Tác phẩm của John Updike
meocon_thongminh93 02.08.2006 14:17:52 (permalink)
MỘT LẦN ĐƯA ELIZANNE VỀ NHÀ



Lớp của họ tốt nghiệp trường trung học Olinger vào năm 1952, ngay trước khi tên trường được địa phương hoá và không còn nữa. Dù năm 2002 đương nhiên được đề cập trong những mục tiên đoán và khôi hài đăng trong niên giám của trường, không ai thực sư tin rằng cái tương lai xa thẳm đó có bao giờ lại trở thành hiện thực được. Họ mới có mười bảy, mười tám tuổi; 2002 là chuyện xa vời, khó tưởng được. Nhưng bây giờ cái năm đó lại ở đây, ngay đây trong phòng sinh hoạt của Fiorvante, một quán ăn ở West Alton, cách nhà thương lớn của hạt này khoảng nửa dặm, nơi nhiều người trong nhóm đã sinh ra và bây giờ một người bệnh nặng nằm ở đó.

David Kern và người vợ thứ hai của mình, Andrea — bà đã làm vợ của ông khá lâu nên chẳng xa lạ gì với những cuộc họp mặt mỗi năm năm này — hai người đi thăm một bà bạn học cũ, Mamie Kauffman, đã nằm bệnh viện sáu tuần rồi — bà bị hoại xương do một chứng ung thư, không đi đứng gì được. Bà sống một mình ở căn nhà bà và ông chồng, đột ngột mất từ lâu, mua cách đây bốn mươi năm — nơi họ đã nuôi khôn lớn ba đứa con bằng đồng lương của một giáo viên lớp hai. Những tấm thiệp chúc bà sớm bình phục và những bức vẽ của nhiều lớp học trò của bà giăng mắc đầy những khung kính cửa sổ và tường của phòng bệnh; bà Mamie vui vẻ và thích bạn bè, dù cho bây giờ ngay cả ngồi dậy bà cũng không ráng được.

Bà nói với họ:

"Tình cảm của các anh chị quí hoá quá. Tôi đang buồn cho mình, thấy tủi thân ghê gớm. Cho đến khi nhận được biết bao thăm hỏi như thế này."

Bà kể chuyện mình bước xuống giường, cảm thấy bên hông bị tê cứng, rồi ngã vào một góc phòng như một con búp bê đã bị vất bỏ, và bà cố dùng cây gậy để kéo ống điện thoại, may mà nó nằm trên sàn nhà. Bà dùng gậy cũng khá lâu rồi, do nghĩ là mình bị nhức khớp. Ban đầu bà định gọi con gái là Dorothy, sống cách đó hai thành phố.

"Tôi thật tức mình, quên bẵng số điện thoại của Dorothy, dù cho tôi vẫn gọi nó hai ngày một lần, nên tôi mới tự bảo: 'Mamie, hai giờ rưỡi sáng rồi. Ta không cần số điện thoại của Dot. Ta chỉ cần 911. Ta cần xe cấp cứu.' Trong mười phút họ đã đến, họ quá sức tử tế. Một cô cứu thương lại là học sinh cũ lớp hai của tôi cách đây hai mươi năm."

Andrea cười nói:

"Thế cũng may quá."

Trong căn phòng bệnh trang hoàng như lễ hội này, vợ ông trông trẻ, mạnh khoẻ, linh hoạt, duyên dáng; David rất hãnh diện vì bà. Bà như thể là tù nhân bị bắt từ một bộ lạc nào khác, từ một tiểu bang không phải là Pennsylvania.

Mamie muốn chia sẻ với mọi người về nỗi đau của mình. “Có khi tôi cảm thấy hơi mất kiên nhẫn với ông trời, nhưng rồi lại thấy xấu hổ với mình. Thượng đế bao giờ cũng lo cho mình đủ nghị lực để chịu đựng.”

Nơi tiểu bang Pennsylvania sùng đạo này, David nhận thấy người ta thường nói chuyện triết lý. Nơi ông đang sống, ngược lại, người ta tự nhiên chẳng biết trời đất là gì, con người quen sống khắc kỷ, chịu đựng, câm nín như loài vật. Càng hiểu biểt, họ càng ít nói khi nhích đến gần hơn cái chết.

Mamie tiếp tục nói:

"Mình đang đọc lại bà Shirley MacLaine, bà ấy nói đời người giống như một cuốn sách, mỗi chúng ta phải cố hinh dung cho được trong cuộc đời, mình đang ở chương nào. Nếu nay tôi đang ở chương cuối cùng, thi tôi phải đọc theo cách đó thôi, nhưng như anh chị biết, tôi nằm đây suy nghĩ biết bao lâu nay và..." Trên gương mặt hiền hậu, rộng rãi, nước da bạc như màu áo gối, đôi mắt xanh ướt át cùa Mamie chớp mạnh, trở nên nhanh và ráo hoảnh.

"Tôi không nghĩ thế." Bà kết thúc một cách can đảm. Cho dù phải nằm liệt giường, bà là một cô giáo, bà biết nhiều hơn cử toạ của bà và do thói quen nghề nghiệp cả đời mà bà muốn giảng giải. “Tôi không sợ chết,” bà nói với những người đến thăm, họ ăn mặc hết sức trang trọng cho ngày hội ngộ này, “Trong lòng tôi vẫn nghĩ… một điều..."

Điều gì đây? David tự hỏi và rất muốn nghe, dù ông biết đã tới lúc phải đi. Ông ít đến vùng này đến độ có khi ông bị lạc trên những con đường mới, dù chưa đi quá một dặm đường. Ông không thể đến trễ được.

"Một điều là tôi sẽ chẳng sao."

Mamie kết luận. Bà cảm thấy có sự hụt hẫng, và cả thất vọng, với điều bà nói, nên bà mệt mỏi xoay tròn cổ tay của mình, cổ tay có đeo một vòng bằng nhựa ghi tên và số của bệnh nhân. “Đến lúc đó, tôi cũng sẵn sàng. Vào lúc đó. Anh chị hiểu tôi nói gì chứ?"

Hai người mau mắn gật đầu. Mamie thú nhận:

"Tôi chẳng mong gì đến nơi đó."

"Không ai mong cả," Andrea biểu đồng tình, nở một nụ cười tươi và mạnh khoẻ. Bà mặc một bộ đồ nỉ màu xám, cổ áo rộng nên bà trông to lớn hơn bình thường.

David đang cố tìm một điều gì để nói, nhưng lời của ông dường như bị tắc lại bởi những kỷ niệm về Mamie, từ khi còn học chung ở vườn mẫu giáo. Cô bé mặt tròn được bà mẹ mặt cũng tròn dẫn tới sân chơi tráng xi măng; cô là một học sinh rất lanh, biết trả lời những câu hỏi nhưng không hợm mình với bạn bè hay thầy cô; cô cũng không bao giờ cố làm cho người ta chú ý đến mình, nhưng khi người ta đã chú ý thì cô luôn luôn rực sáng: người hoạt náo kiêm thư ký lớp, cô gái kiểu mẫu. Trong những vở kịch và các buổi sinh hoạt lớp, cô luôn luôn thủ vai một người em gái lắm chuyện, trong khi David, vì lý do nào đó, lại đóng vai người cha, tóc rắc phấn trắng. Bây giờ ông chẳng cần rắc phấn nữa; tóc của ông sớm bạc, trắng như mẹ của ông.

Mamie nói:

"Cho nên tôi mới bảo mình: Mamie, đừng than nữa, mình đã sống một cuộc đời tuyệt diệu, cả ba đứa con cũng tuyệt diệu, và đã hết đâu. Dot muốn đón tôi về sống với gia đình của nó, nhưng tôi đời nào lại làm phiền nó như thế, nhất là khi tôi đã thế này. Jake ở tận Arizona cũng muốn đón tôi về. Nó nghĩ rằng khí hậu khô sẽ tốt hơn cho tôi, nhưng tôi làm gì ở đó ngoài việc ngồi ngó mông ra cửa sổ nhìn sa mạc mênh mông, không dám mở cả cửa sổ vì phòng đặt máy lạnh. Điều khôi hài là — David ông chắc phải thấy buồn cười, tánh của ông vẫn thích khôi hài mọi chuyện — căn nhà an dưỡng mà tôi sắp dọn đến chính là nơi mẹ tôi đang ở. Bà không ở chung trại với tôi, nhưng như thế cũng buồn cười rồi. Lâu nay tôi ở cách bà chừng hai khu phố, bây giờ chỉ cách một tầng lầu."

Cuốn kỷ yếu không tiên đoán cha mẹ người nào sẽ còn sống đến năm 2002. David kêu lên:

"A, mẹ của chị cũng phải chín mươi."

"Chín mươi mấy rồi. Ai dám nghĩ là bà vẫn còn ghiền thuốc lá. Và bà cũng chịu chơi lắm, thỉnh thoảng đâu sợ nhấm nháp một ly."

"Bà luôn luôn tốt với tôi. Ngay cả khi chị vắng nhà, bà vẫn cho tôi chơi trong nhà, chờ ba tôi xong việc ở trường. Bà đánh bài tay đôi với tôi."

"Bà vẫn thường nói rồi David sẽ đi xa cho con xem."

Ông nhớ mẹ của bạn hay ngồi ở bàn ăn trong bếp, như tranh vẽ một căn hộ đơn độc nhìn từ một chuyến xe lửa đang chạy qua — khói điếu thuốc Chesterfield bay lên từ gạt tàn bằng thủy tinh, một tay bài xoè ra như cánh quạt, một ly chất lỏng sóng sánh bên cạnh khuỷu tay kia. Khuỷu tay của bà sần sùi, nhiều vết nhăn. Bà và con gái cùng tóc quăn màu nâu, môi đầy đặn và luôn tíu tít, khi nói khoé môi uốn cong lên. Mặc dù hai người đàn bà trong nhà luôn luôn nhiệt tình tiếp đón David, đồ đạc trong nhà có một vẻ buồn bã, ảm đạm phủ kín. Đó là một căn nhà đâu lưng với nhà phía sau, không có cửa sổ một bên và những cửa sổ bên kia nhìn ra một nhà láng giềng xa chưa đến hai mét, nhà của ông Kauffman, một người nhỏ con, ít nói đến độ cộc cằn, chạy máy tiện, luôn luôn về nhà muộn. Mamie vẻ tươi tắn, trông cô sung sướng bận rộn không ngừng ở trường học — những phòng dài bóng loáng, những giờ giấc sinh hoạt, những hồi chuông điều hành hoạt động của bao thế hệ thiếu niên lớn lên trong trường — đã tạo sự thoải mái nhẹ nhàng cho bao người. Như cha của David là người dạy ở đó, bà thấy dễ chịu sống trong cộng đồng tử tế này. David thích bà nhưng không hề đi tới biểu lộ nào có tính cách dục tính.

"Nói về chuyện đi xa," David nói.

