TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 55 trên tổng số 55 bài trong đề mục
Tác giả Bài
meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 29.10.2006 11:01:00
CHƯƠNG 28


Cô đầy tớ của cha xứ



Một buổi sáng, vào cuối mùa đông, chúng tôi ngồi trong bếp với Bà Ngoại. Có tiếng gõ cửa; một phụ nữ trẻ bước vào. Cô nói:

— Xin chào. Tôi đến để mua một ít khoai cho...

Cô ngưng nói, cô nhìn chúng tôi:

— Bọn trẻ thật dễ thương!

Cô nhặt một chiếc ghế nhỏ, cô ngồi xuống:

— Đến đây, cậu này.

Chúng tôi không nhúc nhích.

— Hay cậu này.

Chúng tôi không nhúc nhích. Cô cười:

— Cứ đến đây, lại gần đây. Tôi làm các cậu sợ hả?

Chúng tôi nói:

— Chẳng ai làm chúng tôi sợ cả.

Chúng tôi đến gần cô; cô nói:

— Trời ơi! Các cậu đẹp quá! Nhưng các cậu bẩn thỉu quá!

Bà Ngoại hỏi:

— Cô muốn gì?

— Một ít khoai cho cha xứ. Sao các người bẩn thỉu quá vậy? Các người không bao giờ tắm rửa à?

Bà Ngoại nói, cáu kỉnh:

— Việc đó không can dự gì đến cô. Tại sao bà già không đến?

Người phụ nữ trẻ lại cười:

— Bà già hả? Bà ấy còn trẻ hơn bà. Nhưng, bà ấy chết hôm qua. Đó là dì của tôi. Tôi làm thay cho bà ấy ở nhà cha xứ.

Bà Ngoại nói:

— Bà ấy hơn tôi năm tuổi. Vậy đó, bà ấy chết rồi... Cô cần bao nhiêu khoai?

— Mười ký, hay nhiều hơn, nếu bà có. Và táo nữa. Và thêm... Bà còn có những thứ gì? Cha xứ gầy như cái cào cỏ, và không có thứ gì trong chạn của ông ấy.

Bà Ngoại nói:

— Đáng lẽ đã nên nghĩ về điều ấy từ mùa thu.

— Mùa thu ấy à, tôi chưa có mặt ở nhà ông ấy. Tôi chỉ mới đến đó tối hôm qua.

Bà Ngoại nói:

— Tôi báo trước cho cô, vào mùa này trong năm, mọi thứ đồ ăn đều mắc tiền.

Người phụ nữ trẻ lại cười:

— Cứ nói giá đi. Chẳng có cách nào khác. Chẳng còn gì bán ở các cửa tiệm cả.

— Chẳng mấy chốc sẽ không còn bất cứ thứ gì ở đâu cả.

Bà Ngoại cười khẩy và bước ra ngoài. Chỉ còn chúng tôi với cô đầy tớ của cha xứ. Cô hỏi chúng tôi:

— Tại sao các cậu không bao giờ tắm rửa?

— Không có buồng tắm, không có xà-phòng. Không có cách nào tắm rửa được cả.

— Và quần áo của các cậu! Thật là kinh hãi! Các cậu không còn bộ quần áo nào nữa à?

— Chúng tôi có vài bộ trong va-li, dưới băng ghế. Nhưng những thứ ấy đều dơ dáy và rách nát. Bà Ngoại không bao giờ giặt những thứ ấy.

— Bởi vì Mụ Phù Thuỷ là bà ngoại của các cậu chứ sao nữa? Quả là có những phép lạ!

Bà Ngoại trở lại với hai cái bao:

— Cái này giá mười đồng bằng bạc hay một đồng bằng vàng. Tôi không nhận tiền bằng giấy. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ mất giá, chỉ còn là giấy.

Cô đầy tớ hỏi:

— Có thứ gì trong hai cái bao đó vậy?

Bà Ngoại trả lời:

— Đồ ăn. Không lấy thì để lại.

— Tôi lấy. Ngày mai tôi sẽ mang tiền đến. Bọn trẻ có thể giúp tôi mang cái bao chứ?

— Bọn chúng có thể giúp nếu bọn chúng muốn. Không phải lúc nào bọn chúng cũng muốn. Bọn chúng không vâng lời ai cả.

Cô đầy tớ hỏi chúng tôi:

— Các cậu muốn giúp tôi chứ? Mỗi cậu mang một cái bao, còn tôi xách hai cái va-li của các cậu.

Bà Ngoại hỏi:

— Chứ chuyện gì mà lại dính líu đến hai cái va-li?

— Tôi đem đi giặt quần áo dơ của bọn trẻ. Ngày mai tôi sẽ mang trở lại cùng với số tiền.

Bà Ngoại cười khẩy:

— Giặt quần áo cho bọn chúng? Nhưng nếu thích thì cứ làm...

Chúng tôi ra đi cùng với cô đầy tớ. Chúng tôi bước theo cô đến nhà cha xứ. Chúng tôi thấy hai bím tóc vàng của cô nhún nhẩy trên tấm áo choàng đen, hai bím tóc dày và dài đến eo của cô. Hông cô đong đưa dưới tấm váy đỏ. Chúng tôi chỉ thấy thấp thoáng một chút ống chân của cô giữa gấu váy và đôi ủng. Cô mang đôi vớ dài màu đen, và chiếc bên phải bị sướt một đường chỉ.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 29.10.2006 11:03:16
CHƯƠNG 29


Cuộc tắm



Chúng tôi đến nhà cha xứ với cô đầy tớ. Cô đưa chúng tôi vào nhà bằng cửa sau. Chúng tôi đặt hai cái bao vào kho chứa thức ăn và chúng tôi bước vào phòng giặt. Trong đó có những dây phơi đồ giăng ngang dọc. Có đủ thứ thau chậu, cả một bồn tắm bằng kẽm với hình dạng kỳ quái, như một cái ghế bành lõm sâu xuống.

Cô đầy tớ mở hai cái va-li của chúng tôi, lấy quần áo của chúng tôi ngâm vào nước lạnh, rồi nhen lửa để đun nước trong hai cái vạt lớn. Cô nói:

— Tôi sẽ giặt tất cả những gì các cậu cần ngay bây giờ. Trong khi các cậu tắm, những thứ ấy sẽ khô đi. Tôi sẽ mang những quần áo còn lại cho các cậu vào ngày mai hay ngày mốt. Cũng cần phải khâu vá chỗ này chỗ kia nữa.

Cô đổ nước nóng vào bồn tắm, cô đổ thêm nước lạnh vào:

— Rồi đấy, cậu nào trước?

Chúng tôi không nhúc nhích. Cô nói:

— Cậu này, hay cậu kia? Cởi quần áo ra ngay đi!

Chúng tôi hỏi:

— Cô muốn ở lại đây trong khi chúng tôi tắm?

Cô cười thật lớn:

— Chứ sao, tôi sẽ ở lại đây! Tôi sẽ chà lưng và gội đầu cho các cậu nữa. Các cậu sẽ không mắc cở trước mặt tôi đấy chứ? Tôi cũng sắp đến tuổi làm mẹ các cậu được rồi.

Chúng tôi vẫn không nhúc nhích. Thế rồi, cô bắt đầu cởi váy ra:

— Thôi được. Thế thì tôi tắm trước vậy. Các cậu thấy đấy, tôi đâu có mắc cở trước mặt các cậu. Các cậu chỉ là những thằng bé con.

Cô hát âm ư trong miệng, nhưng mặt cô đỏ rần lên khi cô biết chúng tôi đang chòng chọc nhìn cô. Cô có cặp vú chắc nịch và nghếch lên như hai quả bong bóng bơm căng. Da cô rất trắng và cô có nhiều lông vàng óng ở mọi chỗ. Không chỉ ở giữa hai chân và dưới hai nách cô, mà còn ở trên bụng và hai bên đùi cô. Cô tiếp tục hát trong lúc vừa ngâm mình trong nước vừa kỳ cọ bằng một khăn tắm. Khi cô bước ra khỏi bồn tắm, cô nhanh nhẹn khoác lên mình một cái áo choàng. Cô thay nước trong bồn và bắt đầu rửa ráy trong lúc xoay lưng về phía chúng tôi. Thế rồi, chúng tôi cởi quần áo ra và cùng bước vào bồn tắm. Có chỗ đủ rộng cho cả hai chúng tôi.

Một lát sau, cô đầy tớ đưa cho chúng tôi hai cái khăn trắng to:

— Tôi hy vọng hai cậu đã tự kỳ cọ sạch sẽ khắp nơi.

Chúng tôi ngồi lên một băng ghế, quấn mình trong khăn, đợi cho quần áo được hong khô. Nhà giặt thì đầy hơi nước và rất ấm áp. Cô đầy tớ đến với chiếc kéo:

— Bây giờ tôi sẽ cắt móng tay cho hai cậu. Và đừng có làm bộ khó khăn; tôi không ăn các cậu đâu.

Cô cắt móng tay và móng chân cho chúng tôi. Cô cũng hớt tóc cho chúng tôi. Cô hôn lên mặt và cổ chúng tôi; và cô nói luôn miệng:

— Ôi! Những bàn chân nhỏ bé xinh đẹp làm sao, dễ thương quá chừng, sạch sẽ quá chừng! Ôi! Những cái tai đáng yêu quá, cái cổ mềm mại làm sao, êm ái biết bao! Ôi! Ước gì tôi có hai đứa con trai nhỏ nhắn, xinh xắn, đẹp đẽ, chỉ của riêng mình! Tôi sẽ làm cho chúng nhột sướng khắp nơi, khắp nơi, khắp nơi.

Cô xoa nắn và hôn khắp thân thể chúng tôi. Cô lướt đầu lưỡi của cô trên da cổ chúng tôi, dưới hai nách chúng tôi, giữa hai mông đít chúng tôi. Cô quỳ xuống trước băng ghế và bú hai con cu đang phồng to và cứng lên trong miệng cô.

Rồi cô ngồi vào giữa hai chúng tôi; cô ôm siết chúng tôi vào thân thể cô:

— Nếu tôi có hai đứa bé nhỏ nhắn xinh đẹp như hai cậu, tôi sẽ cho chúng uống thứ sữa ngon ngọt, ở chỗ này, đấy, đấy, như thế đấy.

Cô níu đầu chúng tôi vào hai cái vú cô đang nhô ra khỏi áo choàng, và chúng tôi bú hai đầu vú hồng đã trở nên rất cứng. Cô đầy tớ thò hai bàn tay xuống dưới tấm áo choàng của cô và tự xoa bóp giữa hai chân:

— Thật là tội nghiệp các cậu không lớn tuổi hơn! Ôi! Sướng quá, chơi với các cậu sướng quá!

Cô thở dài, cô thở hổn hển, rồi thình lình, cô trân cứng người lên.

Lúc chúng tôi ra về, cô nói với chúng tôi:

— Các cậu sẽ đến đây vào mỗi thứ Bảy để tắm. Các cậu sẽ mang theo quần áo dơ. Tôi muốn các cậu luôn luôn sạch sẽ.

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi sẽ mang củi đến để trả công cho cô. Và mang cá với nấm khi nào chúng tôi có.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 29.10.2006 11:05:21
CHƯƠNG 30

Cha xứ



Thứ Bảy tiếp theo, chúng tôi trở lại để tắm. Sau đó, cô đầy tớ nói với chúng tôi:

— Hãy vào bếp. Tôi sẽ pha trà và chúng ta sẽ ăn bánh mì bơ.

Chúng tôi đang ăn bánh mì bơ thì cha xứ bước vào nhà bếp.

Chúng tôi nói:

— Chào cha.

Cô đầy tớ nói:

— Thưa cha, hai cậu này là em nuôi của con. Chúng là cháu nội của bà già mà người ta gọi là Mụ Phù Thuỷ.

Cha xứ nói:

— Cha biết chúng. Hai con hãy đi theo cha.

Chúng tôi đi theo ông. Chúng tôi đi xuyên qua một gian nhà không chứa thứ gì ngoài một cái bàn tròn lớn có xếp ghế chung quanh, và một cái thánh giá trên tường. Rồi chúng tôi vào trong một căn phòng tối tăm có những cuốn sách xếp đầy kín bốn bức tường từ sàn nhà lên đến trần. Đối diện với cửa lớn, một bệ quỳ và một cây thánh giá; gần cửa sổ, một bàn viết; một chiếc giường nhỏ ở góc phòng, ba chiếc ghế xếp dọc theo tường: đó là tất cả những vật dụng trong phòng.

Cha xứ nói:

— Các con đã thay đổi nhiều. Các con sạch sẽ. Các con trông như hai thiên thần. Hãy ngồi xuống.

Ông đẩy hai chiếc ghế đến đối diện với bàn làm việc của ông; chúng tôi ngồi xuống. Ông ngồi đàng sau bàn viết. Ông đưa cho chúng tôi một cái phong bì:

— Đây là tiền.

Trong lúc nhận cái phong bì, chúng tôi nói:

— Chẳng bao lâu nữa cha có thể ngưng cho tiền. Vào mùa hè, chị Sứt Môi tự kiếm ăn được.

Cha xứ nói:

— Không. Cha vẫn tiếp tục giúp cho hai người đàn bà ấy. Cha xấu hổ vì đã không giúp họ sớm hơn. Và bây giờ, chúng ta nói chuyện khác chứ?

Ông nhìn chúng tôi; chúng tôi giữ im lặng. Ông nói:

— Cha chưa bao giờ thấy các con trong nhà thờ.

— Chúng con không đến đó.

— Thỉnh thoảng các con có cầu nguyện chứ?

— Không, chúng con không cầu nguyện.

— Những con chiên đáng thương. Cha sẽ cầu nguyện cho các con. Ít ra các con cũng biết đọc chứ?

— Vâng, thưa cha. Chúng con có đọc sách.

Cha xứ đưa chúng tôi một cuốn sách:

— Hãy cầm lấy, đọc cái này. Các con sẽ tìm thấy trong đó những câu chuyện đẹp đẽ về Giê-su Ki-tô và cuộc đời của các vị thánh.

— Những câu chuyện ấy, chúng con đã biết. Chúng con có một cuốn Thánh Kinh. Chúng con đã đọc Cựu Ước và Tân Ước.

Cha xứ nhướng đôi lông mày rậm:

— Cái gì? Các con đã đọc cả cuốn Thánh Kinh?

— Dạ, thưa cha. Chúng con thậm chí thuộc lòng dăm ba đoạn.

— Những đoạn nào, ví dụ?

— Những đoạn trong Sáng Thế Ký, Xuất Ai-cập Ký, Giảng Viên, Khải Huyền, và những thiên khác.

Cha xứ im lặng một lát, rồi ông nói:

— Thế thì các con biết Mười Điều Răn. Các con có tuân theo những điều ấy không?

— Không, thưa cha, các con không tuân theo những điều ấy. Không có ai tuân theo chúng cả. Sách viết: "Ngươi chớ giết người" mà ai cũng giết người.

Cha xứ nói:

— Than ôi..., đó là chiến tranh.

Chúng tôi nói:

— Chúng con muốn đọc những cuốn sách khác ngoài Thánh Kinh, nhưng chúng con không có. Cha, cha có rất nhiều. Cha có thể cho chúng con mượn.

— Những cuốn sách đó quá khó cho các con.

— Chúng còn khó hơn cả Thánh Kinh sao?

Cha xứ nhìn chúng tôi. Ông hỏi:

— Các con thích đọc loại sách nào?

— Những sách về lịch sử và địa lý. Những sách kể những điều có thật, chứ không phải những điều bịa đặt.

