(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI
Thay đổi trang: << < 404142 > >> | Trang 41 của 45 trang, bài viết từ 601 đến 615 trên tổng số 666 bài trong đề mục
Nhatho_PhamNgocThai 23.01.2018 10:26:37 (permalink)
 
 
                CHÙM THƠ TÌNH SÔNG HỒ
                                 PHẠM NGỌC THÁI

 
               ANH VỌNG NGHE
        TIẾNG EM HÁT BÊN HỒ

Anh vọng nghe tiếng hát bỗng bàng hoàng
Đôi mắt mùa thu ru êm ả
Ôi, hồ xưa! Những đêm trăng lộng gió
Những đêm không chiếu không màn.

Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát
Em mãi còn kỉ niệm trong anh
Như hạnh phúc đời anh: Cái thực là hư cả
Cái đã hư xưa mới chính thực là mình.

Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ
Chiếu ở rất xa,
                        qua hồn ta,
                                          trong mộng ủ
Ôi! Hư vô, sao quặn xiết lòng ta?
Hỡi đêm tàn!
Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa...
 
     NGƯỜI CON GÁI SÔNG XƯA (*)
                                  Nhớ lại thời chiến trận qua làng 

Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
Bãi ngô non xanh gió chân mây
Người con gái anh gặp thời chinh chiến
Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.

Một làng bé quanh con nước lớn
Với quê hương thầm dịu thuở chiến tranh
Lòng thôn nữ như vầng trăng tỏa sáng
Lại trở về man mác trái tim anh.

Làng em lũy tre xanh bất tử
Mới gặp một đêm mà đã thấy thương thương...
Bóng nhìn anh mắt theo giờ còn biếc
Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng.

Lá tre rụng bao mùa trôi dĩ vãng
Và quê em...đời sống có nâng cao?
Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng
Đang bồi hồi thao thiết giữa trăng sao.

Người con gái sông xưa, ơi có biết!
Một thời trai bão táp cuộc hành quân
Đêm thành phố nhớ em buồn da diết
Em bây giờ có hạnh phúc không em?
 
----------------------------
 
(*)     Tôi không còn nhớ tên em, nhưng hình ảnh từ đôi mắt tới dáng hình em thì tôi vẫn man mác nhớ. Đó là vào một buổi trong những tháng năm còn chiến tranh, chúng tôi hành quân qua một ngôi làng nhỏ bên ven sông Hồng. Thuở ấy tôi mới chỉ là một anh lính binh nhì chưa đầy hai mươi tuổi.
      Chúng tôi đã dừng chân nghỉ tại làng. "Tổ ba ba" của tôi được bố trí ngủ ở nhà em. Tối đó tôi ngồi nói chuyện với em khuya lắm, trong một mái bếp xóm quê. Bên bếp lửa bập bùng ánh lên khuôn mặt hiền xinh và thơ trẻ,. Người em đậm đà, tiếng nói cũng nhỏ nhẹ dễ thương. Nhìn nhau bên bếp lửa, đôi mắt em lung linh, trong sáng lạ thường. Bên em lòng tôi không khỏi dấy lên những cảm xúc bồi hồi...
      Phía trước của người lính là chiến trận. Chỗ đứng của người lính là nơi còn đang trong bom đạn. Yêu thương đến mấy thì cũng phải dứt áo mà đi…để không bao giờ còn gặp lại. Mối tình đời lính chớp nhoáng của tôi chỉ vẻn vẹn có vài tiếng đồng hồ như thế!
     Ấy vậy mà mấy mươi năm sau, chiến tranh qua lâu rồi, tôi cũng đã quên đi nhiều thứ, nhưng hình ảnh về người con gái thì tôi vẫn còn nhớ mãi.
     Để rồi vào một đêm buồn thành phố, nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào của thời xa, tôi đã cầm bút viết bài thơ Người Con Gái Sông Xưa này.
 
        KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC

Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.

Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con.

Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em.
 
-----------------                               

(*)  Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết! Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi) thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ -  nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc!
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2018 10:28:48 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 02.03.2018 16:05:25 (permalink)
 
                                        PHẠM NGỌC THÁI
 
                             CHIẾN TRANH
                              và TÌNH YÊU
 
                                                   Tiểu thuyết
                                                                         Tập I
 
     
 
* Chương I đã in bên "Một huyền thoại thi ca" trang 16
* Chương II đã in trong "Kịch và các tiểu phẩm văn xuôi Phạm Ngọc Thái " trang 14
* Chương III - IV đăng trong Thơ tình Phạm Ngọc Thái   - tr.41
 
 
 
 
 * Chương I đã in bên "Một huyềng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2018 16:17:10 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 02.03.2018 16:12:43 (permalink)
 
                                                Chương III.   
 
                     CHUẨN BỊ VÀO CUỘC CHIẾN
 
1/. Viết theo phiên hiệu:
       Những đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam thường được viết bằng các phiên hiệu:
-  Tiểu đội               gọi là           “A”
-  Trung đội             gọi là            B
-  Đại đội                    -                 C
-  Tiểu đoàn                -                 D
-  Trung đoàn              -                 E
-  Sư đoàn                   -                 F
2/.  Một số nhóm chữ dùng nhiều trong tiểu thuyết sẽ được viết tắt:
-  Quân giải phóng                                viết tắt là                 QGP
     ( Không phải chỉ Quân giải phóng địa phương, mà khi bộ đội tiến vào chiến trường miền Nam cũng gọi là QGP, hay có lúc gọi “Quân cộng sản Bắc Việt” – cũng chỉ là một )
-  Chính phủ Việt Nam Cộng hòa         viết tắt là         Chính phủ VNCH  
-  Quân lực Việt Nam Cộng hòa                  -                    QLVNCH 
 
 
                                                     12-
 
     Đài phương Tây đưa tin: “Con hổ xám đã mất hút trong khu rừng rậm Hòa Bình”.
     “con hổ xám” là biệt danh mà họ gọi Sư đoàn 312 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lúc này, sư đoàn đã nhận được lệnh trực tiếp của Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chuẩn bị sẵn sàng ra chiến trường.
     Vào một đêm mùa đông năm 1967, diễn ra cuộc Tổng diễn tập cuối cùng trên qui mô lớn cả sư đoàn, với phương thức tác chiến hiện đại mà khi ấy có được.  Trên một bình diện rộng, tương đối bằng phẳng chừng vài chục ki lô mét vuông. Nổi lên khoảng năm, sáu quả đồi nhỏ. Chính giữa là một cao điểm lớn, đỉnh nhọn hoắt. Các đống lửa đã được đốt lên trên mỗi quả đồi, vây quanh là những hàng rào dây thép gai, nhiều lớp. Đó chính là cứ điểm địch – Đúng hơn, đó là hệ thống trận địa “quân xanh” phục vụ cho cuộc tổng diễn tập.
     Đứng trên một độ cao, người quan sát sẽ thấy: Năm quả đồi hình thành một thế phòng ngự kiên cố. Những trận địa pháo, những ổ xe tăng, chi chit lô cốt địch… nổi lên như những chiếc nấm lớn. Trực thăng bay vè vè suốt đêm, thả những chùm pháo sáng chói mắt, soi mói từng bụi cây nhỏ. Thủng thẳng tiếng súng cầm canh, rồi im bặt. Đôi lúc rộ lên tiếng súng máy trên các cứ điểm, chúng thi nhau bắn. Xe tăng đồng loạt nổ động cơ…  
     "con hổ xám" mà kẻ địch luôn dò xét từng bước chân ấy, đang tập dượt những nước bước cuối cùng để vọt lên vồ mồi.
     Về phía "quân đỏ" – 1 giờ sáng, lệnh khai trận được ban ra toàn sư đoàn. Ba phát pháo hiệu đuổi nhau bay lên bầu trời. Trên con đường Quốc lộ 12c, xe tăng bất ngờ xuất hiện. Nó gầm lên, mở hết tốc lực lao thẳng đến phòng tuyến "quân xanh". Pháo mặt đất từ các phía dồn dập bắn vào cứ điểm địch. Các trận địa cao xạ 37ly bật tung những lớp ngụy trang, khạc từng chùm đạn lửa lên trời, đuổi tốp máy bay trực thăng của quân xanh ra ngoài. Kèn tiến quân tò te, tí te vang lên!
     Một khu rừng thứ hai, từ trong mé rừng thiên nhiên rùng rùng chuyển động... rồi đứng bật dậy, di chuyển về phía trước - Đó là những tiểu đoàn bộ binh, trên lưng mỗi chiến sĩ đeo một vòng ngụy trang. Nếu khi cả đội hình nằm xuống, tưởng như đấy là một rừng cây lúp xúp.
     Ở Đại đội 5, đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209 thuộc Sư 312 – Hạ sĩ Hoàng, một chiến sĩ súng máy đại liên cũng có mặt trong trận đánh diễn tập này.
     Đây là những trang nhật kí của anh, ghi lại một chặng đường hành quân mới nhất.
 
                                                       *
     Mồng 5 tháng 11 năm 1967,
     Đêm trăng. Trời trở gió lạnh mà mồ hôi vẫn vã ra như tắm. Quần áo ướt sũng. Chúng tôi hành quân qua vùng đồi miền trung du. Một đồi sả ngút ngàn của nông trường nào đó.
     Vào quãng nửa đêm, cả đại đội đi theo một lối mòn nhỏ giữa đồi. Trên bầu trời, mây lởn vởn bay. Khi đám mây này vừa bay qua để lộ ra ánh trăng tỏa sáng, đám mây khác liền kéo tiếp đến che lấp bóng trăng đi, làm cho cảnh đồi đã trống trải lại mang màu hư ảo. Sương muối rơi nhiều. Mồ hôi vẫn cứ chảy thành dòng nhòe lên cả mắt, thấm xuống môi mằn mặn. Mấy đầu ngón chân tuy đã được bọc trong đôi giầy vải, vẫn bị tê cóng.
     Tiếng hát theo nhịp hành quân của các chiến sĩ đã yếu dần đi, anh nào cũng mệt rã. Quai ba lô xiết vào vai tê dại. Lưng muốn sụn xuống, phải mắm môi lại mà bước. Cả đoàn quân mờ mờ tiến trong đêm, lưng còng còng cõng những chiếc ba lô con cóc. Anh thì vác chiếc càng hay thân súng máy đại liên, người thì è vai mang khẩu hỏa tiễn DKB hoặc súng cối nặng trĩu. Đại đội 5 chúng tôi vẫn đi bám sát nhau, vượt sang đồi bên kia.
     Đồng chí chính trị viên đại đội và anh thượng sĩ - Quản lý hậu cần, đi cuối cùng đội hình làm nhiệm vụ thu dung. Cũng có vài ba chiến sĩ đã bắt đầu bị tụt lại sau hàng quân.
     Gần tới đỉnh đồi, bất giác tôi nhìn thấy cách con đường mòn khoảng vài ba chục mét, có một cô gái đang tựa người vào chiếc cổng tre đơn sơ. Tóc cô dài chấm ngang lưng. Bên trong cổng là một chiếc lán nhỏ, có hàng rào cũng đan bằng tre vây quanh. Cô gái đứng im lặng nhìn đoàn quân đi qua.
     Cả cô gái và chiếc lán hiện lên như hai cái bóng mờ đơn độc, hiu hắt trong màn sương giá lạnh. Tôi có cảm nhận lòng thiếu nữ đang se lại, vì nhớ tới một người thương nào đó? Có thể là hình ảnh người yêu của cô, một chiến sĩ mà chúng tôi chưa biết mặt. Ở một nơi nào đấy, anh cũng đang hành quân như chúng tôi đêm nay? Nhưng cũng có thể, anh đã ra chiến trường...
     Vẫn là hành quân trên mảnh đất quê hương, mà chúng tôi lại nhớ về quê hương và những người thân! Lòng tôi cồn cào nghĩ về em...
     “Thu thân yêu! Không biết giờ này em có thao thức để nhớ về anh, như người con gái kia không?”.
     Một cái gì thầm kín nhen lên, trong sự cảm đồng giữa cô và những người chiến sĩ. Cô cũng đang đi cùng chúng tôi trên một con đường, hướng về một hướng: khao khát, chờ đợi và hy vọng!
     Tôi nghĩ: Không phải chỉ có tiếng bom, pháo gầm nổ? Không phải chỉ có những lá cờ bay phần phật trên nóc cao điểm? Không phải chỉ có các làng mạc bị bom đạn tàn phá, những người đã ngã xuống và cả đoàn quân vẫn xông lên? – Bức họa về chiến tranh, không thể thiếu bức tranh này!
     Sang ngày mồng 6,
     Khoảng 3 giờ sáng, lệnh từ trên đầu hàng quân truyền xuống: "Đã đến chỗ trú quân"! Không có gì vui bằng tin này. 
     Xương cốt hình như muốn vỡ ra. Những xúc thịt trong cơ thể đang tan rã. Mí mắt kéo sụp xuống, nặng chịch, không thể nào còn mở ra được nữa. Chân muốn khụy. Vừa đi vừa ngủ đã thành thói quen của lính. Chân cứ đi, mắt cứ nhắm nghiền, thỉnh thoảng choàng dậy đã thấy cách xa người đi trước gần chục bước. Vội chạy lạch bạch để bám sát đội hình. Thế lầ cả đoàn quân sau đó phải chạy theo.
     Nhìn ra xa, cách đường quốc lộ hơn trăm mét là một xóm nhỏ. Những chòm tre quây kín xóm như một hòn đảo xanh giữa cánh đồng. Gần chục dân quân, nam nữ thanh niên ra đón chúng tôi. Tiếng líu ríu của các cô nữ dân quân làm cho những tay chiến sĩ tỉnh ngủ. Chẳng liều thuốc nào bằng liều thuốc ấy? Dễ thường nó còn mạnh gấp mấy lần, so với những  liều thuốc tư tưởng của các nhà chính trị. Đã thấy mấy cậu đi đầu đang ba hoa, tán tỉnh các em. Những tay chiến sĩ đi cuối hàng thì lại làu bàu, mắng mỏ... Chắc các anh chàng bực bội vì ở xa mấy em quá, không được xơ múi gì?
     Vào đến xóm. Mỗi "tổ ba ba" được dẫn vào một gia đình để trú quân. Chỉ kịp ra ao khỏa vội cái chân, trèo lên chiếc giường tre của gia đình nhường cho, lăn ra ngủ. Tỉnh dậy đã 11 giờ trưa. Nếu không có cậu trực ban đến thúc giục đi ăn cơm, có lẽ chúng tôi phải ngủ một mạch đến chiều.
     Ăn cơm về. Lúc này, chúng tôi mới để ý quan sát gia đình. Nhà chỉ có hai người, một bà già và cô con gái. Sau được biết, cô gái lại là con dâu của bà. Con trai bà cưới vợ được mươi ngày thì nhập ngũ, để lại người vợ hiền và ngoan ở nhà. Cô chủ thật niềm nở, dễ thương, ra hè ngồi đan nón nói chuyện với chúng tôi.
     Có "hơi nóng" của phụ nữ, nghe chừng cuộc sống thêm vẻ mặn mà. Cảm giác như mỗi tế bào trong thân thể chúng tôi đang teo thắt lại, nay có dịp nở bung ra. Câu chuyện đang sa đà, có phần hơi nhả nhớt… mà cô chủ cũng thấy thích thú. Phụ nữ ai chả thế? Thiếu “trống” thì dẫu đẹp mấy cũng xác xơ. Gặp các anh chiến sĩ mau mồm, mau miệng… lại có duyên tán tỉnh, em nào chẳng sướng. Khác nào đất hạn gặp mưa rào. Nụ hoa đang thì… lại gặp mấy con ong dại, mang đầy bầu phấn.
     Tiểu đội trưởng Tân từ nhà bên sang, bắt bọn tôi đi ngủ. Tuy còn tiếc rẻ cuộc nói chuyện với cô chủ, nhưng chúng tôi vẫn phải chấp hành mệnh lệnh,   về giường nằm. Giấc ngủ rồi cũng nhanh chóng kéo những anh lính vào cõi mộng mơ. Không biết khi đó ông tiểu đội trưởng Tân, người thế chỗ chúng tôi… còn ngồi nói chuyện với cô chủ đến lúc nào?
     Xế chiều. Cô con dâu bà chủ nhà cùng rất nhiều anh chị em thanh niên và bà con thôn xóm, đưa chân chúng tôi ra tận sân hợp tác – Nơi toàn đại đội tập trung để chuẩn bị hành quân tiếp.
     Ngày mồng 10,
     Không biết con đèo chúng tôi hành quân qua hồi đêm, có giống Đèo Khế mà ông Tố Hữu đã viết trong thơ không nhỉ? Tôi nhớ mấy câu:
                Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
                Gió qua rừng Đèo Khế gió sang
     Đi qua đèo như đi trong một cái thung lũng, hai bên có hai vỉa núi kẹp lại. Gió theo lũng thổi về quần quật, sương xuống lạnh cóng. Tôi lại nhớ tới hình ảnh người phụ nữ trong thơ ông:
                Nhà em con bế con bồng
                Em cũng theo chồng đi phá đường quan
     Đã bao đời nay, người phụ nữ thủy chung với chồng lại đảm việc nước non.
         Ngày 12,
     Hành quân qua một miền cỏ rộng, bằng phẳng như thảo nguyên. Trên vòm trời xanh, hàng ngàn những vì sao li ti mọc. Nhìn xa trong lưng chừng một dãy núi cao, có những ánh đèn lấp lóe hắt ra. Cách chúng tôi khoảng vài cây số. Nghe nói, đấy là những ngọn đèn của một xí nghiệp, hay công binh xưởng... di tản vào trong núi đá.
     Ồ, đất nước ngẫm bao nhiêu chuyện lạ! Ngay giữa lòng đất, ẩn mình trong trái núi... là những cỗ máy đồ sộ đang ầm ầm chuyển động. Bên trên rừng vẫn tỏ ra êm ái như giấc ngủ say của nàng thiếu nữ. Tôi nhớ tới bài thơ "lửa đèn" của nhà thơ Phạm Tiến Duật:
                 ... Đêm tắt lửa trên đường
                 Nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
                 Là tiếng những đoàn quân xung kích
                 Đi qua
                 Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
                 Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
                 Bóng tối dâng đầy tỏa ngợp bao la
                 Thành những màn đen che những bào thai
                                                                    chiến dịch
                 Bóng đêm ở Việt Nam
                 Là khoảng tối giữa hai màn kịch
                 Chứa bao điều thay đổi lớn lao
                 Bóng đêm che rồi không thấy gì đâu
                 Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
     Đất nước tôi đã đánh Mỹ như thế!
     Đoàn quân tiến sâu mãi vào trong đồng cỏ vắng. Đến một vùng đất bị cầy lên, cỏ bị xới tung, ngang dọc chi chít hằn những vết bánh xe xích. Trông cảnh tượng, người ta có cảm tưởng như ở đây vừa diễn ra một trận hồng thủy thời trung cổ? Hoặc có bầy mãnh thú náo đó đến đây quần lộn, đã đi xa, để lại những dấu vết quằn quại của những con thú bị thương... xé nát cả mảnh đất.
     Sau được biết, đó là dấu tích của một đoàn xe tăng, đã đến đây tập kết từ vài hôm trước. Chúng tôi hiểu rằng trong cuộc hành quân này, chúng tôi không đơn độc.
     Vẫn đi tiếp trong đêm. Phía xa, lại trông thấy một dãy đèn sáng. Chắc đấy là ánh đèn của một thị xã nào đó? Lòng tôi bồn chồn nhớ tới phố phường, nhớ những người thân.
     Nhìn cảnh hoang vắng tựa một vùng thảo nguyên: Tôi bỗng liên tưởng tới hình ảnh nàng Radđa kiêu kỳ và chàng Lôi-kô Rô-ba kiêu hãnh, trong câu chuyện của nhà văn Gorky: Khi nàng Radđa xinh đẹp nằm xuống thảo nguyên hoang dại, để nhận lấy lưỡi dao găm của chàng Lôi-kô Rô-ba đã cắm ngập trái tim mình – Nàng nói: "Em biết anh sẽ làm như thế!".
     Thảo nguyên mênh mông, mối tình cao thượng! Cái mơ và cái thực, hòa trộn trong tôi một cảm giác mạnh mẽ.
     Thu ơi!  Em có phải là nàng Radđa xinh đẹp đó không? Nhưng không phải là để đón nhận lưỡi dao tình yêu, mà để đón nhận những nụ hôn cháy bỏng của anh, từ vùng đất hoang vắng này... theo gió gửi về cho em.
     Ngày 15,
     Cả trung đội súng máy đại liên nằm nghỉ trên sàn một chiếc nhà rông giữa bản. Cạnh nhà, có dòng suối nước chảy rí rách.
     Trời sập tối. Ở góc nhà, mấy cậu đang nằm chéo khoeo cất cái giọng vịt bầu, khò khè như ông lão mắc bệnh hen phát ra từ trong cổ họng nghe ư... ử...
     Ngồi dựa vào cây cột gỗ phía trái nhà, binh nhất Văn rút chiếc kèn ác-mô-ni-ca trong túi quần ra thổi. Chiếc kèn được bọc cẩn thận bằng một cái khăn tay. Đông nhất là tốp chiến sĩ đang vây quanh cô gái Mường. Cô gái có nước da trắng nõn nà, khuôn mặt tròn xinh xắn. Cảm giác như trong con người cô toát lên sự tươi mát và khêu gợi. Họ ngồi bên cạnh cái bếp lửa nhà rông đang cháy, sưởi ấm cho cả gian nhà. Trên bếp lửa, nồi bánh làm bằng bột mì đang sôi. Tôi nằm cạnh Văn, lắng nghe câu chuyện của tốp chiến sĩ và cô gái Mường.
     Nồi bánh sôi sùng sục, nước trào ra cả bếp. Cậu Thuyết vội vàng cầm chiếc vung vứt ngửa lên mặt sàn, rồi vẩy vẩy bàn tay bị bỏng. Cô gái với lấy đôi đũa, lật úp những chiếc bánh trên cùng sấp lại cho chín đều.  
-  Tay mấy anh chưa quen bằng tay em đâu!
     Cô gái nhìn Thuyết đang ôm bàn tay xuýt xoa vì nóng, cười nói vui vẻ.
-  Anh ấy chỉ chưa quen cầm vung thôi, còn cầm cái khác thì...
     Một anh lính nói trêu cô gái. Một cậu khác mắng:
-  Lại sắp tán nhảm.
-  Ấy lầ mình muốn nói: Thuyết nó chưa quen cầm vung, nhưng bóp cò súng thì không chê vào đâu được.
     Cả bọn cười ồ.
-  Lính xạ thủ loại ưu của bọn anh đấy!
-  Em đùa tí thôi.
     Cô gái Mường lấy chiếc que sắt vẫn để cời than, khêu bếp lửa cho cháy to lên. Giọng của cô nhẹ nhàng rất dễ thương.
-  Mấy anh đi xa như thế này, chắc là nhớ người yêu lắm?
-  Bọn anh toàn lính "phòng không" cả.
     Họ tán.
-  Các anh cũng muốn tìm người để thương, để nhớ! Không biết mấy em gái Mường có ưng không?
-  Gái Mường xấu lắm, đần lắm, các anh chẳng ưng đâu? Mấy anh chỉ ưng gái Kinh thôi!
     Cô gái bản nghe chừng cũng thích những câu tán của lính.
-  Riêng anh, anh vẫn thích gái Mường!
-  Gái Mường xinh này! Trắng này! Gái Mường ngoan này! Ăn nói dễ thương này! Em giới thiệu cho mấy anh vài cô?
     Một anh khác nói chêm vào. Cô gái lắc đầu nguây nguẩy:
-  Em chịu thôi. Các anh bộ đội đòi hỏi cao lắm!
-  Cứ như em là được.
     Cô gái xấu hổ, má đỏ rựng. Tay vẫn cời than trong bếp, cô nói có vẻ hơi hờn dỗi:
-  Mấy anh nói chơi chơi… chứ yêu gì gái Mường chúng em?
     Mình miên man nằm nghĩ về Thu. Tiếng con suối bên cạnh nhà rông vẫn rí rách chảy, lại nhớ lúc đã cùng em trên phiến đá của con suối ven rừng…
     Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy toàn bộ tấm thân em. Tấm thân người con gái, vẻ đẹp của nó không bút nào có thể tả hết được. Ôi! Cái tòa thành kì vĩ và bất tử, mà Đại thi hào Nguyễn Du đã mô tả:
                      Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên
     “Tòa thành” của em huyền diệu và lộng lẫy quá! Em có biết lúc đó, anh đã thấy hạnh phúc thế nào không? Đến bây giờ anh còn bàng hoàng, tưởng như mình vẫn đang ôm người yêu ngủ trong mơ…
          Ngày 17,
     Chúng tôi đi sâu vào rừng núi Hòa Bình. Một đêm mưa tầm tã, đơn vị hành quân qua bản khác. Các bà mế một tay cầm cành lá cọ, bản to như một chiếc ô che lên đầu, tay kia bưng những rổ bánh sắn và các dóng mía đã được tiện sẵn, phân phát cho từng chiến sĩ đi qua. Chúng tôi nhận bánh và mía, lặng lẽ cám ơn các mế rồi lại vội đi.
     Những cô gái Mường tuổi xuân mơn mởn, xinh tươi dứng chật bên đường đưa tiễn các anh lính trẻ. Qua miền đất lạ mà cảm thấy như mình đang đi giữa làng quê gần gúi, thân thương. Trong chiến tranh, đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số đã xích lại gần nhau hơn.
     Đấy là quê hương tôi!
     Ngày 25,
     Theo Tết cổ truyền, chỉ còn hơn tháng nữa là bước sang năm mới. Chúng tôi nhận được lệnh tạm dừng cuộc hành quân dưới một chân núi đá. Anh em vào rừng lấy tre nứa, dựng lán trại…chuẩn bị đón cái tết đầu tiên của đời lính.
 