"Vâng," Mamie nói nhanh, cố điều hoà hơi thở của mình, "ông phải đi thôi. Chúc ông bà đi chơi vui. David, nhớ cho tôi gởi lời cám ơn Betty Lou về những thứ trang hoàng đầy ân tình này. Bà ấy thật có công tìm ra những thứ rất đăc biệt của lớp cũ."

Betty Lou, dù cho bây giờ trông thoải mái và nhàn hạ, quả thật đã vất vả trước đó; những gì bà đã làm có tác dụng mạnh mẽ — những lẵng hoa màu nâu và vàng tươi thật thích hợp ở giữa mỗi bàn, trên tường chi chít hình ảnh được phóng lớn chụp cách đây năm mươi năm hay ngay cả trước đó: những học trò còn nhỏ tóc đuôi gà và quần yếm, những cô cậu thời trung học mang giày yên ngựa, mặc áo hai lớp, diện áo nhung và khoác áo da. Mấy cậu trai nhìn hơi thấy ghê, tóc để kiểu bờm ngựa, chải bóng hay kiểu đuôi vịt, phì phèo thuốc lá, trong túi một bao và bên tai còn nhét kèm một điếu. Các cô cũng không kém, môi tô đậm đỏ chót, mấy lọn tóc vàng quyến rũ trên đầu, có một vẻ quyết liệt, nhất định giành lấy phần của mình trong cuộc đời đang mở ra dần.

Giờ đây, tuy cuộc sống đã không còn bao nhiêu, phòng sinh hoạt đầy người, âm thanh, những lời chào hỏi vui vẻ, và những câu đùa giỡn nghe như hồi xưa: “Này trời, cô vẫn xấu xí như xưa! Ai là bạn của anh đấy? Anh đâu mà chỉ thấy cái bụng?”

Không có Mamie ở đây, Betty Lou phải đảm nhận vai trò trưởng ban tổ chức, bước đến nắm tay David kéo đi, không cho ông đứng nhìn mãi mấy bức hình trên tường, để ông gặp một phụ nữ ăn mặc sang trọng, đẹp đẽ.

Betty Lou hỏi:

"Ông có nhớ ai đây không?"

Giọng của bà rất lớn, ông cũng phải giật mình. Nét của người đàn bà bí mật có một vẻ tinh tế, sắc sảo, lông mày kẻ chỉ nhướng lên như dò hỏi, dù rằng bà đang cười một cách khuyến khích, cố gắng một cách âm thầm cho David biết mình là ai sau bao nhiêu thập niên qua. Ông chợt nhớ đến kỷ niệm đi bộ đến trường học, khi Barbara Moyer và Linda Rickenbacker giấu cái mũ và cái cặp bằng da của ông cho đến khi ông phát khóc và giận dữ bỏ chạy đi, lúc đó mấy cô mới rượt theo ông, trả lại những thứ họ đã lấy của ông. Bây giờ một lần nữa ông lại vướng vào trò đùa của mấy cô. Những giây đồng hồ chậm chạp trôi qua. Những người đàn bà mập cỡ sáu mươi bảy, sáu mươi tám tuổi thường giống nhau. Ông lắp bắp — một vấn đề xưa rồi, từ lâu đã thành thói quen — khi ông bật tên của một cô gái, Loretta Haldeman, nhưng rối còn lắp bắp, ông cũng nhận ra ngay mình lầm, bởi vì cách đây năm năm Loretta có đến dự cuộc họp mặt này, bà đeo kính gọng nhôm có tròng hình bầu dục; một mắt kia không còn nữa. Người đàn bà này với tia nhìn nghiêm và sáng trông giống như một món quà, một đặc sản, một vật quí hiếm. Ông cố nhớ tên một người luôn luôn làm bực mình những người tổ chức họp mặt lớp một không bao giờ đến trong cả năm mươi năm, và nhờ suy luận hơn là nhận mặt ông gọi ngay tên bà: “Elizanne!”. Đó là một cái tên chẳng giống ai, khi được phát âm, họ đã học khi còn bé, phải bắt đầu với âm “ê” như âm “et” bí mật trong chữ “Chevrolet”. Nó nói lên một người mẹ đầy ý chí, tham vọng, khi đặt tên con như thế ở một địa phương cực kỳ bảo thủ.

Elizanne bước đến để ông hôn; David nhắm vào má của bà, dù rằng trong cách bà vươn tới bà có thể muốn ông hôn môi. Ông nói, hơi khách sáo:

"Gặp bà ở đây thật vui quá!"

Bà không được xem là một cô gái duyên dáng nổi bật trong lớp, dù rằng về già thì bà trông đẹp lão hơn nhiều người. Áo của bà bằng vải lụa màu xanh lục đậm, trang nhã, sang trọng, thành thị. Chồng của bà, trông như một phụ tùng cuối cùng của bà, to cao, vui vẻ, nói giọng nam, người làm ăn, có lẽ đã về hưu. David đoán rằng cả hai người đã cùng nhau tham gia một số việc ở tuổi này như đi chơi ở nước ngoài, ngồi giữ cháu và tham dự các câu lạc bộ sức khoẻ, những trò giải trí rất nhọc công của người Mỹ theo cách của một số cặp cao niên đẹp lão trong những quảng cáo của Viagra và những sinh tố có chất sắt. Ông có cảm tưởng Elizanne đã thành công trong cuộc sống; mặt của bà cho thấy cùng với nụ cười nhanh và kín đáo mà ông còn có thể nhớ — một nụ cười lúc nở lúc không — một ý thức rõ ràng về mình, một bản sắc vững chắc trong xã hội mà có lúc tạm thời được để qua một bên, như cái áo khoác ngoài được gấp lại bỏ trên ngăn chứa đồ trên đầu chỗ ngồi trên máy bay. Dù vui mừng gặp lại bà, David chẳng có mấy điều để nói chuyện với bà, và càng ít hơn với ông chồng nước da sạm và nói chuyện ề à này — David nghĩ ông này chắc xem ai ở đây cũng là những người nhà quê.

Chỉ cho tới khi buổi họp mặt sắp tàn, nhiều cặp vợ chồng lạc nhau trong đám đông, thì bà đến kiếm ông. Vào lúc đó, người chủ lễ không chính thức của buổi họp mặt vẫn còn độc thoại, những lời chào gởi đến bằng email cũa người trưởng lớp không đến dự được, lời thăm hỏi đầy xúc động của Mamie mà Betty Lou đọc lớn, cái micro làm vang lên giọng tằng hắng trong cổ họng của bà. “Chúng ta đã sống tuyệt vời," Mamie đã viết. "Không có ma túy, không có bắn nhau trong trường. Chúng ta yêu kính thầy cô và đặt lòng tin yêu vào đất nước Mỹ.” Rồi cặp song sinh Frankhauser, bây giờ lưng còng, bước nặng, biểu diễn một màn nhảy với đôi giày nhẹ lần cuối được trình diễn ở một cuộc họp cao niên, và Betty Lou nói lời cám ơn với tất cả những thành viên của ủy ban, và Butch Fogel loan báo đường đi đến chỗ picnic ngày mai, dù thời tiết trên truyền hình dự báo sẽ có mưa. Những người được thuê để giúp vui, một người chơi đàn dương cầm và có giọng trầm, hát những bài xưa gợi những nỗi thương nhớ, nhưng không dành cho những người khách này. Những bài ca này là những tiết mục oái oăm thay người ta có thể không cần để ý, những bài thịnh hành vào cuối những năm 40 và đầu những năm 50, ngay trước khi Elvis Presley và nhóm phụ hoạ và nhạc rock làm cho những gì trước đó trở nên quá nặng nề — những ban nhạc swing, những giọng ca trầm, những nữ ca sĩ rên rỉ, những mục mới và những bài làm cho con tim quặn thắt, mà nay người ta đang dựng lại ở đây. Ngay cả cách đây năm năm, có một cặp dám ra sàn nhảy, và những cặp khác bắt chước theo, Bây giờ thì không có ai.

Giữa khi các bạn học cũ đang lũ lượt bước đến cửa và hẹn gặp lại nhau trong năm năm nữa dù cho không ai biết định mệnh sẽ xếp đặt như thế nào cho mỗi người trong thời gian tới, Elizanne bước đến bên David, nắm cánh tay của ông, nói vội vàng nhưng thì thầm, ngọt ngào, tha thiết:

"David, có một điều rất nhiều năm rồi tôi muốn nói với ông. Ông đã có một vai trò rất quan trọng đối với tôi. Ông là người con trai đầu tiên đã đưa tôi về nhà và... và hôn tôi."

Đôi mắt của bà màu nâu sữa hầu như chìm trong tròng đen mở rộng trong phòng sinh hoạt lù mù này, tìm kiếm mắt ông, làm cho mi mắt rậm một màu đen ngước lên. Lông mày của bà không nhíu nữa. Mặt của bà, thật gần và như ngắn lại, dường như được đưa đến từ xa. Có lẽ bà đã uống một hai cốc rượu rồi — Fiorvante có một quầy rượu bên ngoài phòng sinh hoạt này — nhưng bà vẫn còn bình tĩnh lắm, và ông cũng vậy, dù bị xúc động mạnh vì đang khi người ta ồn ào thăm hỏi nhau trong buổi họp mặt này thì lại được nhắc nhớ đến một ký ức thời còn trẻ của họ, ký ức thực sự, của thời xưa ngớ ngẩn, ngu ngơ của chính mình. Ông nói:

"Tôi còn nhớ lần đó." Nhưng liệu ông có nhớ thực không?

Elizanne cười, giọng hơi khan — một cách cười tự tin của một người đàn bà thành thị hiện đại. “Tôi phải nói từ đó đã mở đầu biết bao kinh nghiệm khác. Những cái hôn sau đấy."

Ông cố gắng không nghĩ rằng bà đã trở thành một người đàn bà từng trải và cợt nhả. Cuộc đi bộ đã chìm tận đáy ký ức nay lại đang cố nổi lên trong trí nhớ. Hai người đi nhàn tản, trong lòng còn nhiều nỗi rụt rè, ánh sáng ban ngày đang lịm dần, họ đi băng qua trường Olinger, rồi ngừng lại ở cửa nhà cha mẹ của bà, đứng gần nhau và tiếp tục nói chuyện, và rồi ông nghiêng tới để hôn bà, và bà cũng run rẩy nhưng nồng nàn đón nhận nụ hôn. Ông đã yêu bà, trong suốt một mùa. Khi nào? Tại sao mùa ấy qua nhanh thế? Phải chăng họ đã đá tung lên những lá vàng rơi rụng trên đường khi họ đi giữa thành phố, dọc theo Alton Pike với những đường rầy xe điện, đi vào những con đường ngay hàng thẳng lối có những dãy nhà gạch, rồi đì tới Elmdale, nơi những con đường bắt đầu uốn khúc, và những ngôi nhà đứng trơ trọi trên những bãi cỏ, những bãi cỏ không có cỏ dại và những căn nhà một nửa bằng gỗ, mái lợp với vật liệu bằng hợp chất đá sỏi nhỏ đắt tiền? Có phải lúc đó vào mùa xuân, cỏ xanh và hoa vàng khắp nơi, hay mùa hè, khi những con bọ đùn lên mặt đất và các cô gái mặc quần ngắn, hay mùa đông, khi đôi má rạo rực trong bóng tối. Ông thấy khó chịu khi thấy bà ngụ ý, với một nụ cười thoải mái, là bà sau đó đã tiếp tục hôn những người khác — nhiều người khác. Bà đã nói thêm điều gì đó mà ông không kịp hiểu ý, trong tiếng ồn ào của những lời chia tay hay vì ông ngày càng lảng tai nhiều hơn, bà nói gì như là “tất cả mấy ông đều muốn thế” — một châm chọc mà ông thấy đáng buồn là bình thường, rẻ tiền, nói về dục tính của phái nam, mà tại nơi đó và vào thời đó đã là một đề tài lớn nhưng người ta không chia sẻ nhiều với nhau mà hầu hết con trai đều giải quyết lấy. Nhưng lối châm chọc này tự nó đã đóng dấu ngày tháng, và đưa những ký ức trở lại.

