TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 55 bài trong đề mục
Tác giả Bài
meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 14.08.2006 20:44:37
CHƯƠNG 1

Đến nhà Bà Ngoại

Agota Kristof, Hoàng Ngọc Tuấn đang dịch

Chúng tôi đến từ Phố Lớn. Chúng tôi đã đi suốt đêm. Đôi mắt của Mẹ đỏ ngầu. Mẹ mang một hộp các-tông lớn, và hai anh em tôi mỗi đứa mang một va-li nhỏ đựng quần áo, cộng với cuốn từ điển to kềnh của Bố mà anh em tôi thay nhau ôm cho đỡ mỏi tay.

Chúng tôi đi bộ rất lâu. Nhà Bà Ngoại ở xa trạm xe lửa, tận đầu bên kia của Phố Nhỏ. Ở đây không có xe điện, xe buýt hay xe ô-tô. Chỉ có vài xe vận tải của quân đội chạy loanh quanh.

Người qua đường không nhiều, phố này yên tĩnh. Chúng tôi có thể nghe tiếng bước chân của mình; chúng tôi bước đi trong im lặng, Mẹ đi chính giữa, hai đứa tôi hai bên.

Trước cổng vườn của Bà Ngoại, Mẹ bảo:

— Đợi mẹ ở đây.

Chúng tôi đợi một lát, rồi chúng tôi đi vào trong vườn, bước quanh ngôi nhà, và bò xuống dưới một khung cửa sổ nơi chúng tôi có thể nghe những giọng nói. Giọng của Mẹ:

— Ở nhà con không còn gì nữa để ăn, không bánh mì, không thịt, không rau, không sữa. Không có gì cả. Con không còn nuôi nổi lũ trẻ nữa.

Một giọng khác nói:

— Vậy là mày nhớ đến tao. Suốt mười năm, mày không hề nghĩ đến tao. Mày không bao giờ đến thăm, mày không bao giờ viết thư.

Mẹ nói:

— Má biết tại sao mà. Tại con thương ba của con.

Giọng kia nói:

— Ừ, và bây giờ mày mới nhớ rằng mày cũng có một người mẹ. Mày mò đến đây để đòi tao giúp đỡ.

Mẹ nói:

— Con không đòi hỏi bất cứ cái gì cho con hết cả. Con chỉ muốn mấy đứa con của con sống sót qua cuộc chiến này. Phố Lớn bị dội bom suốt ngày suốt đêm, và không còn thức ăn nữa. Người ta sơ tán trẻ con về miền quê để ở với ông bà hay với kẻ lạ, bất cứ nơi đâu.

Giọng kia nói:

— Thế thì đem gửi chúng cho kẻ lạ, bất cứ nơi đâu.

Mẹ nói:

— Chúng là cháu ngoại của má cơ mà.

— Cháu ngoại của tao? Thậm chí tao cũng không biết chúng là ai. Có mấy đứa?

— Hai. Hai đứa con trai. Sinh đôi.

Giọng kia hỏi:

— Thế thì mày đã làm gì với những đứa khác?

Mẹ hỏi:

— Những đứa khác nào?

— Lũ chó cái mỗi lần đẻ bốn hay năm con chó con. Mày giữ một hay hai đứa, còn những đứa kia, mày trấn nước cho chết hết.

Giọng kia cười thật to. Mẹ không nói gì cả, và giọng kia hỏi:

— Ít nhất chúng cũng có cha chứ? Mày đâu có lấy chồng, tao biết mà. Tao đâu có được mời ăn đám cưới.

— Con có lấy chồng. Bố lũ nhỏ đang ở ngoài mặt trận. Đã sáu tháng nay con không có tin tức gì về anh ấy.

— Thế thì mày có thể xoá sổ nó được rồi.

Giọng kia lại cười, Mẹ bắt đầu khóc. Chúng tôi chạy ra cổng trở lại.

Mẹ bước ra khỏi nhà với một bà già.

Mẹ nói với chúng tôi:

— Đây là Bà Ngoại của các con. Các con sẽ ở với bà một thời gian, cho đến hết chiến tranh.

Bà Ngoại nói:

— Có thể là một thời gian dài. Nhưng tao sẽ bắt bọn chúng làm việc, mày đừng có bất bình. Thức ăn ở đây cũng không phải là miễn phí.

Mẹ nói:

— Con sẽ gửi tiền cho má. Trong hai cái va-li kia, có quần áo của lũ trẻ. Trong thùng các-tông, có khăn trải giường và mền. Ngoan nhé, hai đứa nhóc. Mẹ sẽ viết thư cho các con.

Mẹ hôn chúng tôi và vừa ra đi vừa khóc.

Bà Ngoại cười rất lớn và nói với chúng tôi:

— Khăn trải giường, mền! Sơ-mi trắng và giày đánh bóng! Tao sẽ dạy cho bọn mày biết đời là gì, chính tao!

Chúng tôi thè lưỡi ra trêu Bà Ngoại. Bà cười còn to hơn nữa và đập hai tay bôm bốp vào hai bên hông.

[còn tiếp nhiều kỳ]
NGUỒN :tienve.com

---------
Dịch từ nguyên tác Pháp văn, "L'arrivée chez Grand-Mère", chương đầu tiên trong Agota Kristof, La Grand Cahier (Paris: Éditions du Seuil, 1986).
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2006 10:48:31 bởi meocon_thongminh93 >

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 15.08.2006 13:56:36
CHƯƠNg 2
Nhà Bà Ngoại



Từ những ngôi nhà cuối cùng ở Phố Nhỏ đến nhà Bà Ngoại mất năm phút đi bộ. Sau đó, không còn gì khác ngoài con đường đầy bụi đất, đi một quãng ngắn thì bị một cái rào chắn ngang. Không ai được đi quá cái rào chắn này, ở đó có một ông lính đứng gác. Ông ấy có một cây súng máy và cái ống nhòm, và khi trời mưa, ông vào núp mưa trong một trạm gác nhỏ. Chúng tôi biết bên kia cái rào chắn, khuất trong cây cối, có một căn cứ quân sự bí mật và đàng sau căn cứ ấy là biên giới và một đất nước khác.

Nhà Bà Ngoại nằm giữa một khu vườn, cuối khu vườn ấy là một con sông, rồi đến rừng.

Khu vườn trồng đủ thứ rau đậu và cây ăn trái. Tại một góc vườn, có một chuồng thỏ, một chuồng gà, một chuồng heo, và một cái lán cho bầy dê. Chúng tôi đã thử cưỡi lên lưng con heo to nhất, nhưng không thể nào ngồi vững được.

Bà Ngoại đem rau đậu, trái cây, thỏ, vịt, gà ra bán ngoài chợ, cùng với trứng gà, trứng vịt và phô-mai sữa dê. Heo thì bán cho ông đồ tể, và ông ấy trả bằng tiền mặt, nhưng cũng trả bằng thịt sườn và xúc-xích xông khói.

Trong vườn cũng có một con chó để rượt kẻ trộm và một con mèo để bắt chuột nhắt và chuột lớn. Chúng tôi không được cho con mèo ăn, để nó luôn luôn đói.

Bà Ngoại còn có một vườn nho ở bên kia đường.

Chúng tôi đi vào nhà xuyên qua căn bếp rộng và ấm. Ngọn lửa cháy suốt cả ngày trong lò củi. Gần cửa sổ, có một cái bàn to tướng và một băng ghế hình góc vuông. Chúng tôi ngủ trên băng ghế đó.

Từ căn bếp có một cửa lớn dẫn vào buồng của Bà Ngoại, nhưng cửa ấy luôn luôn được khoá lại. Chỉ một mình Bà Ngoại vào buồng đó ban đêm, để ngủ.

Còn một phòng khác có thể đi vào thẳng từ ngoài vườn, khỏi cần qua căn bếp. Đây là phòng trọ của một sĩ quan ngoại quốc. Cửa phòng cũng được khoá lại.

Dưới nền nhà, có một hầm đầy những thứ để ăn, và dưới mái nhà, có một gác xép nơi Bà Ngoại không còn trèo lên nữa từ khi chúng tôi cưa mất một nấc thang làm bà đã bị ngã đau. Lối vào gác xép ở ngay trên khung cửa lớn của phòng ông sĩ quan, và chúng tôi trèo lên đó bằng một sợi thừng. Đó là nơi chúng tôi giấu cuốn sổ tập làm văn, cuốn từ điển của Bố và những đồ vật khác mà chúng tôi buộc lòng phải giữ kín.

Chẳng mấy chốc chúng tôi chế tạo một chiếc chìa khoá mở được tất cả các cửa, và chúng tôi đục những cái lỗ trên sàn gác xép. Nhờ chiếc chìa khoá, chúng tôi có thể tự do chạy quanh quẩn trong nhà khi mọi người đều đi vắng, và, nhờ những cái lỗ, chúng tôi có thể quan sát Bà Ngoại và ông sĩ quan trong phòng của mỗi người, mà không làm họ nghi ngờ.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 15.08.2006 13:57:17
chương 3

Bà Ngoại



Bà Ngoại của chúng tôi là mẹ của Mẹ chúng tôi. Trước khi đến sống trong nhà bà, chúng tôi không hề biết Mẹ chúng tôi lại còn có một bà mẹ.

Chúng tôi gọi bà là Bà Ngoại.

Người ta gọi bà là Mụ Phù Thuỷ.

Bà gọi chúng tôi là "đồ chó đẻ".

Bà Ngoại thì nhỏ nhắn và gầy. Bà phủ một tấm khăn choàng đen trên đầu. Y phục của bà màu xám sậm. Bà mang những đôi giày lính cũ kỹ. Khi thời tiết dễ chịu, bà đi chân trần. Mặt bà đầy những nếp nhăn, những nốt ruồi nâu và những cái mụt cóc có lông mọc ra. Bà không còn răng, ít nhất là không còn chiếc răng nào trông thấy được.

Bà Ngoại không bao giờ tắm rửa. Bà chùi miệng bằng góc chiếc khăn choàng đầu khi bà ăn xong hay uống xong. Bà không mặc quần lót. Khi bà muốn đái, bà chỉ dừng lại ở bất cứ nơi nào, dang hai chân ra và đái xuống mặt đất ngay bên dưới cái váy. Dĩ nhiên, bà không đái trong nhà.

Bà Ngoại không bao giờ cởi quần áo. Chúng tôi đã rình xem bà trong buồng ngủ vào ban đêm. Bà cởi một cái váy ra, lại có một cái váy khác ở bên dưới. Bà cởi áo khoác ra, lại có một cái áo khoác khác ở bên dưới. Bà đi ngủ như thế. Bà không cởi chiếc khăn choàng đầu.

Bà Ngoại ít nói. Trừ ban đêm. Ban đêm, bà lấy ra một cái chai trên kệ tủ, và nốc thẳng từ cổ chai. Chẳng mấy chốc, bà bắt đầu nói một thứ tiếng mà chúng tôi không biết. Đó không phải là thứ tiếng của những quân nhân ngoại quốc, đó là một thứ tiếng hoàn toàn khác.

Bằng thứ ngôn ngữ vô danh đó, Bà Ngoại tự tra vấn và trả lời. Đôi khi bà cười, đôi khi bà nổi giận và gào thét. Cuối cùng, hầu như lúc nào cũng vậy, bà bắt đầu khóc, bà lảo đảo bước vào buồng, bà ngã gục lên giường, và chúng tôi nghe bà thổn thức mãi đến khuya.




---------

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 16.08.2006 08:28:28
CHƯƠNG 4
Công việc



Chúng tôi phải làm một số công việc nào đó cho Bà Ngoại, nếu không thì bà không cho chúng tôi ăn và bà để chúng tôi ngủ ngoài trời.

Đầu tiên chúng tôi không chịu vâng lời bà. Chúng tôi ngủ ngoài vườn, chúng tôi ăn trái cây và rau đậu sống.

Buổi sáng, trước khi mặt trời lên, chúng tôi thấy Bà Ngoại ra khỏi nhà. Bà không nói gì với chúng tôi. Bà đi rải thức ăn cho bầy gia súc, vắt sữa dê, rồi đem chúng đến bờ sông và cột chúng vào một cái cây. Rồi bà tưới vườn và hái rau, hái trái, chất lên một cái xe cút kít. Bà cũng bỏ thêm vào đó một rổ đầy trứng, một chiếc lồng nhỏ đựng một con thỏ và một con gà hay một con vịt với hai chân bịt trói vào nhau.

Bà đẩy xe cút kít ra chợ, cái đai xe quàng lên chiếc cổ khẳng khiu làm đầu bà gằm xuống. Bà lảo đảo dưới sức nặng. Những ổ gà trên mặt đường và những cục đá làm bà mất thăng bằng, nhưng bà cứ tiếp tục bước, hai bàn chân quặp vào trong, như con vịt. Bà đi lên phố, đến chợ, không nghỉ, không hề dừng xe cút kít một lần nào.

Khi đi chợ về, bà nấu một nồi xúp với những thứ rau đậu không bán hết và làm các thứ mứt với những trái cây thừa. Bà ăn, bà đi nghỉ một giấc trưa ngắn trong vườn nho, bà ngủ một tiếng đồng hồ, rồi bà làm việc trong vườn nho hoặc, nếu ở đó không có việc gì làm, bà trở về nhà, bà bửa củi, bà cho gia súc ăn một lần nữa, bà đem mấy con dê về, bà vắt sữa chúng, bà đi vào rừng, mang nấm và củi đóm về, bà làm phô-mai, bà phơi nấm và đậu, bà xếp các thứ rau đậu khác vào lọ, tưới vườn một lần nữa, xếp đồ đạc vào hầm kho, và cứ thế cho đến khi đêm xuống.

Vào buổi sáng ngày thứ sáu, khi bà ra khỏi nhà, chúng tôi đã tưới vườn xong. Chúng tôi bưng giùm bà những thùng nặng đựng đồ ăn cho heo, chúng tôi dắt lũ dê ra bờ sông, chúng tôi giúp bà chất đồ lên xe cút-kít. Khi bà đi chợ về, chúng tôi đang bửa củi.