 
 
 
 
 
                                                    13-
 
      Các đơn vị đều đã dựng lán trại xong. Vào một buổi sáng, các chiến sĩ lũ lượt rủ nhau tới bản xin cành đào về chơi tết. Mặt trời như hòn máu đỏ nhô lên cao, phủ một màu hồng loãng bay mơn trớn, là là từ mái nhà gianh này sang mái nhà gianh khác. Bản Mường nằm trên một thung lũng rộng, bằng phẳng. Những dẫy núi chạy quanh , thành đường viền như yên ngựa. Những vườn cây cọ, lá to vươn dài ra. Những vườn táo trái chín mọng nước, các cành sai quả vít cong xuống ngang mặt người. Những vườn hoa đào màu hồng, thơm ngát.
     Gió sớm thổi cuốn tung những cánh hoa mận trắng rắc lên các mái nhà, trông như những khuông vải hoa. Trong các vườn trái, đã thấy thấp thoáng bóng những chiến sĩ cùng nam nữ thanh niên trong bản. Một thiếu niên bản vận chiếc áo cánh nhuộm chàm, xoa tay lên nước thép của khẩu AK, nói với anh chiến sĩ đang khoác súng trên vai:
-  Đồng chí bộ đội, dậy mình bắn súng đi! 
-  Khi nào em lớn, vào bộ đội, người ta sẽ dậy em bắn súng.
     Anh chiến sĩ nói với cậu bé như vậy. Ở chỗ khác.
-  Anh bộ đội! Em tặng hoa đồng chí, để đồng chí ăn tết cho ngon, đánh giặc cho giỏi.
     Đó là tiếng của cô gái bản trạc tuổi mười tám, đôi mươi, đang tỉa cành đào đưa cho các chiến sĩ.
-  Có đi xa cũng đừng quên thôn bản chúng em đấy!
-  Quên làm sao được mấy em! Mấy em cho tụi anh nhiều hoa, tụi anh nhớ càng nhiều.
-  Bộ đội khôn lắm chớ? Hết đào bản em thôi!
-  Giải phóng miền Nam rồi, bộ đội về miền xuôi sẽ mang nhiều đào lên cho các em.
-  Thật nhiều chứ?
-  Thật nhiều. 
-  Khi nào miền Nam được giải phóng, chúng em sẽ về miền xuôi thăm bộ đội, bộ đội đón chúng em chớ?
-  Có chớ!
     Mùi sắn lùi, mùi thịt nướng, mùi cơm lam... từ trong các bếp lửa nhà sàn, tỏa ra thơm phức.
     Hoàng cùng với Hùng và Dong đi ngang qua một vườn táo chín. Những trái táo nũng nịu trên cành, va cả vào đầu các anh.
-  Chà, trông mới thật ngon!
     Dong xuýt xoa vẻ thèm khát. Anh chỉ những quả táo trên cành, nói với Hoàng:
-  Ta nếm thử chứ?
   -  Đừng, của dân không xâm phạm.
     Hoàng nói. Hùng nháy mắt nhìn Dong, trêu:
-  Có thèm cũng chỉ được hít, được nhìn thôi!
-  Thèm đến rỏ nước miếng.
     Dong đến một cây táo, rung thật mạnh. Những cành táo xô vào nhau, chuyển động lan ra cả khu vườn. Những trái táo chín rơi xuống tứ phía. Hùng và Dong lao tới nhặt, phủi qua quả táo rồi cho lên miệng cắn ngon lành. Vừa ăn vừa xuýt xoa:
-  Không ăn cũng hoài của.
     Hoàng cũng thèm lắm, nước bọt kêu ừng ực trong cổ nhưng vẫn làm ra vẻ… Dong nhặt một trái táo to, vo tròn trong bàn tay cho sạch phấn bám ở vỏ, đưa Hoàng:
-  Ta nếm vài ba quả táo rụng thôi, chứ đâu có phải là lấy của dân. Ăn đi, không can gì.
     Hoàng cười, nói:
-  Tí nữa vào nhà, dân bản trẩy cho ăn thoải mái. Trong vườn không có người, sợ mang tiếng. 
     Anh vẫn cầm trái táo Dong đưa, cắn ròn tan. Vị của trái táo hơi giôn giốt chua và ngọt, ăn vào tỉnh táo hẳn. Hùng thì nhấm từng tí như chuột chí. Dong lại nhai ngấu nghiến giống con cáo đói mồi, tấm tắc khen:
-  Người sắp chết mà vớ được trái táo này để ăn, có khi sống lại. 
     Lúc này, họ mới nhìn ra cạnh vườn táo có một trái lều lợp gianh. Trong lều, dân bản đặt một chiếc cần cối giã gạo bằng nước. Dòng nước chảy theo đường máng dẫn từ trên núi cao về. Một cô gái Mường đứng bên cạnh chiếc cần giã gạo. Chắc cô đã trông thấy các anh từ lúc qua vườn?
     Cô gái Mường đang nhìn mấy anh chúm chím cười. Như bị mắc cỡ, cô cúi xuống chiếc cối vục một nắm gạo lên tay, thổi cho bay hết bụi cám. Họ ngẩn người đứng sững ngắm nhìn cô gái: Mái tóc đen mướt của cô búi gọn, trên bím cắm một bông hoa mận trắng, nhỏ xíu. Cô gái Mường mặc chiếc áo trắng ngắn, bằng loại vải mịn và mỏng, bó sát lấy thân hình thon thả. Gấu áo hơi thắt chẽn lại, tựa như liền với cạp của chiếc váy hoa may cầu kỳ.
     Họ tiến về phía người con gái bản. Hoàng lên tiếng trước:
-  Chào em gái bản.
-  Em chào các anh.
     Cô gái tươi cười để dộ hàm trắng đều, giọng vẫn đượm tuổi thơ. Dong nhìn cô gái ướm hỏi:
-  Bọn anh qua đây vào thăm bản, nhân thể xin bà con mấy cành đào cắm tết?
-  Các anh đóng quân ở lại đây có lâu không?
-  Lính các anh ở ngày nào, biết ngày ấy thôi!
     Hoàng đăm đắm nhìn người con gái, làm cho cô hơi ngượng ngùng.
-  Tết này mời mấy anh vào nhà em ăn tết? Các anh lên nhà em đi! Mấy anh đến chơi, chắc mế vui lắm.
     Họ theo cô gái đi qua một vườn đào, đến ngôi nhà sàn nhỏ, bước lên chiếc cầu thang gỗ bắc vào nhà. Một mế già đang ngồi bên cạnh bếp lửa, đặt giữa sàn. Tóc mế búi tó củ hành, đã bạc quá nửa. Bà mế cưới đón các anh, cái đuôi mắt của người già nheo lại.
-  Vào đây mấy con!
     Mế chỉ tay lên sàn chỗ gần bếp lửa, bảo các anh ngồi xuống. Tay mế cầm ống điếu cầy to bằng cổ chân, vê một điếu thuốc cho vào lõ rồi lấy mẩu than hồng trong bếp châm để hút. Ở đây, dân bản không hút thuốc bằng lửa. Họ nói, hút bằng than đượm hơn.
     Cô gái lấy chiếc gùi mây đang làm dở, ra ngồi cạnh khung cửa sổ đan tiếp. Từ chỗ cô ngồi trông thẳng sang vườn đào, qua một cái sân. Hút xong điếu thuốc, bà mế quay lên hỏi:
-  Mấy con quê ở đâu? 
-  Chúng con ở Hà Nội.       
     Hoàng trả lời mế. Anh ngước nhìn đến bên cửa sổ, nơi người con gái Mường xinh đẹp đang ngồi đan gùi. Bà mế kể cho các anh nghe về đứa con đầu của bà: "Nó là anh trai của cái Mỵ!" - Mế bảo vậy. Đến bây giờ các anh mới biết tên cô.
-  Thằng anh trai của nó cũng đi bộ đội như mấy con, tết này vừa tròn một năm. Nó cũng mới viết thư về báo tin cho mế và em gái biết, đơn vị nhận được lệnh lên đường khẩn cấp ra chiến trường.
     Tay vẫn cời bếp lửa cháy hồng lên, bà mế nghẹn ngào:
-  Nhiều lúc nghĩ đến nó, mế thấy thương thương, nhưng lòng mế vui, mế thấy tự hào.               
     Đưa tay chỉ lên chiếc bàn thờ nhỏ, có một bát nhang đặt dưới bức chân dung một ông già đang ngậm tẩu, giọng mế rưng rưng:
-  Cha chúng nó không còn để trông thấy các con khôn lớn. Nếu biết, hẳn ông ấy phải vui sướng lắm!            
     Theo như mế kể - Mỵ vừa mới học xong lớp y tá ngắn hạn ở trên tỉnh. Cô trở về làm việc tại nhà y tế địa phương, phục vụ bà con trong bản.Thỉnh thoảng cô lại tình cờ nhìn về phía Hoàng: cái anh chiến sĩ có mái tóc đen mềm, chải hơi thành sóng, trông dễ có cảm tình ấy! Sáng nay, như có dòng nước mát nào đó đã tưới vào tâm hồn trắng trong của người con gái bản. Bắt gặp Hoàng nhìn lại, Mỵ vội cúi xuống đan tiếp, má chín hồng như người vừa ra từ bếp lửa. Một cái gì rạo rực trong cô...
     Nghe lời mế, Mỵ dẫn các anh ra vườn, cắt cho mỗi anh một cành đào. Không hiểu sao, lần này cầm chiếc liềm để cắt cành, tay Mỵ cứ run run... Hoàng vội chạy đến giúp. Mỵ đưa liềm cho anh, miệng chỉ tủm tỉm cười.
     Khi tiễn chân các anh ra về, cô còn đứng nhìn theo mãi. Tới khi cái anh chiến sĩ trông đẹp trai mà cô vẫn chưa biết tên, quay đầu nhìn lại. Như người ăn vụng bị bắt quả tang, Mỵ e thẹn ù chạy lên nhà. Cô vẫn nhớ,  mấy anh đã hứa sẽ vào thăm bản luôn.
 
 
 
 
 
 
                                                      14-
 
     Hoàng đã nhận thấy tai hại về sự sa đà tình cảm của anh với cô gái Mường. Tâm hồn trong trắng, thơ ngây của người con gái dân tộc, thanh suốt như chiếc tách pha lê. Sau những lần anh lui tới thăm bản, những lời mời đón, ngọt ngào trai gái – Mỵ đã ái mộ anh! Một tình cảm âm thầm, trinh khiết và tha thiết.
     Phải nói rằng, tuy chưa phải là một lâu đài tráng lệ với những ô cửa tò vò cao chót vót, hay đỉnh tháp hùng vĩ... Nhưng chính sự tươi mát của tâm hồn và tình lưu luyến như hương hoa của em, đã kêu gọi trái tim những người con trai vươn tới. Đã làm cho lòng ta say.
     Ngày ngày cô mong được gặp anh. Thời gian này đơn vị được nghỉ ngơi đón tết, anh em chiến sĩ rỗi rãi, tự do hơn. Họ cũng thường tranh thủ lui tới bản chơi và thăm hỏi bà con.
     Sáng nay anh lại đến. Đang đứng ở cửa ngóng, trông thấy bóng anh từ xa... cô chạy ra đón. Đôi trai gái dắt nhau đi trong vườn đào chi chít hoa, hương đào bay quanh... cảm giác như đến ánh sáng cũng chứa đựng những hương say. Không biết đó chỉ là hương của hoa hay cả hương của người?  Mầu hồng của đào, mầu hồng của nắng... tắm lên làn da trắng mịn mà, trên khuôn mặt xinh xắn của cô gái Mường. Ánh mắt cô nhìn anh lung linh, tựa như đang có bản nhạc "tình yêu và cuộc sống" cất lên trong tâm hồn. 
     Anh đứng ngây ra ngắm nhìn cái vẻ đẹp thơm dại như bông hoa rừng của cô gái bản. Cô nhìn anh hơi e thẹn, cúi xuống:
-  Sao anh cứ nhìn em mãi thế?                         
-  Đào đẹp quá em nhỉ!
     Hoàng nói và mỉm cười.
-  Anh thích cành nào?
-  Cành nào cũng đẹp.
     Họ đi qua những cành đào đung đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
-  Anh Hoàng, em rất mến anh!
     Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây... chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu, đầy sức quyến rũ bủa vây. Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác như toàn thân cô đang đổ sụp. Lúc này, người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
     Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã hấp dẫn anh...
     Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy ư!" – Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè, không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát và ham muốn được khai phá...
     Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
-  Mình có làm gì tồi tệ đâu?
     Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những tình cảm rất đẹp đẽ với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong anh... và ta lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi thanh xuân với em.
     Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái, tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng của người thiếu nữ mới lớn.
     Anh bế cô đặt xuống vườn đào.
     Cả anh và cô đều biết rằng: những giây phút ân ái, gần gũi như thế này, chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi anh sẽ tiếp tục ra đi! Nhưng chính ý nghĩ đó... không phải để ngăn giữ, mà lại thôi thúc họ dành cho nhau nhiều hơn.
     Tiếng cô thầm thì: "Em đến với anh nhanh quá, phải không?". Khi đôi bàn tay của người chiến sĩ lần cởi tấm áo chẽn trắng, ra khỏi tấm thân trắng ngần và thơm mát. Cô khẽ giữ tay anh lại, nhưng rồi... lại để mặc anh. Khi anh cởi bỏ cả chiếc váy hoa ra khỏi cô – Trong cô chỉ nghe thấy tiếng nói thầm thì: Em yêu anh... chỉ vì em yêu anh... Dù một ngày nào đó em không còn được gặp anh nữa, thì giây phút này người con gái bản vẫn cho anh, giữ mãi mối tình đẹp đẽ với anh!
     Chiến tranh! Ngươi có ý nghĩa gì, khi đem so sánh với tâm hồn và thể xác trinh trắng của người con gái này? và chính đôi mắt của người con gái, đôi mắt như một bầu trời xanh, trong như dòng suối rừng... đang lên án ngươi!
     Ngươi muốn sự sống trên đời này phải vật vờ như bóng ma ư? Ngươi muốn hủy diệt cả tình yêu và cuộc sống, mà đấng thượng đế tối cao đã ban thưởng cho con người ư? Hãy nhìn đến người con gái xinh xắn, đáng yêu này – Ngươi sẽ thấy sự tồn tại của ngươi đáng nguyền rủa đến vạn lần?
     Anh ngắm nhìn ánh mắt ngây dại như giấc mơ xa của Mỵ. Hai tấm thân đã quyện vào nhau trong vườn đào. Cô run run và khẽ thốt lên: "Anh, em sợ!" – nhưng cả người cô vẫn uốn cong để ghì chặt lấy anh.
     Nhưng một tiếng nói nào đó từ trong trí não đã ngăn anh lại? - Không được! Anh không thể đi đến bước ấy. Bởi vì, anh yêu Thu! Nếu anh đi quá xa với người con gái bản này, anh sẽ có lỗi với Thu.
    Hoàng vội vàng đứng dậy, trước sự ngỡ ngàng của cô gái. Ánh mắt của cô như muốn nói với anh: Em cho anh mà, sao anh không chiếm đoạt em? Nhưng trong anh vẫn vang lên một tiếng nói kiên quyết: Không, anh không thể phản bội lại Thu!
     Hoàng bế Mỵ dậy... khẽ hôn lên tấm thân em lần nữa, rồi mặc áo và váy lại cho em. Mỵ vẫn ngạc nhiên không hiểu: Hay là, anh không thích cô? Người con gái bản lặng lẽ, những giọt nước mắt bỗng trào ra trong khóe mắt. Anh phân trần:
-  Anh không thể, dù anh rất mến em – Mỵ ạ!
     Anh nói như thể xin lỗi vậy. Anh cũng đã phải dùng hết lý trí để cưỡng lại những ham muốn mạnh mẽ của bản thân, nhưng Mỵ vẫn nhìn anh như có chút hờn dỗi và trách móc:
-  Anh không thích em ư?
     Hoàng âu yếm nói:
-  Không phải vậy đâu, em ạ! Anh rất thích em. Anh rất muốn, nhưng...
     Không để cho anh nói hết câu, cô căn vặn:
-  Vậy sao anh dừng lại...
     Anh không biết phải giải thích như thế nào? Anh không thể nói với cô rằng: Anh đã yêu một người con gái khác rồi, dù đó là sự thật. Hoàng đành chống chế:
-  Bọn anh sắp phải đi! Anh không thể ở lại đây với em được.
-  Thì em vẫn biết các anh phải đi...
     Giọng cô nghẹn ngào: "Nhưng em tình nguyện cho anh. Sao anh phải ngần ngại? Người con gái bản đã thuộc về anh rồi mà...". Cô bỗng ôm chầm lấy anh nức nở khóc:
-  Em sẽ đợi anh về! Phải cách xa anh thế nào, em cũng đợi...
     Sự bộc lộ tình yêu, hẹn hò của cô gái dân tộc hiền lành... làm cho Hoàng hoảng hốt. Tiếng khóc của cô thổn thức, nước mắt trào ra đẫm cả ngực anh. Tưởng như cả vườn đào kia cũng phải rung cảm trước tiếng khóc ấy. Nó cất lên từ trong thiên thai, trinh khiết và thơm hương như cánh hoa rừng mùa xuân. Một làn gió đưa về làm cho những cánh hoa bay lả tả...
     Cái dây cót của chiếc đồng hồ thời gian cứ thản nhiên quay. Thoáng chốc trời đã gần đứng bóng, cũng sắp trưa. Mỵ chỉ muốn thời gian thật chậm, để anh ở lại thật lâu với cô.
     Khi Hoàng từ biệt Mỵ ra về, anh vẫn chưa thể nào giải thích được cho cô hiểu? Anh chỉ biết hứa, tết này nhất định sẽ vào bản để thăm mế và cô.
     Họ cùng nhau đi ra khỏi vườn đào. Trên vòm trời, vài đám mây mềm mại đang trôi...
 
