Làng
Bên sông là làng. Làng ôm lấy dòng sông nằm cong dấu hỏi. Dấu chấm khoanh tròn một trăm ba mươi tư nấm mộ , nghĩa địa tách ra một đoạn phía cuối làng đầy nghi hoặc. Những ngôi mả lùm lùm tròn tròn đắp bằng đất cỏ đang dần dần cao lên và dạng tròn biến mất thay vào đó là hình vuông hình chữ nhật của xi măng vôi cát. Làng trong lòng tôi lúc nào cũng tồn tại dưới dạng một dấu chấm hỏi.
Suốt những năm học cấp một hè nào tôi cũng được gửi về quê từ ba tuần đến một tháng. Kết quả của mùa hè đầu tiên là trở lại trường với cái đầu trọc lóc. Rơm rạ đã tặng tôi món quà sài lở, tôi nhìn đám tóc mẹ cắt rơi xuống như rơm tự hỏi bao nhiêu lần cắt tóc mới đủ vun thành một đống như đống rơm trước cửa nhà bà? Tôi bới một lỗ trong đống rơm chui vào nằm khoanh tròn ở đó trong đầu tua lại (tua lại, từ này thực ra chưa có trong vốn từ vựng của tôi hồi đó, mãi đến năm tôi học lớp 11 ba tôi mới mua được một cái đài cũ) câu chuyện mẹ kể về sự tích ông đầu rau. Tôi theo chú chăn trâu ngoài cánh đồng rộng, chúng tôi chơi ở nghĩa địa mặc trâu gặm cỏ thoải mái trên những chiếc giường của người chết. Tôi thắc mắc những giấc mơ nào sẽ đến trong những chiếc giường như vậy. Lúc đó con trâu giương mắt lên nhìn tôi, nó phì vào câu hỏi ngu độn của tôi. Cặp sừng như đôi dấu hỏi úp vào nhau. Đừng hỏi gì hết, đã đến đây rồi, đã ở đây, cứ như vậy mà sống. Có gì đáng phải hỏi đâu. Thời gian quay vòng hết đêm lại ngày, từ xuân sang hạ qua thu về đông, làng vẫn thế, rơm rạ vẫn thế, những dấu hỏi trên đầu trâu vẫn không quay ngược ra ngoài. Gió nghĩa địa thổi lồng lộng, tôi cố nghe xem ông nội tôi có nhắn gì không vì ba vẫn bảo ông bà thường gửi lời trong gió. Có lần ba đưa tôi đến thăm vườn cũ của ông nội giờ đã thuộc về người khác, mỗi lần nhắc đến cái vườn đó ba đều khóc, phải nhiều năm sau tôi mới hiểu được một nửa những giọt nước mắt của ba mà cũng chưa chắc đã hiểu được đến một nửa. Có lẽ ông nội đang mơ vì ông chẳng nói gì. Gió thổi sự chờ đợi của tôi dạt về phía núi Hồng Lĩnh. Buổi chiều cưu mang nó và tôi thấy nỗi chờ đợi của mình biến thành làn hơi mỏng viền quanh làng, mọi người gọi đấy là khói lam chiều. Từ “khói lam chiều” sau này, với tôi, sẽ mang trong nó gánh nặng của niềm hoài cố dai dẳng. Tôi đứng bên chiếc giường ông nội, chếch bên trái một chút là giường bà nội. Ông bà tôi đang ở dưới kia, ông bà có biết đến sự chờ đợi của tôi? Ông bà có mơ thấy tôi không? Những giấc mơ nằm ngang hơi lệch nhau. Mẹ tôi thỉnh thoảng vẫn thấy bà ngoại của mẹ về trong lúc ngủ, dặn mẹ phải làm những việc gì đó. Tôi chưa bao giờ mộng thấy ông bà nội. Tôi đã chờ đợi giấc mơ đó rất nhiều năm. Những năm đó gộp lại cũng dài bằng cái buổi chiều tôi đứng bên giường ông bà chờ nghe những lời thì thầm trong gió. Vì không nghe thấy một lời nào nên tôi hy vọng mình đang có mặt trong giấc mơ của ông bà. Ông bà có thấy tôi là một đứa con gái có cái đầu trọc lóc không nhỉ? Làng tôi không có chùa, cả xã này, cả huyện này, cả cái tỉnh này không còn một ngôi chùa nào nữa, vậy nên tôi không thể, không biết cách đồng nhất cái đầu trọc của tôi với cái đầu đáng kính của tăng ni. Tôi chỉ thấy cái đầu trọc đó thật gớm ghiếc và mong sao ông bà không mơ thấy tôi vào lúc này. Tôi muốn hoãn giấc mơ của ông bà đến năm sau, lúc đó chắc tóc tôi cũng đã mọc được kha khá.