Cha xứ nói:

— Từ bây giờ đến thứ Bảy tuần tới, cha sẽ kiếm những cuốn sách thích hợp cho các con. Bây giờ thì các con hãy để cho cha làm việc. Các con hãy trở về nhà bếp để ăn nốt những miếng bánh mì bơ.


meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 05.11.2006 08:46:44
CHƯƠNG 31


Cô đầy tớ và ông tuỳ phái




Chúng tôi cùng cô đầy tớ của cha xứ hái những quả anh đào trong vườn. Ông tuỳ phái và ông sĩ quan ngoại quốc đến nhà bằng xe jeep. Ông sĩ quan đi thẳng, ngang qua chỗ chúng tôi và bước vào phòng riêng của ông. Ông tuỳ phái dừng lại gần chỗ chúng tôi. Ông nói:

— Chào các bạn nhỏ, chào cô gái xinh đẹp. Những quả anh đào chín rồi hả? Tôi yêu những quả anh đào lắm, tôi yêu cô gái trẻ đẹp lắm.*

Ông sĩ quan gọi từ cửa sổ. Ông tuỳ phái phải đi vào nhà. Cô đầy tớ nói với chúng tôi:

— Tại sao các cậu không cho tôi biết có đàn ông trong nhà các cậu?

— Họ là những người nước ngoài.

— Thì sao? Thật là đẹp trai, ông sĩ quan ấy!

Chúng tôi hỏi:

— Ông tuỳ phái thì cô không thích sao?

— Ông ấy lùn và mập.

— Nhưng ông ấy dễ thương và vui tính. Và ông ấy nói giỏi tiếng nước ta.

Cô nói:

— Mặc kệ. Tôi chỉ thích ông sĩ quan.

Ông sĩ quan đến ngồi trên cái ghế trước cửa sổ phòng ông. Cái rổ của cô đầy tớ đã đầy những quả anh đào, cô đã có thể đi về nhà cha xứ, nhưng cô nán lại. Cô nhìn ông sĩ quan, cô cười thật lớn. Cô đu lên cành cây, cô đong đưa, cô nhảy, cô nằm trong cỏ và, cuối cùng, cô ném một bông cúc dại trúng vào bàn chân ông sĩ quan. Ông sĩ quan đứng dậy, bước vào phòng. Ngay sau đó, ông trở ra và lái xe jeep đi.

Ông tuỳ phái chồm người ra khỏi cửa sổ và kêu lên:

— Có ai đến giúp đàn ông tội nghiệp quét dọn phòng rất dơ không?*

Chúng tôi nói:

— Chúng tôi sẵn lòng giúp ông.

Ông nói:

— Cần một phụ nữ giúp. Cần cô gái xinh đẹp.*

Chúng tôi nói với cô đầy tớ:

— Đi. Ta hãy giúp ông ấy một chút.

Cả ba chúng tôi vào phòng của ông sĩ quan. Cô đầy tớ lượm cái chổi và bắt đầu quét. Ông tuỳ phái ngồi trên giường. Ông nói:

— Tôi nằm mơ. Một nàng công chúa, tôi thấy trong mơ. Công chúa phải véo tôi để đánh thức.*

Cô đầy tớ cười, cô véo rất mạnh vào cái má của ông tuỳ phái.

Ông tuỳ phái kêu lên:

— Tôi thức dậy rồi. Tôi cũng muốn véo công chúa độc ác.*

Ông ôm cô đầy tớ và véo vào cặp mông của cô. Cô đầy tớ giãy giụa nhưng ông tuỳ phái ôm cô thật chặt. Ông bảo chúng tôi:

— Các cậu, ra ngoài đi! Và đóng cửa lại.*

Chúng tôi hỏi cô đầy tớ:

— Cô có muốn chúng tôi ở lại đây không?

Cô cười:

— Để làm gì? Tôi tự bảo vệ cho mình được mà.

Vì thế chúng tôi ra khỏi phòng, chúng tôi đóng cửa lại sau lưng. Cô đầy tớ bước đến cửa sổ, cô mỉm cười với chúng tôi, cô kéo rèm và đóng cửa sổ. Chúng tôi trèo lên gác xép và, xuyên qua những cái lỗ, chúng tôi xem những gì đang xảy ra trong phòng của ông sĩ quan.

Ông tuỳ phái và cô đầy tớ nằm trên giường. Cô đầy tớ hoàn toàn trần truồng; ông tuỳ phái chỉ còn cái áo sơ-mi và đôi tất. Ông nằm lên trên cô đầy tớ và cả hai người cùng đún đẩy tới lui qua lại. Ông tuỳ phái rên èng ẹc như con heo của Bà Ngoại và cô đầy tớ ré lên, như đang đau đớn, nhưng cùng lúc ấy cô lại cười và kêu lên:

— Nữa, nữa, nữa, ôi, ôi ôi!

Từ hôm ấy, cô đầy tớ thường trở lại và đóng cửa tự nhốt cô với ông tùy phái. Thỉnh thoảng chúng tôi có xem họ, chứ không phải lúc nào cũng xem.

Ông tuỳ phái thích cô đầy tớ khom người về phía trước hay bò bốn chân, và ông hích cô từ đàng sau.

Cô đầy tớ thích ông tùy phái nằm ngửa. Rồi cô ngồi lên bụng ông và cô nhún lên nhún xuống như cưỡi ngựa.

Ông tuỳ phái thỉnh thoảng tặng cho cô đầy tớ những đôi vớ dài hay nước hoa Cologne.

[còn tiếp nhiều kỳ]


* Trong nguyên tác, ông tuỳ phái nói tiếng Pháp rất vụng, theo kiểu ghép từng chữ một, và hoàn toàn sai văn phạm.



meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 05.11.2006 08:49:05
CHƯƠNG 32


Ông sĩ quan ngoại quốc



Chúng tôi tập giữ cho thân thể bất động trong vườn cây. Trời nóng. Chúng tôi nằm ngửa dưới bóng mát của cây hạnh nhân. Xuyên qua những chiếc lá, chúng tôi thấy bầu trời, những đám mây. Lá cây không chuyển động; những đám mây dường như cũng đứng im, nhưng nếu chúng tôi nhìn chúng một hồi lâu, thật chăm chú, chúng tôi thấy chúng thay đổi hình dáng và kéo dài ra.

Bà Ngoại ra khỏi nhà. Khi bước ngang qua nơi chúng tôi nằm, bà đá một phát cho cát sỏi văng lên mặt và mình mẩy chúng tôi. Bà nói lẩm bẩm điều gì đó và đi vào vườn nho để ngủ trưa.

Ông sĩ quan cởi trần đến thắt lưng, nhắm mắt, ngồi trên băng ghế trước phòng của ông, đầu tựa vào bức tường vôi trắng, dưới nắng chang chang. Thình lình, ông bước đến chỗ chúng tôi; ông nói với chúng tôi, nhưng chúng tôi không trả lời, chúng tôi không nhìn ông. Ông quay trở lại băng ghế.

Một lát sau, ông tuỳ phái đến nói với chúng tôi:

— Ông sĩ quan muốn các anh đến nói chuyện với ông ấy.*

Chúng tôi không trả lời. Ông lại nói:

— Các anh ngồi dậy và đi đến đó. Sĩ quan tức giận nếu các anh không tuân lời.*

Chúng tôi không nhúc nhích.

Ông sĩ quan nói điều gì đó và ông tuỳ phái bước vào phòng. Chúng tôi nghe ông tuỳ phái vừa hát vừa quét dọn.

Khi mặt trời xuống đến mái nhà cạnh ống khói lò sưởi, chúng tôi đứng dậy. Chúng tôi bước đến chỗ ông sĩ quan, chúng tôi dừng lại trước mặt ông. Ông gọi ông tuỳ phái. Chúng tôi hỏi:

— Ông sĩ quan muốn gì?

Ông sĩ quan hỏi vài câu; ông tuỳ phái thông dịch:

— Ông sĩ quan hỏi tại sao các anh không cử động, không nói?*

Chúng tôi trả lời:

— Chúng tôi tập giữ cho thân thể bất động.

Ông tuỳ phái lại thông dịch:

— Ông sĩ quan nói các anh tập luyện rất nhiều. Lại có nhiều kiểu thực tập khác nhau nữa. Ông ấy đã thấy các anh đánh nhau bằng dây nịt.*

— Đó là bài thực tập cho thân thể cứng cáp.

— Ông sĩ quan hỏi tại sao các anh làm điều đó? *

— Để quen với sự đau đớn.

— Ông ấy hỏi các anh có sướng khi chịu đau không? *

— Không. Chúng tôi chỉ muốn chế ngự cái đau, cái nóng, cái lạnh, cái đói, bất cứ thứ gì gây đau đớn.

— Ông sĩ quan thán phục các anh. Ông ấy thấy các anh khác thường. *

Ông sĩ quan nói thêm vài lời. Ông tuỳ phái bảo chúng tôi:

— Tốt, xong việc. Tôi phải đi bây giờ. Các anh cũng vậy, đi lẹ đi, đi câu cá đi. *

Nhưng ông sĩ quan nắm lấy cánh tay chúng tôi, mỉm cười và ra hiệu cho ông tuỳ phái đi chỗ khác. Ông tuỳ phái đi vài bước, ngoái lại:

— Các anh, đi đi! Nhanh lên! Xuống phố đi dạo đi.

Ông sĩ quan nhìn ông tuỳ phái, và ông tuỳ phái bước về phía cổng vườn; đến đó ông còn kêu chúng tôi:

— Lẹ đi, các anh! Đừng ở lại! Không hiểu hả, hai thằng đần!

Ông tùy phái đi khuất. Ông sĩ quan mỉm cười với chúng tôi, đem chúng tôi vào phòng của ông. Ông ngồi lên một chiếc ghế, ông níu chúng tôi lại, nhấc chúng tôi lên, đặt chúng tôi ngồi lên hai đầu gối ông. Chúng tôi khoác hai cánh tay quanh cổ ông, chúng tôi nép vào lồng ngực rậm lông của ông. Ông đong đưa chúng tôi trên hai đầu gối.

Dưới đít chúng tôi, giữa hai chân ông sĩ quan, chúng tôi cảm thấy có cái gì nong nóng nhấp nhô. Chúng tôi nhìn nhau, rồi chúng tôi nhìn vào mắt ông sĩ quan. Ông dịu dàng đẩy chúng tôi ra, ông vò tóc chúng tôi, ông đứng lên. Ông đưa cho chúng tôi hai cái roi và ông nằm sấp xuống. Ông chỉ nói một chữ và, mặc dù không biết ngôn ngữ của ông, chúng tôi hiểu.

Chúng tôi quất. Đứa này quất một roi, rồi đứa kia quất một roi.

Cái lưng của ông sĩ quan nổi lên những lằn đỏ. Chúng tôi quất càng lúc càng mạnh. Ông sĩ quan rên rỉ và, không đổi thế nằm, tụt quần dài và quần lót xuống đến hai mắt cá. Chúng tôi lấy hết sức quất vào hai cái mông đít trắng trẻo, vào hai bắp vế, vào hai chân, vào lưng, vào cổ, vào hai vai của ông, và mọi chỗ đều đỏ rực lên.

Mình mẩy, tóc tai, áo quần của ông sĩ quan, những tấm khăn trải giường, tấm thảm, bàn tay chúng tôi, cánh tay chúng tôi đều đỏ rực. Máu phun cả vào mắt chúng tôi, trộn lẫn vào mồ hôi chúng tôi, và chúng tôi tiếp tục quất cho đến khi người đàn ông ấy thốt lên một tiếng kêu cuối cùng, như tiếng kêu của con thú, và chúng tôi gục xuống, kiệt quệ, nơi chân giường của ông.

[còn tiếp nhiều kỳ]


* Trong nguyên tác, ông tuỳ phái nói tiếng Pháp rất vụng, theo kiểu ghép từng chữ một, và hoàn toàn sai văn phạm.




meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 09.11.2006 07:47:05
CHƯƠNG 33


Ngoại ngữ


Ông sĩ quan mang đến cho chúng tôi một cuốn từ điển để chúng tôi học thứ tiếng của ông. Chúng tôi học các chữ cái; ông tuỳ phái chỉnh cách phát âm của chúng tôi cho đúng. Vài tuần sau, chúng tôi nói trôi chảy thứ tiếng mới ấy. Chúng tôi không ngừng tiến bộ. Ông tuỳ phái không cần phải thông dịch nữa. Ông sĩ quan rất hài lòng với chúng tôi. Ông cho chúng tôi một chiếc kèn harmonica. Ông cũng đưa cho chúng tôi một chiếc chìa khoá phòng của ông để chúng tôi có thể vào bất cứ lúc nào chúng tôi muốn (từ trước đến nay chúng tôi vẫn vào bằng chìa khoá của chúng tôi, nhưng lén lút). Bây giờ chúng tôi không cần phải lén lút nữa và chúng tôi có thể làm bất cứ thứ gì chúng tôi muốn trong phòng ấy: ăn bánh bít-quy và sô-cô-la, hút thuốc lá.

Chúng tôi thường vào phòng ấy, vì mọi thứ trong đó đều sạch sẽ, và chúng tôi ở trong đó yên ả hơn ở trong bếp. Đó là nơi chúng tôi thường làm những bài thực tập hơn.

Ông sĩ quan có một cái máy hát và những đĩa hát. Nằm trên giường, chúng tôi nghe nhạc. Một lần, muốn làm vui lòng ông sĩ quan, chúng tôi để một đĩa quốc ca của nước ông. Nhưng ông nổi giận và đập nát cái đĩa hát bằng một cú đấm.

Đôi khi, chúng tôi ngủ trên cái giường rất rộng của ông. Một buổi sáng, ông tuỳ phái thấy chúng tôi nằm ở đó; ông không hài lòng:

— Ngu xuẩn! Đừng làm chuyện ngốc nghếch như vậy nữa. Cái gì xảy ra, nếu sĩ quan về nhà ban đêm?*

— Cái gì xảy ra chứ? Còn đủ chỗ cho ông ấy nằm cơ mà.

— Các anh rất ngốc nghếch. Một lần, các anh đã trả giá cho cái ngốc nghếch rồi. Nếu sĩ quan làm các anh đau, tôi sẽ bắn ông ấy. *

— Ông ấy sẽ không làm chúng tôi đau. Đừng bận tâm về chúng tôi.

Một đêm, ông sĩ quan về nhà và thấy chúng tôi đang ngủ trên giường của ông. Ánh sáng từ chiếc đèn dầu hôi làm chúng tôi thức giấc. Chúng tôi hỏi:

— Ông có muốn chúng tôi đi ra nhà bếp không?

Ông sĩ quan xoa đầu chúng tôi và nói:

— Ở lại. Cứ ở lại.

Ông cởi quần áo và nằm xuống giữa hai chúng tôi. Ông ôm chúng tôi vào hai cánh tay ông, ông nói thầm thì vào tai:

— Ngủ đi. Tôi yêu các cậu. Ngủ ngon đi.

Chúng tôi ngủ trở lại. Sau đó, lúc gần sáng, chúng tôi muốn ngồi dậy, nhưng ông sĩ quan giữ chúng tôi lại:

— Đừng cử động. Hãy ngủ tiếp đi.

— Chúng tôi cần đi đái. Chúng tôi phải ra ngoài.

— Đừng ra ngoài. Đái ở đây này.

Chúng tôi hỏi:

— Ở đâu?

Ông nói:

— Đái lên tôi. Vâng. Đừng sợ. Đái đi! Đái lên mặt tôi đi.

Chúng tôi đái lên mặt ông, rồi chúng tôi đi ra vườn, vì giường ướt nhẹp cả. Mặt trời đã hửng sáng; chúng tôi bắt đầu làm những công việc đầu ngày.

[còn tiếp nhiều kỳ]


* Trong nguyên tác, ông tuỳ phái nói tiếng Pháp rất vụng, theo kiểu ghép từng chữ một, và hoàn toàn sai văn phạm.