Ông thở ra, cố tìm chữ thích hợp:

"Hồi đó bà đẹp rất... liêu trai."

Đó là điều ông còn nhớ, giữa vô số điều ông đã quên — vẻ đẹp như sương khói của bà — một sự hiện diện lung linh, một làn da mờ nhạt. Ông nói tiếp, lấy giọng khô khan của người lớn:

"Cũng vui chứ. Đó là một bắt đầu thành công."

Đôi mắt của bà nhìn sâu vào mắt của ông trong một giây. Bà nhận ra rằng ông không thể nói lên được những gì cần phải nói, cho nên siết nhẹ cánh tay ông trước khi buông tay mình ra.

"Tôi chỉ muốn ông hiểu thế," bà nói. Thế là họ chia tay, cho đến năm mươi năm nữa.

Ông nghĩ trong lòng, khoan đi đã nào, nhưng lại nói, bình thản:

"Cám ơn bà, Elizanne. Thật là một kỷ niệm đẹp quá khi nhớ lại. Này, bà trông còn phông quá. Không xệ giống như chúng tôi."

Đêm đó, trằn trọc bên cạnh Andrea tại khách sạn Alton Marriott vì còn nhớ lại cuộc họp mặt với bạn bè cũ, và cả những ngày sau đó, ông cố tưởng tượng lại cuộc đi bộ dẫn đến nụ hôn này. Nhà của Elizanne và khu gia đình bà ở sang hơn chỗ của ông, cho nên ông thấy mình thấp kém. Cô gái này quá cao so với ông. Chẳng bao lâu sau, ông có được một người bạn gái đầu tiên thực sự, học lớp dưới; cô này đã cho ông ôm vú và cởi một phần áo của cô trong xe đang đậu, người cô oằn lại như một con cá. Ông và Elizanne lúc đó bao nhiêu tuổi nhỉ? Mười sáu, có lẽ mười lăm. Cơ duyên đến từ sau một trận bóng, hay một buổi khiêu vũ trong trường? Ông không phải là người nhiều bè bạn, mà cũng không phải được tự do đi loanh quanh ở Olinger sau khi gia đình ông dọn đến vùng quê, năm ông mười bốn tuổi, cho dù ông vẫn tiếp tục học trung học ở Olinger, cha ông đưa đi và đón về.

Ông nhớ là cô gái này ở trong băng diễn hành của trường. Cô mặc một bộ đồng phục, mái tóc đen cuốn lên dưới chiếc mũ và thân hình con gái được gói gọn, phần nào là hấp dẫn, trong chiếc quần và áo khoác ngoái màu nâu có sọc vàng. Những người đi đầu mang giày trắng cao cổ và mặc váy ngắn, múa tung các chiếc gậy, đi theo là một đoàn mặc đồng phục màu nâu sẫm, Elizanne ở trong đội ngũ này. Cô ta chơi nhạc cụ gì nhỉ? Ông nghĩ là clarinet, nhưng cũng có thể là ông nhầm vì mái tóc của cô; khác với những cô gái trong lớp có mái tóc sậm màu, với những gợn tóc nâu nổi lên rõ nét, cô có tóc đen thực sự, lông mi, lông mày đều đen cả. Ngược lại, da mặt của cô trắng ngần. Môi trên có một tí lông măng làm nên hai vết nhỏ.

Sợi lông măng đen này người ta có thể thấy khi ở trên nhìn xuống, và nghĩ đến nó ông lại nhớ đến chuyện nhảy với cô, ôm sát cô trong vòng tay khi xoay người lướt trên sàn nhảy, chiếc áo vải bóng có đính hoa không cột giây và phần sau lưng vải lụa nhuyễn với những vết gấp nhỏ, chân của ông, cánh tay và hai miếng độn cầu vai của bộ đồ lớn mùa hè mà ông phải đi mướn ở tiệm — tất cả đều vã mồ hôi trong khi những giải hoa giấy trang hoàng trên đầu trĩu xuống và cái quả cầu gương phóng những tia phản chiếu nhịp nhàng khắp phòng và ban nhạc, với những cây kèn trombone có gắn ống chế thanh đang rên rỉ, chấm dứt bằng bài “Stardust” hay “Goodnight Irene”. Má của ông và của Irene áp sát vào nhau, khi nhạc ngừng ông không muốn rời; ông tiếp tục, con tim đập mạnh, dìu cô đi, khuôn mặt bẽn lẽn của cô như thu gọn lại với môi trên lem vết son và một khoản áo hở ngực ướt át, những góc trắng của chiếc nịt vú không có dây buộc làm nổi bộ ngực nhỏ bé.

Họ có thường đi nhảy như thế không? Tại sao như thế mà mối quan hệ này không tiến triển hơn nữa? Như ông còn có thể nhớ, phái nữ ở trường đã thăm dò và chú ý đến ông cũng nhiều, những người mẹ, những bà nội bà ngoại, thầy cô, và Barbara và Linda đã lấy trộm cái mũ của ông khi ông trên đường đến trường, và những người bạn học gương mẫu như Mamie, và ở đây cái bề mặt của nữ tính — ông đã phải sống luẩn quẩn trong sự bí mật bao trùm đó — chịu lùi trước một sức ép nhỏ. Không một lời, một lời mà ông có thể nhớ được, Elizanne đã chấp nhận sự chú ý nhút nhát của ông, và cũng thầm lặng để lộ ý muốn thấy ông có thể làm gì cho cô.

Cuộc đi bộ: cả nhiều tuần sau buổi họp mặt này đầu óc của ông vẫn bị ám ảnh bởi cuộc đi bộ mà bà ta đã nhắc nhớ. Trong lăng kính nhiễu loạn của tuổi cao niên, nó hiển hiện như một trong những hành động lịch sử nhất trong cuộc đời của ông. Vùng đất Olinger này đã đan kết vào đời ông, vào trong những bắp thịt đã đẩy chiếc xe đạp và kéo xe trượt tuyết. Cha mẹ của ông đi bộ mỗi buổi trưa chủ nhật, ông lẽo đẽo theo họ cho đến khi cặp chân không chịu bước nữa. Ông nội của ông đã làm việc trong những toán thợ ở vùng này để mở ra nhiều con đường mới về phía bắc con đường giao thông chính, đường Pike. Thị trấn xưa hơn ở phía nam, là nơi có nhà của David, trong một xóm hỗn tạp đủ loại kiến trúc và cả những miếng đất trống, trên đó một vài nơi người ta trồng bắp. Ông thích những khối nhà ở phía bắc của Pike, là nơi có những căn nhà gạch đâu lưng với nhau ở ngưỡng cửa cột vuông và phía trước có bãi cỏ, được dựng vào khoảng những năm hai mươi. Những người bạn như Mamie sống ở những khối nhà ấm cúng và trật tự này, có những tiệm tạp hoá thực phẩm, những hội quán sinh hoạt, quán kem hay tiệm hớt tóc được mở ra ở gian bên ngoài. Ông thích sự chặt chẽ của căn nhà, sự đồng nhất, như là một cam kết giữ gìn trật tự thiết kế và chia sẻ những dự định mà người ta không thấy nơi xóm ông ở.

Đi xa quá khu vực này, nơi mà một đường đua ngựa có lúc đã chiếm sáu mươi sào tây, những nhà thầu trong những năm trước chiến tranh đã đặt những căn nhà đơn lập bằng đá vôi và gạch xi măng lên những con đường mới chạy uốn quanh lên tới ngọn đồi. Cuộc đi bộ của David với Elizanne hẳn phải đưa ông từ trường hay khu đất của nó ở Pike băng qua những khu nhà song lập, ở trên cửa ra vào có những khung cửa sổ có hình ảnh, nơi người ta trưng bày theo mùa — những trái dưa màu vàng và những con dơi màu đen bằng giấy trong dịp lễ Halloween, các dây kim tuyến trong lễ Giáng Sinh, rổ mây mùa Phục sinh — nói lên sự trung thành của người dân ở đây với lịch của tín đồ Thiên chúa giáo. Cây cối dọc theo đường đã chuyển từ những cây hạt dẻ màu nâu đỏ da ngựa ở khu nhà cũ là nơi ông đã ở đến những hàng cây gỗ thích gốc Na Uy dày đặc trên những con đường thẳng thớm rồi đến những hàng cây sung rợp bóng và lá có bản rất lớn rụng đầy ven đường, địa phương gọi là gỗ hạt nút, trên những con đường uốn quanh. Cây cối thưa hơn và thoáng khí ở nơi khu nhà của Elizanne, có nhiều khoảng không và ánh sáng hơn, như thể ta đi xuống một cánh đồi — mà đúng là đi xuống đồi thật — một ngọn đồi dốc thoai thoải chung quanh là dân có của và được xã hội ưu đãi. Thế mà cô ta đã để cho ông hôn, ngay bên cạnh chiếc cửa ra vào nặng nề dày kịch của căn nhà có chuông cửa vang lên hai âm thanh khác nhau, và cô lại nhớ nụ hôn đó, đến năm mươi năm sau vẫn còn nhớ nụ hôn đó và nhắc đến nó như một mở đầu cho cô bước vào thế giới trai gái kỳ diệu.