Chú tôi đã thôi chơi đáo với đám bạn. Chú đặt tôi lên lưng trâu, con trâu vẫn tiếp tục phì vào sự ngu độn của tôi, hai chú cháu thủng thỉnh đi về làng, hai cái ngu độn trên lưng một niềm khinh bỉ sự ngu độn. Nhưng lúc đó tôi không cảm nhận mọi việc theo cách ấy, lúc đó tôi ngoái lại nghĩa trang lần cuối cùng và cầu mong ông bà sang năm hãy mơ đến tôi.
Trở lại trường, nhờ cái đầu lởm chởm mà tôi ít bị bọn con trai cùng lớp đánh và doạ nạt. Chúng nó thường nhè lúc cô giáo không có trong lớp, thẳng tay phang mạnh cán chổi lên lưng bọn con gái, hoặc chờ sẵn một góc nào đó trên đường đi học về, nhảy xổ ra túm tóc chúng tôi giật mạnh. Lúc lũ nhóc con giở ngón võ ngoa ngoắt phản công lại thì chúng cười hề hề : “Bố tao bảo làm con gái phải để cho con trai nó trêu”. Một lần tôi khóc, còn một lần tôi giằng lấy cái chổi và nện thẳng vào lưng thằng con trai đứng trước mặt rồi chờ nó khóc, nhưng nó ré lên cười ầm ĩ. Mái tóc tua tủa chổng ngược lên trời khiến tôi được bọn chúng nó xếp cùng hội cùng thuyền. Cũng có lúc tôi thấy hài lòng với những gốc rạ trên đầu mình.
Những mùa hè tuần tự qua đi trên cánh đồng vào mùa gặt. Tôi nén cơn sợ đỉa để lội ruộng gặt lúa với mọi người, tôi không muốn bị nhìn như một đứa trẻ thành phố. Nhưng rồi tôi đã tự phản bội mình khi hét vung lên, giẫm lung tung làm bẹp cả một đám lúa rộng vì nhìn thấy một con đỉa đen dài nằm vắt ngang bắp chân. Màu đen của nó làm chân tôi trắng hơn. Tất cả mọi người đứng thẳng lưng cười hết cỡ, còn tôi gập cong người lại vừa la vừa khóc. Con đỉa không thèm để ý đến cảnh tượng ấy, nó vẫn nằm yên ở đó, trên bắp chân tôi. Tôi vớ lấy cái liềm để gạt nó xuống. Dì tôi giữ tay tôi lại. Dì dùng tay gỡ con đỉa ra, nhẹ nhàng như không. Làm sao dì có thể... Tôi không bao giờ biết được. Từ đó về sau tôi không xuống ruộng nữa. Con đỉa ấy, nó đã cười vào nỗi sợ hãi của tôi. Nụ cười màu đỏ. Máu chảy từ vết đỉa cắn đỏ tươi. Nụ cười chuyển màu xám ngoét, dì tôi lấy bùn trét vào vết cắn. Bùn đã ngăn không cho máu chảy.