---------

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 20.11.2006 11:09:19
CHƯƠNG 34
 
Người bạn của ông sĩ quan
 
Thỉnh thoảng ông sĩ quan về nhà cùng với một người bạn — một ông sĩ quan khác, trẻ hơn. Họ chuyện trò với nhau suốt buổi tối và người bạn ở lại ngủ qua đêm. Chúng tôi đã quan sát họ vài lần qua cái lỗ trên trần nhà.
Một buổi tối mùa hè. Ông tuỳ phái nấu món gì đó trên cái lò đun bằng cồn. Ông trải một tấm khăn lên bàn và chúng tôi cắm hoa trên đó. Ông sĩ quan và người bạn ngồi tại bàn; họ uống rượu. Sau đó, họ ăn. Ông tuỳ phái ngồi ăn gần cửa ra vào, trên một chiếc ghế nhỏ. Rồi họ lại uống rượu. Trong lúc đó, chúng tôi lo chuyện âm nhạc. Chúng tôi thay những đĩa nhạc và lên giây thiều cho cái máy hát đĩa.
Người bạn của ông sĩ quan nói:
— Hai thằng nhỏ ấy làm tôi khó chịu. Bảo tụi nó đi ra ngoài đi.
Ông sĩ quan hỏi:
— Ghen à?
Người bạn đáp:
— Ghen với tụi nó hả? Điên thật! Chỉ là hai thằng nhóc man rợ.
— Tụi nó đẹp trai, cậu không thấy à?
— Có lẽ. Tôi chưa nhìn rõ tụi nó.
— Vậy hả, cậu chưa nhìn rõ tụi nó. Thế thì, nhìn rõ tụi nó đi nào.
Người bạn đỏ mặt:
— Anh muốn nói cái gì? Tụi nó làm tôi khó chịu vì cái vẻ lén lút của tụi nó. Có vẻ như tụi nó đang lắng nghe bọn mình, đang rình rập bọn mình.
— Nhưng tụi nó đang lắng nghe bọn mình thật đấy. Tụi nó nói tiếng của bọn mình hoàn hảo. Tụi nó hiểu hết.
Người bạn tái mặt, hắn đứng dậy:
— Thật là quá trớn! Tôi đi đây!
Ông sĩ quan nói:
— Đừng giở trò ngốc nghếch... Ra ngoài chơi đi, hai thằng nhóc.
Chúng tôi rời phòng, chúng tôi trèo lên gác xép. Chúng tôi rình xem và lắng nghe họ.
Người bạn của ông sĩ quan nói:
— Anh đem tôi ra làm trò cười trước mặt hai thằng nhỏ đần độn đó.
Ông sĩ quan nói:
— Đó là hai đứa trẻ thông minh nhất mà tôi được gặp.
Người bạn nói:
— Anh chỉ nói thế để làm tôi đau đớn, để làm tôi khổ sở. Anh làm bất cứ thứ gì để hành hạ tôi, để làm nhục tôi. Một ngày nào đó, tôi sẽ giết anh!
Ông sĩ quan ném khẩu súng lục của ông lên bàn:
— Tôi chẳng đòi hỏi gì hơn! Cầm lầy khẩu súng đi. Bắn tôi đi! Bắn ngay đi!
Người bạn cầm khẩu súng lên và nhắm vào ông sĩ quan:
— Tôi sẽ bắn. Anh sẽ thấy, tôi sẽ bắn. Lần sau mà anh còn nhắc đến nó, nhắc đến thằng đó, tôi sẽ bắn anh.
Ông sĩ quan nhắm mắt lại, mỉm cười:
— Chàng ấy đẹp trai... trẻ... cường tráng... duyên dáng... tế nhị... dịu dàng... mơ mộng... dũng cảm... kiêu ngạo... Tôi yêu chàng. Chàng chết trên mặt trận miền Đông. Lúc ấy chàng mười chín tuổi. Tôi không thể sống thiếu chàng.
Người bạn ném khẩu súng lục lên bàn và nói:
— Chó đẻ!
Ông sĩ quan mở mắt ra, nhìn người bạn của ông:
— Thật là thiếu dũng cảm! Thật là thiếu tính cách!
Người bạn nói:
— Vậy thì anh tự bắn anh đi chứ, nếu anh dũng cảm đến chừng ấy, nếu anh sầu khổ đến chừng ấy. Nếu anh không thể sống thiếu nó, thì anh chết theo nó đi chứ. Anh còn muốn tôi giúp nữa sao? Tôi không có điên! Chết quách đi! Chết quách một mình đi cho xong!
Ông sĩ quan nhặt khẩu súng lục và chĩa họng súng vào màng tang. Chúng tôi trèo xuống khỏi gác xép. Ông tuỳ phái ngồi trước cánh cửa lớn còn để mở. Chúng tôi hỏi ông:
— Ông có nghĩ ông ấy sẽ tự sát không?
Ông tuỳ phái cười:
— Các anh, đừng có sợ. Họ luôn luôn làm thế khi uống quá nhiều. Tôi đã tháo đạn khỏi hai cái súng rồi. *
Chúng tôi bước vào phòng, chúng tôi nói với ông sĩ quan:
— Chúng tôi bắn ông nếu ông thật sự muốn thế. Hãy đưa khẩu súng cho chúng tôi.
Người bạn nói:
— Hai thằng chó chết!
Ông sĩ quan vừa nói vừa mỉm cười:
— Cảm ơn. Các cậu thật tử tế. Chúng tôi chỉ đùa thôi. Đi ngủ đi.
Ông đứng lên đóng cánh cửa lại sau khi chúng tôi bước ra, ông nhìn thấy ông tuỳ phái:
— Ông còn ngồi đó sao?
Ông tuỳ phái nói:
— Tôi chưa được phép rời chỗ.*
— Thôi đi đi! Tôi muốn được yên! Hiểu chứ?
Xuyên qua cánh cửa chúng tôi còn nghe ông nói với người bạn:
— Quả là một bài học cho cậu, đồ chết nhát!
Chúng tôi nghe tiếng động của một cuộc xô xát, tiếng những quả đấm, tiếng những chiếc ghế lộn nhào, tiếng người ngã, tiếng la hét, tiếng thở hổn hển. Rồi chỉ còn sự im lặng.

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 20.11.2006 11:28:38
CHƯƠNG 35
 
Cuộc trình diễn đầu tiên của chúng tôi
 
Cô đầy tớ của cha xứ thường hát những bài dân ca xa xưa và những bài ca thời thượng mới mẻ nói về chiến tranh. Chúng tôi lắng nghe những bài ca ấy, chúng tôi nhái lại trên chiếc kèn harmonica của mình. Chúng tôi cũng đòi ông tuỳ phái dạy cho chúng tôi những bài ca của đất nước ông.
Một đêm, khá khuya, lúc Bà Ngoại đã vào giường, chúng tôi đi xuống phố. Gần toà lâu đài, trên một con đường cổ xưa, chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà thấp. Những tiếng ồn, những tiếng nói, và khói tuôn ra từ khung cửa lớn để mở trên một cầu thang. Chúng tôi men xuống những bậc tam cấp bằng đá và lọt vào trong một hầm rượu đã được sửa thành quán nước. Đám đàn ông, đứng lố nhố hay ngồi trên những băng ghế gỗ và những thùng rượu, đang uống rượu vang. Đa số là những ông già, nhưng cũng có vài người còn trẻ và ba người đàn bà. Không ai lưu ý đến chúng tôi.
Một đứa trong chúng tôi bắt đầu thổi kèn harmonica và đứa kia hát một bài ca về một người đàn bà đợi chinh phu trở về trong chiến thắng.
Dần dần người ta xoay về phía chúng tôi; những tiếng nói tắt đi. Chúng tôi hát, chúng tôi chơi nhạc càng lúc càng mạnh hơn, chúng tôi nghe giai điệu của mình vang lên, dội lại từ vòm trần của hầm rượu, giống như có người nào khác đang chơi nhạc và ca hát.
Bài ca của chúng tôi chấm dứt, chúng tôi ngước lên nhìn những khuôn mặt bơ phờ hốc hác. Một người đàn bà cười và vỗ tay. Một thanh niên cụt một tay nói khàn khàn:
— Nữa. Chơi bài nào khác đi!
Chúng tôi đổi vai. Đứa đã chơi kèn harmonica rồi thì trao nó lại cho đứa kia và chúng tôi bắt đầu một bài ca mới.
Một người đàn ông gầy đét bước loạng choạng đến chúng tôi, hắn thét vào mặt chúng tôi:
— Câm họng ngay, đồ chó!
Hắn xô chúng tôi một cách hung bạo ra hai bên, một đứa về bên phải, đứa kia về bên trái; chúng tôi mất thăng bằng; chiếc kèn harmonica rơi xuống. Người đàn ông vừa bước lên thang lầu vừa vịn vào tường. Chúng tôi còn nghe hắn gào trên đường phố:
— Mọi người câm họng hết cả đi!
Chúng tôi nhặt chiếc kèn harmonica lên và lau nó. Có người nói:
— Hắn bị điếc.
Người khác nói:
— Hắn không chỉ điếc. Hắn hoàn toàn điên rồi.
Một ông già xoa đầu chúng tôi. Những giọt nước mắt chảy dài từ đôi mắt sâu hoắm, thâm quầng của ông:
— Thật là khốn khổ! Cả thế giới khốn khổ! Tội nghiệp lũ trẻ! Tội nghiệp thế giới!
Một phụ nữ nói:
— Điếc hay điên, ít ra hắn còn trở về. Anh cũng vậy, anh đã trở về.
Cô ta ngồi trên bắp vế của người thanh niên cụt một tay. Anh ta nói:
— Em nói đúng, em xinh đẹp của anh, anh đã trở về. Nhưng anh sẽ làm lụng bằng cái gì? Làm sao anh cầm được một miếng gỗ để cưa? Cầm bằng cái ống tay áo rỗng của anh hay sao?
Một người thanh niên khác, ngồi trên một băng ghế, vừa cười vừa nói:
— Tôi cũng đã trở về. Chỉ có điều là tôi bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống. Cặp chân và mọi thứ khác. Tôi sẽ không bao giờ ngỏng lên được nữa. Chẳng thà tôi chết phứt ngoài đó cho xong, bỏ xác tại trận, chỉ một phát là hết chuyện.
Một phụ nữ khác nói:
— Không bao giờ các anh vừa lòng. Tôi thấy những anh đang hấp hối trong bệnh viện đều nói, "Dù có ra sao đi nữa, tôi vẫn muốn sống sót, trở về nhà, gặp lại vợ tôi, mẹ tôi. Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ chỉ để được sống thêm một chút nữa thôi."
Một người đàn ông nói:
— Cô câm mồm đi. Đàn bà chưa hề thấy cái gì trong chiến tranh cả.
Người phụ nữ nói:
— Chưa hề thấy cái gì hả? Đồ ngu! Chúng tôi phải làm lụng hết mọi thứ, lo lắng hết mọi thứ: nuôi nấng trẻ con, băng bó thương tích. Các ông, một khi mà chiến tranh đã hết, bọn đàn ông các ông đều là anh hùng cả. Chết: cũng anh hùng. Sống sót: cũng anh hùng. Què cụt: cũng anh hùng. Đó là lý do tại sao các ông đẻ ra chiến tranh, các ông, bọn đàn ông. Đó là chiến tranh của các ông. Các ông muốn nó, thì cứ đi theo nó luôn đi. Anh hùng cái lỗ đít tôi đây này!
Mọi người bắt đầu nói và gào. Bên cạnh chúng tôi, ông già nói:
— Không ai muốn cuộc chiến này. Không ai cả, không ai cả.
Chúng tôi rời hầm rượu; chúng quyết định trở về nhà.
Ánh trăng soi sáng trên những đường phố và trên lối đi đầy bụi bẩn dẫn đến nhà Bà Ngoại.

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 20.11.2006 17:43:34
CHƯƠNG 36
Việc phát triển các tiết mục trình diễn của chúng tôi
 
Chúng tôi tập tung hứng trái cây: những quả táo, những quả hạnh, những quả mơ. Đầu tiên với hai quả thì còn dễ, rồi ba, bốn, cho đến khi chúng tôi tung hứng được năm quả.
Chúng tôi phát minh một loạt những trò ảo thuật lẹ tay với những con bài và những điếu thuốc lá.
Chúng tôi cũng tập nhào lộn. Chúng tôi có thể nhảy lộn tròn liên tục về một bên, nhảy lộn tròn liên tục về phía trước, nhún hai tay bật ngược về đàng sau hay bật trở lại đàng trước, và chúng tôi có thể đi bằng hai bàn tay hoàn toàn thoải mái.
Chúng tôi mặc những thứ quần áo cũ bự quá cỡ mà chúng tôi đã tìm được trong cái hòm trên gác xép: những bộ veston vải sọc vuông thùng thình và rách rưới, những cái quần rộng mà chúng tôi phải dùng một sợi dây cột vào thắt lưng. Chúng tôi cũng tìm thấy một cái mũ đen tròn và cứng.
Một đứa trong chúng tôi gắn một quả ớt đỏ lên chóp mũi và đứa kia đeo một bộ ria giả làm bằng râu bắp. Chúng tôi kiếm được chút ít son và chúng tôi vẽ cho cái miệng rộng đến hai mang tai.
Hoá trang làm hai thằng hề như thế, chúng tôi đi ra chợ. Đó là nơi có nhiều hàng quán nhất và đông người nhất.
Chúng tôi bắt đầu cuộc trình diễn bằng cách thổi kèn harmonica ầm ĩ và gõ loạn xạ vào một cái trống làm bằng vỏ bí rỗng. Khi có đủ khán giả chung quanh chúng tôi, chúng tôi tung hứng những quả cà chua hay ngay cả những quả trứng. Những quả cà chua là những quả cà chua thật, nhưng những quả trứng thì rỗng và được nhồi bằng cát mịn. Người ta không biết điều này, nên họ reo lên, họ cười, họ vỗ tay lúc chúng tôi giả vờ suýt bắt hụt một quả.
Chúng tôi tiếp tục cuộc trình diễn bằng một loạt những trò ảo thuật lẹ tay và chúng tôi kết thúc bằng màn nhào lộn.
Trong lúc một đứa trong chúng tôi tiếp tục nhảy lộn tròn về một bên và nhảy lộn tròn về phía trước, thì đứa kia đi quanh khán giả bằng hai bàn tay, ngậm chiếc mũ cũ giữa hai hàm răng.
Buổi tối, chúng tôi trình diễn trong những quán nước và không cần hoá trang.
Chẳng mấy chốc chúng tôi biết tất cả những quán nước trong phố, những hầm rượu nơi chủ nhân bán thứ rượu vang tự sản xuất, những quầy rượu nơi người ta đứng mà uống, những quán cà-phê nơi những người khách ăn mặc tươm tất thường vãng lai và một vài sĩ quan đến để tìm gái.
Những kẻ uống rượu thì dễ dàng cho tiền. Họ cũng dễ dàng thố lộ tâm tư. Chúng tôi biết được tất cả những bí mật về mọi hạng người.
Thường thường, người ta cho chúng tôi uống rượu và, dần dần, chúng tôi quen với hơi men. Chúng tôi cũng hút những điếu thuốc lá người ta cho.
Ở đâu chúng tôi cũng rất thành công. Người ta cho rằng chúng tôi có giọng hát hay; họ vỗ tay tán thưởng chúng tôi và gọi chúng tôi đến thêm nhiều lần nữa.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 29.11.2006 10:50:53
CHƯƠNG 37:DIỄN KỊCH
Thỉnh thoảng, nếu người ta chú ý, không quá say và không quá ồn, thì chúng tôi diễn cho họ xem một trong những vở kịch nhỏ của chúng tôi, chẳng hạn Chuyện anh nhà nghèo và anh nhà giàu.
Một đứa trong chúng tôi làm anh nhà nghèo, đứa kia làm anh nhà giàu.
Anh nhà giàu ngồi tại một cái bàn, hút thuốc. Anh nhà nghèo bước vào:
— Tôi đã bửa củi cho ông xong rồi, thưa ông.
— Tốt đấy. Tập thể dục thì tốt lắm. Trông mày rất khoẻ. Cặp má của mày đỏ au.
— Hai bàn tay tôi lạnh cóng, thưa ông.
— Đến đây! Đưa cho tao xem! Thật gớm ghiếc! Hai bàn tay của mày đầy những vết trầy trụa và lở loét.
— Đó là những chỗ bị dị ứng vì trời lạnh, thưa ông.
— Chúng mày, bọn nhà nghèo, chúng mày lúc nào cũng mang những thứ bệnh tật gớm ghiếc. Mày bẩn thỉu quá, thì mày ráng mà chịu. Cầm lấy, cái này để trả công cho mày.
Hắn ném một gói thuốc lá cho anh nhà nghèo; anh mồi một điếu và bắt đầu hút. Nhưng chỗ anh đang đứng gần cửa lớn không có cái gạt tàn, và anh không dám bước đến gần cái bàn. Thế nên anh phẩy tàn thuốc vào lòng bàn tay mình. Anh nhà giàu muốn anh nhà nghèo ra về ngay, nên giả vờ không thấy anh nhà nghèo đang cần một cái gạt tàn. Nhưng anh nhà nghèo không muốn rời khỏi chỗ này quá sớm vì anh đang đói. Anh nói:
— Nhà ông thơm tho quá, thưa ông.
— Mùi thơm của sự sạch sẽ đấy.
— Có cả mùi thơm của xúp nóng. Cả ngày hôm nay tôi chưa ăn gì cả.
— Đáng lẽ mày phải ăn rồi chứ. Còn tao, tao sẽ đi ăn tiệm vì tao cho thằng đầu bếp nghỉ xả hơi.
Anh nhà nghèo đánh hơi:
— Vậy mà ở đây lại có mùi xúp nóng ngon quá.
Anh nhà giàu thét lên:
— Không thể có mùi xúp trong nhà này; không có ai nấu xúp trong nhà này; chắc là nó bay đến từ nhà hàng xóm, hay nó là xúp trong óc tưởng tượng của mày! Chúng mày, bọn nhà nghèo, chúng mày không nghĩ ngợi điều gì cả ngoài cái bao tử; đó là lý do tại sao chúng mày không bao giờ có tiền; chúng mày tiêu tất cả tiền kiếm được vào xúp và xúc-xích. Chúng mày là những con heo, đúng như vậy, và bây giờ mày làm dơ sàn nhà của tao bằng tàn thuốc lá của mày! Xéo ngay đi, và đừng bao giờ để tao trông thấy mày nữa!
Anh nhà giàu mở cửa, đá một phát vào anh nhà nghèo làm anh ta ngã sóng soài trên lề đường.
Anh nhà giàu đóng cửa lại, ngồi xuống trước một dĩa xúp, và vừa nói vừa chắp hai tay:
— Tạ ơn Chúa Giê-xu đã ban cho chúng con mọi điều tốt lành.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 25.12.2006 22:35:33
CHƯƠNG 38
 