David nghĩ nếu Mamie nói đúng và con người sống mãi, thì ông chẳng thấy có cách nào trải qua sự vĩnh cửu tốt hơn là lặp lại cuộc đi bộ đó với Elizanne hoài hoài cho đến khi những gì mà hai người đã nói với nhau, làm sao mà họ đã chạm vào nhau, phải chăng ông đã dám nắm lấy bàn tay bà, và mỗi sợi lông tơ đen dọc theo hai cánh tay của bà, tất cả đều hiện ra rõ mồn một như những nét chữ khắc sâu lên cẩm thạch. Lúc ấy hẳn sẽ có thời giờ để hỏi bà tất cả những câu hỏi mà ông vì luống cuống nên không hỏi kịp ở buổi họp mặt kỷ niệm năm mươi năm này. Phải đây là người chồng đầu tiên của bà, hay là người cuối trong một chuỗi nhân duyên? Bà có mối tình vụng trộm nào không, ở nơi ngoại ô mà bà đã chọn? Phải chăng bà đã có làm nhiều màn âu yếm công khai, như ông đã nghe đồn là có, trên các chuyến xe buýt của đoàn diễn hành đi về`sau các trận bóng? Có phải đó là chiếc xe buýt nơi bà đã tiếp tục thực tập việc hôn hít, kèm với hôn hít là vuốt ve, sờ soạng, kèm với vuốt ve, sờ soạng là đỏ mặt và thở hổn hển? Ai là bạn trai của bà trong những năm trung học cấp hai và cấp ba? Ông nhớ lờ mờ người ta nói bà cặp với Lennie Lesher, ngôi sao chạy tốc độ một dặm năm phút, mặt đầy sẹo mụn và tóc chải ép thành gợn sóng ướt rượt chất keo xịt Vitalis. Tại sao bà có thể phản bội ông như thế? Hay là bà đã dính với những thành viên vô danh trong băng trình diễn? Tại sao hai người, David và bà, lại tan rã sau khi đã cùng đi bộ qua Olinger và bước vào vùng có nhiều ánh sáng hơn? Hay có phải là vì ban đêm, sau một lần khiêu vũ hay một trận đấu bóng, khuôn măt trắng vô ngần, đôi lông mày rậm và nụ cười nhanh tất cả đã bị bóng tối xoá nhoà hết?

Trong nhiều ngày sau, khuôn mặt đó vẫn đeo bám ông, nhưng ông biết có lúc nó sẽ không còn đó nữa. Ông không thể viết hay điện thoại cho bà, cho dù Mamie hay Betty Lou đã cho ông địa chỉ và số điện thoại. Bà còn có chồng, còn có nhiều ràng buộc bao quanh, còn có những giới hạn. Rõ ràng vào lúc đó, có những giới hạn, những điều không ổn. Ông chẳng có gì để cho bà ngoài một tương lai còn mơ hồ và xa xôi. Những điều ông nôn nóng muốn hỏi sẽ chỉ nhận những câu trả lời vô vị. Đó là một cuộc phiêu lưu của tuổi trẻ không đến đâu cả.

Đèn đường vừa mới lên.

"Mình đến nhà rồi."

"Nhanh thế ư?" chàng trai kêu lên. "Nhà của cô trông l-lịch sự quá!"

"Mẹ không bao giờ thích căn bếp. Mẹ bảo tối quá, tất cả những cái tủ sẫm màu này. Mẹ muốn dọn đến khu West Alton."

"Ồ, không! Đừng đi, Elizanne!"

"Em có muốn đâu, nhưng chẳng biết sao nữa! Mẹ nghĩ ở West Alton trường học khá hơn. Học trò ở đó khá hơn."

"M-mẹ của tôi làm gia đình phải dọn ra vùng quê, mà tôi ghét vùng quê lắm."

"David, anh không thể ở mãi nơi Olinger này."

"Tại sao lại không? Có người ở đây mãi đấy."

"Anh không phải là người đó."

Tia nhìn của cô gái bám sâu vào mắt của chàng trai trong vẻ nghiêm trang; lông mày của nàng hơi nhướng. Anh tính rằng cô sẽ quay đi và bước vào nhà, nhưng cô không làm thế. Anh giải thích:

"Tôi phải trở lại trường, ô-ông già của tôi c-có lẽ đang tìm tôi đấy. Hẳn phải hơn năm giờ chiều rồi."

Ánh sáng mỗi ngày mỗi tắt sớm hơn một tí: đã qua tháng mười rồi. Lá đang chuyển màu.

Cô gái nói nhanh, nghe như thể đang nói với chính mình:

"Anh nói thật đi. Em có nói nhiều quá hay không? Mới đây này, lúc đi bộ."

"Ồ, không. Cô có thế đâu. chẳng nói gì nhiều cả."

"Em như thế đấy, khi em thấy thoải mái, vui vẻ với ai đó. Em nói không ngớt. Em nói quá nhiều."

"Cô không thế đâu. Tôi tưởng như nghe cô hát cho tôi."

Mặt của cô không hẳn nhích sát mặt anh, nhưng khuôn mặt đó không quay đi, không nhúc nhích khiến cho anh thấy như gần hơn. Anh thận trọng cúi xuống mặt cô, hơi chệch qua một bên, và hôn cô. Môi của Elizanne đón nhận nụ hôn nống nàn, nhiệt tình; cô nhẹ nhàng áp sát vào nụ hôn, người cô nhúc nhích như tìm kiếm một điều gì đó. David cảm thấy bị lọt vào giữa một dòng suối chảy ngược, còn chưa hiểu được chuyện gì đang diễn ra, và bắt đầu hết hơi. Anh ngừng hôn và bước thối lui. Cả hai người nhìn nhau, đôi mắt đen của nàng sáng lên như hột nút trong ánh đèn đường vàng, giữa bóng mờ nhạt và lay động của những chếc lá lớn tàn màu nâu nhạt. Rồi anh hôn nàng thêm lần nữa, đi vào cái điểm bất động ấm áp chung quanh nó vũ trụ xoay, với cả khối tinh tú còn chưa xuất hiện, trời vẫn còn xanh ở trên các ngọn đèn đường. Lần này cô gái thối lui. Một xe hơi chạy ngang qua, có lẽ trong xe có người nào quen, một gián điệp hay một đề tài bàn tán. “Và còn có nhiều điều khác nữa mà em muốn nói,” cô cười khúc khích để cho thấy rằng giờ đây cô cũng thấy mình buồn cười.

"Rồi em sẽ nói," anh hứa, không ra hơi. Má của anh nóng, như sau một buổi tập thể dục. Anh lo lắng, trong bao tử như quặn lại, về việc cha đang đợi mình. Anh cảm thấy giống như vào một ngày cuối tuần mùa hè năm ngoái tại bờ biển Jersey, khi một đợt sóng đang cuốn thân mình của anh đã ập vào bờ sớm quá và sắp ném anh đến phía trước, rơi mình vào bãi cát cứng. “Anh muốn nghe hết tất cả. Chúng mình có cả kh—khối thì giờ,” anh bảo Elizanne.





---------------------
Dịch từ nguyên tác "The Walk With Elizanne" của John Updike, trong The Best American Short Stories 2004, Lorrie Moore chủ biên (Boston, MA: Houghton Mifflin Company, 2004).
#1
    meocon_thongminh93 02.08.2006 14:18:44 (permalink)
    NGƯỜI GOÁ PHỤ



    H: Bà có chỗ ở này xinh lắm.

    Đ: Tôi cố gắng giữ nó như thế. Nhưng cũng khó lắm. Khó lắm.

    H: Từ lúc ấy đến nay đã bao nhiêu năm rồi?

    Đ: Bảy. Tháng Chín này là tròn bảy năm. Ông ấy ngồi trên cái ghế đó, đúng y chỗ anh đang ngồi bây giờ, và chỉ một phút sau là ông ấy đi mất. Chỉ chừng một tiếng thở dài, rồi ông ấy ra đi.

    H: Nghe như một cách ra đi rất êm đẹp. Bởi tất cả chúng ta rồi cũng sẽ ra đi vào một lúc nào đó.

    Đ: Ai cũng nói như thế. Ông bộ trưởng, ông phu đào huyệt. Tôi nghĩ tôi cũng có may mắn, nhưng nếu nó xảy ra ít đột ngột hơn, thì tôi đỡ bị sốc hơn. Trông như ông ấy muốn ra đi vậy, cái cách ông ấy đi quá dễ dàng.

    H: Vâng, thì thế đấy. Nhưng tôi không tin ông ấy lại muốn đi. Dẫu sao, điều tôi thấy thú vị lại chính là bà. Trải qua những năm tháng từ ấy đến nay, bà vẫn trông thật tươi tắn tuyệt vời.

    Đ: Từ lúc ấy tôi ngưng uống thuốc. Những gã bác sĩ thời bây giờ, họ cho toa thuốc để giết bạn đấy, tôi thành thật tin như vậy. Lúc ấy tôi cứ bị chóng mặt mãi, một chân có vẻ sưng to hơn chân kia, hai tay tôi cảm thấy như đầy những gai nhọn... tất cả đều chấm dứt, ngay khi tôi dừng uống thuốc.

    H: Và... tình trạng tinh thần... của bà?

    Đ: Nếu anh muốn hỏi có phải tôi còn tỉnh táo không, thì anh cứ tự phán đoán. Ồ, tôi hay quên, nhưng từ trước đến nay tôi vẫn luôn luôn như vậy. Tôi biết nếu tôi đứng giữa phòng lâu đủ thì nó sẽ xảy đến với tôi. Nó giống như ngủ thiếp đi. Thoạt tiên tôi vẫn thấy hoảng, nhưng dạo này nếu tôi ngủ đến ba giờ sáng lại thức giấc thì tôi xem cảm giác ngủ thiếp ấy cũng như là một nhu cầu của cơ thể mà thôi. Hãy tin vào cơ thể của mình, nó là cái lý lẽ của mọi sự, tôi nghĩ thế.

    H: Khi nói đến tình trạng tinh thần, tôi muốn nói đến nỗi buồn, sự cô đơn, sự cảm nhận về bản thân, bởi vì... bà là một goá phụ.

    Đ: Ừ thì, trước tiên, có cái khoảng không. Không, trước tiên, có những con ma. Rồi mới đến cái khoảng không.

    H: Những con ma?

    Đ: Ồ vâng, ngay ở chỗ kia. Lúc nào cũng có. Nói chuyện với tôi, bảo tôi đặt chân này đằng trước chân kia, đừng hoảng hốt. Rung những chốt cửa vào ban đên. Cũng rõ ràng như anh đang ngồi chỗ đó vậy. Nhiều lần tôi đã thấy cái ghế tự nó đong đưa.

    H: Có lẽ tôi phải đổi sang ghế khác.

    Đ: Ồ không, cứ ngồi tại đó. Ai cũng ngồi tại đó cả mà.

    H: Sau những con ma, lại đến cái khoảng không?

    Đ: Cả một đống khoảng không rộng lớn đến kinh ngạc. Hết sức kinh ngạc. Trước kia tôi chưa bao giờ để ý đến bầu trời. Bảy mươi năm trên mặt đất mà tôi chưa bao giờ nhìn lên trời. Chỉ mới hôm qua, có những đám mây trên trời với những đỉnh nhọn nho nhỏ chĩa xuống, như một rặng núi chúc ngược xuống, hay như một nét chữ viết tay mực còn ướt rỏ xuống, trông nó lạ kỳ chưa từng có, tôi không thể diễn tả nó rành mạch được. Và những cái cây nữa. Những cái cây thật là quá kiên nhẫn, quá sức tự chủ, trong cách chúng thu nhận dưỡng chất từ không khí — nói ra bằng chữ thì nghe ngốc nghếch.

    H: Vậy bà muốn nói rằng kể từ lúc chồng bà từ trần thì cuộc sống bà chuyển sang những điều huyền bí?

