làm chân lý công ước cho riêng mình “tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục…” để ta có thể an nhiên tự tại sống thật chậm rãi và bình thản trong mọi cuộc tiếp giáp.

Tuy thế, con người vẫn hay ngã lòng trước sự kiện và không biết làm gì trong những tháng ngày mỏi mòn chờ đợi. Thật ra thì chính những ngày tháng không tên này đã ban tặng một bông hồng vô cùng quý giá cho đời sống. Nó làm cho ta biết cái giá phải trả của mọi sự và biết trân quý những gì ta gặt hái được trong tay ngay từ bây giờ đây. Nhân gian thường chỉ biết đến những gì ta đang có ngày hôm nay mà không biết những ngày tháng âm thầm ta kiến tạo. Vì thế mà đám đông hay xét đoán một cách hời hợt bên ngoài chứ không đặt vấn đề trong dòng chảy đích thực suối nguồn của nó. Đám đông chỉ phát giác được manh nha khi bắt đầu chán nản một điều gì đó mà mình vẫn hùa theo nhau để tán tụng “phong thần”.

Khi chúng ta đã chán nản một cách đầy đủ thì nỗi xao xuyến xâm chiếm và ngự trị, khiến chúng ta đang đi giữa dòng đời bỗng chìm lỉm xuống thành một khối cô đơn “chiều đã kêu chiều bằng tiếng gió, trong ta đêm xuống rất bạo tàn” (Nguyễn Tất Nhiên). Lúc ấy tiếng gọi “phản phục quy nguyên” lên tiếng. Bởi “vạn vật giai bị ư ngã phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên”. Nhưng thường thì chúng ta mãi không nhận ra vì mắt chúng ta mù quáng trước Vô Thể và tai chúng ta điếc lòi trước tiếng gọi của Vô hình. Và những khuynh hướng của đám đông xúi giục chúng ta làm lơ đi thể tính của bản ngã tự tại, một suối nguồn phong nhiêu cho sáng tạo. Ta cần phải trở thành chính ta. Bởi từng cá nhân là từng con người độc sáng, không hề lặp lại trong sử lịch thời gian:

“Chôm chôm trên cành
đâu bao giờ mơ tưởng
Thành sầu riêng ngon lành”

(Trần Văn Hiến)

Ngay cả chôm chôm cũng biết hài lòng với thân phận. Chúng an vui sống trong sự hiện trình của loài chôm chôm. Nhờ thế mà chúng không bị lẫn đi với bất kỳ một loại trái cây nào khác. Một bài haiku giản dị mà vi tế của tinh thần “phản phục quy nguyên”.

Martin Heidegger đã viết cho Rilke: “Vào thời đại đêm tối của thế giới, hố thẳm phải được học và học cho cạn. Mà muốn như thế phải có người vươn tới Hố thẳm”[3]. Hiển nhiên là Rilke đã vươn tới hố thẳm và gắng truyền đạt lại cho chúng ta một kinh nghiệm uyên nguyên của nhân sinh đã bị những tập khí di truyền nội tại và ngoại tại làm cho mờ tối. Mọi cách học phải đóng cửa ẩn mình “chẳng tu thì cũng như tu mới là…”. Hố thẳm càng sâu dày thì chất chứa nghi tình càng lớn. Và nghi tình này, đến lượt nó, làm cho kẻ học đốn ngộ do kinh nghiệm uyên nguyên dễ dàng khai mở khi chúng ta vượt qua.

“Không chết trần truồng không thể được
chúng tôi đập vỡ những hình hài
cuộc sống phải thừa như không khí
cuộc sống phải thừa như sớm mai”

(Thanh Tâm Tuyền)

Những ngón tay hoài vọng đưa ra rồi khô đi và rụng xuống dòng đời luôn di động. Ai biết được hồn mình đã rụng mất hai tay? Cái đau thương ấy làm lời thơ thêm âm vang u uẩn. Và cái cao ngạo vì thế mà có lần đã sinh ra do anh hoa phát tiết, và gây bao nhiêu ngộ nhận cho tha nhân. Ai biết được vào một sớm mai hồng có chàng thi sĩ cô đơn trong niềm tương giao thông cảm níu kết với đời đã âm thầm, không cười không nói, hiu hắt bước vào cõi mộng của tình điên:

“Em về mấy thế kỷ sau
Ngó trăng còn thấy nguyên màu ấy không?
Ta đi gửi lại đội dòng
Lá rơi có dội lại trong sương mù?”

(Bùi Giáng)

Và bao nhiêu nước mắt của thiên tài rồi sẽ vì đời mà còn chảy mãi. Một cánh chim ngàn đốt tổ bay đi. Về đâu? Đương nhiên là về một phương trời còn hoài vọng:

“…Lệ ứa ra hai hàng,
Lệ thương thân dã tràng
Nghìn xót xa cũng muộn
Rồi mai sau nhớ lần đầu…”

(Vũ Thành An)

Định mệnh của thi nhân trên dòng lịch sử là định mệnh của con đường thập giá:

“…Tình vui theo gió mây trôi
Ý sầu mưa xuống đời
Lệ rơi lấp mấy tuổi tôi
Mấy tuổi xa người…”

(Tình khúc thứ nhất, Lời: Nguyễn Đình Toàn, nhạc Vũ Thành An)

hay

“Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hận diệp tiêu tiêu”

(Nguyễn Trãi)

Chúng ta hãy để ý. Lời đầu bài ca và câu thơ đầu như một nét gạch ngang dứt khoát, hơi văn đi một nhịp thật bạo tàn: “tình vui như gió mây trôi”, và “Chuyện kim cổ xưa nay như nước chảy mãi”, tàn nhẫn và vô tình trôi lướt qua. Câu nhạc và thơ thứ hai gạch xuống một nét dọc khác âm u và ngậm ngùi “ý sầu mưa xuống đời”, và “lá vàng rơi”, làm cấu trúc thơ nhạc thành một cây thập giá của cuộc đời để “lệ rơi lấp mấy tuổi tôi” và để cho anh hùng ngàn năm mang hận.

Quy luật này là tất yếu chăng? Hình như không còn ngoại lệ nào khác:

“Hễ đã hơn người và vượt bậc
vinh quang rồi đến lúc lao đao”

(Tuệ trung thượng sĩ)

Nhưng “sơn cùng thuỷ tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh hựu nhất thôn”. Kẻ sĩ rút lui vào trong tư tưởng, âm thầm nuôi dưỡng đời mình, hoài thai một nỗi niềm tự nhiên thanh thản, như hình tượng của đức phật mắt lim dim hướng về bên trong. Nhờ sự rút lui này mà thế gian được triển nở. Khi ấy sự sáng tạo của vũ trụ sẽ diễn ra thông qua bản thân ta. Con người chỉ như còn một nhịp cầu nối, cho hiện vật hiện trình như chính nó là. Công cuộc ấy, nhân gian gọi là sáng tạo, còn người tỉnh thức thì gọi là phát kiến tâm linh.