 
 
 
 
 
 
                                                    15-  
 
     Sáng nay được ngày nắng ấm, các chiến sĩ trong đơn vị Hoàng kéo nhau ra suối tắm. Từ trên núi cao đổ xuống một dòng thác lớn, như một con trăn khổng lồ trong cơn quẫy đạp, quăng cả tấm thân đồ sộ của nó xuống núi. Thác nước tràn ra một khu hồ, từ đó trào vào lòng con suối không lớn lắm, nên nước chảy rất xiết. Những chỗ suối nông, nhấp nhô những phiến đá bị nước bào nhẵn, nhớp nháp rêu. Chỗ suối rộng và sâu cũng phải ngập ngang ngực.
     Người ta kháo nhau: Ngày xưa hồ này còn có tên gọi “Hồ tiên nữ”. Họ truyền kể một câu chuyện thần thoại về hồ.
… Cứ chiều chiều có bẩy con chim phượng bay đến hồ để tắm. Khi đó giữa hồ còn có một hòn đảo. Giữa đảo nổi lên một chòm núi nhỏ. Trong núi có một chiếc hang cũng không sâu lắm.
     Một chiều… bẩy con chim phượng hạ cánh đỗ xuống đảo, hiện thành bẩy nàng tiên xinh đẹp. Bẩy nàng tiên vào trong hang để trút bỏ xiêm y, rồi thứ tự từ cô chị cả đến cô em út – gọi là nàng bẩy, bước ra khỏi hang xuống suối tắm. Tắm xong họ lên phơi mình trên đảo.  
     Bẩy nàng tiên như bẩy tòa thiên nhiên, lồ lộ phơi mình trong sắc nắng hoàng hôn. Cái hoàn mỹ của mọi sự hoàn mỹ ngự trị trên da thịt các nàng. Hương thơm tỏa ra từ thân thể các nàng đã gọi những bầy chim khôn nhất, có tiếng hót hay nhất... bay đến đảo.
     Đẹp nhất là nàng Bẩy! Nàng nằm bên mé nước, tóc xõa xuống suối. Bầu ngực nàng hiện lên những nét trạm sinh động, tài hoa của tạo hóa. Nàng Bẩy lim dim mắt… nghĩ đến nơi trần thế? Giấc mơ của nàng mỏng manh như hơi thở. Niềm khao khát tình yêu ứa lên đôi môi nàng như nước mật ngọt của trái vả rừng.
     Nàng là tiên, nhưng vẫn là phụ nữ: Nàng không thần tượng sự trong trắng, tiết trinh - Nàng muốn hiến dâng! Nàng ao ước có một cuộc sống hạnh phúc và trăn trở ở cõi trần gian, hơn cuộc sống yên ả nhưng cô đơn, lạnh lẽo chốn thiên đình. Nàng khao khát được yêu, được biết mình đang tồn tại. Đàn bà: Họ là thực tại còn nàng là chiêm bao...
     Ý nghĩ ấy càng làm cho nàng Bẩy thêm buồn chán. Nhìn lên bóng nắng chiều – Nó cũng giống những năm tháng còn lại của đời nàng, lụi dần xuống núi. Nỗi khao khát về sự "hiến thân" truyền lan trong cơ thể nàng, nàng vùng dậy thét lên:
-  Tồn tại! Tôi muốn tồn tại! Tôi muốn sống. Tôi mu...ốn... số...n...g...
     Tiếng thét của nàng Bẩy làm cho bầy chim sợ hãi bay lên cao. Các nàng tiên chị thì nhìn em lo âu...
     Con suối mà các anh đang tắm, bên cạnh Hồ Tiên Nữ ngày xưa. Hòn đảo ấy qua nhiều năm tháng, đã bị thác nước và sóng hồ đánh tan đi mất. Các chiến sĩ khỏa trần ngâm mình trong dòng suối mát, cười reo như  con trẻ.
     Dong vắt chéo chiếc khăn tắm màu cỏ úa, vừa kỳ cọ tấm lưng to bản vừa nói với Hoàng:
-  Này, cô bé trông cũng xinh tươi không kém gì nàng Bẩy?
     Ý Dong muốn nói đến cô gái Mường mà mấy anh đã gặp đôi lần khi vào bản.
-  Cũng khá.
     Hoàng làm ra vẻ thản nhiên đáp lại lời Dong, rồi nhào ra chỗ nước sâu ngụp lặn, lấy tay xoa vò mái tóc đang gội dở. Đám bọt xà phòng trắng lốp nổi lên mặt nước... bị sóng cuốn đi. Hùng thì đang nằm phơi mình trên một tảng đá ở chỗ suối nông, hai tay vắt qua đầu làm gối, nói lửng lơ:
-  Không khéo có người viết thư đến đơn vị kiện cáo, là lôi thôi đấy!
     Văn đang tắm gần đấy nói gióng lại:
-  Lo gì, lính là phải thế!
     Anh có ý ủng hộ sự thân tình của Hoàng với Mỵ. Thực ra, đồng đội của Hoàng cũng chỉ đoán già, đoán non ... trêu trọc anh cho vui. Họ vừa tắm vừa bàn tán đủ thứ chuyện, sôi nổi khắp mặt suối.
-  Này, tớ nói thật: con gái ở đây là có bùa mê đấy! "ăn" phải bùa mê thì khó mà gỡ?
-  Chậc, lính đất thánh. Cậu quê lắm!
     Dạo đó – lính Hà Nội, anh em đều gọi là "lính đất thánh"! Một chiến sĩ chỉ vào Thuyết, giọng trêu trọc:
-  Cứ nhìn thằng Thuyết đây! Cũng là lính đất thánh: khôi ngô, tráng kiện như thế mà... chiều qua nó leo lên tận lưng chừng núi, giở thư nhà ra đọc rồi khóc thút thít như con nít?
-  Nhớ bu chứ gì?
-  Thế đã phúc. Chắc em yêu ở nhà lại "tút" theo thằng cha nào rồi?
-  Chỉ nói bậy.
     Thuyết lúng búng vặc lại.
-  Bậy à? Cũng may bọn tớ đi tìm mấy bông hoa núi mới gặp, nếu không lại chẳng ngồi đến tối.
-  Hoa khôn trong bản thiếu gì mà đi tìm hoa núi, hả ông bạn?
-  À... bọn tớ thích chơi hoa dại.
-  Nghe đâu ra ngoài tết bọn mình về phép? Mỗi anh được giải quyết bốn ngày.
-  Chắc sắp đi?
-  Ồi, lính biết thế nào mà đoán trước? Đùng một cái, chẳng phép tắc gì... đi thẳng vào trong cũng nên.
-  Mẫn ơi! Cậu còn nợ bọn này một chầu khao đấy nhé!
-  Có tin mừng gì mà khao đấy?
-  Vợ nó viết thư lên đơn vị, báo tin vừa sinh con trai. Thằng cu kháu lắm!
-  Thế có "kháu" như anh dân quân xã không đấy?
-  Cần quái gì. Con người cũng như con ta, con xã hội cả… phải không cậu?
-  Chỉ nói nhảm.
     Tất cả cười ồ. Một anh chiến sĩ trẻ đã tắm xong, vừa đi về vừa ngâm bài thơ "lính mà em" – Cũng không biết tác giả bài thơ đó là ai?
              Em trách anh gửi thư sao chậm trễ?
              Em đợi hoài, sẽ giận cho xem
              Thư anh viết: anh nào đâu muốn thế,
              Hành quân hoài đấy chứ - Lính mà em!
 
              Anh gửi cho em một cành hoa dại
              Để làm quà, không về được em ơi!
              Không đi lễ nửa đêm cùng em nữa
              Thôi đừng buồn em nhé – Lính mà em!
 
              Ngày về phép anh hẹn em dạo phố
              Tay chiến binh đan năm ngón tay mềm
              Em xót xa, đời anh nhiều gian khổ
              Anh mỉm cười rồi nói – Lính mà em!
 
              Qua phố nhỏ anh ghi dòng kỉ niệm
              Trời mưa mưa hai đứa đứng bên thềm
              Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
              Anh quen rồi không lạnh – Lính mà em!
 
              Anh kể chuyện hành quân và gối súng
              Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
              Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
              Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
 
              Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
              Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
              Em xa lánh những ngày vui trên phố
              Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
 
                                                *
 
Khi Văn rủ Hoàng ra về thì dưới suối cũng vãn người tắm, anh em đã về gần hết. Mấy hôm nay, Văn không khỏi ngạc nhiên vì sự thay đổi của Hoàng? Trong cuộc đời chiến sĩ đã bao kỉ niệm vui buồn có nhau. Nhưng rồi các cuộc hành quân liên tiếp, nhiệm vụ mới lôi cuốn họ vào. Sự thay đổi của Hoàng lần này, có gì đó hơi khác thường? Linh tính trong Văn báo cho anh biết, một cái gì "mới" xẩy ra với bạn mình.
     Hoàng nhớ gia đình chăng? Chắc không phải. Tình cảnh gia đình Hoàng, Văn hiểu lắm! Hoàng từng kể cho Văn nghe. Hay Hoàng nhớ Thu? Đúng thôi! Nhất là xuân đến, nhiều khi Văn cũng thấy lòng mình xốn xang. Hoàng còn có người yêu… chứ Văn, cuộc đời với anh mới mẻ quá! Anh chưa hề ý niệm rõ rệt về tình cảm ấy. Đôi lúc anh cũng vấn vương nghĩ đến một người bạn gái thủa học sinh, những kỉ niệm thời thơ ấu. Nhưng rồi tất cả qua đi. Cuộc sống đời lính sôi động, tất bật, mệt mỏi. Chẳng lẽ vì thế mà bạn anh thay đổi nhiều vậy ư?
-  Hoàng đã nhận được thư của Thu chưa?
     Văn hỏi.
-  Chưa.
     Hoàng trả lời gọn lỏn một tiếng như thế, dường như anh vẫn đang mải mê đuổi theo niềm tâm tư riêng của mình. Anh đã kể cho Văn nghe chuyện tình cảm của anh với Thu, nhưng chuyện mới này... với cô gái bản Mường xinh xắn, thì anh chưa thể kể được? Hay ít nhất là bây giờ anh chưa thể! Nếu biết, Văn sẽ nói gì với anh? Chắc lại chỉ vài câu vấn an bạn: Ồi, nghĩ làm gì nhiều! Lính mà...
    Không! Đây không còn phải là câu chuyện vui vẻ, bông đùa nữa. Nó sẽ trở nên khôi hài, thậm chí là "vô liêm sỉ", nếu anh coi đấy là một trò giải trí? Nhưng anh cần phải làm gì? Cứ mặc thế, ngày tháng sẽ qua đi ư? Thì mấy ngày nay, anh đã chẳng làm thế đấy sao! Anh đã tránh để khỏi gặp Mỵ... rồi anh sẽ đi xa... sẽ vào chiến trường...
     Anh có thể làm như thế, và anh biết rằng: dù không muốn thế thì anh cũng chẳng thể làm gì khác được nữa. Lương tâm anh bị cắn rứt?
     Hay là, nói thật với Mỵ mọi chuyện? Không, không thể được. Không nên làm như thế! Hoàng thấy chính anh chẳng khác gì kẻ phản bội cả hai người con gái?
     Hoàng cất tiếng hỏi bạn:
-  Văn nghĩ như thế nào về một tình yêu đúng đắn? Chẳng hạn, một sự san sẻ ngoài ý thức, có phải là sự phản bội không?
     Trầm ngâm giây lát, Hoàng lại nói như thể tự vấn mình: "Mà cũng không hẳn đã là ngoài ý thức?".
-  Mình chưa có kinh nghiệm trên lĩnh vực ấy!
     Văn nhún vai, ra vẻ muốn nói: "Cậu cũng biết đấy, mình đã có mối tình nào vắt vai đâu cơ chứ?". Nhưng Văn cũng thích tranh luận.
-  Mình nghĩ: Một tình yêu đúng đắn là sự nhất quán trong tư tưởng, lý trí và tình cảm.
-  Nhưng ai dám khẳng định rằng: Khi tôi đã yêu rồi, thì không được phép rung động trước bất cứ một hình ảnh nào? Một tình cảm nào? và chẳng lẽ: ngược nó là phản bội? Là thiếu nhất quán? Con đường của tình yêu còn bão gió hơn cả con đường chúng ta đang đi, Văn nhỉ!
     Hoàng triết lý một hồi.
     "À, thì ra thế! Thì ra sự thay đổi của cậu mấy hôm nay là thế đấy!" – Văn nghĩ vậy, nhưng không nói. Anh vui vẻ như người vừa khám phá ra một bí mật, lại sôi nổi tranh luận:
-  Ờ ờ... thì chuyện tình yêu của người đàn ông với người đàn bà là chuyện của riêng, rối rắm lắm, khó có thể giải thích? Nhưng mình cảm thấy cậu đang tự gây cho mình phiền toái đấy, Hoàng ạ!
     Hoàng lặng lẽ không nói gì. Văn nhìn bạn có vẻ dò xét, buông ra một câu triết lý chẳng ra đâu vào đâu:
-  Tại cậu đa cảm quá, và tính đa cảm có khi trở thành kẻ phản đồ của tình yêu đấy!
     Họ cũng đã về tới chỗ dựng lán trại, nơi đóng quân của đơn vị để đón tết. Một cái tết đầu tiên của đời lính trong khu rừng núi Hòa Bình này.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                          16-
 
     Mỵ ngồi im lặng hàng giờ bên chiếc cửa sổ bằng trúc, mắt bâng khuâng nhìn ra xa. Bà mế ngồi gần chỗ bếp lửa giữa nhà, bàn tay gầy guộc, run rẩy đẩy những thanh củi vào sâu trong đống than hồng. Ngọn lửa đỏ lưng lức bốc lên, lè lưỡi uốn mình như một chiếc câu liêm. Chốc chốc mế lại quay về phía con gái chép miệng. Nhìn sâu vào ngọn lửa, mế than thở:
-  Anh trai của con đi vào chiến trường không biết tình hình thế nào, vẫn chưa thấy báo tin về?
-  Đơn vị của anh con chắc vẫn còn đang đi trên đường Trường Sơn, nghe nói phải hai, ba tháng mới vào đến miền Nam, mà mế?
     Mỵ trả lời mế nhưng mắt cô vẫn đăm đắm nhìn về phía xa. Bà mế lại chép miệng:
-  Vắng nó, lắm lúc nhà cứ lạnh tanh như âm phủ vậy.
-  Mế! Còn con vẫn đang ở nhà với mế cơ mà.
     Cơn ho của bà mế lại nổi lên cắt ngang câu nói Mỵ. Mế úp bàn tay trái lên ngực mình, bàn tay phải nắm lấy cây cột bằng bương gần bếp, ho rũ rượi. Mỵ vội chạy lại đỡ mế.
-  Con đã bảo mế đừng hút thuốc nữa, mế không nghe!
-  Thiếu cơm cũng không khổ bằng thiếu điếu thuốc.
     Bà mế nói vậy. Mỵ vuốt ngực cho mế. Cái sức người già bị cơn ho giằng xé, lưng mế muốn gẫy gập xuống. Mỵ đỡ mế đứng dậy, đi ra phía ổ ngủ của mẹ con cô. Hồi tối, cô đã trải thêm một chiếc chăn chiên bằng dạ lên trên chiếu, cho mế nằm đỡ đau lưng.
     Mỵ đến bên bếp lửa, ngồi đúng chỗ mế vừa ngồi. Cô tiếp thêm đôi khúc củi vào bếp lửa. Dịu cơn ho, bà mế chắc cũng đã ngủ. Những dòng suy nghĩ lại miên man đến trong đầu Mỵ.
     Mới chỉ ít hôm trước, ý nghĩ về cuộc sống với cô còn thật đơn giản. Nó đơn giản như anh nông dân dắt trâu ra ruộng cầy, hết luống cầy này lại tiếp sang luống khác. Thế mà hôm nay... lòng Mỵ cứ bồn chồn không yên.
     Ở một người con gái như chiếc nụ hoa mới hé nở, khi chưa nếm trải cái ngọt ngào và cả sự đớn đau của tình yêu, tâm hồn còn trong như giọt sương buổi sớm mai. Tuy có lúc do sự nhạy cảm của cuộc sống, họ cũng khao khát một cảm giác mơ hồ, trừu tượng về sự âu yếm, vuốt ve của người con trai. Tình cảm và trái tim còn rất mềm mại, một chiếc gai non lỡ chạm vào cũng làm ứa máu. Nói chung, khi chưa được hít thở niềm sung sướng đến mê dại của yêu đương, thì họ cũng chưa bị co giật bởi một cơn sốt tinh thần nào.
     Chính lúc ấy, bất ngờ Mỵ đã gặp gỡ anh, và cơn sốt tình yêu dồn dập đến trong cô. Có lúc, Mỵ cảm thấy như nghẹt thở vì vui sướng. Tiếng chuông của trái tim người đàn bà đã vang lên trong Mỵ, ngân nga, ngân nga mãi...
     Ôi, buổi sáng với anh ở vườn đào hôm ấy! Mỵ làm sao có thể quên được. Từ thân thể đến tâm hồn người con gái của Mỵ, tựa như một cung đàn bỗng rung lên! Bàn tay anh đã đặt vào cung đàn của em, để hàng ngàn, hàng ngàn những âm thanh trầm bổng bay ra. Nó làm dao động mọi tế bào trong cơ thể, vọng vào rất sâu, rất sâu... len lỏi đến cả nơi thầm kín nhất. Làm cho Mỵ hạnh phúc! Tuy anh chưa chiếm đoạt cái linh thiêng, quí giá nhất của người con gái. Khi ấy Mỵ cũng thấy muốn... nhưng anh đã dừng lại.
     Nghĩ về chuyện đó, bất giác Mỵ thấy thèn thẹn... mặc dù chỉ ngồi một mình, lại tự cười thầm bên bếp lửa.
-  Ghét ghê! Người ta đã cho còn không muốn...
     Cô lẩn thẩn nói với chính mình, tay tiếp tục cời cho bếp lửa đêm đông cháy hồng lên với những dòng tâm tư thao thức.
     Như người ta nói: Người đàn ông nào đã chiếm được trọn vẹn tiếng chuông thứ nhất trong trái tim người đàn bà, có nghĩa là vĩnh cửu! Lần đầu tiên trong đời Mỵ được tận hưởng cái cảm giác khoái lạc, khi cả tấm thân anh trăn trở, dầy vò trên thể xác cô, dù anh chưa đi đến bước tận cùng. Nghĩ lại những giây phút ấy, niềm hoan lạc vẫn còn dấy lên rạo rực khắp người Mỵ.
     Ý nghĩ về thực tại chợt đến làm cho cô hoảng hốt: Chiến tranh! Phải, chiến tranh! Anh sắp ra chiến trường… Liệu cô còn có thể được gặp lại anh nữa không? Mặc dù cô biết mình sẵn sàng chấp nhận, hoàn cảnh nào... Mỵ cũng vui lòng trao tất cả cho anh.
     Một mình ngồi trong đêm vắng bên bếp lửa, cô gái vẫn mơ tưởng đến... cái cảnh trần truồng lăn lộn với người đàn ông ở vườn đào. Nó sẽ trở thành một kỉ niệm theo suốt cuộc đời cô.
     Tiếng con chim nào đó kêu nấc lên ở ngoài bìa rừng. Tự nhiên Mỵ lại thấy hơi run và lạnh... mặc dù ngọn lửa đỏ vẫn cháy bồng lên sưởi nóng cả gian nhà. Mấy hôm nay anh không vào bản, mai đã là 30 tết rồi! Anh đã hứa sẽ vào bản ăn tết với mế và Mỵ, bởi vậy cô nóng ruột chờ? Thời gian như kéo dài lê thê...
     Giọng khàn khàn của bà mế vừa thức giấc, giục con đi ngủ. Mỵ dập củi, chỉ để lại một bếp than hồng, rồi vào chiếc ổ bông nằm xuống bên cạnh mế. Một lúc, tiếng thở của người con gái bản đã đều đều.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                          17-
 
     Đã qua hai ngày tết vẫn không thấy anh đến? Anh đã hứa với cô, thế mà... Mỵ muốn giận dỗi và trách móc, nhưng có gặp anh đâu mầ trách cơ chứ? Bao ý nghĩ suy diễn cứ lẩn quẩn trong đầu óc, rồi cô lại tự thanh minh cho anh: "Chắc là có chuyện gì đột xuất ở đơn vị, nên anh không vào bản được".
     Hôm qua mồng 2 tết, yên trí thế nào anh cũng vào… nên Mỵ đã lùi sẵn mấy ống cơm lam bằng thứ gạo nương thơm nhất bản. Mế lại cho con gà trống béo nhất chuồng, để làm bữa đón anh. Suốt cả ngày chờ? cô đứng... cô ngồi... đến tận chập tối vẫn không thấy bóng dáng anh đâu. Khi đó, mế và cô mới dọn cơm ra ăn. Cô ăn nhả nhớt không thấy ngon miệng, mế thì suốt bữa chẳng nói câu nào.
     Cô cứ tự biện bạch với mình: Chắc hai ngày tết, các anh phải tổ chức vui xuân trong đơn vị, nên không vào bản được. Có lẽ anh cũng sốt ruột lắm? Anh cũng muốn vào với cô đấy, chứ không phải...
     Hôm nay là mồng 3 – Mỵ nghĩ, thế nào anh cũng vào. Cô lại hy vọng và chờ đợi! Thế mà... trưa đã đứng bóng, vẫn không thấy anh đâu? Cô gái bản ra cửa nhìn về phía rừng, ngóng đợi.
     Cô giận dỗi, đi đi... lại lại... dậm chân thình thình lên mặt sàn. Mế mắng:
-  Cha đẻ mày, lớn bằng ấy mà vẫn như con nít.
     Mắng thế, nhưng mế thương cô lắm! Mế còn mong cái anh bộ đội vào đây bữa trước, hơn nó nữa.
     Sự thôi thúc muốn được gặp lại anh, mạnh hơn nỗi e ngại. Cả bữa cơm trưa nay, cô cũng chỉ ăn qua quít. Ăn xong, Mỵ nói với mế: Cô muốn vào dơn vị thăm các anh bộ đội? Mế chỉ chép miệng, rồi bảo:
-  Ừ, con muốn đến chỗ các anh ấy thì cứ đi! Nhưng nhớ cẩn thận. Đừng về muộn quá, mế lo.
     Rửa bát đũa xong và uống vội chén nước. Bà mế chỉ kịp nghe hai tiếng: "Con đi"… bóng con gái mế đã ra đến ngoài đường bản. Nắng ngập trên con đường đất đỏ. Những cánh hoa mận trắng rơi phủ khắp đường, bay lên đuổi theo bước chân của Mỵ. Cô băng qua một nương rẫy lớn, những cánh cò bay nhanh về phía rừng. Núi đã ở trước mặt.
     Từ xa, Mỵ nhìn thấy thấp thoáng những chiếc lán tre mới dựng. Đó chính là nơi các anh bộ đội trú quân để ăn tết. Lúc này Mỵ thấy hồi hộp quá, trống ngực đập thình thình. Dừng lại giây lát để trấn tĩnh, cô mạnh dạn đi về phía dẫy lán đầu tiên, hỏi thăm đường đến chỗ của anh.
 