    Đ: Không phải là huyền bí, mà là thực tế. Thuế lợi tức, chẳng hạn. Tôi phải tự tay khai báo tất cả, thuế liên bang và thuế tiểu bang. Tôi chưa từng bao giờ biết là tôi có khuynh hướng thích thưởng thức những con số. Tất cả mọi người. Tôi có những người bạn, thuộc mọi lứa tuổi. Có những lúc quá nhiều người gọi đến, tôi phải gác ống điện thoại ra khỏi máy. Tôi vừa nghĩ ra ý nghĩa của cái khoảng không mà tôi đã nói, đó là cái khoảng không mà bạn có thể tự mình sắp đặt mọi thứ, không có ai dùng cái khoảng không của ông ấy để chèn lấn bạn, không có ai bảo bạn rằng bạn điên khùng khi bạn đang nhổ cỏ cho vườn đậu lúc bốn giờ sáng và bắt đầu hát lên.

    H: Bà thường tự hát cho mình nghe?

    Đ: Tôi cũng không chắc.

    H: Tôi không có ý tọc mạch—

    Đ: Vậy thì đừng tọc mạch.



    Lúc phỏng vấn những người già, ta phải chuẩn bị tinh thần để ứng phó với những thay đổi đột ngột về tính khí của họ, với cú chấm dứt ngang xương. Chất liệu tạo nên con người đã bị tuổi thọ chà mòn đến quá mỏng cũng giống như một cuốn sách mà chất sợi tế vi từ các trang của nó cho phép những từ ngữ từ trang bên kia được nhìn thấy xuyên qua mặt giấy hoặc, vì các trang đã en face vào nhau quá lâu, mực in từ trang này đã nhoè lên trang đối diện. Hoang tưởng là trạng thái tự nhiên của một cơ thể sinh vật đã tuột dốc. Tính nhẹ dạ là điều kiện không thể thiếu của những thiên thần. Khuôn mặt của người goá phụ, bình thản và khoáng đạt một cách lạ thường trước đây, bây giờ lại trở nên cứng rắn và khó đăm đăm như một viên quý thạch cắt đứt bề mặt liên giới trong suốt của cuộc phỏng vấn. Ta phải quay trở lại từ đầu mọi sự.



    H: Nhưng, thì..., thưa bà, tọc mạch không phải là — ý tôi muốn nói, những gì chúng ta muốn thực hiện ở đây..., lời phát biểu của bà hết sức tích cực, thật là tích cực một cách bất ngờ, ... mà chúng tôi muốn gửi đến cho một số lượng người đọc đông đảo nhất... à vâng, cái giá trị to lớn của nó trong thời buổi nhiều người goá bụa như hôm nay, ... gửi đến cho tất cả những ai thấy mình cô đơn.

    Đ: Anh không có cô đơn. Anh không cô đơn. Không.





    ------------------------
    #2
      meocon_thongminh93 02.08.2006 14:19:53 (permalink)


      Hiện diện tại đây là vợ chồng Maple




      Họ từng là một đôi may mắn, và cũng chính nhờ sự may mắn của họ mà, khi họ sau cùng cũng quyết định chia tay, cộng đồng Thanh giáo họ sống trong đó đã bổ sung một tu chính li dị không-xét-lỗi vào cho bộ luật ly dị đã quá sáo mòn và cọc cạch của cộng đồng. Theo điều khoản của nó, họ phải nộp một chứng thư chung. Chứng thư này ghi “Hiện diện tại đây là Richard F. và Joan R. Maple, xác quyết, và chịu trách nhiệm nếu có khai gian, rằng hiện có một sự sụp đổ không cứu vãn được trong cuộc hôn nhân của họ.” Với Richard, khi đọc mẫu chứng thư đó trong căn hộ của mình ở Boston, lời lẽ đó gợi lên hình ảnh anh và Joan tay trong tay phơi phới đi vào một buổi liên hoan trong khi người giữ cửa mặc đồng phục đỏm dáng hô vang tên của họ giữa vô vàn hoa giấy rơi và bọt sâm banh phun bắn trong phòng. Suốt nhiều năm trong cuộc sống hôn nhân, họ đã cùng đi dự vô số các cuộc liên hoan, và bao giờ cũng với một ít hào hứng, một ít hi vọng, một ít chờ đợi một điều gì may mắn sẽ xảy ra.

      Kèm theo chứng thư là đủ thứ biểu mẫu tài chánh và một đơn xin cấp bản sao giấy hôn thú. Tuy họ từng sống ở New York và London, trên nhiều hòn đảo và nông trại, và có một mùa hè họ còn sống trong một căn chòi gỗ thô, nhưng họ đã lấy nhau tại một nơi chỉ cách chỗ Richard đang đứng đọc mấy thứ giấy tờ ấy vài trạm xe điện ngầm. Anh chưa từng trở lại Toà thị chính Cambridge ấy kể từ buổi sáng anh nhận giấy hôn thú ở đó, buổi sáng họ làm lễ cưới. Bố mẹ anh đã lái xe chở anh đến đây từ cái khách sạn xa lộ ở Connecticut nơi họ đã ngủ qua đêm sau khi khởi hành từ Tây Virginia; họ dậy từ sáu giờ để có thể tới nơi kịp lúc và trong gần hết lộ trình anh đã trùm áo khoác lên đầu, hi vọng sẽ ngủ lại được. Trong ký ức bây giờ, anh có vẻ như một sinh vật biển không xương nằm dưới tấm chụp như thân con sứa của chiếc áo khoác, trồi lên một cách trơ trọi dọc theo bờ biển khi không khí ngày càng nóng hơn. Đó là tháng sáu, và mọi thứ bốc hơi. Đến gần trưa, khi họ đến Cambridge, và kéo lê thân xác cùng những hộp đựng trang phục cưới lên bốn tầng lầu, đến căn hộ của Joan trên phố Avon, thì cô dâu đang tắm. Richard không thể nhớ còn có ai nữa trong căn hộ lúc đó; ký ức của anh về bữa đó thật lõm bõm –những vệt rõ nét trên một tấm giấy thấm ẩm màu xám. Ngày đó chẳng thấy bầu trời chẳng thấy mây, chỉ một đám mù mờ những vạt nắng không bóng râm phủ lấy những toà nhà gạch trên phố Brattle, và những đỉnh nhọn của Harvard, và những chiếc xe dềnh dàng nằm nung trên mặt đường tráng nhựa. Lúc đó anh hăm mốt, Eisenhower là tổng thống và cô dâu thì ở sau khung của đóng, hô lên rằng anh không được vào, nếu anh gặp cô lúc đó sẽ là xui xẻo lắm. Ai đó đang ở trong đấy với cô, cười rúc rích và té nước rào rào. Ai vậy? Chị, hay mẹ cô ấy? Richard đứng tựa vào cửa buồng tắm, và nghe tiếng ba mẹ anh đang lên cầu thang phía sau anh, họ thở mạnh nhưng vẫn trò chuyện, và mường tượng hình ảnh Joan trong bồn tắm, những ngón chân cô màu hồng, những lọn tóc ở cổ nằm ép sát da, bộ ngực cô bồng bềnh đầy xà bông và trơn tuột. Rồi mẩu ký ức ấy khô sạch, và trong một mẩu khác lại thấy anh và cô ta bên nhau trên xe bị vướng vào một chỗ tắc nghẽn giao thông giữa trưa nắng chập chờn ở quảng trường Central Square. Cô mặc cái váy mùa hè bằng vải bạc màu; anh chú mục vào dòng xe cộ để giảm thiểu chuyện xui xẻo vì nhìn cô trước khi làm lễ. Những cặp khác, lúc đó anh nghĩ, hẳn đã thu xếp mọi giấy tờ đâu vào đó ít nhất là hai tiếng trước khi làm lễ cưới. Nhưng hồi đó, dĩ nhiên những chú rể khác đã chẳng ngồi xe tới nơi làm lễ cưới với áo khoác trùm lên đầu như đứa trẻ trốn mưa bão. Tay trong tay, nhỏ bé hơn Hansen và Gretel trong trí tưởng của anh, họ chạy lên những bậc thang dẫn vào lối cổng vòm màu nâu nhạt và khuất dạng.

      * * *

      Toà thị chính Cambridge, trong một xã hội đầy đổi thay, đã không thay đổi. Toà lâu đài chạy hình cung thời Richardson, sa thạch đỏ và hoa cương hồng, đứng lù lù như một gã khổng lồ dịu dàng giữa đám hàng xóm nhạt nhẽo của nó. Nội thất bằng gỗ sồi đánh vẹcni, màu nhạt và sáng nhờ nhờ. Richard có vẻ nhớ ra mình đã nhận giấy tờ ở một ô cửa sổ lưới có biển đồng ghi chữ ở tầng dưới nhưng một mũi tên trên tấm bìa cứng lại chỉ anh lên tầng trên. Đầu gối anh run và bao tử nhộn nhạo trước sự lớn lao của cái việc anh đang làm. Anh rẽ ở một góc hành lang. Một phụ nữ ra dáng bà ngoại ngự bề thế trong một cõi rộng thênh và uể oải gồm những bàn phủ vải xanh và những cuốn sổ lớn trên các kệ thép. “Tôi muốn xin một b-bản sao hôn thú có được không ạ?”

      “Năm?”

      “Bà bảo sao ạ?”

      “Anh làm hôn thú năm nào?”

      “1954.” Đọc rõ từng số thì cái năm ấy nghe xa vời như một vì sao, vậy mà anh lại có mặt ở đây, chẳng thấy già đi một phút nào, và vẫn đổ mồ hôi trong cái nóng mùa hè như thế. Tuy nhiên, bà kia, sau khi ghi lại họ tên và ngày tháng, đã phải bỏ anh ở đó đi sang một gian phòng khác chứa giấy tờ, thực tình thì sự vụ anh muốn giải quyết đây quả là xa xôi.

      Bà ta trở lại với dáng khập khiễng mà lúc nãy anh không nhận thấy. Cuốn sổ bà vác theo, khi mở ra, thì rộng tới cả thước, như pho sách của một tay phù thủy. Bà cẩn thận lật những trang giấy mênh mông, như thể khoảng trống của quãng đời đã mất và thời gian đã qua biểu hiện trên những trang giấy có thể vụt một cái chồm lên nuốt chửng cả hai người. Bà này hẳn đã từng có mái tóc hung đỏ rực rỡ, nhưng giờ nó đã hóa vàng cạch, cứng thành những lọn uốn cố định, vô hồn như tờ giấy khô queo. Bà ta mỉm cười, một nụ cười nhẹ thành nếp. “À, đây rồi.”, bà ta nói.