Trong bữa ăn, Bà Ngoại nói:

— Bọn mày hiểu rồi đó. Cái ở với cái ăn, phải có làm mới có hưởng.

Chúng tôi nói:

— Không phải vậy. Làm lụng thì khổ sở, nhưng chỉ ngồi không mà nhìn người nào đó làm lụng, thì còn khổ sở hơn nhiều, nhất là người ấy lại già nua.

Bà Ngoại cười khẩy:

— Đồ chó đẻ! Bọn mày muốn nói bọn mày tội nghiệp cho tao hả?

— Không phải đâu, Bà Ngoại. Chúng con chỉ tự thấy xấu hổ.

Xế trưa, chúng tôi đi kiếm củi trong rừng.

Từ giờ trở đi chúng tôi làm tất cả những công việc mà chúng tôi có thể làm được.





meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 18.08.2006 14:19:40

CHƯƠNG 5


Cánh rừng và dòng sông



Cánh rừng thì rất lớn, dòng sông thì thật nhỏ. Để vào rừng, chúng tôi phải băng qua dòng sông. Khi nước không nhiều, chúng tôi có thể băng qua bằng cách nhảy từ hòn đá này sang hòn đá kia. Nhưng đôi lúc, khi trời mưa nhiều, nước lên đến hông, thì thứ nước ấy lạnh và đục ngầu. Chúng tôi quyết định dựng một chiếc cầu bằng những viên gạch và những miếng gỗ chúng tôi nhặt được quanh những ngôi nhà đổ nát vì bom.

Chiếc cầu của chúng tôi vững chãi. Chúng tôi khoe nó với Bà Ngoại. Bà đi thử, rồi nói:

— Tốt lắm. Nhưng đừng đi quá xa vào rừng. Biên giới ở gần đó, bọn lính sẽ bắn tụi mày. Và trên hết, đừng đi lạc. Tao sẽ không đi tìm bọn mày đâu.

Trong lúc dựng cầu, chúng tôi thấy những con cá. Chúng trốn dưới những tảng đá lớn hay trong bóng rợp của những bụi rậm và những tàn cây đan vào nhau trên mặt sông. Chúng tôi chọn những con cá to nhất, chúng tôi bắt chúng và chúng tôi bỏ chúng vào cái thùng tưới cây được đổ đầy nước. Xẩm tối, khi chúng tôi mang chúng về nhà, Bà Ngoại nói:

— Đồ chó đẻ! Làm sao bọn mày bắt được chúng?

— Bằng tay. Dễ thôi mà. Chỉ phải đứng im và chờ đợi.

— Vậy thì bắt cho thật nhiều. Nhiều chừng nào tốt chừng đó.

Hôm sau, Bà Ngoại đặt cái thùng tưới cây lên xe cút-kít và đem bán những con cá của chúng tôi ở chợ.

Chúng tôi thường vào rừng, chúng tôi không hề đi lạc, chúng tôi biết đi phía nào thì thấy biên giới. Chẳng mấy chốc, đám lính gác biết mặt chúng tôi. Họ không hề bắn chúng tôi. Bà Ngoại dạy chúng tôi phân biệt những loại nấm ăn được và những loại nấm độc.

Từ rừng, chúng tôi vác những bó củi trên lưng để mang về, còn nấm và hạt dẻ thì bỏ vào trong rổ. Chúng tôi xếp củi dựa ngay ngắn vào những chân tường dưới hàng hiên và chúng tôi nướng hạt dẻ trên lò nếu Bà Ngoại không có mặt ở đó.

Một lần, sâu trong rừng, cạnh một hố bom lớn, chúng tôi tìm thấy một người lính chết. Thân thể hắn vẫn còn nguyên vẹn, trừ đôi mắt bị mất vì lũ quạ. Chúng tôi lượm khẩu súng, những băng đạn và những trái lựu đạn của hắn: chúng tôi giấu khẩu súng trong một bó củi, nhét những băng đạn và những trái lựu đạn vào đáy rổ, dưới những cây nấm.

Về đến nhà Bà Ngoại, chúng tôi cẩn thận gói những vật này vào trong rơm và trong những bao đựng khoai, và chúng tôi chôn chúng dưới cái băng ghế trước cửa sổ của ông sĩ quan.






meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 18.08.2006 14:20:18
chương 6


Sự dơ bẩn


Ở nhà chúng tôi, trên Phố Lớn, Mẹ thường tắm rửa cho chúng tôi. Dưới vòi sen hay trong bồn tắm. Mẹ cho chúng tôi mặc áo quần sạch sẽ, Mẹ cắt móng tay cho chúng tôi. Để hớt tóc cho chúng tôi, Mẹ dắt chúng tôi đến tiệm hớt tóc. Chúng tôi quen đánh răng sau mỗi bữa ăn.

Ở nhà Bà Ngoại, không thể nào tắm rửa được. Không có buồng tắm, cũng không có cả vòi nước chảy. Chúng tôi phải đi bơm nước giếng ngoài sân và mang vào bằng một cái thùng. Trong nhà không có xà-phòng, không có kem đánh răng, không có bột giặt.

Mọi thứ đều dơ bẩn trong bếp. Sàn gạch đỏ, chỗ lồi chỗ lõm, dính vào hai bàn chân chúng tôi, cái bàn to tướng dính vào hai bàn tay và hai cùi chỏ chúng tôi. Lò nấu thì đen kịt vì cặn dầu, và bốn bức tường thì đen kịt vì bồ hóng. Mặc dù Bà Ngoại có dọn rửa, bát đĩa, thìa, dao vẫn không bao giờ thật sạch, và những cái chảo còn đóng một lớp chất dơ dày cộm. Những miếng giẻ lau bát thì ngả màu xám và có mùi hôi hám.

Thoạt đầu, chúng tôi thậm chí không muốn ăn, nhất là khi thấy cách Bà Ngoại nấu nướng, không rửa tay và quẹt mũi vào tay áo. Thế rồi, chúng tôi chẳng còn lưu ý đến điều đó nữa.

Khi trời ấm, chúng tôi đi tắm sông, chúng tôi rửa mặt và đánh răng với nước giếng. Khi trời lạnh, thì không thể nào tắm rửa đàng hoàng được. Trong nhà không có cái gì lớn đủ để đựng nước. Những tấm khăn trải giường, mền và khăn tắm đều biến mất. Chúng tôi chẳng bao giờ còn thấy cái thùng các-tông to lớn có đựng những thứ mà Mẹ đã mang đến đây.

Bà Ngoại đã bán hết tất cả.

Chúng tôi càng ngày càng trở nên bẩn thỉu hơn, quần áo chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi lấy quần áo sạch ra từ trong hai cái va-li dưới băng ghế, nhưng chẳng mấy chốc quần áo sạch cũng không còn. Những thứ chúng tôi mặc thì càng ngày càng rách rưới, giày thì mòn lủng. Lúc nào thuận tiện, chúng tôi đi chân trần và chỉ mặc quần lót hay quần dài ống. Lòng bàn chân của chúng tôi cứng lại, chúng tôi không còn cảm giác gì với những cái gai và những mảnh đá. Da chúng tôi sậm lại, ống chân và cánh tay chúng tôi mang đầy những vết xước, những vết cắt, những cái vảy mủ, những vết côn trùng chích. Móng tay móng chân chúng tôi, không bao giờ được cắt tỉa, bị gãy đi, và tóc chúng tôi, gần thành màu trắng vì bị nắng đốt, dài xuống đến vai.

Hố xí thì ở cuối vườn. Không bao giờ có giấy. Chúng tôi chùi đít bằng những chiếc lá to nhất của những loại cây nào đó.

Chúng tôi bốc ra cái mùi hỗn hợp của cứt bò, cá, cỏ, nấm, khói, sữa, phô-mai, bùn, đất sét, đất thịt, mồ hôi, nước đái, và mùi meo mốc.

Chúng tôi hôi hám như Bà Ngoại.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 18.08.2006 14:20:47
CHƯƠNG 7


Bài thực tập cho thể xác cứng cáp



Bà Ngoại thường đánh chúng tôi, bằng hai bàn tay xương xẩu, bằng một cái chổi hay bằng một miếng giẻ ướt. Bà kéo tai chúng tôi và túm tóc chúng tôi.

Những người khác tát tai và đá đạp chúng tôi, thậm chí chúng tôi cũng không biết tại sao.

Những cú đánh ấy gây đau đớn và làm chúng tôi khóc.

Những lần té ngã, những vết xước, những chỗ đứt thịt, sự lao động, cái lạnh và cái nóng cũng gây đau đớn nữa.

Chúng tôi quyết định làm cho thể xác chúng tôi cứng cáp hơn để có thể chịu đựng sự đau đớn mà không khóc.

Chúng tôi bắt đầu bằng cách tát tai nhau, rồi đấm nhau. Thấy mặt chúng tôi sưng vù, Bà Ngoại hỏi:

— Ai đánh bọn mày đấy?

— Chính chúng con đấy, Bà Ngoại.

— Bọn mày đánh nhau à? Tại sao?

— Chẳng tại sao cả, Bà Ngoại. Đừng lo, đó chỉ là một bài thực tập.

— Một bài thực tập? Bọn mày khùng thật rồi! Cũng chẳng sao, nếu bọn mày lấy đó làm vui...

Chúng tôi cởi trần truồng. Đứa này thay phiên quất đứa kia bằng dây nịt. Chúng tôi nói theo từng cú quất:

— Không đau.

Chúng tôi quất mạnh hơn, càng lúc càng mạnh hơn.

Chúng tôi đút bàn tay vào lửa. Chúng tôi dùng dao cắt vào sườn chúng tôi, cánh tay chúng tôi, ngực chúng tôi, và đổ cồn lên những vết thương. Mỗi lần làm thế, chúng tôi nói:

— Không đau.

Sau một thời gian, chúng tôi thực sự không còn cảm giác gì nữa. Đó là một kẻ nào khác bị đau, một kẻ nào khác bị phỏng lửa, bị cắt đứt da, chịu đựng hành hạ.

Chúng tôi không còn khóc nữa.

Khi Bà Ngoại nổi giận và gào thét, chúng tôi nói:

— Đừng gào nữa, Bà Ngoại, hãy đánh đi.

Khi bà đánh chúng tôi, chúng tôi nói:

— Đánh nữa đi, Bà Ngoại! Xem này, chúng con đưa cái má bên kia cho bà, như trong Thánh Kinh đã viết. Bà Ngoại cứ đánh thêm vào cái má bên kia.

Bà đáp:

— Cầu cho quỷ nó bắt bọn mày cùng với cái Thánh Kinh và những cái má của bọn mày!


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 20.08.2006 12:42:18
chương 8

Ông tuỳ phái

Chúng tôi nằm trên băng ghế hình góc vuông ở trong bếp. Đầu chúng tôi chạm nhau. Chúng tôi chưa ngủ, nhưng mắt chúng tôi nhắm lại. Có ai đẩy cửa vào. Chúng tôi mở mắt. Ánh sáng của một chiếc đèn pin làm chúng tôi loá mắt. Chúng tôi hỏi:

— Ai đó?

Một giọng đàn ông đáp:

— Không có sợ. Các bạn không có sợ. Hai người các bạn là hay tôi nhiều uống quá?*

Ông cười, ông thắp cây đèn dầu trên bàn và tắt đèn pin. Bây giờ chúng tôi có thể thấy ông rõ ràng. Ông là một người lính ngoại quốc, không cấp bậc. Ông nói:

— Tôi là tuỳ phái của đại uý. Các anh làm cái gì đó?*

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi sống ở đây. Đây là nhà của Bà Ngoại.

— Các anh cháu ngoại của Mụ Phù Thuỷ? Tôi chưa bao giờ thấy các anh. Các anh ở đây từ lúc nào?*

— Được hai tuần nay.

— À! Tôi thì đi phép về nhà của tôi, trong làng tôi. Cười nhiều.*

Chúng tôi hỏi:

— Làm sao ông nói được ngôn ngữ của chúng tôi?

Ông nói:

— Mẹ tôi sinh ở đây, trong nước các anh. Đến làm việc trong nước tôi, hầu bàn trong quán rượu. Gặp cha tôi, cưới với. Khi tôi nhỏ, mẹ tôi nói với tôi tiếng các anh. Nước các anh và nước tôi, là những nước bạn. Đánh kẻ thù cùng nhau. Hai anh đến từ đâu?*

— Từ Phố Lớn.

— Phố Lớn, nhiều nguy hiểm. Bùm! Bùm!*

— Vâng, và không còn gì để ăn.

— Ở đây, tốt để ăn. Táo, heo, gà, đủ thứ. Các anh ở lâu? Hay chỉ nghỉ hè?*

— Chúng tôi ở đây đến khi hết chiến tranh.

— Chiến tranh sớm hết. Các anh ngủ ở đây? Ghế trống, cứng, lạnh. Mụ Phù Thuỷ không muốn đem các anh vào phòng?*

— Chúng tôi không muốn ngủ trong buồng Bà Ngoại. Bà ngáy và bà hôi hám. Chúng tôi có mền và khăn trải giường, nhưng bà đã bán mất rồi.

Ông tuỳ phái lấy nước nóng từ cái vạc trên lò và nói:

— Tôi phải chùi phòng. Đại uý cũng đi phép về tối nay hay sáng mai.*

Ông đi ra. Vài phút sau, ông trở lại. Ông mang cho chúng tôi hai cái mền xám của quân đội.

— Không bán cái đó, Mụ Phù Thuỷ già. Nếu bà ấy quá tệ, các anh nói cho tôi. Tôi, bùm, bùm, tôi giết.*

Ông lại cười. Ông đắp mền cho chúng tôi, tắt đèn, và rời phòng.