                                                    *
 
     Vào những ngày đầu xuân Mậu Thân năm 1968 ấy, tin thắng lớn trên chiến trường miền Nam dồn dập bay ra miền Bắc. Nhà quân sự đứng bên tấm bản đồ theo dõi tình hình chiến sự từ các nơi báo về. Vừa nhận được tin giải phóng thành phố này, chưa kịp đánh dấu bằng những đường chỉ đỏ - Thì ở thành phố khác hoặc một đô thị nào đấy tại miền Nam, lại nhận được tin đã giải phóng.
     Trên khắp miền Bắc mọi người dân đều nín thở, đứng bên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, nghe tin chiến thắng.
     Những sư đoàn, trung đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam đều báo động, sẵn sàng cấp tốc lên đường vào chiến trường. Các chiến sĩ cũng nôn nóng muốn ra ngay mặt trận.
     Toàn Trung đoàn 209, gọi là "Trung đoàn mũ sắt" thuộc Sư 312, được mệnh danh là "Quả đấm thép của Bộ” đang đóng quân tại rừng núi Hòa Bình – Các đơn vị đều nhận được chỉ thị tổ chức cho anh em đón tết tại chỗ. Bộ đội không được đi đâu xa, đợi lệnh chuẩn bị hành quân tiến vào miền Nam.
     Đơn vị của Hoàng thuộc Đại đội 5 – Một đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209... nằm trong tình huống báo động ấy! Chính đó là lý do: các anh không thể vào bản ăn tết cùng bà con được.
     Khi Mỵ hỏi thăm vào đến đơn vị gặp anh, mới biết sự tình như thế! Mọi ý nghĩ oán thán của cô với anh tiêu tan hết. Cô lại tự giận mình vì đã vội vã trách anh.
     Mấy chiến sĩ cùng trong Tiểu đội súng máy đại liên với Hoàng, đã mang kẹo mứt... cả bánh trưng bộ đội tự gói ra đón mừng cô. Mỵ vui lắm, cười nói với các anh bộ đội không thấy chán. Mãi tới gần chiều, hai người mới tách riêng ra được, dẫn nhau lên núi ngồi nói chuyện. Họ ngồi bên nhau, trên một thân cây gỗ lớn đã bị đổ nằm giữa rừng.
-  Tết này bọn anh có lệnh cấm trại!
     Hoàng nói lại lần nữa.
-  Em biết rồi!
     Cô nhìn anh tủm tỉm cười. Cả hai đều thấy lòng nhẹ nhõm, khi mọi nỗi niềm riêng đều trở nên nhỏ nhoi, trước tình hình chiến sự đang diễn ra nóng bỏng.
     "Dù sao thì cũng không thể khác thế..." – Anh nghĩ vậy, với anh hay với cô... sẽ còn lại một kỉ niệm. Số phận của những riêng tư trong giờ phút này thật mỏng manh. Chiến tranh ào qua nó, không mặc cảm.
     Nghĩ thế, nhưng không biết vì sao sự gặp gỡ với Mỵ, vẫn làm cho Hoàng lúng túng. Anh không ngờ cô lại đến tìm anh?
-  Anh Hoàng đang nghĩ gì thế?
     Mỵ ngả đầu áp sát vào ngực Hoàng, ngước mắt nhìn anh hỏi. Bỗng nhiên Hoàng bật cười.
-  Anh Hoàng cười gì?
-  Đêm qua anh nằm mơ.
-  Anh mơ thấy gì?
-  Anh mơ thấy là... trưa nay anh gặp em!
-  Chỉ bịa, ghét anh ghê!
     Mỵ nũng nịu với người yêu. Cô quên hết sự trách móc, lòng đang trào lên một niềm vui khó tả. Lấy tay nhặt một cộng tre nhỏ, khô rơi trên đất... bẻ tanh tách, ném nó ra xa. Chợt nghĩ tới điều sắp phải xa anh, lòng cô lại bồn chồn.
-  Bao giờ thì anh phải đi?
     Mỵ hỏi.
-  Chắc cũng sắp.
     Hoàng trả lời vậy, nhưng bản thân anh cũng không hề biết rằng: chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, anh đã phải lên đường. Chữ "sắp" của thì tương lai mà anh đã nói, sẽ trở thành thì "hiện tại".
-  Em cũng nghĩ là anh sắp đi.
     Giọng Mỵ trầm hẳn xuống, nghe rất nhỏ, có gì đang ứ nghẹn trong cổ cô. Bỗng tiếng kêu choe chóe của một con sóc màu hạt dẻ, phá tan sự yên lặng. Nó có chiếc đuôi xồm như cái phất trần, đang nhảy trên những cành cây trước mặt. Thoắt một cái, con sóc đã biến mất vào trong núi.
-  Đàn ông các anh thật tệ! Ghét anh ghê?    
     Mỵ ôm ghì lấy anh.
-  Có phải tại anh đâu? Lệnh đấy chứ!
-  Em không biết.
     Khi chưa gặp anh, cô những muốn nói với anh thật nhiều. Thế mà, giờ cô lại chẳng biết nói gì. Bao nhiêu ý nghĩ miên man trong trí não Mỵ? Khi em biết rằng, em đã yêu anh! Thế là, những ngày tháng vô tư của em không còn nữa. Mới có ít ngày thôi anh nhỉ, vậy mà em cứ nghĩ như đã yêu anh từ lâu lắm! Ở bên anh, em thấy mình hạnh phúc. Em sung sướng.
-  Liệu rồi, em có còn được gặp lại anh nữa không?
     Cô cảm thấy hơi hoảng hốt. Hoàng không nói gì, chỉ ôm chặt cô vào lòng. Những giọt nước mắt không ngăn được trào xuống má cô. Nghĩ đến lúc phải xa anh, Mỵ tưởng chừng như không thể nào chịu nổi? Mặc dù cô cũng biết: yếu đuối lúc này, khi đất nước đang cần mình – Là không đúng! Nhưng chắc anh sẽ chẳng giận em đâu, phải không anh? Người con gái nào mà chẳng thế! Những lúc ấy, cô chỉ muốn gục vào anh mà khóc. Khóc được, cô thấy mình nhẹ hơn.
     Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng, tha thiết biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở trong vườn đào ấy? Rồi anh đi! Lúc này, chúng mình không nghĩ về chuyện gì khác nữa. Chỉ nghĩ đến, em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
     Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt trận, sẽ cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
     Còn Hoàng, anh như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ, cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi, đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam.
     "Anh là của em!..." – Tiếng của cô gái đang yêu, thầm thì ở bên anh.
     Hãy lấy ánh mắt của người con gái đang say đắm, trong biển cả tình yêu, thì mới thấy nó sâu xa, thăm thẳm đến nhường nào.
     Hoàng không thể nào nói nổi với Mỵ cái điều mà anh đã muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào! Anh không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy nghĩ...
     Những tiếng lá khô gặp cơn gió thổi đến, bay xào xạc dưới chân. Nhìn vào rừng cây mà Hoàng thấy mình cứ như đang nhìn đến một khoảng hư không nào đó.
-  Anh Hoàng đang nghĩ gì vậy?
     Mỵ vẫn áp đầu vào ngực anh và hỏi. Đôi mắt cô trìu mến nhìn anh như muốn nói: "Anh đã thấy rồi đấy! Cả tâm hồn, trái tim tình yêu, rồi sẽ cả cuộc đời em nữa... đã chẳng thuộc về anh đó ư?".
     Hoàng ngập ngừng:
-  Mỵ, anh đã yêu...
     Có cái gì đang thôi thúc trong anh phải nói ra, rằng... anh đã yêu một người con gái khác! Nhưng Mỵ lại cắt ngang ý nghĩ đó của anh.
-  Em biết rồi! Thì em cũng rất yêu anh mà...
-  Không phải thế. Ý anh muốn nói: chúng ta không thể kéo dài quan hệ với nhau hơn được nữa. Bởi vì...
     Mỵ lại lấy tay bịt miệng, không để anh nói tiếp.
-  Anh lại muốn nói là: vì đất nước có chiến tranh, anh phải đi ra chiến trường, chứ gì?
     Giọng cô trở nên sôi nổi và kiên quyết:
-  Anh đừng bao giờ có ý nghĩ ấy nữa nhé? Nếu không là em sẽ giận đấy! Em sẽ chờ anh trở về, dù năm – mười năm, hay hai mươi năm, em cũng chờ.
     Bóng nắng của rừng chiều nghiêng ngả. Cánh rừng có vẻ hơi chao đảo, nhưng rồi êm đềm trở lại. Mỵ thấy giờ đây tất cả với cô thật nhẹ nhõm,  không nghĩ gì nữa, chỉ biết là cô đang ở bên anh. Cô kéo vòng tay anh ôm chặt lấy mình.
     Hoàng không còn tỉnh táo nữa. Những cảm xúc mạnh mẽ dâng trào trong anh. Rừng và núi che lấy họ. Cô kéo anh cùng nằm xuống thảm lá. Đôi mắt đáng yêu kia đang nhìn anh tha thiết đến chừng nào!
     Hoàng đã bị khuất phục hoàn toàn.
     Anh hôn lên môi, lên vú... và bàn tay người lính trẻ luồn qua lớp vải mỏng... xoa lên cả cái chỗ thiêng liêng, kín đáo nhất của cô.
     Mỵ bỗng vùng nhỏm dậy, tưởng cô từ chối không đồng ý với anh? Nhưng không phải vậy. Đôi bàn tay xinh xẻo của người con gái Mường tháo cởi dải thắt lưng bằng vải mềm vẫn quấn quanh cạp chiếc váy hoa, trút bỏ hết bộ đồ đang mặc ra khỏi người... để mở ra cả tấm thân trắng nõn nà. Một đấng thiên thai của tạo hóa đang lồ lộ trước mặt anh.
     Hoàng ngập ngừng:
-  Mỵ! Nhưng anh phải đi mà. Anh sợ em có thai?
-  Néu có thai, em sẽ sinh con cho anh. Mẹ con em sẽ chờ anh trở về!
-  Nhưng nếu em bụng mang, dạ chửa... bà con dân bản sẽ cười nhạo, chửi mắng em? Phải sống thế thì khốn khổ lắm, em ạ!
-  Không đâu. Biết em có thai với bộ đội, dân bản không trách mắng em đâu! Còn thương em nữa... Nhất là lại có con với các anh ra chiến trường.
    Cô kể: mấy năm trước, bản em có một chị có thai với một anh bộ đội cũng về đây đóng quân, rồi anh ấy ra tiền tuyến. Dân bản không những không mắng mỏ, khi chị ấy sinh con… bà con còn cưu mang để chị nuôi con nữa. Giờ cháu gái, con của chị đã được một tuổi. Cháu rất xinh và đáng yêu lắm!
     Người ta thường bảo: Con gái dân tộc đã yêu thì như giông bão, yêu điên dại, yêu không tiếc mình. Như con hươu, con nai núi băng qua nương, qua rừng tìm đến bạn tình!
     Cô kéo anh ghì sát vào mình… Chẳng thể nào cưỡng lại được nữa. Giây lát, một cảm giác tê dại lan truyền ra cả hai thân thể đang quấn xiết vào nhau. Cô uốn cong thân mình khẽ rên lên vì sung sướng, hạnh phúc dâng lên đến tột đỉnh! Lần đầu tiên cô đã được hưởng mùi vị của cuộc đời, với người con trai mà cô rất mực yêu thương.
     Khi mọi chuyện đã xong. Hoàng cứ nằm phủ phục mãi trên tấm thân lõa lồ của người con gái bản, cũng không biết là bao lâu nữa. Nhúm lông tơ mềm mại của cô vẫn đang cọ xát vào của anh kia - Ở nơi ấy vừa xẩy ra một vụ "động đất". Người con gái vẫn đang thấy run rẩy trong mình...
     Bóng chiều cũng đã tàn. Lúc này, Mỵ mới dịu dàng nói:
-  Đừng bao giờ quên em, nghe anh! Khi vào đến chiến trường, nhớ viết thư về cho em. 
      Hoàng chợt nhớ lại chuyện cũ - Cả hai người con gái, hai miền quê và dân tộc khác nhau, đều đã cho anh cái cảm xúc say mê, ngây ngất của cuộc đời.
     Cái cảm giác khi với Thu thế nào nhỉ? còn đang nằm trên bụng người con gái bản, anh tự hỏi trong mình: Người con gái Hà Nội, nàng cũng đã yêu anh tha thiết. Với nàng - anh thấy rạo rực, đê mê khi lăn lộn trên tấm thân trần, tuyệt bích.
     Còn với người con gái Mường? Ôi, hương vị bông hoa dại núi rừng, em cũng ngọt ngào hương say của một đóa thiên thai. Cả hai lần đều cho anh một cảm giác không thể nào quên được.
     Lúc Mỵ khẽ đẩy Hoàng ra, hai chân anh vẫn còn quặp chặt lấy đùi cô. Như người tỉnh giấc mộng, anh bật dậy và nói:
-  Ta về thôi em! Anh sẽ đưa em ra tới bìa rừng, rồi phải quay lại. Đơn vị không cho phép anh đi xa quá!
    Cô mặc lại áo váy, rồi cùng anh trở về. Nhìn theo bóng Mỵ đã khuất qua nương để vào bản, Hoàng mới quay lại đi về phía lán của đơn vị.
     "Thế là mình vẫn chưa nói được với Mỵ điều đó..." – Anh tự nhủ với mình: Rồi chiến tranh sẽ cuốn đi tất cả…
     Lúc này, bài thơ "Lính mà em" mà người chiến sĩ đã đọc bên bờ suối bữa trước, lại văng vẳng bên tai anh:
               .......
               Anh kể chuyện hành quân và gối súng
               Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
               Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
               Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
 
               Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
               Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
               Em xa lánh những ngày vui trên phố
               Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.03.2018 16:14:41 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 18.04.2018 16:14:29 (permalink)
 
                                             Chương IV.   
 
                  VỀ PHÍA HẬU PHƯƠNG
 
                                                       18-
 
          Sông Hồng nước đỏ quạch như pha máu, sóng trào lên lai láng. Đứng trên cầu Long Biên nhìn ra xa, mấy chiếc thuyền câu của dân vùng ven bãi vẫn đi đánh cá, tuy đã rất thưa thớt so với hồi trước. Trông xa tít, các con chim nhạn lao thẳng xuống gần chạm mặt nước, rồi nó nghiêng mình bay vọt lên, giống như những chiếc máy bay tiêm kích mig-21 đang nhào lộn.
     Ở mỗi nóc đỉnh cao của các trụ cầu Long Biên chạy vắt qua sông, người ta đều thấy có những cỗ pháo cao xạ 14,5mm loại hai nòng đặt trên đấy. Đó chính là những trận địa pháo của Binh chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Bóng những chiến sĩ đứng trên cỗ pháo, dưới trông lên nhỏ xíu.
     Trong những năm chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, khi không quân Mỹ đã leo thang đánh tới Hà Nội, không mấy ngày là không có máy bay đến đánh phá cầu Long Biên. Công việc của những tên giặc lái Hoa Kỳ là ném bom phá cầu – Nhiệm vụ của những người pháo thủ ở đây, là bắn máy bay Mỹ để bảo vệ cầu. Sự tồn tại của họ là sự tồn tại của cầu Long Biên, đường giao thông huyết mạch từ thủ đô lên mạn bắc. Khi những người chiến sĩ còn có mặt trên những mâm pháo, có nghĩa... cầu Long Biên vẫn còn thông suốt – Vì, nếu khi máy bay Mỹ đã ném bom trúng cầu, thì cùng với những đoạn cầu bị sập, xác họ và xác của cỗ pháo cũng sẽ bị hất chìm xuống sông. Bởi vậy, những người chiến sĩ trên trận địa pháo cao xạ phòng không này, được nhân dân mệnh danh là "Đội quân cảm tử"!
     Lúc này, có một cô gái mặc chiếc áo cánh màu nâu non, đi trên chiếc xe đạp mác hiệu Thống Nhất nữ, đang từ phía ngoại thành bên kia cầu Long Biên vượt vào nội thành. Cô gái gò lưng đạp mải miết, cố vượt qua cầu cho nhanh. "còn một phút ở trên cầu, là không có bình yên" – cô nghĩ vậy. Bỗng có tiếng gọi giật... Cô gái cảm thấy hình như có ai đó đang gọi mình?
-  Này, cô em ơi! Cô em đi xe đạp áo nâu non... ơi! 
     Cô gái dừng xe, quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng không thấy ai thân quen. Chỉ mấy người lạ cùng đi một hướng với cô, ai cũng vội vã... phóng thật nhanh. Một bác già thấy cô đứng lại, vừa vượt xe lên vừa mắng:
-  Muốn ăn bom à, còn đứng lại?
     Cô đã toan đạp xe đi tiếp, lại nghe thấy tiếng gọi lần nữa:
-  Anh đây cơ mà...
-  Chúng anh ở trên này, cô em ơi!
     Cô gái ngẩng đầu ngước nhìn lên cao, rồi tự mắng mình: "Rõ khỉ, thì ra mấy anh lính...". Tuy vậy, cô vẫn giơ tay vẫy vẫy... đùa lại:
-  Về đi anh ơi! Cơm canh nguội hết rồi?
-  Anh còn phải trực bắn máy bay Mỹ, chưa về được với em đâu! Có lên đây, anh đón?
-  Nghỉ nhé.
     Cô gái nhoẻn cười: "Đằng ấy không về, thì đây về một mình" - Nói xong, cô đưa hai ngón tay lên làm động tác hôn gió rồi phóng xe đi. Những câu trêu chọc của mấy anh lính pháo thủ còn theo cô một quãng.
     Cô gái ấy là Thu. Từ sáng sớm đến giờ, phải đạp xe ngót trăm cây số đường trường, Thu đã thấm mệt. Ô tô thời kỳ này hay bị trắc trở, Thu phải mượn chiếc xe đạp của chị y tá ở trường, đi về Hà Nội thăm gia đình.
 