Những cuộc báo động
 
Hồi chúng tôi mới đến nhà Bà Ngoại, ở Phố Nhỏ có rất ít báo động. Bây giờ càng ngày lại càng nhiều hơn. Còi báo động rú lên bất cứ lúc nào kể cả ngày lẫn đêm, giống hệt như ở Phố Lớn. Người ta chạy tìm chỗ nấp, trốn vào những hầm rượu. Trong những lúc ấy, đường sá vắng ngắt. Thỉnh thoảng có những ngôi nhà và hàng quán để cửa mở. Chúng tôi lợi dụng cơ hội để chui vào và lặng lẽ ăn trộm những gì chúng tôi thích.
Chúng tôi không bao giờ nấp trong hầm rượu ở nhà. Bà Ngoại cũng không. Ban ngày, chúng tôi tiếp tục làm những công việc của mình; ban đêm, chúng tôi tiếp tục ngủ.
Hầu hết máy bay chỉ bay ngang qua phố chúng tôi để đi thả bom phía bên kia biên giới. Cũng có lúc một quả bom rơi trúng một ngôi nhà. Trong trường hợp đó, chúng tôi xác định nơi bị bom bằng cách theo hướng có khói và chúng tôi đến xem những gì đã bị tàn phá. Nếu còn thứ gì lấy được, chúng tôi lấy.
Chúng tôi để ý thấy khi một ngôi nhà bị bom thì những người trốn trong hầm lúc nào cũng chết sạch. Trái lại, cái ống khói bao giờ cũng còn đứng nguyên.
Cũng có lúc một chiếc oanh tạc cơ nhào xuống để nã đạn liên thanh vào những người ở ngoài đồng hay trên đường phố.
Ông tuỳ phái dạy chúng tôi phải cẩn thận khi máy bay đang tiến về phía chúng tôi, nhưng khi nó ở ngay trên đầu chúng tôi thì không còn nguy hiểm nữa.
Để tránh báo động, người ta cấm thắp đèn vào ban đêm trừ khi các cửa sổ đã được che hoàn toàn tối. Bà Ngoại nghĩ không thắp đèn là thực tế nhất. Lính tuần cảnh đi lòng vòng suốt đêm để giữ cho luật lệ được tuân hành.
Trong một bữa ăn, chúng tôi kể về một chiếc máy bay chúng tôi thấy bốc cháy và rơi xuống. Chúng tôi cũng thấy ông phi công nhảy dù ra.
— Chúng con không biết điều gì xảy ra cho ông ấy, ông phi công của phe địch.
Bà Ngoại nói:
— Phe địch? Họ là bạn, là anh em của chúng ta. Chẳng bao lâu nữa họ sẽ đến đây.
Một hôm, chúng tôi đi dạo trong một cuộc báo động. Một gã đàn ông hốt hoảng chạy đến nói với chúng tôi:
— Bọn mày không nên đi ra ngoài trong khi máy bay dội bom.
Gã nắm tay lôi chúng tôi đến một cánh cửa:
— Đi vô, đi vô trong đó.
— Chúng tôi không muốn.
— Đó là chỗ núp. Bọn mày sẽ được an toàn trong đó.
Gã mở cửa và đẩy chúng tôi vào trước. Căn hầm đầy người. Một sự im lặng bao trùm nơi đó. Những người đàn bà ôm chặt những đứa bé vào lòng.
Thình lình, từ một nơi nào đó, có những quả bom nổ. Những tiếng nổ càng lúc càng gần hơn. Gã đàn ông lôi chúng tôi vào hầm bây giờ chạy đến một đống than ở góc hầm và ráng vùi mình xuống dưới đó.
Vài người đàn bà cười khinh bỉ. Một bà già nói:
— Bộ thần kinh của nó hư rồi. Nó được cho nghỉ phép vì vậy.
Đột nhiên, chúng tôi thấy khó thở. Chúng tôi mở cánh cửa hầm; một mụ đàn bà cao lớn mập mạp đẩy ngược chúng tôi vào trong, đóng cửa lại. Mụ thét lên:
— Bọn mày điên hả? Bọn mày không được đi ra ngoài bây giờ.
Chúng tôi nói:
— Người ta luôn luôn chết trong hầm. Chúng tôi muốn ra ngoài.
Mụ mập dựa lưng vào cánh cửa. Mụ chìa cho chúng tôi xem cái băng đeo tay có hiệu Dân Vệ.
— Tao là người chỉ huy ở đây! Bọn mày đứng yên chỗ đó!
Chúng tôi cắn ngập hai hàm răng vào cặp tay nung núc của mụ; chúng tôi đá vào ống quyển của mụ. Mụ gào lên, cố đánh lại chúng tôi. Người ta cười ồ. Rốt cuộc, mặt mũi đỏ rần vì tức giận và xấu hổ, mụ nói:
— Đi đi! Cút mẹ nó đi! Đi ra mà chết tiệt ngoài kia đi! Chẳng có ai mất mát gì cả.
Ra ngoài, chúng tôi hít thở thoải mái. Đó là lần đầu tiên chúng tôi cảm thấy sợ.
Những quả bom tiếp tục trút xuống như mưa.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
---------

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 26.12.2006 22:49:14
CHƯƠNG 39
 
 
 
Bầy người
 
Chúng tôi đến nhà cha xứ để tìm quần áo sạch của mình. Chúng tôi cùng cô đầy tớ ăn những lát bánh mì trét bơ trong bếp. Chúng tôi nghe những tiếng la đến từ ngoài đường. Chúng tôi để bánh mì bơ xuống và bước ra ngoài. Mọi người đều đứng trước cổng nhà của họ; họ nhìn về hướng trạm xe lửa. Bọn trẻ con khoái trá chạy và reo:
— Họ tới kìa! Họ tới kia kìa!
Tại khúc quẹo của con đường xuất hiện một chiếc xe Jeep quân đội chở những sĩ quan ngoại quốc. Chiếc xe Jeep lăn bánh chầm chậm, theo sau là những người lính vai mang súng trường. Đàng sau họ là một thứ gì trông như một bầy người. Những đứa trẻ con giống như chúng tôi. Những người đàn bà giống như mẹ chúng tôi. Những ông già giống như ông thợ đóng giày.
Chừng hai ba trăm người đi ngang qua, có lính canh giữ hai bên. Vài người đàn bà cõng những đứa bé trên lưng, vác chúng trên vai, hay ôm chúng vào ngực. Một người gục xuống; những cánh tay chìa ra đỡ lấy đứa bé và bà mẹ; họ phải được khiêng đi vì một người lính đã chĩa súng vào bầy người.
Không ai nói, không ai khóc; những đôi mắt của họ nhìn đăm đăm xuống mặt đất. Chúng tôi chỉ nghe tiếng gót giày đinh của những người lính.
Ngay trước mặt chúng tôi, một cánh tay gầy guộc thò ra từ đám đông, một bàn tay dơ bẩn mở ra, một giọng van xin:
— Bánh mì.
Cô đầy tớ, mỉm cười, làm cử chỉ bố thí mẩu bánh mì bơ ăn thừa; cô chìa nó gần chạm vào bàn tay chờ đợi, rồi, cười rộ lên, cô rụt tay lại, đưa mẩu bánh mì vào miệng cô, cắn một cái và nói:
— Tao cũng vậy, tao cũng đói!
Một người lính thấy hết cảnh ấy, bước đến vỗ vào mông cô đầy tớ một cái; hắn véo má cô, và cô vẫy khăn mùi-soa chào hắn cho đến khi chúng tôi chỉ còn thấy một đám mây bụi trong ánh chiều tà.
Chúng tôi trở vào nhà. Từ trong bếp, chúng tôi thấy cha xứ đang quỳ trước cây thập giá to tướng trong phòng của ông.
Cô đầy tớ nói:
— Ăn cho xong phần bánh mì bơ của các cậu đi.
Chúng tôi nói:
— Chúng tôi không đói nữa.
Chúng tôi bước vào phòng. Cha xứ xoay người lại:
— Các con có muốn cầu nguyện cùng cha không?
— Chúng con không bao giờ cầu nguyện, cha biết rõ mà. Chúng con muốn hiểu mọi việc.
— Các con không hiểu được đâu. Các con còn quá trẻ.
— Các con? Các con không quá trẻ. Vì thế nên các con hỏi cha: Những người đó là ai? Họ bị đem đi đâu? Tại sao?
Cha xứ đứng dậy, bước đến chúng tôi. Ông nhắm mắt lại và nói:
— Hành trạng của Chúa thì khôn dò.
Ông mở mắt ra, đặt hai tay lên đầu chúng tôi:
— Thật đáng tiếc là các con đã phải chứng kiến một cảnh như vậy. Các con run rẩy cả chân tay.
— Cha cũng vậy, thưa cha.
— Vâng, cha đã già rồi, cha run rẩy.
— Còn chúng con, chúng con run vì lạnh. Chúng con đi mình trần đến đây. Chúng con sẽ mặc những chiếc áo sơ-mi mà người đầy tớ của cha đã giặt.
Chúng tôi đi vào bếp. Cô đầy tớ đưa cho chúng tôi mớ quần áo sạch. Mỗi đứa chúng tôi lấy một chiếc áo sơ-mi. Cô đầy tớ nói:
— Các cậu quá nhạy cảm. Điều tốt nhất các cậu làm được là quên những gì các cậu đã thấy.
— Chúng tôi không bao giờ quên bất cứ điều gì cả.
Cô đẩy chúng tôi về phía cửa:
— Đi đi, đừng lo lắng gì cả! Tất cả những điều đó không dính líu gì đến các cậu. Nó sẽ không bao giờ xảy đến cho các cậu. Những người đó chỉ là những con vật.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 26.12.2006 22:52:19
CHƯƠNG 40
 
Bầy người
 
Chúng tôi đến nhà cha xứ để tìm quần áo sạch của mình. Chúng tôi cùng cô đầy tớ ăn những lát bánh mì trét bơ trong bếp. Chúng tôi nghe những tiếng la đến từ ngoài đường. Chúng tôi để bánh mì bơ xuống và bước ra ngoài. Mọi người đều đứng trước cổng nhà của họ; họ nhìn về hướng trạm xe lửa. Bọn trẻ con khoái trá chạy và reo:
— Họ tới kìa! Họ tới kia kìa!
Tại khúc quẹo của con đường xuất hiện một chiếc xe Jeep quân đội chở những sĩ quan ngoại quốc. Chiếc xe Jeep lăn bánh chầm chậm, theo sau là những người lính vai mang súng trường. Đàng sau họ là một thứ gì trông như một bầy người. Những đứa trẻ con giống như chúng tôi. Những người đàn bà giống như mẹ chúng tôi. Những ông già giống như ông thợ đóng giày.
Chừng hai ba trăm người đi ngang qua, có lính canh giữ hai bên. Vài người đàn bà cõng những đứa bé trên lưng, vác chúng trên vai, hay ôm chúng vào ngực. Một người gục xuống; những cánh tay chìa ra đỡ lấy đứa bé và bà mẹ; họ phải được khiêng đi vì một người lính đã chĩa súng vào bầy người.
Không ai nói, không ai khóc; những đôi mắt của họ nhìn đăm đăm xuống mặt đất. Chúng tôi chỉ nghe tiếng gót giày đinh của những người lính.
Ngay trước mặt chúng tôi, một cánh tay gầy guộc thò ra từ đám đông, một bàn tay dơ bẩn mở ra, một giọng van xin:
— Bánh mì.
Cô đầy tớ, mỉm cười, làm cử chỉ bố thí mẩu bánh mì bơ ăn thừa; cô chìa nó gần chạm vào bàn tay chờ đợi, rồi, cười rộ lên, cô rụt tay lại, đưa mẩu bánh mì vào miệng cô, cắn một cái và nói:
— Tao cũng vậy, tao cũng đói!
Một người lính thấy hết cảnh ấy, bước đến vỗ vào mông cô đầy tớ một cái; hắn véo má cô, và cô vẫy khăn mùi-soa chào hắn cho đến khi chúng tôi chỉ còn thấy một đám mây bụi trong ánh chiều tà.
Chúng tôi trở vào nhà. Từ trong bếp, chúng tôi thấy cha xứ đang quỳ trước cây thập giá to tướng trong phòng của ông.
Cô đầy tớ nói:
— Ăn cho xong phần bánh mì bơ của các cậu đi.
Chúng tôi nói:
— Chúng tôi không đói nữa.
Chúng tôi bước vào phòng. Cha xứ xoay người lại:
— Các con có muốn cầu nguyện cùng cha không?
— Chúng con không bao giờ cầu nguyện, cha biết rõ mà. Chúng con muốn hiểu mọi việc.
— Các con không hiểu được đâu. Các con còn quá trẻ.
— Các con? Các con không quá trẻ. Vì thế nên các con hỏi cha: Những người đó là ai? Họ bị đem đi đâu? Tại sao?
Cha xứ đứng dậy, bước đến chúng tôi. Ông nhắm mắt lại và nói:
— Hành trạng của Chúa thì khôn dò.
Ông mở mắt ra, đặt hai tay lên đầu chúng tôi:
— Thật đáng tiếc là các con đã phải chứng kiến một cảnh như vậy. Các con run rẩy cả chân tay.
— Cha cũng vậy, thưa cha.
— Vâng, cha đã già rồi, cha run rẩy.
— Còn chúng con, chúng con run vì lạnh. Chúng con đi mình trần đến đây. Chúng con sẽ mặc những chiếc áo sơ-mi mà người đầy tớ của cha đã giặt.
Chúng tôi đi vào bếp. Cô đầy tớ đưa cho chúng tôi mớ quần áo sạch. Mỗi đứa chúng tôi lấy một chiếc áo sơ-mi. Cô đầy tớ nói:
— Các cậu quá nhạy cảm. Điều tốt nhất các cậu làm được là quên những gì các cậu đã thấy.
— Chúng tôi không bao giờ quên bất cứ điều gì cả.
Cô đẩy chúng tôi về phía cửa:
— Đi đi, đừng lo lắng gì cả! Tất cả những điều đó không dính líu gì đến các cậu. Nó sẽ không bao giờ xảy đến cho các cậu. Những người đó chỉ là những con vật.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 26.12.2006 22:55:46
CHƯƠNG 41
Ông cảnh sát
 