Ban ngày, chúng tôi giấu hai cái mền trên gác xép.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 20.08.2006 12:43:27

CHƯƠNG 9
Bài thực tập cho tâm hồn cứng cáp



Bà Ngoại nói với chúng tôi:

— Bọn chó đẻ!

Người ta nói với chúng tôi:

— Lũ con của Mụ Phù Thuỷ! Đám con của đĩ!

Những kẻ khác nói:

— Đồ ngu xuẩn! Quân đầu trộm đuôi cướp! Bọn hỗn láo! Đồ lỗ đít! Lũ bẩn thỉu! Đồ heo! Bọn mạt hạng! Lũ con hoang! Đồ cứt són! Quân chết tiệt! Nòi sát nhân!

Khi chúng tôi nghe những chữ đó, mặt chúng tôi đỏ lên, tai chúng tôi lùng bùng, mắt chúng tôi cay xót, đầu gối chúng tôi bủn rủn.

Chúng tôi không muốn đỏ mặt hay bủn rủn nữa, chúng tôi muốn quen với những lời nhục mạ, những chữ gây tổn thương.

Chúng tôi ngồi xuống đối diện nhau bên cái bàn trong bếp, nhìn thẳng vào mắt nhau, chúng tôi nói càng lúc càng nhiều chữ tàn độc hơn nữa.

Một đứa nói:

— Cục cứt! Cái lỗ đít!

Đứa kia nói:

— Đéo cái lỗ đít! Thằng con hoang!

Chúng tôi tiếp tục nói như thế cho đến khi những chữ ấy không còn chạm vào não chúng tôi nữa, thậm chí không còn chạm vào tai chúng tôi nữa.

Chúng tôi thực tập cách này chừng nửa giờ mỗi ngày, rồi chúng tôi ra ngoài đi bộ trên các đường phố.

Chúng tôi chọc cho người ta xúc phạm chúng tôi, và chúng tôi nhận thấy rằng bây giờ chúng tôi đã đạt đến trình độ bất chấp mọi thứ.

Nhưng còn có những chữ cũ.

Trước kia mẹ vẫn thường nói với chúng tôi:

— Các con cưng của mẹ! Các con yêu quý của mẹ! Niềm vui của mẹ! Các con bé bỏng dễ thương của mẹ!

Khi chúng tôi nhớ đến những chữ đó, mắt chúng tôi đầy lệ.

Những chữ đó, chúng tôi phải quên, vì bây giờ không ai nói những chữ như thế với chúng tôi và vì hồi ức của chúng tôi về những chữ đó là một gánh nặng quá sức chịu đựng.

Thế rồi, chúng tôi bắt đầu thực tập theo một cách khác.

Chúng tôi nói:

— Các con cưng của mẹ! Các con yêu quý của mẹ! Mẹ yêu các con... Mẹ sẽ không bao giờ xa các con... Mẹ sẽ không bao giờ yêu ai ngoài các con... Mãi mãi... Các con là cả cuộc đời của mẹ...

Trước sức mạnh của sự lặp lại, những chữ này dần dần mất ý nghĩa của chúng, và sự đau đớn chất chứa trong chúng cũng nguôi đi.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 22.08.2006 12:52:16
CHƯƠNG 10

Trường học



Chuyện này xảy ra cách đây ba năm.

Lúc ấy vào buổi tối. Bố mẹ chúng tôi nghĩ chúng tôi đang ngủ. Trong một phòng khác, họ nói về chúng tôi.

Mẹ nói:

— Chúng nó không chịu xa nhau.

Bố nói:

— Chúng sẽ chỉ xa nhau trong giờ học mà thôi.

Mẹ nói:

— Chúng không chịu.

— Chúng sẽ phải chịu. Điều đó cần thiết cho chúng. Mọi người đều nói như thế. Các giáo viên, các nhà tâm lý. Thoạt đầu sẽ có khó khăn, nhưng chúng sẽ quen với điều đó.

Mẹ nói:

— Không, không bao giờ. Em biết chúng nó mà. Chúng nó chỉ là một người và cùng là một người.

Bố nói lớn tiếng hơn:

— Nói cho đúng, vậy là không bình thường. Chúng nghĩ cùng một điều, chúng làm cùng một việc. Chúng sống trong một thế giới khác. Trong một thế giới của riêng chúng. Mọi sự như thế là không lành mạnh lắm. Thậm chí nó làm anh lo lắng. Đúng thế, chúng nó làm anh lo lắng. Chúng nó thật kỳ quặc. Chẳng ai biết chúng nó suy nghĩ cái gì. Chúng nó quá già dặn so với tuổi chúng nó. Chúng nó biết quá nhiều.

Mẹ cười:

— Anh sẽ không phiền trách chúng vì sự thông minh của chúng đấy chứ?

— Chẳng có gì đáng buồn cười cả. Tại sao em lại cười?

Mẹ trả lời:

— Trẻ sinh đôi bao giờ cũng có vấn đề, nhưng điều đó chẳng phải là một bi kịch. Mọi thứ rồi sẽ đâu vào đấy cả thôi.

Bố nói:

— Đúng, mọi thứ sẽ đâu vào đấy nếu chúng ta chia cách chúng nó ra. Mỗi cá nhân phải có một cuộc sống của riêng mình.

Vài ngày sau, chúng tôi bắt đầu đến trường. Mỗi đứa ở một lớp khác nhau. Cả hai đứa đều ngồi hàng ghế đầu.

Chúng tôi cách xa nhau bằng cả chiều dài của nhà trường. Khoảng cách ấy thật quái dị, nỗi đau đớn không thể chịu nổi. Giống như người ta cắt mất nửa thân thể của chúng tôi. Chúng tôi mất thăng bằng, chúng tôi chóng mặt, chúng tôi té xuống, chúng tôi bất tỉnh.

Chúng tôi tỉnh dậy trong chiếc xe cứu thương đang chở chúng tôi đến bệnh viện.

Mẹ đến tìm chúng tôi. Mẹ mỉm cười và nói:

— Các con sẽ ngồi chung một lớp kể từ ngày mai.

Về đến nhà, Bố chỉ nói với chúng tôi:

— Những thằng giả đò!

Chẳng bao lâu sau đó, ông ra mặt trận. Bố là một phóng viên, một đặc phái viên chiến trường.

Chúng tôi đi học được hai năm rưỡi. Các thầy giáo rồi cũng ra mặt trận; các cô giáo đến dạy thay cho họ. Sau đó, trường đóng cửa vì có quá nhiều lần báo động và máy bay thả bom.

Chúng tôi đã học đọc, viết, làm toán.

Ở nhà Bà Ngoại, chúng tôi quyết định tiếp tục học mà không cần thầy, chỉ tự học.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 22.08.2006 12:52:56
CHƯƠNG 11
Mua giấy, sổ chi chép và bút chì



Ở nhà Bà Ngoại, không có giấy, cũng không có bút chì. Chúng tôi đi tìm trong một cửa hiệu gọi là: "Tiệm Sách và Dụng Cụ Văn Phòng". Chúng tôi chọn một xấp giấy, hai cây bút chì và một cuốn sổ lớn dày. Chúng tôi đặt tất cả những thứ đó lên cái quầy thu ngân trước mặt người đàn ông mập mạp đang đứng bên kia quầy. Chúng tôi nói với ông ấy:

— Chúng cháu cần những vật này, nhưng chúng cháu không có tiền.

Ông bán sách nói:

— Cái gì? Nhưng... chúng mày phải trả tiền.

Chúng tôi lặp lại:

— Chúng cháu không có tiền, nhưng chúng cháu tuyệt đối cần những vật này.

Ông bán sách nói:

— Trường đóng cửa. Không ai cần vở hay bút chì nữa.

Chúng tôi nói:

— Chúng cháu học ở nhà. Chỉ riêng chúng cháu tôi, chúng cháu tự học.

— Bảo cha mẹ chúng mày cho tiền.

— Bố chúng cháu đang ở ngoài mặt trận, còn Mẹ chúng cháu đã ở lại Phố Lớn. Chúng cháu sống ở nhà Bà Ngoại, bà cũng không có tiền.

Ông bán sách nói:

— Chúng mày không thể mua bất cứ thứ gì mà không trả tiền.

Chúng tôi không nói gì nữa, chúng tôi chỉ nhìn ông bán sách. Ông cũng nhìn chúng tôi. Trán ông ướt đẫm mồ hôi. Một lát sau, ông quát lên:

— Đừng nhìn tao như vậy! Đi đi!

Chúng tôi nói:

— Chúng cháu sẵn lòng phụ trợ cho một số công việc nào đó để đổi lấy những vật này. Tưới vườn cho ông, chẳng hạn, nhổ cỏ dại, khiêng hàng hoá...

Ông bán sách lại quát lên:

— Tao không có vườn! Tao không cần chúng mày! Và trước hết, chúng mày nói năng bình thường không được sao?

— Chúng cháu vẫn nói năng bình thường mà.

— Ở tuổi chúng mày mà lại nói: "sẵn lòng phụ trợ", nói năng như vậy là bình thường, hả?

— Chúng cháu nói một cách chính xác.

— Quá chính xác, đúng thế. Tao không ưa cái lối nói năng của chúng mày chút nào! Cả cái lối chúng mày nhìn tao nữa! Xéo ngay!

Chúng tôi hỏi:

— Ông có nuôi gà không, thưa ông?

Ông bán sách chặm mồ hôi trên khuôn mặt trắng nhợt bằng một chiếc khăn mùi-soa trắng. Ông hỏi chứ không quát tháo:

— Gà? Tại sao gà?

— Tại vì nếu ông không có gà, chúng cháu có thể đem biếu ông một số trứng để đổi lấy những vật dụng mà chúng cháu không thể thiếu được.

Ông bán sách nhìn chúng tôi, không nói một lời.

Chúng tôi nói:

— Giá trứng tăng từng ngày. Ngược lại, giá giấy và bút chì thì...

Ông bán sách ném xấp giấy của chúng tôi, hai cây bút chì của chúng tôi, cuốn sổ của chúng tôi về phía cửa và gào lên:

— Cút ngay! Tao không cần trứng của chúng mày! Lấy hết các thứ ấy đi, và đừng trở lại nữa!

Chúng tôi lượm các vật dụng ấy một cách cẩn trọng và chúng tôi nói:

— Rất tiếc, chúng cháu buộc lòng phải trở lại khi chúng cháu đã dùng hết giấy và bút chì.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 24.08.2006 12:31:15

CHƯƠNG 12


Việc học của chúng tôi



Để học, chúng tôi có cuốn từ điển của Bố và cuốn Thánh Kinh mà chúng tôi tìm thấy ở nhà Bà Ngoại, trên gác xép.

Chúng tôi có những bài học về chính tả, cách làm văn, tập đọc, tính nhẩm, đại số và những bài luyện trí nhớ.

Chúng tôi sử dụng từ điển để sửa lỗi chính tả, để tìm định nghĩa, nhưng cũng để học thêm những chữ mới, những từ đồng nghĩa và phản nghĩa.

Chúng tôi dùng Thánh Kinh để tập đọc, tập viết ám tả, và luyện trí nhớ. Vì thế chúng tôi đã học thuộc lòng nhiều trang Thánh Kinh.

Đây là cách chúng tôi tiến hành một bài tập làm văn:

Chúng tôi ngồi tại bàn trong bếp với xấp giấy có kẻ ô, hai cây bút chì, và Cuốn Sổ Lớn. Chỉ có hai đứa chúng tôi.

Một đứa nói:

— Đề bài của anh là: "Đến nhà Bà Ngoại".

Đứa kia nói:

— Đề bài của anh là: "Công việc của chúng tôi."

Chúng tôi bắt đầu viết. Chúng tôi có hai tiếng đồng hồ để xử lý đề tài và có hai tờ giấy để viết nháp.

Sau hai tiếng đồng hồ, chúng tôi trao đổi những tờ nháp của mình, đứa này sửa lỗi chính tả cho đứa kia bằng cách tra từ điển và viết xuống ở cuối trang giấy: "Tốt", hoặc "Không tốt". Nếu "Không tốt", chúng tôi ném bài văn vào lửa và chúng tôi cố gắng xử lý đề tài đó một lần nữa trong buổi học kế tiếp. Nếu "Tốt", chúng tôi có thể chép bài văn vào Cuốn Sổ Lớn.

Để quyết định là "Tốt" hay "Không tốt", chúng tôi có một quy tắc rất đơn giản: bài văn phải trung thực. Chúng tôi phải miêu tả cái gì có thật, cái gì chúng tôi thấy, cái gì chúng tôi nghe, cái gì chúng tôi làm.

Ví dụ, không được phép viết: "Bà Ngoại giống như Mụ Phù Thuỷ"; nhưng được phép viết: "Người ta gọi Bà Ngoại là Mụ Phù Thuỷ."

Không được phép viết: "Phố Nhỏ thì đẹp", bởi Phố Nhỏ có thể đẹp đối với chúng tôi nhưng xấu đối với người khác.

Cũng thế, nếu chúng tôi viết: "Ông tuỳ phái thì dễ thương", đó không phải là sự thật, vì ông tuỳ phái có thể có những ác ý mà chúng tôi không biết. Do đó chúng tôi chỉ viết: "Ông tuỳ phái cho chúng tôi vài cái mền."

Chúng tôi viết: "Chúng tôi ăn nhiều quả hạnh", chứ không viết: "Chúng tôi yêu những quả hạnh", bởi chữ "yêu" là một chữ không chắc chắn, nó thiếu sự chính xác và sự khách quan. "Yêu những quả hạnh" và "yêu Mẹ" không có nghĩa giống nhau. Dạng thức thứ nhất chỉ một vị ngon trong miệng, và dạng thức thứ hai diễn tả một xúc cảm.

Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 27.08.2006 12:55:39
CHƯƠNG 13
Bà hàng xóm và đứa con gái



Bà hàng xóm của chúng tôi là một người đàn bà ít tuổi hơn Bà Ngoại. Bà ở với đứa con gái trong cái nhà cuối cùng của Phố Nhỏ. Đó là một cái nhà lụp xụp mục nát, mái nhà thủng nhiều chỗ. Chung quanh nhà ấy có một mảnh vườn, nhưng nó không được chăm sóc như vườn của Bà Ngoại. Không có gì mọc ở đó trừ cỏ dại.

