(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI

Thay đổi trang: << < 192021 > >> | Trang 21 của 23 trang, bài viết từ 601 đến 630 trên tổng số 666 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 23.01.2018 10:26:37
 
 
                CHÙM THƠ TÌNH SÔNG HỒ
                                 PHẠM NGỌC THÁI

 
               ANH VỌNG NGHE
        TIẾNG EM HÁT BÊN HỒ

Anh vọng nghe tiếng hát bỗng bàng hoàng
Đôi mắt mùa thu ru êm ả
Ôi, hồ xưa! Những đêm trăng lộng gió
Những đêm không chiếu không màn.

Tiếng hát ấy vẳng xa đã vào bụi cát
Em mãi còn kỉ niệm trong anh
Như hạnh phúc đời anh: Cái thực là hư cả
Cái đã hư xưa mới chính thực là mình.

Cuộc đời như bóng mây qua vũ trụ
Chiếu ở rất xa,
                        qua hồn ta,
                                          trong mộng ủ
Ôi! Hư vô, sao quặn xiết lòng ta?
Hỡi đêm tàn!
Có nghe tiếng em vẫn hát tận hồ xa...
 
     NGƯỜI CON GÁI SÔNG XƯA (*)
                                  Nhớ lại thời chiến trận qua làng 

Sông Hồng chảy muôn năm vẫn đỏ
Bãi ngô non xanh gió chân mây
Người con gái anh gặp thời chinh chiến
Cái buổi qua làng lâu bấy đến nay.

Một làng bé quanh con nước lớn
Với quê hương thầm dịu thuở chiến tranh
Lòng thôn nữ như vầng trăng tỏa sáng
Lại trở về man mác trái tim anh.

Làng em lũy tre xanh bất tử
Mới gặp một đêm mà đã thấy thương thương...
Bóng nhìn anh mắt theo giờ còn biếc
Như phù sa cứ bồi mãi khôn cùng.

Lá tre rụng bao mùa trôi dĩ vãng
Và quê em...đời sống có nâng cao?
Người năm ấy, em ơi! Giờ tóc trắng
Đang bồi hồi thao thiết giữa trăng sao.

Người con gái sông xưa, ơi có biết!
Một thời trai bão táp cuộc hành quân
Đêm thành phố nhớ em buồn da diết
Em bây giờ có hạnh phúc không em?
 
----------------------------
 
(*)     Tôi không còn nhớ tên em, nhưng hình ảnh từ đôi mắt tới dáng hình em thì tôi vẫn man mác nhớ. Đó là vào một buổi trong những tháng năm còn chiến tranh, chúng tôi hành quân qua một ngôi làng nhỏ bên ven sông Hồng. Thuở ấy tôi mới chỉ là một anh lính binh nhì chưa đầy hai mươi tuổi.
      Chúng tôi đã dừng chân nghỉ tại làng. "Tổ ba ba" của tôi được bố trí ngủ ở nhà em. Tối đó tôi ngồi nói chuyện với em khuya lắm, trong một mái bếp xóm quê. Bên bếp lửa bập bùng ánh lên khuôn mặt hiền xinh và thơ trẻ,. Người em đậm đà, tiếng nói cũng nhỏ nhẹ dễ thương. Nhìn nhau bên bếp lửa, đôi mắt em lung linh, trong sáng lạ thường. Bên em lòng tôi không khỏi dấy lên những cảm xúc bồi hồi...
      Phía trước của người lính là chiến trận. Chỗ đứng của người lính là nơi còn đang trong bom đạn. Yêu thương đến mấy thì cũng phải dứt áo mà đi…để không bao giờ còn gặp lại. Mối tình đời lính chớp nhoáng của tôi chỉ vẻn vẹn có vài tiếng đồng hồ như thế!
     Ấy vậy mà mấy mươi năm sau, chiến tranh qua lâu rồi, tôi cũng đã quên đi nhiều thứ, nhưng hình ảnh về người con gái thì tôi vẫn còn nhớ mãi.
     Để rồi vào một đêm buồn thành phố, nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào của thời xa, tôi đã cầm bút viết bài thơ Người Con Gái Sông Xưa này.
 
        KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC

Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay.

Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con.

Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em.
 
-----------------                               

(*)  Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết! Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi) thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ -  nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc!
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2018 10:28:48 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 02.03.2018 16:05:25
 
                                        PHẠM NGỌC THÁI
 
                             CHIẾN TRANH
                              và TÌNH YÊU
 
                                                   Tiểu thuyết
                                                                         Tập I
 
     
 
* Chương I đã in bên "Một huyền thoại thi ca" trang 16
* Chương II đã in trong "Kịch và các tiểu phẩm văn xuôi Phạm Ngọc Thái " trang 14
* Chương III - IV đăng trong Thơ tình Phạm Ngọc Thái   - tr.41
 
 
 
 
 * Chương I đã in bên "Một huyềng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2018 16:17:10 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 02.03.2018 16:12:43
 
                                                Chương III.   
 
                     CHUẨN BỊ VÀO CUỘC CHIẾN
 
1/. Viết theo phiên hiệu:
       Những đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam thường được viết bằng các phiên hiệu:
-  Tiểu đội               gọi là           “A”
-  Trung đội             gọi là            B
-  Đại đội                    -                 C
-  Tiểu đoàn                -                 D
-  Trung đoàn              -                 E
-  Sư đoàn                   -                 F
2/.  Một số nhóm chữ dùng nhiều trong tiểu thuyết sẽ được viết tắt:
-  Quân giải phóng                                viết tắt là                 QGP
     ( Không phải chỉ Quân giải phóng địa phương, mà khi bộ đội tiến vào chiến trường miền Nam cũng gọi là QGP, hay có lúc gọi “Quân cộng sản Bắc Việt” – cũng chỉ là một )
-  Chính phủ Việt Nam Cộng hòa         viết tắt là         Chính phủ VNCH  
-  Quân lực Việt Nam Cộng hòa                  -                    QLVNCH 
 
 
                                                     12-
 
     Đài phương Tây đưa tin: “Con hổ xám đã mất hút trong khu rừng rậm Hòa Bình”.
     “con hổ xám” là biệt danh mà họ gọi Sư đoàn 312 của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lúc này, sư đoàn đã nhận được lệnh trực tiếp của Bộ quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chuẩn bị sẵn sàng ra chiến trường.
     Vào một đêm mùa đông năm 1967, diễn ra cuộc Tổng diễn tập cuối cùng trên qui mô lớn cả sư đoàn, với phương thức tác chiến hiện đại mà khi ấy có được.  Trên một bình diện rộng, tương đối bằng phẳng chừng vài chục ki lô mét vuông. Nổi lên khoảng năm, sáu quả đồi nhỏ. Chính giữa là một cao điểm lớn, đỉnh nhọn hoắt. Các đống lửa đã được đốt lên trên mỗi quả đồi, vây quanh là những hàng rào dây thép gai, nhiều lớp. Đó chính là cứ điểm địch – Đúng hơn, đó là hệ thống trận địa “quân xanh” phục vụ cho cuộc tổng diễn tập.
     Đứng trên một độ cao, người quan sát sẽ thấy: Năm quả đồi hình thành một thế phòng ngự kiên cố. Những trận địa pháo, những ổ xe tăng, chi chit lô cốt địch… nổi lên như những chiếc nấm lớn. Trực thăng bay vè vè suốt đêm, thả những chùm pháo sáng chói mắt, soi mói từng bụi cây nhỏ. Thủng thẳng tiếng súng cầm canh, rồi im bặt. Đôi lúc rộ lên tiếng súng máy trên các cứ điểm, chúng thi nhau bắn. Xe tăng đồng loạt nổ động cơ…  
     "con hổ xám" mà kẻ địch luôn dò xét từng bước chân ấy, đang tập dượt những nước bước cuối cùng để vọt lên vồ mồi.
     Về phía "quân đỏ" – 1 giờ sáng, lệnh khai trận được ban ra toàn sư đoàn. Ba phát pháo hiệu đuổi nhau bay lên bầu trời. Trên con đường Quốc lộ 12c, xe tăng bất ngờ xuất hiện. Nó gầm lên, mở hết tốc lực lao thẳng đến phòng tuyến "quân xanh". Pháo mặt đất từ các phía dồn dập bắn vào cứ điểm địch. Các trận địa cao xạ 37ly bật tung những lớp ngụy trang, khạc từng chùm đạn lửa lên trời, đuổi tốp máy bay trực thăng của quân xanh ra ngoài. Kèn tiến quân tò te, tí te vang lên!
     Một khu rừng thứ hai, từ trong mé rừng thiên nhiên rùng rùng chuyển động... rồi đứng bật dậy, di chuyển về phía trước - Đó là những tiểu đoàn bộ binh, trên lưng mỗi chiến sĩ đeo một vòng ngụy trang. Nếu khi cả đội hình nằm xuống, tưởng như đấy là một rừng cây lúp xúp.
     Ở Đại đội 5, đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209 thuộc Sư 312 – Hạ sĩ Hoàng, một chiến sĩ súng máy đại liên cũng có mặt trong trận đánh diễn tập này.
     Đây là những trang nhật kí của anh, ghi lại một chặng đường hành quân mới nhất.
 
                                                       *
     Mồng 5 tháng 11 năm 1967,
     Đêm trăng. Trời trở gió lạnh mà mồ hôi vẫn vã ra như tắm. Quần áo ướt sũng. Chúng tôi hành quân qua vùng đồi miền trung du. Một đồi sả ngút ngàn của nông trường nào đó.
     Vào quãng nửa đêm, cả đại đội đi theo một lối mòn nhỏ giữa đồi. Trên bầu trời, mây lởn vởn bay. Khi đám mây này vừa bay qua để lộ ra ánh trăng tỏa sáng, đám mây khác liền kéo tiếp đến che lấp bóng trăng đi, làm cho cảnh đồi đã trống trải lại mang màu hư ảo. Sương muối rơi nhiều. Mồ hôi vẫn cứ chảy thành dòng nhòe lên cả mắt, thấm xuống môi mằn mặn. Mấy đầu ngón chân tuy đã được bọc trong đôi giầy vải, vẫn bị tê cóng.
     Tiếng hát theo nhịp hành quân của các chiến sĩ đã yếu dần đi, anh nào cũng mệt rã. Quai ba lô xiết vào vai tê dại. Lưng muốn sụn xuống, phải mắm môi lại mà bước. Cả đoàn quân mờ mờ tiến trong đêm, lưng còng còng cõng những chiếc ba lô con cóc. Anh thì vác chiếc càng hay thân súng máy đại liên, người thì è vai mang khẩu hỏa tiễn DKB hoặc súng cối nặng trĩu. Đại đội 5 chúng tôi vẫn đi bám sát nhau, vượt sang đồi bên kia.
     Đồng chí chính trị viên đại đội và anh thượng sĩ - Quản lý hậu cần, đi cuối cùng đội hình làm nhiệm vụ thu dung. Cũng có vài ba chiến sĩ đã bắt đầu bị tụt lại sau hàng quân.
     Gần tới đỉnh đồi, bất giác tôi nhìn thấy cách con đường mòn khoảng vài ba chục mét, có một cô gái đang tựa người vào chiếc cổng tre đơn sơ. Tóc cô dài chấm ngang lưng. Bên trong cổng là một chiếc lán nhỏ, có hàng rào cũng đan bằng tre vây quanh. Cô gái đứng im lặng nhìn đoàn quân đi qua.
     Cả cô gái và chiếc lán hiện lên như hai cái bóng mờ đơn độc, hiu hắt trong màn sương giá lạnh. Tôi có cảm nhận lòng thiếu nữ đang se lại, vì nhớ tới một người thương nào đó? Có thể là hình ảnh người yêu của cô, một chiến sĩ mà chúng tôi chưa biết mặt. Ở một nơi nào đấy, anh cũng đang hành quân như chúng tôi đêm nay? Nhưng cũng có thể, anh đã ra chiến trường...
     Vẫn là hành quân trên mảnh đất quê hương, mà chúng tôi lại nhớ về quê hương và những người thân! Lòng tôi cồn cào nghĩ về em...
     “Thu thân yêu! Không biết giờ này em có thao thức để nhớ về anh, như người con gái kia không?”.
     Một cái gì thầm kín nhen lên, trong sự cảm đồng giữa cô và những người chiến sĩ. Cô cũng đang đi cùng chúng tôi trên một con đường, hướng về một hướng: khao khát, chờ đợi và hy vọng!
     Tôi nghĩ: Không phải chỉ có tiếng bom, pháo gầm nổ? Không phải chỉ có những lá cờ bay phần phật trên nóc cao điểm? Không phải chỉ có các làng mạc bị bom đạn tàn phá, những người đã ngã xuống và cả đoàn quân vẫn xông lên? – Bức họa về chiến tranh, không thể thiếu bức tranh này!
     Sang ngày mồng 6,
     Khoảng 3 giờ sáng, lệnh từ trên đầu hàng quân truyền xuống: "Đã đến chỗ trú quân"! Không có gì vui bằng tin này. 
     Xương cốt hình như muốn vỡ ra. Những xúc thịt trong cơ thể đang tan rã. Mí mắt kéo sụp xuống, nặng chịch, không thể nào còn mở ra được nữa. Chân muốn khụy. Vừa đi vừa ngủ đã thành thói quen của lính. Chân cứ đi, mắt cứ nhắm nghiền, thỉnh thoảng choàng dậy đã thấy cách xa người đi trước gần chục bước. Vội chạy lạch bạch để bám sát đội hình. Thế lầ cả đoàn quân sau đó phải chạy theo.
     Nhìn ra xa, cách đường quốc lộ hơn trăm mét là một xóm nhỏ. Những chòm tre quây kín xóm như một hòn đảo xanh giữa cánh đồng. Gần chục dân quân, nam nữ thanh niên ra đón chúng tôi. Tiếng líu ríu của các cô nữ dân quân làm cho những tay chiến sĩ tỉnh ngủ. Chẳng liều thuốc nào bằng liều thuốc ấy? Dễ thường nó còn mạnh gấp mấy lần, so với những  liều thuốc tư tưởng của các nhà chính trị. Đã thấy mấy cậu đi đầu đang ba hoa, tán tỉnh các em. Những tay chiến sĩ đi cuối hàng thì lại làu bàu, mắng mỏ... Chắc các anh chàng bực bội vì ở xa mấy em quá, không được xơ múi gì?
     Vào đến xóm. Mỗi "tổ ba ba" được dẫn vào một gia đình để trú quân. Chỉ kịp ra ao khỏa vội cái chân, trèo lên chiếc giường tre của gia đình nhường cho, lăn ra ngủ. Tỉnh dậy đã 11 giờ trưa. Nếu không có cậu trực ban đến thúc giục đi ăn cơm, có lẽ chúng tôi phải ngủ một mạch đến chiều.
     Ăn cơm về. Lúc này, chúng tôi mới để ý quan sát gia đình. Nhà chỉ có hai người, một bà già và cô con gái. Sau được biết, cô gái lại là con dâu của bà. Con trai bà cưới vợ được mươi ngày thì nhập ngũ, để lại người vợ hiền và ngoan ở nhà. Cô chủ thật niềm nở, dễ thương, ra hè ngồi đan nón nói chuyện với chúng tôi.
     Có "hơi nóng" của phụ nữ, nghe chừng cuộc sống thêm vẻ mặn mà. Cảm giác như mỗi tế bào trong thân thể chúng tôi đang teo thắt lại, nay có dịp nở bung ra. Câu chuyện đang sa đà, có phần hơi nhả nhớt… mà cô chủ cũng thấy thích thú. Phụ nữ ai chả thế? Thiếu “trống” thì dẫu đẹp mấy cũng xác xơ. Gặp các anh chiến sĩ mau mồm, mau miệng… lại có duyên tán tỉnh, em nào chẳng sướng. Khác nào đất hạn gặp mưa rào. Nụ hoa đang thì… lại gặp mấy con ong dại, mang đầy bầu phấn.
     Tiểu đội trưởng Tân từ nhà bên sang, bắt bọn tôi đi ngủ. Tuy còn tiếc rẻ cuộc nói chuyện với cô chủ, nhưng chúng tôi vẫn phải chấp hành mệnh lệnh,   về giường nằm. Giấc ngủ rồi cũng nhanh chóng kéo những anh lính vào cõi mộng mơ. Không biết khi đó ông tiểu đội trưởng Tân, người thế chỗ chúng tôi… còn ngồi nói chuyện với cô chủ đến lúc nào?
     Xế chiều. Cô con dâu bà chủ nhà cùng rất nhiều anh chị em thanh niên và bà con thôn xóm, đưa chân chúng tôi ra tận sân hợp tác – Nơi toàn đại đội tập trung để chuẩn bị hành quân tiếp.
     Ngày mồng 10,
     Không biết con đèo chúng tôi hành quân qua hồi đêm, có giống Đèo Khế mà ông Tố Hữu đã viết trong thơ không nhỉ? Tôi nhớ mấy câu:
                Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
                Gió qua rừng Đèo Khế gió sang
     Đi qua đèo như đi trong một cái thung lũng, hai bên có hai vỉa núi kẹp lại. Gió theo lũng thổi về quần quật, sương xuống lạnh cóng. Tôi lại nhớ tới hình ảnh người phụ nữ trong thơ ông:
                Nhà em con bế con bồng
                Em cũng theo chồng đi phá đường quan
     Đã bao đời nay, người phụ nữ thủy chung với chồng lại đảm việc nước non.
         Ngày 12,
     Hành quân qua một miền cỏ rộng, bằng phẳng như thảo nguyên. Trên vòm trời xanh, hàng ngàn những vì sao li ti mọc. Nhìn xa trong lưng chừng một dãy núi cao, có những ánh đèn lấp lóe hắt ra. Cách chúng tôi khoảng vài cây số. Nghe nói, đấy là những ngọn đèn của một xí nghiệp, hay công binh xưởng... di tản vào trong núi đá.
     Ồ, đất nước ngẫm bao nhiêu chuyện lạ! Ngay giữa lòng đất, ẩn mình trong trái núi... là những cỗ máy đồ sộ đang ầm ầm chuyển động. Bên trên rừng vẫn tỏ ra êm ái như giấc ngủ say của nàng thiếu nữ. Tôi nhớ tới bài thơ "lửa đèn" của nhà thơ Phạm Tiến Duật:
                 ... Đêm tắt lửa trên đường
                 Nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
                 Là tiếng những đoàn quân xung kích
                 Đi qua
                 Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
                 Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
                 Bóng tối dâng đầy tỏa ngợp bao la
                 Thành những màn đen che những bào thai
                                                                    chiến dịch
                 Bóng đêm ở Việt Nam
                 Là khoảng tối giữa hai màn kịch
                 Chứa bao điều thay đổi lớn lao
                 Bóng đêm che rồi không thấy gì đâu
                 Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
     Đất nước tôi đã đánh Mỹ như thế!
     Đoàn quân tiến sâu mãi vào trong đồng cỏ vắng. Đến một vùng đất bị cầy lên, cỏ bị xới tung, ngang dọc chi chít hằn những vết bánh xe xích. Trông cảnh tượng, người ta có cảm tưởng như ở đây vừa diễn ra một trận hồng thủy thời trung cổ? Hoặc có bầy mãnh thú náo đó đến đây quần lộn, đã đi xa, để lại những dấu vết quằn quại của những con thú bị thương... xé nát cả mảnh đất.
     Sau được biết, đó là dấu tích của một đoàn xe tăng, đã đến đây tập kết từ vài hôm trước. Chúng tôi hiểu rằng trong cuộc hành quân này, chúng tôi không đơn độc.
     Vẫn đi tiếp trong đêm. Phía xa, lại trông thấy một dãy đèn sáng. Chắc đấy là ánh đèn của một thị xã nào đó? Lòng tôi bồn chồn nhớ tới phố phường, nhớ những người thân.
     Nhìn cảnh hoang vắng tựa một vùng thảo nguyên: Tôi bỗng liên tưởng tới hình ảnh nàng Radđa kiêu kỳ và chàng Lôi-kô Rô-ba kiêu hãnh, trong câu chuyện của nhà văn Gorky: Khi nàng Radđa xinh đẹp nằm xuống thảo nguyên hoang dại, để nhận lấy lưỡi dao găm của chàng Lôi-kô Rô-ba đã cắm ngập trái tim mình – Nàng nói: "Em biết anh sẽ làm như thế!".
     Thảo nguyên mênh mông, mối tình cao thượng! Cái mơ và cái thực, hòa trộn trong tôi một cảm giác mạnh mẽ.
     Thu ơi!  Em có phải là nàng Radđa xinh đẹp đó không? Nhưng không phải là để đón nhận lưỡi dao tình yêu, mà để đón nhận những nụ hôn cháy bỏng của anh, từ vùng đất hoang vắng này... theo gió gửi về cho em.
     Ngày 15,
     Cả trung đội súng máy đại liên nằm nghỉ trên sàn một chiếc nhà rông giữa bản. Cạnh nhà, có dòng suối nước chảy rí rách.
     Trời sập tối. Ở góc nhà, mấy cậu đang nằm chéo khoeo cất cái giọng vịt bầu, khò khè như ông lão mắc bệnh hen phát ra từ trong cổ họng nghe ư... ử...
     Ngồi dựa vào cây cột gỗ phía trái nhà, binh nhất Văn rút chiếc kèn ác-mô-ni-ca trong túi quần ra thổi. Chiếc kèn được bọc cẩn thận bằng một cái khăn tay. Đông nhất là tốp chiến sĩ đang vây quanh cô gái Mường. Cô gái có nước da trắng nõn nà, khuôn mặt tròn xinh xắn. Cảm giác như trong con người cô toát lên sự tươi mát và khêu gợi. Họ ngồi bên cạnh cái bếp lửa nhà rông đang cháy, sưởi ấm cho cả gian nhà. Trên bếp lửa, nồi bánh làm bằng bột mì đang sôi. Tôi nằm cạnh Văn, lắng nghe câu chuyện của tốp chiến sĩ và cô gái Mường.
     Nồi bánh sôi sùng sục, nước trào ra cả bếp. Cậu Thuyết vội vàng cầm chiếc vung vứt ngửa lên mặt sàn, rồi vẩy vẩy bàn tay bị bỏng. Cô gái với lấy đôi đũa, lật úp những chiếc bánh trên cùng sấp lại cho chín đều.  
-  Tay mấy anh chưa quen bằng tay em đâu!
     Cô gái nhìn Thuyết đang ôm bàn tay xuýt xoa vì nóng, cười nói vui vẻ.
-  Anh ấy chỉ chưa quen cầm vung thôi, còn cầm cái khác thì...
     Một anh lính nói trêu cô gái. Một cậu khác mắng:
-  Lại sắp tán nhảm.
-  Ấy lầ mình muốn nói: Thuyết nó chưa quen cầm vung, nhưng bóp cò súng thì không chê vào đâu được.
     Cả bọn cười ồ.
-  Lính xạ thủ loại ưu của bọn anh đấy!
-  Em đùa tí thôi.
     Cô gái Mường lấy chiếc que sắt vẫn để cời than, khêu bếp lửa cho cháy to lên. Giọng của cô nhẹ nhàng rất dễ thương.
-  Mấy anh đi xa như thế này, chắc là nhớ người yêu lắm?
-  Bọn anh toàn lính "phòng không" cả.
     Họ tán.
-  Các anh cũng muốn tìm người để thương, để nhớ! Không biết mấy em gái Mường có ưng không?
-  Gái Mường xấu lắm, đần lắm, các anh chẳng ưng đâu? Mấy anh chỉ ưng gái Kinh thôi!
     Cô gái bản nghe chừng cũng thích những câu tán của lính.
-  Riêng anh, anh vẫn thích gái Mường!
-  Gái Mường xinh này! Trắng này! Gái Mường ngoan này! Ăn nói dễ thương này! Em giới thiệu cho mấy anh vài cô?
     Một anh khác nói chêm vào. Cô gái lắc đầu nguây nguẩy:
-  Em chịu thôi. Các anh bộ đội đòi hỏi cao lắm!
-  Cứ như em là được.
     Cô gái xấu hổ, má đỏ rựng. Tay vẫn cời than trong bếp, cô nói có vẻ hơi hờn dỗi:
-  Mấy anh nói chơi chơi… chứ yêu gì gái Mường chúng em?
     Mình miên man nằm nghĩ về Thu. Tiếng con suối bên cạnh nhà rông vẫn rí rách chảy, lại nhớ lúc đã cùng em trên phiến đá của con suối ven rừng…
     Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy toàn bộ tấm thân em. Tấm thân người con gái, vẻ đẹp của nó không bút nào có thể tả hết được. Ôi! Cái tòa thành kì vĩ và bất tử, mà Đại thi hào Nguyễn Du đã mô tả:
                      Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên
     “Tòa thành” của em huyền diệu và lộng lẫy quá! Em có biết lúc đó, anh đã thấy hạnh phúc thế nào không? Đến bây giờ anh còn bàng hoàng, tưởng như mình vẫn đang ôm người yêu ngủ trong mơ…
          Ngày 17,
     Chúng tôi đi sâu vào rừng núi Hòa Bình. Một đêm mưa tầm tã, đơn vị hành quân qua bản khác. Các bà mế một tay cầm cành lá cọ, bản to như một chiếc ô che lên đầu, tay kia bưng những rổ bánh sắn và các dóng mía đã được tiện sẵn, phân phát cho từng chiến sĩ đi qua. Chúng tôi nhận bánh và mía, lặng lẽ cám ơn các mế rồi lại vội đi.
     Những cô gái Mường tuổi xuân mơn mởn, xinh tươi dứng chật bên đường đưa tiễn các anh lính trẻ. Qua miền đất lạ mà cảm thấy như mình đang đi giữa làng quê gần gúi, thân thương. Trong chiến tranh, đồng bào Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số đã xích lại gần nhau hơn.
     Đấy là quê hương tôi!
     Ngày 25,
     Theo Tết cổ truyền, chỉ còn hơn tháng nữa là bước sang năm mới. Chúng tôi nhận được lệnh tạm dừng cuộc hành quân dưới một chân núi đá. Anh em vào rừng lấy tre nứa, dựng lán trại…chuẩn bị đón cái tết đầu tiên của đời lính.
 
 
 
 
 
 
                                                    13-
 
      Các đơn vị đều đã dựng lán trại xong. Vào một buổi sáng, các chiến sĩ lũ lượt rủ nhau tới bản xin cành đào về chơi tết. Mặt trời như hòn máu đỏ nhô lên cao, phủ một màu hồng loãng bay mơn trớn, là là từ mái nhà gianh này sang mái nhà gianh khác. Bản Mường nằm trên một thung lũng rộng, bằng phẳng. Những dẫy núi chạy quanh , thành đường viền như yên ngựa. Những vườn cây cọ, lá to vươn dài ra. Những vườn táo trái chín mọng nước, các cành sai quả vít cong xuống ngang mặt người. Những vườn hoa đào màu hồng, thơm ngát.
     Gió sớm thổi cuốn tung những cánh hoa mận trắng rắc lên các mái nhà, trông như những khuông vải hoa. Trong các vườn trái, đã thấy thấp thoáng bóng những chiến sĩ cùng nam nữ thanh niên trong bản. Một thiếu niên bản vận chiếc áo cánh nhuộm chàm, xoa tay lên nước thép của khẩu AK, nói với anh chiến sĩ đang khoác súng trên vai:
-  Đồng chí bộ đội, dậy mình bắn súng đi! 
-  Khi nào em lớn, vào bộ đội, người ta sẽ dậy em bắn súng.
     Anh chiến sĩ nói với cậu bé như vậy. Ở chỗ khác.
-  Anh bộ đội! Em tặng hoa đồng chí, để đồng chí ăn tết cho ngon, đánh giặc cho giỏi.
     Đó là tiếng của cô gái bản trạc tuổi mười tám, đôi mươi, đang tỉa cành đào đưa cho các chiến sĩ.
-  Có đi xa cũng đừng quên thôn bản chúng em đấy!
-  Quên làm sao được mấy em! Mấy em cho tụi anh nhiều hoa, tụi anh nhớ càng nhiều.
-  Bộ đội khôn lắm chớ? Hết đào bản em thôi!
-  Giải phóng miền Nam rồi, bộ đội về miền xuôi sẽ mang nhiều đào lên cho các em.
-  Thật nhiều chứ?
-  Thật nhiều. 
-  Khi nào miền Nam được giải phóng, chúng em sẽ về miền xuôi thăm bộ đội, bộ đội đón chúng em chớ?
-  Có chớ!
     Mùi sắn lùi, mùi thịt nướng, mùi cơm lam... từ trong các bếp lửa nhà sàn, tỏa ra thơm phức.
     Hoàng cùng với Hùng và Dong đi ngang qua một vườn táo chín. Những trái táo nũng nịu trên cành, va cả vào đầu các anh.
-  Chà, trông mới thật ngon!
     Dong xuýt xoa vẻ thèm khát. Anh chỉ những quả táo trên cành, nói với Hoàng:
-  Ta nếm thử chứ?
   -  Đừng, của dân không xâm phạm.
     Hoàng nói. Hùng nháy mắt nhìn Dong, trêu:
-  Có thèm cũng chỉ được hít, được nhìn thôi!
-  Thèm đến rỏ nước miếng.
     Dong đến một cây táo, rung thật mạnh. Những cành táo xô vào nhau, chuyển động lan ra cả khu vườn. Những trái táo chín rơi xuống tứ phía. Hùng và Dong lao tới nhặt, phủi qua quả táo rồi cho lên miệng cắn ngon lành. Vừa ăn vừa xuýt xoa:
-  Không ăn cũng hoài của.
     Hoàng cũng thèm lắm, nước bọt kêu ừng ực trong cổ nhưng vẫn làm ra vẻ… Dong nhặt một trái táo to, vo tròn trong bàn tay cho sạch phấn bám ở vỏ, đưa Hoàng:
-  Ta nếm vài ba quả táo rụng thôi, chứ đâu có phải là lấy của dân. Ăn đi, không can gì.
     Hoàng cười, nói:
-  Tí nữa vào nhà, dân bản trẩy cho ăn thoải mái. Trong vườn không có người, sợ mang tiếng. 
     Anh vẫn cầm trái táo Dong đưa, cắn ròn tan. Vị của trái táo hơi giôn giốt chua và ngọt, ăn vào tỉnh táo hẳn. Hùng thì nhấm từng tí như chuột chí. Dong lại nhai ngấu nghiến giống con cáo đói mồi, tấm tắc khen:
-  Người sắp chết mà vớ được trái táo này để ăn, có khi sống lại. 
     Lúc này, họ mới nhìn ra cạnh vườn táo có một trái lều lợp gianh. Trong lều, dân bản đặt một chiếc cần cối giã gạo bằng nước. Dòng nước chảy theo đường máng dẫn từ trên núi cao về. Một cô gái Mường đứng bên cạnh chiếc cần giã gạo. Chắc cô đã trông thấy các anh từ lúc qua vườn?
     Cô gái Mường đang nhìn mấy anh chúm chím cười. Như bị mắc cỡ, cô cúi xuống chiếc cối vục một nắm gạo lên tay, thổi cho bay hết bụi cám. Họ ngẩn người đứng sững ngắm nhìn cô gái: Mái tóc đen mướt của cô búi gọn, trên bím cắm một bông hoa mận trắng, nhỏ xíu. Cô gái Mường mặc chiếc áo trắng ngắn, bằng loại vải mịn và mỏng, bó sát lấy thân hình thon thả. Gấu áo hơi thắt chẽn lại, tựa như liền với cạp của chiếc váy hoa may cầu kỳ.
     Họ tiến về phía người con gái bản. Hoàng lên tiếng trước:
-  Chào em gái bản.
-  Em chào các anh.
     Cô gái tươi cười để dộ hàm trắng đều, giọng vẫn đượm tuổi thơ. Dong nhìn cô gái ướm hỏi:
-  Bọn anh qua đây vào thăm bản, nhân thể xin bà con mấy cành đào cắm tết?
-  Các anh đóng quân ở lại đây có lâu không?
-  Lính các anh ở ngày nào, biết ngày ấy thôi!
     Hoàng đăm đắm nhìn người con gái, làm cho cô hơi ngượng ngùng.
-  Tết này mời mấy anh vào nhà em ăn tết? Các anh lên nhà em đi! Mấy anh đến chơi, chắc mế vui lắm.
     Họ theo cô gái đi qua một vườn đào, đến ngôi nhà sàn nhỏ, bước lên chiếc cầu thang gỗ bắc vào nhà. Một mế già đang ngồi bên cạnh bếp lửa, đặt giữa sàn. Tóc mế búi tó củ hành, đã bạc quá nửa. Bà mế cưới đón các anh, cái đuôi mắt của người già nheo lại.
-  Vào đây mấy con!
     Mế chỉ tay lên sàn chỗ gần bếp lửa, bảo các anh ngồi xuống. Tay mế cầm ống điếu cầy to bằng cổ chân, vê một điếu thuốc cho vào lõ rồi lấy mẩu than hồng trong bếp châm để hút. Ở đây, dân bản không hút thuốc bằng lửa. Họ nói, hút bằng than đượm hơn.
     Cô gái lấy chiếc gùi mây đang làm dở, ra ngồi cạnh khung cửa sổ đan tiếp. Từ chỗ cô ngồi trông thẳng sang vườn đào, qua một cái sân. Hút xong điếu thuốc, bà mế quay lên hỏi:
-  Mấy con quê ở đâu? 
-  Chúng con ở Hà Nội.       
     Hoàng trả lời mế. Anh ngước nhìn đến bên cửa sổ, nơi người con gái Mường xinh đẹp đang ngồi đan gùi. Bà mế kể cho các anh nghe về đứa con đầu của bà: "Nó là anh trai của cái Mỵ!" - Mế bảo vậy. Đến bây giờ các anh mới biết tên cô.
-  Thằng anh trai của nó cũng đi bộ đội như mấy con, tết này vừa tròn một năm. Nó cũng mới viết thư về báo tin cho mế và em gái biết, đơn vị nhận được lệnh lên đường khẩn cấp ra chiến trường.
     Tay vẫn cời bếp lửa cháy hồng lên, bà mế nghẹn ngào:
-  Nhiều lúc nghĩ đến nó, mế thấy thương thương, nhưng lòng mế vui, mế thấy tự hào.               
     Đưa tay chỉ lên chiếc bàn thờ nhỏ, có một bát nhang đặt dưới bức chân dung một ông già đang ngậm tẩu, giọng mế rưng rưng:
-  Cha chúng nó không còn để trông thấy các con khôn lớn. Nếu biết, hẳn ông ấy phải vui sướng lắm!            
     Theo như mế kể - Mỵ vừa mới học xong lớp y tá ngắn hạn ở trên tỉnh. Cô trở về làm việc tại nhà y tế địa phương, phục vụ bà con trong bản.Thỉnh thoảng cô lại tình cờ nhìn về phía Hoàng: cái anh chiến sĩ có mái tóc đen mềm, chải hơi thành sóng, trông dễ có cảm tình ấy! Sáng nay, như có dòng nước mát nào đó đã tưới vào tâm hồn trắng trong của người con gái bản. Bắt gặp Hoàng nhìn lại, Mỵ vội cúi xuống đan tiếp, má chín hồng như người vừa ra từ bếp lửa. Một cái gì rạo rực trong cô...
     Nghe lời mế, Mỵ dẫn các anh ra vườn, cắt cho mỗi anh một cành đào. Không hiểu sao, lần này cầm chiếc liềm để cắt cành, tay Mỵ cứ run run... Hoàng vội chạy đến giúp. Mỵ đưa liềm cho anh, miệng chỉ tủm tỉm cười.
     Khi tiễn chân các anh ra về, cô còn đứng nhìn theo mãi. Tới khi cái anh chiến sĩ trông đẹp trai mà cô vẫn chưa biết tên, quay đầu nhìn lại. Như người ăn vụng bị bắt quả tang, Mỵ e thẹn ù chạy lên nhà. Cô vẫn nhớ,  mấy anh đã hứa sẽ vào thăm bản luôn.
 