      Và Richard có thể đọc thấy, theo phía ngược lại, trên một đường mực đỏ dài, tên của anh và của Joan thời con gái. Nghề nghiệp của cô được ghi là “Giáo viên” (cô từng giáo giáo viên tập sự môn mỹ thuật, anh đã quên chiếc áo choàng xanh lốm đốm sơn của cô, cái mùi đất sét ở những ngón tay của cô, cái kiểu cô đạp xe đi làm ngay cả trong những ngày lạnh nhất), rồi khoản của anh, kém cỏi hơn, ghi “Sinh viên”. Rồi địa chỉ của họ trong đó làm anh ngạc nhiên, chúng không giống nhau –gian tiền sảnh trên phố Avon, lối vào toà nhà Lowell, những cánh cửa bị lãng quên mở ra đoạn hành lang của những địa chỉ dùng chung trải dài suốt từ đó đến nay. Chữ ký của họ – anh không chịu được chuyện ngắm nghía các chữ ký của họ, cho dù nhìn ngược từ trên xuống. Liếc qua là thấy, chữ ký của Joan trông vững chãi, và xanh đậm hơn. “Anh muốn một hay nhiều bản?”

      “Một chắc là đủ.”

      Mẫn cán như thể chưa từng làm việc này hàng ngàn lần trước đây, người phụ nữ tóc đỏ ngày xưa, vuốt thẳng tờ giấy và liên tục chấm mực cho cây viết cổ lỗ, ngồi chép lại những chi tiết vào một mẫu chứng nhận.

      Còn đọng lại gì về ngày đám cưới ấy? Chỉ có vài hình ảnh, Richard nhớ lại. Một người em họ của Joan đã sắp xếp những nhân vật chính dự lễ cưới trên hè phố trước nhà thờ, mọi người tụ tập quanh đồng hồ đậu xe. Cây đồng hồ, một đại diện mảnh mai ánh bạc của chính quyền thành phố, chiếm vị trí danh dự giữa nhóm người, với cái đầu nhỏ hẹp và cái lưỡi đỏ tía. Giống cây đồng hồ, chàng rể cũng gầy gò. Anh chớp mắt ngay khi máy ảnh bấm, nên khuôn mặt anh gợi tới mặt nạ xác chết. Tư thế của cô dâu, vừa căng thẳng vừa duyên dáng, trông có gì giống như một vũ viên, bàn chân quay ra ngoài trên mặt gạch lát nóng; cô có vẻ như sắp kéo tấm váy cưới lên và làm một động tác múa xoay vòng. Cha mẹ hai bên, chưa biến hẳn thành ông bà nội ngoại, trông mờ nhạt trong cảnh này, chìm khuất trong vùng sáng chói, rộng lượng và ngô nghê như những viên đá của toà nhà trong đó Richard đang trả ba đô la lệ phí cho tờ bản sao, tờ phản-chứng nhận của anh.

      Còn một hình ảnh nữa thì được một người bạn sinh viên ghi nhận lại, anh này đã chở họ đến khu nhà hưởng tuần trăng mật tại một thị trấn ven biển cách Cambridge một giờ chạy xe về phía nam. Một bộ đồ chơi bóng vồ được bỏ lại trước cửa, và Richard, vào một trong trò biểu diễn mà anh đã tập làm để che giấu tâm trạng bất an, đã nhặt lấy ba trái banh và bắt đầu trò tung hứng. Anh bạn sinh viên, có lẽ cũng bồn chồn, đã bấm máy ngay lúc đó; và trái banh đỏ cứ ở vị trí lơ lửng mãi như thế, mờ nhoà, trong màu hổ phách của của ánh ngày đang tàn, trong khi ánh vàng và xanh trên hai tay Richard và trên khuôn mặt anh chăm chú nhìn lên trong một vẻ hoan lạc.

      “Tôi còn có một chuyện nữa,” anh nói khi bà thư ký đóng cuốn sổ to đùng lại và chuẩn bị vác đi.

      “Cái gì vậy?” bà ấy hỏi.

      “Tôi cần công chứng một chứng thư.”

      “Việc đó không thuộc phận sự của phòng này. Xuống tầng một, rẽ phía trái khi ra khỏi thang máy, hay rẽ phải nếu đi cầu thang. Đi cầu thang thì lẹ hơn, nếu như anh muốn hỏi ý tôi về chuyện đó.”

      Anh theo những chỉ dẫn của bà và tìm ra một bà da đen còn trẻ ngồi sau một cái bàn bằng sắt đặt đầy những chiếc khung vàng chóe gắn các hình ảnh về sự trung thành và đoàn kết và ổn định, về các con cái và cha mẹ, về một cậu trai da nâu trông nghiêm trang trong bộ quân phục cũng màu nâu, về một gia đình đang cười toe toét bên bờ một cái hồ; còn có cả ảnh chụp một căn nhà – một căn nhà nông trại nho nhỏ bình thường ở đâu đó, với một bãi cỏ xanh. Bà ta đọc chứng thư của Richard mà không bình luận gì. Anh cố nén nỗi nôn nóng muốn nói xin lỗi với bà ta. Bà ta yêu cầu cho xem bằng lái và so khuôn mặt anh với tấm ảnh trong đó. Bà đưa cho anh một cây viết và đóng một cái dấu không thể hủy ngang bên cạnh chữ ký của anh. Trái banh đỏ vẫn cứ lơ lửng trong không khí, đâu đó trong chiếc hộp đựng những tấm phim đèn chiếu mà anh sẽ chẳng bao giờ xem lại, và cái im lặng sáng sủa của ngôi nhà hưởng tuần trăng mật nơi họ được bỏ lại một mình thì vẫn di chuyển, một đầu đạn chứa im lặng, thoát ra hướng về các vì sao; nhưng điều khiến Richard ưu phiền hơn, nhăn cả mặt mày khi anh bước từ khung cửa vòm màu nâu ra ánh chói chang của mùa hè, là một chi tiết chưa tròn của hôm lễ cưới. Trong nỗi bối rối, mụ mẫm, hoang mang về cái con người mặc toàn trắng run rẩy bên cạnh anh trước bàn thờ, ở mép bờ ý thức của anh như một đường cầu vồng trong cõi sương mù, anh đã quên kết thúc những lời thề hứa bằng một nụ hôn. Joan đã liếc nhìn qua anh, mỉm cười, chờ đợi; anh đã mỉm cười đáp lại, không nhớ ra. Giây phút ấy trôi qua, và họ vội vàng đi ra giữa hai hàng ghế như bây giờ anh đang vội vàng bước, bối rối ngượng ngùng, xuống những bậc thềm của Toà thị chính, tới mặt đường và xuống đường xe điện ngầm.

      * * *

      Khi chiếc xe điện ngầm thong dong lao vào bóng tối thì anh đọc về các sức mạnh của tự nhiên. Một trích đoạn nghiên cứu đã được gửi đến anh qua bưu điện, trong cùng chuyến với tờ chứng thư. Trước thời sống ly thân, hẳn anh đã quẳng nó đi chẳng thèm nhìn lại, nhưng bây giờ, khi từ từ nhiễm thói lập dị của một ông già Boston, anh đã đọc mọi thứ vớ vẩn người ta gửi tới, thậm chí còn dừng lại trong ngõ hẻm để nhặt lên một mẩu nhật báo và đọc qua xem có chân lý gì không. Như thế, anh đọc, từ năm 1935 người ta đã biết rằng thế giới tự nhiên được điều khiển bởi bốn lực, xếp theo thứ tự cường độ tăng dần là lực hút, lực yếu, lực điện từ, và lực mạnh. Vừa đọc, anh vừa thấy mình nghiêng về các lực yếu; anh đồng hóa với chúng. Sức hút trái đất, tuy chẳng quan trọng ở tầm vi mô, khởi sựï tác động các vật thể ở độ lớn hàng trăm cây số, như các vì tinh tú; nó giữ yên vị cho mặt trăng, trái đất, hệ mặt trời, các vì sao, các chùm sao trong các dải ngân hà và chính bản thân các dải ngân hà nữa. Với Richard, điều đó giống như một đội thể thao kiên cường bị áp đảo ngay lúc bắt đầu cuộc thi đấu và hiện đang xông lên giành chiến thắng trong giây phút cuối cùng; lòng anh thầm hoan hô chúng. Chiếc xe điện ngầm dừng lại ở ga Kendall, và anh nhớ lại chuyện vài ngày sau đám cưới, anh và Joan, như một đôi vợ chồng, đã đón chuyến xe lửa lên phía bắc qua ngả New Hampshire thế nào, để nhận công việc trong mùa hè mà họ đã ký kết. Tuyến xe lửa, lâu nay đã ngừng hoạt động, đã chạy quanh co lên phía bắc, dọc theo những con sông mải miết trôi và bị bẩn thỉu đi vì những trại cưa, tiến vào những núi đồi lúc nào cũng xanh um nơi mấy chiếc thùng treo trên dây cáp để chở người trượt tuyết lên đầu dốc vẫn đứng đó chờ rỉ sét. Những ghế ngồi trên xe lửa bọc vải đỏ tía và con tàu cứ nhẹ nhàng lắc lư liên tục. Đôi cánh tay nàng, trắng xanh trên nền vải tía, ửng một màu hồng rám nắng. Không rõ làm thế nào để hưởng một tuần trăng mật, nhưng lại biết rõ rằng mình phải tạo ra những kỷ niệm tồn lưu mãi cho đến ngày cái chết chia lìa họ, hai người đã trần truồng chơi bóng vồ trong một khoảng sân nhỏ giữa rừng cây cứ như một con mắt cỏ xanh nhìn miết lên trời cao. Ván đấu nào nàng cũng thắng. Lực yếu, Richard đọc, không ảnh hưởng đáng kể đến cấu trúc của nhân nguyên tử cho đến khi quá trình phân hủy diễn ra; giống như một vết rạn trên một cái chuông bằng gang, nó không ảnh hưởng tới tiếng ngân vang của chuông cho tới lúc sau cùng nó khiến chuông vỡ ra từng mảnh.

      Chiếc xe điện ngoi vào ánh sáng, để vượt cầu Charles. Những chiếc thuyền buồm nghiêng nghiêng trong nắng phía dưới. Bên kia sông, những toà nhà chọc trời màu khói nhạt của Boston đứng như những vòi phun bất động. Con tàu lửa lượn theo vịnh của một cái hồ và dừng lại ở ga Weirs, một vùng đá sỏi mùa hè như những cục kem rải rác trên mặt đường nhựa, như mùi kẹo táo từ bờ tuổi thơ phả về. Sau khi chờ đợi hết mấy tiếng, họ theo chuyến tàu chở thư ra hòn đảo nơi họ sẽ làm việc. Hòn đảo nằm ở mạn bên kia của hồ Winnipesaukee, phải vượt qua nhiều đảo nhỏ khác mới tới được, và cũng cần rất nhiều chuyến thư tín. Trước mỗi lần cập bờ, con tàu lại hú còi –một tiếng ồn khủng khiếp. Hai vợ chồng Maple ngồi ở mũi tàu, để phơi nắng và ngắm cảnh; một khi ở đó, ngay bên dưới cây còi tàu, họ cảm thấy phải ở lại. Những hòn đảo, mặt nước, những núi đồi sâu trong bờ tạo thành những viễn cảnh chuyển động nhẹ nhàng quanh họ và rồi –mỗi lần, ngạc nhiên thay- tiếng còi tàu vang lên lại làm tim họ chùng xuống và bóp nát phong cảnh thành một mớ âm thanh; những tiếng còi ấy đánh vào cuộc hôn nhân non trẻ của họ. Anh vừa đổ lỗi cho nàng vừa mong nàng tha thứ cho những gì mà cả hai người đều không kiểm soát được. Sau mỗi hồi còi, động cơ sẽ tắt và con tàu sẽ lưỡng lự trôi vào một chiếc cầu tàu mảnh dẻ, và từ những con đường đất mềm lốm đốm của đảo này hay đảo nọ luôn xanh um, những đứa bé rám nắng đi cắm trại và những ông thầy quản trại mặc quần tắm đi giày mọi sẽ đổ ra để nhận thư, tiếng la hét của họ vang vang một cách kỳ lạ trong đôi tai đã điếc đặc của vợ chồng anh. Khi đến được đảo của họ, vợ chồng anh đã kiệt sức.