Bà hàng xóm ngồi suốt ngày trên một chiếc ghế trong vườn và nhìn thẳng về phía trước, nhìn cái gì chẳng ai biết. Ban đêm, hay khi trời mưa, con gái bà nắm tay dắt bà vào nhà. Đôi lúc, đứa con gái quên bà hay không có ở nhà, thì bà ngồi đó suốt đêm, bất kể thời tiết.

Người ta nói bà hàng xóm của chúng tôi bị điên, bị mất trí từ khi người đàn ông làm cho bà có thai đã bỏ rơi bà.

Bà Ngoại nói bà hàng xóm của chúng tôi chỉ đơn giản là lười biếng và muốn sống nghèo khổ chứ không chịu làm lụng.

Đứa con gái của bà hàng xóm không cao to hơn chúng tôi nhưng nó hơn chúng tôi vài tuổi. Suốt ngày, nó đi ăn mày trên phố, trước những quán giải khát, tại những góc đường. Ở chợ, nó lượm những thứ rau đậu và trái cây thối rữa mà người ta vất bỏ và nó mang về nhà. Nó cũng ăn cắp bất cứ thứ gì có thể ăn cắp. Nhiều lần chúng tôi đã phải đuổi nó ra khỏi vườn lúc nó đang rắp tâm ăn cắp trái cây hay trứng gà.

Một lần, chúng tôi bắt quả tang nó đang uống sữa bằng cách bú vú những con dê.

Khi nó thấy chúng tôi, nó đứng lên, chùi miệng vào mu bàn tay, bước lùi lại, và nói:

— Đừng đánh tao!

Nó nói thêm:

— Tao chạy nhanh lắm. Tụi mày không bắt được tao đâu.

Chúng tôi nhìn nó. Đây là lần đầu tiên chúng tôi thấy nó ở khoảng cách gần. Nó có một cái môi sứt, mắt nó lé, mũi nó chảy nước thò lò và nơi khoé hai con mắt đỏ lừ của nó dính ghèn vàng khè. Chân tay nó đầy những cái mụn nước.

Nó nói:

— Tên tao là Sứt Môi. Tao thích sữa.

Nó mỉm cười. Răng nó đen.

— Tao thích sữa, nhưng tao thích nhất là bú cái vú con dê. Sướng lắm. Nó vừa cứng lại vừa mềm.

Chúng tôi không nói lời nào. Nó bước đến gần.

— Tao cũng thích bú một thứ khác nữa.

Nó giơ tay ra, chúng tôi lùi lại. Nó nói:

— Tụi mày không muốn à? Tụi mày không muốn chơi với tao à? Tao rất muốn. Tụi mày đẹp trai quá.

Nó cúi đầu xuống, nói:

— Tao ghê tởm tụi mày.

Chúng tôi nói:

— Không, chị không ghê tởm chúng tôi.

— Tao biết rồi. Tụi mày còn nhỏ quá, nhút nhát quá. Nhưng, với tao, tụi mày không cần phải xấu hổ. Tao sẽ dạy cho tụi mày nhiều trò chơi vui lắm.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi không bao giờ chơi.

— Thế thì cả ngày tụi mày làm gì?

— Chúng tôi làm việc, chúng tôi học.

— Tao, tao ăn xin, tao ăn cắp và tao chơi.

— Chị cũng bận rộn chăm sóc cho mẹ của chị nữa. Chị là một cô gái tốt.

Nó vừa nói vừa bước đến gần chúng tôi:

— Tụi mày thấy tao tốt à? Thật không?

— Thật. Và nếu chị cần bất cứ thứ gì cho mẹ của chị hay cho chị, chị chỉ cần hỏi chúng tôi. Chúng tôi sẽ cho chị trái cây, rau đậu, cá, sữa.

Nó bắt đầu gào lên:

— Tao không cần trái cây của tụi mày, cá của tụi mày, sữa của tụi mày! Tất cả những thứ đó, tao ăn cắp được. Cái mà tao cần là tụi mày thương tao. Không có ai thương tao. Ngay cả mẹ tao. Nhưng tao cũng không còn thương ai nữa. Kể cả mẹ tao, kể cả tụi mày! Tao ghét tụi mày!


Ct.Ly

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 04.09.2006 14:53:58
CHƯƠNG 14
Tập ăn xin



Chúng tôi mặc vào những thứ áo quần dơ dáy và rách rưới, chúng tôi cởi giày ra, chúng tôi bôi lem luốc mặt mũi và hai bàn tay. Chúng tôi đi ra đường. Chúng tôi dừng lại, chúng tôi chờ đợi.

Khi một viên sĩ quan ngoại quốc đi ngang qua trước mặt chúng tôi, chúng tôi nhấc tay phải lên chào và chìa tay trái ra. Thường thì viên sĩ quan cứ tiếp tục đi qua, không dừng lại, không thấy chúng tôi, không nhìn chúng tôi.

Rốt cuộc cũng có một viên sĩ quan dừng lại. Ông nói điều gì đó bằng một thứ tiếng mà chúng tôi không hiểu. Ông hỏi chúng tôi. Chúng tôi không trả lời, chúng tôi đứng bất động, một tay nhấc lên, tay kia chìa ra trước mặt. Thế rồi ông lục lọi trong túi quần, ông đặt một đồng xua hay một mẩu sô-cô-la lên bàn tay dơ bẩn của chúng tôi, và ông vừa bước đi vừa lắc đầu.

Chúng tôi tiếp tục chờ đợi.

Một người đàn bà đi qua. Chúng tôi chìa tay ra. Bà nói:

— Tội nghiệp lũ trẻ. Cô không có gì cho các cháu.

Bà vuốt tóc chúng tôi.

Chúng tôi nói:

— Cảm ơn.

Một bà khác cho chúng tôi hai trái táo, một bà khác nữa lại cho vài cái bánh bít-quy.

Một bà đi ngang qua. Chúng tôi chìa tay ra, bà dừng lại, bà nói:

— Bọn mày đi ăn xin mà không xấu hổ à? Về nhà tao, có những việc nho nhỏ dễ dàng cho bọn mày. Bửa củi, chẳng hạn, hay quét sân. Bọn mày to xác và mạnh đủ để làm những việc như vậy. Sau đó, nếu bọn mày làm tốt, tao sẽ cho bọn mày ăn xúp và bánh mì.

Chúng tôi đáp:

— Chúng tôi không muốn làm việc cho bà, thưa bà. Chúng tôi không muốn ăn xúp của bà, cũng không muốn ăn bánh mì của bà. Chúng tôi không đói.

Bà hỏi:

— Thế thì tại sao bọn mày ăn xin?

— Để biết nó có cảm giác thế nào và để quan sát phản ứng của người ta.

Bà vừa bước đi vừa gào lên:

— Bọn ranh con lưu manh bẩn thỉu! Lại còn hỗn láo nữa!

Lúc đi về, chúng tôi vất bỏ những trái táo, những mẩu bánh bít-quy, sô-cô-la, và những đồng xu vào đám cỏ cao ven đường.

Cái vuốt tóc thì không thể nào vất bỏ được.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 04.09.2006 15:05:19
CHƯƠNG 15

Sứt Môi



Chúng tôi câu cá nơi dòng sông. Sứt Môi chạy qua. Nó không thấy chúng tôi. Nó nằm xuống cỏ, kéo váy lên. Nó không có quần lót. Chúng tôi thấy cặp mông đít phơi truồng của nó và nhúm lông giữa hai chân nó. Chúng tôi chưa có lông giữa hai chân. Sứt Môi có, nhưng rất ít.

Sứt Môi huýt sáo. Một con chó chạy đến. Đó là con chó của chúng tôi. Nó ôm con chó và nhào lăn với con chó trong đám cỏ. Con chó sủa, vuột ra khỏi tay nó, giũ lông, và chạy đi. Sứt Môi kêu con chó bằng một giọng dịu dàng trong lúc dùng các ngón tay tự vuốt ve cái hĩm của mình.

Con chó trở lại, ngửi cái hĩm của Sứt Môi dăm ba lần và bắt đầu liếm nó.

Sứt Môi dang hai chân ra, dùng hai tay ghì đầu con chó vào bụng mình. Nó thở rất mạnh và quằn quại.

Cu của con chó lòi ra, thon và đỏ, càng lúc càng dài. Con chó ngóc đầu, cố leo lên lưng Sứt Môi.

Sứt Môi xoay lại, lom khom bò trên hai đầu gối, đưa mông đít cho con chó. Con chó gác hai chân trước lên lưng của Sứt Môi, cặp chân sau run rẩy. Nó dò dẫm, càng lúc càng xáp đến gần hơn, lách vào giữa hai chân của Sứt Môi, áp sát vào mông đít của đứa con gái. Nó hẩy tới tui lia lịa. Sứt Môi kêu lên và, sau một lúc, ngã sấp xuống đất.

Con chó từ từ bước đi.

Sứt Môi nằm trên mặt đất một lát, rồi nó nhỏm dậy, trông thấy chúng tôi, nó đỏ mặt. Nó hét lên:

— Bọn rình rập dơ bẩn! Tụi mày đã thấy cái gì?

Chúng tôi đáp:

— Chúng tôi thấy chị chơi với con chó của chúng tôi.

Nó hỏi:

— Tao có còn là bạn của tụi mày không?

— Còn. Và chúng tôi cho phép chị chơi với con chó của chúng tôi bất cứ lúc nào chị muốn.

— Và tụi mày sẽ không kể cho ai nghe tụi mày đã thấy điều gì chứ?

Nó ngồi lên cỏ, nó khóc:

— Chỉ có súc vật mới thương tao.

Chúng tôi hỏi:

— Có phải thật là mẹ chị bị điên không?

— Không. Bà ấy chỉ bị điếc và mù.

— Cái gì đã xảy đến cho bà ấy?

— Không có gì cả. Không có gì đặc biệt cả. Một ngày nọ, bà trở nên mù loà, rồi sau đó, bà trở nên điếc. Bà nói tao cũng sẽ bị như thế. Tụi mày đã thấy cặp mắt tao chưa? Buổi sáng, lúc tao thức dậy, hai hàng lông nheo của tao dính vào nhau, hai mắt tao đầy ghèn.

Chúng tôi nói:

— Chăc chắn đó là thứ bệnh có thể chữa được bằng thuốc.

Nó nói:

— Có lẽ. Nhưng làm sao đến gặp bác sĩ mà không có tiền? Nói cho cùng, cũng chẳng có một bác sĩ nào cả. Họ đều ở mặt trận.

Chúng tôi hỏi:

— Còn hai cái tai của chị? Chúng có đau không?

— Không, tao không có vấn đề gì cả. Và tao cũng nghĩ mẹ tao chẳng có vấn đề gì. Bà ấy giả vờ không nghe bất cứ điều gì để tránh trả lời những câu hỏi của tao.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 04.09.2006 15:06:18
CHƯƠNG 15
Tập mù và điếc


Một đứa trong chúng tôi làm thằng mù, đứa kia làm thằng điếc. Để thực hiện, trước hết, thằng mù lấy một tấm khăn choàng đen của Bà Ngoại buộc lên hai con mắt, thằng điếc thì nhét cỏ vào hai lỗ tai. Tấm khăn choàng hôi hám như Bà Ngoại.

Chúng tôi nắm tay nhau, chúng tôi đi lang thang trong lúc có còi báo động máy bay sắp dội bom, người ta đang trốn dưới gầm nhà, và đường phố vắng ngắt.

Thằng điếc miêu tả những gì nó thấy:

— Con đường thì hẹp và dài. Hai bên đường là những ngôi nhà thấp, không có lầu. Chúng có màu trắng, xám, hồng, vàng và xanh. Ở cuối con đường, tôi thấy một công viên với cây cối và một bể nước phun. Bầu trời thì xanh, với vài đám mây trắng. Tôi thấy những chiếc máy bay. Năm chiếc oanh tạc cơ. Chúng đang bay thấp.

Thằng mù nói chậm rãi để thằng điếc có thể đọc được môi mình:

— Tôi nghe những chiếc máy bay. Chúng đang tạo ra một âm thanh khục khặc trầm trầm. Bộ máy của chúng làm việc nặng nhọc. Chúng được chất đầy những trái bom. Bây giờ, chúng đã bay đi. Tôi nghe tiếng chim kêu trở lại. Ngoài ra, tất cả đều im lặng.

Thằng điếc đọc môi thằng mù và trả lời:

— Đúng, đường phố trống trơn.

Thằng mù nói:

— Chẳng được mấy chốc. Tôi nghe những bước chân đến gần từ con hẻm bên trái.

Thằng điếc nói:

— Anh nói đúng. Đây rồi, một người đàn ông.

Thằng mù hỏi:

— Ông ấy trông thế nào?

Thằng điếc trả lời:

— Giống như tất cả những người khác. Nghèo, già.

Thằng mù nói:

— Tôi biết thế. Tôi nhận ra bước chân của người già. Tôi cũng nghe đó là hai bàn chân trần, vì vậy tôi biết ông ấy nghèo.

Thằng điếc nói:

— Ông ấy hói đầu. Ông ấy mặc một cái áo khoác cũ của quân đội. Ông ấy mặc một cái quần ngắn củn. Hai bàn chân ông ấy bẩn thỉu.

— Cặp mắt thì thế nào?

— Tôi không thấy cặp mắt. Ông ấy nhìn xuống đất.

— Còn cái miệng?

— Cặp môi móm xọm. Chắc ông ấy đã mất hết răng.

— Hai bàn tay?

— Trong túi áo khoác. Những cái túi áo to tướng và đầy những thứ gì đó. Những củ khoai, hay những quả hạnh, chúng làm túi áo nổi lên từng cục u. Ông ấy ngẩng đầu lên, ông ấy nhìn chúng ta. Nhưng tôi không nhận ra màu mắt ông ấy.