 
 
 
 
 
                                                      14-
 
     Hoàng đã nhận thấy tai hại về sự sa đà tình cảm của anh với cô gái Mường. Tâm hồn trong trắng, thơ ngây của người con gái dân tộc, thanh suốt như chiếc tách pha lê. Sau những lần anh lui tới thăm bản, những lời mời đón, ngọt ngào trai gái – Mỵ đã ái mộ anh! Một tình cảm âm thầm, trinh khiết và tha thiết.
     Phải nói rằng, tuy chưa phải là một lâu đài tráng lệ với những ô cửa tò vò cao chót vót, hay đỉnh tháp hùng vĩ... Nhưng chính sự tươi mát của tâm hồn và tình lưu luyến như hương hoa của em, đã kêu gọi trái tim những người con trai vươn tới. Đã làm cho lòng ta say.
     Ngày ngày cô mong được gặp anh. Thời gian này đơn vị được nghỉ ngơi đón tết, anh em chiến sĩ rỗi rãi, tự do hơn. Họ cũng thường tranh thủ lui tới bản chơi và thăm hỏi bà con.
     Sáng nay anh lại đến. Đang đứng ở cửa ngóng, trông thấy bóng anh từ xa... cô chạy ra đón. Đôi trai gái dắt nhau đi trong vườn đào chi chít hoa, hương đào bay quanh... cảm giác như đến ánh sáng cũng chứa đựng những hương say. Không biết đó chỉ là hương của hoa hay cả hương của người?  Mầu hồng của đào, mầu hồng của nắng... tắm lên làn da trắng mịn mà, trên khuôn mặt xinh xắn của cô gái Mường. Ánh mắt cô nhìn anh lung linh, tựa như đang có bản nhạc "tình yêu và cuộc sống" cất lên trong tâm hồn. 
     Anh đứng ngây ra ngắm nhìn cái vẻ đẹp thơm dại như bông hoa rừng của cô gái bản. Cô nhìn anh hơi e thẹn, cúi xuống:
-  Sao anh cứ nhìn em mãi thế?                         
-  Đào đẹp quá em nhỉ!
     Hoàng nói và mỉm cười.
-  Anh thích cành nào?
-  Cành nào cũng đẹp.
     Họ đi qua những cành đào đung đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
-  Anh Hoàng, em rất mến anh!
     Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây... chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu, đầy sức quyến rũ bủa vây. Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác như toàn thân cô đang đổ sụp. Lúc này, người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
     Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã hấp dẫn anh...
     Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy ư!" – Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè, không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát và ham muốn được khai phá...
     Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
-  Mình có làm gì tồi tệ đâu?
     Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những tình cảm rất đẹp đẽ với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong anh... và ta lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi thanh xuân với em.
     Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái, tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng của người thiếu nữ mới lớn.
     Anh bế cô đặt xuống vườn đào.
     Cả anh và cô đều biết rằng: những giây phút ân ái, gần gũi như thế này, chỉ là những khoảnh khắc ngắn ngủi. Rồi anh sẽ tiếp tục ra đi! Nhưng chính ý nghĩ đó... không phải để ngăn giữ, mà lại thôi thúc họ dành cho nhau nhiều hơn.
     Tiếng cô thầm thì: "Em đến với anh nhanh quá, phải không?". Khi đôi bàn tay của người chiến sĩ lần cởi tấm áo chẽn trắng, ra khỏi tấm thân trắng ngần và thơm mát. Cô khẽ giữ tay anh lại, nhưng rồi... lại để mặc anh. Khi anh cởi bỏ cả chiếc váy hoa ra khỏi cô – Trong cô chỉ nghe thấy tiếng nói thầm thì: Em yêu anh... chỉ vì em yêu anh... Dù một ngày nào đó em không còn được gặp anh nữa, thì giây phút này người con gái bản vẫn cho anh, giữ mãi mối tình đẹp đẽ với anh!
     Chiến tranh! Ngươi có ý nghĩa gì, khi đem so sánh với tâm hồn và thể xác trinh trắng của người con gái này? và chính đôi mắt của người con gái, đôi mắt như một bầu trời xanh, trong như dòng suối rừng... đang lên án ngươi!
     Ngươi muốn sự sống trên đời này phải vật vờ như bóng ma ư? Ngươi muốn hủy diệt cả tình yêu và cuộc sống, mà đấng thượng đế tối cao đã ban thưởng cho con người ư? Hãy nhìn đến người con gái xinh xắn, đáng yêu này – Ngươi sẽ thấy sự tồn tại của ngươi đáng nguyền rủa đến vạn lần?
     Anh ngắm nhìn ánh mắt ngây dại như giấc mơ xa của Mỵ. Hai tấm thân đã quyện vào nhau trong vườn đào. Cô run run và khẽ thốt lên: "Anh, em sợ!" – nhưng cả người cô vẫn uốn cong để ghì chặt lấy anh.
     Nhưng một tiếng nói nào đó từ trong trí não đã ngăn anh lại? - Không được! Anh không thể đi đến bước ấy. Bởi vì, anh yêu Thu! Nếu anh đi quá xa với người con gái bản này, anh sẽ có lỗi với Thu.
    Hoàng vội vàng đứng dậy, trước sự ngỡ ngàng của cô gái. Ánh mắt của cô như muốn nói với anh: Em cho anh mà, sao anh không chiếm đoạt em? Nhưng trong anh vẫn vang lên một tiếng nói kiên quyết: Không, anh không thể phản bội lại Thu!
     Hoàng bế Mỵ dậy... khẽ hôn lên tấm thân em lần nữa, rồi mặc áo và váy lại cho em. Mỵ vẫn ngạc nhiên không hiểu: Hay là, anh không thích cô? Người con gái bản lặng lẽ, những giọt nước mắt bỗng trào ra trong khóe mắt. Anh phân trần:
-  Anh không thể, dù anh rất mến em – Mỵ ạ!
     Anh nói như thể xin lỗi vậy. Anh cũng đã phải dùng hết lý trí để cưỡng lại những ham muốn mạnh mẽ của bản thân, nhưng Mỵ vẫn nhìn anh như có chút hờn dỗi và trách móc:
-  Anh không thích em ư?
     Hoàng âu yếm nói:
-  Không phải vậy đâu, em ạ! Anh rất thích em. Anh rất muốn, nhưng...
     Không để cho anh nói hết câu, cô căn vặn:
-  Vậy sao anh dừng lại...
     Anh không biết phải giải thích như thế nào? Anh không thể nói với cô rằng: Anh đã yêu một người con gái khác rồi, dù đó là sự thật. Hoàng đành chống chế:
-  Bọn anh sắp phải đi! Anh không thể ở lại đây với em được.
-  Thì em vẫn biết các anh phải đi...
     Giọng cô nghẹn ngào: "Nhưng em tình nguyện cho anh. Sao anh phải ngần ngại? Người con gái bản đã thuộc về anh rồi mà...". Cô bỗng ôm chầm lấy anh nức nở khóc:
-  Em sẽ đợi anh về! Phải cách xa anh thế nào, em cũng đợi...
     Sự bộc lộ tình yêu, hẹn hò của cô gái dân tộc hiền lành... làm cho Hoàng hoảng hốt. Tiếng khóc của cô thổn thức, nước mắt trào ra đẫm cả ngực anh. Tưởng như cả vườn đào kia cũng phải rung cảm trước tiếng khóc ấy. Nó cất lên từ trong thiên thai, trinh khiết và thơm hương như cánh hoa rừng mùa xuân. Một làn gió đưa về làm cho những cánh hoa bay lả tả...
     Cái dây cót của chiếc đồng hồ thời gian cứ thản nhiên quay. Thoáng chốc trời đã gần đứng bóng, cũng sắp trưa. Mỵ chỉ muốn thời gian thật chậm, để anh ở lại thật lâu với cô.
     Khi Hoàng từ biệt Mỵ ra về, anh vẫn chưa thể nào giải thích được cho cô hiểu? Anh chỉ biết hứa, tết này nhất định sẽ vào bản để thăm mế và cô.
     Họ cùng nhau đi ra khỏi vườn đào. Trên vòm trời, vài đám mây mềm mại đang trôi...
 
 
 
 
 
 
 
                                                    15-  
 
     Sáng nay được ngày nắng ấm, các chiến sĩ trong đơn vị Hoàng kéo nhau ra suối tắm. Từ trên núi cao đổ xuống một dòng thác lớn, như một con trăn khổng lồ trong cơn quẫy đạp, quăng cả tấm thân đồ sộ của nó xuống núi. Thác nước tràn ra một khu hồ, từ đó trào vào lòng con suối không lớn lắm, nên nước chảy rất xiết. Những chỗ suối nông, nhấp nhô những phiến đá bị nước bào nhẵn, nhớp nháp rêu. Chỗ suối rộng và sâu cũng phải ngập ngang ngực.
     Người ta kháo nhau: Ngày xưa hồ này còn có tên gọi “Hồ tiên nữ”. Họ truyền kể một câu chuyện thần thoại về hồ.
… Cứ chiều chiều có bẩy con chim phượng bay đến hồ để tắm. Khi đó giữa hồ còn có một hòn đảo. Giữa đảo nổi lên một chòm núi nhỏ. Trong núi có một chiếc hang cũng không sâu lắm.
     Một chiều… bẩy con chim phượng hạ cánh đỗ xuống đảo, hiện thành bẩy nàng tiên xinh đẹp. Bẩy nàng tiên vào trong hang để trút bỏ xiêm y, rồi thứ tự từ cô chị cả đến cô em út – gọi là nàng bẩy, bước ra khỏi hang xuống suối tắm. Tắm xong họ lên phơi mình trên đảo.  
     Bẩy nàng tiên như bẩy tòa thiên nhiên, lồ lộ phơi mình trong sắc nắng hoàng hôn. Cái hoàn mỹ của mọi sự hoàn mỹ ngự trị trên da thịt các nàng. Hương thơm tỏa ra từ thân thể các nàng đã gọi những bầy chim khôn nhất, có tiếng hót hay nhất... bay đến đảo.
     Đẹp nhất là nàng Bẩy! Nàng nằm bên mé nước, tóc xõa xuống suối. Bầu ngực nàng hiện lên những nét trạm sinh động, tài hoa của tạo hóa. Nàng Bẩy lim dim mắt… nghĩ đến nơi trần thế? Giấc mơ của nàng mỏng manh như hơi thở. Niềm khao khát tình yêu ứa lên đôi môi nàng như nước mật ngọt của trái vả rừng.
     Nàng là tiên, nhưng vẫn là phụ nữ: Nàng không thần tượng sự trong trắng, tiết trinh - Nàng muốn hiến dâng! Nàng ao ước có một cuộc sống hạnh phúc và trăn trở ở cõi trần gian, hơn cuộc sống yên ả nhưng cô đơn, lạnh lẽo chốn thiên đình. Nàng khao khát được yêu, được biết mình đang tồn tại. Đàn bà: Họ là thực tại còn nàng là chiêm bao...
     Ý nghĩ ấy càng làm cho nàng Bẩy thêm buồn chán. Nhìn lên bóng nắng chiều – Nó cũng giống những năm tháng còn lại của đời nàng, lụi dần xuống núi. Nỗi khao khát về sự "hiến thân" truyền lan trong cơ thể nàng, nàng vùng dậy thét lên:
-  Tồn tại! Tôi muốn tồn tại! Tôi muốn sống. Tôi mu...ốn... số...n...g...
     Tiếng thét của nàng Bẩy làm cho bầy chim sợ hãi bay lên cao. Các nàng tiên chị thì nhìn em lo âu...
     Con suối mà các anh đang tắm, bên cạnh Hồ Tiên Nữ ngày xưa. Hòn đảo ấy qua nhiều năm tháng, đã bị thác nước và sóng hồ đánh tan đi mất. Các chiến sĩ khỏa trần ngâm mình trong dòng suối mát, cười reo như  con trẻ.
     Dong vắt chéo chiếc khăn tắm màu cỏ úa, vừa kỳ cọ tấm lưng to bản vừa nói với Hoàng:
-  Này, cô bé trông cũng xinh tươi không kém gì nàng Bẩy?
     Ý Dong muốn nói đến cô gái Mường mà mấy anh đã gặp đôi lần khi vào bản.
-  Cũng khá.
     Hoàng làm ra vẻ thản nhiên đáp lại lời Dong, rồi nhào ra chỗ nước sâu ngụp lặn, lấy tay xoa vò mái tóc đang gội dở. Đám bọt xà phòng trắng lốp nổi lên mặt nước... bị sóng cuốn đi. Hùng thì đang nằm phơi mình trên một tảng đá ở chỗ suối nông, hai tay vắt qua đầu làm gối, nói lửng lơ:
-  Không khéo có người viết thư đến đơn vị kiện cáo, là lôi thôi đấy!
     Văn đang tắm gần đấy nói gióng lại:
-  Lo gì, lính là phải thế!
     Anh có ý ủng hộ sự thân tình của Hoàng với Mỵ. Thực ra, đồng đội của Hoàng cũng chỉ đoán già, đoán non ... trêu trọc anh cho vui. Họ vừa tắm vừa bàn tán đủ thứ chuyện, sôi nổi khắp mặt suối.
-  Này, tớ nói thật: con gái ở đây là có bùa mê đấy! "ăn" phải bùa mê thì khó mà gỡ?
-  Chậc, lính đất thánh. Cậu quê lắm!
     Dạo đó – lính Hà Nội, anh em đều gọi là "lính đất thánh"! Một chiến sĩ chỉ vào Thuyết, giọng trêu trọc:
-  Cứ nhìn thằng Thuyết đây! Cũng là lính đất thánh: khôi ngô, tráng kiện như thế mà... chiều qua nó leo lên tận lưng chừng núi, giở thư nhà ra đọc rồi khóc thút thít như con nít?
-  Nhớ bu chứ gì?
-  Thế đã phúc. Chắc em yêu ở nhà lại "tút" theo thằng cha nào rồi?
-  Chỉ nói bậy.
     Thuyết lúng búng vặc lại.
-  Bậy à? Cũng may bọn tớ đi tìm mấy bông hoa núi mới gặp, nếu không lại chẳng ngồi đến tối.
-  Hoa khôn trong bản thiếu gì mà đi tìm hoa núi, hả ông bạn?
-  À... bọn tớ thích chơi hoa dại.
-  Nghe đâu ra ngoài tết bọn mình về phép? Mỗi anh được giải quyết bốn ngày.
-  Chắc sắp đi?
-  Ồi, lính biết thế nào mà đoán trước? Đùng một cái, chẳng phép tắc gì... đi thẳng vào trong cũng nên.
-  Mẫn ơi! Cậu còn nợ bọn này một chầu khao đấy nhé!
-  Có tin mừng gì mà khao đấy?
-  Vợ nó viết thư lên đơn vị, báo tin vừa sinh con trai. Thằng cu kháu lắm!
-  Thế có "kháu" như anh dân quân xã không đấy?
-  Cần quái gì. Con người cũng như con ta, con xã hội cả… phải không cậu?
-  Chỉ nói nhảm.
     Tất cả cười ồ. Một anh chiến sĩ trẻ đã tắm xong, vừa đi về vừa ngâm bài thơ "lính mà em" – Cũng không biết tác giả bài thơ đó là ai?
              Em trách anh gửi thư sao chậm trễ?
              Em đợi hoài, sẽ giận cho xem
              Thư anh viết: anh nào đâu muốn thế,
              Hành quân hoài đấy chứ - Lính mà em!
 
              Anh gửi cho em một cành hoa dại
              Để làm quà, không về được em ơi!
              Không đi lễ nửa đêm cùng em nữa
              Thôi đừng buồn em nhé – Lính mà em!
 
              Ngày về phép anh hẹn em dạo phố
              Tay chiến binh đan năm ngón tay mềm
              Em xót xa, đời anh nhiều gian khổ
              Anh mỉm cười rồi nói – Lính mà em!
 
              Qua phố nhỏ anh ghi dòng kỉ niệm
              Trời mưa mưa hai đứa đứng bên thềm
              Anh che cho em khỏi ướt tà áo tím
              Anh quen rồi không lạnh – Lính mà em!
 
              Anh kể chuyện hành quân và gối súng
              Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
              Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
              Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
 
              Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
              Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
              Em xa lánh những ngày vui trên phố
              Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
 
                                                *
 
Khi Văn rủ Hoàng ra về thì dưới suối cũng vãn người tắm, anh em đã về gần hết. Mấy hôm nay, Văn không khỏi ngạc nhiên vì sự thay đổi của Hoàng? Trong cuộc đời chiến sĩ đã bao kỉ niệm vui buồn có nhau. Nhưng rồi các cuộc hành quân liên tiếp, nhiệm vụ mới lôi cuốn họ vào. Sự thay đổi của Hoàng lần này, có gì đó hơi khác thường? Linh tính trong Văn báo cho anh biết, một cái gì "mới" xẩy ra với bạn mình.
     Hoàng nhớ gia đình chăng? Chắc không phải. Tình cảnh gia đình Hoàng, Văn hiểu lắm! Hoàng từng kể cho Văn nghe. Hay Hoàng nhớ Thu? Đúng thôi! Nhất là xuân đến, nhiều khi Văn cũng thấy lòng mình xốn xang. Hoàng còn có người yêu… chứ Văn, cuộc đời với anh mới mẻ quá! Anh chưa hề ý niệm rõ rệt về tình cảm ấy. Đôi lúc anh cũng vấn vương nghĩ đến một người bạn gái thủa học sinh, những kỉ niệm thời thơ ấu. Nhưng rồi tất cả qua đi. Cuộc sống đời lính sôi động, tất bật, mệt mỏi. Chẳng lẽ vì thế mà bạn anh thay đổi nhiều vậy ư?
-  Hoàng đã nhận được thư của Thu chưa?
     Văn hỏi.
-  Chưa.
     Hoàng trả lời gọn lỏn một tiếng như thế, dường như anh vẫn đang mải mê đuổi theo niềm tâm tư riêng của mình. Anh đã kể cho Văn nghe chuyện tình cảm của anh với Thu, nhưng chuyện mới này... với cô gái bản Mường xinh xắn, thì anh chưa thể kể được? Hay ít nhất là bây giờ anh chưa thể! Nếu biết, Văn sẽ nói gì với anh? Chắc lại chỉ vài câu vấn an bạn: Ồi, nghĩ làm gì nhiều! Lính mà...
    Không! Đây không còn phải là câu chuyện vui vẻ, bông đùa nữa. Nó sẽ trở nên khôi hài, thậm chí là "vô liêm sỉ", nếu anh coi đấy là một trò giải trí? Nhưng anh cần phải làm gì? Cứ mặc thế, ngày tháng sẽ qua đi ư? Thì mấy ngày nay, anh đã chẳng làm thế đấy sao! Anh đã tránh để khỏi gặp Mỵ... rồi anh sẽ đi xa... sẽ vào chiến trường...
     Anh có thể làm như thế, và anh biết rằng: dù không muốn thế thì anh cũng chẳng thể làm gì khác được nữa. Lương tâm anh bị cắn rứt?
     Hay là, nói thật với Mỵ mọi chuyện? Không, không thể được. Không nên làm như thế! Hoàng thấy chính anh chẳng khác gì kẻ phản bội cả hai người con gái?
     Hoàng cất tiếng hỏi bạn:
-  Văn nghĩ như thế nào về một tình yêu đúng đắn? Chẳng hạn, một sự san sẻ ngoài ý thức, có phải là sự phản bội không?
     Trầm ngâm giây lát, Hoàng lại nói như thể tự vấn mình: "Mà cũng không hẳn đã là ngoài ý thức?".
-  Mình chưa có kinh nghiệm trên lĩnh vực ấy!
     Văn nhún vai, ra vẻ muốn nói: "Cậu cũng biết đấy, mình đã có mối tình nào vắt vai đâu cơ chứ?". Nhưng Văn cũng thích tranh luận.
-  Mình nghĩ: Một tình yêu đúng đắn là sự nhất quán trong tư tưởng, lý trí và tình cảm.
-  Nhưng ai dám khẳng định rằng: Khi tôi đã yêu rồi, thì không được phép rung động trước bất cứ một hình ảnh nào? Một tình cảm nào? và chẳng lẽ: ngược nó là phản bội? Là thiếu nhất quán? Con đường của tình yêu còn bão gió hơn cả con đường chúng ta đang đi, Văn nhỉ!
     Hoàng triết lý một hồi.
     "À, thì ra thế! Thì ra sự thay đổi của cậu mấy hôm nay là thế đấy!" – Văn nghĩ vậy, nhưng không nói. Anh vui vẻ như người vừa khám phá ra một bí mật, lại sôi nổi tranh luận:
-  Ờ ờ... thì chuyện tình yêu của người đàn ông với người đàn bà là chuyện của riêng, rối rắm lắm, khó có thể giải thích? Nhưng mình cảm thấy cậu đang tự gây cho mình phiền toái đấy, Hoàng ạ!
     Hoàng lặng lẽ không nói gì. Văn nhìn bạn có vẻ dò xét, buông ra một câu triết lý chẳng ra đâu vào đâu:
-  Tại cậu đa cảm quá, và tính đa cảm có khi trở thành kẻ phản đồ của tình yêu đấy!
     Họ cũng đã về tới chỗ dựng lán trại, nơi đóng quân của đơn vị để đón tết. Một cái tết đầu tiên của đời lính trong khu rừng núi Hòa Bình này.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                          16-
 
     Mỵ ngồi im lặng hàng giờ bên chiếc cửa sổ bằng trúc, mắt bâng khuâng nhìn ra xa. Bà mế ngồi gần chỗ bếp lửa giữa nhà, bàn tay gầy guộc, run rẩy đẩy những thanh củi vào sâu trong đống than hồng. Ngọn lửa đỏ lưng lức bốc lên, lè lưỡi uốn mình như một chiếc câu liêm. Chốc chốc mế lại quay về phía con gái chép miệng. Nhìn sâu vào ngọn lửa, mế than thở:
-  Anh trai của con đi vào chiến trường không biết tình hình thế nào, vẫn chưa thấy báo tin về?
-  Đơn vị của anh con chắc vẫn còn đang đi trên đường Trường Sơn, nghe nói phải hai, ba tháng mới vào đến miền Nam, mà mế?
     Mỵ trả lời mế nhưng mắt cô vẫn đăm đắm nhìn về phía xa. Bà mế lại chép miệng:
-  Vắng nó, lắm lúc nhà cứ lạnh tanh như âm phủ vậy.
-  Mế! Còn con vẫn đang ở nhà với mế cơ mà.
     Cơn ho của bà mế lại nổi lên cắt ngang câu nói Mỵ. Mế úp bàn tay trái lên ngực mình, bàn tay phải nắm lấy cây cột bằng bương gần bếp, ho rũ rượi. Mỵ vội chạy lại đỡ mế.
-  Con đã bảo mế đừng hút thuốc nữa, mế không nghe!
-  Thiếu cơm cũng không khổ bằng thiếu điếu thuốc.
     Bà mế nói vậy. Mỵ vuốt ngực cho mế. Cái sức người già bị cơn ho giằng xé, lưng mế muốn gẫy gập xuống. Mỵ đỡ mế đứng dậy, đi ra phía ổ ngủ của mẹ con cô. Hồi tối, cô đã trải thêm một chiếc chăn chiên bằng dạ lên trên chiếu, cho mế nằm đỡ đau lưng.
     Mỵ đến bên bếp lửa, ngồi đúng chỗ mế vừa ngồi. Cô tiếp thêm đôi khúc củi vào bếp lửa. Dịu cơn ho, bà mế chắc cũng đã ngủ. Những dòng suy nghĩ lại miên man đến trong đầu Mỵ.
     Mới chỉ ít hôm trước, ý nghĩ về cuộc sống với cô còn thật đơn giản. Nó đơn giản như anh nông dân dắt trâu ra ruộng cầy, hết luống cầy này lại tiếp sang luống khác. Thế mà hôm nay... lòng Mỵ cứ bồn chồn không yên.
     Ở một người con gái như chiếc nụ hoa mới hé nở, khi chưa nếm trải cái ngọt ngào và cả sự đớn đau của tình yêu, tâm hồn còn trong như giọt sương buổi sớm mai. Tuy có lúc do sự nhạy cảm của cuộc sống, họ cũng khao khát một cảm giác mơ hồ, trừu tượng về sự âu yếm, vuốt ve của người con trai. Tình cảm và trái tim còn rất mềm mại, một chiếc gai non lỡ chạm vào cũng làm ứa máu. Nói chung, khi chưa được hít thở niềm sung sướng đến mê dại của yêu đương, thì họ cũng chưa bị co giật bởi một cơn sốt tinh thần nào.
     Chính lúc ấy, bất ngờ Mỵ đã gặp gỡ anh, và cơn sốt tình yêu dồn dập đến trong cô. Có lúc, Mỵ cảm thấy như nghẹt thở vì vui sướng. Tiếng chuông của trái tim người đàn bà đã vang lên trong Mỵ, ngân nga, ngân nga mãi...
     Ôi, buổi sáng với anh ở vườn đào hôm ấy! Mỵ làm sao có thể quên được. Từ thân thể đến tâm hồn người con gái của Mỵ, tựa như một cung đàn bỗng rung lên! Bàn tay anh đã đặt vào cung đàn của em, để hàng ngàn, hàng ngàn những âm thanh trầm bổng bay ra. Nó làm dao động mọi tế bào trong cơ thể, vọng vào rất sâu, rất sâu... len lỏi đến cả nơi thầm kín nhất. Làm cho Mỵ hạnh phúc! Tuy anh chưa chiếm đoạt cái linh thiêng, quí giá nhất của người con gái. Khi ấy Mỵ cũng thấy muốn... nhưng anh đã dừng lại.
     Nghĩ về chuyện đó, bất giác Mỵ thấy thèn thẹn... mặc dù chỉ ngồi một mình, lại tự cười thầm bên bếp lửa.
-  Ghét ghê! Người ta đã cho còn không muốn...
     Cô lẩn thẩn nói với chính mình, tay tiếp tục cời cho bếp lửa đêm đông cháy hồng lên với những dòng tâm tư thao thức.
     Như người ta nói: Người đàn ông nào đã chiếm được trọn vẹn tiếng chuông thứ nhất trong trái tim người đàn bà, có nghĩa là vĩnh cửu! Lần đầu tiên trong đời Mỵ được tận hưởng cái cảm giác khoái lạc, khi cả tấm thân anh trăn trở, dầy vò trên thể xác cô, dù anh chưa đi đến bước tận cùng. Nghĩ lại những giây phút ấy, niềm hoan lạc vẫn còn dấy lên rạo rực khắp người Mỵ.
     Ý nghĩ về thực tại chợt đến làm cho cô hoảng hốt: Chiến tranh! Phải, chiến tranh! Anh sắp ra chiến trường… Liệu cô còn có thể được gặp lại anh nữa không? Mặc dù cô biết mình sẵn sàng chấp nhận, hoàn cảnh nào... Mỵ cũng vui lòng trao tất cả cho anh.
     Một mình ngồi trong đêm vắng bên bếp lửa, cô gái vẫn mơ tưởng đến... cái cảnh trần truồng lăn lộn với người đàn ông ở vườn đào. Nó sẽ trở thành một kỉ niệm theo suốt cuộc đời cô.
     Tiếng con chim nào đó kêu nấc lên ở ngoài bìa rừng. Tự nhiên Mỵ lại thấy hơi run và lạnh... mặc dù ngọn lửa đỏ vẫn cháy bồng lên sưởi nóng cả gian nhà. Mấy hôm nay anh không vào bản, mai đã là 30 tết rồi! Anh đã hứa sẽ vào bản ăn tết với mế và Mỵ, bởi vậy cô nóng ruột chờ? Thời gian như kéo dài lê thê...
     Giọng khàn khàn của bà mế vừa thức giấc, giục con đi ngủ. Mỵ dập củi, chỉ để lại một bếp than hồng, rồi vào chiếc ổ bông nằm xuống bên cạnh mế. Một lúc, tiếng thở của người con gái bản đã đều đều.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                          17-
 
     Đã qua hai ngày tết vẫn không thấy anh đến? Anh đã hứa với cô, thế mà... Mỵ muốn giận dỗi và trách móc, nhưng có gặp anh đâu mầ trách cơ chứ? Bao ý nghĩ suy diễn cứ lẩn quẩn trong đầu óc, rồi cô lại tự thanh minh cho anh: "Chắc là có chuyện gì đột xuất ở đơn vị, nên anh không vào bản được".
     Hôm qua mồng 2 tết, yên trí thế nào anh cũng vào… nên Mỵ đã lùi sẵn mấy ống cơm lam bằng thứ gạo nương thơm nhất bản. Mế lại cho con gà trống béo nhất chuồng, để làm bữa đón anh. Suốt cả ngày chờ? cô đứng... cô ngồi... đến tận chập tối vẫn không thấy bóng dáng anh đâu. Khi đó, mế và cô mới dọn cơm ra ăn. Cô ăn nhả nhớt không thấy ngon miệng, mế thì suốt bữa chẳng nói câu nào.
     Cô cứ tự biện bạch với mình: Chắc hai ngày tết, các anh phải tổ chức vui xuân trong đơn vị, nên không vào bản được. Có lẽ anh cũng sốt ruột lắm? Anh cũng muốn vào với cô đấy, chứ không phải...
     Hôm nay là mồng 3 – Mỵ nghĩ, thế nào anh cũng vào. Cô lại hy vọng và chờ đợi! Thế mà... trưa đã đứng bóng, vẫn không thấy anh đâu? Cô gái bản ra cửa nhìn về phía rừng, ngóng đợi.
     Cô giận dỗi, đi đi... lại lại... dậm chân thình thình lên mặt sàn. Mế mắng:
-  Cha đẻ mày, lớn bằng ấy mà vẫn như con nít.
     Mắng thế, nhưng mế thương cô lắm! Mế còn mong cái anh bộ đội vào đây bữa trước, hơn nó nữa.
     Sự thôi thúc muốn được gặp lại anh, mạnh hơn nỗi e ngại. Cả bữa cơm trưa nay, cô cũng chỉ ăn qua quít. Ăn xong, Mỵ nói với mế: Cô muốn vào dơn vị thăm các anh bộ đội? Mế chỉ chép miệng, rồi bảo:
-  Ừ, con muốn đến chỗ các anh ấy thì cứ đi! Nhưng nhớ cẩn thận. Đừng về muộn quá, mế lo.
     Rửa bát đũa xong và uống vội chén nước. Bà mế chỉ kịp nghe hai tiếng: "Con đi"… bóng con gái mế đã ra đến ngoài đường bản. Nắng ngập trên con đường đất đỏ. Những cánh hoa mận trắng rơi phủ khắp đường, bay lên đuổi theo bước chân của Mỵ. Cô băng qua một nương rẫy lớn, những cánh cò bay nhanh về phía rừng. Núi đã ở trước mặt.
     Từ xa, Mỵ nhìn thấy thấp thoáng những chiếc lán tre mới dựng. Đó chính là nơi các anh bộ đội trú quân để ăn tết. Lúc này Mỵ thấy hồi hộp quá, trống ngực đập thình thình. Dừng lại giây lát để trấn tĩnh, cô mạnh dạn đi về phía dẫy lán đầu tiên, hỏi thăm đường đến chỗ của anh.
 
                                                    *
 
     Vào những ngày đầu xuân Mậu Thân năm 1968 ấy, tin thắng lớn trên chiến trường miền Nam dồn dập bay ra miền Bắc. Nhà quân sự đứng bên tấm bản đồ theo dõi tình hình chiến sự từ các nơi báo về. Vừa nhận được tin giải phóng thành phố này, chưa kịp đánh dấu bằng những đường chỉ đỏ - Thì ở thành phố khác hoặc một đô thị nào đấy tại miền Nam, lại nhận được tin đã giải phóng.
     Trên khắp miền Bắc mọi người dân đều nín thở, đứng bên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, nghe tin chiến thắng.
     Những sư đoàn, trung đoàn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam đều báo động, sẵn sàng cấp tốc lên đường vào chiến trường. Các chiến sĩ cũng nôn nóng muốn ra ngay mặt trận.
     Toàn Trung đoàn 209, gọi là "Trung đoàn mũ sắt" thuộc Sư 312, được mệnh danh là "Quả đấm thép của Bộ” đang đóng quân tại rừng núi Hòa Bình – Các đơn vị đều nhận được chỉ thị tổ chức cho anh em đón tết tại chỗ. Bộ đội không được đi đâu xa, đợi lệnh chuẩn bị hành quân tiến vào miền Nam.
     Đơn vị của Hoàng thuộc Đại đội 5 – Một đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209... nằm trong tình huống báo động ấy! Chính đó là lý do: các anh không thể vào bản ăn tết cùng bà con được.
     Khi Mỵ hỏi thăm vào đến đơn vị gặp anh, mới biết sự tình như thế! Mọi ý nghĩ oán thán của cô với anh tiêu tan hết. Cô lại tự giận mình vì đã vội vã trách anh.
     Mấy chiến sĩ cùng trong Tiểu đội súng máy đại liên với Hoàng, đã mang kẹo mứt... cả bánh trưng bộ đội tự gói ra đón mừng cô. Mỵ vui lắm, cười nói với các anh bộ đội không thấy chán. Mãi tới gần chiều, hai người mới tách riêng ra được, dẫn nhau lên núi ngồi nói chuyện. Họ ngồi bên nhau, trên một thân cây gỗ lớn đã bị đổ nằm giữa rừng.
-  Tết này bọn anh có lệnh cấm trại!
     Hoàng nói lại lần nữa.
-  Em biết rồi!
     Cô nhìn anh tủm tỉm cười. Cả hai đều thấy lòng nhẹ nhõm, khi mọi nỗi niềm riêng đều trở nên nhỏ nhoi, trước tình hình chiến sự đang diễn ra nóng bỏng.
     "Dù sao thì cũng không thể khác thế..." – Anh nghĩ vậy, với anh hay với cô... sẽ còn lại một kỉ niệm. Số phận của những riêng tư trong giờ phút này thật mỏng manh. Chiến tranh ào qua nó, không mặc cảm.
     Nghĩ thế, nhưng không biết vì sao sự gặp gỡ với Mỵ, vẫn làm cho Hoàng lúng túng. Anh không ngờ cô lại đến tìm anh?
-  Anh Hoàng đang nghĩ gì thế?
     Mỵ ngả đầu áp sát vào ngực Hoàng, ngước mắt nhìn anh hỏi. Bỗng nhiên Hoàng bật cười.
-  Anh Hoàng cười gì?
-  Đêm qua anh nằm mơ.
-  Anh mơ thấy gì?
-  Anh mơ thấy là... trưa nay anh gặp em!
-  Chỉ bịa, ghét anh ghê!
     Mỵ nũng nịu với người yêu. Cô quên hết sự trách móc, lòng đang trào lên một niềm vui khó tả. Lấy tay nhặt một cộng tre nhỏ, khô rơi trên đất... bẻ tanh tách, ném nó ra xa. Chợt nghĩ tới điều sắp phải xa anh, lòng cô lại bồn chồn.
-  Bao giờ thì anh phải đi?
     Mỵ hỏi.
-  Chắc cũng sắp.
     Hoàng trả lời vậy, nhưng bản thân anh cũng không hề biết rằng: chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, anh đã phải lên đường. Chữ "sắp" của thì tương lai mà anh đã nói, sẽ trở thành thì "hiện tại".
-  Em cũng nghĩ là anh sắp đi.
     Giọng Mỵ trầm hẳn xuống, nghe rất nhỏ, có gì đang ứ nghẹn trong cổ cô. Bỗng tiếng kêu choe chóe của một con sóc màu hạt dẻ, phá tan sự yên lặng. Nó có chiếc đuôi xồm như cái phất trần, đang nhảy trên những cành cây trước mặt. Thoắt một cái, con sóc đã biến mất vào trong núi.
-  Đàn ông các anh thật tệ! Ghét anh ghê?    
     Mỵ ôm ghì lấy anh.
-  Có phải tại anh đâu? Lệnh đấy chứ!
-  Em không biết.
     Khi chưa gặp anh, cô những muốn nói với anh thật nhiều. Thế mà, giờ cô lại chẳng biết nói gì. Bao nhiêu ý nghĩ miên man trong trí não Mỵ? Khi em biết rằng, em đã yêu anh! Thế là, những ngày tháng vô tư của em không còn nữa. Mới có ít ngày thôi anh nhỉ, vậy mà em cứ nghĩ như đã yêu anh từ lâu lắm! Ở bên anh, em thấy mình hạnh phúc. Em sung sướng.
-  Liệu rồi, em có còn được gặp lại anh nữa không?
     Cô cảm thấy hơi hoảng hốt. Hoàng không nói gì, chỉ ôm chặt cô vào lòng. Những giọt nước mắt không ngăn được trào xuống má cô. Nghĩ đến lúc phải xa anh, Mỵ tưởng chừng như không thể nào chịu nổi? Mặc dù cô cũng biết: yếu đuối lúc này, khi đất nước đang cần mình – Là không đúng! Nhưng chắc anh sẽ chẳng giận em đâu, phải không anh? Người con gái nào mà chẳng thế! Những lúc ấy, cô chỉ muốn gục vào anh mà khóc. Khóc được, cô thấy mình nhẹ hơn.
     Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng, tha thiết biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở trong vườn đào ấy? Rồi anh đi! Lúc này, chúng mình không nghĩ về chuyện gì khác nữa. Chỉ nghĩ đến, em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
     Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt trận, sẽ cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
     Còn Hoàng, anh như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ, cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi, đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam.
     "Anh là của em!..." – Tiếng của cô gái đang yêu, thầm thì ở bên anh.
     Hãy lấy ánh mắt của người con gái đang say đắm, trong biển cả tình yêu, thì mới thấy nó sâu xa, thăm thẳm đến nhường nào.
     Hoàng không thể nào nói nổi với Mỵ cái điều mà anh đã muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào! Anh không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy nghĩ...
     Những tiếng lá khô gặp cơn gió thổi đến, bay xào xạc dưới chân. Nhìn vào rừng cây mà Hoàng thấy mình cứ như đang nhìn đến một khoảng hư không nào đó.
-  Anh Hoàng đang nghĩ gì vậy?
     Mỵ vẫn áp đầu vào ngực anh và hỏi. Đôi mắt cô trìu mến nhìn anh như muốn nói: "Anh đã thấy rồi đấy! Cả tâm hồn, trái tim tình yêu, rồi sẽ cả cuộc đời em nữa... đã chẳng thuộc về anh đó ư?".
     Hoàng ngập ngừng:
-  Mỵ, anh đã yêu...
     Có cái gì đang thôi thúc trong anh phải nói ra, rằng... anh đã yêu một người con gái khác! Nhưng Mỵ lại cắt ngang ý nghĩ đó của anh.
-  Em biết rồi! Thì em cũng rất yêu anh mà...
-  Không phải thế. Ý anh muốn nói: chúng ta không thể kéo dài quan hệ với nhau hơn được nữa. Bởi vì...
     Mỵ lại lấy tay bịt miệng, không để anh nói tiếp.
-  Anh lại muốn nói là: vì đất nước có chiến tranh, anh phải đi ra chiến trường, chứ gì?
     Giọng cô trở nên sôi nổi và kiên quyết:
-  Anh đừng bao giờ có ý nghĩ ấy nữa nhé? Nếu không là em sẽ giận đấy! Em sẽ chờ anh trở về, dù năm – mười năm, hay hai mươi năm, em cũng chờ.
     Bóng nắng của rừng chiều nghiêng ngả. Cánh rừng có vẻ hơi chao đảo, nhưng rồi êm đềm trở lại. Mỵ thấy giờ đây tất cả với cô thật nhẹ nhõm,  không nghĩ gì nữa, chỉ biết là cô đang ở bên anh. Cô kéo vòng tay anh ôm chặt lấy mình.
     Hoàng không còn tỉnh táo nữa. Những cảm xúc mạnh mẽ dâng trào trong anh. Rừng và núi che lấy họ. Cô kéo anh cùng nằm xuống thảm lá. Đôi mắt đáng yêu kia đang nhìn anh tha thiết đến chừng nào!
     Hoàng đã bị khuất phục hoàn toàn.
     Anh hôn lên môi, lên vú... và bàn tay người lính trẻ luồn qua lớp vải mỏng... xoa lên cả cái chỗ thiêng liêng, kín đáo nhất của cô.
     Mỵ bỗng vùng nhỏm dậy, tưởng cô từ chối không đồng ý với anh? Nhưng không phải vậy. Đôi bàn tay xinh xẻo của người con gái Mường tháo cởi dải thắt lưng bằng vải mềm vẫn quấn quanh cạp chiếc váy hoa, trút bỏ hết bộ đồ đang mặc ra khỏi người... để mở ra cả tấm thân trắng nõn nà. Một đấng thiên thai của tạo hóa đang lồ lộ trước mặt anh.
     Hoàng ngập ngừng:
-  Mỵ! Nhưng anh phải đi mà. Anh sợ em có thai?
-  Néu có thai, em sẽ sinh con cho anh. Mẹ con em sẽ chờ anh trở về!
-  Nhưng nếu em bụng mang, dạ chửa... bà con dân bản sẽ cười nhạo, chửi mắng em? Phải sống thế thì khốn khổ lắm, em ạ!
-  Không đâu. Biết em có thai với bộ đội, dân bản không trách mắng em đâu! Còn thương em nữa... Nhất là lại có con với các anh ra chiến trường.
    Cô kể: mấy năm trước, bản em có một chị có thai với một anh bộ đội cũng về đây đóng quân, rồi anh ấy ra tiền tuyến. Dân bản không những không mắng mỏ, khi chị ấy sinh con… bà con còn cưu mang để chị nuôi con nữa. Giờ cháu gái, con của chị đã được một tuổi. Cháu rất xinh và đáng yêu lắm!
     Người ta thường bảo: Con gái dân tộc đã yêu thì như giông bão, yêu điên dại, yêu không tiếc mình. Như con hươu, con nai núi băng qua nương, qua rừng tìm đến bạn tình!
     Cô kéo anh ghì sát vào mình… Chẳng thể nào cưỡng lại được nữa. Giây lát, một cảm giác tê dại lan truyền ra cả hai thân thể đang quấn xiết vào nhau. Cô uốn cong thân mình khẽ rên lên vì sung sướng, hạnh phúc dâng lên đến tột đỉnh! Lần đầu tiên cô đã được hưởng mùi vị của cuộc đời, với người con trai mà cô rất mực yêu thương.
     Khi mọi chuyện đã xong. Hoàng cứ nằm phủ phục mãi trên tấm thân lõa lồ của người con gái bản, cũng không biết là bao lâu nữa. Nhúm lông tơ mềm mại của cô vẫn đang cọ xát vào của anh kia - Ở nơi ấy vừa xẩy ra một vụ "động đất". Người con gái vẫn đang thấy run rẩy trong mình...
     Bóng chiều cũng đã tàn. Lúc này, Mỵ mới dịu dàng nói:
-  Đừng bao giờ quên em, nghe anh! Khi vào đến chiến trường, nhớ viết thư về cho em. 
      Hoàng chợt nhớ lại chuyện cũ - Cả hai người con gái, hai miền quê và dân tộc khác nhau, đều đã cho anh cái cảm xúc say mê, ngây ngất của cuộc đời.
     Cái cảm giác khi với Thu thế nào nhỉ? còn đang nằm trên bụng người con gái bản, anh tự hỏi trong mình: Người con gái Hà Nội, nàng cũng đã yêu anh tha thiết. Với nàng - anh thấy rạo rực, đê mê khi lăn lộn trên tấm thân trần, tuyệt bích.
     Còn với người con gái Mường? Ôi, hương vị bông hoa dại núi rừng, em cũng ngọt ngào hương say của một đóa thiên thai. Cả hai lần đều cho anh một cảm giác không thể nào quên được.
     Lúc Mỵ khẽ đẩy Hoàng ra, hai chân anh vẫn còn quặp chặt lấy đùi cô. Như người tỉnh giấc mộng, anh bật dậy và nói:
-  Ta về thôi em! Anh sẽ đưa em ra tới bìa rừng, rồi phải quay lại. Đơn vị không cho phép anh đi xa quá!
    Cô mặc lại áo váy, rồi cùng anh trở về. Nhìn theo bóng Mỵ đã khuất qua nương để vào bản, Hoàng mới quay lại đi về phía lán của đơn vị.
     "Thế là mình vẫn chưa nói được với Mỵ điều đó..." – Anh tự nhủ với mình: Rồi chiến tranh sẽ cuốn đi tất cả…
     Lúc này, bài thơ "Lính mà em" mà người chiến sĩ đã đọc bên bờ suối bữa trước, lại văng vẳng bên tai anh:
               .......
               Anh kể chuyện hành quân và gối súng
               Trăng trên đầu không đủ viết thư đâu
               Biên thư cho em, nét mờ chữ vụng
               Hãy hiểu giùm em nhé – Lính mà em!
 