Mộc Các, Sài Thành, tháng 5/2006

---

[1] Trích dẫn theo Cao Tôn, Triết gia Trần Đức Thảo, bài đăng trên talawas.
[2] Trích dẫn theo Andre Niel, “Những tiếng kêu lớn của chủ nghĩa nhân bản hiện đại”, Bản Việt văn của Mạnh Tường, Nxb Ca dao, Sài gòn, 1969, Trang 25.
[3] Rilke, “Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi”, bản Việt văn của Hoàng Thu Uyên, Nxb Ca dao, Sài Gòn 1973, Lời nói đầu.

#1
    meocon_thongminh93 02.08.2006 08:56:38 (permalink)
    Tiếng vang cuộc sống

    Vùng kia, nơi dân cư mộ đạo, có một hang đá “Tâm Linh”, nhưng người dân thường gọi là “hang đá đời sống”. Thanh niên trong làng đến tuổi mười tám phải sống trong những ngõ ngách của hang đá một năm để giác ngộ một chân lý tối cao của đời sống, sau đó được xem như đã trưởng thành.

    Tháng đầu tiên, anh nào cũng chán nản như nhau vì chẳng thấy gì ngoài cô đơn miên viễn. Có anh chàng chán nản hét lên “cô đơn quá”. Tiếng vang dội lại ngay “cô…đơn…quá…”. Ba tháng sau anh ta hét “phải chấp nhận thôi”. Hang đá âm u dội lại “chấp…nhận…chấp… nhận…”. Rồi anh ta sống cùng với cỏ cây hoa lá vui đùa với từng đàn chim chóc vây quanh. Năm tháng sau tiếng vang dội lại “đời cũng vui chứ nhỉ”… “vui chứ nhỉ…”. Rồi thời hạn một năm cũng qua. Ngày cuối cùng, có một tiếng hét lanh lảnh “quả nhiên đời sống tuyệt diệu vô biên”. Và khi tiếng vang dội lại “tuyệt diệu vô biên”, anh ta chợt thấy thân mình đổ sụp xuống, một cảm giác an lạc vô biên bừng hiện. Chàng trai chợt thấu suốt hết sự sang trọng và quý phái vô cùng của sinh mệnh. Trở về làng, chàng sống cực kỳ vui vẻ an lạc, thật chậm rãi và bình thản trong mọi cuộc tiếp giáp, lúc nào cũng thanh thản. Vị trưởng làng xác nhận anh ta đã thực sự trưởng thành.

    #2
      meocon_thongminh93 02.08.2006 08:56:49 (permalink)
      Lụy

      Những cành mai trắng xô đẩy tôi làm người tử sinh.

      #3
        meocon_thongminh93 02.08.2006 08:57:01 (permalink)
        Con ma nhảy múa

        Bạn đã bao giờ thấy một con ma nhảy múa chưa? Nó đang ở trước mặt bạn đấy.

        #4
          meocon_thongminh93 02.08.2006 08:57:14 (permalink)
          Phố không đèn

          Thế giới chúng ta luôn tồn tại hai thành phố: thành phố sáng và thành phố không đèn. Bạn thử nhìn từ trên cao xem, dãy nhà nằm sắp hàng như mộ bia. Thế giới chúng ta đó. Ban đêm dãy nhà mồ ấy sáng đèn.
          Còn thành phố kia? Nghĩa trang. Bóng tối của cái chết không bao giờ có ánh sáng. Ngày, vầng dương đi qua. Đêm, những vì sao lấp lánh. Và thành phố ấy cũng bình yên như thành phố chúng ta vậy.

          #5
            meocon_thongminh93 02.08.2006 08:57:24 (permalink)
            Người quyển lịch

            Đời sống nhân gian như quyển lịch treo tường. Mỗi người có một số trang hạn định. Từng ngày qua, sự sống rơi rớt dần từ thân thể. Thời gian âm thầm bóc ta đi từng trang một như người ta bóc vỏ một củ hành. Cho đến ngày chúng ta hết trang tiêu biến đi không còn gì nữa cả.

            #6
              meocon_thongminh93 02.08.2006 08:57:52 (permalink)
              Cái túi thần kỳ

              “…soi bóng đời bằng gương vỡ nát…”

              Trúc Phương

              Lang Thang là một diễn viên trong đoàn kịch “Cuộc đời”. Trên vai anh ta lúc nào cũng mang một cái túi mà nhân gian thường gọi là “cái túi thần kỳ”. Trong cái túi đó có đủ thứ đồ chơi. Mỗi khi diễn đến vai hài, Lang Thang lại lấy ngay từ trong túi ra một cái mặt nạ cười và một bộ trang phục diêm dúa khoác ngay lên mình. Mỗi khi đến cảnh buồn, Lang Thang lại có ngay một bộ mặt sầu bi và một bộ trang phục thê thảm. Nhưng trong cái túi thần kỳ có thêm một vật mà nhân gian không ai biết tới. Đó là một cái gương soi. Để những khi ngồi trầm tư một mình trong căn phòng vắng, Lang Thang lại lấy ra soi để tìm lại gương mặt thật của chính mình.

              #7
                meocon_thongminh93 02.08.2006 08:58:05 (permalink)
                Trò chơi

                Trước mặt tôi là quả địa cầu. Nếu nhìn kỹ, bạn sẽ thấy biển và những tảng băng ở hai đầu địa cực. Cách quả địa cầu chừng một gang tay có những lớp mây dày bao phủ và lặng lờ trôi. Tôi dùng một cái kính lúp soi kỹ vào từng quốc gia để thấy rõ hơn núi đồi và những dòng suối. Lâu lâu tôi hà hơi vào địa cực cho băng tan làm mực nước biển dâng lên cho vui mắt. Rồi tôi dùng hai ngón tay tách cho đất nứt ra làm thành những cơn động đất. Dùng một kính hiển vi điện tử siêu mạnh, tôi soi khắp bề mặt địa cầu để thấy người lố nhố và xe cộ ngược xuôi. Tôi lấy mũi kim chạm vào mấy chiếc xe gây tai nạn, thọc ngón tay xuống biển rồi quay quay cho giông bão nổi khắp trời. Nhưng có những ngày tôi rất mệt. Tôi chỉ ngồi yên và ngắm quả địa cầu xem mây bay nước chảy, rồi dùng kính hiển vi xem người ta xây nhà hay thu hoạch những đồng lúa chín bội thu.