— Anh không thấy điều gì khác sao?

— Những nếp nhăn, sâu như những vết sẹo, trên mặt.

Thằng mù nói:

— Tôi nghe còi hụ báo hiệu đã hết đợt oanh tạc. Ta hãy về nhà.

Sau đó một thời gian, chúng tôi không còn cần tấm khăn choàng để bịt mắt hay cỏ để nhét tai. Đứa làm thằng mù chỉ cần xoay cái nhìn vào bên trong, đứa làm thằng điếc chỉ cần đóng hai lỗ tai trước mọi tiếng động.

[còn tiếp nhiều kỳ]



meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 17.09.2006 13:41:22
CHƯƠNG 16

Tập mù và điếc




Một đứa trong chúng tôi làm thằng mù, đứa kia làm thằng điếc. Để thực hiện, trước hết, thằng mù lấy một tấm khăn choàng đen của Bà Ngoại buộc lên hai con mắt, thằng điếc thì nhét cỏ vào hai lỗ tai. Tấm khăn choàng hôi hám như Bà Ngoại.

Chúng tôi nắm tay nhau, chúng tôi đi lang thang trong lúc có còi báo động máy bay sắp dội bom, người ta đang trốn dưới gầm nhà, và đường phố vắng ngắt.

Thằng điếc miêu tả những gì nó thấy:

— Con đường thì hẹp và dài. Hai bên đường là những ngôi nhà thấp, không có lầu. Chúng có màu trắng, xám, hồng, vàng và xanh. Ở cuối con đường, tôi thấy một công viên với cây cối và một bể nước phun. Bầu trời thì xanh, với vài đám mây trắng. Tôi thấy những chiếc máy bay. Năm chiếc oanh tạc cơ. Chúng đang bay thấp.

Thằng mù nói chậm rãi để thằng điếc có thể đọc được môi mình:

— Tôi nghe những chiếc máy bay. Chúng đang tạo ra một âm thanh khục khặc trầm trầm. Bộ máy của chúng làm việc nặng nhọc. Chúng được chất đầy những trái bom. Bây giờ, chúng đã bay đi. Tôi nghe tiếng chim kêu trở lại. Ngoài ra, tất cả đều im lặng.

Thằng điếc đọc môi thằng mù và trả lời:

— Đúng, đường phố trống trơn.

Thằng mù nói:

— Chẳng được mấy chốc. Tôi nghe những bước chân đến gần từ con hẻm bên trái.

Thằng điếc nói:

— Anh nói đúng. Đây rồi, một người đàn ông.

Thằng mù hỏi:

— Ông ấy trông thế nào?

Thằng điếc trả lời:

— Giống như tất cả những người khác. Nghèo, già.

Thằng mù nói:

— Tôi biết thế. Tôi nhận ra bước chân của người già. Tôi cũng nghe đó là hai bàn chân trần, vì vậy tôi biết ông ấy nghèo.

Thằng điếc nói:

— Ông ấy hói đầu. Ông ấy mặc một cái áo khoác cũ của quân đội. Ông ấy mặc một cái quần ngắn củn. Hai bàn chân ông ấy bẩn thỉu.

— Cặp mắt thì thế nào?

— Tôi không thấy cặp mắt. Ông ấy nhìn xuống đất.

— Còn cái miệng?

— Cặp môi móm xọm. Chắc ông ấy đã mất hết răng.

— Hai bàn tay?

— Trong túi áo khoác. Những cái túi áo to tướng và đầy những thứ gì đó. Những củ khoai, hay những quả hạnh, chúng làm túi áo nổi lên từng cục u. Ông ấy ngẩng đầu lên, ông ấy nhìn chúng ta. Nhưng tôi không nhận ra màu mắt ông ấy.

— Anh không thấy điều gì khác sao?

— Những nếp nhăn, sâu như những vết sẹo, trên mặt.

Thằng mù nói:

— Tôi nghe còi hụ báo hiệu đã hết đợt oanh tạc. Ta hãy về nhà.

Sau đó một thời gian, chúng tôi không còn cần tấm khăn choàng để bịt mắt hay cỏ để nhét tai. Đứa làm thằng mù chỉ cần xoay cái nhìn vào bên trong, đứa làm thằng điếc chỉ cần đóng hai lỗ tai trước mọi tiếng động.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 17.09.2006 13:42:35
CHƯƠNG 17

Kẻ đào ngũ



Chúng tôi phát hiện một người đàn ông trong rừng. Một người đàn ông còn sống, một người đàn ông trẻ, không mặc quân phục. Ông đang nằm dưới một bụi cây. Ông nhìn chúng tôi, bất động.

Chúng tôi hỏi ông:

— Tại sao ông nằm ở đây?

Ông đáp:

— Tôi không thể bước đi được nữa. Tôi đến đây từ bên kia biên giới. Tôi đã đi bộ suốt hai tuần. Đêm và ngày. Đặc biệt là đêm. Bây giờ tôi quá yếu. Tôi đói. Tôi không ăn đã ba ngày.

Chúng tôi hỏi:

— Tại sao ông không mặc quân phục? Tất cả thanh niên đều mặc quân phục. Tất cả họ đều là lính.

Ông nói:

— Tôi không muốn làm lính nữa.

— Ông không muốn chiến đấu với quân thù nữa hay sao?

— Tôi không muốn đánh nhau với bất cứ ai. Tôi không có kẻ thù. Tôi muốn về nhà.

— Nhà ông ở đâu?

— Vẫn còn xa lắm. Tôi sẽ không bao giờ về đến đó nếu tôi không tìm được cái gì để ăn.

Chúng tôi hỏi:

— Sao ông không đi mua một cái gì đó đẻ ăn? Ông không có tiền hả?

— Không, tôi không có tiền và tôi không thể để người ta thấy tôi. Tôi phải núp. Không ai được thấy tôi cả.

— Tại sao?

— Tôi rời bỏ đơn vị mà không có giấy phép. Tôi trốn đi. Tôi là một kẻ đào ngũ. Nếu người ta thấy tôi, tôi sẽ bị bắn hay treo cổ.

Chúng tôi hỏi:

— Như một kẻ sát nhân?

— Đúng, hoàn toàn như một tên giết người.

— Thế nhưng, ông lại không muốn giết ai cả. Ông chỉ muốn về nhà.

— Vâng, tôi chỉ muốn về nhà.

Chúng tôi hỏi:

— Ông muốn chúng tôi mang đến cái gì để ông ăn?

— Cái gì cũng được.

— Sữa dê, trứng luộc, bánh mì, trái cây?

— Vâng, vâng, bất cứ cái gì.

Chúng tôi hỏi:

— Và một tấm chăn? Ban đêm trời lạnh và thường có mưa.

— Vâng, nhưng các cậu đừng để cho ai thấy. Và các cậu không nói điều gì với bất cứ ai, có phải không? Ngay cả không nói với mẹ các cậu.

Chúng tôi đáp:

— Sẽ không có ai thấy chúng tôi, chúng tôi không nói điều gì với bất cứ ai và chúng tôi không có mẹ.

Lúc chúng tôi trở lại với thức ăn và tấm chăn, ông nói:

— Các cậu tử tế quá.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi không muốn làm ra tử tế. Chúng tôi mang cho ông những cái này bởi vì ông tuyệt đối cần chúng. Thế thôi.

Ông lại nói:

— Tôi không biết làm cách nào để tạ ơn các cậu. Tôi sẽ không bao giờ quên các cậu.

Nước mắt ông ràn rụa.

Chúng tôi nói:

— Ông biết đấy, khóc chẳng ích gì. Chúng tôi không bao giờ khóc, tuy chúng tôi chưa thành người lớn như ông.

Ông mỉm cười và nói:

— Các cậu nói đúng. Hãy thứ lỗi cho tôi, tôi sẽ không làm như vậy nữa. Chỉ vì quá kiệt sức đấy thôi.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 17.09.2006 13:44:06
CHƯƠNG 18

Tập nhịn đói



Chúng tôi thông báo cho Bà Ngoại:

— Hôm nay và ngày mai chúng con sẽ không ăn. Chúng con chỉ uống nước.

Bà nhún vai:

— Mặc kệ bọn mày. Nhưng bọn mày vẫn phải làm việc như thường lệ.

— Tất nhiên, Bà Ngoại.

Ngày đầu tiên, bà giết một con gà và nướng nó trong lò. Buổi trưa, bà gọi chúng tôi:

— Đến đây ăn!

Chúng tôi đi vào bếp, mùi gà nướng rất thơm. Chúng tôi hơi đói, nhưng không đói lắm. Chúng tôi xem Bà Ngoại chặt thịt gà.

Bà nói:

— Thơm phức. Bọn mày có ngửi thấy nó thơm đến chừng nào không? Bọn mày muốn mỗi đứa ăn một cái đùi không?

— Chúng con không muốn gì cả, Bà Ngoại.

— Thật tội nghiệp bởi vì nó quả là rất ngon.

Bà dùng tay cầm thịt gà để ăn, liếm những ngón tay, quẹt chúng vào cái tạp-dề. Bà gặm và mút xương.

Bà nói:

— Rất mềm, con gà tơ này. Tao không thể tưởng tượng cái gì ngon hơn nữa.

Chúng tôi nói:

— Bà Ngoại, từ lúc chúng con ở nhà bà đến nay, bà chưa bao giờ nấu một con gà cho chúng con ăn.

Bà nói:

— Thì hôm nay tao nấu một con gà đấy chứ. Vậy mà bọn mày lại không ăn.

— Bà biết chúng con không muốn ăn bất cứ thứ gì vào hôm nay và cả ngày mai mà.

— Đó chẳng phải là lỗi của tao. Đó lại là một trò bá láp khác của bọn mày.

— Đó là một trong những bài thực tập của chúng con. Để làm chúng con quen chịu đói.

— Thế thì tập cho quen đi. Chẳng có ai ngăn cản bọn mày cả.

Chúng tôi rời khỏi bếp và ra ngoài để làm việc trong vườn. Đến cuối ngày, chúng tôi rất đói. Chúng tôi uống thật nhiều nước. Ban đêm, chúng tôi trằn trọc khó ngủ. Chúng tôi nằm chiêm bao thấy thức ăn.

Hôm sau, vào giữa trưa, Bà Ngoại ăn hết phần thịt gà còn lại. Chúng tôi xem bà ăn mà thấy mắt mình như bị quáng. Chúng tôi không còn đói nữa. Chúng tôi thấy chóng mặt.

Buổi tối, Bà Ngoại làm những chiếc bánh kẹp với mứt và phô-mai trắng. Chúng tôi thấy buồn nôn và đau thắt trong bụng nhưng, khi nằm xuống, chúng tôi rơi vào một giấc ngủ sâu. Khi chúng tôi thức dậy, Bà Ngoại đã đi ra chợ. Chúng tôi muốn ăn điểm tâm, nhưng trong bếp không còn thứ gì để ăn. Không bánh mì, không sữa, không phô-mai. Bà Ngoại đã cất mọi thứ vào gầm nhà và khoá lại. Chúng tôi có thể mở khoá, nhưng chúng tôi quyết định không đụng vào bất cứ thứ gì. Chúng tôi ăn cà tây và dưa leo chấm muối.

Bà Ngoại đi chợ về, bà nói:

— Bọn mày chưa làm việc sáng nay.

— Đáng lẽ bà nên gọi chúng cháu dậy, Bà Ngoại.

— Đáng lẽ bọn mày nên tự thức dậy. Nhưng, lần này là ngoại lệ, tao vẫn cho bọn mày ăn.

Bà nấu cho chúng tôi món xúp rau đậu với những thứ bán chưa hết ở chợ, như thường lệ. Chúng tôi ăn chút ít. Sau bữa ăn, Bà Ngoại nói:

— Đó là một bài thực tập ngu xuẩn. Và không tốt cho sức khoẻ của bọn mày.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 17.09.2006 13:55:24
CHƯƠNG 19

Ngôi mộ của Ông Ngoại



Một hôm, chúng tôi thấy Bà Ngoại rời nhà với cái bình tưới cây và những dụng cụ làm vườn. Nhưng thay vì đi đến vườn nho, bà đi theo hướng khác. Chúng tôi đi theo bà, cách một quãng, để xem bà đang đi đâu.

Bà đi vào nghĩa địa. Bà dừng lại trước một ngôi mộ và đặt dụng cụ xuống. Nghĩa địa hoang vắng, không có ai ngoài Bà Ngoại và chúng tôi.

Núp sau những lùm cây và những tấm bia mộ, chúng tôi dần dần lẻn đến gần hơn. Bà Ngoại bị loà mắt và lảng tai. Chúng tôi có thể quan sát bà mà bà không biết.

Bà nhổ cỏ dại trên mộ, đào đất bằng một cái xẻng, cào đất, trồng những cây hoa, đi đến giếng để lấy nước, mang về tưới lên mộ.

Khi bà đã làm xong việc, bà gom dụng cụ lại, rồi quì gối xuống trước cây thập giá bằng gỗ, nhưng ngồi trên hai gót chân. Bà chắp hai bàn tay trước bụng như đọc một lời cầu nguyện, nhưng chúng tôi chỉ nghe hầu hết là những câu nguyền rủa:

— Cứt... chó đẻ... con heo... quân chết tiệt... đồ súc sinh...

Khi Bà Ngoại rời khỏi nơi đó, chúng tôi đến xem ngôi mộ: nó được chăm sóc rất đàng hoàng. Chúng tôi nhìn cây thập giá: cái tên được viết trên đó là tên của Bà Ngoại, cái họ cũng là họ của Bà Ngoại trước khi lấy chồng. Tên lót là tên đôi, có dấu ngăn nối, và hai cái tên lót ấy là tên lót của chính chúng tôi.

Trên cây thập giá, còn có ngày sinh và ngày chết. Chúng tôi tính ra thì Ông Ngoại chết lúc bảy mươi bốn tuổi, cách đây hai mươi ba năm.