               Ghét anh ghê chỉ được tài biện hộ
               Làm em càng thương nhớ thêm nhiều
               Em xa lánh những ngày vui trên phố
               Để nhớ người hay nói – Lính mà em!
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.03.2018 16:14:41 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 18.04.2018 16:14:29
 
                                             Chương IV.   
 
                  VỀ PHÍA HẬU PHƯƠNG
 
                                                       18-
 
          Sông Hồng nước đỏ quạch như pha máu, sóng trào lên lai láng. Đứng trên cầu Long Biên nhìn ra xa, mấy chiếc thuyền câu của dân vùng ven bãi vẫn đi đánh cá, tuy đã rất thưa thớt so với hồi trước. Trông xa tít, các con chim nhạn lao thẳng xuống gần chạm mặt nước, rồi nó nghiêng mình bay vọt lên, giống như những chiếc máy bay tiêm kích mig-21 đang nhào lộn.
     Ở mỗi nóc đỉnh cao của các trụ cầu Long Biên chạy vắt qua sông, người ta đều thấy có những cỗ pháo cao xạ 14,5mm loại hai nòng đặt trên đấy. Đó chính là những trận địa pháo của Binh chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Bóng những chiến sĩ đứng trên cỗ pháo, dưới trông lên nhỏ xíu.
     Trong những năm chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, khi không quân Mỹ đã leo thang đánh tới Hà Nội, không mấy ngày là không có máy bay đến đánh phá cầu Long Biên. Công việc của những tên giặc lái Hoa Kỳ là ném bom phá cầu – Nhiệm vụ của những người pháo thủ ở đây, là bắn máy bay Mỹ để bảo vệ cầu. Sự tồn tại của họ là sự tồn tại của cầu Long Biên, đường giao thông huyết mạch từ thủ đô lên mạn bắc. Khi những người chiến sĩ còn có mặt trên những mâm pháo, có nghĩa... cầu Long Biên vẫn còn thông suốt – Vì, nếu khi máy bay Mỹ đã ném bom trúng cầu, thì cùng với những đoạn cầu bị sập, xác họ và xác của cỗ pháo cũng sẽ bị hất chìm xuống sông. Bởi vậy, những người chiến sĩ trên trận địa pháo cao xạ phòng không này, được nhân dân mệnh danh là "Đội quân cảm tử"!
     Lúc này, có một cô gái mặc chiếc áo cánh màu nâu non, đi trên chiếc xe đạp mác hiệu Thống Nhất nữ, đang từ phía ngoại thành bên kia cầu Long Biên vượt vào nội thành. Cô gái gò lưng đạp mải miết, cố vượt qua cầu cho nhanh. "còn một phút ở trên cầu, là không có bình yên" – cô nghĩ vậy. Bỗng có tiếng gọi giật... Cô gái cảm thấy hình như có ai đó đang gọi mình?
-  Này, cô em ơi! Cô em đi xe đạp áo nâu non... ơi! 
     Cô gái dừng xe, quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng không thấy ai thân quen. Chỉ mấy người lạ cùng đi một hướng với cô, ai cũng vội vã... phóng thật nhanh. Một bác già thấy cô đứng lại, vừa vượt xe lên vừa mắng:
-  Muốn ăn bom à, còn đứng lại?
     Cô đã toan đạp xe đi tiếp, lại nghe thấy tiếng gọi lần nữa:
-  Anh đây cơ mà...
-  Chúng anh ở trên này, cô em ơi!
     Cô gái ngẩng đầu ngước nhìn lên cao, rồi tự mắng mình: "Rõ khỉ, thì ra mấy anh lính...". Tuy vậy, cô vẫn giơ tay vẫy vẫy... đùa lại:
-  Về đi anh ơi! Cơm canh nguội hết rồi?
-  Anh còn phải trực bắn máy bay Mỹ, chưa về được với em đâu! Có lên đây, anh đón?
-  Nghỉ nhé.
     Cô gái nhoẻn cười: "Đằng ấy không về, thì đây về một mình" - Nói xong, cô đưa hai ngón tay lên làm động tác hôn gió rồi phóng xe đi. Những câu trêu chọc của mấy anh lính pháo thủ còn theo cô một quãng.
     Cô gái ấy là Thu. Từ sáng sớm đến giờ, phải đạp xe ngót trăm cây số đường trường, Thu đã thấm mệt. Ô tô thời kỳ này hay bị trắc trở, Thu phải mượn chiếc xe đạp của chị y tá ở trường, đi về Hà Nội thăm gia đình.
 
                                                      *
 
     Ông Giáo ngồi trên chiếc ghế sa lông kê giữa nhà. Ông cầm ấm nước trà nóng, vừa rót nước vừa nói với Bà Giáo:
-  Tôi đã nói với bà cứ ở yên chỗ sơ tán. Tôi ở nhà đã có anh em trên Bộ giáo dục: ăn có nhà bếp tập thể, ốm đau có y tá của cơ quan. Bà về làm gì?
     Uống ngụm nước nóng, ông nói tiếp:
-  Cứ năm, bảy bữa... bà lại bò về Hà Nội. Cái đất thủ đô này, giờ đâu có được yên ả cơ chứ!
     Bà Giáo ngồi trên giường, mắt đeo cặp kính trắng gọng nhỏ, đang lúi húi mạng cho chồng cái đầu gối quần đã bị sờn vải. Nghe Ông Giáo nói thế, mới đặt cả hai tay lên đùi, vẻ trách móc:
-  Nếu tình hình không yên ả, thế sao ông còn ở lại?
-  Bà này nói lạ. Là vì công việc, chứ có phải tôi ở lại Hà Nội để chơi đâu?
-  Khốn ông còn hăng máu lắm cơ! Mình già rồi, lại không theo bộ phận đi lên chỗ sơ tán của cơ quan, cứ nhất nhất xin ở lại Thủ đô. Trên Bộ giáo dục dễ hết thanh niên rồi hay sao?
     Bà tỏ thái độ cương quyết:
-  Sống cùng sống, chết cùng chết. Ông ở lại, tôi cũng ở lại.
     Đã vá mạng xong cái chỗ quần rách đó, bà ghé răng cắn đứt sợi chỉ rồi đưa kim cho cô con gái đang ngồi bên cạnh:
-  Xâu hộ cho mẹ sợi chỉ khác, để mẹ mạng nốt cho ba con cái đầu gối quần bên kia, sắp bục đến nơi rồi.
     Bà chép miệng: "Chết chửa, hồi này mắt mẹ kém quá!". Thu kéo chiếc quần của ba về phía mình, nói với mẹ:
-  Để con mạng nốt cho ba con!
     Ông Giáo vẫn cảu nhảu:
-  Mà tôi ở lại Hà Nội thì cũng đã bị làm sao đâu, mà bà phải lo?
-  Lại chờ tới lúc bị làm sao?
     Bà Giáo kéo dài giọng: "Ông cho tôi xin chén nước!". Thu để chiếc quần của ba xuống giường, đi lại phía bàn rót nước đưa cho mẹ, rồi nói:
-  Hay là mẹ lên chỗ sơ tán của con ở trường, ở với con? Các bạn con, cũng khối người mang theo cả bố mẹ già lên đấy!
     Bà Giáo nhìn con gái, lắc đầu:
-  Để ba con ở nhà một mình sao được?
     Ông Giáo đứng lên đi lại phía bàn làm việc, cầm lấy quyển sách đang dịch dở. Không quay đầu nhìn vợ, ông nói:
-  Bà nó nên nghĩ lại cho chín? Tôi ở thêm Hà Nội ít bữa, cùng với anh em thu xếp công việc của Bộ cho gọn rồi... cũng sẽ đi sơ tán. Tình hình ngày càng căng thẳng thế này, chẳng ai để cho mình ở lại lâu.
     Đã mạng xong quần của ba. Thu gấp lại cẩn thận, để xuống dưới chiếc gối đầu giường, chỗ ba cô nằm... rồi cùng với mẹ lên gác trên.
     Gian phòng lâu ngày không có hơi người, đã có mùi ẩm mốc. Chiếc giường cá nhân của Thu kê sát cửa sổ, trông xuống phố. Vẫn như hồi cô còn ở nhà, mọi thứ không có gì thay đổi, nhưng Thu cảm giác như sự hoang lạnh đã tràn vào gian phòng. Bà Giáo đi về phía giường của mình, nói với con gái:
-  Ngày mai, con có vào chỗ sơ tán thăm chị dâu và cháu Kỳ Anh không?
-  Dạ, có ạ!
-  Thế thì liệu mà đi cho sớm, con ạ! Hồi này máy bay, máy bò đánh luôn.
-  Con cũng định đi từ sáng sớm, chiều tối quay về tranh thủ giải quyết mấy việc rồi phải trở về trường để học.
     Thu đi lại trong phòng ngắm nhìn những đồ vật cũ, nó gợi cho cô những kỉ niệm về quãng đời niên thiếu: "Ta cứ tưởng như vừa mới hôm qua thôi!" – Thu nghĩ. Cô nhìn mãi tấm chân dung thiếu phụ của nhà danh họa Ý Lê-ô-na Đờ-vanh-xi, được ba lồng vào trong một khung kính treo ở trên tường.
-  Tuyệt quá!
     Cô tự nói với chính mình, rồi quay lại hỏi Bà Giáo:
-  Anh con có viết thư về không mẹ?
-  Có, từ tuần trước. Con không nhắc thì mẹ quên khuấy, cả thư riêng anh đã viết cho con nữa đấy!                    
     Bà Giáo nhỏm dậy, lấy bức thư từ trong ngăn kéo tủ, đưa cho con rồi bảo: "Xem mà viết cho anh, kẻo anh nó mong". Lá thư của anh trai viết cho Thu khá dài, cô đọc ngấu nghiến như người đang đói.
-  Anh ấy kể chuyện chiến trường mà vui quá, mẹ nhỉ?                      
     Bà Giáo như đang suy ngẫm một điều gì, lơ đãng không trả lời con. Những kỉ niệm cũ với người con trai lại diễn ra trong óc bà. Chẳng nhiều nhặn gì, bà chỉ sinh được hai anh em nó. Thằng anh, được hai tuổi thì "cách mạng tháng 8" thành công. Cái thời mà Ông Giáo còn tham gia trong hội kín, hội mở... Mấy năm sau thì ông thoát ly đi kháng chiến. Bà có mang cái Thu trong lần vào vùng "tự do" của cánh mạng để tiếp tế cho chồng, ở Chi Lê thuộc vùng rừng núi Hòa Bình.
     Bất giác Bà Giáo thở dài: "Bây giờ chúng nó đã bằng ngần ấy". Một đời người, hai lần kháng chiến. Đời cha rồi lại đời con, không chừng rồi đến cả đời cháu của bà nữa? Thấy mẹ thở dài, Thu quay lại hỏi:
-  Mẹ làm sao thế?                            
-  Có viết thư, con nhớ bảo anh là mẹ dặn phải giữ gìn sức khỏe.             
     Nói rồi Bà Giáo trùm chăn ngủ.
...  Thế là cả hai người thân của Thu đều đến nơi chiến trường. Răng cắn vào cái quản bút chấm mực, cô nghĩ: Một người là anh, một người là bạn. Cả hai đối với Thu đều thân thiết.
     Những ý nghĩ cứ miên man trong trí óc cô: Khi người ta biết hy sinh cho một tình yêu, và sự hy sinh đó gắn bó bởi mối quan hệ riêng, chung... thì họ có quyền kiêu hãnh, phải không anh?
     Mình sẽ viết câu ấy cho Hoàng – mà không, viết cho anh trai có lẽ hợp hơn? Thu lấy giấy viết thư cho anh. Những suy cảm như dòng nước đang chảy xối xả ở trong cô...
     ... Cái nhận thức ấy đến với em từ lúc nào nhỉ? Em không còn nhớ. Nó cứ lớn dần, anh ạ! Nhất là từ buổi tiễn người bạn trai của em nhập ngũ. Người bạn mà em đã kể cho anh nghe, rồi đấy!
     Trước đây là sách vở, bây giờ là cuộc đời. Thực tế thì nhiều phức tạp hơn, song cũng sinh động hơn sách vở. Anh có biết em sung sướng thế nào không? Thực ra thì không đơn giản, nhưng khi em đã thấy mình vượt lên, đã khẳng định được con người mình, ý thức tốt đẹp về một cuộc sống - Em thấy mình hạnh phúc! Cũng như anh đã nói trong lá thư viết cho em: Cái hạnh phúc của người lính thường đến, sau mỗi lần chiến thắng...
     Trên giường Bà Giáo đã ngủ thiếp đi, tiếng ngáy của bà đều đều. Thân hình vốn đã bé nhỏ của bà, giờ lại gầy hơn một chút. Bà nằm lọt thỏm trong tấm đệm bông. Thu dừng viết thư, đến bên giường kéo chăn phủ kín lên ngực mẹ.
     Cô nhìn mẹ tủm tỉm cười, rồi quay lại bàn viết tiếp lá thư cho người bạn trai. Sáng mai cô sẽ bỏ vào hòm thư của thành phố, để gửi cả hai lá thư này ra nơi tiền phương.
 
 
                                                        19-
 
     Một người khách đang ngả đầu vào thành ghế cho ông Tiến Thịnh cạo mặt, nói:
-  Ông có nghe tin tức: Tình hình Mỹ sẽ ngừng ném bom ở miền Bắc không?  
     Ông Tiến Thịnh lấy tay xoa một thứ bọt xà phòng trắng, nhờn lên cằm khách, thản nhiên hỏi lại:
-  Ai bảo ông thế?
     Lưỡi dao của ông phó cạo đưa xoèn xoẹt. Một nhoáng, bộ râu cứng như rễ tre của người khách đã được bào nhẵn. Người khách vẫn ngồi lim dim mắt, đáp lại:
-  Đài BBC đưa tin mà lị!
-  Ồi, cái mồm chúng nó thì cứ hoen hoét.
     Cũng chẳng hiểu ý ông Tiến Thịnh định nói về cái tin đài BBC mà người khách vừa thông báo, hay ông ám chỉ thằng Mỹ? Ông tiếp:
-  Cứ xem ngay như cái Hiệp định Pa Ri ấy? Ngồi bàn vuông, bàn tròn với nhau rồi mà họ còn nhổ toẹt đi, nữa là...
-  Thì cũng tại ông nhà mình làm căng quá!
     Người khách có vẻ muốn phô trương sự hiểu biết của mình.
-  Ông tính xem: Là một tên đế quốc đầu xỏ nhất hạng! Chịu lép quá, nhục, thằng nào nó nghe?
-  Phải nghe tất! Thua thì phải nghe, nhục cũng phải chịu.
     Giọng ông Tiến Thịnh "chắc như cua gạch".
-  Đã đành. Chúa chết thì trạng cũng băng hà, ông ạ!
     Người khách buột mồm buông một câu triết lý, mà cũng chẳng hiểu triết lý cái kiểu gì? Ông Tiến Thịnh vặn hỏi:
-  Thế ông không nghe tin chiến thắng đầu xuân Mậu Thân à?
     Người khách vẫn không chịu:
-  Xôn xao cả phố, ai mà chẳng biết! Nhưng tôi thì tôi nghĩ: Cái ông Việt Nam nhà mình cũng hay chơi nước thượng lắm cơ?
     Ông Tiến Thịnh nói kháy:
-  Giá tiến cử ông vào Bộ chính trị mới phải?
     Người khách cự lại:
-  Chẳng phải thế. Tình hình chính trị của đất nước, mình phải quan tâm chứ ông!
-  Tôi cứ cố "cắt" dăm cái đầu, kiếm cho vợ con thêm lon gạo.                    
     Người khách nọ đã trả tiền xong, chào ông Tiến Thịnh rồi bước ra ngoài phố. Ông Tiến Thịnh lấy tay phủi phủi những sợi tóc bám vào áo mình, buông thõng một câu:
-  Năng nhặt, chặt bị... là thượng sách.                     
     Từ nẫy đến giờ một tay thanh niên tóc chờm đến ngang vai, ngồi đợi trên chiếc ghế dài, tranh thủ giở tờ báo Văn Nghệ ra xem "mục nụ cười". Chờ người khách kia đã ra khỏi cửa hiệu, mới bước vào chiếc ghế thay thế chỗ. Hắn tán dương ông Tiến Thịnh:
-  Bố già nói chí lý lắm! Cứ như con đây này: Sáng ra chợ giời buôn bán đồ cũ làm mấy "sọi". Trưa về nhà, đánh một giấc ngủ khoèo đến bốn giờ chiều. Tối bát phố...                                           
     Một vị khách khác vừa mới bước vào hiệu, thấy tay thanh niên nói vậy... mắng:
-  Cứ như cái ngữ nhà anh á? Có mà mất nước.                        
     Tay thanh niên mặt vẫn bình thản, tỉnh bơ:
-  Bác già nặng lời thế!                                           
     Hắn quay sang bảo với ông Tiến Thịnh:
-  Bố xén gáy bằng cho con, bố nhé! Cả Hà Nội này, con chỉ tín nhiệm mỗi cửa hiệu cắt tóc của bố thôi đấy!
     Ông Tiến Thịnh vừa cắt tóc vừa nói:
-  Thế cậu đã biết hiệu cắt tóc Tiến Thành, trên phố Huế chưa? Cửa hiệu của thằng con cả tôi đấy! Nó cắt còn bợm hơn tôi.                         
     Tay thanh niên vồn vã hỏi:
-  Ở số nhà bao nhiêu phố Huế, hả bố?
-  Cậu là tay chơi, dân "phe phẩy"chợ giời, mà không biết cửa hiệu cắt tóc Tiến Thành nổi tiếng ở phố Huế, sát gần ngay chợ... thì xoàng quá!
     Cái kéo cắt tóc trong bàn tay nhà nghề của ông Tiến Thịnh vẫn kêu tanh tách. Từng đám tóc hắt ra, rơi đều đều lên chiếc áo quàng bằng vải dù pháo sáng, đang choàng trên vai khách.
 
                                                   *
 
     Ăn cơm trưa xong, ngồi khoanh chân trên chiếc sập lim nâu bóng, uống tách trà nóng, ông Tiến Thịnh gật gù nói với người vợ lẽ:
-  Mợ vào đây, tôi bàn chút việc quan trọng.
-  Thì ông cũng phải để tôi rửa ráy xong xuôi, uống ngụm nước, xỉa cái răng đã chứ?
     Người vợ lẽ của ông đang ở chỗ máy nước ngoài sân, mồm lẩm bẩm rủa thằng con út của người vợ cả đã quá cố:
-  Con với cái, đến hư hỏng. Ăn cơm xong là biến mất, để bát đũa cho dì rửa.
     Ông Tiến Thịnh phụ họa:
-  Ừ, tính nó lêu lổng. Mới buông bát, buông đũa, thoắt một cái đã chạy lêu têu ra phố.
     Rửa ráy xong. Người vợ lẽ của ông bước vào nhà, rút chiếc tăm để trong chiếc lọ nhỏ, đến bên chồng hỏi:
-  Ông định nói cái gì nào?
     Ông Tiến Thịnh rót chén nước đưa cho vợ:
-  Thì mợ cứ ngồi xuống. Tôi thì tôi nghĩ thế này? Cái tính cách làm ăn của nhà ta còn thủ công nghiệp lắm! Chật vật mà chả kiếm được bao nhiêu. Cứ nhìn vợ chồng thằng Tiến Thành thì đủ thấy – Phải làm ăn như chúng nó, chẳng mấy chốc mà "phát"!
     Ông khề khà rồi nói tiếp:
-  Cửa hiệu cắt tóc của tôi thì chỉ kiếm đủ ăn. Còn mợ, chợ búa bán bún bánh lặt vặt... ngày cò con dăm bảy đồng bạc. Con lợn nuôi trong chuồng, mang tiếng bán một lúc vài trăm thật, nhưng chẳng qua cũng chỉ là tiền bỏ ống.
     Người vợ lẽ ngồi im nghe chồng nói. Tính ông thì mụ biết, cái khoản làm ăn là rất "đa tính". Ông Tiến Thịnh vẫn nói tiếp:
-  Ở trên ga bây giờ hàng "miền ngược" về nhiều. Tôi đã thăm dò con mụ Tính ở khối trong? Tối nào mụ ta cũng ra ga: Khi thì mua vài tạ ngô, lúc dăm yến lạc... Mà mụ cũng chỉ là người đứng thầu, sang tay bán lại cho kẻ khác. Một chuyến hàng, mụ ta kiếm bằng vợ chồng mình làm ăn cả tháng.
     Người vợ lẽ cắt ngang:
-  Ông cứ làm như dễ ăn lắm đấy?
-  Thì ai đã bảo là dễ? Có điều, ta cũng phải tìm cách.
-  Cũng phải có mối lái, chứ ông tưởng? Không cẩn thận, công an tóm được... bắt phạt, thì có mà hết cả vốn lẫn lãi.
     Ông Tiến Thịnh gạt đi:
-  Chỉ cần ta khôn khéo một tí! Nghe nói, mụ ta mồi chài từ tay phòng thuế đến công an.
     Ông chỉ đường đi, nước bước cho người vợ lẽ:
-  Mợ chịu khó lân la với con mụ Tính? ngọt nhạt, theo nó vài bữa khi tàu mạn ngược về, để thông thạo mánh lới làm ăn. Xuôi buồm lọt gió, ta sẽ tính cách đi riêng. Khi đó tôi sẽ ra ga cùng với mợ...
     Đặt tách trà xuống, ông dừng lại hỏi vợ:
-  Mợ nghĩ thế nào?
-  Thì để xem xem thế nào đã. Mình xưa nay chỉ quen chạy chợ vặt, chưa bao giờ buôn lớn cả. Tiền của chứ có phải vỏ hến đâu, nhỡ làm sao... thì chết?
     Tối tối... khi cắt tóc về, ăn uống xong xuôi, ông lại ngồi trầm ngâm hàng giờ trên chiếc sập lim ấy. Ông vặn chiếc đĩa hát national cũ của Nhật mới mua lại, nghe ca vài bài vọng cổ. Tư tưởng làm ăn trong đầu ông nở ra như bong bóng xà phòng. Ông nghĩ hết cách này, cách khác, cách nào ông cũng thấy có cái hay, cái dở. Gạt cái này đi, tính đến cái kia. Ông lường trước, ông lo sau. Tuổi ông có phải còn bồng bột nữa đâu? Phải tính cho nó chín chắn! Ông TIến Thịnh nghĩ vậy, xong lại ngồi thở dài. Máu ông hám làm giàu, nhưng lại sợ bị "hố". Nhỡ một cái, thì khốn. Có khi tự an ủi mình: "Thôi già rồi. Chúng nó như con ngựa phi trên đường, ông như con dê đã về gần đến cửa chuồng" – Nghĩ thế, nhưng ông thấy người ta làm ăn "trúng"! Máu lại bốc lên, ông lại phải tính kế?
-  Này, mợ nó này?
-  Ông lại nghĩ ra cái kế sách gì, mà gọi giật thế?                            
     Ông Tiến Thịnh lại trình bầy với người vợ lẽ:
-  Có lẽ ta phải tính chuyện nuôi con lợn lái? Chà, con mẹ Ba Tẽo ở khói chợ nuôi có hai đàn lợn lái, mà làm được cả cái nhà cao ngất.                  
-  Ối giời... ông cứ ngồi mà tính cho nó kỹ đi.                                   
     Mụ nói vậy rồi bỏ vào nhà trong. Xa xa... có tiếng máy bay xoẹt ngang bầu trời, vọng tới. Chắc là phi cơ mig của ta đi tuần tra... chứ,  nếu là "thần sấm" hoặc "con ma" Huê Kỳ - thì còi báo động thành phố đã chẳng réo ầm lên: "Đồng bào chú ý! Đồng bào chú ý! Tất cả xuống hầm ngay, đề phòng máy bay Mỹ xâm phạm vào vùng trời Hà Nội".
    Đằng này, máy bay đã đi qua… mà thành phố vẫn im phăng phắc.
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2018 16:20:35 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 18.05.2018 17:20:01
 
 
                                    Chương VII.   
 
               NGƯỜI CON GÁI BẢN RA CHIẾN TRƯỜNG
 
                                                        23-
 
     Một chiều cuối xuân 1971. Cuộc họp dân quân bản cuối cùng mà Mỵ tham dự, lúc trở về đi cùng với A Tòng, lòng Mỵ thấy nhẹ nhõm. Họ đi bên nhau im lặng, mỗi người đuổi theo ý nghĩ của riêng mình. Cũng về gần đến nhà Mỵ, A Tòng mới lên tiếng:                 
-  Thế là ngày mai, Mỵ đi thật rồi!
     Tiếng của A Tòng nửa như hỏi, nửa lại như than thở.
-  Ừ, mai.                                      
     Mỵ khẽ trả lời rồi im lặng. A Tòng rủ Mỵ tạt qua rừng thăm cái bẫy? Mỵ gật đầu. A Tòng xốc lại dây đeo khẩu súng dân quân tự vệ K44 trên vai cho khỏi trễ xuống. Người thanh niên bản cố tạo ra vẻ để làm chủ mình, rồi mở đầu câu chuyện. “Mình phải nói thôi!” – A Tòng thầm nghĩ, những tình cảm  từ bao lâu nay anh ta vẫn cất giữ riêng ở trong mình. Mỵ hơi ngước lên nhìn A Tòng, rồi lại cúi xuống thong thả bước. Môi cô khẽ hé một nụ cười: “Tôi biết tỏng đi rồi, anh bạn ạ!” – Cô gái nghĩ vậy, nhưng không nói.
     Cái nhậy cảm của người con gái, cũng thính như cái tai của con nai rừng. Mỵ biết A Tòng muốn nói điều gì? Đi bên cạnh A Tòng nhưng tâm trí Mỵ lại nghĩ đến Hoàng, người chiến sỹ mà cô đã gặp từ ba mùa xuân trước.
     “Anh biết không? Đã qua ba mùa xuân rồi đấy! Em vẫn chờ anh…” – Em không nhận được lá thư nào của anh gửi về cả. Em biết là chiến tranh,  anh lại ở nơi chiến trường đánh giặc, thư từ khó khăn lắm…  hay bị thất lạc nữa, phải không anh?
     Ở bản, có chị chồng cũng vào chiến trường như anh, đã ngót mười năm nay vẫn không có tin về. Anh biết không? Những người ở quê hương, có người thân đi đánh giặc xa – mong tin cháy lòng, cháy ruột. Đêm nhớ, ngày thương…
     Như con nai trên rừng, cứ đêm đêm hú lên gọi bạn. Như con chim trên cành , sáng sáng lại líu ríu gọi đàn. Khi em khỏa tay xuống con suối, em cũng mong anh về. Chiều đi nương, em cũng ngóng anh. Em biết bước chân của anh cũng đi dài như con hoẵng, nhưng sao không cố để viết thư về cho em? Anh viết mười lá, em cũng có thể nhận được một lá chứ!
     Tiếng gọi của A Tòng kéo Mỵ ra khỏi ý nghĩ.
-  Mỵ đang nghĩ gì thế?
     A Tòng nhìn Mỵ dò hỏi, có vẻ ngạc nhiên.
-  À, Mỵ nghĩ… nếu Mỵ chưa đi…                                                            
-  Thì làm sao cơ?                                                                                 
     A Tòng gặng.
-  Thì chúng mình sẽ vẫn tiếp tục tập dân quân với nhau.                                  
-  Tất nhiên! Thế mà A Tòng cứ tưởng…                                                 
-  A Tòng không thích thế sao?                                                         
-  A Tòng thích lắm chứ! Thì có ai yêu cầu Mỵ đi đâu? Đấy là Mỵ nhất quyết xin đi, nên Ban lãnh đạo quân sự đành phải đồng ý.                     
     Họ đã đến chỗ A Tòng đặt bẫy. Một chú sóc nâu, cổ bị thít chặt vào chiếc thòng lọng làm bằng sợi dây rừng dai như cước. Con sóc vẫn còn thoi thóp cựa quậy. Nó thè lè cái lưỡi nhỏ xíu, đỏ hỏn. Càng cựa thì chiếc thòng lọng càng thít chặt lấy cổ nó. Khi A Tòng gỡ được con sóc ra khỏi nút dây, nó chết hẳn. A Tòng đưa con sóc cho Mỵ, nói:
-  Cho Mỵ đấy! Đây là con thú cuối cùng, A Tòng tặng cho Mỵ.                  
-  Sao lại cuối cùng?                                                       
     Mỵ cự lại.
-  Thì, Mỵ đi rồi… biết  đến bao giờ mới trở về, để A Tòng lại bẫy thú cho Mỵ.                                                                                      
     Mỵ giơ con sóc lên thích thú.
-  Mỵ sẽ nói Sóc của A Tòng bẫy được biếu mế, mế sẽ khen A Tòng giỏi.
     Họ tiếp tục ra về. A Tòng vẻ chán nản, miệng lẩm bẩm:
-  Thế là hết!
      Tiếng cười của cô gái bản ròn tan, hòa trong tiếng reo lóc róc của con suối khi họ bước qua. Cơn mưa bất thình lình ập đến. Gió ào qua khu rừng rít lên từng hồi dài. Trời sầm lại. A Tòng kéo tay Mỵ chạy đến trú dưới một cây cọ lớn. Nước trên núi theo khe trũng đổ dồn xuống xối xả. Mưa mỗi lúc một to, Mỵ nép sát vào người bạn.
     Tiếng sấm nổ đập mạnh vào vách đá. Chớp nhoằng lên, xé tan nền trời theo hình chữ "Z". Tiếng nổ chói tai như búa gõ.
-  A Tòng! Tôi sợ quá?
     Mỵ quay lại ôm chặt lấy bạn. Đáng lẽ nên đưa hai tay kéo người bạn gái vào gần mình, thì anh chàng thanh niên bản lại quặt cả hai tay về phía sau. Hai bàn tay của A Tòng bám chặt vào cây cọ, thân cây xù xì như vẩy cóc. Chàng trai như thể đang run lên trong tiếng mưa gió ầm ầm. Mỵ cứ ôm riết lấy A Tòng. Như thể ở nơi đây, trong tấm thân cao lớn của người con trai bản, cô tìm thấy một sự tin cậy. Tai cô chỉ còn nghe thấy tiếng rú của gió, tiếng đổ ầm ầm của thác nước.
     Những giọt nước mưa qua môi người con gái chảy xuống, thấm lên ngực A Tòng... nóng hổi. Cả mùi hương trên tóc Mỵ nữa? Cái mùi hương, A Tòng chưa từng thấy trong tất cả các loại hoa rừng. Đã mấy lần A Tòng định rời tay ra khỏi thân cây cọ để ôm lấy Mỵ, nhưng rồi anh không dám, vội rụt lại.
     Tiếng mưa đã ngớt dần, lo âu cũng bớt đi. Lúc ấy, cái va chạm vô tư của người con gái, đã nhen lên trong chàng những cảm giác mạnh mẽ hơn. Bàn tay A Tòng run run, mới chỉ dám mon men bên ngoài lần áo mỏng. Cô gái yên lặng. Cũng chỉ cần từng ý thôi, đã đủ thiêu cháy cả trái tim lẫn tâm hồn anh thanh thanh niên bản. Cũng chỉ từng ý thôi, cái cảm giác háo hức đã tác động, truyền nhanh trong cơ thể người con gái như một dòng điện.
     Giây phút ấy, lòng say sưa của người đàn bà chỉ bị thuần hóa trong câm lặng. Nếu coi đó như một tín ngưỡng của họ, thì A Tòng đã xúc phạm phải tín ngưỡng đó. Thực tại đang bị nghiền vụn, như khi ta nghiền vụn một mẩu bánh vứt nó lên không trung – Ai nói, thể rắn luôn luôn là một khối đặc? khi những cảm giác chứa trong thể rắn đó, kích thích giữa cơn say mê, thèm thuồng. Nó đã chẳng biến "chất rắn" kia thành hư không đó sao !? Cũng giống như ở một nhiệt độ cao cần thiết, chất rắn kia biến thành chất lỏng chảy ra thành nước, và hơi nước bay lên tầng không khí.
     Cô gái khẽ gỡ đôi bàn tay có phần hơi mạnh bạo của người con trai bản. Đó chính là sự tỉnh táo duy nhất của cô, trong cái thực tại đã bị xé nhỏ như mẩu bánh nọ. Nhưng cánh tay của người con trai không muốn rời ra, anh xiết mạnh hơn.
     Trong lúc xúc động, A Tòng đã gọi tên cô! Hình như anh đang muốn tìm... để hôn lên đôi môi người con gái? Tiếng gọi của A Tòng cũng nhỏ thôi, nhưng trong khung cảnh ấy, Mỵ lại thấy nó chói tai như tiếng vải xé... quất vào mặt người con gái. Vô tình nó lại trở thành một cái gì tựa sự thô bạo. Giống như một kẻ chơi trống đồng, lại lấy lưỡi dao thay cho dùi trống. Mặt chiếc trống đang căng, toác phựt ra.
     Tiếng gọi của A Tòng làm cho cô gái ghê hãi? Mỵ vùng dậy, gỡ tay A Tòng để vượt ra. A Tòng níu lại... Người con gái giang thẳng tay tát vào mặt A Tòng, bước ra ngoài. Đôi chân cô vẫn còn run. Trống ngực cô đập mạnh, dư âm chưa kịp tan đi.
     Giây lát, Mỵ trấn tĩnh lại. Cô yên lặng đi về phía bản. A Tòng xốc lại khẩu súng trên vai cho khỏi trễ. Anh cúi xuống nhặt con sóc bị vứt dưới gốc cọ, rồi lững thững bước theo Mỵ.
     Gần đến nhà, Mỵ quay lại nhìn A Tòng, môi cô khẽ nở một nụ cười làm lành.
 -  Chào A Tòng nhé! Mai Mỵ đi, A Tòng ở lại lãnh đạo đội dân quân của bản, thật giỏi nghe.
     A Tòng nói như có vẻ muốn xin lỗi:
-  Mai A Tòng sẽ còn tới để tiễn Mỵ lên đường mà.
     Chàng trai bản vẫn nhìn cô bạn gái anh hết lòng thương yêu, với cái nhìn thật trìu mến. Anh giơ cao con sóc lên nói:
-  Của Mỵ này...
     Mỵ chạy lại cầm lấy con sóc trên tay A Tòng, chạy nhanh vào trong sân. Cô trèo lên chiếc thang gỗ, rồi khuất vào trong ngôi nhà sàn của mế con cô.
     A Tòng còn đứng ngẩn theo giấy lát mới quay đầu lại, bước đi lững thững trên con đường bản màu đất đỏ, phủ đầy hoa mận trắng.
 