                Chắc bạn đã đoán ra tôi là ai rồi phải không? Chúc mừng bạn. Bạn đã đoán đúng rồi đấy.
                #8
                  meocon_thongminh93 02.08.2006 08:58:27 (permalink)
                  RỪNG TRÚC NĂM XƯA

                  Có một ngôi nhà khiêm nhường trên núi cao. Gia đình tôi sống ở đó. Tôi trồng một khóm trúc phía sau nhà, kê một cái bàn đá, đôi lúc tôi ra đó uống trà bên một người vợ hiền thục và một lũ con vây quanh. Hay vào những đêm trăng sáng, tôi độc ẩm và ngắm khóm trúc sau nhà rì rào trong gió. Đó là những phút giây thảnh thơi nhất đời tôi. Nhưng đời này không phải lúc nào cũng được như thế.

                  Con cái tôi lớn dần đến tuổi đi học. Tôi phải xuống núi tìm mua nhà trong thành phố cho chúng tiện đường đến trường đến lớp. Người vợ tảo tần của tôi cũng buôn bán như con cò lặn lội bờ sông nuôi một lũ con và một thằng chồng làm thơ. Nhà nơi thành phố chật hẹp, không có đủ chỗ ở, còn nói gì đến chuyện trồng cây. Tôi nhớ bụi trúc sau nhà đến mức phải tìm mua một bức tranh thủy mặc vẽ trúc và đá núi treo lên vách để đôi khi uống trà hay nhâm nhi ly rượu thì còn có cái mà nhìn mà tưởng tượng. Dòng đời cứ thế mà trôi đi.

                  Các con tôi đã lập gia đình hết cả rồi. Tôi mới nuôi ý định cùng vợ mình đi về ẩn dật tại ngôi nhà trên núi xưa kia. Nàng đồng ý. Nhưng ý định chưa kịp thực hiện thì nàng ngã bệnh rồi qua đời. Những tháng năm lam lũ đã rút hết sinh lực của nàng. Tôi khóc hết nước mắt, đem nàng đi hỏa thiêu rồi mang tro bụi của nàng về ngôi nhà xưa kia trên núi.

                  Ngôi nhà năm xưa vẫn còn đó, nhỏ bé, thanh bình và được phủ một lớp bụi thời gian. Khóm trúc xưa kia giờ đã thành rừng. Những dãy trúc mọc dài ngút mắt, như dẫn lối tôi vào miền tiêu dao. Tôi đem tro tàn của vợ mình vùi xuống một khóm trúc. Chắc ở nơi này nàng sẽ bình yên, không phải còn lo lắng gì nữa.

                  Tôi quét dọn lại nhà cửa rồi vui thú những tháng ngày còn lại của đời mình. Khi chén rượu khi cuộc cờ (tự mình đánh với mình), khi nhìn hoa nở khi chờ trăng lên. Khi nào rừng núi gọi tên, ngủ yên thân xác cho triền miên quên?

                  Một buổi chiều tàn, tôi ngồi độc ẩm nơi chiếc bàn đá và ngắm đất trời cùng rừng trúc hoang vu. Rượu đã ngà say, tôi chợt thấy một vật sắc nhọn đâm thấu tim gan mình nhức buốt không sao ngăn lại được. Vật đó dâng cao dần cao dần lên khiến người tôi càng lúc càng dài ra. Mười ngón chân tôi cũng dài ra mãi và cắm sâu xuống đất. Tay tôi thon nhỏ dần thành những chiếc lá. Tôi chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, người tôi cứ dâng cao lên mãi, hơn cả nóc nhà tranh. Cho đến khi tôi kịp hoàn hồn thì thấy thân hình mình đã khẳng khiu, thả một cái bóng đen dài xuống vùng đất đỏ. Tôi đã thành một cây trúc từ lúc nào không hay.

                  Đứng ở đây, xa lánh và bình thản, cũng có thể tự hiển lộ mình qua tiếng rì rào của lá trúc. Nhân gian không biết tới nhưng chỉ mình ta biết ta là được rồi. Cứ như thế, tôi lặng đứng từ bao năm qua, hài lòng với hiện tại ở cảnh giới này.

                  #9
                    meocon_thongminh93 02.08.2006 08:59:18 (permalink)
                    THỜI TRÂN

                    Mỗi lần gần gũi, tôi thường vuốt ve bàn chân ngà ngọc của nàng, rồi cắn nhẹ vào gót sen đó. Nhưng sao hôm nay gót chân nàng lại dịu mềm và mát rượi thế nhỉ. Khi tôi đưa miệng cắn nhẹ vào chân nàng, miếng thịt ấy chợt mềm mại như đông sương, ngọt thanh như một miếng thạch dừa, ngon không thể tả. Tôi phải ăn hết hai bàn chân nàng mới đủ no. Nhưng liệu vì tôi mà nàng có thể trở thành tàn phế không? Dù sao, nàng cũng không cảm thấy đau đớn gì và tôi cũng không thấy máu chảy ra, da thịt nàng mau chóng lên da non và liền lại. Từ chỗ đó, một bàn chân nhỏ xíu như của em bé nhú dần và nở ra. Đúng ba tháng sau thì bàn chân nàng phục hồi như cũ. Từ đó, tôi mới biết thêm một món thời trân. Nhưng mỗi năm tôi chỉ dùng có hai lần thôi để nàng chỉ phải nằm nhà nuôi chân sáu tháng. Còn lại sáu tháng kia nàng phải đi làm. Trong khoảng thời gian chờ đợi đó, tôi ngồi viết sách về những món thời trân.
                    #10
                      meocon_thongminh93 02.08.2006 08:59:31 (permalink)
                      BẠN BÈ

                      “Cử bôi yêu minh nguyệt
                      Đối ảnh thành tam nhân”

                      (Lý Bạch)

                      Hoang vu mãi cũng chán. Hắn bèn tìm kiếm người để tâm sự hàn huyên. Nhưng làm sao có thể tin ai được ở thời buổi này? Hắn mới lấy cái bóng của mình làm bạn. Nhưng để chắc ăn, mỗi khi ra chốn đông người, hắn thu nhỏ cái bóng của mình lại nhét vào trong túi quần. Và như thế không ai biết hắn có một người bạn thân cả. Chỉ khi về đến hang ổ của mình, hắn mới lấy cái bóng của mình ra từ trong túi rồi trải dài trên mặt đất để cùng nói chuyện với hắn hay cùng uống với hắn một lon bia.

                      Lúc đó hắn thấy mình cất lên một câu nói của Thanh Tâm Tuyền “Tôi không còn cô độc”.