Chiều về dì đưa tôi ra bờ sông giặt quần áo. Tôi không dám xuống nước, gì bảo: “Ngốc ạ, những chỗ nước chảy như thế này không bao giờ có đỉa”. Khuôn mặt gì tôi có mùi lúa chín, tay dì có mùi nước sông, tóc dì xoăn, khô và có mùi rơm. Tôi thấy dì giống nàng lọ lem nhưng gì không bao giờ là chủ nhân của ba hạt dẻ. Tối đến dì đưa tôi đi xem biểu diễn văn nghệ. Tôi đứng sát cái sân khấu bằng đất, một mình, nghểnh cổ nhìn dì hát đò đưa, ví dặm với những bạn diễn khác. Muối ba năm muối đang còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay. Cái bồ muối của bà tôi trên giàn bếp có lẽ phải ba năm mới dùng hết. Mà chưa hết thì dì đã đi lấy chồng. Anh đến giàn hoa thì hoa kia đã nở. Anh đến bến đò thì đò đã sang sông. Anh đến bên em thì em đã lấy chồng. Sau khi gì lấy chồng không có người đàn ông nào nói với dì như vậy. Tôi cũng chẳng biết dì có mong muốn điều đó không, chỉ có tôi thỉnh thoảng tự hỏi, trong số bạn diễn với dì những năm ấy, có ai muốn hát tặng dì câu hát đó? Anh đến giàn hoa hoa đến thì thì hoa phải nở. Anh đến bến đò đò đầy thì đò phải sang sông. Đến duyên em thì em phải lấy chồng. Những câu ấy dì đã hát trước khi lấy chồng. Từ lúc chàng hoàng tử đưa dì về túp nhà tranh ngoài bờ luỹ thì sân khấu, âm nhạc, dân ca chỉ còn là một giấc mơ thời thiếu nữ, thời thiếu nữ ngắn ngủi của gì được đo bằng mấy bài dân ca gộp lại. Những lọn tóc xoăn rủ xuống bên má dì theo hình dấu hỏi. Bao giờ tóc dì mới thôi hỏi? Những câu hỏi có mùi rơm mùa gặt. Chẳng tu từ tu tiếc chi đâu nhưng cũng chẳng có câu trả lời nào để gỡ cho chúng thẳng ra. Mớ kiến thức ngôn ngữ tôi học được ở trường đành bất lực trước câu hỏi của dì. Thế nên tôi đã dùng chiêu lảng tránh, định áp dụng một cách triệt để mà không nổi, vì chạy đâu cho thoát khỏi chúng mỗi lần gặp dì. Có ai đó ngoài tôi nhìn thấy những dấu hỏi trên trán dì? Nếp nhăn tuổi ba mươi khiến nụ cười của dì không giống như nụ cười của những người con gái thành phố ba mươi tuổi chưa chồng hay những người phụ nữ ba mươi tuổi sống trong cảnh nhàn hạ chồng thành đạt con ngoan.
Tôi tự cho mình là người làng. Nhưng rồi đây sẽ không ai biết gì về tôi. Tôi không sống ở làng. Cũng không có tên trong gia phả. Dòng họ tôi không ghi tên con gái vào gia phả. Sẽ chẳng có một vết tích nào của tôi lưu lại ở làng. Cũng như rồi đây sẽ chẳng còn vết tích nào của mái tranh được lưu giữ trên xứ sở này.