                                                   *
 
     Bà mế vẫn ngồi bên bếp lửa giữa sàn nhà, chờ con về. Cái rét cuối mùa xuân, gió qua cửa sổ tạt vào làm cho mế khẽ rùng mình. Bóng mế im phắc, tựa như bà đã ngồi thế này hàng thế kỉ, ngồi trọn đời mế, đến cả đời con mế. Sự sống của mế giờ đây, như đốm lửa lay lắt trước cơn gió. Nhưng mế không nghĩ về chuyện đó? cái chết của người già cũng giống như một chuyến đi xa, mế không sợ.
     Thằng con trai cả mế, anh trai của cái Mỵ cũng đã trở về. Dù nó có bị một chút thương tật, thân thể không còn được lành lặn như trước, nhưng như thế vẫn còn may mắn chán. Khối thanh niên bản đi như nó bị chết, có về được đâu. Một số gia đình còn nhận được giấy báo tử, mấy người khác thì bặt vô tăm tích, chẳng biết sống chết ra sao? Con mế cũng chỉ mới mất một cánh tay trái. Còn mang được tấm thân trở về với mế, với bản đã là tốt phúc! Rồi nó sẽ lấy vợ và sinh con. Như thế gia đình mế cũng đã có phần đóng góp cho vận mệnh của nước non. Mế có quyền kiêu hãnh của một người mẹ, tự hào với dân bản... lắm chứ! Mế chỉ thương cái Mỵ...
     Mế biết con gái mế đã yêu thương anh bộ đội ấy! Nghe đâu, nó với anh ấy cũng đã có hẹn hò với nhau? Thế mà đã hơn ba năm nay, qua ba mùa xuân... Nó chẳng nhận được lá thư nào của anh ấy gửi về. Nghĩ dại, ngộ nhỡ... Mế cố xua tan ý nghĩ khủng khiếp ấy đi.
     Nay con gái mế lại quyết định xin nhập ngũ để vào chiến trường? Giá nó là con trai như anh nó lại khác, đằng này nó là con gái. Mặc dù mế biết: khối cô gái cũng đã tòng quân, ra tiền tuyến hẳn hoi. Thấy ý con đã quyết, mế chẳng muốn can ngăn. Mế biết – ngoài việc tình nguyện ra đi tham gia chiến đấu, nó còn có ý tưởng vào chiến trường... để tìm anh ấy? Nó yêu anh bộ đội lắm! mà người con gái bản đã yêu, thì chẳng có núi non, khó khăn nào ngăn trở được. Thế là, mai con gái mế đã lên đường...
     Cứ thế, bao nhiêu ý nghĩ quay lộn trong đầu bà mế. Mỵ đã đưa con sóc ra con suối cạnh nhà làm lông sạch sẽ, mang về để mế nướng trên bếp than hồng. Cô ngồi xuống bên cạnh, vừa đưa cái xiên có con sóc cho mế, vừa hỏi:
-  Anh trai con lên trại thương binh làm thủ tục, vẫn chưa về hả mế?
-  Phải làm nhiều giấy tờ. Giấy chứng nhận thương tật, lại cả giấy xuất ngũ... chắc phải tối muộn, anh con mới về được.
     Bà mế và cô con gái lại ngồi im lặng. Một lát sau, Mỵ mới khẽ khàng nói:
-  Con đi, chỉ thương mế ở nhà.
-  Ôi dào, có anh con về rồi, lại còn bà con dân bản nữa. Đừng lo cho mế!
      Bà mế gạt đi: "Đi đi con! Mế già rồi, nếu còn trẻ trung như các con thì mế cũng đi mà.".
     Bà mế lại ngồi trầm ngâm, giọng mế nhỏ nhẹ như dỗ dành con gái:
-  Có đi thì may ra gặp được anh ấy, con ạ!
     Mỵ chỉ đáp "dạ" một tiếng, rồi ngồi im. Cô vẫn đăm đăm nhìn mế, mắt rơm rớm lệ. Con sóc đã chín, mùi thịt nướng tỏa ra thơm phức. Mế đưa cho Mỵ treo nó lên chiếc móc ở phía trên đống lửa. Mỵ bảo mế:
-  Con treo ở đây, lúc nào mế muốn ăn thì lấy mà ăn.
-  Ừ, con cứ để đấy! Đợi anh con tý nữa về, cả nhà ăn cơm luôn thể.
     Đôi mắt bà mế lại đăm đăm nhìn sâu vào trong đống lửa. Mỵ tựa người vào cây cột giữa nhà, nhìn ra khu vườn qua những song cửa sổ. Cô lại nghĩ đến Hoàng...
     Thế là ngày mai cô đã đi! Vào trong đó, cô sẽ dò hỏi để tìm anh. Cô nhìn ra phía vườn đào, kỉ niệm của ngày đó tràn về... Lòng Mỵ lại xốn xang. Tấm thân của người con gái là một báu vật, cô đã trao báu vật đó cho anh. Những con gió từ ngoài cửa sổ thổi vào, bếp than hồng đỏ bừng lên.
-  Cứ yên tâm mà đi, nghe con!
     Mế nói giọng điềm tĩnh: "Con gái bây giờ cũng phải giỏi như con trai!" - Nói vậy nhưng trên khóe mắt mế, hai giọt nước mắt từ từ rôi xuống... những cái khe nhăn nheo ở má. Nó cũng lặng lẽ như cái bóng của bà.
    Mỵ nói với mế, đi ra ngoài dạo một lát. Cô bước xuống những bậc thang gỗ rồi ra phía vườn. Gió chiều tối đã se lạnh, cô thấy trong người dễ chịu hơn. Cái tuổi xuân tràn ngập bao nhiêu kỉ niệm. Nó tươi mát như những bông hoa đang mời đón, trong sáng và trinh bạch.
     “Hỡi rừng sâu thăm thẳm! Hỡi tiếng kêu của muôn loài cầm thú! Cả thiên nhiên hung vĩ, hãy bao dung lấy tôi! Tôi đi trong các người!” – Những tiếng ấy vọng ra từ trong Mỵ. Lòng Mỵ vẫn triền miên nhớ về từ ba năm trước. Ôi, cái tuổi mười tám, đôi mươi của tôi! Những kỉ niệm tha thiết của đời tôi! Tôi sống như thế đã đủ rồi ư? Không, đó mới chỉ là bắt đầu của cái tuổi bước vào đời. Chẳng lẽ những ngày sống sắp tới của tôi, sẽ chỉ giống như ngọn cỏ héo úa? Có thể nào như thế! Em khao khát được sống lại những giây phút bên anh: Một phần trăm thôi, hay một phần nghìn cũng được. Anh sẽ nghĩ, em chỉ lả một con bé ích kỉ phải không? Đúng, em ích kỉ!... và con bé ích kỉ ấy đã trao tất cả trái tim, tâm hồn cùng thân xác nó cho anh. Không mặc cả… Như con sói trên rừng, anh về bản làng bắt em đi! Em đã theo anh, em sẽ theo anh suốt đời.
     Vườn đào ôi! Cây đào yêu quí của tôi ơi! Tôi ao ước cái vô tư của đào… Cứ thế, Mỵ đi sâu vào trong vườn đào lúc nào không biết. Những kỉ niểm bổi hổi của những buổi yêu ban đầu, với anh ở vườn đào này… sống dậy trong lòng cô.
     Ngày ấy, đào còn thấp hơn tôi nữa đấy! Giờ thì đảo đã cao hơn tôi cả cái đầu. Bàn tay người con gái bản cứ mân mê trên thân cây đào. Trời đã tối từ lúc nào. Bóng trăng đầu tháng mọc sớm, đã lên trên đỉnh núi. Có ngôi sao đã tách riêng bạn bè, để đưa bước chân Mỵ đến với gốc đào này. Chính là gốc đào lần đầu tiên, Mỵ đã trao nụ hôn cho anh. Cả tấm thân trinh trắng như sương tuyết của Mỵ, cũng suồng sã với anh ở đây. Giờ như vẫn cháy râm ran trong cơ thể Mỵ… Mỵ áp má vào thân đào, cô nghe thấy cả tiếng của dòng nhựa trong cây đang chảy.
     Bỗng Mỵ nghe thấy như có tiếng ai đang gọi? Đúng rồi, đúng là có tiếng người. Ai nhỉ! Không phải là tiếng của anh? Cái âm thanh trong giọng nói và hơi thở của anh, Mỵ vẫn nhớ. Nhưng ai đi tìm Mỵ vào buổi chiều tối này chứ? Một cảm giác ớn lạnh truyền nhanh trong cô gái. Cô muốn quay lại chạy cho nhanh về nhà, nhưng chân cô như bị mắc cạn. Cô muốn hét lên, nhưng lưỡi cô ríu lại. Cái bóng đen… nó đang tiến lại phía cô. Cánh tay cô gái nắm chặt lấy gốc đào, lùi lại. Khi cái bóng đen cất tiếng gọi, sợ quá cô rú lên!
-  Tôi đây mà! A Tòng đây mà, Mỵ!
-  A Tòng à? Đúng là A Tòng rồi!
     Cơn giận ban chiều đã nguôi đi, giờ lại bùng lên.  Mỵ nói như quát nhẹ:
-  Anh đã về rồi, sao lại còn đến đây?
-  Tôi đã theo Mỵ đến đây từ lúc chiều tối. Tôi đứng ở gần chỗ cầu thang, nhưng không dám vào nhà.                                                                    
     A Tòng phân trần:
-  Tôi đã gọi Mỵ hai lần, nhưng Mỵ vẫn không nghe thấy.                                 
     Mỵ chẳng nói chẳng rằng, quay gót đi nhanh ra khỏi vườn đào để chạy về nhà. A Tòng hớt hải đuổi theo. Anh nói như không ra hơi:
-  Mỵ! Mai Mỵ đã đi rồi mà. A Tòng sẽ không được gặp Mỵ nữa. A Tòng muốn gặp để xin lỗi Mỵ.                                                              
     Mỵ dừng lại. Cô im lặng đứng nhìn tấm thân cao lớn của người con trai bản, vẫn còn đang nài nỉ:
-  Mai Mỵ đi rồi, Mỵ đừng giận A Tòng nữa. Được không?                            
     Cô gái bản lại nhìn chàng trai với đôi mắt thật hiền hòa. Có vẻ cô đã bỏ qua những sự giận dỗi của mình. Cô nói:
-  Ừ, Mỵ không giận A Tòng nữa!                                                                 
     A Tòng thấy sướng rơn:
-  Có thế chứ! Có thế, Mỵ mới là người bạn gái tốt của A Tòng chứ!    
     Anh chàng vẫn phân vân:
-  Mỵ có tha lỗi cho A Tòng thật không?                                                         
-  Có, tha thật.                                                                                    
     Cô gái nhoẻn cười làm lành.
-  Thật chứ! Mỵ không giận A Tòng thật chứ!                                               
-  Thật.                                                                                                 
-  Thế thì vui quá. Nếu Mỵ còn giận A Tòng? Mỵ đi rồi, A Tòng ở lại bản sẽ buồn lắm.                                                                                         
-  A Tòng đừng buồn nữa. Mỵ không giận A Tòng nữa đâu!                         
-  Mỵ tốt quá!                                                                       
-  A Tòng về đi, trời khuya đến nơi rồi.                                                                
-  A Tòng muốn…                                                                               
     Cái nhìn của A Tòng như khẩn thiết.
-  Thôi, A Tòng đừng nhắc lại chuyện ấy nữa! Nếu không, Mỵ sẽ lại giận A Tòng cho mà xem?                                                                                    
     Người con trai ngồi thụp xuống, hai tay quàng lấy chân cô gái, giọng nghe rền rã:
-  Mỵ! Tôi… tôi yêu Mỵ!                                                               
     Cánh tay của A Tòng vô tình làm tốc bay cái váy hoa của cô gái Mường. Hoảng hốt, Mỵ giật chân ra khỏi A Tòng, chạy về nhà. Bóng A Tòng chạy theo chới với. Đến chân cầu thang, Mỵ quay đầu nói vọng lại:
-  Mai, Mỵ đi nhé! Mỵ không giận A Tòng nữa đâu.                     
     Nói rồi, cô gái bước nhanh lên sàn. A Tòng nói theo:
-  Mai, tôi sẽ đến sớm để tiễn Mỵ đi cơ mà…                                          
      Anh chàng thẫn thờ, nhìn cô gái đã khuất vào trong nhà bản. Miệng chàng vẫn còn lẩm bẩm: “Thế là hết!”.
     Một lát, chàng trai chậm chạp bước ra khỏi vườn đào đi vào con đường bản. Mùa này, hoa nở nhiều thơm phức.
 
 
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 18.05.2018 17:22:10
 
 
                                                      24- 
 
     Vào giữa mùa mưa năm 1971. Kể từ sau cuộc Tổng công kích đầu xuân Mậu Thân ấy, mùa mưa này là mùa thứ tư. Tình hình chiến trường miền Nam nói chung và mặt trận Tây Nguyên nói riêng, vẫn vô cùng khốc liệt.
     Trên tuyến vận tải quân sự chiến lược của QGP là “Con đường mòn Hồ Chí Minh” qua núi rừng Trường Sơn. Trong suốt thời gian chiến tranh - Đoàn 559 (một binh chủng vận tải thuộc sự lãnh đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ tư lệnh quân đội Bắc Việt), được giao trọng trách liên kết với hậu phương lớn ở miền Bắc, đảm nhận sự vận chuyển - phục vụ cho toàn chiến trường miền Nam.
     Thí dụ: Chỉ tính riêng trong năm 1967, chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích xuân Mậu Thân 1968 – Đoàn 559 đã vận chuyển vào chiến trường miền Nam, theo Con Đường Mòn Hồ Chí Minh qua Tây Nguyên khoảng 7 vạn tấn lương thực, 14 vạn người bổ xung cho quân chủ lực: gồm 2 sư đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn các binh chủng khác và đặc công.
     Cuộc Tổng công kích tuy đã bị dập tắt như âm hưởng của nó rất lớn. Đến mức, sau đó Tổng thống Mỹ Johnson buộc lòng phải rút lui, không dám ra tranh cử nhiệm kỳ II. Thống tướng William Westmoreland bị cách chức tư lệnh trên chiến trường miền Nam.
     Nói về địa bàn chiến trường Tây Nguyên: núi non trùng điệp – Cách thị xã Kon Tum trên 40km về phía bắc là trung tâm thị trấn Đắc Tô – Tân Cảnh, gần như là một thung lũng lớn, nằm án ngữ ngã ba đường 14 và 18. Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã xây dựng tại đây một cụm căn cứ tương đối lớn: với 2 sân bay và nhiều kho tàng đạn dược. Đó là một căn cứ xuất phát cho các cuộc hành quân phản kích QGP, ra ba vùng biên giới Việt – Miên – Lào. Phía bắc là vùng căn cứ của quân cách mạng – Tỉnh ủy Kon Tum của QGP cũng nằm ở đây.
     Các cao điểm xung quanh thung lũng Đắc Tô –Tân Cảnh như: Ngọc Bờ Biêng, Ngọc Rinh Rua, Ngọc Kom Liệt, Ngọc Dơ Lang, 724, 823, 882, 875, 1030, 1424… đều đã trở thành những chiến trường đẫm đầy máu – cả lính Bắc Việt, Mỹ và QLVNCH.  Đây là một địa hình có các điểm cao trên dưới 1.000m, để khống chế ra bốn hướng – Nếu quân chủ lực Bắc Việt muốn tiến đánh hoặc thọc sâu xuống mạn dưới đồng bằng, đều phải trải qua nhiều trận đánh ác liệt ở đây.
     Để chuẩn bị cho những trận đánh của chiến dịch 1972 sắp tới – Trong vùng căn cứ địa của quân cách mạng tại rừng núi Kon Tum, đang khẩn trương làm công tác vận chuyển lương thực và vũ khí đạn dược về hậu cứ.
     Những chuyện được ghi lại dưới đây, cũng ở trên con đường trục của QGP trong địa phận tỉnh Kon Tum ấy. Ngày đêm không ngớt các đơn vị hành quân và vận tải đi qua.
      Vào một ngày trời nắng đẹp, cũng đã gần trưa. Dọc theo con đường giao liên lên một dốc núi cao, gọi là “Dốc cổng trời”. Một tốp chiến sĩ, anh nào cũng gùi nặng trĩu vai, mồ hôi nhễ nhại. Họ đi gùi gạo tại kho Q7 về đơn vị.
     Đến bên một thân cây to đã bị đổ nằm dọc theo con đường mòn, họ dừng lại ngồi nghỉ giải lao tại đó. Một chiến sĩ vừa đến, đặt “bịch” một cái… cả gùi gạo xuống thân cây, trút hơi thở dài nhẹ nhõm:
-  Chà, quỉ tha ma bắt cái gùi gạo này! Nặng, nặng là…                                
     Anh ta lấy tay mở nắp một chiếc bi-đông đựng nước của Mỹ bằng i-nốc sáng trắng đeo bên hông, ngửa cổ uống ừng ực. Nói với một chiến sĩ khác cùng đến:
-  35 kí đấy! Tớ tê cả hai tay.                                                                                         
     Người đồng đội mới tới thì bảo:
-  Hai cánh tay mình cứ như không thể cử động được nữa.                             
     Đấy là những chiến sĩ đi gùi gạo của trung đoàn pháo 40 trực thuộc mặt trận B3. Họ đang đến từng tốp, từng tốp ùn lên trên đỉnh dốc. Mỗi tốp ngồi chụm lại một chỗ, rải rác khắp bãi nghỉ. Chỗ này, một nhóm đang xúm quanh chiếc điếu cầy của một anh nào đó mang theo bên người, người này chưa hút xong, người khác đã chờ sẵn để đón lấy ống điếu. Lõ điếu không kịp nghỉ, tiếng rít thuốc long lên sòng sọc. Chỗ khác, mấy anh chàng ngả đầu lên gùi gạo, chân duỗi dài ra đất, phì phèo điếu thuốc lá dân tộc. Điếu thuốc được cuốn sâu kèn to như ngón tay cái. Anh ta rít từng hơi, mắt lim dim khoái trá. Mười lăm phút nghỉ sau một tiếng đường gùi, đỗi với họ là một lạc thú êm ái.
     Ở một tốp lính. Cậu Nhượng nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, xoa xoa lên đôi vai hằn đỏ như dấu son, nói:
-  Rát thấy mồ.
     Hoàng Phức có nước da trắng như da con gái, tiến lại gần chỗ Nhượng trêu:
-  Ông giặc lái nhà nòi chỉ quen lái jin-ba-cầu, không quen gùi gạo mà? Này, không có những chuyến đi gùi gạo đột xuất như thế này, mấy tay nhà lái các ông, làm sao thấu được cảnh tình lính pháo thủ của bọn này.
     Nhượng làu bàu chửi:
-  Cũng tại cái thằng Xi-ha-núc! Nó mà không cắt cửa khẩu ở Miên, tớ chỉ ghé đít cái Jin-ba-cầu vào cầu cảng, cả trung đoàn các cậu ăn mệt.
     Hồi đó Xi-ha-núc cắt không cho ngoài Bắc chuyển lương thực và súng đạn qua đường Căm Pu Chia, cho nên các đơn vị ở gần biên giới phải về tận các kho trong hậu cứ Kon Tum để vận chuyển gạo, đạn và các thiết bị quân trang, quân dụng. Mỗi chuyến vừa đi và về phải mất cả tuần.
     Một người lính đã chững tuổi, khuôn mặt võ vàng vì sốt rét, có vẻ là lính binh trạm. Anh ta cởi trần trùng trục, để lộ tấm thân với những bắp cơ nổi lên cuồn cuộn... góp chuyện:
-  Thấm gì. So với hồi năm 1969, thì các cậu còn sướng nhiều. Khi đó mới cắt cửa khẩu Miên, nương rẫy thì chưa phát được như bây giờ, sắn cũng không có mà ăn. Lúc ấy, ở mặt trận Tây Nguyên này: tiêu chuẩn mỗi chiến sĩ một tháng, chỉ được 4kg rưỡi gạo thôi.
     Ngưng giấy lát để rít cho xong điếu thuốc lào, người lính binh trạm nói tiếp:
-  Đồ vật, kỉ niệm có thứ gì... cũng đem vào bản đổi lấy sắn, ngô mà ăn. Một chiếc bật lửa Trung Quốc mới khự, chỉ đổi được một củ sắn to bằng bắp đùi.
     Từ dưới chân dốc đi lên một đoàn cán bộ, có tới hơn chục người. Người nào cũng đeo súng ngắn. Đi đầu là một người đàn ông trạc cỡ năm mươi tuổi, dáng người to lớn. Ông chống một chiếc gậy bằng trúc vàng óng, đầu bịt vỏ đạn đồng. Họ dừng lại trên bãi nghỉ. Ông cán bộ già đó hỏi mấy chiến sĩ trong tốp đi gùi gạo, ngồi ở gần đấy:
-  Mệt không các đồng chí?                                                                    
-  Cũng vừa vừa thôi ạ!  
     Một anh lính nhanh nhẩu mồm miệng trả lời. Người cán bộ già lấy chiếc khăn mặt bông, buộc ở dây đeo ba lô ra lau mặt rồi nói tiếp:
-  Tớ chịu không làm sao theo được đám thanh niên. Hồi tham gia chiến dịch Điện Biên, tớ có thể vác cả cái bàn đế cối 82 chạy hàng tiếng.
     Ông lấy ra một túi giấy bóng đựng đầy thuốc lá sợi vàng ươm, loại thuốc Miên thơm, vê một điếu để hút rồi bảo mấy anh chiến sĩ ngồi gần:
-  Các đồng chí hút thuốc đi!
-  Cám ơn thủ trưởng. Thuốc lá của thủ trưởng thơm quá!
     Anh chiến sĩ nhúm một ít thuốc, tãi mỏng đều vào miếng giấy cuốn thuốc lá, cuộn lại rồi đưa lên mép vê tròn thành một điếu loa kèn, châm lửa hút. Mấy tay khác nháy nhau ngồi xích lại gần người cán bộ già, xin thuốc hút. Ông thủ trưởng phúc hậu chỉ mỉm cười gật đầu. Họ chưa biết tên và cũng chẳng cần biết ông đã làm tới cái cấp lãnh đạo gì? vui vẻ ngồi hút thuốc. Mỗi anh vê một điếu, nhoáng cái gói thuốc đã vơi đi quá nửa. Người cán bộ già vẫn niềm nở mời anh em cứ tự nhiên.
     Có hai cô gái mặc bộ quần áo bà-ba-đen cùng đi với mấy anh chiến sĩ nữa, cũng đang lên đỉnh dốc. Cô gái có khuôn mặt trái xoan trắng trẻo, tóc cắt ngắn theo kiểu nữ sinh, quay lại nói với cô gái đi sau:
-  Sa thua tôi rồi nhé!
     Một anh chiến sĩ cùng đoàn nói chêm vào:
-  Về tài leo dốc thì cô Sa thua cô Mỵ đứt đuôi rồi.
     Người con gái có tên gọi là "Sa" với khuôn mặt bầu bĩnh, tóc tết đuôi sam, hai tay chống lên đùi vẻ mệt mỏi... vừa thở vừa nói:
-  Tớ chịu thua cậu rồi.
     Mỵ kéo Sa ra tìm một chỗ để nghỉ chân. Mấy anh lính trong tốp đi gùi gạo nhìn về phía hai cô gái, nháy mắt. Họ thì thào bình phẩm với nhau:
-  Hai em giải phóng trông "ngon" ghê!
     Người nói - đó là một anh chàng xương mặt, nổi đầy những mụn trứng cá đỏ hỏn. Một anh khác họa theo:
-  Cô em có khuôn mặt bầu bầu kia, nghe giọng nói có lẽ là gái Huế? Còn em trông xinh xinh, trắng trẻo, có vẻ dáng gái miền Bắc.
-  Ừ, em gái trông xinh thật! Nhưng có vẻ như là một bông hoa dại miền núi?
     Anh chàng vừa nói, tỏ ra mình là một trang nam nhi khá tinh tường trong việc xét đoán. Rồi như một vòng dây cua-roa quay liên tục, những câu chuyện mời chào, hỏi han với hai cô gái chiến sĩ xinh xẻo cứ râm ran khắp bãi nghỉ.
-  Mấy anh gùi gạo về đâu đấy ạ?
     Cô gái có tên là Sa bạo dạn hơn, lên tiếng hỏi mấy anh ngồi gần.
-  Chúng tôi về T3... còn hai cô?
     "T3" là tên gọi một khu hậu cứ của QGP ở mặt trận Kon Tum.
-  Chúng em đến "Điểm 5" để lĩnh thuốc quân y.
     "Điểm 5" là nơi phân phát những trang bị hậu cần thuộc Bộ tư lệnh B3. Một anh ngồi nghỉ ở mãi xa, hỏi với tới chỗ hai cô gái:
-  Hai cô ở đơn vị nào đấy?
-  Chúng em ở đơn vị thuộc Tổng cục hậu cần B3, mấy anh ạ!
-  Chà, lính trực thuộc Bộ tư lệnh hả?
     Mỵ cười. Sa quay sang bắt chuyện:
-  Thế còn mấy anh ở đơn vị nào?
-  Các anh ở trung đoàn 40 – lính pháo đấy, mấy em ạ!
-  Thảm nào... nhìn mấy anh, chúng em biết ngay không phải lính bộ binh.
     Sa nói vậy.
-  Thế, chúng tôi khác với lính bộ binh ở điểm nào?
=  Lính pháo các anh đi một bước là lên xe xuống xe, nên gùi gạo không thạo bằng mấy anh bộ binh.
-  Sao cô biết?
-  Cứ nhìn gùi gạo của mấy anh là bọn em biết! Gùi gạo của các anh lính  bộ binh, thường nặng và to hơn.
-  Pháo với chả mã... Ở cái đất Tây Nguyên này, nghĩ mà ớn đến tận xương sống.
     Anh chàng vừa nói thở dài:
-  Vừa rồi chúng tôi đã phải tháo cả ô tô và pháo ra mà khiêng, mà kéo đấy? Cái giống xe cộ, nó chở mình thì dễ chứ... đến lúc mình phải cõng nó, cực hơn vợ đau đẻ.
      Các chiến sĩ nghe anh chàng tán dóc thế, liền cười ồ. Một anh trêu:
-  Người yêu còn chưa có mảnh tình vắt vai. Vợ ở đâu ra, mà cũng đòi biết đau đẻ là thế nào?
-  Chuyện, cậu này? Đấy là người ta ví thế!
-  Thế hai cô quê ở đâu?
-  Dạ, chúng em ở xa lắm!
     Sa nói bằng cái giọng Huế âm ấm, dễ nghe:
-  Em tên gọi là "Sa", quê tận Huế. Còn cô này là Mỵ, thì quê ở Hòa Bình.
-  Gái Hòa Bình hả? Đồng hương của cậu đấy, Dơng ơi!
     Một anh nói vọng tới chỗ của người chiến sĩ ngồi tận cuối bãi. Anh chiến sĩ có tên gọi là Dơng có vẻ hơi dút dát, lúc này mới đi gần đến đánh bạo hỏi:
-  Trên Hòa Bình, cô Mỵ ở vùng nào vậy?
-  Dạ em ở ngoài Vụ Bản.
-  Hai cô chắc mới từ Bắc vào?
-  Cũng được mấy tháng rồi ạ!
     Mỵ đánh bạo hỏi anh chiến sĩ đồng hương với mình:
-  Anh Dơng có quen ai tên gọi là "Hoàng" không?
     Dơng ngớ người, có vẻ ngẫm nghĩ:
-  Trong các đơn vị ở gần, tôi không thấy có ai tên gọi là "Hoàng".
     Một thoáng buồn trên nét mặt cô gái Mường. Cô nói:
-  Ấy là em cứ hỏi thế, may ra...
-  Thế, anh Hoàng của cô vào đây đã lâu chưa?
-  Cũng được hơn ba năm, gần bốn năm - rồi ạ!
-  Chắc anh Hoàng cũng là người tỉnh Hòa Bình?
-  Không ạ, anh ấy người miền xuôi.
-  Anh Hoàng của cô Mỵ quê ở tỉnh nào?
     Một thoáng ửng hồng trên khuôn mặt Mỵ. Sa trả lời thay cho bạn:
-  Anh ấy là người Hà Nội, mấy anh ạ!
-  Người yêu à...
     Mỵ ấp úng, lắp bắp trong miệng:
-  Dạ, không. Hồi trước, anh ấy có đóng quân ở bản của em.
-  Lính Hà Nội là tán gái giỏi lắm!
     Một anh chàng hạ một câu phán xét, làm cho Mỵ càng thêm đỏ mặt.
-  Vào đây, tìm người như thể tìm chim. Biết đâu mà tìm?
-  Vâng, em cũng nghĩ thế! Nhưng cứ hỏi mấy anh, may ra...
      Bỗng một anh chàng ngồi ở xa, hắng giọng nói dõng tới:
-  Ở đơn vị một người bạn của tôi, cũng có một cậu tên là Hoàng. Anh em vẫn gọi là "Hoàng rỗ". Hồi trước cậu ấy cũng đóng quân ở Hòa Bình.
      Mỵ cuống quít thanh minh:
-  Dạ, không phải đâu ạ. Anh Hoàng của em không "rỗ".
     Một chiến sĩ khác nói gạt đi:
-  Cậu này chỉ nói vớ vẩn. Hoàng nhà mình quê ở tận Bắc Thái, còn "Hoàng" của người ta là người Hà Nội cơ mà.
     Một chiến sĩ ngồi sát mé bên kia, nói với sang:
-  Có phải Hoàng người Hà Nội cao lớn, trông kẻng trai phải không? Nghe đâu, trước đây là lính của trung đoàn 209, vào đây đánh trận Chư Tan Kra rồi bị thương. Lúc ra viện, được chuyển về trung đoàn pháo E40.
     Mỵ cuống quít:
-  Dạ, có lẽ đúng đấy ạ! Trước khi vào Nam, anh ấy cũng ở trung đoàn 209. Thế, anh ấy bị thương có nặng không anh?                             
-  Khỏi rồi. Về chiến đấu rồi.
     Người chiến sĩ vừa thông báo cho Mỵ biết cái "tin quan trọng", nói tiếp:
-  Lần này, anh Hoàng không đi gùi gạo mà ở nhà làm nương. Tôi có một người bạn ở cùng đơn vị pháo với anh Hoàng, nên cũng sang chơi luôn.
     Mỵ ngẫm nghĩ giấy lát, mạnh bạo hỏi:
-  Từ Điểm 5 vào chỗ đơn vị của anh Hoàng có xa không ạ?
     Người chiến sĩ bước tới bên Mỵ, lấy một cây que nhỏ vạch ra đất:
-  Thế này nhé: Đến Điểm 5, cô hỏi đường về Binh Trạm Bắc. Từ Binh Trạm Bắc tới ngã ba đầu tiên rẽ trái rồi hỏi đường vào trung đoàn pháo 40, tiểu đoàn 30, đại đội 6... là tới.
     Anh ta vứt cái que ra xa, ngẩng nhìn Mỵ nói tiếp:
-  Từ Điểm 5 đi vào chỗ anh Hoàng, cũng phải mất 1 tiếng rưỡi đấy!
     Những tốp đi gùi gạo đã giục nhau tiếp tục lên đường. Người chiến sĩ vừa mách đường cho Mỵ cũng đã khoác gùi gạo lên vai, dặn lại:
-  Nếu đến thăm anh Hoàng, có điều kiện mời cô Mỵ, cô Sa vào chỗ chúng tôi chơi. Tôi tên là Hòa, đại đội 11 pháo mặt đất.  
-  Dạ, cám ơn anh ạ!
     Mỵ nhìn theo người chiến sĩ nọ, ánh mắt cô thầm biết ơn anh. Cô nói:
-  Bọn em dừng lại đây một lát, chờ mấy anh tạt vào kho Q7 lấy thêm ít vật dụng. Chúng em sẽ đi sau.
     Sa ghé vào tai bạn tủm tỉm cười:
-  Chuyến này gặp được “người năm ấy”... là phải khao một bánh lương khô đấy nhé!
     Mỵ khẽ ẩy bạn, gật đầu. Lúc này, cô mới cảm thấy hơi mệt. Mỵ ngả đầu vào Sa, nhìn lên những tia nắng mặt trời dọi qua các kẽ lá. Những chùm ánh sáng li ti chiếu xuống đất như một thảm hoa. Cô lim dim mắt, trong lòng dấy lên một niềm vui khôn tả.
 
 
 
 
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 17.06.2018 15:22:57
                     TRÁI TIM TAN VỠ


 
Em có biết, trái tim anh tan vỡ!
Chẳng phải do em, chẳng lẽ lại do mình?
Chuyện đã qua rồi, sau mấy mươi năm
Tóc lạt bóng thì tình càng sống lại.

Ôi, tình yêu cái thời còn non dại
Lấp lánh trăng sao, tưới mát tựa mưa rào
Lòng ngơ ngẩn như ngàn vạn mũi dao
Chém vào tim cho máu trào, ngực xé.

Làn môi em ngọt thơm đến thế,
Làn môi người sinh nữ đáng yêu ơi!
Em dịu dàng thơ mộng giữa mây trời
Đã bao lần cùng anh say đắm nhụy.

Trái tim anh nay đã thành hoang phế
Mơ em về sống lại những khát khao
Cho linh hồn đang chết lại tươi màu
Anh ôm ấp cả dáng hình thưở ấy…
*
Một thời trai yêu nhiều biết mấy
Đậu lại còn đôi bóng – chính là em!
Phút cuối cùng em tha thiết đến bên
Anh rũ bỏ như một thằng điên loạn.

Không! Một thằng ngu, khờ vì ngạo mạn
Em trẻ xinh mềm mại biết bao nhiêu
Một người vợ – với chồng,
                                  sẽ rất mực thương yêu
Sao lỡ bỏ? để suốt đời tiếc nuối.

Anh đã chết vạn lần, hồn đau nhói
Phí cả đời trai từng bão táp, phong ba
Một chữ “yêu…” thành dài dặc, lê thê
Em ơi! Trái tim vỡ rồi,
                             làm sao còn vá lại?
*
Nhớ buổi ấy cùng nhau đêm trăng sáng
Ánh mắt thơ xinh mà chứa bầu trời
Nụ hôn nào còn đọng trên môi
Anh xin uống cạn bầu em trắng mịn.

Đi dưới trăng hai đứa lòng bịn rịn
Em áp vào anh như hoa ép vào tim
Một vũ trụ ngát hương,
                      trao cho anh đón nhận…
Hết rồi, em ơi! Chắc sẽ làm em giận
Ngay từ lúc anh quay đi
Trước hững hờ,
                          giờ đau khổ nhường ni
Một người vợ, lẽ ra?
                          với đời ta là tốt nhất.

Thôi, đành để quỉ sa tăng moi gan, móc mắt
Lỗi lầm này giá đắt quá, em ơi!
Ta ngửa mặt kêu lên cùng với đất trời
Bằng trái tim tan vỡ!

Hà Nội, tháng 6.2018
Phạm Ngọc Thái
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.06.2018 15:27:44 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 21.07.2018 11:32:43
 
 
         TỔ QUỐC !
       CÓ BAO GIỜ HÈN, NHỤC NHƯ HÔM NAY ?
 
Chính phủ Việt Nam ơi !
Ngẩng lên thẹn trời
Cúi xuống hổ đất
Rồi con cháu sẽ muôn đời sỉ nhục
Dân tộc nuốt nước mắt,
                     đau lắm Quốc hội ơi !
Chính phủ tôi giờ hèn với giặc,
Ác với dân
Chỉ rắp tâm theo gót Tàu Bang mà bán nước.
 
Ối giời ơi !
Đồng bào ơi !
Người khổ nhường nào…
Chịu nhục nhường nào…
Ông này Tổng bí thư
Ông kia Thủ tướng
Kế tiếp nhau theo giặc
Dạ dạ, vâng vâng…
Chính phủ ơi !
         Có bao giờ hèn, nhục thế này không ?
 
Đã mất ngoài biển đảo,
Cho chúng tự do khai thác bauxite
Đưa giặc vào giẫm đạp đất Tây Nguyên,
Nay lại ra Luật Đặc Khu
Đem cả Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc
Dâng cho chúng.
 
Ối giời ơi !
Chính phủ gọi giặc là bố
Giày xéo dân như tôi tớ, người ơi !
Tổ quốc !
Có bao giờ hèn, nhục như hôm nay ?
 
              Tháng 6.2018
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 02.09.2018 18:01:18
 
chùm thơ mùa Thu  
 
 PHỐ THU VÀ ÁO TRẮNG
Tà áo trắng em đi qua phố
Mùa thu rơi phủ mắt anh
Tà áo trắng của người sinh nữ
Anh nhìn xác phượng khóc rưng rưng.

Chỉ còn lại con tim rớm đỏ
Áo quệt vào máu rỏ hai tay…
Ôi, mùa thu mùa thu êm ả
Sao lòng anh tơi tả thế này?

Tà áo trắng trôi dưới dòng mây bạc
Lang thang vài cánh bướm bơ vơ
Áo trắng in ngang trời - sét đánh!
Lưỡi dao nào cào nát tim thu?

Anh cũng có một thời bên áo trắng
Cũng bế bồng và cũng đã ru em!
Cái thời ấy chìm vào xa vắng
Phút gặp lòng đâu hết ngổn ngang.

Thêm một mùa thu, một mùa thu vỡ
Câu thơ nẩy những bông hoa buồn
Thôi, đừng hát để ướt lòng trinh nữ
Em đi rồi, anh chết cả mùa đông.



KÍ ỨC MÙA THU

Mùa thu khuấy lên bao kí ức
Xác thời gian trôi trên tóc em
Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió
Lá vàng rơi mênh mông.

Em đi qua mùa thu không gian
Trăng rãi đồi con gái
Nhớ đến lâu cái hương con gái
Nó thơm say và rất nhẹ nhàng.

Đường dạo ấy trên đồi trăng sáng
Đêm chia tay em dúi cả vào anh
Để bóng lạc suốt đêm ngoài phố
Mây lãng phiêu mãi không về.

Giờ đây chắc trên đồi thông đó
Gió vu vi và trăng vu vơ
Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió
Mùa thu lang thang chẳng bến bờ...