Chúng tôi ăn sáng với Bà Ngoại. Một người đàn ông bước vào bếp không gõ cửa. Ông giơ ra tấm thẻ cảnh sát.
Lập tức, Bà Ngoại bắt đầu la lên:
— Tôi không muốn có cảnh sát trong nhà tôi! Tôi chẳng làm điều gì cả!
Ông cảnh sát nói:
— Không, không gì cả, không bao giờ. Chỉ có chút ít thuốc độc chỗ này, chỗ kia.
Bà Ngoại nói:
— Chẳng có bằng chứng nào hết. Ông không làm gì được tôi cả.
Ông cảnh sát nói:
— Bình tĩnh nào, Bà Ngoại. Chúng tôi sẽ không đào những xác chết lên đâu. Chôn chúng cũng đủ mệt rồi.
— Thế thì ông muốn gì?
Ông cảnh sát nhìn chúng tôi và nói:
— Cái trái không rụng xuống quá xa cái cây.
— Tôi cũng mong thế. Chứ bọn mày đã làm gì vậy, hai thằng chó đẻ?
Ông cảnh sát hỏi:
— Tối hôm qua các cậu ở đâu?
Chúng tôi đáp:
— Ở đây.
— Các cậu không lảng vảng ở các quán nước như thường lệ sao?
— Không. Chúng tôi ở nhà vì Bà Ngoại bị tai nạn.
Bà Ngoại nói thêm ngay:
— Tôi đã té lúc đi xuống hầm rượu. Những bậc cầu thang đầy rêu, tôi trượt chân. Tôi va đầu vào cầu thang. Bọn trẻ khiêng tôi trở lên, chúng chăm sóc cho tôi. Chúng ngồi bên cạnh giường tôi suốt đêm.
Ông cảnh sát nói:
— Bà có một cục sưng vù kia, tôi thấy rồi. Bà phải cẩn thận ở tuổi bà. Được. Chúng ta sẽ khám nhà. Cả ba người hãy đi theo tôi. Chúng ta bắt đầu khám hầm rượu.
Bà Ngoại mở cửa hầm; chúng tôi bước xuống. Ông cảnh sát lật xới mọi thứ, bao bị, lon hộp, thúng mủng, xới cả đống khoai lên.
Bà Ngoại thầm thì hỏi chúng tôi:
— Chứ hắn tìm cái gì vậy?
Chúng tôi nhún vai.
Sau hầm rượu, ông cảnh sát khám cái bếp. Rồi Bà Ngoại phải mở cửa buồng của bà. Ông cảnh sát xới giường bà lên. Không có gì ở trong giường hay trong cái nệm rơm, chỉ có một ít tiền dưới cái gối.
Trước cửa phòng ông sĩ quan, ông cảnh sát hỏi:
— Cái gì trong này?
Bà Ngoại nói:
— Đó là căn phòng tôi cho một sĩ quan ngoại quốc thuê. Tôi không có chìa khoá.
Ông cảnh sát nhìn cánh cửa gác xép:
— Bà không có cái thang hả?
Bà Ngoại nói:
— Nó gãy rồi.
— Làm sao bà trèo lên đó?
— Tôi đâu có trèo lên đó. Chỉ có bọn nhỏ trèo lên đó.
Ông cảnh sát nói:
— Thế thì trèo lên đi, các cậu nhỏ.
Chúng tôi trèo lên gác xép bằng một sợi thừng. Ông cảnh sát mở cái rương nơi chúng tôi đựng những đồ dùng cần thiết cho việc học: cuốn Thánh Kinh, cuốn từ điển, giấy, bút chì, và Cuốn Sổ Lớn trong đó mọi chuyện được viết xuống. Nhưng ông cảnh sát không phải đến đây để đọc. Ông lục lạo đống quần áo cũ và mớ chăn mền thêm một lần nữa và chúng tôi trèo xuống. Khi đã xuống đến dưới nhà, ông cảnh sát nhìn quanh và nói:
— Hiển nhiên là tôi không thể đào xới cả khu vườn. Thôi được. Các cậu đi với tôi.
Ông dẫn chúng tôi vào rừng, đến bên cạnh cái hố lớn nơi trước đây chúng tôi đã phát hiện một xác chết. Cái xác chết không còn ở đó nữa. Ông cảnh sát hỏi:
— Các cậu đã từng đến đây rồi chứ?
— Chưa. Chưa bao giờ. Chúng tôi ngại đi quá xa như thế này.
— Chứ các cậu chưa bao giờ thấy cái hố này, cũng chưa bao giờ thấy một người lính chết à?
— Chưa, chưa bao giờ.
— Lúc người ta phát hiện người lính chết này, thì súng, đạn, lựu đạn của hắn đã biến đâu mất.
Chúng tôi nói:
— Chắc là anh ta quá đãng trí và bất cẩn, anh lính ấy, nên đã đánh mất tất cả những thứ cần yếu của một người lính.
Ông cảnh sát nói:
— Hắn đã chẳng đánh mất những thứ ấy. Chúng bị lấy trộm sau khi hắn chết. Các cậu thường đi vào rừng, các cậu nghĩ thế nào về chuyện này?
— Không. Chẳng có ý nghĩ gì cả.
— Thế nhưng, chắc hẳn có người đã lấy cái súng, những viên đạn, những quả lựu đạn.
Chúng tôi nói:
— Ai mà dám đụng vào những vật nguy hiểm như thế?
[còn tiếp nhiều kỳ]
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 04.01.2007 22:48:38
CHƯƠNG 42
 
 
 
Cuộc thẩm cung
 
Chúng tôi đang ở trong phòng làm việc của ông cảnh sát. Ông ngồi tại một cái bàn, chúng tôi đứng thẳng người trước mặt ông. Ông sửa soạn giấy và bút chì. Ông hút thuốc. Ông hỏi chúng tôi:
— Các cậu quen biết với cô đầy tở của cha xứ được bao lâu rồi?
— Từ mùa xuân.
— Các cậu gặp cô ấy ở đâu?
— Ở nhà Bà Ngoại. Cô ấy đến mua khoai.
— Các cậu mang củi đến nhà cha xứ. Các cậu được trả bao nhiêu tiền?
— Không tiền bạc gì cả. Chúng tôi mang củi đến nhà cha xứ để đền ơn cô đầy tớ đã giặt quần áo cho chúng tôi.
— Cô ấy có tử tế với các cậu không?
— Rất tử tế. Cô ấy làm bánh mì bơ cho chúng tôi, cô ấy cắt móng tay và hớt tóc cho chúng tôi, cô ấy cho chúng tôi tắm.
— Như một người mẹ, thật vậy. Và ông cha xứ, ông ấy có tử tế với các cậu không?
— Rất tử tế. Ông ấy cho chúng tôi mượn sách và ông ấy dạy chúng tôi nhiều điều.
— Lần sau cùng các cậu mang củi đến nhà cha xứ là khi nào?
— Được năm ngày rôi. Vào sáng thứ Ba.
Ông cảnh sát đi loanh quanh trong phòng. Ông khép những tấm rèm cửa lại và thắp đèn trên bàn làm việc. Ông kéo hai cái ghế và bảo chúng tôi ngồi xuống. Ông soi đèn vào mặt chúng tôi:
— Các cậu rất thích cô ấy, cô đầy tớ?
— Vâng, thích lắm.
— Các cậu có biết chuyện gì đã xảy ra cho cô ấy không?
— Có chuyện gì đã xảy ra cho cô ấy sao?
— Ừ. Một chuyện khủng khiếp. Sáng nay, như thường lệ, cô ấy nhen lửa và cái lò trong bếp nổ tung. Cô ấy bị nát cả mặt. Cô ấy đang ở trong bệnh viện.
Ông cảnh sát ngưng nói; chúng tôi không thốt một lời. Ông hỏi:
— Các cậu không có gì để nói sao?
Chúng tôi nói:
— Một cú nổ vào mặt như vậy thì phải đến bệnh viện và đôi khi vào nhà xác. May mà cô ấy không chết.
— Cô ấy bị hỏng khuôn mặt suốt đời còn lại!
Chúng tôi im lặng. Ông cảnh sát cũng thế. Chúng tôi nhìn ông. Ông nhìn chúng tôi. Ông nói:
— Các cậu không có vẻ gì buồn về chuyện đó.
— Chúng tôi hài lòng rằng cô ấy còn sống. Sau một tai nạn như vậy!
— Đó không phải là một tai nạn. Có người đã giấu một vật dễ nổ trong đống củi đốt lò. Một viên đạn từ một khẩu súng của quân đội. Người ta đã tìm được cái vỏ đạn.
Chúng tôi hỏi:
— Tại sao lại có người làm chuyện đó?
— Để giết cô ấy. Cô ấy, hoặc ông cha xứ.
Chúng tôi nói:
— Người ta thật tàn ác. Họ muốn giết chóc. Chính chiến tranh đã dạy họ điều đó. Và những thứ dễ nổ nằm rải rác khắp nơi.
Ông cảnh sát bắt đầu gào lên:
— Dẹp cái trò khôn vặt đó đi! Chính bọn mày mang củi đến nhà cha xứ! Chính bọn mày lang thang suốt ngày trong rừng! Chính bọn mày lục lọi đồ đạc của những xác chết! Bọn mày làm được bất cứ điều gì! Bọn mày mang cái mầm đó từ trong máu! Bà Ngoại của bọn mày cũng đang mang một cái án mạng trong lương tâm. Bà ấy đã giết chồng bằng thuốc độc. Bà ấy, thì bằng thuốc độc, bọn mày, thì bằng chất nổ! Thú nhận đi, đồ ranh con chó đẻ! Thú nhận đi! Chính là bọn mày!
Chúng tôi nói:
— Chúng tôi không phải là những người duy nhất mang củi đến nhà cha xứ.
Ông nói:
— Đúng vậy. Còn có một ông già nữa. Tao đã thẩm vấn ông ấy rồi.
Chúng tôi nói:
— Ai cũng có thể giấu một viên đạn trong một đống củi.
— Đúng, nhưng không phải ai cũng có đạn. Tao đếch cần biết cô đầy tớ của bọn mày! Cái mà tao cần biết là những viên đạn đó ở đâu? Những quả lựu đạn ở đâu? Cái súng ở đâu? Ông già ấy đã khai rõ hết mọi thứ. Tao đã hỏi ông ấy rất khéo nên ông ấy đã khai hết tất cả. Nhưng ông ấy không thể chỉ ra cho tao biết những viên đạn, những quả lựu đạn, cái súng ở đâu. Ông ấy không phải lá người phạm tội. Chính là bọn mày! Bọn mày biết những viên đạn, những quả lựu đạn, cái súng ở chỗ nào. Bọn mày biết, và bọn mày sẽ nói cho tao nghe.
Chúng tôi không trả lời. Ông cảnh sát đánh chúng tôi. Bằng cả hai bàn tay. Tay phải và tay trái. Chúng tôi chảy máu mũi máu miệng.
— Thú nhận!
Chúng tôi câm nín. Ông cảnh sát tái nhợt người, ông đánh chúng tôi tới tấp. Chúng tôi ngã ra khỏi ghế. Ông đá vào xương sườn, vào lưng, vào bụng chúng tôi.
— Thú nhận! Thú nhận đi! Chính là bọn mày! Thú nhận ngay!
Chúng tôi không còn mở mắt được nữa. Chúng tôi không còn nghe gì nữa. Thân thể chúng tôi bê bết mồ hôi, máu, nước đái, cứt. Chúng tôi ngất đi.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
---------
Dịch từ nguyên tác Pháp văn, “L'interrogatoire
  CHƯƠNG 43 
Trong tù
 
Chúng tôi nằm trên nền đất cứng của một buồng giam. Qua khung cửa sổ nhỏ có song sắt, một chút ánh sáng hắt vào. Nhưng chúng tôi không biết lúc ấy là mấy giờ, buổi sáng hay buổi chiều.
Chúng tôi đau nhừ khắp thân thể. Một cử động nhỏ nhất cũng làm chúng tôi gần ngất đi. Mắt chúng tôi nhập nhoà, tai chúng tôi kêu ù ù, đầu chúng tôi nhức như búa bổ. Chúng tôi khát nước khủng khiếp. Miệng chúng tôi khô khốc.
Nhiều giờ trôi qua như thế. Chúng tôi không nói một lời. Sau đó, ông cảnh sát bước vào, ông hỏi chúng tôi:
— Bọn mày cần gì không?
Chúng tôi nói:
— Cần uống.
— Hãy nói. Hãy thú nhận đi. Rồi bọn mày sẽ được uống, được ăn tuỳ thích.
Chúng tôi không trả lời. Ông hỏi:
— Ông nội ơi, ông có muốn ăn gì không?
Không ai trong chúng tôi trả lời. Ông cảnh sát bước ra.
Chúng tôi nhận ra không phải chỉ có chúng tôi trong buồng giam. Thật cẩn thận, chúng tôi nhấc khẽ đầu lên và chúng tôi thấy một ông già đang nằm co quắp trong một góc. Chúng tôi rón rén bò đến ông, chúng tôi sờ ông. Thân thể ông cứng ngắc và lạnh. Chúng tôi bò về chỗ của chúng tôi ở gần cửa.
Khi trời đã tối, ông cảnh sát trở lại với một cái đèn pin. Ông rọi đèn vào ông già và nói:
— Ngủ ngon đi. Sáng mai ông được cho về nhà.
Ông cũng rọi đèn thẳng vào mặt từng đứa chúng tôi:
— Vẫn không nói gì cả à? Đối với tao thì chẳng sao cả. Tao có thì giờ. Bọn mày nói, không thì bọn mày bỏ xác ở đây.
Khuya hơn nữa, cửa lại mở ra. Ông cảnh sát, ông tuỳ phái và ông sĩ quan ngoại quốc bước vào. Ông sĩ quan cúi xuống nhìn chúng tôi. Ông nói với ông tuỳ phái:
— Gọi điện thoại về doanh trại bảo đem xe cứu thương đến đây!
Ông tuỳ phái đi ra. Ông sĩ quan xem xét ông già và nói:
— Nó đánh ông già chết rồi!
Ông xoay sang ông cảnh sát:
— Mày sẽ trả giá đắt cho chuyện này, đồ sâu bọ! Phải chi mày biết mày sẽ trả giá thế nào cho tất cả những chuyện này!
Ông cảnh sát hỏi chúng tôi:
— Ông ấy nói gì vậy?
— Ông ấy nói rằng ông già đã chết và mày sẽ trả giá đắt, đồ sâu bọ!
Ông sĩ quan xoa trán chúng tôi:
— Các bạn nhỏ của tôi, các bạn bé bỏng của tôi. Nó dám hành hạ các cậu, con heo thối tha đó!
Ông cảnh sát nói:
— Ông ấy sẽ xử tôi ra làm sao đây? Hãy nói với ông ấy là tôi có con nhỏ... Tôi đâu có biết... Ông ấy là cha của các cậu, hay là thế nào?
Chúng tôi nói:
— Ông ấy là chú của chúng tôi.
— Đáng lẽ các cậu phải nói cho tôi biết. Chứ làm sao tôi biết? Tôi xin các cậu tha lỗi cho tôi. Liệu tôi có thể làm gì để...
Chúng tôi nói:
— Hãy cầu nguyện Chúa.
Ông tuỳ phái đến với những người lính khác. Họ đặt chúng tôi lên băng ca và chở chúng tôi đi bằng xe cứu thương. Ông sĩ quan ngồi bên cạnh chúng tôi. Ông cảnh sát bị vài người lính áp giải lên một chiếc xe jeep do ông tuỳ phái cầm lái.
Tại doanh trại quân đội, một ông y sĩ lập tức chẩn khám chúng tôi trong một gian phòng lớn màu trắng. Ông khử trùng những vết thương của chúng tôi, ông tiêm cho chúng tôi những thứ thuốc chống đau nhức và chống sài uốn ván. Ông cũng soi quang tuyến cho chúng tôi. Chúng tôi không bị gãy xương chỗ nào cả, ngoại trừ vài cái răng, nhưng đó là những cái răng sữa.
Ông tuỳ phái chở chúng tôi về nhà Bà Ngoại. Ông đặt chúng tôi nằm trên chiếc giường rộng của ông sĩ quan và ông ngả lưng trên một tấm chăn bên cạnh giường. Sáng hôm sau, ông tìm Bà Ngoại và bà mang sữa nóng cho chúng tôi uống tại giường.
Khi ông tuỳ phái đã đi khỏi, Bà Ngoại hỏi chúng tôi:
— Bọn mày có khai gì không?
— Không, Bà Ngoại. Chúng con không có gì để thú nhận cả.
— Tao cũng nghĩ vậy. Còn thằng cảnh sát, cái gì đã xảy ra cho nó?
— Chúng con không biết. Nhưng chắc là ông ấy sẽ không còn đến đây nữa.
Bà Ngoại cười khẩy:
— Bị tống cổ đi hay bị bắn, hả? Đồ con heo! Chúng ta sẽ ăn mừng chuyện này. Tao đi hâm lại con gà tao nấu hôm qua. Tao cũng chưa ăn con gà ấy một miếng nào.
Vào giữa trưa, chúng tôi ngồi dậy, chúng tôi vào ăn trong bếp.
Trong khi ăn, Bà Ngoại nói:
— Tao thắc mắc tại sao bọn mày muốn giết cô ấy? Bọn mày có lý do của bọn mày, tao đoán vậy.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
---------Dịch từ nguyên tác Pháp văn, “En prison” [chương 43], trong Agota Kristof, La Grand Cahier (Paris: Éditions du Seuil, 1986). 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 12.02.2007 22:57:17
CHƯƠNG 44:
Ông già
 