Vùng quên lãng ở trí não tôi chưa phong toả được những giọt nước rỏ xuống từ mái tranh trong những ngày mưa vào cái thời tôi chưa thể nào cảm nhận hết chiều sâu của nỗi buồn rỉ ra từ hiên nhà. Thành phố giờ đây tuyệt nhiên không còn một mái tranh nào nữa. Có phải đã đến lúc cả dân tộc thôi cảnh đói nghèo trong rơm rạ rồi không? Và trong xi măng cốt sắt gạch hoa người ta đã hết biết đến nghèo đói hay thực tế vẫn còn tiếp tục cứ phải đói nghèo trong một cái gì đó? Những giọt nước tròn rụng xuống làm đứt cái phần đuôi dấu hỏi và ném những thắc mắc thời thơ ấu của tôi lên mặt đất vốn chỉ quen im lặng trước mọi nghi vấn. Nó sẽ giữ bí mật về những mái tranh, bí mật về một chất liệu mỏng manh dễ cháy dễ mục nát dễ bị tàn phá bốc dỡ bởi gió lốc bão tố. Chất liệu đó hiện tại chưa hoàn toàn trở thành kỷ niệm. Tôi còn có thể nhìn thấy nó trong mỗi chuyến xa thành phố. Nó và khói lam chiều tạo nên một hợp âm đặc biệt của bản nhạc quê thỉnh thoảng vẫn tấu lên những khúc lạ lùng trong lòng một kẻ từng lớn lên dưới mái tranh như tôi. Màu sắc của mái tranh và bầu trời trước khi mưa dường như có sự thông đồng, một sự thông đồng u ám không mang tính vĩnh cửu vì nó liên tục được làm mới lại trước mỗi cơn mưa và được rửa sạch cuốn trôi theo những dòng chảy nối liền ẩm mốc tre pheo với ẩm mốc nền gạch.
Tôi thực sự hoang mang khi một hôm ra phố nhìn thấy xung quanh tôi, trên những nóc biệt thự, trên tầng thượng những toà nhà cao tầng, trên những ngôi nhà hộp diêm... đâu đâu cũng có mái tranh. Và họ, những con người ấy, họ sống giữa những bức tường, trên nền gạch hoa hay cao cấp hơn, trên nền gỗ, tất cả họ đều ở dưới mái tranh. Tôi hoảng loạn vì ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư, những ngày tiếp theo tôi đều nhìn thấy một cảnh tượng y xì như vậy. Nếu tôi nói ra điều đó cho bất kỳ ai, tôi cũng sẽ bị cho là tâm thần. Họ sẽ lập tức đưa tôi đến Trâu Quỳ. Cũng có thể họ cho là tôi miệt thị họ, lúc ấy nguy hiểm hơn vì họ sẽ đem tôi đến cảnh sát. Vào ngày mưa, những ngôi nhà kiến trúc theo lối cổ truyền, hay theo lối hiện đại hoặc hậu hiện đại đều chẳng khác gì nhau, đều nhỏ xuống đất những chấm tròn tí tách từ giọt gianh.
Tôi phải gặp bác sĩ tâm lý. Tôi hiểu rõ như vậy. Tôi mới ba mươi tuổi, sức khoẻ bình thường, chỉ hơi hay hoài cố một chút, làm sao có thể mắc bệnh tâm thần được. Nhưng dù thế nào cũng cần được giúp đỡ.
Tôi đẩy cánh cửa một căn phòng nằm sâu trong ngõ vừa nhỏ vừa tối. Tôi vượt qua phòng đăng ký, vì đã gọi điện thoại trước cho bác sĩ, để vào thẳng phòng khám. Bác sĩ đứng dậy đón tôi. Ông ta, ông bác sĩ, đứng trước mặt tôi trong chiếc áo tơi.
Là một người đồng bệnh. Tôi nhận ra ngay một người đồng bệnh. Kia, cái mái tranh của tôi đã được lợp quanh người ông ấy, với một kỹ thuật chuẩn xác và khéo léo. Một cái áo tơi mẫu mực. Ông ta hẳn rất an toàn dưới bất cứ cơn mưa nào. Chẳng có loại sơn nào, kể cả sơn nippon, chẳng có loại tấm lợp nào, kể cả tấm lợp ausnam, cũng chẳng có loại áo mưa hiện đại nào sánh kịp với nó. Tôi vẫn còn kịp đặt cho mình một câu hỏi: ông ta kiếm đâu ra một cái áo tơi như vậy ở thời buổi này? Lý trí tôi còn sáng suốt đến thế ư?
Giữa chúng tôi có một cái bàn, sau lưng tôi là cánh cửa. Tôi không biết nên quay lại bước ra cửa hay tiến lên và ngồi xuống trước cái bàn. Ông ta bảo:
- Mời chị ngồi. Chị hãy nói tất cả những gì chị muốn nói.