CẢM TÁC THU HÀ NỘI

Có con thỏ trong vườn đang nhởn nhơ ăn cỏ
Em gái qua vô tình cho phố ngẩn ngơ
Cành sấu ngả bên đường lá lá bay lả tả
Nửa xanh màu hạ, nửa vàng thu.

Thu đến gợi chi lòng
Mà mắt em ươm nụ
Trái tim xin cứ ngủ bình yên
Trong chiếc giỏ đa tình
           của chàng thi nhân đi lượm quả.

Con chim nhỏ ríu ran quanh tổ nhỏ
Tôi níu chân nàng đi hay nhặt thu rơi
Thu ơi, thu! Hà Nội ơi, Hà Nội!
Cho tôi hôn theo môi em,
                        người thiếu nữ xa vời



SÁNG THU VÀNG

Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây          
       bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước…
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa.

Người con gái đã thành chính quả!
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!

Sáng thu vàng mông mênh mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn.

Sáng thu vàng xang xênh xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười... hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh.

Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan...



ĐÊM THU PHỐ VẮNG

Đêm phố vắng anh đi hay là em không ngủ?
Thu đến rồi lay động trái tim!
Xào xạc lá, anh nghe xào xạc lá
Thăm thẳm bóng hình em trong đêm...

Anh lại dẫn em con đường yêu cũ
Một thời nào từng in dấu chân thon
Trước tình yêu ta hoá thành đứa trẻ
Dẫu mái tóc anh giờ đã hoa sương.

Ta sẽ viết cho ai bài thơ đêm thu vắng?
Nghe trong khuya em gọi vọng rất xa
Trên thảm lá lòng ta say đắm
Tha thiết bên em vì không muốn đêm qua

Ôi ! Bài thơ cứ theo anh lang thang trong phố
Kí ức hồi sinh về với tuổi xuân xưa
Em lại ru êm như thưở trẻ
Tấm thân mềm đưa anh vào bến mộng mơ.

Hà Nội, mùa thu 2018
Phạm Ngọc Thái
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.09.2018 18:04:02 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 10.10.2018 17:49:46



     ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI
                            Tặng TT.
                     (cảm xúc về nàng với buổi tình chiều,
                                            tôi đã viết nên bài thơ này)





 
Em nói với tôi rằng muốn có một đứa con…
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi!

Người thục nữ tôi yêu những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm.

Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần
                          dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu…

Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.

Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em!

Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu!

Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu!
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.

Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn!

Anh tìm đến em
                     lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu…

PHẠM NGỌC THÁI
Cuối thu năm Mậu Tuất
Chiều 6.9.2018




<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.10.2018 18:00:19 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 06.12.2018 15:35:29
 
           PHẠM NGỌC THÁI VÀ MỘT KIỆT TÁC THƠ TÌNH 
                           Nguyễn Thị Xuân


 
           ANH VẪN VỀ THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI 

Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con"
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi !
 
Người thục nữ tôi yêu
                     những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm.
 
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần
                        dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu...
 
Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em
                           như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.
 
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em !
 
Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca,
          anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu !
 
Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu !
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.
 
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn !
 
Anh tìm đến em
                     lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu...
 
         PHẠM NGỌC THÁI
              Chiều thu năm Mậu Tuất
                    Hà Nội 6.9.2018
                                               
  LỜI BÌNH CỦA NGUYỄN THỊ XUÂN:

 
 
Có lẽ đã qua hơn nửa thế kỷ, từ khi trên thi đàn Việt xuất hiện bài thơ tình nổi tiếng: "Hai sắc hoa ti-gôn" của một nữ sĩ ẩn danh, gọi tắt là T.T.KH - Đến nay, lại mới có một áng thơ tình của một nhà thơ đương đại, trong giới văn chương rất quen biết, đó là Phạm Ngọc Thái ! Thơ ca của anh trên văn đàn cũng được nhiều độc giả ngưỡng mộ.
      "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" mà anh mới cho ra đời trên các trang mạng Việt, đã được đông đảo bạn đọc đón nhận và ca ngợi. Nói một cách công minh: với những ai yêu thích thơ ca, kể cả người khó tính nhất cũng phải khen. Là một nhà giáo làm công tác văn chương, vì quá yêu thích bài thơ tình này - Tôi xin được mang chút kiến thức văn học để luận bình bản tình ca, với độ hay tôi đánh giá là một thiên kiệt tác thơ tình !
     Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" được chia thành chín đoạn, cả thảy ba mươi sáu câu. Tức là, một bài thơ khá dài. Cảm xúc thơ dồn dập chảy trào ra trong trái tim thi nhân, được bắt đầu bằng lời thổ lộ của người tình gái qua ước muốn của nàng. Đọc thơ ta tưởng cứ như là câu chuyện tình đêm khuya, thường phát trên Đài tiếng nói Việt Nam:
                    Em nói với tôi rằng... "muốn có một đứa con"
     Trong tình yêu của người đàn bà, mong muốn có một đứa con... là ước nguyện máu thịt với cả cuộc đời.
     Ở trong bài "Hai sắc hoa ti-gôn" nữ sĩ T.T.KH cũng từng mô tả hình ảnh của người tình trong mộng, một thưở xa xưa đã bộc lộ tình cảm yêu thương với mình, rằng:
                   Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
                   Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
                   Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
                   Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
      Còn trong bài "Anh sẽ về theo dòng lệ em tiếc nuối": Đó không phải chỉ là tâm tình, khát vọng của ái nữ khi nàng mong muốn có một đứa con kỉ niệm mối tình chung của hai người, mà cũng đã hòa trong dòng lệ yêu thương của chàng. Ta nghe, nhà thơ bộc bạch niềm tâm tư sâu kín ấy:
                    Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
                    Năm tháng dáng hình em hiển hiện
                    Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi !
     Nàng đã trở thành ngọn lửa để sưởi ấm trái tim chàng. Đây là mối tình của buổi "chiều cuộc đời", và lại phải sống cách xa nhau - Như tác giả viết:
                    Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
                    Tóc cũng bạc đôi phần
                                           dẫu tim còn khao khát
     Và anh thổ lộ:
                    Người thục nữ tôi yêu
                                      những năm cuối cuộc đời
                    Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
                    Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
                    Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm.
Câu chuyện tình có vẻ lâm ly. Anh yêu nàng mãn đời, mãn kiếp, cho tới khi chỉ còn là một nấm mồ xanh cỏ - Chà, thơ thật là đẫm lệ ! Tình đời của dòng thơ này chảy ra thấm đẫm máu tim và chất chứa tính nhân văn... trở thành một câu chuyện tình không khác gì truyền thuyết. Với một nhà thơ dành cả cuộc đời để sáng tác thi ca như anh - Tôi thiết nghĩ, không mong ước gì hơn thế nữa ! Thiết tưởng, bất cứ nhà thơ nào cũng phải ao ước mình sáng tác được một bài thơ như vậy. Ngẫm rằng, họ thương yêu nhau không chỉ đến bạc đầu, mà hóa thành kiếp khác vẫn còn yêu:
                    Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
                    Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu...
     Sợ người yêu khi đó sẽ tủi lòng vì phải sống trên đời này một mình, chàng còn an ủi và dặn dò:
                    Thì đời này - em ạ, có trớ trêu
                    Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
                    Anh hôn lên đôi môi em
                                               như một vầng trăng khuyết
                    Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh.
     Cái hình ảnh đôi môi của người yêu như một vầng trăng khuyết, trong thi ca xưa nay, tôi chưa từng thấy ai ví thế ! Một hình ảnh mỹ học thật cao siêu. Mang hình ảnh trời đất để ví với đôi môi của người yêu, đẹp một cách tuyệt vời ! Lại nữa, anh hôn lên đôi môi nàng... thấy cả bầu trời du ngoạn ở trong hồn. Thơ thăng hoa tới tột đỉnh, hình tượng cao đẹp mà vẫn đời.
     Ở trong bài thơ "Người đàn bà trắng" - Tôi đã thấy nhà thơ Phạm Ngọc Thái, từng đem hình ảnh trời đất để tả người yêu rất hay:
                    Chiếc mũ trắng mềm em đội bầu trời
                    Khóm mây trắng bay nghiêng trôi trên tóc
                    Đôi mắt em đong những áng mây
                    Người đàn bà trắng !
     Còn khi anh nói về "cái ấy" của nàng:
                    Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai !
                    Người đàn bà ai mà định nghĩa ?
     Đại văn hào Lép Tôn - xtôi từng nói về người đàn bà, đại ý thế này: Người đàn bà không thể định nghĩa, mà chỉ có sự tìm tòi... tìm tòi và tìm tòi mãi... - Phải chăng Người muốn nói về sự bí hiểm, đến mức kỳ diệu và vĩ đại của "cái ấy" đàn bà !?
     Rồi, cũng trong bài thơ "Người đàn bà trắng", Phạm Ngọc Thái đã kết:
                    Người đàn bà ngậm cả vầng trăng
     Nhà phê bình, nghiên cứu văn học thuộc Viên "Ngôn ngữ và Văn hóa dân gian" Trần Tứ Đức, bình phẩm về hình tượng câu thơ "... ngậm cả vầng trăng" như sau:
-   Đây là một câu thơ siêu thực, chứa đầy trầm tích đã được thăng hoa. Một thiên tạo vĩ đại đang nép trong tấm thân người đàn bà, hay chính nàng là một vầng trăng ? Cái vầng trăng ấy của nàng, nó cứ nguyên thủy như hang động thời tiền sử lại huyền bí như thánh linh...
     "vầng trăng" là nguyệt, mà "nguyệt" chính là "cái ấy" - Đấy, nhà thơ đã mô tả về cái của người đàn bà như thế !
     Trong đời thi ca Phạm Ngọc Thái, bài thơ "Người đàn bà trắng" đã rất có danh tiếng trên văn đàn và được đánh giá cao ! Song, theo nhận định của tôi: Thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối", còn có thể hay hơn, hấp dẫn hơn... chinh phục trái tim đời. Độ hay trong tính nghệ thuật thi ca của mỗi bài khác nhau, nhưng chí ít đều đạt là hai tình thơ tuyệt tác của nền văn học.
     Tôi nói về đoạn thơ thứ tư:
                   Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
                   Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
     Giọt nước mắt của đàn bà có thể làm xiêu đổ anh hùng. Trong truyên Kiều: Khi Từ Hải chết đứng, hai mắt mở trừng trừng không nhắm lại được... phải đến lúc, Kiều đến ôm chàng mà than:                   
                    Khóc rằng: "Trí dũng có thừa,
                    "Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
                    "Mặt nào trông thấy nhau đây?
                    "Thà liều sống thác một ngày với nhau!"
                    Dòng thu như dội cơn sầu,
                    Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
                    Lạ thay oan khí tương triền!
                    Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
     Còn trong thiên tình ca này, nhà thơ Phạm Ngọc Thái nói với nàng rằng:
                    Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
                    Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em !
 
                    Chỉ hóa kiếp mình tiếp cuộc trường sinh
                    Cùng thi ca,
                               anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
                    Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
                    Với mối tình nồng thắm của em yêu !
     Chàng sống mãi với đời và trong tình yêu của nàng. Họ gắn bó rồi yêu nhau, cảm thông cuộc đời của nhau:
                    Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
                    Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
                    Thời trai trẻ phong trần qua chiến tranh loạn lạc
                    Khi tuổi già có vợ vẫn cô đơn !
     Chỉ 4 câu thơ thôi, mà tưởng như diễn giải cả một thiên tiểu thuyết. Trong thiên tình ca "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối, ta thấy thi nhân còn để lại những lời dặn dò, nhắn nhủ người yêu thật máu tim...
     Đọc đoạn thơ thứ bảy giống như một lời trăng trối, tôi bỗng liên tưởng tới những vần thơ nổi tiếng của thi hào Nga vĩ đại Pushkin, khi Người nhắn gửi tới người tình:
                    Nhưng nếu gặp ngày buồn rầu đau đớn
                    Em thầm thì hãy gọi tên lên
                    Và hãy tin còn đây kỷ niệm
                    Em vẫn còn sống giữa một trái tim.
     Hay thi nhân Hàn Mặc Tử, đã để lại những lời trăng trối cuối cùng cho người yêu:
                    Anh trút linh hồn giữa lúc đây
                    Gió sầu vô hạn nuối trong cây
                    Còn em sao chẳng hay chi cả
                    Xin để tang anh đến vạn ngày
                                      (Trút linh hồn)
      Thi nhân Phạm Ngọc Thái thì viết:
                    Nếu giây phút nào em lạc bến cô liêu !
                    Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
                    Hãy tìm đến nấm mồ anh miền xa vắng
                    Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau.
     Đọc đến những dòng thơ này, tôi đã khóc - Tưởng như, trên đời này cũng chỉ yêu nhau đến thế là cùng ! Đoạn thơ kết cũng thật là cảm động, một lần nữa thi nhân thổ lộ cõi lòng tha thiết trong buổi hoàng hôn của đời mình:
                    Anh tìm đến em
                                  lúc đã tàn úa mái đầu xanh
                    Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
                    Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
                    Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu...
     Dòng thơ đã đưa ta đi đến cõi vĩnh hằng của tình yêu ! Trong thơ hiện đại Việt Nam, tôi chưa từng được đọc bài thơ nào quyến rũ và hay như bài này. Tôi thiết nghĩ -  "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" của thi nhân Phạm Ngọc Thái, xứng đáng là một thiên kiệt tác thơ tình bất hủ với ngàn năm văn hiến Thăng Long !
 
           Hà Nội , đầu đông 2018
             NGYỄN THỊ XUÂN
    GV văn Trường THPT Ba Đình, Hà Nội
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.12.2018 15:44:36 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 12.01.2019 15:49:27

                   BÀI THƠ ĐẦU NĂM 2019


Có lẽ ta dừng thơ ? không làm nữa 
Bởi thấy lòng mệt mỏi với tình si 
Cuốn tiểu thuyết cuộc đời vẫn bỏ ngỏ chưa ghi
Chợt tỉnh dậy. Viết vài câu, chào năm mới !

Em nghĩ gì ? Thôi, đừng quan tâm tới ...
Quăng mình vào thế giới của tương lai
Vui bạn văn chương, tửu quán ... để say
Học thi nhân Vũ Hoàng Chương, quên hết ! (*)

Còn sống được bao năm, không biết ?
Cũng muốn giữ với em, lời hẹn ước lúc yêu đương
Nhưng sớm nay thân rời rã, chán chường
Yêu giằng xé, nhớ hoài ... càng thấm mệt.

Ông anh họ hơn vài tuổi bỗng lăn đùng ra chết
Phạm Tiến Duật mất chưa đến bẩy mươi xuân
Một kiếp người qua ... thế đủ rồi chăng ?
Xuất bản nốt cuốn tiểu thuyết tới này, ta đi cũng được.

Em ở lại, nếu nhớ câu hẹn ước
Đến mồ anh xõa tóc khóc người xưa
Khi anh xa ... lòng vẫn vương tơ
Bởi không trọn cùng em lời thề nguyện.

Ôi ! Đẹp quá, ngày đầu ta gặp gỡ
Dẫu tuổi anh lúc đó xế hoàng hôn
Cứ tưởng mình ở độ xuân xanh
Tha thiết yêu em trong mối tình say đắm.

Anh từng viết những bài thơ một trời hy vọng
Em dành bao thề thốt thủy chung
Ngỡ không gì có thể cách ngăn
Để đôi ta kết thành chồng vợ ...

Chỉ biết giận ông trời nỡ làm tan vỡ ?
Những đêm dài... ta khản tiếng gọi tên em !
Em thấy không ? Mối tình mình sáng tựa vầng trăng
Anh thường mơ nằm giữa lòng tình nhân
                                           về thiên thu yên ngủ.

Rồi năm tháng em sống trong buồn nhớ
Anh ra đi còn cào xé tim gan
Dù đời ta non nước sẽ để tang

Nhưng vẫn mãi cô đơn dưới nấm mồ hiu quạnh
Ôi, bài thơ đầu năm sao lòng ớn lạnh
Nào ! Ra tửu quán, say quên ...
     1.1.2019
PHẠM NGỌC THÁI

(*)  Thi nhân Vũ Hoàng Chương, một đời mượn rượu chỉ để làm "thơ say" và "thơ mây".



<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.01.2019 15:52:53 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 22.02.2019 11:20:00
 
                      TẠ TỘI TRƯỚC TÌNH YÊU
                               Tặng người nữ sinh yêu dấu của đời tôi
 

 
                                                                    
Đã xa lắm ! Tình xưa bùng cháy lại
Thưở mơ màng đâu còn nữa, em ơi !
Tóc anh nay nhiều sợi bạc rồi
Em ở tận phương trời, biệt tích ...
 
Nhớ những đêm trăng cùng nhau dạo bước
Nụ hôn nào đang dính giọt sương đêm
Người nữ sinh ? Anh không thể quên
Dù đã yêu bao nhiêu lần khác.
 
Tình đổ vỡ. Trái tim anh tan nát
Tháng năm qua, hàn vá được đâu em ?
Đời trôi đi ... trăm nỗi u phiền ...
Cuộc sống phong trần. Tình nhạt nhòa, tẻ ngắt.
 
Có lỗi lầm không sao xóa được
Là phút giây anh gạt bỏ tình em
Ánh mắt thơ xưa tha thiết nhìn anh
Vết thương cũ xiết mãi lòng đau nhói.
 
Em hiển hiện, người thiếu nữ dịu dàng biết mấy
Bao áng thơ ta từng viết về em
Nhìn thấy không gái ơi ?
              Mảnh trăng khuyết bên thềm
Ta thao thức gọi tên nàng trong hoang vắng
 
Anh quì xuống giữa không gian sâu thẳm
Tạ tội với đất trời ! Vì đã bội phản cuộc tình em ...
 
          11.2.2019
  PHẠM NGỌC THÁI
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.02.2019 11:22:23 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 01.04.2019 18:58:55
 
 


 
    ANH ĐAU XÉ LÒNG ĐÀNH QUAY GÓT
 
Ta bỗng thấy lòng ta nhẹ bẫng
Trút cơn sầu. Cánh chim vụt bay lên
Hãy bay đi ! Bay tới tận Hoàng Thiên
Rồi đậu xuống một vầng trăng huyền ảo.
 
Người lữ khách rũ bụi trần, xa huyên náo
Quên phàm tình. Nhìn bốn phía mênh mông
Vẫy tay chào ! Ở lại nhé, em thương...
Mình chia tay, biết có ngày trở lại ?
 
Cũng không phải là người rồ dại
Đã yêu em tự đáy lòng anh
Em đến với anh bằng tình thắm chân thành
Bao giây phút nồng nàn,
                        trao nhau không tưởng tiếc.
 
Thì vẫn biết, em cố ghìm tiếng khóc
Lòng anh đau như dao cắt, kim đâm
Ta trách trời ư ? Trời có thấu đâu em
Tại số đó, nếu không thể bên nhau mãi mãi...
 
Anh những muốn cùng em xây dựng lại
Em giận hờn, phẫn chí buông xuôi
Trái tim anh tưởng vỡ làm đôi
Cố gắn lại... mỉm cười nhìn số phận.
 
Anh cũng biết đời em còn lận đận
Mang tình yêu làm chỗ dựa hồn em
Lòng dạ đàn bà, không thấu nổi bên trong …
Vẫn cần anh sao mãi còn tấm tức ?
 
Cuộc chia tay đẫm nhòa nước mắt
Nói làm gì ? Ai mất nhiều hay ít hơn ai
Rồi ngày mai ngoái lại tiếc hoài
Rơi dòng lệ bên mộ người tri kỷ.
 
Đời anh đó, đỉnh thi sơn kỳ vĩ
Tháng năm cùng nhân thế, không em
Anh bay lên chín tầng cao mà kiếp cô đơn
Em ở lại dưới trần hiu hắt bóng.
 
Cuộc phân ly hai đứa đều lạnh cóng
Nhưng cứ yếu hèn biết sống làm sao ?
Ừ, thôi... thì quên nhau, mặc cho máu tim trào
Làm kỷ niệm in sâu vào trí não
 
Thơ càng viết tình dâng thành giông bão
Phút nhớ nhung viết gửi vào thơ
Em giữa đời chịu cảnh sống bơ vơ
Anh đau xé trong lòng, đành quay gót...
 
          PHẠM NGỌC THÁI
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.04.2019 19:01:39 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 14.05.2019 12:10:09
 
 
    HAI KẺ ĐỜI QUẤN QUÍT
 
không có em, anh vẫn yêu tha thiết
Chỉ trời xanh là biết mối tình ta
Vì đường đời đã phải chia xa
Dẫu trái tim hai đứa cùng đau nhói.
 
Trời Tây Hồ nắng vờn trong gió mới
Như anh-em ngày ấy, quấn bên nhau
Bóng trúc xinh soi dòng nước xanh màu
Cứ tưởng sẽ đời đời và mãn kiếp.
 
Em vật vã đêm ngày, anh vẫn biết
Những thương em, chỉ biết ngóng trời xa
Ca lên em ! Cõi trần có phong ba
Tình yêu sẽ dẫn ta vào bất tử !
 
Em xinh đẹp, đất trời còn quyến rũ
Gái má hồng... tạo hóa phải ghen
Anh bôn ba nửa trái đất cũng yếu mềm
Nặng lời thề với em ghi tấc dạ.
 
Miền sông nước: Ôi, mênh mang trắng xóa
Có em tôi ở đó, đứng chờ mong
Ta chia tay bởi duyên phận không thành
Anh ra đi ngày đêm thường trăn trở.
 
Chưa kịp đến đón em làm vợ
Đã bạc đầu. Nuốt dòng lệ em đau...
 
Một mai kia... Nơi thế giới không màu...
Anh sẽ đợi em về, nằm bên cạnh
Hai ngôi mộ trong hương tàn, khói lạnh
Của hai kẻ đời quấn quít, gió mây bay
 
          8.5.2019
       PHẠM NGỌC THÁI
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2019 12:11:36 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 18.06.2019 13:20:22
 
 
            EM CÓ ĐƯỢC BAO PHẦN NƯƠNG NÁU TRÁI TIM ANH
                          . Bài thơ viết lúc nửa đêm
                                                 *
Câu em hỏi làm anh đau xót
Anh chỉ biết yêu, biết nhớ, biết thương
Có bao giờ chia nhỏ trái tim
Phần này cho em, phần này cho người khác.
 
Nửa đêm trường bỗng choàng thức giấc
Nghe tiếng ai tha thiết gọi tên mình ?
Trong lòng anh, em vẫn vẹn nguyên
Không cắt sẻ tình thương chia ai cả.
 
Đời khát vọng... ôm ấp người nhi nữ...
Đưa em vào trong biển nhớ, trời yêu
Nỡ khi nào để em bị thương đau
Hãy tin nhé: Anh vẫn dành cho em, không xén bỏ.
 
Mong em sống ngọt ngào hương cám dỗ
Hương vị đời... Hương vị của tình yêu...
Em đừng buồn. Anh sẽ chẳng xa đâu
Sớm tối về bên em ấp ủ.
 
Hãy cùng anh sống những ngày vui vẻ
Hãy cứ yêu như chỉ để mà yêu
Đời người lưu luyến được bao nhiêu
Tình anh trao. Em cứ giữ riêng mình, không đau khổ !
 
Anh lang bạt khắp chân trời, xứ sở
Là chàng thi sĩ của thương yêu
Đến với em chỉ muốn cưng chiều
Để em được thêm nhiều hạnh phúc.
 
Cũng đừng nghĩ, anh sẽ vì người khác...
Lãng quên em ? Không. Lòng vẫn tột cùng thương
Dành cho em tới cuối cung đường
Cả khi khuất. Gió bay... Hồn vẫn tràn nhung nhớ...
 
Bởi em là người nhi nữ anh đã nặng tình... từ buổi đầu gặp gỡ...
 
             17.6.2019
      PHẠM NGỌC THÁI
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2019 13:22:02 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 17.07.2019 11:24:40
 


 
 
NGƯỜI THÔN NỮ MIỀN SÔNG NƯỚC
 
Nén hương lòng anh tưởng niệm mối tình em
Bóng trúc vắng, làng quê xanh viễn vọng
Giọt lệ đắng em hòa cùng anh uống
Chốn xa vời người lữ khách đứng dừng chân.
 
Xin để lại cho đời vài khúc ca ngân
Nghìn năm sau - Thế nhân ơi, hãy nhớ !
Tấm hình ta cùng nàng một thưở
Và cuộc tình nước mắt lẫn yêu thương.
 
Anh không thể mang em theo trọn kiếp thi nhân
Giúp em vượt qua đời bể dâu khốn khổ
Mai có đến gặp lại anh bên nấm mồ
                                  nơi chân trời, xứ sở
Xõa tóc mà than khóc cõi dương gian...
 
Anh vẫn chờ em ở dưới suối vàng
Ta hãy quên đi thế giới đầy bạo loạn
Để cùng em kết trăm năm tình bạn
Của tình yêu tự trái tim anh !
 
Anh vẫn thương em dù duyên phận bẽ bàng
Chẳng phải vì em, chẳng phải anh không muốn
Nhưng em ạ ! KIỀU đã nói rồi,
                                        đó là bể sống...
Tình giữa trần ai, nước mắt trộn cơm chan.
 
Dẫu phải biệt xa...
                           anh có hạnh phúc đâu em ?
Vẫn biết đời em cũng hòa dòng lệ đắng
Ừ, thì trang nam anh khinh thường kiếp nạn
Chỉ thương em là phận nữ nhi.
 
Hãy vững bước lên em vào thế giới của ca thi
Sẽ giúp em quên mọi điều sầu muộn
Anh chỉ tiếc không thể dìu em tới bến...
Mong đất trời có Thượng đế đỡ em đi !?
 
                          *
 
Thơ viết đã dài mà chẳng thỏa nỗi tình si
Ta lại cất tiếng gọi tên em:
-  Người thôn nữ miền sông nước...
Mai dân tộc có đặt ta nằm ở nơi nào
                                 dưới gầm trời tổ quốc
Hãy đưa mộ nàng về
                               chôn cạnh nấm mồ ta.
 
Để con cháu đời đời cất cao bản tình ca
" Không có chiến tranh,
                           chỉ có tình yêu bất diệt ! "
Anh sẽ nâng hình em bay trên đất trời nước Việt
Vượt qua mọi chủ nghĩa tới muôn năm.
 
Hãy đi cùng anh, mình không chết đâu em
Kinh thánh đã dậy rồi: nay chỉ là "cõi tạm"
Khi biết vượt qua đủ buồn đau, khổ nạn
Mới vào được ngôi đền...
                          - Tòa Thánh của tình yêu !
 
Ôi ! Người thôn nữ anh thương
Cuộc tình mình dù đắng đót bao nhiêu
Nhưng hãy nghe lời anh:
              - Ta được nhiều hơn mất...
Đã giúp em nhìn ra nghĩa sống
                          trong bể đời khốn kiếp
Vượt lên bão táp, phong ba.
 
Em hãy hòa nước mắt vào
                         viết những bản tình ca
Nó vĩ đại hơn các luận ngôn đảng phái
Ta sẽ là ánh sao băng trên thiên hà sông núi
Anh đợi đón em về
                               trong thế giới bên kia.
 
PHẠM NGỌC THÁI                   
(Trích tập thơ " PHẠM NGỌC THÁI CÁNH ĐẠI BÀNG CỦA THI CA ĐƯƠNG ĐẠI VN" XB 2019)
 
          Hà Nội, 8/11/2018
( sáng mùa đông năm Mậu Tuất)

 


  Tác phẩm dầy 300 trang XB 2019

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.07.2019 11:33:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 01.09.2019 16:26:53

     Phạm Ngọc Bảo ( 7.3.1992 - 22.7.2019 )
 
 
              VĨNH BIỆT CON YÊU
                   . Tưởng niệm con Phạm Ngọc Bảo
                           ( 7.3.1992 - 22.7.2019 )
 
Bố nhỏ lệ, nhìn con đi biệt tích
Dòng đau buồn cắt tự máu tim cha
Con ơi con ! Khi con vĩnh biệt bố, mẹ ra đi
Thế là hết đời người cha già đau khổ
 
Già chưa chết mà đầu xanh đã bỏ
Ở thiên đàng, con hãy đợi cha lên !
Bố con mình sẽ ôm ấp nhau tới nghìn năm
Cha không bao giờ rời con ra nữa
 
Thôi con ạ ! Kiếp người là bể khổ
Con đi rồi, trút gánh nặng vào cha
Đứa con yêu, cha thương nhất cõi sơn hà
Vài dòng thơ. Cha cầu nguyện vong hồn con siêu thoát
 
Cha vẫn nói: Con là linh hồn của người cha bất diệt !
Nay linh hồn bỏ đi rồi, cha sẽ sống sao đây ?
Trăm lậy con yêu !
Bố quì xuống trước vong linh con, muốn nói rất nhiều
Nhưng nghẹn đắng, không thể cất lời khôn được nữa
 
Viết mấy dòng thơ. Bố, mẹ tiễn con về nơi yên nghỉ
27 năm trời con sống với mẹ cha, bỗng chốc hóa tiêu tan
Cha có ở lại chốn trần gian, cũng chỉ là nắm thân tàn
Hãy đợi cha, nhanh thôi con yêu ! Sẽ đến ngày cha con ta đoàn tụ
 
Thơ bố viết, lệ tuôn dòng máu đổ
Cái cõi trần khốn kiếp này, tiếc làm chi !
Thôi thì con đi trước. Bố trả nốt tí nợ đời, rồi cũng ra đi
Bố sẽ bế ẵm con như thuở còn rất nhỏ
 
27 năm sống trên cõi đời. Bố nhìn vận con xấu số
Lòng người cha trăm nhát dao đâm
Khi con sống, không phút giây nào... Cha mẹ ngừng chăm sóc, thương con
Nay con mất, chỉ còn biết sụp lậy trước vong linh... oán than số kiếp...
 
Mấy dòng thơ vĩnh biệt con ! Bố viết ra từ máu và nước mắt
Một lần cuối trong đời, run rẩy nhìn khuôn mặt đứa con yêu
Hãy đợi bố nghe con !
Rồi bố sẽ đến bên con một sớm, một chiều...
 
                  PHẠM NGỌC THÁI
                  Đọc tại tang lễ con
                15h... ngày 25.7.2019
 
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.09.2019 16:29:53 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 06.10.2019 12:45:04
 
         CHUYỆN VỀ HAI NGÔI MỘ CHA CON MAI SAU


Gió vi vút ngàn năm thổi vọng
Khói sương chiều quấn quít bay đưa
Kể rằng: Ngày xửa ngày xưa
Có hai cha con nhà thơ, hồi còn sống...
 

         Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 - 22.7.2019)
 
Trời Hà Nội. Cha hay dắt con ra Hồ Tây chơi lắm !
Vọng bên chùa Trấn Quốc tiếng nam-mô
Qua bốn mùa, ngày tháng thoi đưa
Đứa bé lớn khôn, rồi trở thành sinh viên, thạc sỹ

Hai thế hệ ở trong cùng thế kỷ
Người cha dần cũng già đi
Con lại đỡ cha, chăm sóc sớm khuya
Nam mô a di đà Phật !

Nghĩa phụ tử trên dòng sông nước Việt
Bóng trời Nam in dấu ngày đêm
Mây bay, gió thổi triền miên
Tình cha con mãi thiêng liêng sống còn

Bỗng một hôm bão giông, sấm sét
Cắt người con ra khỏi người cha
Lá vàng thì vẫn còn kia
Đầu xanh đã bỏ, chia ly trọn đời !

Nỗi đau uất rụng rời trời, đất
Vì khóc con, cha ngất nhiều phen
Hận đời, giận cả địa thiên
Đã sinh thượng đế, sao còn ác tâm ?

Người cha những kêu Quan Âm, Phật Tổ
Giúp một tay nâng đỡ sinh linh
Dù không cứu được đứa con
Thì xin Người đón về trên niết-bàn !?

Người cha thề ra tay hay bút  (*)
Viết đoản thiên tuyệt tác lưu danh
Con mình vào với sử xanh
Bao giờ non nước tan tành mới tan.

Một đời đã dọc ngang thi phú
Hẹn về bên Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du
Miếu thờ tôi ở thiên thu
Mong hậu thế cho con thơ cùng vào !

Vài lời trăng trối trời cao
Nay xin để lại rồi chào, tôi đi...
Xác người cũng chẳng còn chi
Gió đưa đôi mộ vu vi vọng hồn

"Tình cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"...

                   17.9.2019
           PHẠM NGỌC THÁI

-----------------------------------------------------------------------
(*)  Đến nay người cha cũng đã viết được hơn 40 bài “Thơ khóc con”, chuẩn bị xuất bản thành sách.
 

[link=https://tintuconline.com.vn/xa-hoi/nhung-cau-chuyen-dau-long-quanh-5-ngoi-mo-vo-danh-va-mieu-tho-2-co-gai-chet-tre-o-bai-song-hong-n-370268.html][/link]
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2019 12:49:48 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 06.10.2019 12:54:46
 
CHUYỆN VỀ HAI NGÔI MỘ CHA CON MAI SAU


Gió vi vút ngàn năm thổi vọng
Khói sương chiều quấn quít bay đưa
Kể rằng: Ngày xửa ngày xưa
Có hai cha con nhà thơ, hồi còn sống...
 

         Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 - 22.7.2019)
 
Trời Hà Nội. Cha hay dắt con ra Hồ Tây chơi lắm !
Vọng bên chùa Trấn Quốc tiếng nam-mô
Qua bốn mùa, ngày tháng thoi đưa
Đứa bé lớn khôn, rồi trở thành sinh viên, thạc sỹ

Hai thế hệ ở trong cùng thế kỷ
Người cha dần cũng già đi
Con lại đỡ cha, chăm sóc sớm khuya
Nam mô a di đà Phật !

Nghĩa phụ tử trên dòng sông nước Việt
Bóng trời Nam in dấu ngày đêm
Mây bay, gió thổi triền miên
Tình cha con mãi thiêng liêng sống còn

Bỗng một hôm bão giông, sấm sét
Cắt người con ra khỏi người cha
Lá vàng thì vẫn còn kia
Đầu xanh đã bỏ, chia ly trọn đời !

Nỗi đau uất rụng rời trời, đất
Vì khóc con, cha ngất nhiều phen
Hận đời, giận cả địa thiên
Đã sinh thượng đế, sao còn ác tâm ?

Người cha những kêu Quan Âm, Phật Tổ
Giúp một tay nâng đỡ sinh linh
Dù không cứu được đứa con
Thì xin Người đón về trên niết-bàn !?

Người cha thề ra tay hay bút  (*)
Viết đoản thiên tuyệt tác lưu danh
Con mình vào với sử xanh
Bao giờ non nước tan tành mới tan.

Một đời đã dọc ngang thi phú
Hẹn về bên Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du
Miếu thờ tôi ở thiên thu
Mong hậu thế cho con thơ cùng vào !

Vài lời trăng trối trời cao
Nay xin để lại rồi chào, tôi đi...
Xác người cũng chẳng còn chi
Gió đưa đôi mộ vu vi vọng hồn

"Tình cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"...

                   17.9.2019
           PHẠM NGỌC THÁI

-----------------------------------------------------------------------
(*)  Đến nay người cha cũng đã viết được hơn 40 bài “Thơ khóc con”, chuẩn bị xuất bản thành sách.
 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2019 12:56:17 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 07.11.2019 17:38:41
 
 
           CHÙM THƠ TÌNH THÔN NỮ DƯỚI TRĂNG

                                              PHẠM NGỌC THÁI

   

       NHÌN TRĂNG NHỚ EM
 
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương.
 
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên… vành vạnh tỏ…
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm.
 
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn, nếu chẳng có tình em.
 
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương.
 
Trăng không còn… Em vẫn hiện lên…
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Trong giấc ngủ chập chờn đêm vĩnh tuyệt !
Anh đã bay về ôm lấy trăng em.
 
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Lại thấy ảnh ông Tổng thống Hoa Kỳ đang cầu nguyện
Dân chủ – Cộng hòa ? chả Đảng nào sánh được hơn.
 
Cả nhân thế này chỉ một “mảnh trăng con”…
Sống mãi muôn đời, dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà… Càng da diết yêu thêm…
 
            12.7.2019
 

 

         EM VÀ CHIẾC VÁY MÀU CỎ ÚA

Mưa bay chiều nay trên Hồ Tây
Bóng em vẫn xa như áng mây
Hỡi cô mặc áo màu cỏ úa
Lòng anh cô đơn. Anh ngồi đây !
 