Ngay sau bữa ăn tối, một ông già bước vào nhà với một cô gái lớn tuổi hơn chúng tôi.
Bà Ngoại hỏi ông già:
— Ông muốn gì?
Ông già xưng tên, và Bà Ngoại bảo chúng tôi:
— Đi ra ngoài đi. Đi dạo chơi trong vườn đi.
Chúng tôi đi ra ngoài. Chúng tôi đi vòng quanh ngôi nhà và bò xuống dưới cánh cửa bếp. Chúng tôi lắng nghe. Ông già nói:
— Hãy rủ lòng thương.
Bà Ngoại đáp:
— Tại sao ông lại có thể đòi hỏi tôi làm một việc như vậy?
Ông già nói:
— Bà đã biết bố mẹ nó rồi. Họ đã giao nó cho tôi trước khi họ bị trục xuất. Họ cho tôi địa chỉ của bà để nhờ cậy trong trường hợp nó không còn an toàn khi ở với tôi.
Bà Ngoại hỏi:
— Ông có biết tôi sẽ phải chịu nguy hiểm như thế nào không?
— Vâng, tôi biết. Nhưng đây là vấn đề sinh tử của nó.
— Có một ông sĩ quan ngoại quốc ở trọ trong nhà này.
— Đúng vậy. Cho nên sẽ không có ai đến tìm kiếm nó ở đây. Bà chỉ cần nói rằng nó là cháu ngoại của bà, nó là chị em họ của hai cậu bé.
— Mọi người đều biết tôi không có đứa cháu ngoại nào ngoài hai thằng nhỏ ấy.
— Bà có thể nói nó thuộc về phía gia đình của con rể của bà.
Bà Ngoại cười khẩy:
— Ngay cả tôi cũng chưa bao giờ thấy mặt thằng con rể của tôi!
Im lặng một lúc lâu, ông già nói tiếp:
— Tôi chỉ xin bà nuôi ăn con bé ấy chừng vài tháng. Cho đến lúc hết chiến tranh.
— Chiến tranh có thể kéo dài nhiều năm nữa.
— Không, nó sẽ không còn kéo dài lâu lắm nữa đâu.
Bà Ngoại bắt đầu sụt sùi than thở:
— Tôi chỉ là một bà già nghèo làm lụng đến chết xác. Làm sao mà tôi nuôi nổi chừng ấy miệng ăn?
Ông già nói:
— Đây là tất cả số tiền mà bố mẹ nó có. Và đây là các món vàng ngọc gia bảo của họ. Tất cả để trả cho bà, nếu bà cứu giúp nó.
Một lát sau, Bà Ngoại gọi chúng tôi vào:
— Đây là chị họ của bọn mày.
Chúng tôi nói:
— Vâng, Bà Ngoại.
Ông già nói:
— Các cháu, ba đứa, sẽ chơi với nhau chứ?
Chúng tôi nói:
— Chúng tôi không bao giờ chơi.
Ông hỏi:
— Vậy thì hai cháu làm gì?
— Chúng tôi làm việc, chúng tôi học, chúng tôi tập luyện.
Ông nói:
— Tôi hiểu. Hai cháu là những người nghiêm túc. Hai cháu không có thì giờ để chơi. Hai cháu sẽ trông nom chị họ của hai cháu chứ?
— Vâng, thưa ông. Chúng tôi sẽ trông nom chị ấy.
— Tôi cảm ơn hai cháu.
Chị họ chúng tôi nói:
— Tôi lớn hơn các cậu.
Chúng tôi đáp:
— Nhưng chúng tôi là hai người.
Ông già nói:
— Hai cháu nói đúng. Hai người thì mạnh hơn nhiều. Và hai cháu sẽ không quên gọi cô bé là "chị họ" chứ?
— Không, thưa ông. Chúng tôi không bao giờ quên bất cứ điều gì.
— Tôi tin cậy vào hai cháu.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
 
 
 
CHƯƠNG 45:
Chị họ của chúng tôi
 
Chị họ của chúng tôi lớn hơn chúng tôi năm tuổi. Mắt chị đen. Tóc chị có màu đỏ hung vì nhuộm bằng chất thuốc henné.*
Bà Ngoại nói với chúng tôi rằng chị là con gái của em gái của Bố tôi. Chúng tôi nói y như vậy với bất cứ ai hỏi về chị họ của chúng tôi.
Chúng tôi biết rằng Bố không có em gái. Nhưng chúng tôi cũng biết rằng nếu chúng tôi không nói láo như vậy thì sinh mạng của chị sẽ gặp nguy hiểm. Và chúng tôi đã hứa với ông già rằng chúng tôi sẽ trông nom cho chị.
Khi ông già đã ra đi, Bà Ngoại nói:
— Chị họ của bọn mày sẽ ngủ với bọn mày trong bếp.
Chúng tôi nói:
— Trong bếp không còn chỗ nữa.
Bà Ngoại nói:
— Thì bọn mày nằm duỗi thẳng ra.
Chị họ của chúng tôi nói:
— Tôi sẵn sàng ngủ trên sàn nhà dưới bàn ăn nếu các cậu cho tôi một cái mền.
Chúng tôi nói:
— Chị có thể nằm trên ghế mà ngủ và giữ lấy cái mền. Chúng tôi sẽ ngủ trên gác xép. Trời bây giờ cũng không quá lạnh.
Chị nói:
— Tôi sẽ lên gác xép ngủ với các cậu.
— Chúng tôi không cần chị. Chị không bao giờ được leo lên gác xép.
— Tại sao?
Chúng tôi nói:
— Chị có bí mật của chị. Chúng tôi cũng có bí mật của chúng tôi. Nếu chị không tôn trọng bí mật của chúng tôi, chúng tôi sẽ không tôn trọng bí mật của chị.
Chị hỏi:
— Các cậu cấm tôi được à?
— Nếu chị trèo lên gác xép, chị chết ngay lập tức. Rõ chưa?
Chị im lặng nhìn chúng tôi một chặp, rồi chị nói:
— Tôi hiểu. Các cậu, hai thằng lỏi chết tiệt, hoàn toàn điên loạn cả rồi. Tôi sẽ không bao giờ trèo lên cái gác xép dơ bẩn của các cậu, tôi hứa.
Chị giữ lời hứa và không bao giờ trèo lên gác xép. Nhưng ở mọi nơi khác, lúc nào chị cũng làm phiền chúng tôi.
Chị nói:
— Đem cho tôi mấy trái dâu dại.
Chúng tôi nói:
— Đi vào vườn mà hái.
Chị nói:
— Đừng đọc to tiếng nữa. Các cậu làm nhức hai lỗ tai tôi.
Chúng tôi tiếp tục đọc.
Chị hỏi:
— Chứ các cậu nằm bất động trên sàn nhiều giờ đồng hồ để làm gì vậy?
Chúng tôi tiếp tục bài tập bất động ngay cả khi chị ném trái cây thối vào chúng tôi.
Chị nói:
— Đừng im lặng như vậy, các cậu làm tôi phát điên lên!
Chúng tôi tiếp tục bài tập bất động, không trả lời.
Chị hỏi:
— Tại sao hôm nay các cậu không ăn gì cả?
— Hôm nay là ngày nhịn đói của chúng tôi.
Chị họ của chúng tôi không làm lụng, không học hành gì cả. Chị thường nhìn đăm đăm lên trời, đôi khi chị khóc.
Bà Ngoại không bao giờ đánh chị. Bà cũng không bao giờ chửi chị. Bà không đòi hỏi chị phải làm lụng. Bà không bảo chị làm bất cứ việc gì. Bà không bao giờ nói chuyện với chị.
[còn tiếp nhiều kỳ]
____
* henné: một chất thuốc nhuộm màu đỏ hung, lấy từ lá cây h?innā’, một loại cây có hoa trắng hoặc đỏ, ở Trung Đông. [chú thích của người dịch]
 
---------
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 14.02.2007 08:13:29
CHƯƠNG 46
 
 
Những món nữ trang
 
Ngay đêm đầu tiên chị họ của chúng tôi đến ở, chúng tôi đi ngủ trên gác xép. Chúng tôi lấy hai cái mền từ phòng của ông sĩ quan và chúng tôi trải rơm lên sàn gác. Trước khi ngủ, chúng tôi nhìn xuyên qua những lỗ hở. Trong phòng của ông sĩ quan không có ai cả. Trong phòng Bà Ngoại có đèn còn sáng, đó là điều hiếm khi xảy ra.
Bà Ngoại đã lấy cây đèn dầu từ nhà bếp và treo nó trên bàn trang điểm của bà. Đó là một cái bàn có gắn ba tấm gương soi. Tấm ở chính giữa được gắn cố định, hai tấm kia có thể di chuyển. Người ta có thể chỉnh chúng theo hướng thích hợp để nhìn thấy mình từ hai bên.
Bà Ngoại ngồi trước bàn trang điểm, soi mình trong gương. Trên đầu bà, phía trên tấm khăn choàng đen, bà đã đính một vật gì lấp lánh. Quanh cổ bà có vài sợi dây chuyền, hai cánh tay bà mang đầy những vòng xuyến, những ngón tay bà đeo đầy những chiếc nhẫn. Bà vừa ngắm mình trong gương, vừa nói một mình:
— Giàu, giàu có. Làm đẹp thật dễ dàng với tất cả những thứ này. Dễ dàng. Bánh xe lăn đi. Bây giờ chúng là của mình, những món nữ trang này. Của mình. Cũng công bằng thôi. Nó lấp lánh kìa, lấp lánh như thế đấy.
Sau đó, bà nói:
— Và nếu họ trở lại thì sao? Nếu họ đòi lại thì sao? Một khi nguy hiểm đã qua, thì họ quên hết. Họ hứa trăng hứa sao, thế rồi... Không, không, họ đã chết cả rồi. Cái ông già đó cũng sẽ chết. Ông ấy đã nói mình có thể giữ lấy hết mọi thứ... Nhưng đứa con gái... Nó đã thấy tất cả, đã nghe tất cả. Nó sẽ muốn mình trả lại. Chắc chắn là thế. Sau chiến tranh, nó sẽ đòi chúng lại. Nhưng mình không muốn, mình không thể trả chúng lại. Chúng là của mình. Mãi mãi...
... Nó cũng sẽ phải chết đi. Như thế thì chẳng còn bằng chứng gì cả. Chẳng ai thấy, cũng chẳng ai biết. Ừ, con nhỏ đó sẽ phải chết. Nó sẽ gặp một tai nạn. Ngay trước khi hết chiến tranh. Chẳng cần thuốc độc. Lần này thì chẳng cần. Một tai nạn. Chết đuối ngoài sông. Đè cái đầu nó xuống nước. Khó quá. Xô nó té xuống hầm rượu. Không đủ cao. Thuốc độc. Chỉ có thuốc độc. Một thứ gì chầm chậm. Đúng liều lượng. Một thứ bệnh làm nó chết mòn nhẹ nhàng, qua nhiều tháng. Không có thầy thuốc. Nhiều người chết như thế, vì thiếu sự chăm sóc, trong thời chiến tranh.
Bà Ngoại giơ nắm tay lên, đe doạ hình ảnh của bà trong tấm gương:
— Mày sẽ không làm gì được tao! Không làm gì được cả!
Bà cười khẩy. Bà tháo những món nữ trang, đặt chúng vào trong một cái bao bố và nhét cái bao vào trong cái đệm rơm của bà. Bà đi ngủ, chúng tôi cũng thế.
Sáng hôm sau, khi chị họ của chúng tôi đã rời nhà bếp, chúng tôi nói với Bà Ngoại:
— Bà Ngoại, chúng con có điều muốn nói với bà.
— Chứ còn điều gì nữa đây?
— Nghe cho kỹ, Bà Ngoại. Chúng con đã hứa với ông già là sẽ trông nom chị họ của chúng con. Vì thế, sẽ không có điều gì xảy đến cho chị ấy. Không tai nạn, cũng không bệnh tật. Không gì cả. Và cũng không có gì xảy đến cho chúng con.
Chúng tôi giơ ra cho bà thấy một cái bao thư dán kín:
— Trong này, mọi việc đều được viết xuống. Chúng con sẽ đưa bức thư này cho ông cha xứ. Nếu có bất cứ điều gỉ xảy đến cho một trong ba đứa chúng con, ông cha xứ sẽ mở bao thư ra xem. Bà đã hiểu rõ chứ, Bà Ngoại?
Bà Ngoại nhìn chúng tôi, mắt bà gần như nhắm lại. Bà thở rất mạnh. Bà nói rất khẽ:
— Đồ chó đẻ, con của đĩ, con của quỷ sứ! Cái ngày bọn mày lòi ra đời này là cái ngày khốn kiếp!
Buổi chiều, khi Bà Ngoại đi làm việc trong vườn nho, chúng tôi lục lạo cái đệm rơm của bà. Không có gì trong đó.