Tối hôm đó, chúng tôi hỏi Bà Ngoại:

— Ông Ngoại của chúng con trông như thế nào?

Bà nói:

— Thế nào? Cái gì? Bọn mày không có Ông Ngoại."

— Nhưng trước kia chúng con có chứ.

— Không, chưa bao giờ. Ông ấy đã chết trước khi bọn mày được đẻ ra. Cho nên bọn mày chưa bao giờ có Ông Ngoại."

Chúng tôi hỏi:

— Tại sao bà đánh thuốc độc cho ông chết?

Bà hỏi:

— Bọn mày nói chuyện gì vậy?

— Người ta nói bà đã đánh thuốc độc Ông Ngoại.

— Người ta nói... người ta nói... Cứ để cho chúng muốn nói gì thì nói.

— Bà không đánh thuốc độc ông hả?

— Để cho tao yên, bọn chó đẻ! Không ai có bằng chứng gì cả. Người ta nói bất cứ thứ gì..

Chúng tôi tiếp tục:

— Chúng con biết bà không thích Ông Ngoại. Thế thì tại sao bà lại chăm sóc cho ngôi mộ của ông?"

— Chính vì lý do đó đấy! Vì những gì người ta nói. Tao làm vậy để bọn chúng khỏi nói đi nói lại nữa! Và làm sao bọn mày biết tao chăm sóc mộ ông ấy, hả? Bọn mày đã rình rập tao, đồ chó đẻ, bọn mày lại còn rình rập tao nữa! Quỷ bắt bọn mày đi cho rồi!


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 17.09.2006 13:59:00
CHƯƠNG 20

Tập sống tàn ác



Hôm đó Chủ Nhật. Chúng tôi bắt một con gà và cắt cổ nó như chúng tôi đã thấy Bà Ngoại làm. Chúng tôi đem con gà vào bếp và nói:

— Bà phải nấu nó, Bà Ngoại.

Bà bắt đầu gào lên:

— Ai cho phép bọn mày? Bọn mày không có quyền! Tao là người ra lệnh ở đây, nòi nhãi ranh cứt đái! Tao không nấu nó! Thà tao chết!

Chúng tôi nói:

— Được thôi. Chúng con tự nấu.

Chúng tôi bắt đầu vặt lông con gà, nhưng Bà Ngoại giằng nó ra khỏi tay chúng tôi:

— Bọn mày không biết làm! Đồ súc sinh bẩn thỉu, khổ nạn của đời tao, hình phạt của Chúa Trời, chính là bọn mày!

Lúc đang nấu con gà, Bà Ngoại khóc:

— Nó là con gà đẹp nhất của tôi. Bọn nó cố tình bắt con gà đẹp nhất. Con gà vừa kịp lớn để đem ra phiên chợ ngày thứ Ba tuần tới.

Lúc chúng tôi ăn con gà, chúng tôi nói:

— Thật ngon, con gà này. Chúng con sẽ ăn thịt gà vào mỗi Chủ Nhật.

— Mỗi Chủ Nhật? Bọn mày điên rồi hả? Bọn mày muốn tàn hại tao hả?

— Chúng con sẽ ăn một con gà vào mỗi Chủ Nhật, bất kể bà có thích hay không.

Bà Ngoại lại bắt đầu khóc:

— Nhưng tôi đã có làm gì xấu cho bọn nó đâu? Sao mà khốn nạn thế này! Bọn nó muốn tôi chết. Một bà già nghèo khổ vô phương tự vệ. Tôi đâu có làm gì đáng tội. Tôi đã quá tốt với bọn nó cơ mà!

— Đúng, Bà Ngoại, bà tốt, rất tốt. Bởi vì bà tốt nên bà sẽ nấu cho chúng con một con gà vào mỗi Chủ Nhật.

Đến khi bà hơi bình tĩnh ra một chút, chúng tôi lại nói với bà:

— Khi nào cần giết một cái gì đó, bà phải kêu chúng con. Chúng con sẽ giết nó.

Bà nói:

— Bọn mày thích giết chóc, hả?

— Không, Bà Ngoại, thật ra, chúng con không thích giết chóc. Bởi vì vậy, chúng con phải tập giết chóc cho quen.

Bà nói:

— Thì ra là vậy. Lại một bài tập mới. Bọn mày nói có lý. Cũng phải biết giết khi cần giết.

Chúng tôi bắt đầu giết cá. Chúng tôi chộp lấy đuôi cá và đập đầu chúng vào một hòn đá. Chẳng mấy chốc, chúng tôi quen giết những loại cầm thú dùng để ăn thịt như: gà, thỏ, vịt. Thế rồi, chúng tôi giết những giống vật không cần phải giết. Chúng tôi bắt ếch nhái, đóng đinh chúng xuống một tấm gỗ, và rạch toang bụng chúng ra. Chúng tôi cũng bắt bướm và ghim chúng vào một tấm cạc-tông. Chẳng bao lâu, chúng tôi có một bộ sưu tập đẹp.

Một hôm, chúng tôi treo cổ con mèo của chúng tôi, một con mèo đực đỏ hung, lên cành cây. Bị treo, nó dãn dài ra và phồng lên. Nó co giật, quằn quại. Khi nó không còn nhúc nhích nữa, chúng tôi cắt dây, thả xác nó xuống. Nó nằm dang bốn cẳng bẹp dí trên cỏ, bất động, rồi, thình lình, nó nhỏm dậy và phóng đi.

Kể từ đó, chúng tôi thỉnh thoảng thấy nó thấp thoáng đằng xa, nhưng nó không còn đến gần nhà nữa. Nó thậm chí không đến uống sữa trong cái dĩa nhỏ chúng tôi để trước cửa.

Bà Ngoại nói:

— Con mèo đó càng ngày càng man dại.

Chúng tôi nói:

— Đừng lo, Bà Ngoại, chúng con sẽ trị lũ chuột.

Chúng tôi làm những cái bẫy, và bắt được chuột, chúng tôi đem nhúng chúng vào nước sôi.

(Còn nữa)


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 24.09.2006 14:10:29
CHƯƠNG 21
Những đứa trẻ khác



Chúng tôi gặp những đứa trẻ khác ở Phố Nhỏ. Vì trường học đóng cửa, chúng la cà suốt ngày ngoài đường. Có những đứa lớn xác và những đứa nhỏ con. Một số đứa có nhà và mẹ ở đây, những đứa khác thì đến từ những nơi khác, như chúng tôi. Hầu hết là từ Phố Lớn.

Phần lớn những đứa trẻ này được gửi đến ở nhờ tại nhà của những người mà trước kia chúng chưa biết. Chúng phải làm việc trên những cánh đồng và trong những vườn nho; những người giám hộ của chúng không phải lúc nào cũng đối xử tử tế với chúng.

Những đứa lớn xác thường tấn công những đứa nhỏ nhất. Chúng lấy hết những gì bọn nhỏ có trong túi, và đôi lúc chúng lột luôn cả quần áo của bọn nhỏ. Chúng còn đánh bọn nhỏ nữa, đặc biệt những đứa đến từ nơi khác. Những đứa nhỏ ở đây thì được mẹ chúng che chở và không bao giờ ra khỏi nhà.

Chúng tôi chẳng được bất cứ ai che chở. Vì thế chúng tôi cũng học cách tự vệ trước những đứa lớn xác.

Chúng tôi làm vũ khí: chúng tôi mài nhọn những cục đá, chúng tôi nhồi cát và sỏi vào những chiếc tất. Chúng tôi còn có một lưỡi dao cạo, tìm thấy trong cái hộc trên gác xép, gần cuốn Thánh Kinh. Chúng tôi chỉ cần rút cái dao cạo ra là những thằng to xác liền bỏ chạy.

Một ngày nóng bức, chúng tôi ngồi bên bồn nước phun nơi những người không có giếng đến để lấy nước. Gần đó, vài thằng to xác hơn chúng tôi đang nằm trên bãi cỏ. Ở đây thì mát mẻ, dưới bóng cây, gần dòng nước chảy không ngừng.

Sứt Môi đến với một cái xô và nó đặt cái xô dưới một cái vòi đang rỉ ra một tia nước nhỏ. Nó đợi cho cái xô đầy nước.

Khi cái xô vừa đầy, một thằng trong bọn to xác đứng dậy và đến phun một bãi nước miếng vào trong cái xô. Sứt Môi đổ cả xô ấy đi, tráng nước và đặt nó trở lại dưới cái vòi.

Cái xô vừa đầy lại, thì một thằng khác nhỏm dậy và phun nước miếng vào đó. Sứt Môi lại đặt cái xô đã tráng nước vào dưới cái vòi. Nó không đợi cho đầy xô, nước chỉ mới vào có nửa xô thì nó đã vội vàng tìm cách chạy thoát.

Một thằng chạy theo nó, nắm lấy cánh tay nó và phun nước miếng vào cái xô.

Sứt Môi nói:

— Đừng làm thế chứ! Tôi phải mang nước sạch về nhà để uống.

Thằng đó nói:

— Nhưng nước này sạch mà. Tao chỉ phun nước miếng vào đó thôi. Mày muốn nói nước miếng tao dơ bẩn, hả? Nước miếng của tao còn sạch hơn tất cả các thứ trong nhà mày!

Sứt Môi đổ xô nước đi, nó khóc.

Thằng đó mở nút quần ra và nói:

— Bú đi! Nếu mày bú cặc tao, tao sẽ để cho mày hứng đầy xô nước.

Sứt Môi quỳ xuống. Thằng đó bước lùi lại:

— Mày nghĩ tao sẽ đút con cặc tao vào trong cái miệng ghê tởm của mày, hả? Con đĩ!

Nó đạp vào ngực Sứt Môi và cài nút quần lại.

Chúng tôi bước đến. Chúng tôi đỡ Sứt Môi đứng dậy, chúng tôi nhặt cái xô của nó, chúng tôi tráng nước cho sạch và chúng tôi đặt cái xô xuống dưới vòi nước của cái bể phun.

Một thằng trong bọn chúng nói với hai thằng kia:

— Đi đi, bọn mình đi chơi chỗ khác.

Một thằng khác nói:

— Mày khùng hả? Bây giờ mình mới bắt đầu có chuyện vui đây này.

Thằng thứ nhất nói:

— Dẹp đi! Tao biết bọn nó. Bọn nó nguy hiểm lắm.

— Nguy hiểm? Mấy cái thằng lồn đó hả? Để tao, tao săn sóc cho bọn nó. Rồi mày sẽ thấy.

Nó bước đến chúng tôi, muốn phun nước miếng vào cái xô, nhưng chúng tôi đứa thì hất cho nó trượt chân, đứa thì nện một cái bị cát lên đầu nó. Thằng to xác ngã xuống. Nó nằm trên mặt đất, sửng sốt. Hai thằng kia nhìn chúng tôi. Một thằng bước một bước đến phía chúng tôi. Thằng kia nói:

— Coi chừng! Mấy thằng lỏi chó đẻ này có thể làm bất cứ điều gì. Có một lần, bọn nó rạch sứt trán tao bằng một cục đá. Bọn nó còn có cả dao cạo và bọn nó không ngại dùng. Bọn nó sẽ cắt cổ mày không gớm tay. Bọn nó hoàn toàn điên rồi.

Đám to xác bỏ đi.

Chúng tôi đưa cái xô đầy nước cho Sứt Môi. Nó hỏi chúng tôi:

— Tại sao tụi mày không giúp tao ngay?

— Chúng tôi muốn xem chị tự vệ thế nào.

— Tao sẽ làm được gì để chống lại ba thằng to tướng đó?

— Ném cái xô vào đầu, cào mặt, đá vào hai hòn dái, la lên, gào lên. Hoặc chạy thoát rồi sau đó mới trở lại.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 24.09.2006 14:17:47
CHƯƠNG 22


Mùa đông



Trời càng ngày càng lạnh hơn. Chúng tôi lục xới trong hai cái va-li và mặc vào người gần như tất cả gì chúng tôi tìm thấy: vài cái áo cổ chui, vài cái quần dài. Nhưng chúng tôi không thể mang thêm đôi giày thứ nhì bên ngoài đôi giày đi phố đã cũ và thủng lỗ. Nói đúng ra, chúng tôi chẳng có đôi giày nào khác nữa. Chúng tôi không có găng tay, cũng không có mũ. Bàn tay và bàn chân của chúng tôi đầy những chỗ sưng lên nhức nhối vì lạnh.

Bầu trời xám xịt, những đường phố trống vắng, dòng sông đóng giá, khu rừng ngập tuyết. Chúng tôi không còn đến đó được nữa. Vì vậy chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ thiếu củi.

Chúng tôi nói với Bà Ngoại:

— Chúng con cần hai đôi ủng bằng cao-su.

Bà đáp:

— Và còn gì nữa? Chứ bọn mày muốn tao đào tiền ở đâu ra?

— Bà Ngoại, gần hết cả củi rồi.

— Thì phải tiết kiệm.

Chúng tôi không đi ra ngoài nữa. Chúng tôi làm đủ thứ bài tập, chúng tôi đẽo gỗ thành nhiều đồ vật, chẳng hạn những cái muỗng, những cái khay bánh mì, và chúng tôi học cho đến khuya. Suốt ngày Bà Ngoại nằm nghỉ trong giường. Bà rất ít khi vào bếp. Chúng tôi được yên ổn.

Chúng tôi ăn rất thiếu thốn, chẳng còn rau trái gì nữa, lũ gà mái cũng không còn đẻ trứng. Mỗi ngày Bà Ngoại mang ra một ít đậu khô và vài củ khoai từ dưới hầm nhà, nơi bà trữ đầy những tảng thịt xông khói và những lọ mứt.