Nhớ buổi hẹn hò giữa thiên thai
Chỉ có vòm xanh và cỏ cây
Đặt em nằm xuống trong trăng sáng
Cùng nhau yêu hết cả trời này
 
Ôi, đáng yêu chưa mắt em cười
Chiếc váy ngắn với đùi thơm trắng nõn
Như gái đôi mươi, em đẹp lắm !
Anh say mà… ngắm mãi không thôi…
 
Thương tự ngày nào thì chẳng nhớ
Thân vàng ngọc em dâng anh tất cả
Anh đợi tin vui sau buổi ấy đến giờ ?
“cô bé” của em đẹp hơn thơ
 
Em bảo rồi sinh cho anh hai đứa con
Anh xa tâm trí cứ ngổn ngang
Em đi dậy học đường dài lắm
Nhất là những lúc phải sang sông
 
Nhớ nhé, em yêu ! Hãy giữ mình
Qua phà mưa gió chớ coi khinh
Tấm thân nhi nữ thường đau yếu
Đợi anh ít nữa sẽ về bên
 
Chiều nay anh lại ngắm ảnh em
Có cô thôn nữ thật là xinh
Với chiếc váy quê màu cỏ úa
Lòng dạ nôn nao tạc bóng hình
 
Anh dẫn em vào cõi thương yêu
Mưa bay, em ạ ! Suốt buổi chiều
Chỉ lo Cưng ở miền xa ấy
Lại nhớ nhau hoài… bến cô liêu.VÁY
 
                21.6.2019
         PHẠM NGỌC THÁI

<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2019 17:46:11 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 14.12.2019 11:15:32
CHÙM THƠ TÌNH THÔN NỮ DƯỚI TRĂNG - Phạm Ngọc Thái
 
NHÌN TRĂNG NHỚ EM
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương.
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên... vành vạnh tỏ...
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm.
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn, nếu chẳng có tình em.
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương.
Trăng không còn... Em vẫn hiện lên...
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Trong giấc ngủ chập chờn đêm vĩnh tuyệt !
Anh đã bay về ôm lấy trăng em.
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Lại thấy ảnh ông Tổng thống Hoa Kỳ đang cầu nguyện
Dân chủ - Cộng hòa ? chả Đảng nào sánh được hơn.
Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con"...
Sống mãi muôn đời, dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà... Càng da diết yêu thêm...
                                                     12.7.2019
EM VÀ CHIẾC VÁY MÀU CỎ ÚA
Mưa bay chiều nay trên Hồ Tây
Bóng em vẫn xa như áng mây
Hỡi cô mặc áo màu cỏ úa
Lòng anh cô đơn. Anh ngồi đây !
Nhớ buổi hẹn hò giữa thiên thai
Chỉ có vòm xanh và cỏ cây
Đặt em nằm xuống trong trăng sáng
Cùng nhau yêu hết cả trời này
Ôi, đáng yêu chưa mắt em cười
Chiếc váy ngắn với đùi thơm trắng nõn
Như gái đôi mươi, em đẹp lắm !
Anh say mà... ngắm mãi không thôi...
Thương tự ngày nào thì chẳng nhớ
Thân vàng ngọc em dâng anh tất cả
Anh đợi tin vui sau buổi ấy đến giờ ?
"cô bé" của em đẹp hơn thơ
Em bảo rồi sinh cho anh hai đứa con
Anh xa tâm trí cứ ngổn ngang
Em đi dậy học đường dài lắm
Nhất là những lúc phải sang sông
Nhớ nhé, em yêu ! Hãy giữ mình
Qua phà mưa gió chớ coi khinh
Tấm thân nhi nữ thường đau yếu
Đợi anh ít nữa sẽ về bên
Chiều nay anh lại ngắm ảnh em
Có cô thôn nữ thật là xinh
Với chiếc váy quê màu cỏ úa
Lòng dạ nôn nao tạc bóng hình
Anh dẫn em vào cõi thương yêu
Mưa bay, em ạ ! Suốt buổi chiều
Chỉ lo Cưng ở miền xa ấy
Lại nhớ nhau hoài... bến cô liêu. VÁY
                       PHẠM NGỌC THÁI
                            21. 6. 2019
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2019 11:24:20 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 19.01.2020 20:02:31
    
CUỐN TIỂU THUYẾT CUỐI ĐỜI CỦA CHA
 


         Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 - 22.7.2019)
 
Cha muốn viết cuốn tiểu thuyết cuối đời, có "cha và con" trong đó...
Cha sẽ giữ nguyên tên con Ngọc Bảo
Một cuốn tiểu thuyết tình yêu !
In bóng hình con trẻ mãi phiêu diêu.

Cuộc đời chìm nổi, bể dâu…
Hạnh phúc, khổ đau, tình yêu và nước mắt
Cha dồn tất cả trí tuệ, trút hơi tàn sau chót
Để quyển truyện tình sống đến ngàn thu.

Sáng hôm nay sương mát, gió đông ru
Hà Nội vừa bão xong, đổ cây, người chết
Luật sinh tử bất thường trong trời đất
Vẫn xẩy ra. Không phải với riêng con ?

Cuộc sống cứ ào đi. Phố xá vẫn rộn lên
Cha lặng lẽ ngắm nhìn người đang bước
Sống ở đây ? Hồn hướng về Tây Trúc
Một ngày nào đấy... tới cùng con...

Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, kết thúc nghiệp văn
Có cha và con, muôn năm tình nhân thế
Sông núi ôm con vào lòng, đời thương nhớ
Người về thắp hương trên ngôi mộ con yêu !

Sống kiếp này, chỉ mong được bấy nhiêu ?
Thì cũng thỏa dẫu là con chết yểu
Cha đã chuẩn bị một nấm mồ ở bên con. Khi yếu
Lúc cha về ngon giấc giữa trời mây

Dưới trăng, sao vằng vặc nước non này...

Cha ru con ngủ tháng ngày
Như hồi thơ bé. Hồ Tây gió về...
Xào qua cành sấu, cành me
Quanh con còn đó, bốn bề quê hương !

2.9.2019
PHẠM NGỌC THÁI
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.01.2020 20:06:49 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 04.03.2020 16:57:40
 
 
ĐỜI VĂN CHƯƠNG PHẠM NGỌC THÁI & TẦM VÓC "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC"
                                                                           Nguyễn Thị Hoàng
  

      Nói là "đời văn chương" nhưng ở đây, do khuôn khổ của một bài viết  - Tôi chỉ khái quát mấy nét liên quan đến sự nghiệp thi văn của nhà thơ. Vào mùa đông vừa qua, anh đã cho xuất bản: "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" Phạm ngọc Thái, Nxb Hồng Đức 2019 - Một tác phẩm thi ca hiện đại! 
  
       A.  KHÁI QUÁT CUỘC ĐỜI VĂN CHƯƠNG CỦA NHÀ THƠ
       Phạm Ngọc Thái lớn lên khi cả nước đang bước vào giai đoạn cuộc chiến tranh đánh Mỹ ác liệt nhất! Thu đông 1966, anh tốt nghiệp phổ thông cấp III Hà Nội... tiếp sang đời một sinh viên Trường Đại học Bách khoa. Như hàng vạn thanh niên thủ đô và cả nước -  Hồi đó, hưởng ứng lời kêu gọi tổ quốc có lâm nguy! Mùa xuân 1967, Phạm Ngọc Thái tình nguyện rời bỏ trường đại học, rời quê hương, gia đình... dấn mình vào cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt của dân tộc. Anh từng thổ lộ: Suốt mười năm chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên Nam Bộ - Qua các Sư đoàn 312, Trung đoàn pháo 40 Tây Nguyên, Trung đoàn 48 Sư 320... tiến vào đánh cứ điểm Đồng Dù của Mỹ, chiếm Sài Gòn 30.4.1975 - Kết thúc chiến tranh. Mỹ rút về nước!
     Trong những năm chiến trận, chính anh cũng ba lần đổ máu ngoài chiến trường... vẫn giữ vững kiên trung với nghĩa khí của một chiến binh cho tới giấy phút cuối cùng. Đất nước hòa bình. Anh đã được tặng thưởng 5 huân chương chiến công, kháng chiến, cùng các danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ và bằng khen khác.   
     Ròi quân ngũ trở về. Phạm Ngọc Thái tiếp tục theo học Đại học ngoại thương rồi công tác tại ngành ngoại thương quốc tế! Tới lúc về hưu. Tuy nhiên, dù làm công việc của một cán bộ nhưng anh vẫn dành hết tâm huyết mình với khát vọng thi ca ! 
     Suốt  ba mươi năm sáng tác văn học - Đến nay, nhà thơ đã cho ra đời đúng 10 tập sách:
        1/.  Chín tác phẩm về thơ và bình luận: 
        -  Có một khoảng trời (1990)
        - Người đàn bà trắng  (1994) 
        - Rung động trái tim   (2009) 
        - Hồ Xuân Hương tái lai  (2012) 
        - Phê bình & tiểu luận thi ca (2013)
        - Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại (2014) 
        - Thơ tình viết cho sinh viên (2015) 
        - Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam  (Xuân 2019)
-  " Tuyển thơ chọn lọc " Phạm Ngọc Thái (Đông 2019).
        2/.   Hai tiểu thuyết: 
        - Tiểu thuyết: CUỘC CHIẾN HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM (2019)
        - Tiểu thuyết CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU (hai tập). Sách chuẩn bị xuất bản trước 30.4.2020
        3/.   Sáng tác thành công 5 vở kịch nói sân khấu:   
        *  Hai kịch bản dài: 
        -  Bản án dưới mồ
        -  Số phận những hòn đá tảng.
        *  Ba kịch bản ngắn: 
        -  Mối tình hoa hồng bạch
        -  Chuyện ở quán gốc đa
        -  Cánh cửa quốc tế
        * Hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Thủ đô.  
        Nhà giáo Bùi Văn Dong - Nguyên GV Trường Đại học Quốc gia, cũng là một CCB từng có thời cùng chiến đấu với Phạm Ngọc Thái trên chiến trường Tây nguyên Nam Bộ, viết về nhà thơ như sau: 
        "Tôi biết Phạm Ngọc Thái từ thuở còn chiến tranh. Cùng là anh lính chiến ăn rừng ngủ rú  trên mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ. Suốt chặng đường chinh chiến ấy, Thái ham viết nhật ký và làm thơ. Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng Trường Sơn, anh thường đọc thơ cho chúng tôi nghe. Được biết, mấy cuốn nhật ký đó đã bị mất trong bom đạn của chiến tranh. Tác giả chỉ còn nhớ ít bài tản mạn. Cũng là một điều đáng tiếc.
        Bọn lính Hà Nội của tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó ! Hết chiến tranh, kiểm lại chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng: Cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thuở ấy, nay đã trở thành môt nhà thơ nổi danh trên văn đàn ". 
        Nhà giáo Bùi Văn Dong viết tiếp: 
        "Thơ Phạm Ngọc Thái rất hàm súc, kể cả những bài viết dưới dạng triết lý đến những bài trải theo dòng cảm xúc tự nhiên. Từ nhận thức về tình yêu và cuộc sống được trải nghiệm qua đường đời, thấm tháp chảy vào thơ. Thơ tình thì huyền diệu, có sức rung cảm trái tim người yêu thơ ! Thơ đời lại ôm bọc những giá trị hiện thực xã hội, cô đúc sâu sắc. Đặc điểm cơ bản trong tính triết lý thơ đời của tác giả là vận từ đời sống dân gian, nỗi kiếp con người. Thơ được chắt ra từ tim óc nên đọc không bị gò ép, tạo thành bản sắc riêng của thơ anh. Nó bao chứa tính nhân sinh xã hội cùng thế giới quan của nhà thơ ".
             (Trích Tiểu luận "Con người và thi ca" của Nhà giáo Bùi Văn Dong, in trong Tập "Phạm Ngọc Thái - Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên 2019)   
        -  Nói về nhân cách và tầm vóc thơ Phạm Ngọc Thái, Nguyễn Khôi - Nhà văn Hà Nội viết:
        " Qua tác phẩm và gặp con người cụ thể - Nguyễn Khôi có cảm tưởng về tính cách như thấy ở Thái một Vladimir Maiakovsky Việt Nam: Hiên ngang đứng trên tầm thời đại, dám tự khẳng định mình bằng những bài thơ, dòng thơ trữ tình ( ở Maia là "phản trữ tình ) đều vì tình yêu lớn lao. Ước vọng sâu sắc nhất của anh...
        Thơ tình Phạm Ngọc Thái... đọc không nhàm chán, vì anh luôn tạo được ý mới, tứ lạ, ngôn ngữ thơ tinh luyện, hình tượng thơ ĐẸP và sống động. Cái "thơ" đan trong cái "mộng" - cái "ảo" diệu huyền để hiện lên cái thực thấm vào tâm can người đọc...
        Thơ trữ tình Phạm Ngọc Thái HAY vì anh luôn bám vào cuộc sống đầy máu thịt đang sinh sôi....
         Thơ "yêu" Phạm Ngọc Thái là tiếng lòng, tiếng con tim luôn ngân nga một giai điệu như "mưa rơi" vào miền ký ức sâu thẳm.
        Chao ôi ! Thơ là đời, là tâm huyết máu thịt của thi sĩ. Không có tình yêu lớn lao - chân thực thì không thể có những vần thơ tuyệt tác là thế.
        - Một tài năng lớn... với những giá trị văn học tuyệt vời!
        Mong rằng "thơ Phạm Ngọc Thái" sẽ được người đời ( trong và ngoài nước ) thưởng thức, đánh giá một cách trân trọng, đúng mức.. "
                                                                                              NGUYỄN KHÔI - Hội nhà văn Hà Nội (trích đăng trên báo Người Hà Nội - số 28)

  

        B.  TẦM VÓC "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" PHẠM NGỌC THÁI 
     
        Sách dày 368 trang với 215 bài thơ tự do hiện đại các loại. Cấu trúc Tuyển Thơ chia ra thành 5 phần:
        -  Phần đầu và cuối là 122 bài thơ tinh 
        -  Thơ khóc con 20 bài 
        -  Thơ viết ở nước ngoài 19 bài
        -  Thơ đời " 54 bài.
        Nói về tầm vóc của một "tác phẩm thi ca lớn" ? Nó "lớn" không phải vì độ dầy của tập sách. Cũng chưa phải vì số lượng bài "thơ tuyển chọn" nhiều... mà vì cái HAY có được trong các bài thơ, tạo nên Tầm Vóc Lớn của tác phẩm!
        (Xin mở ngoặc nói thêm: Bên cạnh Đại thi hào Nguyễn Du và Nguyễn Trãi (dựa theo tác phẩm "Ba thi hào dân tộc" của Xuân Diệu) - Thơ ca Hồ Xuân Hương chỉ vẻn vẹn trong khoảng năm mươi bài, nhưng Bà vẫn được đánh giá thuộc mấy nhà thơ lớn nhất của Việt Nam). 
 
       BÌNH LUẬN TIẾP VỀ THƠ PHẠM NGỌC THÁI  
    Vì "Tuyển thơ chọn lọc" là thi tuyển được tinh chọn trong suốt cuộc đời nhà thơ Phạm Ngọc Thái ! Cần phải được trình bầy, dẫn giải bằng cả một quyển sách mới mong sự thỏa đáng. Cho nên, trong một bài viết ngắn - Tôi chỉ xin tóm bắt một số khía cạnh có tính chất giới thiêu tác phẩm. Tổng hợp bài viết các tác giả trong đương đại từ chục năm qua, đã bình luận về thơ hay của anh ! Nêu lên những nhận thức riêng mình. 
        "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái là cả một thế giới thơ tự do hiện đại các loại: Từ thi pháp thơ hiện thực, đến tượng trưng, nhiều bài pha trộn màu sắc thơ siêu thực - Được thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo nên vô vàn những áng thi ca giàu cảm xúc, huyền thẳm, sâu sắc.   
        Nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc, trong tiểu luận với nhan đề: PHẠM NGỌC THÁI CHÂN DUNG MỘT NHÀ THƠ TÌNH LỚN CỦA DÂN TỘC, đã viết:
        "Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Mức độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ. Về bút pháp nhiều bài thơ tình của anh được hòa trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Điển hình là thuyết " tương ứng cảm quan" của nhà thơ tương trưng bậc thấy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) lúc đó chủ xướng".
        (Trích Tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", xuất bản 2014)
        Đặc biệt là thơ tình của anh, nhà văn Nguyễn Khôi viết:
        "...Thơ tình Phạm Ngọc Thái viết với một dung lượng lớn tới vài trăm bài....  Từ trữ tình kiểu Xuân Diệu đã vượt lên cái tượng trưng, siêu thực của Bích Khê... ".
        Hơn hai trăm bài thơ tự do hiện đại trong "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái rất phong phú và đa sắc. Tôi chưa thấy có nhà thơ nào sáng tác được nhiều thơ tình hay đến thế ! Nếu thống kê thì phải có tới mấy chục bài đạt loại thơ tình thật hay, có khả năng sống trường tồn trong nền văn học nước nhà. Mỗi bài hay một vẻ nhưng đều có thể làm rung cảm trái tim đời ! 
        Những năm qua, các tác giả bình thơ đặc sắc và hay của anh, đăng trên các trang mạng Việt cũng nhiều. Sau đó được nhà thơ chọn lọc, cho xuất bản thành sách. Thí dụ: 
        * Trong tập " Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại ", 2014 - Có cả thẩy 32 bài bình thơ hay và tiểu luận chân dung của 30 tác giả viết về anh.
        * Cuốn "Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên 2019: có thêm 7 bài bình thơ và tiểu luận của 7 tác giả khác.
        Đến nay, tổng cộng có tới 39 tác giả là các nhà giáo, văn nghệ sĩ... với trên 40 bài viết về nhà thơ ! Còn không ít các bài thơ hay khác của anh được dư luận ca ngợi, chưa có người bình. 
        Tôi đã đọc hầu hết các bài bình thơ ấy, qua các tập sách đã xuất bản của anh:
        * Cô giáo Nguyễn Thi Xuân dạy văn tại Trường THPT  Ba Đình, Hà Nội - Bình và đánh giá bài thơ "Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối" hay vào hàng kiệt tác thơ tình ! Cô giáo ví bài thơ của Phạm Ngọc Thái hay tựa như bài "Hai sắc hoa ti-gôn" của nữ sĩ TTKH. nổi tiếng trên thi đàn thơ Việt năm xưa.
       Khi " Tuyển thơ chọn lọc " ra đời - Nhà văn Nguyễn Khôi thì khen: "Phạm Ngọc Thái, nhà thơ tình số 1 Hà Thành "! 
        Còn nhận thức của tôi: "Không chỉ riêng với Hà Thành - Phạm Ngọc Thái là nhà thơ tình số 1 của thi ca đương đại Việt Nam!".
        CÁCH THỨC PHÂN LOẠI THƠ HAY TRONG TÁC PHẨM
         
        * Trước hết, thơ hay phải là loại thơ có khả năng tồn tại trường cửu với tháng năm - Yếu tố cơ bản để nhận định tầm vóc tác phẩm.
        (Không phải là loại thơ chỉ có khả năng sống một thời, hoặc chỉ có giá trị làm văn nghệ, cổ động chính trị ):
         -  Thứ nhất: Thơ tuyệt hay ?  
         * Thí dụ: Đây thôn Vỹ Dạ ( Hàn Mặc Tử ), Đèo Ngang ( Bà Huyện Thanh Quan ), Hai sắc hoa ti-gôn ( T.T.KH ), Thu Điếu ( Nguyễn Khuyến ), Thương vợ ( Tú Xương ), Tranh lõa thể ( Bích Khê ), Làm lẽ - Cảnh thu ( Hồ Xuân Hương ) - Là thơ tuyệt hay !
        -  Thứ nhì: Những bài giữa thơ hay và tuyệt hay !
        Ví dụ về loại thơ thứ nhì này -  Hàn Mặc tử có ba bài thơ được văn đàn đánh giá hay.
        * Trong đó, bài "Đây thôn Vỹ Dạ" hay nổi tiếng nhất. Đời bình luận nhiều hơn cả: Là thơ "tuyệt hay" ! 
        *  Hai bài "Mùa xuân chín" và "Bẽn lẽn" hay nhưng kém hơn chút, thuộc hàng: Giữa "thơ hay" và "tuyệt hay" !
        -  Thứ ba:  Khá hay và thơ hay" ! 
        (Phân chia như thế để chọn các loại thơ hay đỡ khó quá! Vì sự hay mỗi bài một kiểu? Cao thấp... cũng không bài nào giống bài nào cả?) 
         NHỮNG BÀI THƠ HAY CỦA "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" 
        1/.  Thơ tuyệt hay Có 5 bài:
        *  Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối /  Người đàn bà trắng /  Váy thiếu nữ bay /  Vĩnh biệt con yêu / Làm ma em vợ. 
        2/.  Giữa thơ hay và thơ tuyệt hay - Có 7 bài: 
        * EM sống mãi bên anh /  Tiếng anh gọi (viết theo giọng thơ điên Hàn Mặc Tử) /  Em về biển /   Anh đứng nhìn theo bóng chim câu /   Thương con và lời cầu nguyện thế nhân /   Tiếng hát đời thường /   Em bán xoài.    
        3/.  Khá hay và thơ hay -  26 bài: 
        -  Ký ức mùa thu /    Khoảng trôi trong lá /   Em nghe/    Anh đau xé lòng đành quay gót /    Phố thu và áo trắng /    Biển hát /   Sáng thu vàng /    Sáng xuân nay /    Anh vẫn ở bên Hồ Tây /   Khóc bên Hồ Núi Cốc /    Con đường phượng đỏ /    Em ơi ! Thành phố lại mưa /   Mưa bay trong tiếng chuông /    Bên nấm mồ con /   Những kỉ niệm bên con/   Nỗi trăn trở người đi tìm vàng /    Xem tranh bán lõa thể /    Khóc Hàn Mặc Tử /   Đêm tóc đá /    Một góc Hồ Tây /   Em là người tình của lính /   Người thôn nữ miền sông nước /    Đêm nay trời lại không mưa /    Đêm thu phố vắng /    Thời áo trắng /   Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ.    
        *   Tổng cộng Thơ hay các loại trong "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái là 38 bài.
        Bạn đọc nào muốn thưởng lãm tác phẩm bất hủ của nhà thơ, mà chưa có sách ? Hãy tìm đọc trên Website của Việt Nam Thư Quán! 
        (Nhà thơ đã cho đăng cả Tuyển thơ ở đó ) - Mở qua link sau đây: 
<font styl
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.03.2020 17:05:14 bởi Nhatho_PhamNgocThai >

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 08.04.2020 13:11:22
 
 
                     TỰ SỰ NỖI ĐAU ĐỜI 
                                                           PHẠM NGỌC THÁI



     Sau cái mất của người con trai yêu quí ! Đã lâu rồi… mà lòng tôi vẫn không hết đớn đau, mệt mỏi. Phần vì tuổi tác, phần vì nỗi đời ?
     Sớm nay ra Hồ Tây, nhìn cảnh sống mọi người đang diễn ra thường nhật – Tôi lại ngẫm ngợi về "đời" trong chốn nhân gian: Nhiều người cũng gặp cảnh đau, chứ đâu phải riêng con mình ? Lại nghĩ đến những nỗi đau mất con của mấy bậc cao nhân, trong kim cổ xưa nay !
                           VIẾT RA ĐÔI DÒNG TỰ SỰ
* Karl Marx: Ông tổ của Chủ Nghĩa cộng sản, đã trở thành viễn tưởng – Người viết nên TƯ BẢN LUẬN vĩ đại ! Chẳng phải cũng đã rất đau đớn khi bị mất một đứa con trai mới 21 tuổi, tên là Hăm Lét… đó sao ?
* Văn hào nước Pháp Vích-to Huy-gô, tác giả của Bộ tiểu thuyết bất hủ “ Những người cùng khổ”, cũng phải chịu nỗi đau đớn trong cuộc đời: Người con gái xinh đẹp, yêu dấu của ông bị một tên vô lại dụ sang châu Phi rồi bỏ ? khiến con gái của văn hào thất tình, trở nên tâm thần, lang thang nơi đất khách quê người. Sau được dân bản xứ vì quí trọng danh tiếng của nhà văn, đã đưa người con gái trở về Pháp trả lại cho ông ! Nhưng cả đời người con gái phải vật vã trong điên loạn. Sống không bằng chết – Nỗi đời của Văn hào nước Pháp vĩ đại đó, đau đớn lắm chứ !
* Nhà văn Tô Hoài danh tiếng của nước ta, cũng không thoát nỗi đau đời: Đứa con trai yêu của ông bị chết trong tuổi thanh xuân, khi đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài !? Bỏ lại người vợ trẻ, mới cưới ở quê hương.
* Giờ nói về thi nhân Hàn Mặc Tử – Nhà thơ lớn của Việt Nam ! Ông chết khi mới bước sang tuổi 28 ( Đúng bằng tuổi Phạm Ngọc Bảo con mình ) : Vì căn bệnh hiểm nghèo ? Để lại một nỗi buồn đau vô hạn, cho bà mẹ già và người chị gái ruột yêu thương.
…..
    Ngẫm đi rồi ngẫm lại: Hậu sinh có cần quan tâm nhiều lắm đến nỗi đau đời đó của nhà thơ Hàn Mặc Tử đâu ? Hay những bậc cao nhân kia ? Nhưng mãi mãi tôn vinh tên tuổi của các cao nhân cùng tác phẩm ! Danh bất hư truyền… sống đến muôn thu…
    Lại ngẫm về cái chết đau thương của đứa con trai, trong nỗi đau tột cùng của một người cha: Tôi đã viết cho con 45 bài thơ đẫm máu và nước mắt – Xuất bản riêng cho con một tập thơ “CHA KHÓC CON “ rất đẹp ! Với hình ảnh kỷ niệm từ nhỏ đến lớn của cuộc đời con.
     Mai sau… sẽ thuộc vào HÀNG THƠ KHÓC độc nhất vô nhị trong thiên cổ ! Nếu con được lưu truyền cùng sông núi, nước non ? Nhân gian mãi thương yêu, linh thiêng mà hương khói – Thì cái chết của con đâu có phải là vô nghĩa !
 
 
   
Phạm Ngọc Bảo (7.3.1992 – 22.7.2019) 

–   45 bài thơ khóc con, độc nhất vô nhị ấy: Hy vọng đủ độc đáo và hay ! Mong mai sau, hậu sinh tái bản mãi thành sách, truyền bá cho xứ sở thân yêu.
                             CÁI CHẾT CỦA CON
              CHẲNG PHẢI ĐÃ TRỞ THÀNH BẤT TỬ ĐÓ SAO !
     Nghĩ vậy, lòng cũng nguôi ngoai, đỡ đau buồn. Danh tính con sẽ vĩnh cửu như một kỳ nhân huyền thoạị ! Khi đó, người cha là nhà thơ Phạm Ngọc Thái này – Có nhắm mắt mà chết mới yên lòng.                                                          ( Viết ở Hồ Tây, 21.3.2020)
                                               Phạm Ngọc Thái

                                   Đăng thêm bài thơ trích trong Tập " Cha khóc con "

   CON SỐNG MÃI TRONG THƠ CHA
 
Cõi dương trần chỉ là cõi tạm
Con người sinh ra trong hữu hạn không gian
Con là con của Đấng Thiên
Cha mẹ nuôi lúc nhỏ, lớn lên con về trời…
 
Nay con hết kiếp người rồi !
Tiếc thương cha mới ngậm ngùi làm thơ
Vần thơ đẫm máu tim cha
Hòa trong biển lệ Cõi Ta Bà, đó con !
Hình con còn mãi nước non
Nước non còn đó, con còn hiển linh
Theo thơ cha tỏa rung rinh
Như vầng nhật nguyệt, tâm linh cõi người
Xót con cha khóc mấy hồi
Tiễn đưa tới tận cổng trời mới thôi
Thân tàn ở lại, con ơi !
Nhớ cha mẹ… Tối giữa trời hiện lên
Giờ con ở chốn thánh thần
Miếu thiêng chờ lúc cha qui tiên cùng ngồi
Khói hương sẽ phủ muôn đời
Nhân gian vạn kiếp, vọng lời thơ cha
 
                         *
Ngẫm rằng trong cõi người ta
Chỉ như giấc mộng la đà thế gian
Dù sung sướng hoặc cơ hàn
Ai rồi cũng lúc thịt tan, xương rời
Hơn nhau ở chỗ làm người
Đứa ma âm phủ, kẻ về trời hóa tiên
Tượng con cha đã lập lên
Ngẫm trong sử sách, vạn niên mấy người ?
Là con kiếp hạnh hơn đời
Cha xin sụp lậy giữa trời vọng ơn
Cả Thượng Đế, Đức Phật hiền
Cho con thơ được phỉ nguyền: Nam-mô…
 
          6.8.2019
   PHẠM NGỌC THÁI




<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.04.2020 13:16:04 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 05.05.2020 17:48:14
 
 


                GIỚI THIỆU TẬP THƠ " CHA KHÓC CON "

                                                              PHẠM NGỌC THÁI



    Trong nỗi đau tột cùng một người cha về cái chết của đứa con trai bị đột quị mới 27 tuổi đầu ? Những ngày tháng đó, tôi cứ miên man viết những dòng thơ khóc xót xa con đầy máu và nước mắt ! Rồi xuất bản riêng cho con một thi phẩm - Đó chính là tập thơ "Cha khóc con", Nxb Hồng Đức 2020.
      "Cha khóc con " là một tập sách đẹp và trang trọng nhất trong đời thi ca của tôi ! Gồm 45 bài thơ, dầy 132 trang, khổ rộng 20 x 18cm, bìa gập 10 phân - Mở đầu bằng bài thơ CHUYỆN VỀ HAI NGÔI MỘ CHA CON MAI SAU thay cho " Lời giới thiệu ".
     Tập sách chia hai phần:
-  Phần một:  KHÓC CON gồm 20 bài.
-  Phần hai:   CHA PHẢI SỐNG gồm 24 bài.
      Như nhà nghiên cứu văn học - Trang chủ Trần Mỹ Giống nhận xét:
     " Xuyên suốt tập thơ 45 bài là cảm xúc tình cảm sâu sắc của người cha khóc con mệnh yểu với rất nhiều góc độ khác nhau, vô cùng cảm động bởi cảm xúc hết sức chân thật của tác giả.

    Xưa nay khóc cha, khóc vợ, khóc con… cũng đã được một số tác giả thể hiện bằng thơ, nhưng để có cả một xê-ri (45 bài) khóc con trong một tập thì có lẽ, đến giờ, chỉ có nhà thơ Phạm Ngọc Thái làm được - Chắc chắn, Phạm Ngọc Thái phải là một người cha yêu con sâu nặng, chân tình và có năng lực thơ ca thực sự lớn ! Mới làm được nhiều bài thơ đa tình, đa cung bậc, đa góc độ, khía cạnh... mà bài nào cũng rung động người đọc như vậy.
    Mời độc giả tìm đọc các bài thơ khóc con giàu cảm xúc, đa dạng, tình cảm thống thiết ở những trạng huống khác nhau của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - Trong ấn phẩm có một không hai: CHA KHÓC CON ! ". 


    Phạm Ngọc Bảo ( 7.3.1992 -  22.7.2019 )
 
      Hay như nhà thơ Hội nhà văn Hà Nội Nguyễn Khôi - Khi tôi cho đăng các bài thơ khóc con ấy trên facebook của mình, Ông đã tiên định rằng: 
    " Thơ khóc nổi tiếng xưa có Đông Hồ khóc vợ, Tương Phố khóc chồng, Tam Nguyên Yên Đổ khóc con... Nay thi sĩ Hà Thành Phạm Ngọc Thái thống thiết khóc con... Hy vọng lưu danh thiên cổ !? " 
                                             ( Theo comment Nguyễn Khôi ngày 3.8.2019 ). 
      Nhà thơ Quang Hoài HNVVN thì nhiệt thành ca ngợi tập sách "Cha khóc con" ra đời: 
    "  Chúc mừng nhà thơ Phạm Ngọc Thái ! Một tập thơ có một không hai... mang ý nghĩa tâm linh rất sâu sắc ".
                    


 Xin đăng một bài thơ ( chưa giới thiệu trên các trang mạng ) trích từ tập "Cha khóc con":  
 
              THÂN GIÀ HÉO ĐÀNH NGẬM CƯỜI, SỐNG TIẾP

Thơ khóc mãi ? Cha không muốn viết
Nỗi thương con cứ da diết trong tim
Chẳng thể nào nguôi dạ, sống yên ?
Định cất bút ! Lại phải lấy ra, thảo vài trang chữ...

Ôi, cuộc sống ! ta hằng yêu quí
Kiếp người ai oán quá, Hàn Mặc Tử ơi !
Danh thi nhân cũng chỉ được mình tôi
Sao có thể, sống dưới trời không con chứ ?

Thế là hết cuộc đời thi sỹ 
Mơ màng, vơ vẩn... để làm chi ?
Bao mối tình tan vỡ, chia ly
Chẳng đau bằng một phần, con mất !

Ta từng qua... cả cuộc chiến tranh tổ quốc !
Chứng kiến bao lần chết chóc, hy sinh
Có nỗi đau nào như thế này không ?
Xưa tăng căm thù, bây giờ rơi xuống vực.

 
Tôi đã có một người cha chết vùi trong bom giặc (*)
Đau xé lòng nhưng trí vẫn vùng lên !
Không yếu mềm như cảnh mất con
Chỉ muốn qui tiên, theo con đi nốt.

Đời cha trót mang khát vọng của người cầm bút
Muốn tuổi tên vang vọng mãi ngàn thu
Trở thành một Hàn Mặc Tử, Nguyễn Du...
Thân già héo đành ngậm cười, sống tiếp.

Chưa thể theo con, giải thoát mình khỏi kiếp...
Cha cố vùng lên, sống quyết liệt phút tàn hơi
Làm bậc thi nhân lớn ở trên đời
Không chỉ thỏa mãn riêng cha ?
               Còn trả " cả hận trời " cho con đó !

Rồi cha con mình sống mãi bên nhau... như mây, như gió... 

                                         11.8.2019
                                   PHẠM NGỌC THÁI
             ( Trích tập "Cha khóc con", Nxb Hồng Đức 2020 )
.....   
 (*)  Cha tôi bị chết vì bom B52 giặc Mỹ ném hủy diệt Thủ đô - Trong 12 ngày đêm Hà Nội, tháng 12/1972.

                 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.05.2020 18:01:06 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 21.06.2020 17:19:27
 
 
                                        TỪ MỘT CHIẾN BINH TRỞ THÀNH NHÀ THƠ DANH GIÁ
                                                                                                        Nguyễn Thị Xuân
                                                                                                                                   GV Trường THPT Ba Đình Hà Nội

                     Cô giáo Nguyễn Thị Xuân    
        Đó là chân dung nhà thơ Phạm Ngọc Thái qua các tác phẩm thi ca của anh! Nhất là với "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC", Nxb Hồng Đức 2019 -   Trong bài bình luận mới đây, cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - Nguyên giảng viên Trường ĐH Sư phạm đã viết:
     " ... Phạm Ngọc Thái lớn lên khi cả nước đang bước vào giai đoạn cuộc chiến tranh đánh Mỹ ác liệt nhất ! Thu đông 1966, anh tốt nghiệp phổ thông cấp III Hà Nội, tiếp sang đời một sinh viên Trường Đại học Bách khoa - Mùa xuân 1967, Phạm Ngọc Thái tình nguyện rời bỏ trường đại học, quê hương và gia đình, dấn mình vào cuộc chiến tranh đầy máu và nước mắt của dân tộc. Anh từng thổ lộ: Đã theo suốt mười năm chiến đấu trên chiến trường Tây Nguyên Nam Bộ - Qua các Sư đoàn 312, Trung đoàn pháo 40 Tây Nguyên, Trung đoàn 48 Sư 320... tiến vào đánh cứ điểm Đồng Dù của Mỹ... rồi chiếm Sài Gòn 30.4.1975 - Kết thúc chiến tranh. Mỹ rút về nước! 
     ... Chính anh cũng ba lần đổ máu ngoài chiến trường, vẫn giữ vững kiên trung với nghĩa khí của một chiến binh cho tới phút cuối cùng. Anh đã được tặng thưởng 5 huân chương chiến công, kháng chiến, danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ và các hình thức khen thưởng khác ". 