                      #11
                        meocon_thongminh93 02.08.2006 08:59:46 (permalink)
                        NGƯỜI ĐÁY GIẾNG

                        Tôi đã tìm ra một cái giếng cạn bỏ hoang không người ở. Tôi cũng chẳng có nhà. Vì thế, khi nhìn thấy một cái giếng hoang, tôi vui mừng dọn dẹp cỏ dại, chất rơm xuống làm thành một chỗ trú ẩn ấm áp và an toàn. Cái chính là phải an toàn. Giếng được xây bằng đá tảng, sâu ba mét, thành cao nửa mét. Tôi kiếm được một tấm ván dày và nặng dùng để đậy nắp giếng, tránh mưa gió. Rồi tôi thắp đèn, xem xét hang ổ của mình. Nói chung là hơi tối và hơi chật nhưng cũng vừa vặn với thân hình lép kẹp của tôi. Rồi tôi đục mấy cái lỗ ở thành giếng để quan sát tình hình. Phải đề phòng mới được. Nếu có kẻ thù vây khốn, tôi có thể nhìn thấy, chờ nó đến lật nắp ván tôi sẽ đâm nó một nhát chí mạng chết tươi. Nhưng tôi cũng chuẩn bị thêm được một ít đá để ném, một ít chai lọ vỡ để cào, và chút ít cỏ dại trái cây để ăn. Dần dần tôi yêu thích chốn trú ẩn của mình và nghĩ đến việc đào rộng thêm ra. Dùng một cái xẻng mà tôi vừa ăn cắp được (chứ bản thân tôi thì có gì đâu), tôi đào sâu vào thành giếng, mở ra một ngách thoát. Rồi từ ngách này, tôi đào thành một căn phòng nhỏ. Cứ như thế, tôi đào được ba phòng. Một phòng khách, một phòng ngủ và một phòng vệ sinh. Hợp lý quá rồi còn gì. Vì tôi không có bạn bè gì cả (ai dám có bạn bè gì ở thời khốn nạn này. Mấy lần tôi lầm lỡ trút bầu tâm sự với mấy kẻ giả danh tình bạn, tôi đều bị tố với công an và nhận vài trận đòn chí tử. Trên người tôi, những vết sẹo của trận đòn thù không bao giờ lành. Cứ rướm máu mãi. Từ đó, tôi trốn chạy con người. Dù thế, đôi lúc nhìn thấy mấy em gái dễ thương, tôi cũng thèm nhỏ dãi nhưng ai chịu làm bạn với một con người bệnh tật và máu me đầy người như tôi?), nên phòng khách cũng đồng thời là phòng ăn. Cỏ dại trái cây tôi chất ở đó. Nước uống thì có sẵn. Tôi đào một lỗ nhỏ ở đáy giếng xuống sâu nửa mét là có nước uống rồi. Thế là ta đã có một giang sơn. Tôi mỉm cười khoan khoái. Không có một thằng người khốn nạn nào có thể đến đây được. Ơû đây, lũ chuột rất nhiều, rúc rích suốt ngày đêm. Tôi làm bạn với lũ chuột và giảng kinh Phật cho chúng nó nghe. Thế là lũ chuột chuyển hướng ăn chay, sang làm loài chuột ăn cỏ. Có mấy con siêng năng tu tập nên đã đắc quả A la Hán nữa chứ. Tự nhiên tôi là giáo chủ của lũ chuột ngô nghê.

                        Ở giếng sâu, điều tôi thích nhất là quan sát được hết động tĩnh của lũ người trần gian qua những khe ở thành giếng. Nhưng loài người lại không biết đến sự hiện diện của tôi. Thế mới hay chứ.

                        Tôi vẫn sống ở đáy giếng từ đó đến giờ. Nếu bạn đi ngang qua một cái giếng bỏ hoang, hãy biết rằng có tôi ở trong đó nhé. Nhưng đừng có ghé vào thăm tôi làm gì. Tôi sống một mình đã quen. Hơn thế, tôi đã chán loài người lắm rồi.

                        #12
                          meocon_thongminh93 02.08.2006 08:59:55 (permalink)
                          KIẾM TÌM
                          A đang kiếm tìm phòng học. Hôm nay, nó đi trễ có mười phút mà phòng học đã biến mất nơi đâu. A chạy lên chạy xuống chạy qua chạy lại suốt năm tầng lầu mệt bở hơi tai. Thoáng thấy mấy đứa bạn nói cười nơi ghế đá sân trường, A chạy hộc tốc xuống hỏi chúng nó phòng học. Nhưng khi đến nơi, chúng nó lại đi đâu mất. Một cách vô tình mà ai cũng rời bỏ ta. Chỉ trễ vài phút thôi, ta không bao giờ còn nhập cuộc được nữa.
                          #13
                            meocon_thongminh93 02.08.2006 09:01:33 (permalink)
                            'Người đàn bà trong cồn cát' và thảm kịch nhân sinh

                            “…chén rượu cay,
                            Một đời tôi uống hoài,
                            Trả lại từng tin vui
                            Cho nhân gian chờ đợi…”

                            Trịnh Công Sơn (1937-2000)


                            Sống, nghĩa là chúng ta thực hiện các cuộc tương thoại. Cuộc tương thoại ấy có thể là tư cách cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, và ta với ta.

                            Kiểu tương thoại sau cùng ấy là một nỗ lực chiêm nghiệm suy tư nhằm khơi mào đến những chủ đề sâu rộng và dàn trải ra như: Triết lý là gì? Đời sống là gì?… nói cách khác hơn là chúng ta tìm cách tương thoại giữa tư tưởng và thi tưởng trong sự phân tranh cùng tột của giới hạn ngôn ngữ nhân gian vốn đầy tràn ngộ nhận, và phải đánh liều với hiểm họa tối thượng để nói lên Như Thể. Như thế, cuộc tương thoại này cần phải được đặt ra một cách trang trọng ưu liệt trên những mong manh và phù phiếm của người đời.

                            Những ngôn từ ấy là của Martin Heidegger. Và như thế, khi chúng ta đọc một tác phẩm văn học, ấy là chúng ta đã bước vào một cuộc tương thoại đặc biệt.

                            Theo Bakhtin, đối thoại là bản chất của cuộc sống con người “con người tham gia cuộc đối thoại ấy bằng toàn bộ con người mình và toàn bộ cuộc đời mình… Bản Ngã không chết. Cái chết chỉ là sự ra đi. Con người ra đi khi đã nói lời của mình, nhưng bản thân lời nói ấy còn lại mãi mãi trong cuộc hội thoại không bao giờ kết thúc…”1. Và Bùi Giáng cũng viết: “Em về mấy thế kỷ sau, ngó trăng còn thấy nguyên màu ấy không, ta đi gửi lại đôi dòng, lá rơi có dội lại trong sương mù?”. Nhưng còn hơn thế nữa, khi ta song thoại thì tác phẩm văn học ấy đưa ta vào một cuộc đối thoại kép, một cuộc đối thoại song trùng. Độc giả vừa phải đối thoại với tác giả vừa phải đối thoại với “trường văn hoá” mà tác giả đó hiện diện. Theo Đoàn Văn Chúc, “trường trong trường văn hoá được hiểu tương tự như trường trong vật lý học, là một khu vực trong đó một hiện tượng từ hay điện, hay một hệ thống lực được biểu thị. Từ đấy, một cách ẩn dụ, trường văn hoá là một không gian - dân cư trong đó một hay những sự kiện văn hoá được diễn ra”2. Và vì thế mà mỗi dân tộc sống ở một không gian cư trú riêng, một loại hình dân cư riêng nên những sự kiện văn hoá và tập tục, cách suy nghĩ của các dân tộc cũng có sự khác biệt. Có giống nhau thì chỉ giống nhau về bản chất những nỗi niềm của thân phận con người, còn cách diễn tả những nỗi niềm ấy thì khác biệt tùy vào từng dân tộc, từng cá nhân con người. Điều này càng rõ rệt hơn khi chúng ta đọc một tác phẩm văn học nước ngoài.