      Cơ học lượng tử và thuyết tương đối, cùng với nhau, đều cực kỳ giới hạn và do đó chúng đem đến cho chúng ta một công cụ lý luận rất to lớn. Richard nhét tập giấy vào túi và rời xe lửa ở ga Charles. Anh băng qua cầu vượt đi về phía bệnh viện để gặp bác sĩ trị viêm khớp cho anh. Xương cốt anh đêm nào cũng nhức. Anh có những bạn bè đang hấp hối, có người đã chết; có vẻ thật khó tin rằng chẳng bao lâu nữa anh sẽ tiếp bước họ. Lần đầu tiên anh đến bệnh viện là để tán tỉnh Joan. Anh đã leo lên chính đoạn dốc này để tới những khung cửa kiếng, rồi vào trong, cái mê cung khổng lồ của những kẻ bệnh hoạn, lắp bắp hỏi thăm chỗ của cô gái, với sợi dây cao su buộc mớ tóc đuôi ngựa, vẫn thường ngồi ở hàng ghế đầu lớp Anh văn 162b: “Truyền thống sử thi Anh, từ Spenser tới Tennyson”. Anh đã chiêm ngưỡng cái gáy nghiêng nghiêng của nàng ba giờ mỗi tuần suốt mùa đông. Anh thu hết can đảm để nói chuyện với nàng trong đợt thi, ngồi cùng một cái bàn thư viện, họ cùng nghiền ngẫm những bản sao tối tăm của các minh họa của Blake cho cuốn Paradise Lost. Họ đồng ý gặp lại sau kỳ thi và đi uống bia với nhau. Nàng đã không tới. Trong cái giảng đường đầy những cái đầu miệt mài suy tư thì không có cái đầu của nàng. Và đặt hai cuốn Faerie Queene và The Idylls of the King tựa vào nhau, anh đã gọi đến phòng ký túc của nàng và được biết rằng Joan đã được đưa vào bệnh viện. Một lực tự nhiên đã khiến anh bất chấp những hành lang dài dằng dặc, những lần rẽ sai và đám đông các bà cô bà dì và các kẻ khác đang theo đuổi nàng ở cuối giường; anh tìm thấy nàng trắng toát, giữa các lớp vải trắng, mái tóc xõa quanh vai và một ống nhựa dẻo truyền chất gì trong suốt vào dưới cánh tay nàng. Trong những lần sau đến thăm, anh đã được quyền cầm tay nàng, tuy nó còn lằng nhằng những băng keo và thanh kẹp. Chẩn đoán nói rằng nàng bị giảm tiểu cầu. Chứng bệnh cụ thể là nàng cứ bị chảy máu chứ máu không đông lại được. Nàng xấu hổ kể cho anh nghe chuyện các bác sĩ và các nội trú viên đã hỏi nàng làm tình lần gần đây nhất là lúc nào, và nàng cảm thấy bối rối làm sao khi phải thú thật, trước vẻ không tin lịch thiệp của họ, rằng nàng chưa hề làm tình lần nào.

      Bác sĩ gỡ dụng cụ đo huyết áp ra khỏi tay Richard và mỉm cười. “Gần đây anh có bị căng thẳng gì không?”

      “Tôi vừa mới ly dị.”

      “Viêm khớp, anh biết đó, nằm trong hệ thống những chứng bệnh có yếu tố tâm thần cơ thể.”

      “Tôi chỉ biết rằng tôi thức dậy lúc bốn giờ sáng và thật thối chí khi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ thoát chứng này được, cơn đau sẽ nằm bên trong bả vai tôi cho đến hết đời chắc.”

      “Anh sẽ phải chịu mãi. Còn nó thì không ở đó mãi đâu.”

      “Cho đến khi nào?”

      “Khi não bộ anh thôi phát tín hiệu đau.”

      Bàn tay nàng, trong cái giá đỡ nhỏ bé của dụng cụ chữa trị, độ ấm của nó không cự tuyệt cũng không gắn bó khi anh cầm trong tay ở cạnh giường của nàng, nó nằm cao, gần như ngang tầm mắt anh. Trên đảo, hai chiếc giường dành cho họ trong căn nhà gỗ lại cao thấp khác nhau, và dù Joan đã cố biến chúng thành một cái giường đôi, thì vẫn còn một cái mí nơi hai tấm nệm giáp nhau mà hoặc anh hoặc nàng phải lăn qua, bên cạnh điều bất tiện của tấm trải giường xộc xệch. Nhưng căn nhà gỗ lại nằm ngay trong rừng và mùi ẩm hăng nồng của thông và dương sỉ uà vào qua khung cửa lưới cùng tiếng chim hót buổi sáng và thú vật lạo xạo buổi tối. Người ta đồn có nai trên đảo; chúng vượt qua mặt hồ đóng băng vào mùa đông và kẹt lại trên đảo lúc băng tan vào mùa xuân. Mặc dù chẳng có ai, bọn cắm trại cũng như các thầy quản trại, từng trông thấy nai, nhưng lời đồn vẫn nhất định là có nai ở đó.

      Tại sao chưa từng có ai trông thấy một hạt quark?[1] Trong khi đi bộ theo phố Charles về căn hộ của mình, Richard mơ hồ nhớ ra một câu đại loại như vậy, và thò tay vào túi lấy tập giấy viết về các lực tự nhiên, nhưng hoá ra lại móc nhằm một hoá đơn mới cho thuốc giảm đau, một bản sao giấy hôn thú và tờ chứng thư với chữ ký. Bây giờ tới. . . tập giấy bị lẫn vào đó. Anh không tìm ra câu đó, và đành đọc, Lý thuyết cho rằng các lực mạnh trở nên mạnh hơn khi các hạt quark tách khỏi nhau là ít nhiều võ đoán; nhưng phần bổ sung của nó là ý tưởng cho rằng lực sẽ trở nên yếu đi khi các hạt quark bị đẩy lại gần nhau, thì lại rất có cơ sở. Phải, anh nghĩ, điều đó đã xảy ra. Trong cuộc sống có bốn lực: tình yêu, thói quen, thời gian và nỗi buồn chán. Tình yêu và thói quen, trong ngắn hạn, thì cực kỳ mạnh mẽ, nhưng thời gian, chẳng có sức đột phá nào, lại tích tụ một cách vững chãi, và cùng với đồng minh là nỗi buồn chán, sẽ bình địa mọi thứ. Anh đang chết dần đây; điều đó làm anh đau khổ. Tim anh chùng xuống trong kinh hoàng trước việc anh vừa làm. Làm sao anh nói cho Joan nghe việc anh vừa làm với tờ hôn thú của họ? Chính những hạt quark trong đường điện thoại cũng sẽ nổi loạn tung lên.

      Trong rừng, có một khoảng trống xanh, một con mắt cỏ, một bãi cỏ điểm những hoa trắng li ti, và ở đây một hoàng hôn nọ nai đã tới, con cái đi lên trước một chút, con đực to và lông sẫm hơn, cái mông nó còn khuất trong tối khi con bạn nó thăm dò tia nắng cuối ngày, bóng dáng chúng được viền bằng thứ ánh sáng đang mạ vàng lên bãi cỏ. Một đoàn những tay cưỡi mô tô mặt không hình dáng gầm rú chạy qua, một gã say ở cửa tiệm cho thuê máy giặt vẫy tay với Richard, một cô gái mặc chiếc váy yếm nhìn anh lạnh tanh, ánh sáng chuyển từ đỏ sang xanh lá cây, và anh không thể nhớ mình muốn nước cam hay bánh mì, và lại càng bực hơn vì anh không thể nhớ họ đã thấy được nai ở đó lần nào chưa, hay phải chăng anh tưởng tượng ra ký ức đó, dựng nó lên do ước muốn rằng nó phải xảy ra như vậy.

      * * *

      “Em không nhớ,” Joan nói qua điện thoại. “Em không nghĩ mình đã thấy, mình chỉ nói về chuyện đó thôi.”

      “Bộ ra khỏi căn nhà một lát, không có một khoảnh rừng trống nào sao, nếu em đi theo con đường mòn đó?”

      “Chúng ta chưa từng đi theo lối đó, nó nhiều sâu bọ quá.”

      “Một con nai đực với một con nai cái, ngay lúc trời sẩm tối. Em không nhớ gì hết sao?”

      “Không. Thực tình là không, Richard à.[2] Anh muốn em phải hối hận về chuyện đó đến cỡ nào đây?”

      “Đâu có gì đâu, nếu không có chuyện đó thì thôi. Nói sang chuyện hoài niệm thì. . .”

      “Sao?”

      “Anh đã tới Toà thị chính Cambridge hồi chiều để xin một bản sao hôn thú của tụi mình.”

      “Ôi anh. Nó ra làm sao?”

      “Cũng vậy thôi. Chỗ đó vẫn y như hồi xưa. Mình nhận hôn thú ở trên lầu hay dưới nhà?”

      “Dưới nhà, phía bên trái thang máy khi từ ngoài bước vào.”

      “Bây giờ đó là chỗ công chứng giấy tờ. Nay mai chắc em sẽ nhận được một bản sao; một thứ giấy tờ dễ sợ.”

      “Em đã nhận được nó hôm qua. Nó có gì dễ sợ đâu? Em thấy nó vui đấy chứ, cái kiểu câu chữ viết trong đó. Ta đến tại đây, ta bỏ đi kia.”

      “Ồ, em thiệt là cứng cỏi.”

      “Em nghĩ mình phải thế. Không đúng sao?”

      “Phải.”

      Đây không phải lần đầu tiên trong hai năm qua anh cảm được độ mỏng manh của cái vỏ trứng mà anh đang co ro nằm bên trong và chỉ cần Joan cất cao giọng nói là đập vỡ được nó. Nhưng nàng không muốn phá vỡ, hoặc là do nàng không biết nó mỏng tới cỡ nào, hoặc bởi vì nàng đang đập vào mé bên kia, cũng giống như, ở phía trong cánh cửa phòng tắm, nàng bị lôi tới cuộc hôn nhân với cùng một tốc độ như anh, và với cùng lực thúc đẩy tiệm giảm. “Điều mà em không hiểu, “ nàng nói, “là người ta muốn hai đứa mình cùng ký vào một văn bản, hay mỗi đứa ký một cái, hay cái gì khác? Và cái nào đây? Ông luật sư cứ gửi cho em mỗi thứ ba bản, một số thì nằm trong bao thư xanh. Có phải đó là những bản quan trọng hay không quan trọng mà em có thể lưu lại?”