Nhà thơ Phạm Ngọc Thái
       Nhà giáo Bùi Văn Dong - Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia: Người bạn chiến binh từng có một thời cùng nhà thơ chiến đấu trên chiến trường miền Nam, viết về anh như sau:
     "Tôi biết Phạm Ngọc Thái từ thuở còn chiến tranh, cùng là anh lính chiến ăn rừng, ngủ rú trên mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ. Suốt chặng đường chinh chiến ấy, Thái ham viết nhật ký và làm thơ. Nhiều đêm nằm với nhau bên võng giữa rừng, anh thường đọc thơ cho chúng tôi nghe. Được biết, những cuốn nhật ký đó đã bị mất trong chiến tranh. Tác giả chỉ còn nhớ lại ít bài tản mạn, cũng là một điều đáng tiếc.
     Bọn lính Hà Nội cùng trong tiểu đoàn chúng tôi ra đi hồi đó, hết chiến tranh kiểm lại chỉ còn mươi đứa sống sót trở về. Chẳng ai có thể ngờ rằng: Cái anh chàng lính trận rất ham thích thơ thuở đó, nay đã trở thành một nhà thơ nổi danh trên văn đàn ".
         (Trích bài "Phạm Ngọc Thái - Con người và thi ca" của Nhà giáo Bùi Văn Dong - Ở tập "Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb. Thanh niên 2019)
     Phạm Ngọc Thái bắt đầu xuất hiện trên văn đàn vào mùa xuân năm Canh Ngọ - Khi anh cho xuất bản tập thơ đầu tay: "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990. Đến nay vừa tròn ba mươi năm. Trong 30 năm đó, nhà thơ đã cho ra đời đúng 12 tập sách - Trong đó có hai cuốn tiểu thuyết:
        - "Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm", 2019 
        - "Chiến tranh và tình yêu" (hai tập), Nxb Hồng Đức 2020! 
        Còn lại là 10 tác phẩm thi ca và bình luận văn học.  
        Ngoài ra, anh còn tham gia trong Hội nghệ sĩ sân khấu Thủ đô và Quốc gia, sáng tác thành công 5 vở kịch nói lớn, nhỏ... dự các hội diễn sân khấu của thành phố và toàn quốc.
        Ta chưa cần đề cập sâu vào tầm vóc các loại tác phẩm đã được sáng tác ấy của anh? Chỉ với chân dung từ một người lính trận từng qua cả chục năm trong cuộc chiến tranh đánh Mỹ trở về, rồi trở thành một cán bộ trong ngành ngoại thương quốc tế - Đạt được con số tác phẩm văn học đa dạng, nhiều đến như vậy! Từ thi ca, phê bình & tiểu luận văn chương, tiểu thuyết, kịch bản - Chưa nói tới việc anh đã viết hàng trăm bài bình luận tác phẩm và xã hội... đăng trên các báo của cả nước: Thật là đáng nể!
      Cuộc đời Phạm Ngọc Thái không phải được hưởng những sự êm ả và sung sướng gì? Từ thuở thiếu thời, nhà thơ đã phải cắp sách tới trường với hoàn cảnh cả nước chìm trong cuộc chiến tranh: Các trường phổ thông ở thủ đô phải sơ tán về các vùng quê hay rừng núi, tránh bom đạn của giặc Mỹ để học. Lúc bước vào đời một sinh viên - Theo lời kêu gọi của Tổ quốc lâm nguy ? Phạm Ngọc Thái lại cùng với lớp thanh niên yêu nước thời đó, tình nguyện rời thủ đô... lên đường ra chiến trường chiến đấu. 
        Suốt mười năm chinh chiến trên mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ. Khi đất nước hòa bình: Anh rời quân ngũ trở về thì lại lâm vào cảnh ngộ đau thương ? Cả gia đình nhà thơ lúc đó sống ở phố Khâm Thiên, Hà Nội - Một con phố bị máy bay Mỹ dội bom B52 tàn phá, hủy diệt thủ đô trong 12 ngày đêm, tháng 12/1972. Ngôi nhà của gia đình bị trúng bom và người cha anh đã chết vùi trong đống bom kinh hoàng, chấn động địa cầu ấy! Chỉ còn lại một bà mẹ già đau khổ với hai đứa con (hai em trai của nhà thơ), lúc đó chưa thật trưởng thành. Người chiến binh ấy khi đánh tan giặc trở về cố hương... thì chính gia đình mình lại bị nhà tan, cửa nát.
      Bản thân anh tuy may mắn thoát chết ngoài chiến trường, mang được cái xác trở về cũng... "thân tàn ma dại"? Với 10 năm chinh chiến nghiệt ngã và bom đạn: Bị thương ba lần, ba lần đổ máu - Để lại một bàn tay không còn đủ ngón. Mảnh phảo vẫn còn găm sót lại trong người, không lấy ra được? Cứ giở lại đau. Sức ép bom vào ngực, trở thành căn bệnh "tắc nghẽn phổi mãn tính" phải dùng "thuốc khó thở" đến hết đời! Cũng bởi 10 năm sống nơi chiến trường rừng sâu, nước độc, ác liệt và cực khổ? Nhà thơ mắc thêm căn bệnh chảy máu bên trong... phải cắt bỏ 2/3 dạ dầy. 
        - Đấy, tất cả chùm lên cuộc đời còn lại của một anh chiến bình khi đất nước đã hết chiến tranh trở về!
        Tưởng rằng: Những hoàn cảnh khốn cùng ấy sẽ đè bẹp người chiến binh ấy xuống? Hoặc nếu có vực lại mà sống thì cũng chỉ còn biết an phận thủ thường? Nhưng không! Với chí khí, nghị lực phi thường và đầy khát vọng vốn có của một thanh niên Hà Nội từ thuở còn 18 - Lại được tôi  luyện, thử thách qua cả một cuộc chiến tranh: Người chiến binh ấy đã vượt lên và đè bẹp tất cả... để vươn đến chân trời cuộc sống hằng mơ ước - Và, Phạm Ngọc Thái đã chiến thắng!
        Nói thêm chút nữa về quá khứ: Khi rời khỏi quân ngũ trở lại quê hương ở thủ đô! Từ một sĩ quan quân đội, anh được tuyển vào làm việc trong phòng tổ chức của một tổng công ty của Bộ ngoại thương - Phạm Ngọc Thái vừa công tác vừa theo học hàm thụ tại trường Đại học ngoại thương, rồi trở thành một cán bộ có đầy đủ năng lực của ngành ngoại thương quốc tế! Tiếp xúc, ngoại giao với các thương gia khắp trời Âu, Á - Hồi anh còn làm việc, chưa phát triển rộng rãi sang Mỹ.
        Nhưng thật là ngược cảnh? Cuộc đời đang mở ra cho anh rất nhiều triển vọng trên con đường ngoại thương: Nào là cấp chức? Sẵn sàng có một xuất được Bộ điều ra nước ngoài làm thương vụ? Với một trí thông minh vốn có, lại thêm bề dầy về lý lịch của cả gia đình và bản thân anh cống hiến cho tổ quốc! Bao hứa hẹn một cuộc sống sung sướng, giàu có?
        Nhưng phạm Ngọc Thái lại ôm khát vọng, khát vọng đến tột cùng: Về con đường văn học! Ngày làm việc ở cơ quan, tối đêm lao đầu vào sách vở. Trau dồi kiến thức văn chương và sáng tác thơ, văn - Anh hiểu rằng: Công việc của một cán bộ ngoại thương phải đòi hỏi rất nhiều tâm, sức. Nếu cứ vừa làm, vừa viết... chắc gì đã có nổi tác phẩm hay để lại cho đời ? Đến khi đủ tuổi về hưu thì... đã già! Thế là, mới chỉ ngoài tuổi bốn mươi (vì có nhiều năm cống hiến ngoài chiến trường, được cộng thêm thời gian công tác), Phạm Ngọc Thái quyết đinh xin nghỉ hưu sớm để... làm văn học!  
        Như trên tôi đã viết: Trong 30 năm chuyên tâm vào sáng tác, anh đã cho xuất bản đúng 12 tập sách và viết thành công 5 vở kịch nói - Không khỏi làm cho ta phải giật mình, trân trọng! 
          Chỉ trong vòng hai năm vừa qua, nhà thơ đã cho xuất bản liên tục 5 tác phẩm: 
          A. BA TÁC PHẨM THƠ: 
        - Tập "Cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên. Xuân 2019
        - "Tuyển thơ chọn lọc - Phạm Ngọc Thái", Nxb Hồng Đức. Đông 2019
- Tập "Cha khóc con", Nxb Hồng Đức. 2020
        B.  HAI TIỂU THUYẾT:
        - "Hà Nội 12 ngày đêm", Nxb Hồng Đức 2019
        - Bộ tiểu thuyết hai tập "Chiến tranh và tinh yêu", Nxb Hồng Đức 2020
        Xin tóm bắt khái quát về:
                                        
        BA TÁC PHẨM MỚI NHẤT CỦA ANH



        1/.  "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngoc Thái, Nxb Hồng Đức 2019.  
                                          
        Đánh giá về tầm vóc của "Tuyển thơ chọn lọc" Phạm Ngọc Thái, đã có nhiều đàm luận trên văn đàn - Đặc biệt là bài tiểu luận của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng - Nguyên giảng viên Trường ĐH sư phạm phân tích rất sâu sắc. Xin trích dẫn thêm mấy đoạn có tính tổng hợp: 
       "TUYỂN THƠ CHỌN LỌC" Phạm Ngọc Thái là cả một thế giới thơ tự do hiện đại các loại: Từ thi pháp thơ hiện thực, đến tượng trưng, nhiều bài pha trộn màu sắc thơ siêu thực - Được thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo nên vô vàn những áng thi ca giàu cảm xúc, huyền thẳm, sâu sắc.
     .... "Dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Mức độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ...
        Nhà văn Nguyễn Khôi thì khen: Phạm Ngọc Thái, nhà thơ tình số 1 Hà Thành! Nhận thức của tôi (tức là cô giáo Hoàng): Không chỉ riêng với Hà Thành - Phạm Ngọc Thái là nhà thơ tình số 1 của thi ca đương đại Việt Nam!
     Và cô giáo kết luận: " Tôi chưa thấy có nhà thơ nào sáng tác được nhiều thơ hay đến thế!... Với TUYỂN THƠ CHỌN LỌC -  Phạm Ngọc Thái có chân dung một nhà thơ lớn! Ngôi sao sáng của thi ca đương đại Việt Nam!".



        2/. Tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" (hai tập), Nxb Hồng Đức 2020
        - Một Bộ tiểu thuyết có tính dã sử khá đồ sộ: Không phải về trang sách mà là tầm vóc, trữ lượng thời đại chứa đấy ắp trong tác phẩm! Tổng cộng cả hai tập dầy gần 500 trang xuất bản. 
        Bởi tác giả chính là một chiến binh đã từng tham gia suốt cuộc chiến tranh đánh mỹ, nên các tình tiết lịch sử và chiến trường được mô tả rất sinh động, sắc bén. Tính dân tộc hòa cùng tình yêu gái trai quyện vào nhau nồng nàn, tha thiết, cao đẹp! Diễn biến đươc khắc họa ly kỳ, chìm trong sự thảm khốc đau thương bởi chiến tranh.
        Tiểu thuyết không chỉ mô tả những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây nguyên Nam Bộ - Từ mùa xuân Mậu Thân 1968 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tác phẩm còn tóm bắt toàn cục cả chiến trường miền Nam, đến tận ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975.
        Đồng thời, phục lại cuộc chiến tranh oanh tạc bằng không quân của giặc Mỹ đánh ra miền Bắc: Vụ thảm sát tàn bạo 12 ngày đêm thảm khốc 1972 ở Hà Nội - Hoa Kỳ đã cho máy bay B52 mang bom đánh vào thủ đô, hòng hủy diệt biến Thủ đô Hà Nội trở về thời kì đồ đá ? Bị cả loài người lên án!
        Diễn trình lại những trận oanh kích điển hình, với hàng đàn máy bay B52 Mỹ ném bom tàn sát xuống bệnh viện Bạch Mai - Cảnh tình đêm noel trong không khí chiến tranh (1972) ở thủ đô - Và trận ném bom tàn khốc, san phẳng cả khu phố Khâm Thiên đông dân nhất Hà Nội (tối đêm 26/12/1972). Tới khi Hiệp định Pa Ri giữa Lầu Năm Góc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được kí kết, tháng 1/1973.
        Quan điểm của tác giả: Khách quan với thời cục, trung thành về tính lịch sử xã hội lúc đó - Tiểu thuyết nhằm lên án chiến tranh!
        MỘT  BỘ TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH LỊCH SỬ XÃ HỘI SÂU SĂC, SINH ĐỘNG VÀ ĐIỂN HÌNH TRONG THỜI KỲ CHIẾN TRANH ĐÁNH MỸ Ở VIỆT NAM!  

      

        3/. Tập thơ " Cha khóc con ", Nxb Hồng Đức 2020. 
     
        Tập thơ gồm 45 bài, dầy 132 trang sách xuất bản - Đã đươc viết bằng máu và nước mắt của một ngươi cha, khóc đứa con trai yêu quí bị chết vì đột quị khi mới 27 tuổi đời! Chính nỗi đau tột cùng đã tạo nên những cảm xúc tột cùng trong trái tim của người cha: Người cha ấy lại là một nhà thơ đầy tài năng! (Một thiên tài thi ca - Theo tôi)! Bởi vậy thi phẩm CHA KHÓC CON của anh, trở thành một Tập thơ "độc nhất vô nhị" trong thiên cổ!
        Nói về tập thơ - Như sự đàm luận trên văn đàn:
        Nhà thơ cội gạo Nguyễn Khôi (Hội nhà văn Hà Nội) nhận định - Khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái cho đăng các bài thơ khóc con trên facebook: 
        "Thơ khóc nổi tiếng xưa có Đông Hồ khóc vợ, Tương Phố khóc chồng, Tam Nguyên Yên Đổ khóc con... Nay thi sĩ Hà Thành Phạm Ngọc Thái thống thiết khóc con... Hy vọng lưu danh thiên cổ !?"
          (Theo comment Nguyễn Khôi ngày 3.8.2019)
        Hay như nhà thơ Quang Hoài HNVVN thì ca ngợi lúc tập thơ ra đời: "Chúc mừng nhà thơ Phạm Ngọc Thái, một tập thơ có một không hai... mang ý nghĩa tâm linh rất sâu sắc".
       Còn nhà nghiên cứu văn học - Trang chủ Trần Mỹ Giống bình luận:
        "Xuyên suốt tập thơ 45 bài là cảm xúc tình cảm sâu sắc của người cha khóc con mệnh yểu với rất nhiều góc độ khác nhau, vô cùng cảm động bởi cảm xúc hết sức chân thật của tác giả.
        Xưa nay khóc cha, khóc vợ, khóc con… cũng đã được một số tác giả thể hiện bằng thơ, nhưng để có cả một xê-ri (45 bài) khóc con trong một tập thì có lẽ, đến giờ, chỉ có nhà thơ Phạm Ngọc Thái làm được - Chắc chắn, Phạm Ngọc Thái phải là một người cha yêu con sâu nặng chân thành và có năng lực thơ ca thực sự lớn! Mới làm được nhiều bài thơ đa tình, đa cung bậc, đa góc độ, khía cạnh mà bài nào cũng rung động người đọc như vậy.
         ... Mời độc giả tìm đọc các bài thơ khóc con giàu cảm xúc, đa dạng, tình cảm thống thiết ở những trạng huống khác nhau của nhà thơ Phạm Ngọc Thái - Trong ấn phẩm có một không hai: CHA KHÓC CON!".
        Kết luận: 
        Mặc dù Phạm Ngọc Thái đã sáng tác đủ các loại tác phẩm văn chương như thế! Song vẫn phải nói: Thi ca chính là mảng văn học cốt lõi nhất làm nên tầm vóc nhà văn, nhà thơ của chân dung anh!
        Tôi còn nhớ - Trong lời đề tựa cho TUYỂN THƠ HÀN MẶC TỬ được xuất bản lần đầu vào năm 1988, sau ngót nửa thế kỷ bị chìm lấp (kể từ khi thi nhân tạ thế 11.11.1940). Với lòng tri ân và ngưỡng mộ tài năng thi nhân, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: 
        -  Hàn Mặc Tử anh là ai
        Để kết thúc bài bình luận: "Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá" này! Tôi thiết nghĩ: Với tầm vóc, chân dung Phạm Ngọc Thái đã đạt đến hôm nay - Cũng xin mượn câu nói của cố nhân, dành tặng lại nhà thơ:
         -  Phạm Ngọc Thái anh là ai? 
                                                          Hà Nội, tháng 5 - 2020                                                                       
                                                               Nguyễn Thi Xuân 



<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.06.2020 17:25:26 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 20.07.2020 17:22:27
 
           Tiểu thuyết "CUỘC CHIẾN HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM"
                                           Nxb Hồng Đức 2019  
                                                                       Giới thiệu trên trang mạng
 
 
 
 

  Trang chủ đã nhận được sách tặng của nhà văn Phạm Ngọc Thái, tác phẩm:
        CUỘC CHIẾN HÀ NỘI 12 NGÀY ĐÊM 
                                 Tiểu thuyết 
                              Phạm Ngọc Thái

        Phạm Ngọc Thái được bạn đọc biết đến nhiều nhất qua những tác phẩm thơ tình “Có một khoảng trời”, “Thơ tình viết cho sinh viên”, “Người đàn bà trắng”, “Rung động trái tim”… Ngoài thơ, Phạm Ngọc Thái còn xuất bản một số kịch bản như “Bản án dưới mồ”, “Số phận những hòn đá tảng”, “Mối tình hoa hồng bạch”, “Chuyện ở quán gốc đa”, “Cánh cửa quốc tế”…
        Kỳ này Phạm Ngọc Thái trình làng tiểu thuyết “Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm”.
        Xoay quanh mối tình bi thương của hai nhân vật chính là sĩ quan pháo binh Hoàng và nữ nhà báo Thu, tác giả tái hiện cuộc sống xã hội Thủ đô Hà Nội trong những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ một cách sinh động, chân thực, đau thương, hào hùng.
        Hoàng và Thu tốt nghiệp cấp 3, tương lại đi học nước ngoài mở ra đầy triển vọng, nhưng họ đã từ chối cơ hội có một không hai ấy để nhập ngũ đi chiến trường, để ở lại cùng Thủ đô chiến đấu bảo vệ quê hương. Mối tình của họ thơ mộng, thiết tha nhưng đau thương. Khi Hoàng về phép cưới Thu thì Thu đã hy sinh trong cứu hộ Khâm Thiên… Hoàng ôm ấp mối tình bi thương trở lại chiến trường tiếp tục chiến đấu giải phóng miền Nam…
        Trong những năm chiến tranh phá hoại ác liệt, người Hà Nội phải sơ tán hết sức gian khổ. Những người ở lại kiên cường bám trụ làm nhiệm vụ, vượt lên mọi gian khổ hy sinh để giành thắng lợi…
        Bên cạnh những chương, những đoạn tả mổi tình Hoàng Thu thơ mộng, đẹp là Chương VI Hà Nội 12 ngày đêm đầy ắp tư liệu chính xác, là bản tổng kết tội ác của Đế quốc Mỹ và những chiến công của quân dân Hà Nội 12 ngày đêm 12 - 1972… trong “Cuộc chiến Điện Biên phủ trên không” ấy.
        Tiểu thuyết ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, dũng cảm, kiên cường của người Hà Nội, lên án chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
        Cảm ơn nhà văn Phạm Ngọc Thái tặng sách và trân trọng giới thiệu với bạn đọc tiểu thuyết “Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm” đầy âm hưởng tình ca, chất sử thi hào hùng rất đáng quý, đáng đọc...
                                               TRẦN MỸ GIỐNG
 




     ĐÂY LÀ BỘ TIỂU THUYẾT HAI TẬP
[                             "Chiến tranh và tình yêu" 
                                    Nxb Hồng Đức 2020
 
             SẮP TỚI SẼ GIỚI THIỆU
Trên "Tác giả - Tác phẩm người Việt" ở VN THƯ QUÁN


<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.07.2020 17:52:24 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 29.08.2020 04:00:02
 
 
      TIỂU THUYẾT CHIẾN TRANH CỦA MỘT NHÀ VĂN CHIẾN BINH 
                                                                                         Trần Đức
                                                                     Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hóa dân gian



    Đó chính là Nhà văn - Nhà thơ Phạm Ngọc Thái với Bộ tiểu thuyết (2 tập): CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU, Nxb Hồng Đức 2020.
        Mở đầu tác phẩm, ta đã thấy dòng chữ: "Truyện được viết dựa theo cuộc đời trận mạc của tác giả, từng trải qua cuộc chiến tranh trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ". Tổng cộng cả hai tập dầy 468 trang sách, trữ lượng thời đại chứa đầy ắp trong tác phẩm.

        Nguyễn Thị Xuân - GV Trường THPT Ba Đình Hà Nội, với bài viết: "Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá" - Bình luận về tiểu thuyết:
        " Tiểu thuyết không chỉ mô tả những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây nguyên Nam Bộ - Từ mùa xuân Mậu Thân 1968 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tác phẩm còn tóm bắt toàn cục cả chiến trường miền Nam, đến tận ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975.
        Đồng thời, phục lại cả cuộc chiến tranh bằng không quân của giặc Mỹ đánh ra miền Bắc: Vụ thảm sát tàn bạo 12 ngày đêm thảm khốc 1972 ở Hà Nội - Hoa Kỳ cho B52 mang bom oanh tạc vào tận thủ đô, hòng hủy diệt biến Thủ đô Hà Nội trở về thời kì đồ đá? Bị cả loài người lên án! ".
        Cô giáo kết luận: "Bộ tiểu thuyết có tính lịch sử xã hội sâu sắc, sinh động và điển hình thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ xâm lược ở Việt Nam".


Tác giả Trần Đức                                              
     Trong bài viết này, tôi xin tóm lược diễn biến những sự kiện về đất nước - con người của cuộc chiến trạnh, được nhà văn miêu tả qua tác phẩm: 
     ... Nhân vật trung tâm của truyện là một đôi thanh niên nam nữ: Nguyễn Hoàng và Thu, cô bạn gái cùng học năm cuối cấp với anh ở trường phổ thông.  Mùa thu 1966, sau kỳ thi tốt nghiệp: Hoàng được gọi Đại học Bách khoa - Thu vào sư phạm. Họ cũng chính thức đến với nhau bằng tình yêu từ đấy! Khi đó, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền bắc đã rất ác liệt. Máy bay Mỹ nhiều lần ném bom, bắn phá xuống các vùng ven đô. Cả thành phố bước sang giai đoạn báo động. Các cơ quan, trường học cùng dân tình trong nội thành đều gấp gáp sơ tán về các vùng nông thôn và miền núi. 
        Hoàng sinh ra trong một gia đình thị dân thành phố. Nhà có ba anh em trai: Hoàng là con thứ. Mẹ của ba anh em mất sớm. Ông Thịnh, người cha của ba anh em lấy thêm một bà vợ lẽ. Anh trai lớn của Hoàng đã có vợ con và ra ở riêng, theo nghề cha làm thợ cắt tóc. Hoàng với cậu em út ở cùng cha và dì ghẻ. Gia đình sống trong một ngôi nhà tại ngõ Cống Trắng, phố Khâm Thiên, Hà Nội. Không biết từ bao giờ, ông Thịnh đã chiếm được một miếng đất ngay đầu ngõ gần nhà, sát với mặt phố để mở một cửa hiệu cắt tóc nhỏ. Bà dì ghẻ thì làm cái nghề mua đi, bán lại: Đêm đêm ra ga Hàng Cỏ đón tàu từ Đồng Đăng, mạn phía bắc giáp Trung Quốc về để mua hàng, rồi mang bán lại cho những người buôn bán nhỏ ở thành phố kiếm lãi.
        Gia đình Thu, nhà trên phố Hàng Bông. Ba và mẹ cô đều làm nhà giáo. Bà Giáo (thường gọi như vậy) đã nghỉ hưu - Ông Giáo, hiện vẫn đang công tác trên Bộ Giáo dục thành phố. Thu có một anh trai đang chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Người chị dâu với đứa cháu gái nhỏ, ở với ông bà Giáo và Thu. 
        Tiểu thuyết khắc họa theo những năm tháng của cuộc đời đôi trai gái ấy: Qua đó diễn tả lên toàn cảnh xã hội, trong những năm tháng chiến tranh đánh Mỹ của cả hai miền Nam - Bắc. 
        Nguyễn Hoàng, nhân vật chính của tiểu thuyết là một sinh viên, trí thức tiên tiến. Anh đã cùng với lớp thanh niên thủ đô yêu nước, tình nguyện rời bỏ trường đại học, xung phong vào quân ngũ lên đường đi chiến đấu - Thu theo học đại học sư phạm. Những năm tháng bởi cuộc chiến tranh phá hoại, trường của cô phải sơ tán lên mãi tận vùng rừng núi Việt Bắc để học.  
        1968. Ở miền Nam, đồng loạt diễn ra cuộc tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân trên toàn chiến trường. Quân giải phóng bất ngờ tiến công vào rộng khắp 6 thành phố lớn, 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Như các nhà bình luận quốc tế lúc ấy đã viết: "... Một cuộc Tổng công kích của mặt trận giải phóng miền Nam, làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc".
        Khi đó đơn vị của trung sĩ Nguyễn Hoàng - Hoàng đã nhập ngũ và là tiểu đội trưởng một trung đội súng máy đại liên, thuộc Trung đoàn 209, Sư 312... đang diễn tập trên rừng núi Hòa Bình, được lệnh hành quân bằng ô tô, đội mũ sắt (được gọi là trung đoàn mũ sắt), cấp tốc tiến thẳng vào chiến trường Tây Nguyên. 
        Đến đây tiểu thuyết bắt đầu rẽ ra làm hai hướng: Một hướng theo bước chân Nguyễn Hoàng - Tác giả phục lại tình hình chiến sự trên chiến trường miền Nam, tới ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1775 - Hướng kia theo cuộc đời Thu, khắc họa lại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra đất Bắc, ngày càng ác liệt. Kết thúc bằng trận ném bom hủy diệt 12 ngày đêm của Mỹ tháng 12.1972, hòng biến thủ đô Hà Nội trở về thời kỳ đồ đồng, đồ đá.
        Cách cấu trúc của bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" viết theo kiểu từng hồi, từng chương: Cả hai tập gồm 13 chương và 45 đề mục. Các chương xen kẽ nhau, diễn tả tuần tự thời gian chiến sự cả hai miền Nam Bắc. Trên đầu mỗi chương đều có tên đề giới thiệu... rất giống với phong dáng truyện  "Những người khốn khổ" hay " Nhà thờ Đức Bà Paris" của văn hào Pháp Victor Hugo - Thí dụ: Chương I "vào đời" - Chương II "Chiến tranh phá hoại và chia ly"...cứ thế tới Chương XIII "Trận chiến cuối cùng"... và hết.
        Nhưng cách tư duy và ngôn ngữ diễn tả thì lại ảnh hưởng rất nhiều các tác phẩm văn học Âu châu, như "Chiến tranh và hòa bình" hay "Anna Karenina" của văn hào Nga L. Tônxtôi qua bản dịch ra tiếng Việt - Tôi từng trao đổi với tác giả, anh nói: Những năm tháng trước, anh thường đọc nhiều tác phẩm của nước ngoài (qua bản dịch) hơn ở trong nước, nhất là đối với các tác giả lớn như: L. Tônxôi, Pushkin, Victor Hugo, Balzac... cho nên cách thức tư duy văn xuôi phạm Ngọc Thái ảnh hưởng nhiều của nền văn học Âu châu cũng là điều dễ hiểu.
        Nói rộng sang thi ca - Ở trong nước, chủ yếu Phạm Ngọc Thái ảnh hưởng kiểu tư duy thơ của Hàn Mặc Tử qua các bài thơ, như: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín... và tính triết lý trong thơ của Chế Lan Viên -   không chịu ảnh hưởng một chút nào của thơ Xuân Diệu hay Huy Cận.
        Còn đối với các dòng thi ca ở nước ngoài - Anh chịu ảnh hưởng của dòng thơ tượng trưng Âu Châu đầu thế kỷ XX: Điển hình là nhà thơ tượng trưng bậc thầy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) với thuyết "tương ứng cảm quan".  Về chất trữ tình trong thi ca thì anh lại ảnh hưởng của nhà thơ Nga vĩ đại Pushkin qua bản dịch Thúy toàn - Chính loại ngôn ngữ thi ca này chi phối... kể cả khi anh viết kịch hay tiểu thuyết - Bởi vậy, bạn bè trong giới văn chương thường nói vui: Anh viết kịch như thơ -  Thơ thì lại rất nhiều tính kịch, là vậy. 
        Bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" của Phạm Ngọc Thái cũng được phối cảnh như các màn diễn của một vở kịch dài hay là một bộ phim nhiều tập. Cho nên tôi cho rằng: Nếu một tác gia hay đạo diễn phim nào, làm phim về tiểu thuyết Phạm Ngọc Thái? Nếu làm giỏi, rất dễ có một bộ phim tâm lý chiến tranh sâu sắc, tuyệt vời.
        Xin phân tích vào nội dung - Như cái tên đề "chiến tranh và tình yêu": Đó là hai phạm trù xã hội sâu sắc, được tác giả diễn tả qua tiểu thuyết. Tạo thành hai dòng chảy quyện vào nhau, xuyên suốt tác phẩm. Bình luận một bộ tiểu thuyết dài hai tập mà chỉ trong bài tiểu luận ngắn, thực không dễ. Tôi xin chia làm ba phần để phân tích:
        1/.  Chiến trường miền Nam
        2/.  Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc 
        3/.  Tình yêu.


 Nhà văn Phạm Ngọc Thái thời chiến tranh                                     

 
       * PHẦN I - Tình hính chiến sự ngoài tiền tuyến được diễn tả theo bước chân Nguyễn Hoàng lên đường vào mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ: Bắt đầu từ năm 1968, sau cuộc tổng công kích mùa xuân Mậu Thân của quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam. Khắc họa vào 7 chương, trong tổng số 13 chương của tác phẩm. Đó là các chương: V - VI - VII - VIII - IX.... XII - XIII và kết thúc. Trên đầu mỗi chương đều có tiêu đề:
                                   TẬP MỘT
        Bốn chương đầu tiên diễn giải về gia đình, tình yêu của đôi trai gái tại thủ đô Hà Nội. Tổng quát tình hình chiến sự, dân tình, không khí xã hội trong chiến tranh, cho đến khi đôi trẻ chia ly: Anh ra ngoài tiền tuyến giết giặc, em ở lại hậu phương...  
        -  Chương V:    Tổng quát chiến sự xuân Mậu Thân 1968
        -  Chương VI:   Trận đánh đầu tiên (nguyễn Hoàng vào chiến trường Tây Nguyên)
        -  Chương VII:  Người con gái bản ra chiến trường  
-  Chương VIII: Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu (phần 1)  
                                    TẬP HAI
        -  .... Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu (phần 2)
        -  Chương IX:   Cái chết của người con gái bản
        .....             
        -  Chương XII:  Chiến trường Tây Nguyên những năm cuối.
-  Chương XIII: Trận chiến cuối cùng của cuộc chiến tranh.
        Tóm lược về bẩy chương: Tình hình chiến sự của chiến trường miền Nam nói chung, qua những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây Nguyên, Nam Bộ - Bắt đầu từ trận đầu tiên trung sĩ Hoàng tham dự, đó là trận đánh của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209, Sư 312 (vừa hành quân từ Bắc vào)... với TIểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ, tại dãy Chư Tan Kra thuộc vùng núi Kon Tum. Nói về chiến tích của trận đánh này, theo cuốn "Lịch sử Trung đoàn 209...", Nxb QĐND 2004 viết:
        "Trong trận tiến công tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư Tan Kra), 204 lính Mỹ đã bị tiêu diệt và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm, nhưng là trận đánh mở màn của trung đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ... ".
        Một trận đánh đẫm máu. Quân giải phóng tổn thất rất nặng nề. Chính Hoàng đã bị thương, phải rời đơn vị về phẫu điều trị vết thương trong trận đó. VÌ trận chiến không dứt điểm - Chính mắt anh nhin thấy bao đồng chí mình bị thương và hy sinh nằm phơi trên đỉnh đồi... tiểu đoàn phải rút quân không lấy được xác đồng đội ra và...  bọn Mỹ đã cho xe ủi đẩy tất cả xác của các chiến sỹ xuống một cái hố lớn, tẩm xăng vào đốt. Sau đó trung đoàn 209 tiếp tục hành quân xuống mặt trận dưới đồng bằng - Hoàng đến viện trị thương. Vết thương lành, anh được thuyên chuyển vào một trung đoàn pháo lớn của quân giải phóng ở Tây Nguyên. 
        Cứ thế cùng với bước chân Nguyễn Hoàng, tiểu thuyết khắc họa những trận đánh lớn điển hình ở Tây Nguyên, từ những năm của thập kỷ 70 đến tận ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng - Như trận đánh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đầu năm 1972; Chiến thắng lớn ở Đắc Tô - Tân Cảnh trong chiến dịch xuân hè 1972; Sau đó quân giải phóng tiến đánh vào thị xã Kon Tum thì bị thất bại (lần đầu) phải rút bỏ về củng cố quân lực tại căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh, vùng đã được giải phóng.
        Ngày 27.1.1973 hiệp định ngừng bắn ở Việt Nam tại Pa Ri được kí kết. 
        Ngày 29.3.1973, người lính Mỹ cuối cùng đã rút khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam. Từ nay chỉ còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu) đơn độc chống lại liên quân: Quân đội nhân dân Việt Nam từ Bắc tràn vào và Quân giải phóng miền Nam - Song thực chất Chính quyền Sài Gòn vẫn nhận được sự viện trợ của Mỹ (tuy so với trước thì rất ít)? chính quyền Thiệu đã ngang nhiên phá bỏ hiệp định ngừng bắn, huy động toàn bộ quân lực tiến hành chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ" để bình định, lấn chiếm lại một số vùng đã được cộng sản giải phóng - Nội chiến tiếp tục nổ ra.
        Tháng 9.1973 - Nguyễn Hoàng được đề bạt lên cấp đại úy, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn hỏa lực gồm pháo hỏa tiễn DKB, cối 82mm, rốc két B41 và một đại đội pháo cao xạ phòng không với hai loại pháo 37ly - 14ly5 - Nhận lệnh từ Bộ tư lệnh Mặt Trận B3 chi viện cho Trung đoàn bộ binh 48 Sư 320, mở cuộc tiến công vào căn cứ Chư Nghé, phía tây Pleiku. Trận chiến đó quân giải phóng đã thắng lợi ròn rã.
        Khi đó Hoàng vẫn không hề biết được tin rằng: Thu, người yêu của anh đã bị chết khi đi làm nhiệm vụ cứu hộ dân bị nạn trong đợt Mỹ ném bom B52 rải thảm xuống 12 ngày đêm ở Thủ đô Hà Nội vào tháng 12.1972 ( vì anh không nhận được thư).
        Tháng 3.1975, trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo 37ly Nguyễn Hoàng nhận lệnh chi viện cho các sư đoàn bộ binh chủ lực của mặt trận B3, mở cuộc tổng tiến công vào các thị xã lớn: Buôn Ma Thuột, Kon Tum và Pleiku...  giải phóng hoàn toàn vùng Tây Nguyên. Thừa thắng, các sư đoàn chủ lực của cộng sản ồ ạt tấn công, đánh chiếm Quảng Trị ngày 19.3.1975 - 26.3 giải phóng thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên - 24.3 đánh chiếm hàng loạt các vùng khác, như Thị xã Tân Kỳ  - Quảng Ngãi 25.3 - Chu Lai 26.3 - Ngày 30.3.1975 thành phố Đà Nẵng cũng hoàn toàn lọt vào vòng kiểm soát của quân giải phóng. Năm sư đoàn bộ binh thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hòa cùng các lực lượng không quân, hải quân, địa phương quân... tổng cộng gần 300 ngàn quân VNCH bị tan rã. 16 tỉnh ở miền Nam, 5 thành phố lớn của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu - tức 1/3 lãnh thổ, trong vòng 15 ngày đã lọt vào tay quân giải phóng.
        Lúc tình hinh chiến trường miền Nam đang diễn ra rất căng thẳng, gấp rút giải phóng toàn bộ miền Nam - Hoàng nhận được tin Thu chết trong một lá thư của Lan gửi vào - cô bạn gái học cùng một lớp với hai người... kèm với lá thư của Thu viết cho anh đêm nô-en 1972 chưa kịp gửi. Hoàng nghe tin Lan báo về cái chết của Thu như sét đánh ngang tai, nước mắt anh chỉ muốn trào ra. Toàn bộ con người anh run rẩy. Nhưng lệnh chuẩn bị vào cuộc chiến quyết liệt - Hoàng phải nén lòng mình, vội nhét cả hai lá thư của Lan và người yêu vào túi áo ngực, rồi tiếp tục chỉ huy bộ đội tiến vào trận đánh.
        Ở miền Bắc: Bộ chính trị của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử: Tiến đánh vào đầu não của chính quyền VNCH ở Sài Gòn, ngay trong mùa xuân 1975. Sớm hơn dự định mà đáng lẽ theo kế hoạch, phải để tới năm 1976 mới thực hiện.
        Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và khắp trên chiến trường miền Nam, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thế tuyệt vọng. Bộ máy chính quyền của tổng thống Thiệu tan rã. Ngày 21.4.1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức, trao quyền lại cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Sau đó nhượng lại cho Dương Văn Minh để có thể thương lượng với cộng sản Bắc Việt - Nhưng cuối cùng thì Dương Văn Minh thay mặt chính phủ VNCH ở Sài Gòn, đã phải đầu hàng vô điều kiện.
        Chiều 25.4.1975, Nguyễn Văn Thiệu cùng với gia đình và đoàn tùy tùng rời Việt Nam chạy sang Đài Loan - với sự hộ tống của trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polar, tướng Charles Times và đại sứ Martin.
        Trở lại với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào tháng 4.1975 ở trong tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu", Phạm Ngọc Thái đã phục lại: Trung tá Nguyễn Hoàng, trung đoàn trưởng trung đoàn pháo hỗn hợp ( cả pháo cao xạ đánh trên không và pháo mặt đất), trực thuộc Binh đoàn Tây Nguyên - Hoàng được phong vượt cấp sau chiến thắng ở mặt trận Tây Nguyên - Trung đoàn pháo của anh được Bộ tư lệnh binh đoàn điều động, dùng hỏa lực chi viện cho sư đoàn 320 đánh vào Đồng Dù - Đồng Dù là một căn cứ kiên cố, tuyến phòng thủ phía Tây Bắc Sài Gòn của Chính quyền VNCH. 
     
        6 giờ 30 phút ngày 29.4.1975, lệnh nổ súng bắt đầu. Ở đây, đã diễn ra trận chiến rất ác liệt. Thương vong và tử chiến cả hai bên đều rất nặng nề. Máu các chiến sĩ của Sư đoàn 320 cũng đã nhuộm đỏ mặt đồi. Mệnh lệnh của đồng chí Sư đoàn trưởng 320, chỉ thị xuống các trung đoàn: Bằng mọi giá dù phải hy sinh bao nhiêu, trong vòng 6 tiếng phải tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, để các binh đoàn chủ lực của mặt trận tiến đánh vào trung tâm Sài Gòn. 
     
        Đúng 11 giờ ngày 29.4.1975, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Sư đoàn 320 tung bay trên nóc sở chỉ huy của quân VNCH. Mở tung cánh cửa hướng tây bắc, để binh đoàn Tây Nguyên tiến thẳng về giải phóng Sài Gòn. Chỉ trong vòng 5 tiếng đồng hồ, Sư 320 của quân giải phóng đã đập tan toàn bộ Sư 25 của chính quyền Thiệu đóng trên căn cứ.      
       
        Chiều 29.4.1975 sau khi chiến thắng Đồng Dù, trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng nhận được chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân đoàn: Trung đoàn pháo của anh sẽ ở lại đóng quân bảo vệ căn cứ - Còn đại quân gấp rút tiến vào nội đô, hợp với các quân đoàn của toàn miền, để kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
        Đúng 11 giờ ngày 30.4.1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh vừa nhậm chức hôm 28.4 phải lên Đài phát thanh Sài Gòn đọc lệnh ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện. Miền Nam hoàn toàn giải phóng.
     
        Tiểu thuyết mô tả hình ảnh những người chiến sĩ ôm lấy nhau hạnh phúc. Nhiều người đã khóc. Hạnh phúc lớn quá, tưởng có thể vỡ tim! Họ hò reo vui sướng như những đứa con nít. Lòng những người lính chiến trường thổn thức. Họ muốn gào to lên, gọi vọng về quê hương:
        -  Cha ơi! Mẹ ơi! Vợ con và những người thân yêu của ta ơi! Chiến tranh đã kết thúc rồi. Hòa bình rồi!
        Khi đó trong lòng người Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng - Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết này? Tôi xin chép lại đoạn cuối của cuốn tiểu thuyết: 
     "Buổi trưa ngày 30.4.1975, trên căn cứ Đồng Dù nắng chói chang như đổ lửa. Trong gian phòng của Ban chỉ huy trung đoàn pháo, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lặng lẽ đứng bên cửa sổ nhìn ra xa. Anh thấy cả một bầu trời đỏ như một dòng sông máu ( mở ngoặc - Hình ảnh "dòng sông máu" minh họa về sự đau thương, tang tóc do chiến tranh gây ra )... Máu của những chiến sỹ cách mạng đi làm nhiệm vụ giải phóng từ mấy chục năm nay, máu những đồng đội anh vừa ngã xuống hôm qua bên cửa ngõ Sài Gòn, và cả máu của bao chiến sỹ vừa chết trong trận chiến sáng nay ở nội đô, thành phố được coi là "hòn ngọc viễn đông" này.
        Không! Không phải chỉ những dòng máu ấy, mà còn cả máu của hơn một triệu người lính VNCH cũng hòa vào trong đó? Những người lính trận của phía bên kia? Họ cũng đã phải chết rất tang thương...
        (Đoạn này thể hiện tính hòa hợp dân tộc của tác giả)
  
        - Họ đâu phải là kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh? Họ cũng là con em của dân tộc này! Chỉ có kẻ gây ra cuộc chiến tranh là do đế quốc Mỹ và lũ tay sai khởi chiến mới có tội: Phải bị lên án tới muôn đời!... Trong dòng sông máu loang đỏ kia, còn cả máu của những người thân và đồng bào ở thành phố và những làng thôn nơi quê hương anh... cũng đã phải đổ xuống vì chiến tranh ".
       Đấy, bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" của Phạm Ngọc Thái kết thúc ở đó.               