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 15.02.2007 22:43:16
CHƯƠNG 47
 
Chị họ của chúng tôi và người tình của chị
 
Chị họ của chúng tôi trở nên nghiêm trang, chị không làm phiền chúng tôi nữa. Ngày nào chị cũng tắm trong cái chậu lớn mà chúng tôi đã mua bằng tiền kiếm được ở các quán nước. Chị rất siêng giặt váy và cả đồ lót nữa. Trong khi đợi quần áo khô, chị quấn người trong một tấm khăn hay nằm phơi nắng cho khô cái quần lót chị đang mặc. Da chị rất nâu. Tóc chị phủ dài xuống đến mông. Thỉnh thoảng chị xoay người nằm ngửa và che vú bằng mái tóc.
Tối đến, chị xuống phố. Chị ở dưới phố càng ngày càng lâu. Một đêm nọ, chúng tôi theo dõi chị mà chị không ngờ.
Gần nghĩa địa, chị cùng tụ tập với một nhóm trai gái, ai cũng lớn tuổi hơn chúng tôi. Họ ngồi dưới những tàn cây, họ hút thuốc lá. Họ cũng có những chai rượu vang. Họ uống thẳng từ cổ chai. Một người trong nhóm đứng canh chừng bên lề đường. Nếu có người lạ đến gần, người canh chừng huýt sáo một câu hát quen thuộc rồi lặng lẽ ngồi xuống. Nhóm trai gái tản ra và nấp trong những lùm cây hay sau những tấm bia mộ. Khi nguy hiểm đã qua, người canh chừng huýt sáo một câu hát khác.
Nhóm trai gái thầm thì nói chuyện về chiến tranh, và về những cuộc đào ngũ, về những cuộc trục xuất, về cuộc kháng chiến, về cuộc giải phóng.
Theo ý họ, những người lính ngoại quốc đang ở trên đất nước chúng tôi và giả vờ là đồng minh thật ra lại là những kẻ thù của chúng tôi, còn những người sắp đến đây và đánh thắng thì không phải là kẻ thù mà, trái lại, là những người giải phóng cho chúng tôi.
Họ nói:
— Bố của tao đã đi theo phe bên kia. Ông ấy sẽ trở lại cùng với họ.
— Cha của tao thì đã đào ngũ từ hồi tuyên chiến.
— Ba má của tao đã theo quân kháng chiến. Lúc đó tao còn nhỏ quá nên không đi với họ được.
— Bố mẹ của tao bị những thằng chó đẻ đó bắt đem đi. Bị trục xuất rồi.
— Mày sẽ không bao giờ gặp lại họ, bố mẹ của mày. Và tao cũng vậy. Bây giờ họ đã chết cả rồi.
— Không thể nói chắc như vậy. Cũng có những người sống sót chứ.
— Và những người chết, bọn mình sẽ trả thù cho họ.
— Bọn mình còn quá trẻ. Thật là tồi tệ. Chẳng làm gì được cả.
— Mọi chuyện sắp hết rồi. Vài ba hôm nữa "họ" sẽ đến.
— Bọn mình sẽ mang hoa ra đón họ ở Quảng Trường Lớn.
Đến khuya, nhóm trai gái giải tán. Ai về nhà nấy.
Chị họ của chúng tôi đi cùng với một người con trai. Chúng tôi theo dõi chị. Họ đi vào những con hẻm quanh toà lâu đài, biến mất sau một bức tường tróc lở. Chúng tôi không thấy họ, nhưng chúng tôi nghe họ nói.
Chị họ của chúng tôi nói:
— Nằm lên em đi. Ừ, vậy đó. Hôn em đi. Hôn em đi.
Người con trai nói:
— Ôi, em đẹp quá! Anh muốn em.
— Em cũng muốn anh. Nhưng em sợ. Lỡ em có bầu thì sao?
— Anh sẽ cưới em. Anh yêu em. Chúng mình sẽ cưới nhau sau ngày Giải Phóng.
— Chúng mình còn trẻ quá. Chúng mình phải chờ đợi.
— Anh không chờ đợi nổi.
— Đừng anh! Anh làm em đau. Đừng làm thế, đừng làm thế, anh yêu của em.
Người con trai nói:
— Ừ, em nói phải. Nhưng hãy vuốt ve anh. Đưa cho anh bàn tay của em. Vuốt ve anh ở đây này, đúng đấy, như thế đấy. Em xoay lại nhé. Anh muốn hôn em ở chỗ đó, chỗ đó, trong khi em vuốt ve anh.
Chị họ của chúng tôi nói:
— Đừng, đừng làm thế. Em xấu hổ quá. Ôi! Nữa đi anh, nữa đi anh! Em yêu anh, em yêu anh nhiều quá.
Chúng tôi ra về.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 12.03.2007 11:52:38
CHƯƠNG 48
 
Cuộc ban phúc lành
 
Chúng tôi phải trở lại nhà cha xứ để trả những cuốn sách chúng tôi đã mượn.
Lần này cũng có một bà già ra mở cửa. Bà cho chúng tôi vào, bà nói:
— Cha xứ đang mong các cậu.
Cha xứ nói:
— Ngồi xuống.
Chúng tôi đặt những cuốn sách lên bàn làm việc của ông. Chúng tôi ngồi xuống.
Cha xứ nhìn chúng tôi một lát, rồi ông nói:
— Cha vẫn mong các con đến. Từ lâu các con không đến.
Chúng tôi nói:
— Chúng con cần đọc cho xong những cuốn sách. Và chúng con rất bận bịu.
— Thế còn việc tắm thì sao?
— Bây giờ chúng con đã có mọi thứ cần thiết để tự tắm rửa. Chúng con đã mua một chậu tắm, xà-phòng, kéo, và bàn chải răng.
— Mua bằng gì? Các con lấy tiền ở đâu ra?
— Mua bằng tiền chúng con chơi nhạc ở các quán nước.
— Các quán nước ấy là những nơi sa đoạ. Đặc biệt đối với tuổi của các con.
Chúng tôi không trả lời. Ông nói:
— Các con cũng chẳng đến để lấy tiền cho bà mù. Bây giờ, món tiền ấy đã khá nhiều. Các con hãy lấy đi.
Ông giao cho chúng tôi món tiền. Chúng tôi nói:
— Cha hãy giữ lấy. Cha đã cho đủ rồi. Chúng con chỉ lấy tiền khi nào tuyệt đối cần thiết. Bây giờ chúng con đã kiếm đủ tiền để giúp cho chị Sứt Môi. Chúng con cũng đã dạy chị ấy làm việc. Chúng con đã giúp chị ấy xới mảnh vườn của chị ấy và trồng khoai, đậu, bí và cà chua. Chúng con đã cho chị ấy vài con gà tơ và vài con thỏ để nuôi. Chị ấy trông nom mảnh vườn và gia súc của chị ấy. Chị ấy không đi xin ăn nữa. Chị ấy cũng không cần tiền của cha nữa.
Cha xứ nói:
— Thế thì, các con hãy lấy món tiền này để chi dùng. Nhờ đó các con sẽ không cần phải làm việc ở những quán nước nữa.
— Chúng con thích làm việc ở những quán nước.
Ông nói:
— Cha nghe các con bị đánh đập, hành hạ.
Chúng tôi hỏi:
— Chuyện gì đã xảy ra cho cô đầy tớ của cha?
— Cô ấy đi ra tiền tuyến để săn sóc cho người bị thương. Cô ấy đã chết rồi.
Chúng tôi không nói gì. Ông hỏi:
— Các con có muốn giãi bày với cha không? Cha đã tuyên thệ giữ bí mật lời xưng tội. Các con không có gì phải sợ. Hãy thú nhận đi.
Chúng tôi nói:
— Chúng con chẳng có gì để thú nhận.
— Các con sai lầm rồi. Một tội ác như vậy thật khó mà mang trong lòng. Sự thú nhận sẽ làm các con khuây khoả hơn. Đức Chúa Trời tha tội cho tất cả những ai thành tâm sám hối về tội lỗi của họ.
Chúng tôi nói:
— Chúng con chẳng ăn năn về điều gì cả. Chúng con chẳng có gì để sám hối.
Sau một hồi lâu im lặng, ông nói:
— Cha đã thấy tất cả qua khung cửa sổ. Miếng bánh mì ấy... Nhưng phục thù là công việc của Đức Chúa Trời. Các con không có quyền thay Ngài làm công việc của Ngài.
Chúng tôi không nói gì cả. Ông hỏi:
— Cha ban phúc lành cho các con được chứ?
— Nếu Cha muốn.
Ông đặt hai tay lên đầu chúng tôi:
— Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng, hãy ban phúc cho con cái của Ngài. Dù chúng phạm tội gì đi nữa, hãy tha thứ cho chúng. Những con chiên đáng thương đã đi lạc đường trong một thế giới khủng khiếp, chính bản thân chúng là những nạn nhân của thời đại quái đản của chúng con, chúng không biết điều chúng làm. Con xin Ngài hãy cứu rỗi linh hồn của con cái của Ngài, thanh tẩy chúng trong thiện tâm vô hạn và lòng từ ái của Ngài. Amen."
Rồi ông lại nói với chúng tôi thêm một lần nữa:
— Thỉnh thoảng hãy đến đây gặp cha nhé, ngay cả nếu các con không cần bất cứ điều gì cả.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
---------

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 12.03.2007 11:58:28
CHƯƠNG 49
 
Cuộc chạy giặc
 
Ngày ngày, những tấm bích chương xuất hiện trên khắp những bức tường của Phố Nhỏ. Trên một tấm bích chương, người ta thấy một ông già nằm trên đất, thân thể bị đâm bằng lưỡi lê của một tên lính phe địch. Trên một tấm bích chương khác, một tên lính phe địch đang nắm hai chân một đứa bé để đánh một đứa bé khác. Trên một tấm khác nữa, một tên lính phe địch nắm chặt cánh tay của một người phụ nữ và, với bàn tay kia, gã xé toạc chiếc áo của cô ta. Người phụ nữ há miệng ra và nước mắt chảy dài.
Ai nhìn những tấm bích chương ấy cũng khiếp hãi.
Bà Ngoại cười, bà nói:
— Toàn là bịa đặt. Các người đừng sợ.
Người ta nói Phố Lớn đã thất thủ.
Bà Ngoại nói:
— Nếu bọn chúng đã vượt qua Sông Lớn, thì không có gì ngăn bọn chúng được. Chẳng mấy chốc bọn chúng sẽ đến đây.
Chị họ của chúng tôi nói:
— Thế thì tôi có thể về nhà.
Một hôm, người ta nói quân đội đã đầu hàng, đã ngưng bắn và cuộc chiến đã kết thúc. Hôm sau, người ta lại nói đã có một chính phủ mới và cuộc chiến vẫn tiếp diễn.
Nhiều quân nhân ngoại quốc đến bằng xe lửa hay xe vận tải. Cả những người lính của nước chúng tôi nữa. Có rất nhiều thương binh. Khi dân chúng hỏi những người lính của nước chúng tôi về điều này điều nọ, họ trả lời rằng họ không biết gì cả. Họ đang chuyển quân ngang qua Phố Nhỏ. Họ đang đi sang nước khác bằng con đường bên cạnh doanh trại.
Người ta nói:
— Họ đang chạy trốn. Họ thất trận rồi.
Những người khác lại nói:
— Họ đang thu hồi lực lượng. Họ tái tập kết phía bên này biên giới. Họ sẽ chặn đứng bọn chúng nơi ấy. Họ sẽ không bao giờ để cho quân thù tiến qua biên giới.
Bà Ngoại nói:
— Để rồi xem.
Nhiều người đi ngang qua trước nhà Bà Ngoại. Họ cũng đang đi sang nước khác. Họ nói họ phải rời bỏ đất nước chúng tôi mãi mãi, vì quân địch đang đến và bọn chúng sẽ trả thù. Bọn chúng sẽ biến nhân dân của đất nước chúng tôi thành nô lệ.
Có những người đi tỵ nạn bằng chân, vác túi đồ trên vai; những người khác đẩy những chiếc xe đạp chất đầy các vật dụng: một tấm chăn, một chiếc vĩ cầm, một con heo sữa trong lồng, những thứ nồi niêu xoong chảo. Những người khác ngồi trên những chiếc xe ngựa: họ chở theo tất cả đồ đạc của họ.
Hầu hết họ đi từ phố của chúng tôi, nhưng cũng có một số người đi từ những nơi xa hơn.
Một buổi sáng, ông tuỳ phái và ông sĩ quan ngoại quốc đến chào từ giã.
Ông tuỳ phái nói:
— Mọi chuyện xong hết rồi. Nhưng thà bại trận còn hơn là chết.
Ông tuỳ phái cười. Ông sĩ quan đặt một đĩa nhạc vào máy hát. Chúng tôi ngồi trên chiếc giường lớn, im lặng lắng nghe. Ông sĩ quan ôm chặt lấy chúng tôi, ông khóc.
— Tôi sẽ không bao giờ gặp lại các cậu.
Chúng tôi nói với ông:
— Ông sẽ có con cái của ông.
— Tôi không muốn có con.
Ông nói thêm, chỉ tay vào những đĩa nhạc và chiếc máy hát:
— Hãy giữ lấy những cái này để nhớ đến tôi. Nhưng đừng giữ cuốn từ điển. Các cậu sẽ phải học một thứ tiếng khác.
 
 
CHƯƠNG 50
 
 
Nầm mồ tập thể
 
Một đêm, chúng tôi nghe những tiếng nổ, tiếng pháo kích, và tiếng súng liên thanh. Chúng tôi ra khỏi nhà để xem việc gì xảy ra. Một đám cháy lớn bốc lên từ doanh trại. Chúng tôi tin rằng địch quân đã đến nhưng, sáng hôm sau, Phố Nhỏ vẫn yên tĩnh, chỉ có tiếng đại pháo vọng về từ xa.
Cuối con đường dẫn vào căn cứ quân sự, không còn có lính gác. Một đám khói dày có mùi hôi nồng nặc toả lên bầu trời. Chúng tôi quyết định đến đó xem.
Chúng tôi bước vào doanh trại. Hoàn toàn trống vắng. Không một bóng người. Vài căn nhà vẫn còn cháy. Mùi hôi thối quá sức chịu đựng. Chúng tôi bịt mũi và cứ tiếp tục bước tới. Một hàng rào thép gai chặn chúng tôi lại. Chúng tôi leo lên một vọng gác. Chúng tôi thấy bốn đống to đen ngòm nhô lên trên một khoảng sân rộng. Chúng tôi phát hiện hàng rào có một đoạn hở chui qua được. Chúng tôi leo xuống từ vọng gác và tìm lối vào. Có một cái cổng sắt to tướng, bỏ ngỏ. Trên cổng có một hàng chữ viết bằng tiếng nước ngoài: "Trại Chuyển Tiếp." Chúng tôi đi vào.
Những đống đen ngòm mà khi nãy chúng tôi thấy từ trên cao là những đống xác người chết cháy. Vài xác đã cháy hoàn toàn, chỉ còn những khúc xương. Những xác khác chỉ nám đen. Có rất nhiều xác như thế. To và nhỏ. Người lớn và trẻ con. Chúng tôi nghĩ bọn chúng đã giết họ trước, rồi chất xác họ thành đống, tưới xăng lên và châm lửa.
Chúng tôi mửa. Chúng tôi chạy ra khỏi doanh trại. Chúng tôi về nhà. Bà Ngoại kêu chúng tôi vào ăn, nhưng chúng tôi lại mửa.
Bà Ngoại nói:
— Bọn mày lại ăn bậy nữa rồi.
Chúng tôi nói:
— Đúng đấy, ăn táo xanh.
Chị họ chúng tôi nói:
— Doanh trại đã cháy rụi rồi. Bọn mình nên đi xem. Chắc chắn không còn ai ở đó.
— Chúng tôi đã đến đó. Chẳng có gì thú vị cả.
Bà Ngoại cười khẩy:
— Các đấng anh hùng đã chẳng quên gì cả sao? Họ mang theo với họ mọi thứ à? Họ chẳng để lại bất cứ cái gì dùng được à? Bọn mày có nhìn kỹ không?
— Vâng, Bà Ngoại. Chúng con đã nhìn kỹ. Chẳng có thứ gì cả.
Chị họ của chúng tôi bước ra khỏi bếp. Chúng tôi đi theo chị. Chúng tôi hỏi chị:
— Chị đi đâu?
— Ra phố.
— Sớm vậy sao? Thường thì đến tối chị mới đi chứ.
Chị mỉm cười:
— Ừ, nhưng tôi có hẹn với một người. Hiểu chứ?
Chị họ của chúng tôi mỉm cười với chúng tôi một lần nữa, rồi chị chạy về hướng phố.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
---------

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 15.03.2007 19:45:25
CHƯƠNG 51
 