      Thực ra, các vị luật sư, vốn tài ba đến thế trong cái thế giới đối địch quen thuộc của họ gồm các trò cáo buộc, kiện tụng và kháng cáo, có vẻ cũng bị rối vì điều khoản cho phép li dị mà không xét lỗi mỗi bên. Ngay buổi sáng xử vụ li dị của họ, Richard chào ông luật sư trên những bậc thềm pháp đình với ý nghĩ rằng trong tư cách nguyên đơn anh sẽ bị người ta yêu cầu nói rõ điều gì trong cuộc hôn nhân đã khiến anh thấy rằng nó là một sự sụp đổ không cứu vãn được. “Nhưng toàn bộ tinh thần của điều luật li dị không xét lỗi,” Joan chen vào, “là anh không cần phải nói bất cứ điều gì cả.” Nàng đã sánh vai Richard leo lên các bậc thềm pháp đình; thực ra, họ đã đi chung xe tới đây, vì một trong những đứa con của họ đã sử dụng chiếc Volvo của nàng rồi.

      Vụ phân xử được lên lịch đầu buổi sáng. Đến đón nàng lúc bảy giờ mười lăm, anh thấy nàng đang đứng chân trần trên bãi cỏ vòng xoay đường xe chạy vào nhà, cổ chân ngập trong sương. Nàng cầm đôi giày cao gót trong tay. Hình ảnh đó khiến anh bật cười. Mở cửa xe, anh nói, “Vậy là có nai trên đảo!”

      Nàng đang mải lo nghĩ không hiểu ra kịp lời nói xa xôi của anh. Nàng hỏi, “Anh nghĩ em không đi vớ dài thì quan toà có phiền không?”

      “Cứ giấu chân em sau băng ghế của ông ta,” anh nói. Anh cảm thấy hơi quay cuồng lảo đảo. Anh không ngủ được ngon, tuy rằng cái vai của anh không đau nữa trong một lúc nào đó. Nàng vào xe, mang theo đôi giày và cả mùi cỏ ướt. Nàng vẫn là người ưa dậy sớm, còn anh luôn dậy trễ. “Cám ơn anh về việc này,” nàng nói, về vụ anh tới đón, và thêm, “Chắc thế.”

      “Anh thích vậy mà,” Richard nói. Khi chạy xe tới pháp đình, nói chuyện về xe cộ và con cái, anh tự hỏi Joan bây giờ nhẹ nhàng đến mức nào; nàng ngồi phía đuôi mắt anh trông nhẹ như một chiếc lông, giọng của nàng mơn trớn tai anh, lối nhấn nhà và ngữ điệu quen thuộc rất có nhạc tính và nghe loáng thoáng, như kiểu của một bản giao hưởng làm ta mơ mộng. Anh không còn trách cứ nàng nữa: đó là lý do của sự nhẹ nhõm. Suốt những năm ấy, anh đã trách nàng về đủ thứ chuyện –chuyện kẹt xe ở quảng trường Central Square, tiếng động ầm vang trên chuyến tàu chở thư, độ chênh giữa hai cái giường họ ngủ. Không còn nữa: anh đã thôi không bắt nàng phải giữ vai trò toàn năng nữa. Anh đã trả tự do cho nàng, thoát khỏi khuyết điểm. Nàng đối với anh cũng như Gretel đối với Hansen, một sinh vật đồng điệu đang đi cùng anh dọc theo con đường trong khi bọn chim mổ những vụn bánh mì sau lưng họ.

      Luật sư của Richard nhìn Joan với vẻ buồn bã quá lố. “Tôi hiểu hết, thưa bà Maple,” ông ta nói. “Nhưng có lẽ tôi phải nói chuyện riêng với khách hàng của tôi.”

      Luật sư mà hai người đã chọn khác nhau một cách kỳ cục. Luật sư của Richard là dân gốc Ireland bự con và trông luộm thuộm. Bộ đồ mùa hè màu nâu nhạt của ông ta thì lụng thụng còn cái bụng thì làm căng cứng chiếc áo sơ mi, đúng kiểu một ông bố dễ chịu và tẻ nhạt. Còn luật sư của Joan thì nhỏ con, chải chuốt và đánh đồng mọi sự; ông ta mặc đồ ca rô và phát âm qua khóe miệng như những tay gạ bắt độ cá ngựa. Mắt lấp lánh và hoạt bát ngay cả vào cái giờ còn ngái ngủ này, ông ta xuất hiện từ sau một cây cột của toà pháp đình và kéo Joan ra xa. Cái đầu của nàng, hơi cao hơn ông ta, nghiêng qua để lắng nghe ông ta nói. Nàng lúm đồng tiền, ngoan ngoãn. Richard tự hỏi trong nỗi hoang mang, Phải chăng đây là loại đàn ông mà, qua bao nhiêu năm ấy, đã là kiểu mẫu thầm mơ ước của nàng? Luật sư của anh, thở hồng hộc, hỏi, “Nếu quan toàn yêu cầu đưa ra một lý do cụ thể cho vụ chia tay này –mà tôi không chắc là ông ta sẽ hỏi, chúng ta đang trong một tình thế chưa từng có trước đây- thì anh sẽ nói gì?”

      “Tôi không biết nữa,” Richard ngắm nghía đường hoa văn trên mặt gạch bông, như một con sóng nhỏ vỡ ra, giữa hai đầu mũi giày của anh. “Chúng tôi có những khác biệt về chính trị. Cô ấy thường bắt tôi dự những cuộc tuần hành đòi hòa bình.”

      “Có xô xát tay chân không?”

      “Không nhiều. Không đủ nhiều, có lẽ vậy. Bộ ông nghĩ quan toà sẽ hỏi những chuyện thế này sao? Đây là vụ li dị không-xét- lỗi hay cái gì khác đây?”

      “Ở bang này, li dị không-xét-lỗi là chưa có tiền lệ. Về điểm này, Dick ạ, chính ta là người tạo ra nó. Tôi không biết ông ta sẽ làm gì. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng thôi.”

      “Được rồi, ngoài chuyện chính trị, chúng tôi còn không hoà hợp lắm về mặt tình dục.”

      Không khí giữa hai người đặc cứng lại; với bố anh cũng vậy, tình dục luôn là vấn đề rối rắm. Hơi thở ông luật sư nghe rõ một cách trầm trọng. “Vậy là anh sẵn sàng nói là có sự không hoà hợp về tình cảm và cá nhân?”

      Điều này có vẻ không đúng lắm, nhưng Richard vẫn gật đầu. “Nếu tôi phải nói.”

      “Được rồi.” Ông luật sư đặt bàn tay to bè lên cánh tay anh và siết lại. Tướng tá chật căng của ông ta, hơi thở nặng nề, cái vẻ cấp bách bồn chồn và vui vẻ gượng gạo, bộ đồ kiểu xưa và mớ hồ sơ kẹp trong nách cứ như những bảng phân công tất cả tập trung thành một điểm: ông ta là huấn luyện viên, và Richard sắp sửa ghi bàn thắng ấn định tỉ số, làm một cú nhảy cầu cực khó, hay đánh trái banh dã cầu trúng tâm của lượt đánh với đủ ba góc sân đã vượt qua. Lên đường thôi.

      Họ đi vào phòng xử từng đôi một. Căn phòng giản dị và trống trơn; phần viền khung cửa có chạm trổ được sơn màu xanh rừng. Các cửa sổ mở ra một con sông nhỏ đã đen thui đi vì chất thải công nghiệp. Chân dung các quan toà quá cố từ trên cao nhìn chòng chọc xuống. Hai luật sư trao đổi với nhau, để mặc Richard và Joan đứng sớ rớ hai bên. Anh bày bộ mặt “Làm gì bây giờ?” ra với nàng. Nàng cũng bày ra bộ mặt “Không biết” với anh. Rồi nghe có ai kêu “Trật tự, trật tự,” và quan toà bước rất nhanh vào, miệng mỉm cười, lớp áo chùng của ông phất phơ. Ông thuộc loại người nhỏ con sắc gọn với khuôn mặt hồng hào lịch lãm; khuôn mặt ông tuyên bố rằng ông hoàn toàn khoẻ mạnh, và sẽ chẳng bao giờ chết. Ông đứng và gật đầu với họ. Ông ngồi xuống. Các luật sư tiến tới thầm thì bàn bạc với ông. Richard chậm chạp nhích về phía Joan, vật thể sống duy nhất trong phòng không cự tuyệt anh. “Đó là một bức tranh khôi hài kiểu Daumier,” nàng thì thào, ám chỉ màn kịch đang diễn ra trước mặt họ. Hai luật sư lui về chỗ. Quan toà ra hiệu. Ông ta sạch bong đến độ nụ cười mỉm của ông cũng kêu lên chin chít. Ông chìa ra với Richard một tờ giấy; đó là bản chứng thư, “Chữ ký của anh đây phải không?” ông hỏi.

      “Phải,” Richard đáp.

      “Và anh tin rằng, như trong đây có ghi, cuộc hôn nhân của anh gặp một sự sụp đổ không cứu vãn được phải không?”

      “Tôi tin như thế.”

      Quan toà quay sang Joan. Giọng ông mềm lại một chút. “Chữ ký của cô đây phải không?”

      “Phải.” Giọng của nàng là một tia xịt có tác dụng phục hồi sức khoẻ, đầy những cầu vồng nhỏ xíu, trong khoé mắt Richard.

      “Và cô tin rằng cuộc hôn nhân của cô gặp một sụp đổ không cứu vãn được phải không?”

      Im lặng một lát. Nàng không tin điều đó, Richard hiểu như thế. Nàng nói “Tôi tin như thế.”

      Quan toà mỉm cười và chúc cả hai người được may mắn. Hai luật sư giãn người nhẹ nhõm, sau đó là hàng tràng những trao đổi vui vẻ trong nghề luật –tiên liệu về những vụ li dị không-xét-lỗi trong tương lai, nhắc lại những ngày xưa của Alabama với tác phong nhậm lẹ – quên hẳn vợ chồng Maple. Thừa thãi ngay trong buổi xử vụ li dị của chính họ, Joan và Richard cùng bước lui ra khỏi phòng xử và đứng bên cạnh nhau, hoang mang chưa biết kế tiếp sẽ làm gì, cho đến khi sau cùng Richard nhớ ra việc cần làm; anh hôn nàng.

      _________________________

      [1]quark: một trong sáu loại hạt, theo giả thuyết, đã cấu thành những hạt cơ bản của nguyên tử.

      [2]Người vợ sắp li dị này không gọi Richard bằng Dick, tên gọi thân mật.
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9