                            Nhật Bản với vị trí địa lý đặc thù của mình là quần đảo, trong suốt lịch sử dài lâu của mình đã tránh được các cuộc xâm lăng của đế quốc do vị trí địa lý xa xôi nhưng vẫn tiếp thu được trọn vẹn những tinh tuý của văn học và văn hóa Trung Quốc một cách tự nguyện bằng cách gửi người sang du học. Những thành tố ngoại sinh này được kết hợp nhuần nhị với nền văn hóa bản địa quần đảo một cách đặc sắc. Vì thế ngay từ thời kỳ bắt đầu có chữ viết và chủ quyền chính trị, thì Nhật Bản đã tự xây dựng cho mình được một diện mạo văn hoá riêng, với một bản sắc văn học riêng độc đáo, đầy bản lĩnh mà đỉnh cao là tác phẩm Genji monogatari (Nguyên thị vật ngữ) của nữ sĩ Murasaki Shikibu viết vào đầu thời kỳ Heian (794-1192), kể về những mối tình say đắm của chàng Hoàng tử Genji. Rồi sau đó là sự chìm đắm trong “cuộc hành trình nội tại” của bản sắc dân tộc mà theo Kawabata thì dường như “từ thời Heian trở đi văn học Nhật Bản dường như chỉ đi xuống” trong khói lửa và nội chiến. Từ lúc ấy, văn học Nhật Bản cứ mãi đợi chờ một luồng gió mới.

                            Phải đến thời Edo (1604-1867), khi chính quyền Mạc phủ của Ieyasu bắt đầu mở cửa buôn bán với các nước Hà Lan, Bồ Đào Nha và Anh thì một làn gió mới manh nha cho nền văn học Nhật Bản. Làn gió văn học phong tình nổi lên với Ihara Saikaku qua những tác phẩm Chàng trai đa tình (Koshoku ichidai otoko - Hiếu sắc nhất đại nam), Cô gái đa tình (Koshoku ichidai onna - Hiếu sắc nhất đại nữ), Năm cô gái si tình (Koshoku gonin onna - Hiếu sắc ngũ nhân nữ)… Làn gió tươi mát của bờ cõi Hoa nghiêm với những vần thơ Thiền trong sáng của Matsuo Basho, mà đỉnh cao là Con đường sâu thẳm (Oku no hosoi michi - Aùo chi tế đạo)…

                            Nhưng phải chờ đến thời Minh Trị (1868-1911) cùng với những cải cách duy tân của Thiên Hoàng Minh Trị, thì mới là “thời đã đến” của văn học Nhật Bản. Ngọn gió văn chương hiu hắt được thổi bùng lên và bay phần phật trong tâm tư những con người dấn thân làm văn nghệ. Từ Mori Ogai, Shimazaki Toson rồi đỉnh cao là Natsume Soseki, văn học hiện đại của Nhật Bản đã thức tỉnh và sải những bước dài sau đó qua các thời Đại Chính (Taisho) (1912-1925), Chiêu Hoà (Showa) (1926-1989) qua những tên tuổi lẫy lừng như Akutagawa Ryunosuke, Yokomitsu Riichi, Kawabata Yasunari. Văn hào Kawabata đã đưa Nhật Bản bước thẳng lên văn đàn quốc tế với giải thưởng Nobel văn học năm 1968. Và chỉ sau đó hai mươi sáu năm bước chân của Kawabata lại được tiếp nối bởi Oe Kenzaburo, người nhận giải Nobel văn học thứ hai cho nền văn học hiện đại Nhật Bản vào năm 1994. Đó là “thời đã mãn” cho nền văn học phương Đông trầm mặc và kiêu hùng này.

                            Những bước chân tuy âm thầm mà vang dội ấy của nền văn học hiện đại Nhật Bản đã làm kinh ngạc cả thế giới. Những nhà nghiên cứu bắt đầu triệt để tìm hiểu “sức mạnh vượt trội” của nền văn học Nhật Bản và họ đã tái “phám phá” ra những tên tuổi khác như Mishima Yukio, Tanizaki Junichiro, Murakami Haruki, Yoshimoto Banana… Và trong số đó có một tên tuổi mà đến bây giờ người ta vẫn còn nhắc nhở đến vì những bài học nhân văn thể hiện trong nhiều tác phẩm mang tính biểu tượng cao độ. Đó chính là Abe Kobo. Nói như Nietzsche “con người chết đi là để trở thành bất tử” thì đúng là thời gian qua đi càng làm cho tên tuổi Abe Kobo ngày càng trở nên chói sáng rạng rỡ huy hoàng.

                            Abe Kobo, nhà văn Nhật Bản, sinh năm 1924 tại Tokyo và mất năm 1993. Ông tốt nghiệp đại học Tokyo, chuyên ngành y khoa. Tác phẩm của ông có tiếng vang lớn trên trường quốc tế. Abe Kobo thường miêu tả nỗi bất an xao xuyến của thân phận con người, với phong cách siêu hiện thực (chougenjitsu). Những tác phẩm lớn của ông có thể kể đến là Người đàn bà trong cồn cát (Suna no Onna), Bức tường (Kabe), Gương mặt tha nhân (Tanin no kao), Con thuyền Sakura… Năm 1951 (Chiêu Hòa thứ 26), tác phẩm Bức tường (Kabe) của ông nhận được giải thưởng văn học Akutagawa. Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát (Suna no onna) in năm 1962, nhận được giải “Yomiuri Bungakushou” (Độc mãi văn học thưởng) và giải thưởng cao nhất của Pháp dành cho tác phẩm nước ngoài. Truyện của Abe Kobo ngập tràn các biểu tượng và ẩn dụ. Ngay cả từ những tiêu đề tác phẩm, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.

                            Trong số những nhà văn hiện đại Nhật Bản thì Abe Kobo và Murakami Haruki có sở trường dùng cách biểu tượng một cách nhuần nhị để diễn đạt tự tưởng của mình.

                            Và chúng ta hãy cùng khám phá một tác phẩm lớn quan trọng của Abe Kobo là Người đàn bà trong cồn cát. Bằng cách tương chiếu giữa Heidegger và Abe Kobo, chúng tôi cố gắng làm sáng tỏ tư tưởng chính yếu của tác gia này trong việc đào sâu suy tư đến mức trầm tích sâu nhất có thể nhằm tát cạn một tư tưởng chung cuối cùng mang tính phổ quát nhất của tác phẩm.