                                                      *
 
     Ông Giáo ngồi trên chiếc ghế sa lông kê giữa nhà. Ông cầm ấm nước trà nóng, vừa rót nước vừa nói với Bà Giáo:
-  Tôi đã nói với bà cứ ở yên chỗ sơ tán. Tôi ở nhà đã có anh em trên Bộ giáo dục: ăn có nhà bếp tập thể, ốm đau có y tá của cơ quan. Bà về làm gì?
     Uống ngụm nước nóng, ông nói tiếp:
-  Cứ năm, bảy bữa... bà lại bò về Hà Nội. Cái đất thủ đô này, giờ đâu có được yên ả cơ chứ!
     Bà Giáo ngồi trên giường, mắt đeo cặp kính trắng gọng nhỏ, đang lúi húi mạng cho chồng cái đầu gối quần đã bị sờn vải. Nghe Ông Giáo nói thế, mới đặt cả hai tay lên đùi, vẻ trách móc:
-  Nếu tình hình không yên ả, thế sao ông còn ở lại?
-  Bà này nói lạ. Là vì công việc, chứ có phải tôi ở lại Hà Nội để chơi đâu?
-  Khốn ông còn hăng máu lắm cơ! Mình già rồi, lại không theo bộ phận đi lên chỗ sơ tán của cơ quan, cứ nhất nhất xin ở lại Thủ đô. Trên Bộ giáo dục dễ hết thanh niên rồi hay sao?
     Bà tỏ thái độ cương quyết:
-  Sống cùng sống, chết cùng chết. Ông ở lại, tôi cũng ở lại.
     Đã vá mạng xong cái chỗ quần rách đó, bà ghé răng cắn đứt sợi chỉ rồi đưa kim cho cô con gái đang ngồi bên cạnh:
-  Xâu hộ cho mẹ sợi chỉ khác, để mẹ mạng nốt cho ba con cái đầu gối quần bên kia, sắp bục đến nơi rồi.
     Bà chép miệng: "Chết chửa, hồi này mắt mẹ kém quá!". Thu kéo chiếc quần của ba về phía mình, nói với mẹ:
-  Để con mạng nốt cho ba con!
     Ông Giáo vẫn cảu nhảu:
-  Mà tôi ở lại Hà Nội thì cũng đã bị làm sao đâu, mà bà phải lo?
-  Lại chờ tới lúc bị làm sao?
     Bà Giáo kéo dài giọng: "Ông cho tôi xin chén nước!". Thu để chiếc quần của ba xuống giường, đi lại phía bàn rót nước đưa cho mẹ, rồi nói:
-  Hay là mẹ lên chỗ sơ tán của con ở trường, ở với con? Các bạn con, cũng khối người mang theo cả bố mẹ già lên đấy!
     Bà Giáo nhìn con gái, lắc đầu:
-  Để ba con ở nhà một mình sao được?
     Ông Giáo đứng lên đi lại phía bàn làm việc, cầm lấy quyển sách đang dịch dở. Không quay đầu nhìn vợ, ông nói:
-  Bà nó nên nghĩ lại cho chín? Tôi ở thêm Hà Nội ít bữa, cùng với anh em thu xếp công việc của Bộ cho gọn rồi... cũng sẽ đi sơ tán. Tình hình ngày càng căng thẳng thế này, chẳng ai để cho mình ở lại lâu.
     Đã mạng xong quần của ba. Thu gấp lại cẩn thận, để xuống dưới chiếc gối đầu giường, chỗ ba cô nằm... rồi cùng với mẹ lên gác trên.
     Gian phòng lâu ngày không có hơi người, đã có mùi ẩm mốc. Chiếc giường cá nhân của Thu kê sát cửa sổ, trông xuống phố. Vẫn như hồi cô còn ở nhà, mọi thứ không có gì thay đổi, nhưng Thu cảm giác như sự hoang lạnh đã tràn vào gian phòng. Bà Giáo đi về phía giường của mình, nói với con gái:
-  Ngày mai, con có vào chỗ sơ tán thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh không?
-  Dạ, có ạ!
-  Thế thì liệu mà đi cho sớm, con ạ! Hồi này máy bay, máy bò đánh luôn.
-  Con cũng định đi từ sáng sớm, chiều tối quay về tranh thủ giải quyết mấy việc rồi phải trở về trường để học.
     Thu đi lại trong phòng ngắm nhìn những đồ vật cũ, nó gợi cho cô những kỉ niệm về quãng đời niên thiếu: "Ta cứ tưởng như vừa mới hôm qua thôi!" – Thu nghĩ. Cô nhìn mãi tấm chân dung thiếu phụ của nhà danh họa Ý Lê-ô-na Đờ-vanh-xi, được ba lồng vào trong một khung kính treo ở trên tường.
-  Tuyệt quá!
     Cô tự nói với chính mình, rồi quay lại hỏi Bà Giáo:
-  Anh con có viết thư về không mẹ?
-  Có, từ tuần trước. Con không nhắc thì mẹ quên khuấy, cả thư riêng anh đã viết cho con nữa đấy!                    
     Bà Giáo nhỏm dậy, lấy bức thư từ trong ngăn kéo tủ, đưa cho con rồi bảo: "Xem mà viết cho anh, kẻo anh nó mong". Lá thư của anh trai viết cho Thu khá dài, cô đọc ngấu nghiến như người đang đói.
-  Anh ấy kể chuyện chiến trường mà vui quá, mẹ nhỉ?                      
     Bà Giáo như đang suy ngẫm một điều gì, lơ đãng không trả lời con. Những kỉ niệm cũ với người con trai lại diễn ra trong óc bà. Chẳng nhiều nhặn gì, bà chỉ sinh được hai anh em nó. Thằng anh, được hai tuổi thì "cách mạng tháng 8" thành công. Cái thời mà Ông Giáo còn tham gia trong hội kín, hội mở... Mấy năm sau thì ông thoát ly đi kháng chiến. Bà có mang cái Thu trong lần vào vùng "tự do" của cánh mạng để tiếp tế cho chồng, ở Chi Lê thuộc vùng rừng núi Hòa Bình.
     Bất giác Bà Giáo thở dài: "Bây giờ chúng nó đã bằng ngần ấy". Một đời người, hai lần kháng chiến. Đời cha rồi lại đời con, không chừng rồi đến cả đời cháu của bà nữa? Thấy mẹ thở dài, Thu quay lại hỏi:
-  Mẹ làm sao thế?                            
-  Có viết thư, con nhớ bảo anh là mẹ dặn phải giữ gìn sức khỏe.             
     Nói rồi Bà Giáo trùm chăn ngủ.
...  Thế là cả hai người thân của Thu đều đến nơi chiến trường. Răng cắn vào cái quản bút chấm mực, cô nghĩ: Một người là anh, một người là bạn. Cả hai đối với Thu đều thân thiết.
     Những ý nghĩ cứ miên man trong trí óc cô: Khi người ta biết hy sinh cho một tình yêu, và sự hy sinh đó gắn bó bởi mối quan hệ riêng, chung... thì họ có quyền kiêu hãnh, phải không anh?
     Mình sẽ viết câu ấy cho Hoàng – mà không, viết cho anh trai có lẽ hợp hơn? Thu lấy giấy viết thư cho anh. Những suy cảm như dòng nước đang chảy xối xả ở trong cô...
     ... Cái nhận thức ấy đến với em từ lúc nào nhỉ? Em không còn nhớ. Nó cứ lớn dần, anh ạ! Nhất là từ buổi tiễn người bạn trai của em nhập ngũ. Người bạn mà em đã kể cho anh nghe, rồi đấy!
     Trước đây là sách vở, bây giờ là cuộc đời. Thực tế thì nhiều phức tạp hơn, song cũng sinh động hơn sách vở. Anh có biết em sung sướng thế nào không? Thực ra thì không đơn giản, nhưng khi em đã thấy mình vượt lên, đã khẳng định được con người mình, ý thức tốt đẹp về một cuộc sống - Em thấy mình hạnh phúc! Cũng như anh đã nói trong lá thư viết cho em: Cái hạnh phúc của người lính thường đến, sau mỗi lần chiến thắng...
     Trên giường Bà Giáo đã ngủ thiếp đi, tiếng ngáy của bà đều đều. Thân hình vốn đã bé nhỏ của bà, giờ lại gầy hơn một chút. Bà nằm lọt thỏm trong tấm đệm bông. Thu dừng viết thư, đến bên giường kéo chăn phủ kín lên ngực mẹ.
     Cô nhìn mẹ tủm tỉm cười, rồi quay lại bàn viết tiếp lá thư cho người bạn trai. Sáng mai cô sẽ bỏ vào hòm thư của thành phố, để gửi cả hai lá thư này ra nơi tiền phương.
 
 
                                                        19-
 
     Một người khách đang ngả đầu vào thành ghế cho ông Tiến Thịnh cạo mặt, nói:
-  Ông có nghe tin tức: Tình hình Mỹ sẽ ngừng ném bom ở miền Bắc không?  
     Ông Tiến Thịnh lấy tay xoa một thứ bọt xà phòng trắng, nhờn lên cằm khách, thản nhiên hỏi lại:
-  Ai bảo ông thế?
     Lưỡi dao của ông phó cạo đưa xoèn xoẹt. Một nhoáng, bộ râu cứng như rễ tre của người khách đã được bào nhẵn. Người khách vẫn ngồi lim dim mắt, đáp lại:
-  Đài BBC đưa tin mà lị!
-  Ồi, cái mồm chúng nó thì cứ hoen hoét.
     Cũng chẳng hiểu ý ông Tiến Thịnh định nói về cái tin đài BBC mà người khách vừa thông báo, hay ông ám chỉ thằng Mỹ? Ông tiếp:
-  Cứ xem ngay như cái Hiệp định Pa Ri ấy? Ngồi bàn vuông, bàn tròn với nhau rồi mà họ còn nhổ toẹt đi, nữa là...
-  Thì cũng tại ông nhà mình làm căng quá!
     Người khách có vẻ muốn phô trương sự hiểu biết của mình.
-  Ông tính xem: Là một tên đế quốc đầu xỏ nhất hạng! Chịu lép quá, nhục, thằng nào nó nghe?
-  Phải nghe tất! Thua thì phải nghe, nhục cũng phải chịu.
     Giọng ông Tiến Thịnh "chắc như cua gạch".
-  Đã đành. Chúa chết thì trạng cũng băng hà, ông ạ!
     Người khách buột mồm buông một câu triết lý, mà cũng chẳng hiểu triết lý cái kiểu gì? Ông Tiến Thịnh vặn hỏi:
-  Thế ông không nghe tin chiến thắng đầu xuân Mậu Thân à?
     Người khách vẫn không chịu:
-  Xôn xao cả phố, ai mà chẳng biết! Nhưng tôi thì tôi nghĩ: Cái ông Việt Nam nhà mình cũng hay chơi nước thượng lắm cơ?
     Ông Tiến Thịnh nói kháy:
-  Giá tiến cử ông vào Bộ chính trị mới phải?
     Người khách cự lại:
-  Chẳng phải thế. Tình hình chính trị của đất nước, mình phải quan tâm chứ ông!
-  Tôi cứ cố "cắt" dăm cái đầu, kiếm cho vợ con thêm lon gạo.                    
     Người khách nọ đã trả tiền xong, chào ông Tiến Thịnh rồi bước ra ngoài phố. Ông Tiến Thịnh lấy tay phủi phủi những sợi tóc bám vào áo mình, buông thõng một câu:
-  Năng nhặt, chặt bị... là thượng sách.                     
     Từ nẫy đến giờ một tay thanh niên tóc chờm đến ngang vai, ngồi đợi trên chiếc ghế dài, tranh thủ giở tờ báo Văn Nghệ ra xem "mục nụ cười". Chờ người khách kia đã ra khỏi cửa hiệu, mới bước vào chiếc ghế thay thế chỗ. Hắn tán dương ông Tiến Thịnh:
-  Bố già nói chí lý lắm! Cứ như con đây này: Sáng ra chợ giời buôn bán đồ cũ làm mấy "sọi". Trưa về nhà, đánh một giấc ngủ khoèo đến bốn giờ chiều. Tối bát phố...                                           
     Một vị khách khác vừa mới bước vào hiệu, thấy tay thanh niên nói vậy... mắng:
-  Cứ như cái ngữ nhà anh á? Có mà mất nước.                        
     Tay thanh niên mặt vẫn bình thản, tỉnh bơ:
-  Bác già nặng lời thế!                                           
     Hắn quay sang bảo với ông Tiến Thịnh:
-  Bố xén gáy bằng cho con, bố nhé! Cả Hà Nội này, con chỉ tín nhiệm mỗi cửa hiệu cắt tóc của bố thôi đấy!
     Ông Tiến Thịnh vừa cắt tóc vừa nói:
-  Thế cậu đã biết hiệu cắt tóc Tiến Thành, trên phố Huế chưa? Cửa hiệu của thằng con cả tôi đấy! Nó cắt còn bợm hơn tôi.                         
     Tay thanh niên vồn vã hỏi:
-  Ở số nhà bao nhiêu phố Huế, hả bố?
-  Cậu là tay chơi, dân "phe phẩy"chợ giời, mà không biết cửa hiệu cắt tóc Tiến Thành nổi tiếng ở phố Huế, sát gần ngay chợ... thì xoàng quá!
     Cái kéo cắt tóc trong bàn tay nhà nghề của ông Tiến Thịnh vẫn kêu tanh tách. Từng đám tóc hắt ra, rơi đều đều lên chiếc áo quàng bằng vải dù pháo sáng, đang choàng trên vai khách.
 
                                                   *
 
     Ăn cơm trưa xong, ngồi khoanh chân trên chiếc sập lim nâu bóng, uống tách trà nóng, ông Tiến Thịnh gật gù nói với người vợ lẽ:
-  Mợ vào đây, tôi bàn chút việc quan trọng.
-  Thì ông cũng phải để tôi rửa ráy xong xuôi, uống ngụm nước, xỉa cái răng đã chứ?
     Người vợ lẽ của ông đang ở chỗ máy nước ngoài sân, mồm lẩm bẩm rủa thằng con út của người vợ cả đã quá cố:
-  Con với cái, đến hư hỏng. Ăn cơm xong là biến mất, để bát đũa cho dì rửa.
     Ông Tiến Thịnh phụ họa:
-  Ừ, tính nó lêu lổng. Mới buông bát, buông đũa, thoắt một cái đã chạy lêu têu ra phố.
     Rửa ráy xong. Người vợ lẽ của ông bước vào nhà, rút chiếc tăm để trong chiếc lọ nhỏ, đến bên chồng hỏi:
-  Ông định nói cái gì nào?
     Ông Tiến Thịnh rót chén nước đưa cho vợ:
-  Thì mợ cứ ngồi xuống. Tôi thì tôi nghĩ thế này? Cái tính cách làm ăn của nhà ta còn thủ công nghiệp lắm! Chật vật mà chả kiếm được bao nhiêu. Cứ nhìn vợ chồng thằng Tiến Thành thì đủ thấy – Phải làm ăn như chúng nó, chẳng mấy chốc mà "phát"!
     Ông khề khà rồi nói tiếp:
-  Cửa hiệu cắt tóc của tôi thì chỉ kiếm đủ ăn. Còn mợ, chợ búa bán bún bánh lặt vặt... ngày cò con dăm bảy đồng bạc. Con lợn nuôi trong chuồng, mang tiếng bán một lúc vài trăm thật, nhưng chẳng qua cũng chỉ là tiền bỏ ống.
     Người vợ lẽ ngồi im nghe chồng nói. Tính ông thì mụ biết, cái khoản làm ăn là rất "đa tính". Ông Tiến Thịnh vẫn nói tiếp:
-  Ở trên ga bây giờ hàng "miền ngược" về nhiều. Tôi đã thăm dò con mụ Tính ở khối trong? Tối nào mụ ta cũng ra ga: Khi thì mua vài tạ ngô, lúc dăm yến lạc... Mà mụ cũng chỉ là người đứng thầu, sang tay bán lại cho kẻ khác. Một chuyến hàng, mụ ta kiếm bằng vợ chồng mình làm ăn cả tháng.
     Người vợ lẽ cắt ngang:
-  Ông cứ làm như dễ ăn lắm đấy?
-  Thì ai đã bảo là dễ? Có điều, ta cũng phải tìm cách.
-  Cũng phải có mối lái, chứ ông tưởng? Không cẩn thận, công an tóm được... bắt phạt, thì có mà hết cả vốn lẫn lãi.
     Ông Tiến Thịnh gạt đi:
-  Chỉ cần ta khôn khéo một tí! Nghe nói, mụ ta mồi chài từ tay phòng thuế đến công an.
     Ông chỉ đường đi, nước bước cho người vợ lẽ:
-  Mợ chịu khó lân la với con mụ Tính? ngọt nhạt, theo nó vài bữa khi tàu mạn ngược về, để thông thạo mánh lới làm ăn. Xuôi buồm lọt gió, ta sẽ tính cách đi riêng. Khi đó tôi sẽ ra ga cùng với mợ...
     Đặt tách trà xuống, ông dừng lại hỏi vợ:
-  Mợ nghĩ thế nào?
-  Thì để xem xem thế nào đã. Mình xưa nay chỉ quen chạy chợ vặt, chưa bao giờ buôn lớn cả. Tiền của chứ có phải vỏ hến đâu, nhỡ làm sao... thì chết?
     Tối tối... khi cắt tóc về, ăn uống xong xuôi, ông lại ngồi trầm ngâm hàng giờ trên chiếc sập lim ấy. Ông vặn chiếc đĩa hát national cũ của Nhật mới mua lại, nghe ca vài bài vọng cổ. Tư tưởng làm ăn trong đầu ông nở ra như bong bóng xà phòng. Ông nghĩ hết cách này, cách khác, cách nào ông cũng thấy có cái hay, cái dở. Gạt cái này đi, tính đến cái kia. Ông lường trước, ông lo sau. Tuổi ông có phải còn bồng bột nữa đâu? Phải tính cho nó chín chắn! Ông TIến Thịnh nghĩ vậy, xong lại ngồi thở dài. Máu ông hám làm giàu, nhưng lại sợ bị "hố". Nhỡ một cái, thì khốn. Có khi tự an ủi mình: "Thôi già rồi. Chúng nó như con ngựa phi trên đường, ông như con dê đã về gần đến cửa chuồng" – Nghĩ thế, nhưng ông thấy người ta làm ăn "trúng"! Máu lại bốc lên, ông lại phải tính kế?
-  Này, mợ nó này?
-  Ông lại nghĩ ra cái kế sách gì, mà gọi giật thế?                            
     Ông Tiến Thịnh lại trình bầy với người vợ lẽ:
-  Có lẽ ta phải tính chuyện nuôi con lợn lái? Chà, con mẹ Ba Tẽo ở khói chợ nuôi có hai đàn lợn lái, mà làm được cả cái nhà cao ngất.                  
-  Ối giời... ông cứ ngồi mà tính cho nó kỹ đi.                                   
     Mụ nói vậy rồi bỏ vào nhà trong. Xa xa... có tiếng máy bay xoẹt ngang bầu trời, vọng tới. Chắc là phi cơ mig của ta đi tuần tra... chứ,  nếu là "thần sấm" hoặc "con ma" Huê Kỳ - thì còi báo động thành phố đã chẳng réo ầm lên: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Tất cả xuống hầm ngay, đề phòng máy bay Mỹ xâm phạm vào vùng trời Hà Nội".
    Đằng này, máy bay đã đi qua… mà thành phố vẫn im phăng phắc.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2018 16:20:35 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 18.05.2018 17:20:01 (permalink)
 
 
                                    Chương VII.   
 