Thỉnh thoảng có ông bưu tá đến. Ông reo chuông xe đạp cho đến khi Bà Ngoại bước ra khỏi nhà. Rồi ông liếm đầu bút chì, viết gì đó lên một mảnh giấy, đưa cây bút chì và mảnh giấy cho Bà Ngoại, và bà vẽ một dấu thập ở cuối mảnh giấy. Ông bưu tá đưa cho Bà Ngoại một món tiền, một gói đồ hay một lá thư, và ông vừa đạp xe về phố vừa huýt sáo.

Bà Ngoại mang gói đồ hay món tiền vào phòng và khoá cửa lại. Nếu có một lá thư, bà ném nó vào lửa.

Chúng tôi hỏi:

— Bà Ngoại, tại sao bà ném lá thư mà không đọc nó?

Bà đáp:

— Tao không biết đọc. Tao không bao giờ đến trường, tao chỉ biết làm lụng. Tao không hư hỏng như bọn mày.

— Chúng con có thể đọc cho bà nghe những lá thư bà nhận được.

— Không ai được đọc những lá thư tao nhận.

Chúng tôi hỏi:

— Chứ ai gửi tiền? Ai gửi những gói đồ? Ai gửi thư vậy?

Bà không trả lời.

Hôm sau, trong lúc bà ở dưới hầm nhà, chúng tôi lục lọi phòng bà. Dưới giường bà, chúng tôi tìm thấy một gói đồ đã mở ra. Có những cái áo cổ chui, những khăn choàng cổ, những cái mũ, những đôi găng tay. Chúng tôi không nói gì với Bà Ngoại, vì nếu chúng tôi nói thì bà sẽ biết rằng chúng tôi có một cái chìa khoá mở cửa phòng bà.

Sau bữa ăn tối, chúng tôi chờ dịp. Bà Ngoại uống rượu xong, bước loạng choạng, đến mở cửa phòng bằng cái chìa khoá treo lủng lẳng nơi thắt lưng. Chúng tôi bươn theo bà, đẩy bà từ phía sau. Bà ngã lên giường. Chúng tôi giả vờ sục sạo và tìm thấy gói đồ.

Chúng tôi nói:

— Như vầy là không được tử tế cho lắm, Bà Ngoại. Chúng con lạnh, chúng con thiếu quần áo ấm, chúng con không đi ra ngoài được nữa, nhưng bà lại muốn bán hết tất cả những thứ mà Mẹ chúng con đã đan và gửi cho chúng con.

Bà Ngoại không trả lời, bà khóc.

Chúng tôi lại nói:

— Chính Mẹ chúng con gửi tiền, Mẹ chúng con viết thư cho bà.

Bà Ngoại nói:

— Không phải nó viết thư cho tao. Nó biết rõ là tao không biết đọc. Từ trước tới nay nó chưa bao giờ viết thư cho tao. Nay có bọn mày ở đây, thì nó mới viết. Nhưng tao không cần những lá thư của nó! Tao không cần bất cứ thứ gì của nó!


huytran
  • Số bài : 1458
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 01.10.2004
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 27.09.2006 11:27:58
Chằc meocon không thấy câu Ct. Ly hỏi, tôi trả lời thay vậy nhé
Ct. Ly thân,

Truyện này là của Agota Kristof, Hoàng Ngọc Tuấn đang dịch. Có muốn đăng lên thư quán, các bạn có thể liên lạc, chắc Tuấn sẽ vui lòng đồng ý.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.09.2006 14:22:31 bởi huytran >

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 30.09.2006 19:40:35
CHƯƠNG 23

Ông bưu tá



Từ đó, chúng tôi đợi ông bưu tá trước cổng vườn. Đó là một ông già đội một cái mũ lưỡi trai. Ông có một chiếc xe đạp với hai cái túi da gắn vào yên sau.

Khi ông đến, chúng tôi không để ông kịp rung chuông: rất lẹ làng, chúng tôi tháo cái chuông xe đạp của ông.

Ông nói:

— Bà ngoại của bọn mày đâu?

Chúng tôi nói:

— Đừng lo về bà ấy. Hãy đưa cho chúng tôi những gì ông mang đến đây.

Ông nói:

— Không có gì cả.

Ông muốn quay đi, nhưng chúng tôi cho ông một cú huých. Ông ngã lên tuyết. Chiếc xe đạp của ông đè lên ông. Ông chửi thề.

Chúng tôi lục lọi hai cái túi da, chúng tôi tìm thấy một lá thư và một phiếu lãnh tiền. Chúng tôi lấy lá thư, chúng tôi nói:

— Đưa tiền đây!

Ông nói:

— Không. Nó mang địa chỉ của bà ngoại bọn mày.

Chúng tôi nói:

— Nhưng nó được gửi cho chúng tôi. Đó là Mẹ của chúng tôi gửi cho chúng tôi. Nếu ông không đưa cho chúng tôi, chúng tôi sẽ bắt ông nằm đó cho đến khi chết cóng.

Ông nói:

— Được rồi, được rồi. Đỡ tao đứng dậy, một cái chân của tao bị đè dập dưới xe đạp.

Chúng tôi nhấc chiếc xe đạp lên và chúng tôi đỡ ông đứng dậy. Ông rất gầy, rất nhẹ.

Ông lấy món tiền ra từ một trong những cái túi của ông và đưa cho chúng tôi.

Chúng tôi hỏi:

— Ông cần một chữ ký hay một dấu thập?

Ông nói:

— Dấu thập cũng được. Dấu thập nào cũng tốt như nhau.

Ông nói thêm:

— Bọn mày đứng lên đòi quyền lợi như vậy là đúng. Mọi người đều biết bà ngoại của bọn mày là thế nào. Không có ai bần tiện hơn bà ấy. Thì ra mẹ của bọn mày gửi tất cả những thứ đó? Chị ấy dễ thương lắm. Tao biết chị ấy từ hồi chị ấy còn là một bé gái. Chị ấy đi khỏi chỗ này là khôn đấy. Cô ấy sẽ chẳng bao giờ lấy chồng ở đây được cả. Với đủ chuyện xầm xì...

Chúng tôi hỏi:

— Xầm xì cái gì?

— Chẳng hạn chuyện bà ấy đã bỏ thuốc độc để giết chồng như thế nào. Tao muốn nói, bà ngoại bọn mày đã đánh thuốc độc ông ngoại bọn mày. Đó là một câu chuyện cũ rích. Đó là lý do tại sao họ gọi bà ấy là Mụ Phù Thuỷ.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi không muốn bất cứ ai nói xấu về Bà Ngoại.

Ông bưu tá xoay chiếc xe đạp:

— Thôi được, được rồi, nhưng bọn mày cũng nên biết chuyện này chuyện nọ.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi đã biết chuyện này chuyện nọ rồi. Từ rày trở đi, ông sẽ đưa thư từ cho chúng tôi. Nếu không thì chúng tôi sẽ giết ông. Hiểu chứ?

Ông bưu tá nói:

— Bọn mày dư sức làm chuyện đó, bọn mày có mầm mống của bọn giết người. Bọn mày sẽ nhận thư từ, ai nhận thì cũng vậy thôi, đối với tao. Tao cũng chẳng cần bận tâm tới con Mụ Phù Thuỷ.

Ông đẩy xe đạp ra đi. Ông kéo lê cái chân để chứng tỏ rằng chúng tôi đã làm ông đau chân.

Hôm sau, với áo quần ấm áp, chúng tôi đi xuống phố để mua hai đôi ủng cao-su bằng món tiền Mẹ đã gửi cho. Lá thư của Mẹ, chúng tôi thay phiên nhau mang trong áo.

[còn tiếp nhiều kỳ]



meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 27.10.2006 19:05:45
CHƯƠNG 24


Ông thợ đóng giày



Ông thợ đóng giày sống và làm việc trong căn hầm của một ngôi nhà gần trạm xe lửa. Căn hầm đó rất rộng. Ở một góc là cái giường của ông, ở góc kia là bếp. Nơi làm việc của ông hướng về phía cửa sổ dưới tầng hầm. Ông thợ đóng giày ngồi trên một chiếc ghế đẩu thấp, chung quanh ông đầy những đôi giày và đồ nghề. Ông nhìn chúng tôi qua khoảng trống phía trên cặp kính mắt, ông nhìn những chiếc giày da bóng đã quá nứt nẻ của chúng tôi.

Chúng tôi nói:

— Chào ông. Chúng tôi muốn mua hai đôi ủng cao su, không thấm nước, ấm chân. Ông có bán không? Chúng tôi có tiền.

Ông nói:

— Có, tao có bán. Nhưng loại da kép, ấm chân, thì rất mắc tiền.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi tuyệt đối cần chúng. Chân chúng tôi bị lạnh.

Chúng tôi đặt tất cả món tiền chúng tôi có lên chiếc bàn thấp.

Ông thợ đóng giày nói:

— Chừng ấy chỉ vừa đủ cho một đôi. Nhưng một đôi cũng đủ cho bọn mày. Bọn mày cùng một cỡ như nhau. Bọn mày có thể thay phiên nhau mà mang.

— Không thể được. Chúng tôi không bao giờ ra khỏi nhà một mình. Bất cứ đi đâu chúng tôi cũng đi với nhau.

— Thì hãy xin tiền của bố mẹ bọn mày.

— Chúng tôi không có bố mẹ. Chúng tôi sống với Bà Ngoại, người mà người ta gọi là Mụ Phù Thuỷ. Bà không cho chúng tôi tiền bạc gì cả.

Ông thợ đóng giày nói:

— Mụ Phù Thuỷ, bà ngoại của bọn mày đấy à? Tội nghiệp! Và bọn mày đi từ nhà đến tận chỗ này bằng những đôi giày rách nát ấy sao!

— Vâng, chúng tôi đã đi như thế. Chúng tôi không thể sống qua mùa đông thiếu những đôi ủng. Chúng tôi phải kiếm củi trong rừng; chúng tôi phải dọn tuyết. Chúng tôi tuyệt đối cần...

— Hai đôi ủng da ấm và không thấm nước.

Ông thợ đóng giày cười và đưa cho chúng tôi hai đôi ủng:

— Mang vào thử xem.

Chúng tôi mang vào thử; cả hai đôi đều thật vừa chân.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi sẽ giữ lấy cả hai đôi. Chúng tôi sẽ trả tiền đôi thứ nhì vào mùa xuân khi chúng tôi bán được cá và trứng. Hoặc nếu ông thích, chúng tôi sẽ mang củi đến cho ông.

Ông thợ đóng giày trả tiền lại cho chúng tôi:

— Hãy cầm lấy. Giữ lại cái này. Tao không cần tiền của bọn mày. Hãy đi mua mấy đôi vớ tốt. Tao cho bọn mày hai đôi ủng vì bọn mày tuyệt đối cần chúng.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi không thích nhận quà.

— Tại sao lại không?

— Tại vì chúng tôi không thích nói cảm ơn.

— Bọn mày không cần phải nói gì cả. Đi về đi. Không. Khoan đã! Hãy lấy thêm mấy đôi dép và xăng-đan cho mùa hè, với mấy đôi giày đi phố nữa. Bền lắm đấy. Hãy lấy bất cứ thứ gì bọn mày muốn.

— Nhưng tại sao ông cho chúng tôi tất cả những thứ này?

— Tao không cần chúng nữa. Tao sắp đi xa.

Chúng tôi hỏi:

— Ông đi đâu?

— Ai mà biết? Họ sẽ mang tao đi và sẽ giết tao.

Chúng tôi hỏi:

— Ai muốn giết ông, và tại sao?

Ông nói:

— Đừng hỏi nữa. Hãy đi về ngay đi.

Chúng tôi nhặt lấy những đôi giày, những đôi dép, những đôi xăng-đan. Chúng tôi mang hai đôi ủng vào chân. Chúng tôi dừng lại ở ngưỡng cửa, chúng tôi nói:

— Chúng tôi hy vọng họ không mang ông đi. Hoặc, nếu họ mang ông đi, họ sẽ không giết ông. Xin chào ông, và xin cảm ơn ông, cảm ơn ông rất nhiều.

Khi chúng tôi về đến nhà, Bà Ngoại hỏi:

— Bọn mày ăn trộm tất cả các thứ đó ở đâu vậy hả, lũ chết tiệt?

— Chúng con không ăn trộm thứ gì cả. Đó là một quà tặng. Không phải ai cũng keo kiết như bà, Bà Ngoại ạ.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 27.10.2006 19:08:58
CHƯƠNG 25


Ăn cắp



Với hai đôi ủng và áo quần ấm áp, chúng tôi lại có thể đi ra ngoài. Chúng tôi lướt trên mặt sông đóng băng, chúng tôi đi kiếm củi trong rừng.

Chúng tôi mang theo một cái rìu và một cái cưa. Chúng tôi không còn lượm được củi khô nằm rải rác trên mặt đất nữa; lớp tuyết đóng quá dày. Chúng tôi trèo lên những thân cây, chúng tôi cưa đứt những cành chết và chúng tôi dùng rìu chẻ nhỏ ra. Trong khi làm việc, chúng tôi không thấy lạnh. Thậm chí, chúng tôi còn toát mồ hôi ra. Vì thế chúng tôi có thể tháo găng tay ra và nhét chúng vào túi để chúng khỏi bị mòn rách quá nhanh.

Một hôm, trong lúc đang vác hai bó củi về nhà, chúng tôi ghé sang thăm Sứt Môi.

Tuyết trước túp lều chưa tan, và không có vết chân đi vào. Ống khói không có khói.

Chúng tôi gõ cửa, không ai trả lời. Chúng tôi bước vào. Thoạt tiên, chúng không thấy gì cả, vì thiếu ánh sáng, nhưng mắt chúng tôi chẳng mấy chốc quen với bóng tối.

Đó là một căn phòng chỗ làm chỗ nấu ăn và chỗ ngủ. Trong góc tối nhất, có một cái giưòng. Chúng tôi bước đến gần. Chúng tôi gọi. Có một người nào đó nhúc nhích dưới những tấm chăn và mớ quần áo cũ; cái đầu của Sứt Môi thò ra.

Chúng tôi hỏi:

— Mẹ của chị có ở đó không?