                            Câu truyện nói về Niki Jinpei, một nhà côn trùng học, trong lúc đi tìm một mẫu côn trùng đã lạc bước vào xứ cát. Người ta đưa anh xuống hố cát qua đêm cùng với một người nữ. Sáng ra người ta rút mất thang dây. Và Jinpei tuyệt vọng, nỗ lực tìm cách vượt thoát. Và một lần anh đã suýt vượt thành công. Sau khi bị bắt lại, anh làm việc một cách vô hồn, và chỉ tìm vui khi phát kiến ra cái bẫy nước. Anh cùng với người nữ yêu thương nhau, tìm vui trong lao động để mua một chiếc radio, một chiếc gương soi. Sau cùng người phụ nữ có thai ngoài tử cung phải đưa đi cấp cứu. Jinpei trong thế lưỡng khả giữa vượt thoát và ở lại, đã chấp thuận nhận xứ cát này làm quê hương…

                            Truyện chỉ có vậy. Nhưng chỉ có vậy là thế nào? Những tình tiết đơn giản mở ngỏ ra vô vàn các khả năng. Có một sự tương hợp lạ kỳ giữa tư tưởng của Abe Kobo gửi gắm qua tác phẩm với tiến trình suy tưởng của Heidegger. Khi nhận thấy điều đó, thoạt đầu chúng tôi kinh hoảng nhưng sau khi bớt choáng váng, chúng tôi quyết định đặt hai tác gia này trong một cuộc tương thoại khả năng. Có thể đây là một hành động liều lĩnh và dại dột nữa. Nhưng như chúng tôi đã nói, nếu triệt để suy tư, chúng ta sẽ thấy cuộc tương thoại này mở ngỏ ra vô vàn các khả năng mà tự chúng soi chiếu lẫn nhau trong các bước đi uyển chuyển của tư duy triệt để…

                            Thoạt kỳ thủy là như thế. Con người là một hữu thể bị quăng ném vào cõi nhân sinh. Đó là khởi điểm suy tư của Heidegger. Và đó cũng là quang cảnh mở đầu câu truyện Người đàn bà trong cồn cát3 của Abe Kobo. Niki Junpei, người mà đến cuối truyện chúng ta mới biết tên qua thông báo tin mất tích của Tòa án Nội Vụ, chợt bị quăng ném vào một hố cát - hố thẳm vực sâu của vùng vẫy cưỡng kháng ở khoảng giữa chấp nhận và chối từ, một chốn ngụ cư của Hữu - tại - thế và Hữu - quy - tử. Thoạt đầu anh rất ngạc nhiên, và chỉ có mình anh là ngạc nhiên thôi, mọi người khác thì bình thản. Chúng ta cần phải nhớ rằng ngạc nhiên chính là khởi điểm của suy tư. Sự ngạc nhiên xô đẩy Jinpei tìm hiểu vấn nạn mình đang mắc phải. Và điều đầu tiên anh tìm thấy chính là sự phi lý của thân phận, của hiện tại. Anh không biết tại sao mình bị bỏ rơi ở chốn này, anh không không hiểu tại sao người khác cứ mặc nhiên chấp nhận hoàn cảnh bỏ rơi này mà không hề ngạc nhiên, không hề tức giận, để vẫn tồn tại hồn nhiên như cỏ cây. Sự hiểu biết thoạt tiên sẽ đưa đến niềm tuyệt vọng và cùng với nó là sự kiếm tìm giải pháp giải thoát. Sự hiểu biết, do đó, đã gợi mở ra một con đường… “Đường về thơ giắt sau lưng, biết rằng tài mệnh đi chung một đường…”. Dĩ nhiên khi chúng ta gọi tên và dàn bày phơi mở thể tính của con đường thì cùng lúc ấy “đường” vừa là khởi điểm và “đường” cũng sẽ là chung cục, tức là con đường sẽ cùng lúc vừa ở phía trước vừa ở phía sau ta. Con người sẽ rơi vào một tình huống lưỡng khả: đi về trước có thể sẽ bị rớt lại đằng sau và đi thụt lùi dọ dẫm thì có khả năng tiến về trước để triển nở thân phận và kiện toàn nhân vị. Cho nên khi chuẩn bị kêu gọi khởi sự lên đường mà nghe như hàm hồ nghịch nghĩa “còn không một bận quay về, đường xưa có ánh trăng thề vàng gieo” (Bùi Giáng) là vì lẽ ấy. Cái đó là cái mà Husserl gọi là “dẫn thoái”. Và điều đó là cho kẻ khởi sự lên đường nhiều khi phải hoang mang “Tình buồn ngồi khóc lìa tan, ta buồn từ thuở hoang mang lối về, đời như nhạn lạc đáy khe, bay lên bay xuống vẫn nghe lưng chừng…” (Hoàng Long).

                            Bắt đầu từ đó, con người, ở đây là Jinpei, mới thành tâm suy tư và tìm kiếm qua những hành động có thể tái ban phát cho đời mình một ý nghĩa sống, để tìm kiếm lại chính mình. “Tìm thấy ta rồi, sằng sặc cười, nước mắt cả một đời, thành một dòng hư ảo, thế thôi?” (Hoàng Hưng).

                            Và cái vấn nạn mà Abe Kobo đặt ra và khai triển qua nhân vật Jinpei liệu có giúp chúng ta đào sâu và tát cạn hết ý nghĩa của tình thế để làm hành trang vào đời giữa lòng nhân loại hôm nay?

                            Hành động then chốt của Jinpei sau một lần vượt thoát không thành đó là chấp nhận cư ngụ với hiện tại ở chốn này. Anh phải chấp nhận nơi lưu đày này làm chốn an cư. Đó là điều mà Heidegger cũng nói tới. Con người không biết vì sao mình bị bỏ rơi tại thế giới này và không biết mình sẽ đi về đâu, nên thế giới lưu đày này cũng đồng thời là chốn an cư. Nhưng con người phải tìm lại cho mình một ý nghĩa sống. Theo Heidegger, vì lẽ đó mà con người khởi sự suy tư. Còn Abe Kobo cho Jinpei tựu thành thể tính con người qua việc sáng chế ra cái bẫy nước giữa vùng hoang mạc. Đó là hành động căn để, mang tính then chốt của tác phẩm. Hành động này cần được soi sáng trong chính nó. Vũ Quần Phương, khi viết bài tựa cho bản dịch Việt ngữ, cũng đã nhận thấy điều này, nhưng chúng ta thật ngạc nhiên khi thấy ông phân tích xiết bao hời hợt về hành động cốt tử đó. Mượn cách nói của triết gia V. Soloviev thì ông "đã “bơi nông” một cách đáng kinh ngạc”. Vũ Quần Phương viết: “Anh (tức Jinpei) nấn ná ở lại chính vì cái bẫy nước. Anh đã phát hiện ra cách lấy nước giữa vùng khô khát này. Anh phải trao lại cái phát minh đó cho một ai đó. Cái phát minh đó, ác thay, chỉ có ý nghĩa với dân sở tại. Trước kia, anh chạy trốn họ, bây giờ anh đợi gặp họ. Tất cả sự thâm thúy của cuốn truyện nằm ở chi tiết này"4.