               NGƯỜI CON GÁI BẢN RA CHIẾN TRƯỜNG
 
                                                        23-
 
     Một chiều cuối xuân 1971. Cuộc họp dân quân bản cuối cùng mà Mỵ tham dự, lúc trở về đi cùng với A Tòng, lòng Mỵ thấy nhẹ nhõm. Họ đi bên nhau im lặng, mỗi người đuổi theo ý nghĩ của riêng mình. Cũng về gần đến nhà Mỵ, A Tòng mới lên tiếng:                 
-  Thế là ngày mai, Mỵ đi thật rồi!
     Tiếng của A Tòng nửa như hỏi, nửa lại như than thở.
-  Ừ, mai.                                      
     Mỵ khẽ trả lời rồi im lặng. A Tòng rủ Mỵ tạt qua rừng thăm cái bẫy? Mỵ gật đầu. A Tòng xốc lại dây đeo khẩu súng dân quân tự vệ K44 trên vai cho khỏi trễ xuống. Người thanh niên bản cố tạo ra vẻ để làm chủ mình, rồi mở đầu câu chuyện. “Mình phải nói thôi!” – A Tòng thầm nghĩ, những tình cảm  từ bao lâu nay anh ta vẫn cất giữ riêng ở trong mình. Mỵ hơi ngước lên nhìn A Tòng, rồi lại cúi xuống thong thả bước. Môi cô khẽ hé một nụ cười: “Tôi biết tỏng đi rồi, anh bạn ạ!” – Cô gái nghĩ vậy, nhưng không nói.
     Cái nhậy cảm của người con gái, cũng thính như cái tai của con nai rừng. Mỵ biết A Tòng muốn nói điều gì? Đi bên cạnh A Tòng nhưng tâm trí Mỵ lại nghĩ đến Hoàng, người chiến sỹ mà cô đã gặp từ ba mùa xuân trước.
     “Anh biết không? Đã qua ba mùa xuân rồi đấy! Em vẫn chờ anh…” – Em không nhận được lá thư nào của anh gửi về cả. Em biết là chiến tranh,  anh lại ở nơi chiến trường đánh giặc, thư từ khó khăn lắm…  hay bị thất lạc nữa, phải không anh?
     Ở bản, có chị chồng cũng vào chiến trường như anh, đã ngót mười năm nay vẫn không có tin về. Anh biết không? Những người ở quê hương, có người thân đi đánh giặc xa – mong tin cháy lòng, cháy ruột. Đêm nhớ, ngày thương…
     Như con nai trên rừng, cứ đêm đêm hú lên gọi bạn. Như con chim trên cành , sáng sáng lại líu ríu gọi đàn. Khi em khỏa tay xuống con suối, em cũng mong anh về. Chiều đi nương, em cũng ngóng anh. Em biết bước chân của anh cũng đi dài như con hoẵng, nhưng sao không cố để viết thư về cho em? Anh viết mười lá, em cũng có thể nhận được một lá chứ!
     Tiếng gọi của A Tòng kéo Mỵ ra khỏi ý nghĩ.
-  Mỵ đang nghĩ gì thế?
     A Tòng nhìn Mỵ dò hỏi, có vẻ ngạc nhiên.
-  À, Mỵ nghĩ… nếu Mỵ chưa đi…                                                            
-  Thì làm sao cơ?                                                                                 
     A Tòng gặng.
-  Thì chúng mình sẽ vẫn tiếp tục tập dân quân với nhau.                                  
-  Tất nhiên! Thế mà A Tòng cứ tưởng…                                                 
-  A Tòng không thích thế sao?                                                         
-  A Tòng thích lắm chứ! Thì có ai yêu cầu Mỵ đi đâu? Đấy là Mỵ nhất quyết xin đi, nên Ban lãnh đạo quân sự đành phải đồng ý.                     
     Họ đã đến chỗ A Tòng đặt bẫy. Một chú sóc nâu, cổ bị thít chặt vào chiếc thòng lọng làm bằng sợi dây rừng dai như cước. Con sóc vẫn còn thoi thóp cựa quậy. Nó thè lè cái lưỡi nhỏ xíu, đỏ hỏn. Càng cựa thì chiếc thòng lọng càng thít chặt lấy cổ nó. Khi A Tòng gỡ được con sóc ra khỏi nút dây, nó chết hẳn. A Tòng đưa con sóc cho Mỵ, nói:
-  Cho Mỵ đấy! Đây là con thú cuối cùng, A Tòng tặng cho Mỵ.                  
-  Sao lại cuối cùng?                                                       
     Mỵ cự lại.
-  Thì, Mỵ đi rồi… biết  đến bao giờ mới trở về, để A Tòng lại bẫy thú cho Mỵ.                                                                                      
     Mỵ giơ con sóc lên thích thú.
-  Mỵ sẽ nói Sóc của A Tòng bẫy được biếu mế, mế sẽ khen A Tòng giỏi.
     Họ tiếp tục ra về. A Tòng vẻ chán nản, miệng lẩm bẩm:
-  Thế là hết!
      Tiếng cười của cô gái bản ròn tan, hòa trong tiếng reo lóc róc của con suối khi họ bước qua. Cơn mưa bất thình lình ập đến. Gió ào qua khu rừng rít lên từng hồi dài. Trời sầm lại. A Tòng kéo tay Mỵ chạy đến trú dưới một cây cọ lớn. Nước trên núi theo khe trũng đổ dồn xuống xối xả. Mưa mỗi lúc một to, Mỵ nép sát vào người bạn.
     Tiếng sấm nổ đập mạnh vào vách đá. Chớp nhoằng lên, xé tan nền trời theo hình chữ "Z". Tiếng nổ chói tai như búa gõ.
-  A Tòng! Tôi sợ quá?
     Mỵ quay lại ôm chặt lấy bạn. Đáng lẽ nên đưa hai tay kéo người bạn gái vào gần mình, thì anh chàng thanh niên bản lại quặt cả hai tay về phía sau. Hai bàn tay của A Tòng bám chặt vào cây cọ, thân cây xù xì như vẩy cóc. Chàng trai như thể đang run lên trong tiếng mưa gió ầm ầm. Mỵ cứ ôm riết lấy A Tòng. Như thể ở nơi đây, trong tấm thân cao lớn của người con trai bản, cô tìm thấy một sự tin cậy. Tai cô chỉ còn nghe thấy tiếng rú của gió, tiếng đổ ầm ầm của thác nước.
     Những giọt nước mưa qua môi người con gái chảy xuống, thấm lên ngực A Tòng... nóng hổi. Cả mùi hương trên tóc Mỵ nữa? Cái mùi hương, A Tòng chưa từng thấy trong tất cả các loại hoa rừng. Đã mấy lần A Tòng định rời tay ra khỏi thân cây cọ để ôm lấy Mỵ, nhưng rồi anh không dám, vội rụt lại.
     Tiếng mưa đã ngớt dần, lo âu cũng bớt đi. Lúc ấy, cái va chạm vô tư của người con gái, đã nhen lên trong chàng những cảm giác mạnh mẽ hơn. Bàn tay A Tòng run run, mới chỉ dám mon men bên ngoài lần áo mỏng. Cô gái yên lặng. Cũng chỉ cần từng ý thôi, đã đủ thiêu cháy cả trái tim lẫn tâm hồn anh thanh thanh niên bản. Cũng chỉ từng ý thôi, cái cảm giác háo hức đã tác động, truyền nhanh trong cơ thể người con gái như một dòng điện.
     Giây phút ấy, lòng say sưa của người đàn bà chỉ bị thuần hóa trong câm lặng. Nếu coi đó như một tín ngưỡng của họ, thì A Tòng đã xúc phạm phải tín ngưỡng đó. Thực tại đang bị nghiền vụn, như khi ta nghiền vụn một mẩu bánh vứt nó lên không trung – Ai nói, thể rắn luôn luôn là một khối đặc? khi những cảm giác chứa trong thể rắn đó, kích thích giữa cơn say mê, thèm thuồng. Nó đã chẳng biến "chất rắn" kia thành hư không đó sao !? Cũng giống như ở một nhiệt độ cao cần thiết, chất rắn kia biến thành chất lỏng chảy ra thành nước, và hơi nước bay lên tầng không khí.
     Cô gái khẽ gỡ đôi bàn tay có phần hơi mạnh bạo của người con trai bản. Đó chính là sự tỉnh táo duy nhất của cô, trong cái thực tại đã bị xé nhỏ như mẩu bánh nọ. Nhưng cánh tay của người con trai không muốn rời ra, anh xiết mạnh hơn.
     Trong lúc xúc động, A Tòng đã gọi tên cô! Hình như anh đang muốn tìm... để hôn lên đôi môi người con gái? Tiếng gọi của A Tòng cũng nhỏ thôi, nhưng trong khung cảnh ấy, Mỵ lại thấy nó chói tai như tiếng vải xé... quất vào mặt người con gái. Vô tình nó lại trở thành một cái gì tựa sự thô bạo. Giống như một kẻ chơi trống đồng, lại lấy lưỡi dao thay cho dùi trống. Mặt chiếc trống đang căng, toác phựt ra.
     Tiếng gọi của A Tòng làm cho cô gái ghê hãi? Mỵ vùng dậy, gỡ tay A Tòng để vượt ra. A Tòng níu lại... Người con gái giang thẳng tay tát vào mặt A Tòng, bước ra ngoài. Đôi chân cô vẫn còn run. Trống ngực cô đập mạnh, dư âm chưa kịp tan đi.
     Giây lát, Mỵ trấn tĩnh lại. Cô yên lặng đi về phía bản. A Tòng xốc lại khẩu súng trên vai cho khỏi trễ. Anh cúi xuống nhặt con sóc bị vứt dưới gốc cọ, rồi lững thững bước theo Mỵ.
     Gần đến nhà, Mỵ quay lại nhìn A Tòng, môi cô khẽ nở một nụ cười làm lành.
 -  Chào A Tòng nhé! Mai Mỵ đi, A Tòng ở lại lãnh đạo đội dân quân của bản, thật giỏi nghe.
     A Tòng nói như có vẻ muốn xin lỗi:
-  Mai A Tòng sẽ còn tới để tiễn Mỵ lên đường mà.
     Chàng trai bản vẫn nhìn cô bạn gái anh hết lòng thương yêu, với cái nhìn thật trìu mến. Anh giơ cao con sóc lên nói:
-  Của Mỵ này...
     Mỵ chạy lại cầm lấy con sóc trên tay A Tòng, chạy nhanh vào trong sân. Cô trèo lên chiếc thang gỗ, rồi khuất vào trong ngôi nhà sàn của mế con cô.
     A Tòng còn đứng ngẩn theo giấy lát mới quay đầu lại, bước đi lững thững trên con đường bản màu đất đỏ, phủ đầy hoa mận trắng.
 
                                                   *
 
     Bà mế vẫn ngồi bên bếp lửa giữa sàn nhà, chờ con về. Cái rét cuối mùa xuân, gió qua cửa sổ tạt vào làm cho mế khẽ rùng mình. Bóng mế im phắc, tựa như bà đã ngồi thế này hàng thế kỉ, ngồi trọn đời mế, đến cả đời con mế. Sự sống của mế giờ đây, như đốm lửa lay lắt trước cơn gió. Nhưng mế không nghĩ về chuyện đó? cái chết của người già cũng giống như một chuyến đi xa, mế không sợ.
     Thằng con trai cả mế, anh trai của cái Mỵ cũng đã trở về. Dù nó có bị một chút thương tật, thân thể không còn được lành lặn như trước, nhưng như thế vẫn còn may mắn chán. Khối thanh niên bản đi như nó bị chết, có về được đâu. Một số gia đình còn nhận được giấy báo tử, mấy người khác thì bặt vô tăm tích, chẳng biết sống chết ra sao? Con mế cũng chỉ mới mất một cánh tay trái. Còn mang được tấm thân trở về với mế, với bản đã là tốt phúc! Rồi nó sẽ lấy vợ và sinh con. Như thế gia đình mế cũng đã có phần đóng góp cho vận mệnh của nước non. Mế có quyền kiêu hãnh của một người mẹ, tự hào với dân bản... lắm chứ! Mế chỉ thương cái Mỵ...
     Mế biết con gái mế đã yêu thương anh bộ đội ấy! Nghe đâu, nó với anh ấy cũng đã có hẹn hò với nhau? Thế mà đã hơn ba năm nay, qua ba mùa xuân... Nó chẳng nhận được lá thư nào của anh ấy gửi về. Nghĩ dại, ngộ nhỡ... Mế cố xua tan ý nghĩ khủng khiếp ấy đi.
     Nay con gái mế lại quyết định xin nhập ngũ để vào chiến trường? Giá nó là con trai như anh nó lại khác, đằng này nó là con gái. Mặc dù mế biết: khối cô gái cũng đã tòng quân, ra tiền tuyến hẳn hoi. Thấy ý con đã quyết, mế chẳng muốn can ngăn. Mế biết – ngoài việc tình nguyện ra đi tham gia chiến đấu, nó còn có ý tưởng vào chiến trường... để tìm anh ấy? Nó yêu anh bộ đội lắm! mà người con gái bản đã yêu, thì chẳng có núi non, khó khăn nào ngăn trở được. Thế là, mai con gái mế đã lên đường...
     Cứ thế, bao nhiêu ý nghĩ quay lộn trong đầu bà mế. Mỵ đã đưa con sóc ra con suối cạnh nhà làm lông sạch sẽ, mang về để mế nướng trên bếp than hồng. Cô ngồi xuống bên cạnh, vừa đưa cái xiên có con sóc cho mế, vừa hỏi:
-  Anh trai con lên trại thương binh làm thủ tục, vẫn chưa về hả mế?
-  Phải làm nhiều giấy tờ. Giấy chứng nhận thương tật, lại cả giấy xuất ngũ... chắc phải tối muộn, anh con mới về được.
     Bà mế và cô con gái lại ngồi im lặng. Một lát sau, Mỵ mới khẽ khàng nói:
-  Con đi, chỉ thương mế ở nhà.
-  Ôi dào, có anh con về rồi, lại còn bà con dân bản nữa. Đừng lo cho mế!
      Bà mế gạt đi: "Đi đi con! Mế già rồi, nếu còn trẻ trung như các con thì mế cũng đi mà.".
     Bà mế lại ngồi trầm ngâm, giọng mế nhỏ nhẹ như dỗ dành con gái:
-  Có đi thì may ra gặp được anh ấy, con ạ!
     Mỵ chỉ đáp "dạ" một tiếng, rồi ngồi im. Cô vẫn đăm đăm nhìn mế, mắt rơm rớm lệ. Con sóc đã chín, mùi thịt nướng tỏa ra thơm phức. Mế đưa cho Mỵ treo nó lên chiếc móc ở phía trên đống lửa. Mỵ bảo mế:
-  Con treo ở đây, lúc nào mế muốn ăn thì lấy mà ăn.
-  Ừ, con cứ để đấy! Đợi anh con tý nữa về, cả nhà ăn cơm luôn thể.
     Đôi mắt bà mế lại đăm đăm nhìn sâu vào trong đống lửa. Mỵ tựa người vào cây cột giữa nhà, nhìn ra khu vườn qua những song cửa sổ. Cô lại nghĩ đến Hoàng...
     Thế là ngày mai cô đã đi! Vào trong đó, cô sẽ dò hỏi để tìm anh. Cô nhìn ra phía vườn đào, kỉ niệm của ngày đó tràn về... Lòng Mỵ lại xốn xang. Tấm thân của người con gái là một báu vật, cô đã trao báu vật đó cho anh. Những con gió từ ngoài cửa sổ thổi vào, bếp than hồng đỏ bừng lên.
-  Cứ yên tâm mà đi, nghe con!
     Mế nói giọng điềm tĩnh: "Con gái bây giờ cũng phải giỏi như con trai!" - Nói vậy nhưng trên khóe mắt mế, hai giọt nước mắt từ từ rôi xuống... những cái khe nhăn nheo ở má. Nó cũng lặng lẽ như cái bóng của bà.
    Mỵ nói với mế, đi ra ngoài dạo một lát. Cô bước xuống những bậc thang gỗ rồi ra phía vườn. Gió chiều tối đã se lạnh, cô thấy trong người dễ chịu hơn. Cái tuổi xuân tràn ngập bao nhiêu kỉ niệm. Nó tươi mát như những bông hoa đang mời đón, trong sáng và trinh bạch.
     “Hỡi rừng sâu thăm thẳm! Hỡi tiếng kêu của muôn loài cầm thú! Cả thiên nhiên hung vĩ, hãy bao dung lấy tôi! Tôi đi trong các người!” – Những tiếng ấy vọng ra từ trong Mỵ. Lòng Mỵ vẫn triền miên nhớ về từ ba năm trước. Ôi, cái tuổi mười tám, đôi mươi của tôi! Những kỉ niệm tha thiết của đời tôi! Tôi sống như thế đã đủ rồi ư? Không, đó mới chỉ là bắt đầu của cái tuổi bước vào đời. Chẳng lẽ những ngày sống sắp tới của tôi, sẽ chỉ giống như ngọn cỏ héo úa? Có thể nào như thế! Em khao khát được sống lại những giây phút bên anh: Một phần trăm thôi, hay một phần nghìn cũng được. Anh sẽ nghĩ, em chỉ lả một con bé ích kỉ phải không? Đúng, em ích kỉ!... và con bé ích kỉ ấy đã trao tất cả trái tim, tâm hồn cùng thân xác nó cho anh. Không mặc cả… Như con sói trên rừng, anh về bản làng bắt em đi! Em đã theo anh, em sẽ theo anh suốt đời.
     Vườn đào ôi! Cây đào yêu quí của tôi ơi! Tôi ao ước cái vô tư của đào… Cứ thế, Mỵ đi sâu vào trong vườn đào lúc nào không biết. Những kỉ niểm bổi hổi của những buổi yêu ban đầu, với anh ở vườn đào này… sống dậy trong lòng cô.
     Ngày ấy, đào còn thấp hơn tôi nữa đấy! Giờ thì đảo đã cao hơn tôi cả cái đầu. Bàn tay người con gái bản cứ mân mê trên thân cây đào. Trời đã tối từ lúc nào. Bóng trăng đầu tháng mọc sớm, đã lên trên đỉnh núi. Có ngôi sao đã tách riêng bạn bè, để đưa bước chân Mỵ đến với gốc đào này. Chính là gốc đào lần đầu tiên, Mỵ đã trao nụ hôn cho anh. Cả tấm thân trinh trắng như sương tuyết của Mỵ, cũng suồng sã với anh ở đây. Giờ như vẫn cháy râm ran trong cơ thể Mỵ… Mỵ áp má vào thân đào, cô nghe thấy cả tiếng của dòng nhựa trong cây đang chảy.
     Bỗng Mỵ nghe thấy như có tiếng ai đang gọi? Đúng rồi, đúng là có tiếng người. Ai nhỉ! Không phải là tiếng của anh? Cái âm thanh trong giọng nói và hơi thở của anh, Mỵ vẫn nhớ. Nhưng ai đi tìm Mỵ vào buổi chiều tối này chứ? Một cảm giác ớn lạnh truyền nhanh trong cô gái. Cô muốn quay lại chạy cho nhanh về nhà, nhưng chân cô như bị mắc cạn. Cô muốn hét lên, nhưng lưỡi cô ríu lại. Cái bóng đen… nó đang tiến lại phía cô. Cánh tay cô gái nắm chặt lấy gốc đào, lùi lại. Khi cái bóng đen cất tiếng gọi, sợ quá cô rú lên!
-  Tôi đây mà! A Tòng đây mà, Mỵ!
-  A Tòng à? Đúng là A Tòng rồi!
     Cơn giận ban chiều đã nguôi đi, giờ lại bùng lên.  Mỵ nói như quát nhẹ:
-  Anh đã về rồi, sao lại còn đến đây?
-  Tôi đã theo Mỵ đến đây từ lúc chiều tối. Tôi đứng ở gần chỗ cầu thang, nhưng không dám vào nhà.                                                                    
     A Tòng phân trần:
-  Tôi đã gọi Mỵ hai lần, nhưng Mỵ vẫn không nghe thấy.                                 
     Mỵ chẳng nói chẳng rằng, quay gót đi nhanh ra khỏi vườn đào để chạy về nhà. A Tòng hớt hải đuổi theo. Anh nói như không ra hơi:
-  Mỵ! Mai Mỵ đã đi rồi mà. A Tòng sẽ không được gặp Mỵ nữa. A Tòng muốn gặp để xin lỗi Mỵ.                                                              
     Mỵ dừng lại. Cô im lặng đứng nhìn tấm thân cao lớn của người con trai bản, vẫn còn đang nài nỉ:
-  Mai Mỵ đi rồi, Mỵ đừng giận A Tòng nữa. Được không?                            
     Cô gái bản lại nhìn chàng trai với đôi mắt thật hiền hòa. Có vẻ cô đã bỏ qua những sự giận dỗi của mình. Cô nói:
-  Ừ, Mỵ không giận A Tòng nữa!                                                                 
     A Tòng thấy sướng rơn:
-  Có thế chứ! Có thế, Mỵ mới là người bạn gái tốt của A Tòng chứ!    
     Anh chàng vẫn phân vân:
-  Mỵ có tha lỗi cho A Tòng thật không?                                                         
-  Có, tha thật.                                                                                    
     Cô gái nhoẻn cười làm lành.
-  Thật chứ! Mỵ không giận A Tòng thật chứ!                                               
-  Thật.                                                                                                 
-  Thế thì vui quá. Nếu Mỵ còn giận A Tòng? Mỵ đi rồi, A Tòng ở lại bản sẽ buồn lắm.                                                                                         
-  A Tòng đừng buồn nữa. Mỵ không giận A Tòng nữa đâu!                         
-  Mỵ tốt quá!                                                                       
-  A Tòng về đi, trời khuya đến nơi rồi.                                                                
-  A Tòng muốn…                                                                               
     Cái nhìn của A Tòng như khẩn thiết.
-  Thôi, A Tòng đừng nhắc lại chuyện ấy nữa! Nếu không, Mỵ sẽ lại giận A Tòng cho mà xem?                                                                                    
     Người con trai ngồi thụp xuống, hai tay quàng lấy chân cô gái, giọng nghe rền rã:
-  Mỵ! Tôi… tôi yêu Mỵ!                                                               
     Cánh tay của A Tòng vô tình làm tốc bay cái váy hoa của cô gái Mường. Hoảng hốt, Mỵ giật chân ra khỏi A Tòng, chạy về nhà. Bóng A Tòng chạy theo chới với. Đến chân cầu thang, Mỵ quay đầu nói vọng lại:
-  Mai, Mỵ đi nhé! Mỵ không giận A Tòng nữa đâu.                     
     Nói rồi, cô gái bước nhanh lên sàn. A Tòng nói theo:
-  Mai, tôi sẽ đến sớm để tiễn Mỵ đi cơ mà…                                          
      Anh chàng thẫn thờ, nhìn cô gái đã khuất vào trong nhà bản. Miệng chàng vẫn còn lẩm bẩm: “Thế là hết!”.
     Một lát, chàng trai chậm chạp bước ra khỏi vườn đào đi vào con đường bản. Mùa này, hoa nở nhiều thơm phức.
 