Nó nói:

— Có.

— Bà ấy chết rồi sao?

— Tao không biết.

Chúng tôi đặt củi xuống và thắp lên một ngọn lửa trong lò, vì trong phòng cũng lạnh buốt như ở ngoài trời. Rồi chúng tôi đi về nhà Bà Ngoại và chúng tôi lấy một ít khoai và đậu khô từ dưới hầm nhà. Chúng tôi vắt sữa một con dê và mang trở lại nhà người hàng xóm. Chúng tôi hâm nóng sữa, chúng tôi hơ chảy một ít tuyết trong cái chảo và chúng tôi luộc đậu trong đó. Chúng tôi nướng khoai trong lò.

Sứt Môi nhỏm dậy và lảo đảo bước đến một cái ghế cạnh lò sưởi.

Người hàng xóm của chúng tôi chưa chết. Chúng tôi rót một chút sữa dê vào miệng bà ấy. Chúng tôi nói với Sứt Môi:

— Khi các món này đã chín, hãy ăn và đút cho mẹ của chị một ít. Chúng tôi sẽ trở lại.

Với món tiền ông thợ đóng giày trả lại cho chúng tôi, chúng tôi đã mua vài đôi vớ, nhưng chúng tôi chưa xài hết. Chúng tôi đi vào một tiệm tạp hoá để mua một ít bột và lấy muối và đường mà không trả tiền. Chúng tôi cũng đến cửa hàng bán thịt; chúng tôi mua một tảng thịt sườn nhỏ và lấy một thỏi xúc-xích to mà không trả tiền. Chúng tôi trở về nhà của Sứt Môi. Nó và mẹ của nó đã ăn hết khoai và đậu. Bà mẹ đang nằm trong giường, Sứt Môi đang dọn rửa.

Chúng tôi nói với nó:

— Chúng tôi sẽ mang cho chị mỗi ngày một bó củi. Một ít đậu và khoai nữa. Nhưng, để có các thứ khác, thì phải có tiền. Chúng tôi đã hết tiền. Không có tiền, thì không thể vào một cửa hàng nào cả. Phải mua một thứ gì đó để có thể ăn cắp những thứ khác.

Nó nói:

— Bọn mày thật là khôn. Bọn mày nói đúng. Họ ngay cả cũng không cho tao bước vào các cửa tiệm. Tao chưa bao giờ nghĩ bọn mày có thể đi ăn cắp.

Chúng tôi nói:

— Sao không? Đó sẽ là bài tập gian xảo của chúng tôi. Nhưng chúng ta cần chút ít tiền. Tuyệt đối như vậy.

Nó ngẫm nghĩ và nói:

— Bọn mày hãy đi đòi ông cha xứ. Ông ấy thỉnh thoảng cho tao tiền khi tao cho ông ấy xem lỗ hẻ của tao.

— Ông ấy đòi chị làm chuyện ấy à?

— Ừ. Và thỉnh thoảng, ông ấy đút ngón tay ông ấy vào chỗ đó. Rồi ông ấy cho tao tiền để tao khỏi kể cho bất cứ ai khác. Bọn mày hãy nói với ông ấy là con Sứt Môi và mẹ của nó cần tiền.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 27.10.2006 19:11:15
CHƯƠNG 26


Tống tiền



Chúng tôi đến nhà ông cha xứ. Ông ở cạnh giáo đường, trong một ngôi nhà to lớn mà người ta gọi là nhà cha xứ.

Chúng tôi kéo dây chuông. Một bà già mở cửa:

— Các cậu muốn gì?

— Chúng tôi muốn gặp cha xứ.

— Tại sao?

— Vì có người sắp chết.

Bà già đưa chúng tôi vào tiền sảnh. Bà gõ lên một cánh cửa:

— Ông cha xứ ơi — bà kêu lên — có người cần lễ xức dầu cuối cùng.

Một giọng người đáp lại từ phía sau cánh cửa:

— Tôi ra đây. Bảo họ đợi.

Chúng tôi đợi vài phút. Một người đàn ông cao và gầy, với một bộ mặt nghiêm trọng, bước ra khỏi phòng. Bên ngoài bộ y phục sẫm màu, ông khoác một thứ áo choàng màu trắng đính kim tuyến. Ông hỏi chúng tôi:

— Ở đâu? Ai sai các con đến đây?

— Sứt Môi và mẹ của chị ấy.

Ông nói:

— Cha hỏi các con tên thật của họ là gì.

— Chúng con không biết tên thật của họ. Người mẹ thì mù và điếc. Bà ấy sống trong cái nhà ở cuối phố. Họ đang chết vì đói và lạnh.

Ông cha xứ nói:

— Mặc dù cha tuyệt đối không biết gì về những người này, cha vẫn sẵn sàng làm lễ xức dầu cuối cùng cho họ. Ta hãy cùng đi. Các con dẫn đường cho cha.

Chúng tôi nói:

— Họ chưa cần phép rửa tội. Họ cần một ít tiền. Chúng con đã mang củi cho họ, với vài củ khoai, một ít đậu khô, nhưng chúng con không thể làm gì hơn nữa. Sứt Môi đã bảo chúng con đến đây. Cha vẫn thỉnh thoảng cho chị ấy một ít tiền.

Ông cha xứ nói:

— Có lẽ thế. Cha bố thí tiền cho rất nhiều người nghèo. Cha không thể nhớ hết tất cả họ. Đây này!

Ông lục lọi trong hai cái túi quần phía dưới tấm áo choàng và đưa cho chúng tôi vài đồng xu. Chúng tôi cầm lấy và nói:

— Thế này thì còn ít. Quá ít. Ngay cả chưa đủ để mua một ổ bánh mì.

Ông nói:

— Rất tiếc. Có quá nhiều người nghèo. Và những con chiên ngoan đạo thì hầu như đã ngưng cống hiến. Mọi người đều gặp khó khăn vào lúc này. Các con hãy đi đi. Cầu Chúa ban phước lành cho các con!

Chúng tôi nói:

— Hôm nay chúng con tạm chấp thuận món tiền này, nhưng ngày mai chúng con sẽ phải trở lại.

— Sao? Muốn nói cái gì? Ngày mai? Cha sẽ không để cho các con bước vào đây. Hãy ra khỏi nơi đây lập tức.

— Ngày mai, chúng con sẽ rung chuông cho đến khi nào cha để cho chúng con bước vào. Chúng con sẽ gõ vào cửa sổ, chúng con sẽ đạp vào cửa lớn và sẽ kể cho mọi người nghe cha đã làm những gì với Sứt Môi.

— Cha chưa bao giờ làm cái gì với con Sứt Môi cả. Thậm chí cha không biết nó là ai. Nó đã kể cho các con những chuyện nó bịa đặt. Những câu chuyện của một đứa nhỏ bị bệnh tâm thần thì không đáng quan tâm. Sẽ chẳng có ai tin lời các con. Tất cả những điều con bé đó nói đều là láo!

Chúng tôi nói:

— Thật hay láo thì cũng chẳng thành vấn đề. Điểm chính là nó gây ra tai tiếng. Mà người ta lại yêu thích những chuyện tai tiếng.

Ông cha xứ ngồi phệch xuống ghế và lau mặt bằng một chiếc khăn mùi-soa.

— Hết sức quái đản. Chúng con có biết cái việc mà chúng con đang làm thì có nghĩa là gì không hả?

— Biết, thưa cha. Tống tiền.

— Ở tuổi của các con... Thật là ghê tởm.

— Vâng, thật ghê tởm rằng chúng con buộc lòng phải làm việc này. Nhưng Sứt Môi và mẹ của chị ấy tuyệt đối cần tiền.

Ông cha xứ đứng dậy, cởi áo choàng ra, và nói:

— Đây là một sự thử thách do Chúa ban xuống cho ta. Các con cần bao nhiêu tiền? Cha cũng chẳng giàu có gì.

— Mười lần nhiều hơn số tiền cha đã đưa cho chúng con. Mỗi tuần một lần. Chúng con không đòi hỏi nơi cha điều gì không thực hiện được.

Ông lấy tiền trong túi ra và đưa cho chúng tôi:

— Hãy đến đây vào mỗi thứ Bảy. Nhưng đừng bao giờ tưởng tượng rằng cha làm điều này vì cha chịu thua cái trò tống tiền của các con. Cha làm điều này vì lòng từ thiện.

Chúng tôi nói:

— Thật đúng như những gì chúng con mong đợi nơi cha, thưa cha xứ.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 29.10.2006 10:58:30
CHƯƠNG 27

Những lời buộc tội



Một buổi chiều, ông tuỳ phái bước vào nhà bếp. Đã lâu chúng tôi không gặp ông. Ông nói:

— Các anh đến giúp chuyển đồ đạc khỏi xe jeep?*

Chúng tôi mang ủng, chúng tôi đi theo ông đến chiếc xe jeep đậu trên con đường trước cổng vườn. Ông tuỳ phái đưa cho chúng tôi những cái thùng và những hộp các-tông để chúng tôi mang vào phòng của ông sĩ quan.

Chúng tôi hỏi:

— Đêm nay ông sĩ quan có đến đây không? Chúng tôi chưa thấy ông ấy.

Ông tuỳ phái nói:

— Sĩ quan không đến đây mùa đông này. Có lẽ không bao giờ đến. Ông ấy gặp chuyện buồn trong tình yêu. Có lẽ sẽ tìm được một cô gái khác sau này. Quên đi. Không phải cho các anh những chuyện như vậy. Các anh mang củi vào để sưởi căn phòng này.*

Chúng tôi mang củi vào, chúng tôi đốt lên một ngọn lửa trong cái lò sắt nhỏ. Ông tuỳ phái mở những cái thùng và những hộp các-tông và đặt lên bàn những chai rượu nho, rượu mùi, bia, và nhiều thứ để ăn: xúc-xích, những lon thịt và rau đậu, gạo, bánh bít-quy, sô-cô-la, đường, cà-phê.

Ông tuỳ phái khui một chai rượu, bắt đầu uống, và nói:

— Tôi, hâm thức ăn đóng hộp trong cái cà-mèn trên cái đồ đun bằng cồn. Đêm nay, ăn, uống, hát với các bạn. Mở tiệc mừng đánh thắng kẻ thù. Chúng tôi chẳng bao lâu nữa sẽ làm chủ cuộc chiến này bằng vũ khí mới mẻ thần kỳ.*

Chúng tôi hỏi:

— Thế thì chiến tranh gần kết thúc rồi hả?

Ông nói:

— Đúng. Rất nhanh. Tại sao các anh nhìn thức ăn trên bàn như thế? Nếu các anh đói, ăn sô-cô-la, bánh bít-quy, xúc-xích.*

Chúng tôi nói:

— Có nhiều người đang chết đói.

— Thì đã sao? Đừng nghĩ đến chuyện đó. Nhiều người chết vì đói hay vì những điều khác. Chúng tôi không suy nghĩ. Chúng tôi ăn, và không chết.*

Ông cười. Chúng tôi nói:

— Chúng tôi biết một người đàn bà mù và điếc sống với đứa con gái bên cạnh nhà này. Họ sẽ không sống qua mùa đông này.

— Không phải lỗi của tôi.*

— Phải, đó là lỗi của ông. Vì ông và vì đất nước ông. Các ông mang chiến tranh đến cho chúng tôi.

— Trước chiến tranh, họ làm gì để kiếm ăn, bà mù và đứa con gái ấy?*

— Trước chiến tranh, họ sống nhờ của bố thí. Người ta cho họ quần áo cũ, giày cũ. Người ta mang thức ăn đến cho họ. Bây giờ, không ai còn cho cái gì nữa. Người ta ai cũng nghèo khó hay họ lo sợ sẽ trở nên nghèo khó. Chiến tranh đã làm người ta bần tiện và ích kỷ.

Ông tuỳ phái la lên:

— Tôi, tôi mặc kệ tất cả những chuyện đó! Đủ rồi! Các anh im đi!*

— Đúng, ông bất cần, và ông ăn thực phẩm của chúng tôi.

— Không phải thực phẩm của các anh. Tôi lấy nó từ trong kho của trại lính.*

— Mọi thứ trên cái bàn này đều là của đất nước chúng tôi: những thức uống, đồ ăn đóng hộp, bánh bít-quy, đường. Chính đất nước chúng tôi nuôi quân đội của ông.

Ông tuỳ phái đỏ mặt lên. Ông ngồi lên giường, hai tay ôm đầu:

— Các anh tưởng tôi muốn chiến tranh và đến với đất nước bẩn thỉu của các anh? Tôi ở đất nước tôi còn tốt hơn nhiều, yên lặng, làm những cái ghế và những cái bàn. Uống rượu nho địa phương, chơi đùa với những cô gái xinh đẹp ở xứ chúng tôi. Ở đây, mọi người đều tàn nhẫn, cả các anh nữa, những đứa trẻ con. Các anh nói tất cả là lỗi của tôi. Tôi, có thể làm gì? Nếu tôi nói tôi không vào chiến tranh, không đến với đất nước các anh, tôi bị bắn. Các anh hãy lấy hết tất cả, lấy ngay đi, lấy hết mọi thứ trên bàn. Bữa tiệc chấm dứt, tôi buồn, các anh quá tàn nhẫn với tôi.*

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi không muốn lấy tất cả các thứ, chỉ vài hộp thức ăn và một chút sô-cô-la. Nhưng thỉnh thoảng, ít nhất vào mùa đông, ông cũng có thể mang cho chúng tôi chút ít sữa bột, bột mì, hay bất cứ thứ gì để ăn.

Ông nói:

— Tốt. Điều đó, tôi làm được. Các anh với tôi ngày mai đến nhà bà mù. Nhưng các anh nhẹ nhàng với tôi, sau đó. Được chứ?*

Chúng tôi nói:

— Được.

Ông tuỳ phái cười. Các bạn của ông đến. Chúng tôi rời phòng. Chúng tôi nghe họ hát suốt đêm.


Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 55 bài trong đề mục