                            Nếu sự “thâm thuý” của câu truyện này chỉ có thế thì còn gì là Abe Kobo? Chúng tôi có cảm giác như Vũ Quần Phương lấy xẻng đâm vài nhát xuống bề mặt tác phẩm rồi kết luận “thật là thâm thuý”, và chẳng cần bậm tâm đến việc đào sâu và tát cạn ý nghĩa tác phẩm của mình đã “cạn” như thế nào cả. Xin thưa rằng việc phát minh ra cái bẫy nước không phải là cớ để Jinpei ở lại chốn lưu đày chờ dân sở tại đến để “trao truyền y bát” mà hành động đó chỉ có ý nghĩa lớn với riêng Jinpei, và chỉ có Jinpei mà thôi. Dân sở tại không cần biết đến điều đó. Jinpei đã tìm kiếm lại được thể tính con người qua hành động phát minh, đưa phẩm giá con người lên một chiều kích nhân bản cao nhất. Sáng tạo, tư duy và phát minh là để tồn tại, là ban cho đời người một ý nghĩa sống. Và trong việc chọn lựa ý nghĩa ấy, con người đạt đến một chiều kích hoàn toàn tự do (mà yếu tính của chân lý là tự do và tự do là một đặc tính của con người. Heidegger nói thế5). Tự do ấy không phải từ trên trời rơi xuống mà phải được và chỉ được tựu thành thông qua hành động của con người. Rồi nhịp tự do ấy, may chăng sẽ nối kết một nhịp cầu tương giao vốn đã từng gãy đổ nhiều phen với cuộc sống này trong suốt chiều dài thế kỷ đau thương. Hành động phát minh sáng tạo là lời khẳng nhận quyết liệt của con người nhận chốn lưu đày này làm quê hương đích thực. Bởi thế mà Goethe đã cho Faust dịch câu mở đầu của Thánh Kinh “Khởi thủy là lời” thành “Khởi thủy là hành động”. Phải hành động, hành động quyết liệt, hành động triệt để.

                            Nói như một lời quyết liệt của Albert Camus “Vì muốn làm người nên chối từ làm thần thánh”. Sáng tạo là chiến thắng của con người trước nghịch cảnh đau thương của tự nhiên và của giới hạn trong vòng da máu của thân xác vật. Nên cuối cùng, Jinpei ở lại hố cát, dù có cơ hội thoát đi. Anh nhủ thầm chờ đến lần sau sẽ thoát. Nhưng chúng ta ai cũng biết rằng sẽ không có lần sau nào nữa. Jinpei đã qua cái bẫy nước đã làm lễ tuyên thệ kết hôn với đời sống này, với hy vọng vào một niềm tin mai hậu của chiến thắng con người. Thế là quá đủ cho một kiếp sống hoang vu và nhỏ bé giữa lòng hố thẳm nhân gian. Sự tự thắng vượt đó còn hướng con người đến một chiều kích siêu việt khác nữa. Con người được thanh tẩy để đạt chiều kích nhân bản cao nhất, gột rửa dần tính thô lậu của thân xác vật để vươn lên nhân tính trong huy hoàng và rực rỡ. Đó chẳng phải là niềm vui sướng tột đỉnh của kiếp người hay sao?

                            Thế nhưng tại sao tên của Jinpei không được nhắc tới ở tiêu đề truyện? Tại sao là Người đàn bà trong cồn cát mà không phải là “người đàn ông trong cồn cát”? Tại sao là “Suna no onna” mà không phải là “Suna no otoko”? Đó là một ẩn ngữ nữa của Abe Kobo. Ta cần phải hiểu rằng hình ảnh người đàn bà chính là hình ảnh của đời sống. Chị chính là hình ảnh của một đời sống tối trầm lặng. Tự cuộc sống không có một ý nghĩa nào cả. Ta phải đánh thức cuộc sống bằng những hành động có ý nghĩa của cuộc đời ta. Và chính qua những hành động đánh thức ấy, con người ta triển nở toàn vẹn. Tại sao cuối cùng lại có hình ảnh người phụ nữ chửa ngoài dạ con. Cái thai đã thành hình nhưng chưa thành dạng nhân tính. Chúng chỉ cần so sánh với tác phẩm Faust của Goeth là ý nghĩa này ngay lập tức sáng tỏ chói rạng trước mắt ta. Tại sao đứa con của Faust và nàng Helena lại cũng chết yểu? Bởi vì chúng ta còn lưỡng lự chưa dám dấn thân thực sự để kết hôn với đời sống. Jinpei chưa thực sự chấp nhận cuộc sống. Chấp nhận của Jinpei mới chỉ là nửa vời. Anh vẫn nuôi ý định vượt thoát vào một ngày nào đó.

                            Có một sự trùng lặp nào ngẫu nhiên ở đây không khi Jinpei vừa được dạo bước bên ngoài hố cát thì trên chiếc xe cứu thương người phụ nữ đang quằn quại vì đau đớn. Dĩ nhiên với một bậc thầy như Abe Kobo thì chẳng có ngẫu nhiên nào ở đây cả. Chi tiết này hẳn phải có dụng ý gì chứ. Câu trả lời hẳn nhiên là khi anh vẫn còn có ý ly khai với cuộc sống thì những hoa trái mà anh thu lượm tích cóp bao năm và những nhịp cầu tương giao bấy lâu anh tạo dựng bỗng chốc sẽ phải gãy đổ tan tành. Anh phải dấn thân toàn vẹn, phải ngỏ lời giao ước quyết liệt với cuộc sống bằng một cái thân xác này trăm năm. Jinpei chế tạo được cái bẫy nước để tìm lại mình và ban cho đời mình một ý nghĩa sống thì người phụ nữ có thai. Jinpei nuôi ý định vượt thoát và thực sự đã dạo bước ngoài hố cát thì người phụ nữ quằn quại hư thai. Còn ẩn dụ nào rõ ràng hơn thế nữa? Các biểu tượng tự tương chiếu soi sáng lẫn nhau lấp lánh khôn hàn như thế mà sao một người như Vũ Quần Phương lại không cần biết tới và cứ tự huyễn hoặc rằng mình đã đào sâu đến mức trầm tích cuối cùng. Cùng hội cùng thuyền văn chương với nhau “đôi lứa bên trời chung lận đận” như thế mà còn ngộ nhận nhau một cách tàn khốc như thế thì trách làm sao ta không than một lời của Khổng Tử cho được: “Cây lương mộc có lẽ đổ chăng? Người quân tử có lẽ nguy chăng?”. Và làm sao mà người quân tử không gửi tấm lòng u uất của mình vào cỏ cây, và để trên trán mình khắc ghi những ngọn sóng bạc đầu?