 
Nhatho_PhamNgocThai 18.05.2018 17:22:10 (permalink)
 
 
                                                      24- 
 
     Vào giữa mùa mưa năm 1971. Kể từ sau cuộc Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân ấy, mùa mưa này là mùa thứ tư. Tình hình chiến trường miền Nam nói chung và mặt trận Tây Nguyên nói riêng, vẫn vô cùng khốc liệt.
     Trên tuyến vận tải quân sự chiến lược của QGP là “Con đường mòn Hồ Chí Minh” qua núi rừng Trường Sơn. Trong suốt thời gian chiến tranh - Đoàn 559 (một binh chủng vận tải thuộc sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ tư lệnh quân đội Bắc Việt), được giao trọng trách liên kết với hậu phương lớn ở miền Bắc, đảm nhận sự vận chuyển - phục vụ cho toàn chiến trường miền Nam.
     Thí dụ: Chỉ tính riêng trong năm 1967, chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân 1968 – Đoàn 559 đã vận chuyển vào chiến trường miền Nam, theo Con Đường Mòn Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên khoảng 7 vạn tấn lương thực, 14 vạn người bổ xung cho quân chủ lực: gồm 2 sư đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn các binh chủng khác và đặc công.
     Cuộc Tổng công kích tuy đã bị dập tắt như âm hưởng của nó rất lớn. Đến mức, sau đó Tổng thống Mỹ Johnson buộc lòng phải rút lui, không dám ra tranh cử nhiệm kỳ II. Thống tướng William Westmoreland bị cách chức tư lệnh trên chiến trường miền Nam.
     Nói về địa bàn chiến trường Tây Nguyên: núi non trùng điệp – Cách thị xã Kon Tum trên 40km về phía bắc là trung tâm thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh, gần như là một thung lũng lớn, nằm án ngữ ngã ba đường 14 và 18. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã xây dựng tại đây một cụm căn cứ tương đối lớn: với 2 sân bay và nhiều kho tàng đạn dược. Đó là một căn cứ xuất phát cho các cuộc hành quân phản kích QGP, ra ba vùng biên giới Việt – Miên – Lào. Phía bắc là vùng căn cứ của quân cách mạng – Tỉnh ủy Kon Tum của QGP cũng nằm ở đây.
     Các cao điểm xung quanh thung lũng Đắc Tô –Tân Cảnh như: Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Dơ Lang, 724, 823, 882, 875, 1030, 1424… đều đã trở thành những chiến trường đẫm đầy máu – cả lính Bắc Việt, Mỹ và QLVNCH.  Đây là một địa hình có các điểm cao trên dưới 1.000m, để khống chế ra bốn hướng – Nếu quân chủ lực Bắc Việt muốn tiến đánh hoặc thọc sâu xuống mạn dưới đồng bằng, đều phải trải qua nhiều trận đánh ác liệt ở đây.
     Để chuẩn bị cho những trận đánh của chiến dịch 1972 sắp tới – Trong vùng căn cứ địa của quân cách mạng tại rừng núi Kon Tum, đang khẩn trương làm công tác vận chuyển lương thực và vũ khí đạn dược về hậu cứ.
     Những chuyện được ghi lại dưới đây, cũng ở trên con đường trục của QGP trong địa phận tỉnh Kon Tum ấy. Ngày đêm không ngớt các đơn vị hành quân và vận tải đi qua.
      Vào một ngày trời nắng đẹp, cũng đã gần trưa. Dọc theo con đường giao liên lên một dốc núi cao, gọi là “Dốc cổng trời”. Một tốp chiến sĩ, anh nào cũng gùi nặng trĩu vai, mồ hôi nhễ nhại. Họ đi gùi gạo tại kho Q7 về đơn vị.
     Đến bên một thân cây to đã bị đổ nằm dọc theo con đường mòn, họ dừng lại ngồi nghỉ giải lao tại đó. Một chiến sĩ vừa đến, đặt “bịch” một cái… cả gùi gạo xuống thân cây, trút hơi thở dài nhẹ nhõm:
-  Chà, quỉ tha ma bắt cái gùi gạo này! Nặng, nặng là…                                
     Anh ta lấy tay mở nắp một chiếc bi-đông đựng nước của Mỹ bằng i-nốc sáng trắng đeo bên hông, ngửa cổ uống ừng ực. Nói với một chiến sĩ khác cùng đến:
-  35 kí đấy! Tớ tê cả hai tay.                                                                                         
     Người đồng đội mới tới thì bảo:
-  Hai cánh tay mình cứ như không thể cử động được nữa.                             
     Đấy là những chiến sĩ đi gùi gạo của trung đoàn pháo 40 trực thuộc mặt trận B3. Họ đang đến từng tốp, từng tốp ùn lên trên đỉnh dốc. Mỗi tốp ngồi chụm lại một chỗ, rải rác khắp bãi nghỉ. Chỗ này, một nhóm đang xúm quanh chiếc điếu cầy của một anh nào đó mang theo bên người, người này chưa hút xong, người khác đã chờ sẵn để đón lấy ống điếu. Lõ điếu không kịp nghỉ, tiếng rít thuốc long lên sòng sọc. Chỗ khác, mấy anh chàng ngả đầu lên gùi gạo, chân duỗi dài ra đất, phì phèo điếu thuốc lá dân tộc. Điếu thuốc được cuốn sâu kèn to như ngón tay cái. Anh ta rít từng hơi, mắt lim dim khoái trá. Mười lăm phút nghỉ sau một tiếng đường gùi, đỗi với họ là một lạc thú êm ái.
     Ở một tốp lính. Cậu Nhượng nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, xoa xoa lên đôi vai hằn đỏ như dấu son, nói:
-  Rát thấy mồ.
     Hoàng Phức có nước da trắng như da con gái, tiến lại gần chỗ Nhượng trêu:
-  Ông giặc lái nhà nòi chỉ quen lái jin-ba-cầu, không quen gùi gạo mà? Này, không có những chuyến đi gùi gạo đột xuất như thế này, mấy tay nhà lái các ông, làm sao thấu được cảnh tình lính pháo thủ của bọn này.
     Nhượng làu bàu chửi:
-  Cũng tại cái thằng Xi-ha-núc! Nó mà không cắt cửa khẩu ở Miên, tớ chỉ ghé đít cái Jin-ba-cầu vào cầu cảng, cả trung đoàn các cậu ăn mệt.
     Hồi đó Xi-ha-núc cắt không cho ngoài Bắc chuyển lương thực và súng đạn qua đường Căm Pu Chia, cho nên các đơn vị ở gần biên giới phải về tận các kho trong hậu cứ Kon Tum để vận chuyển gạo, đạn và các thiết bị quân trang, quân dụng. Mỗi chuyến vừa đi và về phải mất cả tuần.
     Một người lính đã chững tuổi, khuôn mặt võ vàng vì sốt rét, có vẻ là lính binh trạm. Anh ta cởi trần trùng trục, để lộ tấm thân với những bắp cơ nổi lên cuồn cuộn... góp chuyện:
-  Thấm gì. So với hồi năm 1969, thì các cậu còn sướng nhiều. Khi đó mới cắt cửa khẩu Miên, nương rẫy thì chưa phát được như bây giờ, sắn cũng không có mà ăn. Lúc ấy, ở mặt trận Tây Nguyên này: tiêu chuẩn mỗi chiến sĩ một tháng, chỉ được 4kg rưỡi gạo thôi.
     Ngưng giấy lát để rít cho xong điếu thuốc lào, người lính binh trạm nói tiếp:
-  Đồ vật, kỉ niệm có thứ gì... cũng đem vào bản đổi lấy sắn, ngô mà ăn. Một chiếc bật lửa Trung Quốc mới khự, chỉ đổi được một củ sắn to bằng bắp đùi.
     Từ dưới chân dốc đi lên một đoàn cán bộ, có tới hơn chục người. Người nào cũng đeo súng ngắn. Đi đầu là một người đàn ông trạc cỡ năm mươi tuổi, dáng người to lớn. Ông chống một chiếc gậy bằng trúc vàng óng, đầu bịt vỏ đạn đồng. Họ dừng lại trên bãi nghỉ. Ông cán bộ già đó hỏi mấy chiến sĩ trong tốp đi gùi gạo, ngồi ở gần đấy:
-  Mệt không các đồng chí?                                                                    
-  Cũng vừa vừa thôi ạ!  
     Một anh lính nhanh nhẩu mồm miệng trả lời. Người cán bộ già lấy chiếc khăn mặt bông, buộc ở dây đeo ba lô ra lau mặt rồi nói tiếp:
-  Tớ chịu không làm sao theo được đám thanh niên. Hồi tham gia chiến dịch Điện Biên, tớ có thể vác cả cái bàn đế cối 82 chạy hàng tiếng.
     Ông lấy ra một túi giấy bóng đựng đầy thuốc lá sợi vàng ươm, loại thuốc Miên thơm, vê một điếu để hút rồi bảo mấy anh chiến sĩ ngồi gần:
-  Các đồng chí hút thuốc đi!
-  Cám ơn thủ trưởng. Thuốc lá của thủ trưởng thơm quá!
     Anh chiến sĩ nhúm một ít thuốc, tãi mỏng đều vào miếng giấy cuốn thuốc lá, cuộn lại rồi đưa lên mép vê tròn thành một điếu loa kèn, châm lửa hút. Mấy tay khác nháy nhau ngồi xích lại gần người cán bộ già, xin thuốc hút. Ông thủ trưởng phúc hậu chỉ mỉm cười gật đầu. Họ chưa biết tên và cũng chẳng cần biết ông đã làm tới cái cấp lãnh đạo gì? vui vẻ ngồi hút thuốc. Mỗi anh vê một điếu, nhoáng cái gói thuốc đã vơi đi quá nửa. Người cán bộ già vẫn niềm nở mời anh em cứ tự nhiên.
     Có hai cô gái mặc bộ quần áo bà-ba-đen cùng đi với mấy anh chiến sĩ nữa, cũng đang lên đỉnh dốc. Cô gái có khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, tóc cắt ngắn theo kiểu nữ sinh, quay lại nói với cô gái đi sau:
-  Sa thua tôi rồi nhé!
     Một anh chiến sĩ cùng đoàn nói chêm vào:
-  Về tài leo dốc thì cô Sa thua cô Mỵ đứt đuôi rồi.
     Người con gái có tên gọi là "Sa" với khuôn mặt bầu bĩnh, tóc tết đuôi sam, hai tay chống lên đùi vẻ mệt mỏi... vừa thở vừa nói:
-  Tớ chịu thua cậu rồi.
     Mỵ kéo Sa ra tìm một chỗ để nghỉ chân. Mấy anh lính trong tốp đi gùi gạo nhìn về phía hai cô gái, nháy mắt. Họ thì thào bình phẩm với nhau:
-  Hai em giải phóng trông "ngon" ghê!
     Người nói - đó là một anh chàng xương mặt, nổi đầy những mụn trứng cá đỏ hỏn. Một anh khác họa theo:
-  Cô em có khuôn mặt bầu bầu kia, nghe giọng nói có lẽ là gái Huế? Còn em trông xinh xinh, trắng trẻo, có vẻ dáng gái miền Bắc.
-  Ừ, em gái trông xinh thật! Nhưng có vẻ như là một bông hoa dại miền núi?
     Anh chàng vừa nói, tỏ ra mình là một trang nam nhi khá tinh tường trong việc xét đoán. Rồi như một vòng dây cua-roa quay liên tục, những câu chuyện mời chào, hỏi han với hai cô gái chiến sĩ xinh xẻo cứ râm ran khắp bãi nghỉ.
-  Mấy anh gùi gạo về đâu đấy ạ?
     Cô gái có tên là Sa bạo dạn hơn, lên tiếng hỏi mấy anh ngồi gần.
-  Chúng tôi về T3... còn hai cô?
     "T3" là tên gọi một khu hậu cứ của QGP ở mặt trận Kon Tum.
-  Chúng em đến "Điểm 5" để lĩnh thuốc quân y.
     "Điểm 5" là nơi phân phát những trang bị hậu cần thuộc Bộ tư lệnh B3. Một anh ngồi nghỉ ở mãi xa, hỏi với tới chỗ hai cô gái:
-  Hai cô ở đơn vị nào đấy?
-  Chúng em ở đơn vị thuộc Tổng cục hậu cần B3, mấy anh ạ!
-  Chà, lính trực thuộc Bộ tư lệnh hả?
     Mỵ cười. Sa quay sang bắt chuyện:
-  Thế còn mấy anh ở đơn vị nào?
-  Các anh ở trung đoàn 40 – lính pháo đấy, mấy em ạ!
-  Thảm nào... nhìn mấy anh, chúng em biết ngay không phải lính bộ binh.
     Sa nói vậy.
-  Thế, chúng tôi khác với lính bộ binh ở điểm nào?
=  Lính pháo các anh đi một bước là lên xe xuống xe, nên gùi gạo không thạo bằng mấy anh bộ binh.
-  Sao cô biết?
-  Cứ nhìn gùi gạo của mấy anh là bọn em biết! Gùi gạo của các anh lính  bộ binh, thường nặng và to hơn.
-  Pháo với chả mã... Ở cái đất Tây Nguyên này, nghĩ mà ớn đến tận xương sống.
     Anh chàng vừa nói thở dài:
-  Vừa rồi chúng tôi đã phải tháo cả ô tô và pháo ra mà khiêng, mà kéo đấy? Cái giống xe cộ, nó chở mình thì dễ chứ... đến lúc mình phải cõng nó, cực hơn vợ đau đẻ.
      Các chiến sĩ nghe anh chàng tán dóc thế, liền cười ồ. Một anh trêu:
-  Người yêu còn chưa có mảnh tình vắt vai. Vợ ở đâu ra, mà cũng đòi biết đau đẻ là thế nào?
-  Chuyện, cậu này? Đấy là người ta ví thế!
-  Thế hai cô quê ở đâu?
-  Dạ, chúng em ở xa lắm!
     Sa nói bằng cái giọng Huế âm ấm, dễ nghe:
-  Em tên gọi là "Sa", quê tận Huế. Còn cô này là Mỵ, thì quê ở Hòa Bình.
-  Gái Hòa Bình hả? Đồng hương của cậu đấy, Dơng ơi!
     Một anh nói vọng tới chỗ của người chiến sĩ ngồi tận cuối bãi. Anh chiến sĩ có tên gọi là Dơng có vẻ hơi dút dát, lúc này mới đi gần đến đánh bạo hỏi:
-  Trên Hòa Bình, cô Mỵ ở vùng nào vậy?
-  Dạ em ở ngoài Vụ Bản.
-  Hai cô chắc mới từ Bắc vào?
-  Cũng được mấy tháng rồi ạ!
     Mỵ đánh bạo hỏi anh chiến sĩ đồng hương với mình:
-  Anh Dơng có quen ai tên gọi là "Hoàng" không?
     Dơng ngớ người, có vẻ ngẫm nghĩ:
-  Trong các đơn vị ở gần, tôi không thấy có ai tên gọi là "Hoàng".
     Một thoáng buồn trên nét mặt cô gái Mường. Cô nói:
-  Ấy là em cứ hỏi thế, may ra...
-  Thế, anh Hoàng của cô vào đây đã lâu chưa?
-  Cũng được hơn ba năm, gần bốn năm - rồi ạ!
-  Chắc anh Hoàng cũng là người tỉnh Hòa Bình?
-  Không ạ, anh ấy người miền xuôi.
-  Anh Hoàng của cô Mỵ quê ở tỉnh nào?
     Một thoáng ửng hồng trên khuôn mặt Mỵ. Sa trả lời thay cho bạn:
-  Anh ấy là người Hà Nội, mấy anh ạ!
-  Người yêu à...
     Mỵ ấp úng, lắp bắp trong miệng:
-  Dạ, không. Hồi trước, anh ấy có đóng quân ở bản của em.
-  Lính Hà Nội là tán gái giỏi lắm!
     Một anh chàng hạ một câu phán xét, làm cho Mỵ càng thêm đỏ mặt.
-  Vào đây, tìm người như thể tìm chim. Biết đâu mà tìm?
-  Vâng, em cũng nghĩ thế! Nhưng cứ hỏi mấy anh, may ra...
      Bỗng một anh chàng ngồi ở xa, hắng giọng nói dõng tới:
-  Ở đơn vị một người bạn của tôi, cũng có một cậu tên là Hoàng. Anh em vẫn gọi là "Hoàng rỗ". Hồi trước cậu ấy cũng đóng quân ở Hòa Bình.
      Mỵ cuống quít thanh minh:
-  Dạ, không phải đâu ạ. Anh Hoàng của em không "rỗ".
     Một chiến sĩ khác nói gạt đi:
-  Cậu này chỉ nói vớ vẩn. Hoàng nhà mình quê ở tận Bắc Thái, còn "Hoàng" của người ta là người Hà Nội cơ mà.
     Một chiến sĩ ngồi sát mé bên kia, nói với sang:
-  Có phải Hoàng người Hà Nội cao lớn, trông kẻng trai phải không? Nghe đâu, trước đây là lính của trung đoàn 209, vào đây đánh trận Chư Tan Kra rồi bị thương. Lúc ra viện, được chuyển về trung đoàn pháo E40.
     Mỵ cuống quít:
-  Dạ, có lẽ đúng đấy ạ! Trước khi vào Nam, anh ấy cũng ở trung đoàn 209. Thế, anh ấy bị thương có nặng không anh?                             
-  Khỏi rồi. Về chiến đấu rồi.
     Người chiến sĩ vừa thông báo cho Mỵ biết cái "tin quan trọng", nói tiếp:
-  Lần này, anh Hoàng không đi gùi gạo mà ở nhà làm nương. Tôi có một người bạn ở cùng đơn vị pháo với anh Hoàng, nên cũng sang chơi luôn.
     Mỵ ngẫm nghĩ giấy lát, mạnh bạo hỏi:
-  Từ Điểm 5 vào chỗ đơn vị của anh Hoàng có xa không ạ?
     Người chiến sĩ bước tới bên Mỵ, lấy một cây que nhỏ vạch ra đất:
-  Thế này nhé: Đến Điểm 5, cô hỏi đường về Binh Trạm Bắc. Từ Binh Trạm Bắc tới ngã ba đầu tiên rẽ trái rồi hỏi đường vào trung đoàn pháo 40, tiểu đoàn 30, đại đội 6... là tới.
     Anh ta vứt cái que ra xa, ngẩng nhìn Mỵ nói tiếp:
-  Từ Điểm 5 đi vào chỗ anh Hoàng, cũng phải mất 1 tiếng rưỡi đấy!
     Những tốp đi gùi gạo đã giục nhau tiếp tục lên đường. Người chiến sĩ vừa mách đường cho Mỵ cũng đã khoác gùi gạo lên vai, dặn lại:
-  Nếu đến thăm anh Hoàng, có điều kiện mời cô Mỵ, cô Sa vào chỗ chúng tôi chơi. Tôi tên là Hòa, đại đội 11 pháo mặt đất.  
-  Dạ, cám ơn anh ạ!
     Mỵ nhìn theo người chiến sĩ nọ, ánh mắt cô thầm biết ơn anh. Cô nói:
-  Bọn em dừng lại đây một lát, chờ mấy anh tạt vào kho Q7 lấy thêm ít vật dụng. Chúng em sẽ đi sau.
     Sa ghé vào tai bạn tủm tỉm cười:
-  Chuyến này gặp được “người năm ấy”... là phải khao một bánh lương khô đấy nhé!
     Mỵ khẽ ẩy bạn, gật đầu. Lúc này, cô mới cảm thấy hơi mệt. Mỵ ngả đầu vào Sa, nhìn lên những tia nắng mặt trời dọi qua các kẽ lá. Những chùm ánh sáng li ti chiếu xuống đất như một thảm hoa. Cô lim dim mắt, trong lòng dấy lên một niềm vui khôn tả.
 
 
 
 
Nhatho_PhamNgocThai 17.06.2018 15:22:57 (permalink)
                     TRÁI TIM TAN VỠ


 
Em có biết, trái tim anh tan vỡ!
Chẳng phải do em, chẳng lẽ lại do mình?
Chuyện đã qua rồi, sau mấy mươi năm
Tóc lạt bóng thì tình càng sống lại.

Ôi, tình yêu cái thời còn non dại
Lấp lánh trăng sao, tưới mát tựa mưa rào
Lòng ngơ ngẩn như ngàn vạn mũi dao
Chém vào tim cho máu trào, ngực xé.

Làn môi em ngọt thơm đến thế,
Làn môi người sinh nữ đáng yêu ơi!
Em dịu dàng thơ mộng giữa mây trời
Đã bao lần cùng anh say đắm nhụy.

Trái tim anh nay đã thành hoang phế
Mơ em về sống lại những khát khao
Cho linh hồn đang chết lại tươi màu
Anh ôm ấp cả dáng hình thưở ấy…
*
Một thời trai yêu nhiều biết mấy
Đậu lại còn đôi bóng – chính là em!
Phút cuối cùng em tha thiết đến bên
Anh rũ bỏ như một thằng điên loạn.

Không! Một thằng ngu, khờ vì ngạo mạn
Em trẻ xinh mềm mại biết bao nhiêu
Một người vợ – với chồng,
                                  sẽ rất mực thương yêu
Sao lỡ bỏ? để suốt đời tiếc nuối.

Anh đã chết vạn lần, hồn đau nhói
Phí cả đời trai từng bão táp, phong ba
Một chữ “yêu…” thành dài dặc, lê thê
Em ơi! Trái tim vỡ rồi,
                             làm sao còn vá lại?
*
Nhớ buổi ấy cùng nhau đêm trăng sáng
Ánh mắt thơ xinh mà chứa bầu trời
Nụ hôn nào còn đọng trên môi
Anh xin uống cạn bầu em trắng mịn.

Đi dưới trăng hai đứa lòng bịn rịn
Em áp vào anh như hoa ép vào tim
Một vũ trụ ngát hương,
                      trao cho anh đón nhận…
Hết rồi, em ơi! Chắc sẽ làm em giận
Ngay từ lúc anh quay đi
Trước hững hờ,
                          giờ đau khổ nhường ni
Một người vợ, lẽ ra?
                          với đời ta là tốt nhất.

Thôi, đành để quỉ sa tăng moi gan, móc mắt
Lỗi lầm này giá đắt quá, em ơi!
Ta ngửa mặt kêu lên cùng với đất trời
Bằng trái tim tan vỡ!

Hà Nội, tháng 6.2018
Phạm Ngọc Thái
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.06.2018 15:27:44 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 21.07.2018 11:32:43 (permalink)
 
 
         TỔ QUỐC !
       CÓ BAO GIỜ HÈN, NHỤC NHƯ HÔM NAY ?
 
Chính phủ Việt Nam ơi !
Ngẩng lên thẹn trời
Cúi xuống hổ đất
Rồi con cháu sẽ muôn đời sỉ nhục
Dân tộc nuốt nước mắt,
                     đau lắm Quốc hội ơi !
Chính phủ tôi giờ hèn với giặc,
Ác với dân
Chỉ rắp tâm theo gót Tàu Bang mà bán nước.
 
Ối giời ơi !
Đồng bào ơi !
Người khổ nhường nào…
Chịu nhục nhường nào…
Ông này Tổng bí thư
Ông kia Thủ tướng
Kế tiếp nhau theo giặc
Dạ dạ, vâng vâng…
Chính phủ ơi !
         Có bao giờ hèn, nhục thế này không ?
 
Đã mất ngoài biển đảo,
Cho chúng tự do khai thác bauxite
Đưa giặc vào giẫm đạp đất Tây Nguyên,
Nay lại ra Luật Đặc Khu
Đem cả Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc
Dâng cho chúng.
 
Ối giời ơi !
Chính phủ gọi giặc là bố
Giày xéo dân như tôi tớ, người ơi !
Tổ quốc !
Có bao giờ hèn, nhục như hôm nay ?
 
              Tháng 6.2018
Nhatho_PhamNgocThai 02.09.2018 18:01:18 (permalink)
 
chùm thơ mùa Thu  
 
 PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG
Tà áo trắng em đi qua phố
Mùa thu rơi phủ mắt anh
Tà áo trắng của người sinh nữ
Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng.

Chỉ còn lại con tim rớm đỏ
Áo quệt vào máu rỏ hai tay…
Ôi, mùa thu mùa thu êm ả
Sao lòng anh tơi tả thế này?

Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
Lang thang vài cánh bướm bơ vơ
Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
Lưỡi dao nào cào nát tim thu?

Anh cũng có một thời bên áo trắng
Cũng bế bồng và cũng đã ru em!
Cái thời ấy chìm vào xa vắng
Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang.

Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ
Câu thơ nẩy những bông hoa buồn
Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ
Em đi rồi, anh chết cả mùa đông.



KÍ ỨC MÙA THU

Mùa thu khuấy lên bao kí ức
Xác thời gian trôi trên tóc em
Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió
Lá vàng rơi mênh mông.