 
        * PHẦN II - Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc, được diễn tả theo cuộc đời Thu. Thu tốt nghiệp trường đại học sư phạm, nhưng xin chuyển sang làm phóng viên của tờ báo Hà Nội Mới ở Hà Nội - Cũng vào giai đoạn Mỹ ném bom để hủy diệt thủ đô trong 12 ngày đêm - Cuộc chiến tàn khốc ấy được diễn tả qua hai chương:
        -  Chương X:   Hà Nội cuộc sơ tán vô tiền khoáng hậu
        -  Chương XI:  Hà Nội 12 ngày đêm
        Ngày 16.4.1972, chính quyền Hà Nội ra lệnh cho nhân dân phải "cấp tán" - Tức là sơ tán thật nhanh ra khỏi thành phố, vì Mỹ sẽ ném bom rải thảm thành phố. Tiểu thuyết đã phục lại một số cảnh điển hình "vô tiền khoáng hậu" của dân tình năm ấy.
        Ngày 17.12.1972, Tổng thống Mỹ Nixon chính thức ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng: Gọi là "chiến dịch Linebacker II" bắt đầu. 
        Vào 19h20 phút ngày 18.12.1972, nhiều tốp máy bay B52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. Tiếng nổ long trời. Khói lửa mịt mù... Báo hiệu cuộc đụng độ lịch sử, giữa các lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ thủ đô của cộng sản - Mở màn cho chiến dịch 12 ngày đêm "Hà Nội - Điên Biên Phủ trên không", với các siêu pháo đài bay B52, những con "ngoáo ộp" Mỹ.
        Tiểu thuyết diễn lại hai trận ném bom tàn khốc nhất của không quân Mỹ trong 12 ngày đêm: 
        -  Đêm 21 rạng ngày 22.12, làm đổ sập hoàn toàn bệnh viện Bạch Mai, rất nhiều người bị thương và chết...
-  Đêm 26.12.1972, chúng đã trút bom xuống hủy diệt khu phố Khâm Thiên, nơi toàn dân thường ở: 17 khối phố bị đánh đổ sập. Phá và hư hại gần 2.000 ngôi nhà... trong đó có cả nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cửa hàng lương thực, thực phẩm, đình chùa di tích lịch sử, rạp hát và nhiều cơ sở sản xuất - Làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em - 178 cháu trở thành mồ côi và 290 người nữa bị thương. Toàn bộ khu phố Khâm Thiên dài 1.200m, chỉ còn là một đống gạch vụn. Hàng trăm gia đình phải chịu cảnh tang tóc. Có gia đình 7 người không còn ai sống - Một tội ác của giặc Mỹ chưa từng có trong lịch sử loài người - Chỉ riêng ở Hà Nội, chúng thả xuống 10.000 tấn bom tương đương quả bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Hiroshima... 
        Thu bị chết vì bức tường đổ sập đè lên người... khi cô cùng nhóm phóng viên của Tòa báo Hà Nội Mới, trong đội cảm tử ở lại thành phố làm nhiệm vụ cứu hộ người bị nạn.
        Tiểu thuyết cũng phục lại chiến tích oanh liệt của quân chủng phòng không, không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân miền Bắc: Trong 12 ngày đêm... làm nên một "Điện Biên Phủ trên không". Bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 ( cánh cụp cánh xòe) và 42 máy bay chiến thuật khác. Tiêu diệt và bắt sống hàng trăm phi công Hoa Kỳ - Đánh thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ.
        7 giờ sáng ngày 30.12.1972, Nixon buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và phải họp lại Hội nghị Pa Ri về Việt Nam.
        Ngày 27.1.1973, Hiệp định Pa Ri đã được kí kết: Chính phủ Hoa Kỳ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cam kết không dính líu về quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ về nước.

 
        *  PHẦN III: Tình yêu - Tình yêu của Hoàng và Thu đã nẩy sinh từ thuở thanh thiếu niên, khi đôi bạn mới rời khỏi trường phổ thông. Tình yêu đó còn mãi trong trái tim, dù do thời cuộc chiến tranh hai ngả phân ly. Em ở đất Bắc, anh phương Nam - Ngay trong chương đầu, tác giả đã mô tả về tình yêu:
        "... Cô quay người lại kéo anh sát gần vào mình. Núi Nùng đứng dựng lên như thành quách, ngăn cách họ với những bề bộn của cuộc sống bên ngoài. Những cây cối cũng rùng rùng đứng dậy. Gió thổi vút qua những cành lá, sóng vỗ vào mạn bờ lép bép... Thu ôm lấy Hoàng. Đôi bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của cô, ghì xuống đầu anh. Đôi trẻ tha thiết hôn nhau, những nụ hôn đầu tiên của cuộc đời. Như những đợt sóng táp lên mặt, lên trán rồi ướt đẫm đôi môi cô. 
        -  Không bao giờ chúng ta quên nhau!
        Thu bồi hồi nói trong hơi thở.
        -  Không bao giờ ta quên!
        Hoàng đắm đuối nhìn vào mắt người yêu, khẽ nhắc lại.".
        Khi hai người đã xa nhau - Hoàng ra chiến trường, Thu tiếp tục cuộc đời người nữ sinh sư phạm. Tác giả tả về nỗi nhớ người yêu của người chiến sỹ trên chiến trường:
     "... Bốn mùa mưa ở Tây Nguyên, Hoàng mới chỉ nhận được của Thu hai lá thư. Anh vẫn thường xuyên viết thư về cho người bạn gái, sau mỗi chiến dịch về hậu cứ. Không biết Thu có nhận được hết không?
        Hay là:
        ... Trong lá thư mà anh nhận được hồi đầu chiến dịch, Thu đã kể cho anh nghe về tình hình thủ đô: Không quân Mỹ ngày càng đánh phá ác liệt vào thành phố. Đa phần dân chúng Hà Nội đều phải đi sơ tán về nông thôn hoặc các vùng núi xa - chỉ những người cần làm việc tại Hà Nội và thanh niên tự vệ là ở lại.
        Anh nhớ đến những khoảnh khắc sống êm đềm bên người bạn gái. Anh thầm gọi tên em giữa đêm khuya... Cũng có thể, ngày mai thân xác anh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên máu lửa này. Anh không còn có thể trở về gặp lại người con gái thuở ấu thơ ấy nữa? Anh khao khát từng kỉ niệm nhỏ êm đềm... nhưng cũng bình thản để tiếp nhận sự khốc liệt, kể cả cái chết trên chiến trường đến bất cứ lúc nào? Cuộc chiến tranh đã tôi luyện cho Hoàng như thế! Có lẽ nỗi đau thuộc về những người thân của người chiến sĩ trên quê hương, về gia đình họ... chứ không phải bản thân những người lính như các anh.". 
        Còn tình yêu của Thu dành cho Hoàng trong những ngày xa nhau? Ta hãy nghe nhà văn tả tình cảm của cô gái:
        "... Thu ngồi trên một bộ bàn ghế đóng mộc mạc, cắm cúi viết thư. Cô viết:
        -  Nếu tình yêu của Thu có thể giúp cho Hoàng thêm phần nào lý trí, để Hoàng vững tin trên con đường đời rộng lớn. Thì đấy, chính là niềm hạnh phúc đã đến với Thu! Thu sung sướng thấy được, khi chúng ta có những tình cảm sâu sắc gắn bó với nhau - mà ở đó, mỗi đứa biết vượt lên cái riêng mình... ". 
        Hay là: "Anh thân yêu! Ở tận chiến trường xa xôi có nghe thấy tiếng thầm thì của em không? Đêm nay anh ở đâu, đang hành quân hay trong một trận chiến đấu máu lửa. Ôi, ước gì lúc này anh cũng có những phút yên tĩnh, thao thức trong đêm như em - Thu đang nghĩ đến anh đây, anh có biết không?". 
        Và cô gái ấy có cái mơ ước đơn giản như bao người con gái khác - Nhà văn Phạm Ngọc Thái đã diễn tả tâm lý bình dị mà thiêng liêng của người con gái, với người yêu ở nơi tiền tuyến:
        "... Một tình cảm rạo rực trào lên trong con người Thu. Cô tưởng tượng những ngày tới khi anh về phép... với niềm vui thật khó tả... Ôi! Một lễ cưới sẽ được tổ chức - Đó là một ngày trọng đại của người con gái. Người con gái nào vào tuổi xuân thì mà chẳng ước mơ, trong đời có một lần mặc đồ áo cưới" !?
        Nhưng rồi cái ước mơ bình dị và thiêng liêng ấy không bao giờ đến được với cô? Chiến tranh - Chính là tội ác của chiến tranh đã cướp đí tất cả. Cô đã ngã xuống dưới một bức tường đổ sập vì bom, đè lên tấm thân mỏng mảnh của người con gái - Và không bao giờ còn được mặc bộ váy cưới trong ngày vui của người thiếu nữ nữa.
        Còn đây? Ta hãy nghe những dòng thư cô viết cho người yêu trong đêm nô-en 1972 của 12 ngày đêm máu lửa đó:
        "...  Sau khi dự lễ ở nhà thờ, bọn em còn lang thang thâu đêm... rồi trở về tòa soạn và đang ngồi viết thư cho anh đây!... Chúng mình tuy rất xa nhau nhưng vẫn luôn có nhau, phải không anh?
        Anh ạ, nhiều người con trai thường nói với người yêu rằng: Anh sẽ dâng cả cuộc sống, cả thế giới này cho em! - Thì cô gái nói với anh: em chỉ muốn làm một người vợ, một người mẹ của những đứa con... sống một cuộc sống hạnh phúc bình thường, bên anh!".           
        Đọc đến đây thì chính ta muốn khóc? cả cái ước muốn, hạnh phúc bình thường làm vợ, làm mẹ của người con gái đó cũng không bao giờ đến được với em - Bom Mỹ đã tàn phá đi tất cả. 
        Lá thư dài năm trang giấy pơ luya màu hồng của Thu viết trong đêm nô-en, chưa kịp gửi cho người yêu thì cô bị chết. Mấy năm sau, Hoàng mới nhận được.
        Về Hoàng - Đất nước không còn chiến tranh nữa, nhưng lòng người sỹ quan ấy lại trào lên một nỗi buồn tê tái. Người yêu của anh mãi mãi không thể trở lại với anh? Những trang cuối cuốn tiểu thuyết, đã dừng lại trong những tâm trạng đó! Ta hãy nghe đoạn, trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng giở lại lá thư của em ra đọc:
        "... Bàn tay anh vẫn run run cầm lá thư của người yêu. Anh cố ghìm lòng mình bình tĩnh. Một đoạn Thu đã viết:
        ... Hoàng thân yêu, Thu yêu anh nhiều lắm, yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng chính là mối tình đầu cũng là mối tình vĩnh viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải không anh? Em cũng đã dành cho anh trọn vẹn những gì quí giá nhất của người con gái. Em thấy hạnh phúc vì đã làm với anh điều ấy!
        Nghĩ đến anh là em lại thấy lòng mình bình yên và ấm áp. dù đêm mùa đông giá lạnh, phải sống xa anh cả nghìn cây số. Em ngồi viết thư cho anh đây, một mình em một bóng cô đơn. Tình yêu anh đã nâng đỡ em rất nhiều trong những vấp váp đầu đời, đấy anh!
....  Ôi, cứ nghĩ tới những ngày tới anh về phép, lòng em lại bồn chồn khôn tả? Em mong đợi ngày đó biết chừng nào. Khi đó đôi ta sẽ chính thức trở thành chồng, thành vợ - Phải không anh?
        Cứ mỗi lần đọc đến đây, Hoàng lại thấy run bắn người. Anh như muốn òa khóc nấc lên tựa một đứa trẻ con... ".
        Đấy, trong những trang cuối cùng tiểu thuyết đã kết như thế! Để nói lên: Hạnh phúc lớn lao của đất nước... đã phải trả bằng bao nhiêu máu, sự hy sinh, nỗi đau đớn của những người chiến sỹ và của cả dân tộc này.
....              
        Nhưng nói về tình yêu trong cuốn tiểu thuyết, còn xuất hiện một người con gái nữa !? Em cũng yêu Hoàng tha thiết  - Mối tình tay ba chăng? Không hẳn thế, vì trong truyện không có sự tranh giành tình yêu.
        Đó là tình yêu của một thiếu nữ người Mường, anh đã gặp trên đường hành quân đi chiến đấu. Tên em là Mỵ! Tiểu thuyết đã mô tả về sự gặp gỡ, dẫn đến cuộc tình tha thiết của người con gái bản với anh... vào một mùa xuân:
        "... Họ đi qua những cành đào đung đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
        -  Anh Hoàng, em rất mến anh!
        Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây... chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu bủa vây. Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác toàn thân cô đang đổ sụp. Lúc này người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
        Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã hấp dẫn anh...
        Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy ư!" - Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè, không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát và ham muốn được khai phá...
        Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
        -  Mình có làm gì tồi tệ đâu?
        Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những tình cảm rất đẹp với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong lòng anh... và ta lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi thanh xuân với em.
        Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái. Tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng của người thiếu nữ mới lớn.".
  
        Tưởng rằng những tình cảm trai gái cuốn chàng chiến sỹ sẽ chỉ dừng lại ở đây !? Nhưng không, khi lòng anh cảm thấy sự sa đà ấy là anh có lỗi với Thu - Nhân khi có lệnh cắm trại để chuẩn bị sẵn sàng tiến ra tiền tuyến, tết đó anh không vào bản nữa... cũng là để tránh không gặp Mỵ.  Nhưng lúc này người con gái Mường trong trắng, thật thà lại rất tha thiết với anh... và cô cho rằng, những lời ngọt ngào mà anh đã nói là tình yêu của anh dành cho cô? Với bản sắc mãnh liệt của người con gái bản, Mỵ lao đi tìm người yêu, trước khi anh lên đường ra chiến trường. Thế là cuộc tình thứ hai của anh chiến sỹ Nguyễn Hoàng đã diễn ra - Đây là đoạn tác giả tả khi cô đã gặp anh: 
        "... Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng tha thiết biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở trong vườn đào ấy? Rồi anh đi. Lúc này chúng mình không nghĩ về chuyện khác nữa. Chỉ nghĩ đến em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
        Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt trận, để cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
        Hoàng như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ, cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi, đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? Lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam...
        "Anh là của em..." - Tiếng cô gái đang yêu, thầm thì bên anh.
        Hoàng không tránh khỏi những tâm tư, trì chiết ở trong lòng? Tác giả mô phỏng sự tự vấn đó: 
        "... Hoàng không thể nào nói nổi với Mỵ cái điều mà anh muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào!  Nhưng anh không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy nghĩ..." .
        Cứ tưởng, rồi tình yêu thứ hai này của Hoàng cũng chỉ đến đấy, khi anh đã ra trận? "Chiến tranh sẽ xóa đi tất cả - Hoàng nghĩ vậy". Nhưng không, Phạm Ngọc Thái lại phát triển tình yêu đó đi xa hơn. Anh để người con gái bản, vì thương nhớ người yêu?... Thời gian sau đó, khi anh đã ở ngoài tiền tuyến rồi - Cô cũng quyết định xin ra chiến trường. 
        Truyện thì dài. Mỵ cũng vào cùng chiến trường Tây Nguyên với anh - Vốn dĩ là một y tá bản, cô được bố trí làm việc ở trong  ban quân y của bộ tư lệnh mặt trận. Rồi Mỵ cũng đã gặp được Hoàng... trong một chiến dịch mà cô được Ban quân y cử đến tham gia chiến dịch phục vụ các đơn vị chiến đấu - Ta hãy nghe một đoạn, người con gái bản đã lý giải về quan hệ tình yêu tay ba, khi gặp lại anh trên chiến trường:
        "... Ít hôm trước, khi Đắc Tô - Tân Cảnh mới được giải phóng, Mỵ cùng với cô Sa người Huế đã tìm đến đơn vị để gặp anh. Mỵ trông vẫn xinh, vẫn đẹp gái... Lúc đó anh sững sờ nhìn người con gái bản, cứ nghĩ mình đang mơ? Chỉ vì lòng ham muốn của tuổi trẻ, anh đã gieo vào tâm hồn trong trắng của cô gái một tình yêu trái tim!...
        ... Anh và Mỵ tìm một nơi yên tĩnh trong rừng để tâm tình. Còn cô Sa thì anh em quây kín lại tíu tít chuyện trò... cứ như người thương nhớ, tận bên kia thế giới mới về... 
  
        Mỵ hờn dỗi, trách anh đi biền biệt không viết thư về cho cô. Anh đã phải tìm mọi lý do biện bạch cho mình: Nào là chiến trận liên miên, nào là bom đạn nên thư hay thất lạc?... Mỵ nói là rất yêu anh! Ngồi bên anh trong rừng, cô nằm vào lòng anh cho bõ nhớ - Cô bảo vậy.... Quả thật khi gặp lại Mỵ, lòng anh không khỏi choáng váng. Ngồi ôm em trong vòng tay, anh cũng thấy chính mình hạnh phúc! Thôi, cứ để cho em nghĩ rằng: Anh vẫn chỉ là của riêng em. Cả anh và em cứ tận hưởng những khoảnh khắc ân ái đang dào dạt tâm hồn. Nhưng giây phút anh man mê trên tấm thân nõn nà của người con gái...
        Mỵ cũng khao khát và trong lòng cô không thể nào cưỡng nổi. Cô cứ để tấm thân trần mà tận hưởng với anh, giữa một khu rừng chỉ có hai người và tiếng chim kêu...  
        .... Bỗng một ý thức nào đó vụt đến trong đầu, anh dùng toàn bộ lý trí của mình vùng đứng dậy: "Tình yêu của em dành cho anh thiêng liêng, cao cả quá! Anh không thể dối lừa em được nữa" - Một ý nghĩ nhân ái lớn lao hơn đến trong anh, đã đến lúc anh phải nói thật với em tất cả.
        ... Hoàng bế Mỵ ngồi lên. Anh cứ để tấm thân trắng ngần của người con gái trong vòng tay mình, kể cho cô nghe tất cả mối tình của anh đã có với Thu. Anh cũng nói rõ với Mỵ là, anh không thể phụ lại tình yêu của người bạn gái thưở thiếu thời ấy!
        ... Nghe Hoàng nói, Mỵ cũng lặng đi và rơm rớm nước mắt, nhưng cô không khóc. Giây lát, Mỵ ngước lên nhìn anh khẽ hỏi:
        -  Anh có yêu em không?
        -  Anh quí mến Mỵ! Anh thương Mỵ nhưng anh không thể...
        Hoàng bảo vậy rồi ôm chặt lấy cô, tỏ nỗi cảm thông với người con gái bản Mường. Mỵ không buông một lời trách móc nào với anh. Cô nói: Nếu anh cũng có tình thương yêu với cô, cô không giận anh - Bởi vì người con gái anh yêu đầu tiên, mà anh gọi là "Thu" ấy... đã đến với anh trước cô. Cô không oán thán anh. Cô kể, ở bản Mường cũng không thiếu gì những người đàn ông hai vợ, mà vẫn sống êm đềm, hạnh phúc. Nhất là chiến tranh, con trai ra tiền tuyến bị chết nhiều, đàn ông lấy hai vợ cũng là sự thường tình.
        Mỵ bảo: Cô chấp nhận Thu đã đến với anh trước nên chị ấy sẽ là vợ cả, Mỵ làm vợ hai của anh cũng được. miễn là anh vẫn yêu cô - Em còn nói, em tha thiết yêu anh và không thể bỏ anh...
        Đến lượt Hoàng bất ngờ, đến mức sững sờ... khi nghe thấy Mỵ lại giải quyết vấn đề nan giải ấy một cách nhẹ nhàng như thế! Anh ôm ghì lấy người con gái, tỏ lòng cảm phục cô về cả lý trí và tình yêu. Mỵ kéo Hoàng nằm xuống... ".
        Ôi, chuyện tình yêu của hai anh chị vẫn còn nhiều thú vị - Mời bạn đọc hãy xem trong tiểu thuyết, kẻo bài viết của tôi dài quá.
        Nhưng rồi trong chiến dịch đánh vào Kon Tum sau đó, quân giải phóng bị thất bại phải rút lui - Mỵ bị thương rồi... chết!   
        Thế là, cả hai mối tình của Nguyễn Hoàng với hai người con gái: Một ở lại hậu phương - Một ra tiền tuyến, đều bị cuộc chiến tranh cướp đi, không ai còn ở lại được với anh. Một cái kết thật bi thương! - Đấy chính là cái giá mà nhân dân Việt Nam và những người chiến sỹ đã phải trả cho sự độc lập!  Ta lại nghe Phạm Ngọc Thái nói về cái chết của người con gái chiến sỹ ấy, khi em trút hơi thở cuối cùng trên cánh tay anh:
        ".... Cô ấy chết rồi! Cô ấy không bao giờ tỉnh lại  được nữa... Như hoa lá, bầu trời - Tâm hồn em thật cao thượng! Ý nghĩ của em cũng thơm mát như những cánh hoa tươi. Tất cả ở trong em, người con gái bình dị mà cao cả biết bao nhiêu. Em là cái đẹp thiên nhiên nhất của thiên nhiên! "con người" nhất của con người! Nơi tập trung sự đẹp đẽ của lòng nhân ái, của khao khát và hy vọng!... Anh ghê tởm nguyền rủa cuộc chiến tranh phi nghĩa do Mỹ gây ra. Em vượt lên điểm đỉnh của phẩm giá, của chủ nghĩa nhân văn - Một người nữ chiến sĩ bình dị, trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Người liệt sĩ vô danh.".
        Một bộ tiểu thuyết tâm lý chiến tranh sâu sắc, sống động, ngôn ngữ đẹp và không kém vẻ ly kỳ... về thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ - Của một nhà văn chiến binh, từng sống trọn tuổi trẻ của đời mình trên chiến trường Tây Nguyên máu lửa. Theo tôi: Bộ tiểu thuyết có giá trị lịch sử cũng như đối với nền văn học nước nhà. 
                                                                                                                               Hà Nội, tháng 8.2020
                                            Trần Đức 
                           Nguyên CB Viện Ngôn ngữ & Văn hóa dân gian



<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.08.2020 04:11:20 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Nhatho_PhamNgocThai
  • Số bài : 971
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.08.2006
Re:(URL) THƠ TÌNH CỦA PHẠM NGỌC THÁI - 30.09.2020 18:39:44
 
            NÓI VỀ THƠ HAY 
     NGÀN NĂM VĂN HIẾN THĂNG LONG
  
                                      PHẠM NGỌC THÁI
           
       Nói về thơ hay ở đây, nghĩa là bài thơ đó phải được lưu danh sử sách trong văn hiến của ngàn năm Thăng Long - Thí dụ: cao siêu là KIỀU của đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể tiểu thuyết thơ. Các loại thơ ngắn hay xưa nay, trường cửu với thời gian, như: 
      Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) - Làm lẽ, Hồ Xuân Hương - Thu điếu, Nguyễn Khuyến - Thương vợ, Tú Xương - Đây thôn Vỹ Dạ * Mùa xuân chín * Bẽn lẽn, Hàn Mặc Tử - Tràng giang, Huy Cận - Tương tư, Nguyễn Bính - Tương tư chiều, Xuân Diệu - Tranh lõa thể, Bích Khê - Say đi em, Vũ Hoàng Chương - Hai sắc hoa tigôn, TTKH. - Thuyền và biển, Xuân Quỳnh - v.v...
          Đó là những bài thơ hay thuộc hàng đỉnh của nền văn học nước nhà. Thơ hay như thế của các nhà thơ đương đại hiếm lắm? 
    Vậy, Thế nào mới là một bài thơ hay của văn hiến ngàn năm Thăng Long? Dứt khoát phải có hai yếu tố:
1.  Thơ của muôn đời, chứ không phải thơ chỉ một thời.
2.  Thơ phải thật viên mãn về cả nghĩa và nghệ thuật thi ca.
     a-  Viên mãn về nghĩa: Bắt buộc tình, ý trong thơ phải viên mãn. Nếu nghĩa thơ không viên mãn? dù ngôn ngữ tinh túy, hình tượng đẹp... cũng chưa tạo được bài thơ hay.
     b-  Viên mãn về nghệ thuật thi ca: Khi nghĩa bài thơ đọc lên đã viên mãn rồi - Ngôn ngữ, hình tượng thi ca hay tới mức nào? Nó quyết định bài thơ hay đến đó.
            Nếu tất cả đều đạt tới đỉnh, thì bài thơ hoàn bích.
 
      ĐIỂM ĐÔI NÉT MẤY BÀI THƠ NỔI TIẾNG XƯA NAY
A/. " QUA ĐÈO NGANG" của Bà Huyện Thanh Quan (BHTQ) -  Đây là một bài thơ thất ngôn bát cú, theo thể Đường luật rất mẫu mực ở nước ta. Ngôn ngữ, nghệ thuật tinh hoa. Ta bàn về ý nghĩa bài thơ xem độ viên mãn thế nào?
     Bốn câu đầu chỉ là miêu tả để giới thiệu quang cảnh Đèo Ngang: Trên trời bóng đã xế tà; quanh đèo cỏ cây, hoa lá mọc chen trong khe đá; dưới núi vài chú tiểu đi kiếm củi... và mấy quán chợ lác đác bên sông - Nhưng đến hai câu giữa:
                 Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                 Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
     Tương truyền, BHTQ rất thạo việc quốc gia: Khi ông Huyện đi vắng, bà vẫn thay ông lên chốn công đường xử kiện. Đồng thời Bà Huyện còn là một phụ nữ rất đảm việc nhà, để ông Huyện yên tâm làm việc nước - Vậy là, chỉ bằng hai câu thơ (cũng vẫn là mượn cảnh vật), đã ôm bọc cả nỗi lòng bà: về nước, về nhà trong đó.
 - Mượn hình ảnh con chim cuốc ra rả kêu vào những tháng hè - Cái tiếng "gia gia" ở đây là xuất xứ từ con đa - đa... gọi lái sang thành "gia gia"...  nói lên nỗi nước, tình nhà của bà - Hình tượng, ngôn ngữ trong thơ thật là sâu xa, huyền thẳm. Không biết khi sáng tác BHTQ viết là "con cuốc" hay "con quốc"? Người đời sau, nhiều bản khi chép lại thơ của bà, đã viết thành con "quốc quốc"... để biểu thị cho tính nước non. Hai câu cuối đẩy bài thơ đến hoàn toàn viên mãn:
                 Dừng chân đứng lại trời, non, nước
                 Một mảnh tình riêng, ta với ta
      Nỗi niềm tâm sự giữa chốn đèo hoang vu, chỉ mình ta với ta thôi - Một câu thơ kết tuyệt bút!
B/.  HÀN MẶC TỬ -  Thi nhân Hàn Mặc Tử có một chùm thơ ba bài tuyệt hay: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín, Bẽn lẽn - Tôi nói ít nét về từng bài.
     1.  Đây thôn Vỹ Dạ: Bài thơ gửi gắm tâm tư về một mối tình đơn phương của thi nhân với nàng Hoàng Cúc - Ba câu đầu của khổ thơ thứ nhất là cảnh của hồi ức: Từ hàng cau, nắng mới, đến màu xanh mướt của vườn cây vào buổi sáng - Ông nhớ về nơi ở của nàng Hoàng Cúc trong thôn Vỹ Dạ. Đến câu thứ tư:
                  Lá trúc che ngang mặt chữ điền
     Đã là câu thơ tượng trưng rồi: "lá trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê Việt Nam - Còn "mặt chữ điền", theo cách nói cổ nho, ví cho gương mặt của người đàn ông (biểu tượng cho chính thi nhân), giờ đây đã bị "chắn ngang": mãi mãi phải cách xa, không gặp lại được nhau nữa. 
     Đến khổ thơ thứ hai, phát triển còn sâu hơn. Ta gọi là tư duy trong:
                  Gió theo lối gió, mây đường mây
                  Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
     Nghĩa là:
                  Em theo đường em, anh đường anh
                  Tình của đôi ta có thế thôi
     Để nói về duyên phận của hai người phân cách đôi đường, không thể đến được với nhau. Thi nhân cô đơn, ngồi nhớ người xưa: Lòng ông như dòng nước lặng lờ chảy buồn thiu, với bông hoa bắp phật phờ lay ở bên sông - Những bài thơ tuyệt hay của thi đàn xưa nay, nghĩa thơ thường được phản ảnh qua những hình tượng sâu xa, tinh tế như vậy.
      Tôi chỉ phân tích một số nét đặc trưng để toát lên cái hay của bài thơ, chứ không bình hết vì sẽ rất dài.
     "Đây thôn Vỹ Dạ" là một tuyệt tác thi ca! Có nhà bình thơ ở đương đại lại cho rằng: Khổ thơ thứ hai chỉ là tả cảnh theo cảm xúc của nỗi buồn mênh mang - Hiểu  thế sẽ không thấy được cái hay, độ sâu sắc trong tư duy về cuộc đời của nhà thơ? Tình, ý trong thơ cùng ngôn ngữ thi ca phải thật sự viên mãn vậy, mới được gọi là thơ hay! 


2/.  Mùa xuân chín:  Là bài thơ tả cảnh mùa xuân. Lúc này thi nhân đang phải điều trị bệnh tại Gành Ráng, Qui Nhơn, biệt lập xa cách với sự sống con người. Thi phẩm được rút ra từ trong thơ điên Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Nhưng đọc "Mùa Xuân Chín" ta thấy chẳng những thơ không điên, lòng thi nhân thanh tao, cõi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. 
       Hoài Thanh có nhận xét về thơ HMT như sau: “... Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói...". Cảnh thơ tựa bức gấm thêu, toát lên tấm tình tha thiết của thi nhân với nơi thôn dã. Ngôn ngữ, nghệ thuật thơ sử dụng rất nhiều thi pháp của dòng thơ tượng trưng châu Âu.
    Ta hãy nghe một đoạn thơ:
                         Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi 
 
                       Hổn hển như lời của nước mây…
                       Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
                       Nghe ra ý vị và thơ ngây…
          Không phải là "nước mây hổn hển" đâu? Chính là lòng thi nhân đang "hổn hển". Hay những hinh ảnh: “tiếng ca vắt vẻo”, “sột soạt gió trêu tà áo biếc”, "Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc"… đều là  biểu tượng của dòng thơ tượng trưng: Bộc lộ một tâm tư, tình cảm về cuộc sống. Ngay cái tên đề "Mùa xuân chín" cũng có tính tượng trưng rồi.
        Kết thúc thơ, lòng thi nhân trào lên một nỗi nhớ thương làng quê da diết:
                     Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
                     Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng 
                             - Chị ấy năm nay còn gánh thóc,
                     Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
       Sắc thái "...sông trắng nắng chang chang", vẽ ra cảnh trắng toát trên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảnh ảo, đưa tình thơ viên mãn tới tột cùng. Tả cảnh mùa xuân, nhưng lại chứa chất nỗi tình đời sâu sắc như thế... mới trở thành một bài thơ hay!
      Tuy vậy, bài "Đây thôn Vỹ Dạ" hay hơn một chút so với "Mùa xuân chín": Chủ yếu vì ngôn ngữ, hình tượng có phần ảo hơn, nên thơ huyền diệu và sâu lắng hơn.  Như Chế Lan Viên đã từng viết trong Di Cảo, rằng:
                    Bên kia bờ hư ảo - bờ thơ  
3/.  Bẽn lẽn:

                Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                Đợi gió đông về để lả lơi
                Hoa lá ngây tình không muốn động
                Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.

                Trong khóm vi vu rào rạt mãi
                Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
                Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
                Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.

                Vô tình để gió hôn lên má
                Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
                Em sợ lang quân em biết được
                Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.
     Có người lại cho rằng, bài thơ "Bẽn lẽn" hay hơn "Đây thôn Vỹ Dạ"? Thực ra, hai bài thơ này đều là thơ tuyệt hay thuộc hàng đỉnh của HMT - Về phong dáng, tính chất, chúng đứng trên hai ngọn thi sơn khác nhau: Nhưng bài "Đây thôn Vỹ Dạ"... "rất đời", nên dễ cảm hóa lòng người - Như câu châm ngôn của dân gian "Chỉ có cây đời mãi xanh tươi". Gần gũi cuộc sống nên được nhiều người thích và bình... mà nổi tiếng hơn.  
     "Bẽn lẽn" sở dĩ trở thành bài thơ rất hay: Bởi nó có những "câu thơ vàng":
                       Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
                       Đợi gió đông về để lả lơi
     Hay:
                       Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
                       Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
     Là những câu thơ hay vào hàng kiệt xuất của thi đàn xưa, nay - Ngôn ngữ, nghệ thuật thi ca thì khỏi chê rồi... Vậy, ta xem về tình, ý (tức là nghĩa bài thơ) có viên mãn không, mà lại gọi là thơ hay?
    Bốn câu đầu, miêu tả cảm xúc của thi nhân với nguyệt trên trời, như một người tình (đã được nhân cách hóa), xuống lả lơi "nằm sóng soãi" (như tấm thân trắng ngần của người con gái) để... tình ái với Người - Cảm xúc đến mức độ: "hoa lá ngây tình không muốn động", lòng người mới bồi hồi thốt lên gọi: "chị Hằng ơi"! 
          Ta hãy chú ý, Hàn Mặc Tử đã tả hai câu thơ sau đó:
                       Trong khóm vi vu rào rạt mãi
                       Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
     Hai câu thơ này thuộc về "tư duy trong": Lòng thi nhân bồi hồi, xao xuyến... Người nghe như văng vẳng tiếng mời chào của ái tình đang dậy lên ở trong mình... rồi lại lặng đi... nên hỏi: "Sao im đi"? Về nghệ thuật thi ca: Đây là cảm xúc nội tâm đang chan chứa trong lòng thi nhân, đồng họa với tiếng gió thổi qua khóm cây lau... nghe rào rạt - Về cấu tứ: Thơ được tư duy giống như trong bài "Qua đèo ngang" của BHTQ hạ hai câu thơ ở giữa bài:
                        Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
                        Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
      Hay như "Đây thôn Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử, khi viết hai câu:
                        Gió theo lối gió, mây đường mây
                        Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
      Để nói về nỗi đời chất chứa bên trong - Chính thế mà tình ý bài thơ mới được diễn tả một cách sâu sắc để tiến đến sự viên mãn - Trở lại với bài "Bẽn lẽn", sau đó thi nhân tả: 
                        Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
                        Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
     Hình ảnh bóng nguyệt in hình trong khe nước, nhưng chính là để tượng trưng cho cái thiên thai của người con gái, qua đó hạ hai câu kết về chuyện trăng hoa trai gái:
                        Em sợ lang quân em biết được
                        Nghi ngờ tới cái tiết trinh em
      Đây chỉ là cách nói mà HMT "ví chơi": nhưng để nhân cách hóa với hình ảnh lấy làm biểu tượng về "cái ấy" của người con gái ở câu thơ trên: Ô kìa, bóng nguyệt trần truống tắm /-  Mà tạo nên sự dung dị, hoàn bích của bài thơ. Bài thơ chứa đầy những cảm xúc khao khát, vì nỗi tình quạnh vắng của thi nhân. 
      Đọc sâu về nội tâm bên trong của Bẽn Lẽn, ta thấy từ ngôn ngữ, hình tượng thi ca... đến ý, tình của bài thơ đều quyện lấy nhau mà tuôn chảy theo dòng cảm xúc.
     Tôi bình đôi nét về một bài thơ hay ở thời hiện đại.

C/.  "THUYỀN VÀ BIỂN" của Xuân Quỳnh
:  "thuyền", biểu tượng cho người con trai - Và "biển", chính người con gái ấy!

        Biển và thuyền quấn quít với nhau trong tình yêu của đôi trai gái. Xuân Quỳnh viết: 
                   Lòng thuyền nhiều khát vọng
                   Và tình biển bao la...
     Hay là:
                   Những đêm trăng hiền từ
                   Biển như cô gái nhỏ
                   Thầm thì gửi tâm tư
                   Quanh mạn thuyền sóng vỗ
      Về tính cách của tình yêu, cũng có lúc say đắm - khi lại giận hờn. Nữ thi sĩ diễn tả:
                  Cũng có khi vô cớ
                  Biển ào ạt xô thuyền
                  Vì tình yêu muôn thuở
                 Có bao giờ đứng yên?
     Thơ được tư duy rất sâu sắc về nội tâm bên trong:
                 Chỉ có thuyền mới hiểu
                 Biển mênh mông nhường nào 
                Chỉ có biển mới biết 
                Thuyền đi đâu, về đâu...
      Thơ diễn đạt mọi chiều của tình yêu một cách rất lô-gích. Yêu đã thế, ngay cả khi nói về sự xa cách, cũng được lấy hình ảnh của "thuyền - biển" làm tượng trưng thật hay:
                Những ngày không gặp nhau
                Biển bạc đầu thương nhớ  
                Những ngày không gặp nhau
                Lòng thuyền đau - rạn vỡ...
     Hình ảnh "sóng biển bạc đầu"... trở thành sự "bạc đầu vì thương nhớ" của người con gái - Sự rạn vỡ của con thuyền...  để nói về sự quặn đau trong trái tim người con trai khi phải xa cô gái mình yêu.
     Đoạn kết thơ:  
                  Nếu từ giã thuyền rồi
                  Biển chỉ còn sóng gió
                  Nếu phải cách xa anh
                  Em chỉ còn bão tố...
     Nếu phải chia ly, cả đôi trai gái đều đau đớn và trái tim tan vỡ!
  -  Ý, tình bài thơ được đẩy tới viên mãn tột cùng. Ngôn ngữ hình tượng đẹp, tư duy lô-gích và giàu cảm xúc - Chính vì vậy, "Thuyền và biển" mới đạt được là một bài thơ hay, lưu mãi vào trong nền văn học nước nhà. 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.09.2020 18:45:30 bởi Nhatho_PhamNgocThai >
Đời hư, thực nhập nhoè lẫn lộn
Đêm ái tình... ta nương ngủ trái tim hoang.

Thay đổi trang: << < 192021 > >> | Trang 21 của 23 trang, bài viết từ 601 đến 630 trên tổng số 666 bài trong đề mục