                            Và khi ta hiểu được tình tiết trang trọng ưu liệt của việc khám phá ra cái bẫy nước của Jinpei, thì tác phẩm vụt trở nên rực rỡ trong một giản đơn tính bùng sáng. Và ta sẽ hiểu truyện này có một liên hệ tam giác giữa Jinpei, cái bẫy nước và người đàn bà. Đó là mối liên hệ thiết thân giữa con người và cuộc sống. Bằng chính cái bẫy nước, Jinpei đã tuyên thệ hứa hôn với đời sống, vui vẻ xây dựng một đời sống an cư giữa chốn đọa đày. Cái bẫy nước chính là sợi dây siết chặt Jinpei vào người đàn bà. Và như thế, người đàn bà đã níu kéo được Jinpei. Và như thế Jinpei đã níu kéo được chính mình. Và như thế, con người (qua hình tượng Jinpei) không còn tìm cách chạy trốn khỏi cuộc sống (qua biểu tượng người đàn bà) và hoàn cảnh (qua biểu tượng hố cát), mà tìm cách chung sống với chính nó, bằng chính khả năng của mình, bằng chính sự chấp nhận của mình đầy can đảm.

                            Và đến đây, ta có thể nói rằng “truyện chỉ có thế thôi”. Một câu kết luận nhẹ tựa lông hồng mà để đi đến đó chúng ta phải mệt mỏi trèo qua bao nhiêu ngọn núi của tư duy. Đó mới chính là cốt tủy của những lời nhẹ nhàng mà trầm trọng sau đây của Tô Đông Pha: “Lô sơn yên tỏa Chiết Giang triều, vị đáo bình sinh hận bất tiêu, đáo đắc bản lai vô biệt sự, Lô Sơn yên tỏa Chiết Giang triều”.

                            Vâng, vẫn là “khói tỏa Lô Sơn sóng Chiết Giang” thôi. Vâng, và hiện tượng lúc nào cũng như nhau thôi. Chỉ có bản chất, tâm thế giờ đây đã đổi khác. Và ai đã qua mấy dặm “đoạn trường”, thì mới biết con đường đến được một bến bờ cũng thật sự trầm kha?

                            Người đọc sẽ trách cứ người viết là tại sao phải dùng Martin Heidegger để soi chiếu với Abe Kobo. Thưa rằng từ Abe Kobo đến Oe Kenzaburo đều trải qua những tháng năm của chiến tranh thế giới thứ hai nên dễ dàng thấm thía vị cay đắng giòn mỏng của thân phận con người trong guồng quay của lịch sử. Và vì thế mà trong tác phẩm của mình, họ xoáy sâu vào sự hiện sinh của con người là điều tất nhiên thôi.

                            Một thiền sư Trung Hoa đã có một nhận xét thoạt nghe qua thấy rất hàm hồ “Thiên hạ bảo Quách Tượng chú giải Trang Chu. Riêng ta lại cho rằng Trang Chu chú giải cho Quách Tượng”6. Mượn cách nói ấy, ta cũng có thể bảo rằng “dường như không phải Abe Kobo chú giải Heidegger mà chính Heidegger chú giải cho Abe Kobo vậy…”. Một cách nói thật hàm hồ.

                            Nhưng ngẫm cho kỹ, cách nói ấy hàm hồ thật chăng? Ta không biết chắc. “Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu, thùy thính cô viên đề xứ thâm?” (Tuệ Trung Thượng Sĩ). (Nhân gian đều thấy nghìn non sáng, ai lắng nghe ra tiếng vượn trầm?”). Câu nói xa vắng này có gợi mở một khải thị nào chăng?

                            Ta chỉ biết rằng qua cách nói tưởng chừng như hàm hỗn song trùng nhị bội ấy có nói lên một điều là tuy văn chương và triết lý cư ngụ trên những đỉnh núi tách biệt hẳn nhau nhưng đều quy nhìn về một hướng duy nhất. Hướng đích nền tảng ấy mang tên Thân - Phận - Con - Người.

                            Mộc Các, Sài thành, tháng 11/2005

                            --------------

                            Chú thích:


                            1 : Trích dẫn theo Phạm Vĩnh Cư, M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, tái bản 2003, Lời nói đầu, trang 13.
                            2 : Đoàn Văn Chúc, Văn hoá học, NXB Lao động, Hà Nội, 2004, trang 339.
                            3 : Người đàn bà trong cồn cát, Abe Kobo, Bản dịch của Vũ Tuấn Khanh và Giang Hà Vị, NXB Văn học, Hà Nội, tái bản 1999.
                            4 : Sđd, trang 211.
                            5 : Martin Heidegger, Về yếu tính của chân lý, bản dịch của Trần Công Tiến, Ca dao xuất bản, Sài Gòn, 1975, xin xem từ trang 29 đến 32, phân đoạn “nền tảng của sự khả thể hoá một thích đáng tính”.
                            6 : Trích dẫn theo Phùng Hữu Lan, Đại cương triết học sử Trung Quốc, Bản dịch của Nguyễn Văn Dương, NXB Thanh niên, tái bản 1999, trang 30.

                            #14
                              meocon_thongminh93 02.08.2006 14:13:51 (permalink)
                              Bảng hiệu


                              Hắn đi lạc vào một khu phố lạ, thấy toàn những bảng hiệu. Những mũi tên, những dấu gạch chéo, những hình người được vẽ đầy trên đó. Khu phố vắng lặng, người dân ngồi im bó gối nhìn trời. Hắn bước đi trên đường, chợt nghe thấy tiếng còi tu huýt. Một người cảnh sát không biết từ đâu chạy đến bắt hắn đóng tiền phạt vì con đường này cấm rẽ. Bảng hiệu cắm đầu đường ghi rõ một dấu chéo. Và hắn mất một nửa số tiền mang theo. Rút kinh nghiệm, hắn hỏi những người dân ngồi hai bên đường về các ý nghĩa của bảng hiệu để tìm đường đi. Nhưng hắn không thể ngờ khi đang băng qua đường hợp pháp, một người cảnh sát vác trên vai bảng hiệu “cấm băng qua đường” chạy đến và nói “Tôi là bảng hiệu cấm qua đường. Xin anh đóng tiền phạt”. Hắn đã hết tiền, trời thì tối, lại không tìm được lối ra. Hắn chọn một góc phố vắng và ngồi xuống, bó gối lặng im.




                              #15
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9