-Thưa bác sĩ, tôi có bệnh y hệt như ông.
Ông ta nhìn tôi, sự thông cảm trong mắt ông ghim chặt tôi xuống ghế trong một trạng thái đờ đẫn băng giá.
- Chị mắc bệnh thật rồi.
Ông ta ngồi xuống. Tôi thật không hiểu làm sao ông ta có thể ngồi xuống trong một chiếc áo tơi như vậy.
- Có cái gì đó làm chị sợ phải không?
Chắc ông ta thường xuyên hỏi bệnh nhân câu này. Ông ta chưa biết rằng với tôi thì không cần phải giấu giếm làm gì, tôi có thể hiểu được vấn đề của ông, tôi có thể chia sẻ với ông, thậm chí nếu cần có thể an ủi ông trong trường hợp bà vợ ông không có khả năng đó.
- Thưa bác sĩ, ông tìm được ở đâu cái áo tơi đẹp như vậy?
Ông ta mở to mắt, kinh hoảng, nhưng rồi lập tức nở một nụ cười mà chỉ một bác sĩ tâm lý mới có:
- Chị thấy cái áo blu trắng này của tôi đẹp thật sao?
Ôi trời! xin ông, ông không phải ngại ngùng với tôi đâu, chúng ta đồng bệnh mà. Tôi muốn nói với ông ta ....
Cửa mở, cô thư ký thò đầu vào:
- Bác sĩ có điện thoại.
- Xin lỗi, chị chờ tôi một phút.
Tôi chờ. Không có gì để nhìn trong căn phòng này, tôi đành ngước lên mái nhà. Rui mè ở đây mục nát quá rồi. Mái nhà cũng vậy, mưa lớn chắc thể nào cũng dột. Đột nhiên tôi hiểu ra vì sao ông ta phải mặc áo tơi mà tiếp bệnh nhân. Để đề phòng trời mưa. Tôi nhớ hôm nay mục dự báo thời tiết trên tivi, cô phát thanh viên truyền hình giọng uể oải thông báo có mưa rải rác từ trưa đến chiều tối. Bây giờ là mười một giờ hai mươi. Chắc sắp mưa rồi. Không hiểu có dột ở chỗ tôi đang ngồi? Nếu dột tôi chẳng có áo tơi như ông ta để chống đỡ. Tôi phải về. Tôi không thể ở lại đây được nữa. Với lại ông ta cũng là một bệnh nhân như tôi thì làm sao chữa được bệnh cho tôi. Chúng tôi cùng là người làng, cùng sống trong một ngôi làng. Có vậy thôi, cần gì phải phức tạp hoá vấn đề.
Đi qua bàn thư ký. Một bác sĩ mặc blu trắng đang nghe điện thoại đứng quay lưng lại nên không nhìn thấy tôi. Cô thư ký gọi với theo:
- Chị chờ một chút, bác sĩ nói chuyện sắp xong rồi.
Vừa lúc đó ông bác sĩ đặt máy xuống, nhưng tôi vẫn mở cửa bước ra ngoài. Ông ta không phải là bác sĩ của tôi, ông không mặc áo tơi.
Ra khỏi ngõ nhỏ và tối, tôi đi thêm một đoạn thì đến vỉa hè xi măng. Đại lộ rộng thênh thang trước mặt. Trời bắt đầu mưa. Nước bắt đầu rỏ tong tong từ mái gianh những ngôi nhà cao tầng xếp thành dãy dài trên vỉa hè. Tôi đang đi giữa ngôi làng thân thuộc. Những chú trâu vàng đứng rất thể thao trong các cửa hàng sang trọng, phía sau cửa kính bóng lộn. Chúng hân hoan chào đón SEA GAMES 22. Sừng của chúng không còn giống hình dấu hỏi. Và chúng cũng thôi không phì vào nỗi ngu độn của tôi nữa.