Em đi qua mùa thu không gian
Trăng rãi đồi con gái
Nhớ đến lâu cái hương con gái
Nó thơm say và rất nhẹ nhàng.

Đường dạo ấy trên đồi trăng sáng
Đêm chia tay em dúi cả vào anh
Để bóng lạc suốt đêm ngoài phố
Mây lãng phiêu mãi không về.

Giờ đây chắc trên đồi thông đó
Gió vu vi và trăng vu vơ
Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió
Mùa thu lang thang chẳng bến bờ...



CẢM TÁC THU HÀ NỘI

Có con thỏ trong vườn đang nhởn nhơ ăn cỏ
Em gái qua vô tình cho phố ngẩn ngơ
Cành sấu ngả bên đường lá lá bay lả tả
Nửa xanh màu hạ, nửa vàng thu.

Thu đến gợi chi lòng
Mà mắt em ươm nụ
Trái tim xin cứ ngủ bình yên
Trong chiếc giỏ đa tình
           của chàng thi nhân đi lượm quả.

Con chim nhỏ ríu ran quanh tổ nhỏ
Tôi níu chân nàng đi hay nhặt thu rơi
Thu ơi, thu! Hà Nội ơi, Hà Nội!
Cho tôi hôn theo môi em,
                        người thiếu nữ xa vời



SÁNG THU VÀNG

Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây          
       bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước…
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa.

Người con gái đã thành chính quả!
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!

Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.

Sáng thu vàng xang xênh xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười... hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh.

Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan...



ĐÊM THU PHỐ VẮNG

Đêm phố vắng anh đi hay là em không ngủ?
Thu đến rồi lay động trái tim!
Xào xạc lá, anh nghe xào xạc lá
Thăm thẳm bóng hình em trong đêm...

Anh lại dẫn em con đường yêu cũ
Một thời nào từng in dấu chân thon
Trước tình yêu ta hoá thành đứa trẻ
Dẫu mái tóc anh giờ đã hoa sương.

Ta sẽ viết cho ai bài thơ đêm thu vắng?
Nghe trong khuya em gọi vọng rất xa
Trên thảm lá lòng ta say đắm
Tha thiết bên em vì không muốn đêm qua

Ôi ! Bài thơ cứ theo anh lang thang trong phố
Kí ức hồi sinh về với tuổi xuân xưa
Em lại ru êm như thưở trẻ
Tấm thân mềm đưa anh vào bến mộng mơ.

Hà Nội, mùa thu 2018
Phạm Ngọc Thái
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.09.2018 18:04:02 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 10.10.2018 17:49:46 (permalink)



     ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI
                            Tặng TT.
                     (cảm xúc về nàng với buổi tình chiều,
                                            tôi đã viết nên bài thơ này)





 
Em nói với tôi rằng muốn có một đứa con…
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi!

Người thục nữ tôi yêu những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm.

Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần
                          dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu…

Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.

Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em!

Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu!

Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu!
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.

Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn!

Anh tìm đến em
                     lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu…

PHẠM NGỌC THÁI
Cuối thu năm Mậu Tuất
Chiều 6.9.2018




<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.10.2018 18:00:19 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 06.12.2018 15:35:29 (permalink)
 
           PHẠM NGỌC THÁI VÀ MỘT KIỆT TÁC THƠ TÌNH 
                           Nguyễn Thị Xuân


 
           ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI 

Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con"
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi !
 
Người thục nữ tôi yêu
                     những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm.
 
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần
                        dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu...
 
Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em
                           như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.
 
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em !
 
Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca,
          anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu !
 
Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu !
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.
 
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn !
 
Anh tìm đến em
                     lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu...
 
         PHẠM NGỌC THÁI
              Chiều thu năm Mậu Tuất
                    Hà Nội 6.9.2018
                                               
  LỜI BÌNH CỦA NGUYỄN THỊ XUÂN:

 
 
Có lẽ đã qua hơn nửa thế kỷ, từ khi trên thi đàn Việt xuất hiện bài thơ tình nổi tiếng: "Hai sắc hoa ti-gôn" của một nữ sĩ ẩn danh, gọi tắt là T.T.KH - Đến nay, lại mới có một áng thơ tình của một nhà thơ đương đại, trong giới văn chương rất quen biết, đó là Phạm Ngọc Thái ! Thơ ca của anh trên văn đàn cũng được nhiều độc giả ngưỡng mộ.
      "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" mà anh mới cho ra đời trên các trang mạng Việt, đã được đông đảo bạn đọc đón nhận và ca ngợi. Nói một cách công minh: với những ai yêu thích thơ ca, kể cả người khó tính nhất cũng phải khen. Là một nhà giáo làm công tác văn chương, vì quá yêu thích bài thơ tình này - Tôi xin được mang chút kiến thức văn học để luận bình bản tình ca, với độ hay tôi đánh giá là một thiên kiệt tác thơ tình !
     Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" được chia thành chín đoạn, cả thảy ba mươi sáu câu. Tức là, một bài thơ khá dài. Cảm xúc thơ dồn dập chảy trào ra trong trái tim thi nhân, được bắt đầu bằng lời thổ lộ của người tình gái qua ước muốn của nàng. Đọc thơ ta tưởng cứ như là câu chuyện tình đêm khuya, thường phát trên Đài tiếng nói Việt Nam:
                    Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con"
     Trong tình yêu của người đàn bà, mong muốn có một đứa con... là ước nguyện máu thịt với cả cuộc đời.
     Ở trong bài "Hai sắc hoa ti-gôn" nữ sĩ T.T.KH cũng từng mô tả hình ảnh của người tình trong mộng, một thưở xa xưa đã bộc lộ tình cảm yêu thương với mình, rằng:
                   Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
                   Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
                   Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
                   Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
      Còn trong bài "Anh sẽ về theo dòng lệ em tiếc nuối": Đó không phải chỉ là tâm tình, khát vọng của ái nữ khi nàng mong muốn có một đứa con kỉ niệm mối tình chung của hai người, mà cũng đã hòa trong dòng lệ yêu thương của chàng. Ta nghe, nhà thơ bộc bạch niềm tâm tư sâu kín ấy:
                    Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
                    Năm tháng dáng hình em hiển hiện
                    Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi !
     Nàng đã trở thành ngọn lửa để sưởi ấm trái tim chàng. Đây là mối tình của buổi "chiều cuộc đời", và lại phải sống cách xa nhau - Như tác giả viết:
                    Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
                    Tóc cũng bạc đôi phần
                                           dẫu tim còn khao khát
     Và anh thổ lộ:
                    Người thục nữ tôi yêu
                                      những năm cuối cuộc đời
                    Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
                    Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
                    Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm.
Câu chuyện tình có vẻ lâm ly. Anh yêu nàng mãn đời, mãn kiếp, cho tới khi chỉ còn là một nấm mồ xanh cỏ - Chà, thơ thật là đẫm lệ ! Tình đời của dòng thơ này chảy ra thấm đẫm máu tim và chất chứa tính nhân văn... trở thành một câu chuyện tình không khác gì truyền thuyết. Với một nhà thơ dành cả cuộc đời để sáng tác thi ca như anh - Tôi thiết nghĩ, không mong ước gì hơn thế nữa ! Thiết tưởng, bất cứ nhà thơ nào cũng phải ao ước mình sáng tác được một bài thơ như vậy. Ngẫm rằng, họ thương yêu nhau không chỉ đến bạc đầu, mà hóa thành kiếp khác vẫn còn yêu:
                    Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
                    Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu...
     Sợ người yêu khi đó sẽ tủi lòng vì phải sống trên đời này một mình, chàng còn an ủi và dặn dò:
                    Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
                    Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
                    Anh hôn lên đôi môi em
                                               như một vầng trăng khuyết
                    Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.
     Cái hình ảnh đôi môi của người yêu như một vầng trăng khuyết, trong thi ca xưa nay, tôi chưa từng thấy ai ví thế ! Một hình ảnh mỹ học thật cao siêu. Mang hình ảnh trời đất để ví với đôi môi của người yêu, đẹp một cách tuyệt vời ! Lại nữa, anh hôn lên đôi môi nàng... thấy cả bầu trời du ngoạn ở trong hồn. Thơ thăng hoa tới tột đỉnh, hình tượng cao đẹp mà vẫn đời.
     Ở trong bài thơ "Người đàn bà trắng" - Tôi đã thấy nhà thơ Phạm Ngọc Thái, từng đem hình ảnh trời đất để tả người yêu rất hay:
                    Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
                    Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
                    Đôi mắt em đong những áng mây
                    Người đàn bà trắng !
     Còn khi anh nói về "cái ấy" của nàng:
                    Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai !
                    Người đàn bà ai mà định nghĩa ?
     Đại văn hào Lép Tôn - xtôi từng nói về người đàn bà, đại ý thế này: Người đàn bà không thể định nghĩa, mà chỉ có sự tìm tòi... tìm tòi và tìm tòi mãi... - Phải chăng Người muốn nói về sự bí hiểm, đến mức kỳ diệu và vĩ đại của "cái ấy" đàn bà !?
     Rồi, cũng trong bài thơ "Người đàn bà trắng", Phạm Ngọc Thái đã kết:
                    Người đàn bà ngậm cả vầng trăng
     Nhà phê bình, nghiên cứu văn học thuộc Viên "Ngôn ngữ và Văn hóa dân gian" Trần Tứ Đức, bình phẩm về hình tượng câu thơ "... ngậm cả vầng trăng" như sau:
-   Đây là một câu thơ siêu thực, chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà, hay chính nàng là một vầng trăng ? Cái vầng trăng ấy của nàng, nó cứ nguyên thủy như hang động thời tiền sử lại huyền bí như thánh linh...
     "vầng trăng" là nguyệt, mà "nguyệt" chính là "cái ấy" - Đấy, nhà thơ đã mô tả về cái của người đàn bà như thế !
     Trong đời thi ca Phạm Ngọc Thái, bài thơ "Người đàn bà trắng" đã rất có danh tiếng trên văn đàn và được đánh giá cao ! Song, theo nhận định của tôi: Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối", còn có thể hay hơn, hấp dẫn hơn... chinh phục trái tim đời. Độ hay trong tính nghệ thuật thi ca của mỗi bài khác nhau, nhưng chí ít đều đạt là hai tình thơ tuyệt tác của nền văn học.
     Tôi nói về đoạn thơ thứ tư:
                   Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
                   Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
     Giọt nước mắt của đàn bà có thể làm xiêu đổ anh hùng. Trong truyên Kiều: Khi Từ Hải chết đứng, hai mắt mở trừng trừng không nhắm lại được... phải đến lúc, Kiều đến ôm chàng mà than:                   
                    Khóc rằng: "Trí dũng có thừa,
                    "Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
                    "Mặt nào trông thấy nhau đây?
                    "Thà liều sống thác một ngày với nhau!"
                    Dòng thu như dội cơn sầu,
                    Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
                    Lạ thay oan khí tương triền!
                    Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
     Còn trong thiên tình ca này, nhà thơ Phạm Ngọc Thái nói với nàng rằng:
                    Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
                    Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em !
 
                    Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
                    Cùng thi ca,
                               anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
                    Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
                    Với mối tình nồng thắm của em yêu !
     Chàng sống mãi với đời và trong tình yêu của nàng. Họ gắn bó rồi yêu nhau, cảm thông cuộc đời của nhau:
                    Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
                    Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
                    Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
                    Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn !
     Chỉ 4 câu thơ thôi, mà tưởng như diễn giải cả một thiên tiểu thuyết. Trong thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối, ta thấy thi nhân còn để lại những lời dặn dò, nhắn nhủ người yêu thật máu tim...
     Đọc đoạn thơ thứ bảy giống như một lời trăng trối, tôi bỗng liên tưởng tới những vần thơ nổi tiếng của thi hào Nga vĩ đại Pushkin, khi Người nhắn gửi tới người tình:
                    Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn
                    Em thầm thì hãy gọi tên lên
                    Và hãy tin còn đây kỷ niệm
                    Em vẫn còn sống giữa một trái tim.
     Hay thi nhân Hàn Mặc Tử, đã để lại những lời trăng trối cuối cùng cho người yêu:
                    Anh trút linh hồn giữa lúc đây
                    Gió sầu vô hạn nuối trong cây
                    Còn em sao chẳng hay chi cả
                    Xin để tang anh đến vạn ngày
                                      (Trút linh hồn)
      Thi nhân Phạm Ngọc Thái thì viết:
                    Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu !
                    Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
                    Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
                    Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.
     Đọc đến những dòng thơ này, tôi đã khóc - Tưởng như, trên đời này cũng chỉ yêu nhau đến thế là cùng ! Đoạn thơ kết cũng thật là cảm động, một lần nữa thi nhân thổ lộ cõi lòng tha thiết trong buổi hoàng hôn của đời mình:
                    Anh tìm đến em
                                  lúc đã tàn úa mái đầu xanh
                    Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
                    Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
                    Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu...
     Dòng thơ đã đưa ta đi đến cõi vĩnh hằng của tình yêu ! Trong thơ hiện đại Việt Nam, tôi chưa từng được đọc bài thơ nào quyến rũ và hay như bài này. Tôi thiết nghĩ -  "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" của thi nhân Phạm Ngọc Thái, xứng đáng là một thiên kiệt tác thơ tình bất hủ với ngàn năm văn hiến Thăng Long !
 
           Hà Nội , đầu đông 2018
             NGYỄN THỊ XUÂN
    GV văn Trường THPT Ba Đình, Hà Nội
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.12.2018 15:44:36 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 12.01.2019 15:49:27 (permalink)

                   BÀI THƠ ĐẦU NĂM 2019


Có lẽ ta dừng thơ ? không làm nữa 
Bởi thấy lòng mệt mỏi với tình si 
Cuốn tiểu thuyết cuộc đời vẫn bỏ ngỏ chưa ghi
Chợt tỉnh dậy. Viết vài câu, chào năm mới !

Em nghĩ gì ? Thôi, đừng quan tâm tới ...
Quăng mình vào thế giới của tương lai
Vui bạn văn chương, tửu quán ... để say
Học thi nhân Vũ Hoàng Chương, quên hết ! (*)

Còn sống được bao năm, không biết ?
Cũng muốn giữ với em, lời hẹn ước lúc yêu đương
Nhưng sớm nay thân rời rã, chán chường
Yêu giằng xé, nhớ hoài ... càng thấm mệt.

Ông anh họ hơn vài tuổi bỗng lăn đùng ra chết
Phạm Tiến Duật mất chưa đến bẩy mươi xuân
Một kiếp người qua ... thế đủ rồi chăng ?
Xuất bản nốt cuốn tiểu thuyết tới này, ta đi cũng được.

Em ở lại, nếu nhớ câu hẹn ước
Đến mồ anh xõa tóc khóc người xưa
Khi anh xa ... lòng vẫn vương tơ
Bởi không trọn cùng em lời thề nguyện.

Ôi ! Đẹp quá, ngày đầu ta gặp gỡ
Dẫu tuổi anh lúc đó xế hoàng hôn
Cứ tưởng mình ở độ xuân xanh
Tha thiết yêu em trong mối tình say đắm.

Anh từng viết những bài thơ một trời hy vọng
Em dành bao thề thốt thủy chung
Ngỡ không gì có thể cách ngăn
Để đôi ta kết thành chồng vợ ...

Chỉ biết giận ông trời nỡ làm tan vỡ ?
Những đêm dài... ta khản tiếng gọi tên em !
Em thấy không ? Mối tình mình sáng tựa vầng trăng
Anh thường mơ nằm giữa lòng tình nhân
                                           về thiên thu yên ngủ.

Rồi năm tháng em sống trong buồn nhớ
Anh ra đi còn cào xé tim gan
Dù đời ta non nước sẽ để tang

Nhưng vẫn mãi cô đơn dưới nấm mồ hiu quạnh
Ôi, bài thơ đầu năm sao lòng ớn lạnh
Nào ! Ra tửu quán, say quên ...
     1.1.2019
PHẠM NGỌC THÁI

(*)  Thi nhân Vũ Hoàng Chương, một đời mượn rượu chỉ để làm "thơ say" và "thơ mây".



<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.01.2019 15:52:53 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 22.02.2019 11:20:00 (permalink)
 
                      TẠ TỘI TRƯỚC TÌNH YÊU
                               Tặng người nữ sinh yêu dấu của đời tôi
 

 
                                                                    
Đã xa lắm ! Tình xưa bùng cháy lại
Thưở mơ màng đâu còn nữa, em ơi !
Tóc anh nay nhiều sợi bạc rồi
Em ở tận phương trời, biệt tích ...
 
Nhớ những đêm trăng cùng nhau dạo bước
Nụ hôn nào đang dính giọt sương đêm
Người nữ sinh ? Anh không thể quên
Dù đã yêu bao nhiêu lần khác.
 
Tình đổ vỡ. Trái tim anh tan nát
Tháng năm qua, hàn vá được đâu em ?
Đời trôi đi ... trăm nỗi u phiền ...
Cuộc sống phong trần. Tình nhạt nhòa, tẻ ngắt.
 
Có lỗi lầm không sao xóa được
Là phút giây anh gạt bỏ tình em
Ánh mắt thơ xưa tha thiết nhìn anh
Vết thương cũ xiết mãi lòng đau nhói.
 
Em hiển hiện, người thiếu nữ dịu dàng biết mấy
Bao áng thơ ta từng viết về em
Nhìn thấy không gái ơi ?
              Mảnh trăng khuyết bên thềm
Ta thao thức gọi tên nàng trong hoang vắng
 
Anh quì xuống giữa không gian sâu thẳm
Tạ tội với đất trời ! Vì đã bội phản cuộc tình em ...
 
          11.2.2019
  PHẠM NGỌC THÁI
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.02.2019 11:22:23 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 01.04.2019 18:58:55 (permalink)
 
 


 
    ANH ĐAU XÉ LÒNG ĐÀNH QUAY GÓT
 
Ta bỗng thấy lòng ta nhẹ bẫng
Trút cơn sầu. Cánh chim vụt bay lên
Hãy bay đi ! Bay tới tận Hoàng Thiên
Rồi đậu xuống một vầng trăng huyền ảo.
 
Người lữ khách rũ bụi trần, xa huyên náo
Quên phàm tình. Nhìn bốn phía mênh mông
Vẫy tay chào ! Ở lại nhé, em thương...
Mình chia tay, biết có ngày trở lại ?
 
Cũng không phải là người rồ dại
Đã yêu em tự đáy lòng anh
Em đến với anh bằng tình thắm chân thành
Bao giây phút nồng nàn,
                        trao nhau không tưởng tiếc.
 
Thì vẫn biết, em cố ghìm tiếng khóc
Lòng anh đau như dao cắt, kim đâm
Ta trách trời ư ? Trời có thấu đâu em
Tại số đó, nếu không thể bên nhau mãi mãi...
 
Anh những muốn cùng em xây dựng lại
Em giận hờn, phẫn chí buông xuôi
Trái tim anh tưởng vỡ làm đôi
Cố gắn lại... mỉm cười nhìn số phận.
 
Anh cũng biết đời em còn lận đận
Mang tình yêu làm chỗ dựa hồn em
Lòng dạ đàn bà, không thấu nổi bên trong …
Vẫn cần anh sao mãi còn tấm tức ?
 
Cuộc chia tay đẫm nhòa nước mắt
Nói làm gì ? Ai mất nhiều hay ít hơn ai
Rồi ngày mai ngoái lại tiếc hoài
Rơi dòng lệ bên mộ người tri kỷ.
 
Đời anh đó, đỉnh thi sơn kỳ vĩ
Tháng năm cùng nhân thế, không em
Anh bay lên chín tầng cao mà kiếp cô đơn
Em ở lại dưới trần hiu hắt bóng.
 
Cuộc phân ly hai đứa đều lạnh cóng
Nhưng cứ yếu hèn biết sống làm sao ?
Ừ, thôi... thì quên nhau, mặc cho máu tim trào
Làm kỷ niệm in sâu vào trí não
 
Thơ càng viết tình dâng thành giông bão
Phút nhớ nhung viết gửi vào thơ
Em giữa đời chịu cảnh sống bơ vơ
Anh đau xé trong lòng, đành quay gót...
 
          PHẠM NGỌC THÁI
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.04.2019 19:01:39 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Nhatho_PhamNgocThai 14.05.2019 12:10:09 (permalink)
 
 
    HAI KẺ ĐỜI QUẤN QUÍT
 
không có em, anh vẫn yêu tha thiết
Chỉ trời xanh là biết mối tình ta
Vì đường đời đã phải chia xa
Dẫu trái tim hai đứa cùng đau nhói.
 
Trời Tây Hồ nắng vờn trong gió mới
Như anh-em ngày ấy, quấn bên nhau
Bóng trúc xinh soi dòng nước xanh màu
Cứ tưởng sẽ đời đời và mãn kiếp.
 
Em vật vã đêm ngày, anh vẫn biết
Những thương em, chỉ biết ngóng trời xa
Ca lên em ! Cõi trần có phong ba
Tình yêu sẽ dẫn ta vào bất tử !
 
Em xinh đẹp, đất trời còn quyến rũ
Gái má hồng... tạo hóa phải ghen
Anh bôn ba nửa trái đất cũng yếu mềm
Nặng lời thề với em ghi tấc dạ.
 
Miền sông nước: Ôi, mênh mang trắng xóa
Có em tôi ở đó, đứng chờ mong
Ta chia tay bởi duyên phận không thành
Anh ra đi ngày đêm thường trăn trở.
 
Chưa kịp đến đón em làm vợ
Đã bạc đầu. Nuốt dòng lệ em đau...
 
Một mai kia... Nơi thế giới không màu...
Anh sẽ đợi em về, nằm bên cạnh
Hai ngôi mộ trong hương tàn, khói lạnh
Của hai kẻ đời quấn quít, gió mây bay
 
          8.5.2019
       PHẠM NGỌC THÁI
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2019 12:11:36 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Thay đổi trang: << < 404142 > >> | Trang 41 của 45 trang, bài viết từ 601 đến 615 trên tổng số 666 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9