 
Mẹ của chúng tôi
 
Chúng tôi đang ở trong vườn. Một chiếc xe Jeep quân đội dừng lại trước nhà. Mẹ chúng tôi bước xuống, theo sau là một ông sĩ quan ngoại quốc. Họ đi vội vã ngang qua vườn. Mẹ bế một đứa bé. Trông thấy chúng tôi, Mẹ kêu lên:
— Đến đây! Trèo vô xe jeep lẹ lên. Chúng ta đi ngay. Nhanh lên. Vất hết mọi thứ, đến đây ngay đi!
Chúng tôi hỏi:
— Đứa bé là con của ai?
Mẹ nói:
— Đó là em gái của các con. Đến đây ngay đi! Đừng làm mất thì giờ.
Chúng tôi hỏi:
— Chúng ta đi đâu?
— Đến nước khác. Đừng hỏi nữa, đến đây ngay.
Chúng tôi nói:
— Chúng con không muốn đi đến đó. Chúng con muốn ở lại đây.
Mẹ nói:
— Mẹ phải đi đến đó. Và các con sẽ đi với mẹ.
— Không. Chúng con ở lại đây.
Bà Ngoại bước ra khỏi nhà. Bà nói với Mẹ:
— Mày làm cái gì vậy? Mày bế cái gì đấy?
Mẹ nói:
— Con đến để tìm hai đứa con trai của con. Con sẽ gửi tiền cho má.
Bà Ngoại nói:
— Tao không cần tiền của mày. Và tao không trả lại hai thằng nhỏ cho mày.
Mẹ bảo ông sĩ quan bắt lấy chúng tôi. Chúng tôi nhanh nhẹn bám lấy sợi dây thừng để trèo lên gác xép. Ông sĩ quan cố chộp lấy chúng tôi, nhưng chúng tôi đá vào mặt ông ấy. Ông sĩ quan chửi thề. Chúng tôi leo lên sợi dây thừng.
Bà Ngoại cười khẩy:
— Mày thấy đó, bọn chúng đâu có muốn đi với mày.
Mẹ gào lớn:
— Mẹ ra lệnh cho các con trèo xuống ngay lập tức!
Bà Ngoại nói:
— Bọn chúng đâu có bao giờ theo lệnh của ai.
Mẹ bắt đầu khóc:
— Đến đây, các con. Mẹ không thể đi mà thiếu các con.
Bà Ngoại nói:
— Đứa con hoang nước ngoài ấy chưa đủ cho mày à?
Chúng tôi nói:
— Chúng con ở đây tốt lắm, Mẹ ạ. Hãy an tâm mà đi. Chúng con ở nhà Bà Ngoại rất là tốt.
Chúng tôi nghe trọng pháo và súng liên thanh. Ông sĩ quan choàng vai Mẹ, dìu ra xe. Nhưng Mẹ giằng ra:
— Đó là hai đứa con trai của tôi, tôi cần có chúng! Tôi thương chúng!
Bà Ngoại nói:
— Tao đây, tao mới cần bọn chúng. Tao già rồi. Còn mày, mày còn đẻ được những đứa khác. Có bằng chứng rành rành!
Mẹ nói:
— Con van xin má, đừng giữ chúng lại.
Bà Ngoại nói:
— Tao đâu có giữ bọn chúng lại. Ê, hai thằng nhỏ kia, leo xuống đây và đi theo mẹ chúng mày.
Chúng tôi nói:
— Chúng con không muốn đi. Chúng con muốn ở với bà, Bà Ngoại.
Ông sĩ quan đưa hai tay nắm lấy Mẹ, nhưng Mẹ xô ông ấy ra. Ông sĩ quan bước ra ngồi trên xe jeep và mở máy. Đúng vào lúc ấy, có một tiếng nổ ầm trong vườn. Ngay tức khắc, chúng tôi thấy Mẹ nằm trên mặt đất. Ông sĩ quan chạy đến Mẹ. Bà Ngoại cố níu chúng tôi lại. Bà nói:
— Đừng nhìn! Đi vào trong nhà!
Ông sĩ quan nguyền rủa, chạy đến xe jeep và rồ ga phóng vút đi.
Chúng tôi nhìn Mẹ. Ruột đổ ra khỏi bụng bà. Bà đỏ ối từ đầu đến chân. Đứa bé cũng thế. Đầu của Mẹ ngả xuống cái hố nơi trái lựu đạn nổ. Đôi mắt Mẹ mở lớn và còn đầy nước mắt.
Bà Ngoại nói:
— Đi lấy cái xẻng!
Chúng tôi đặt một tấm chăn xuống đáy hố, chúng tôi đặt Mẹ nằm lên đó. Đứa bé vẫn còn dính chặt vào ngực Mẹ. Chúng tôi dùng một tấm chăn khác phủ lên họ, rồi chúng tôi lấp cái hố.
Khi chị họ của chúng tôi từ phố trờ về, chị hỏi:
— Có gì xảy ra hả?
Chúng tôi nói:
— Ừ, một quả lựu đạn nổ tạo nên một cái hố trong vườn.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
---------

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 24.03.2007 22:40:39
CHƯƠNG 52
 
Cuộc ra đi của người chị họ
 
Suốt đêm, chúng tôi nghe những tiếng súng bắn, những tiếng nổ. Hừng đông, thình lình tất cả đều im lặng. Chúng tôi ngủ trên cái giường lớn của ông sĩ quan. Giường của ông ấy trở thành giường của chúng tôi, và phòng của ông ấy là phòng của chúng tôi.
Buổi sáng, chúng tôi đi sang nhà bếp để ăn điểm tâm. Bà Ngoại đang đứng trước cái lò. Chị họ của chúng tôi đang xếp những cái chăn.
Chị nói:
— Tôi ngủ chẳng được gì cả.
Chúng tôi nói:
— Chị hãy ra ngoài vườn ngủ đi. Không còn tiếng ồn nữa và trời thì ấm áp.
Chị hỏi:
— Đêm qua các cậu không sợ à?
Chúng tôi nhún vai, không trả lời.
Có tiếng gõ cửa. Một người đàn ông mặc thường phục bước vào, theo sau là hai người lính. Hai người lính mang súng máy và mặc một thứ quân phục mà chúng tôi chưa từng thấy.
Bà Ngoại nói điều gì đó bằng thứ tiếng mà bà hay nói trong những lúc uống rượu. Hai người lính trả lời. Bà Ngoại quàng hai cánh tay qua cổ họ và vừa hôn từng người vừa tiếp tục nói chuyện với họ.
Ông mặc thường phục hỏi:
— Bà nói tiếng của họ, phải không, thưa bà?
Bà Ngoại trả lời:
— Đó là tiếng mẹ đẻ của tôi, thưa ông.
Chị họ của chúng tôi nói:
— Họ có mặt ở đây rồi à? Họ đến lúc nào vậy? Chúng tôi muốn mang hoa đi chào đón họ ở Quảng Trường Lớn.
Ông mặc thường phục hỏi:
— "Chúng tôi" là ai?
— Là các bạn của tôi và tôi.
Ông mặc thường phục mỉm cười:
— Thế nhưng, trễ quá rồi. Họ đã đến hồi tối hôm qua. Và tôi, tôi đến ngay sau đó. Tôi đi tìm một cô gái trẻ.
Ông ta đọc một cái tên; chị họ của chúng tôi nói:
— Vâng, đó là tôi. Cha mẹ của tôi đâu?
Ông mặc thường phục nói:
— Tôi không biết. Tôi chỉ có nhiệm vụ đi tìm những đứa trẻ có tên trong danh sách của tôi. Trước hết chúng ta sẽ đi đến một trung tâm tiếp nhận ở Phố Lớn. Sau đó chúng ta sẽ cố gắng tìm cha mẹ của cô.
Chị họ của chúng tôi nói:
— Tôi có một người bạn ở đây. Anh ấy cũng có tên trong danh sách của ông chứ?
Chị đọc tên người tình của chị. Ông mặc thường phục dò tìm trong danh sách:
— Có. Cậu ấy đã đến tổng hành dinh của quân đội rồi. Cô và cậu ấy sẽ đi trong cùng một chuyến. Cô hãy sửa soạn đồ đạc.
Chị họ của chúng tôi, rất đỗi vui mừng, nhét quần áo vào xách tay và gói các thứ đồ vệ sinh vào trong chiếc khăn tắm của chị.
Ông mặc thường phục xoay sang chúng tôi:
— Còn các cậu? Các cậu tên gì?
Bà Ngoại nói:
— Đó là các cháu ngoại của tôi. Chúng ở lại đây với tôi.
Chúng tôi nói:
— Vâng, chúng tôi sẽ ở lại với Bà Ngoại.
Ông mặc thường phục nói:
— Tuy vậy tôi cũng muốn biết tên của hai cậu.
Chúng tôi đọc tên cho ông ta nghe. Ông nhìn vào hồ sơ:
— Hai cậu không có tên trong danh sách của tôi. Bà có thể giữ hai cậu ấy lại, thưa bà.
Bà Ngoại nói:
— Nghe hay nhỉ! Tôi "có thể" giữ hai cậu ấy lại!
Chị họ của chúng tôi nói:
— Tôi đã sẵn sàng. Đi nào.
Ông mặc thường phục nói:
— Cô chắc là đang nôn nóng lắm. Có lẽ it nhất cô cũng nên cảm ơn bà và chào tạm biệt hai cậu bé này.
Chị họ của chúng tôi nói:
— Hai cậu bé? Hai thằng ranh con đấy chứ.
Chị ôm lấy chúng tôi, ghì thật chặt:
— Tôi không hôn hai cậu đâu, tôi biết hai cậu không thích thế. Đừng làm gì dại dột quá nhé, hãy cẩn thận.
Chị ôm chúng tôi chặt hơn nữa, chị khóc. Ông mặc thường phục nắm lấy cánh tay chị và nói với Bà Ngoại:
— Thưa bà, chúng tôi xin cảm ơn bà về tất cả những gì bà đã giúp đỡ cho cô bé này.
Chúng tôi cùng bước ra ngoài. Trước cổng vườn, có một chiếc xe Jeep. Hai người lính ngồi băng trước, ông mặc thường phục và chị họ của chúng tôi ngồi băng sau. Bà Ngoại kêu lên một câu gì nữa. Hai người lính cười. Chiếc xe Jeep chạy đi. Chị họ của chúng tôi không ngoái lại.
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
 
CHƯƠNG 53
 
 
Cuộc xâm nhập của những người ngoại quốc khác
 
Sau khi chị họ của chúng tôi đã ra đi, chúng tôi vào phố để xem chuyện gì đang xảy ra.
Ở mỗi góc đường, có một chiếc xe thiết giáp. Trên Quảng Trường Lớn, có những xe vận tải, những xe Jeep, những xe mô-tô, những xe thùng gắn bên cạnh xe mô-tô, và, khắp nơi, có rất nhiều người lính Ở khu chợ phiên, trên nền đất không tráng xi-măng, họ đang dựng lều và làm những cái bếp lộ thiên.
Khi chúng tôi đi ngang qua, họ mỉm cười với chúng tôi, họ nói với chúng tôi, nhưng chúng tôi không hiểu họ nói gì.
Ngoài những người lính, không có ai trên các đường phố. Nhà nào cũng đóng cửa, khép kín màn. Các hàng quán hạ rèm xuống thấp.
Chúng tôi về nhà, chúng tôi nói với Bà Ngoại:
— Hoàn toàn yên tĩnh ở dưới phố.
Bà cười khẩy:
— Bây giờ thì bọn chúng nghỉ ngơi, nhưng đến chiều nay thì tụi mày sẽ thấy.
— Cái gì sẽ xảy ra, Bà Ngoại?
— Bọn chúng sẽ đi lục soát. Bọn chúng sẽ vào nhà của bất cứ ai và sục sạo. Và bọn chúng sẽ lấy tất cả những gì bọn chúng thích. Tao đã sống qua một cuộc chiến rồi, tao biết cái gì xảy ra. Chúng ta thì chẳng có gì phải sợ: ở nhà này chẳng có gì để lấy, và tao biết cách ăn nói với bọn chúng.
— Nhưng họ tìm kiếm cái gì vậy, Bà Ngoại?
— Gián điệp, vũ khí, đạn, đồng hồ, vàng, đàn bà.
Vào buổi chiều, quả nhiên, những người lính bắt đầu lục soát nhà cửa một cách có hệ thống. Nếu người ta không mở cửa, họ bắn một phát chỉ thiên, rồi họ đạp tung cửa.
Nhiều nhà hoàn toàn trống vắng. Cư dân của những nhà ấy đã đi mất biệt hoặc đang trốn kỹ trong rừng. Những nhà không cư dân vẫn bị sục sạo y như những nhà khác, cũng như tất cả những cửa tiệm và hàng quán.
Sau khi những người lính đã rời khỏi, thì những kẻ trộm xông vào các nhà và hàng quán bỏ hoang. Hầu hết những kẻ trộm là bọn trẻ con và những ông già, có cả một số đàn bà nữa; đó là những kẻ không biết sợ hay những kẻ nghèo đói.
Chúng tôi gặp Sứt Môi. Hai tay nó ôm đầy quần áo và giày dép. Nó nói với chúng tôi:
— Lấy ngay đi trong khi còn những thứ để lấy. Tôi, đây là lần thứ ba tôi đi lấy đồ.
Chúng tôi vào Tiệm Sách, bước qua khung cửa đã bị đánh sập. Trong đó chỉ có vài đứa nhỏ tuổi hơn chúng tôi. Chúng đang lấy những cây bút chì và những hộp phấn màu, những cục gôm, những đồ chuốt bút chì, những cái cặp đựng sách vở.
Chúng tôi thong thả chọn lấy những thứ chúng tôi cần: một bộ bách khoa toàn thư gồm nhiều cuốn, những cây bút chì và giấy.
Trên đường phố, một ông già và một bà già đánh nhau để giành lấy một miếng thịt sườn xông khói. Chung quanh họ có một đám người đang chế nhạo họ và xúi giục họ. Bà già cào mặt ông già và, rốt cuộc, bà già lấy được miếng thịt sườn.
Bọn kẻ trộm uống những chai rượu lấy trộm cho đến say khướt, rồi đánh nhau, phá nát cửa sổ và cửa kính của những ngôi nhà và hàng quán mà chúng đã hốt sạch, đập vỡ các đồ sành sứ, vất xuống đất những thứ mà chúng không cần hay không thể vác đi được.
Những người lính cũng uống rượu và quay trở lại các ngôi nhà nhưng, lần này, để kiếm đàn bà.
Khắp mọi nơi có tiếng súng bắn và tiếng gào khóc của những người đàn bà bị hiếp dâm.
Trên Quảng Trường Lớn, một người lính kéo đàn accordéon. Những người lính khác nhảy múa và ca hát.
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 25.04.2007 23:23:44
CHƯƠNG 54
Cuộc đốt nhà
 
Đã mấy hôm rồi, chúng tôi không thấy bà hàng xóm đi ra vườn. Chúng tôi cũng không gặp Sứt Môi. Chúng tôi sang xem họ thế nào.
Cái nhà xiêu vẹo để cửa mở. Chúng tôi bước vào. Những ô cửa sổ thì nhỏ xíu. Trong phòng tối om, mặc dù mặt trời chiếu sáng bên ngoài.
Khi mắt chúng tôi đã quen với bóng tối, chúng tôi nhận ra bà hàng xóm đang nằm trên bàn nhà bếp. Hai chân bà buông thõng, hai cánh tay bà vắt chéo trên mặt. Bà không cử động.
Sứt Môi nằm trên giường. Nó trần truồng. Giữa hai cái chân dang ra của nó có một vũng máu và tinh dịch đã khô. Mí mắt nó nhắm nghiền, cặp môi nó cong lên trên hàm răng đen thành một nụ cười vĩnh viễn; Sứt Môi đã chết.
Bà hàng xóm nói:
— Đi đi.
Chúng tôi bước đến gần bà, chúng tôi hỏi:
— Bà không bị điếc sao?
— Không. Tao cũng không bị đui mắt. Đi đi.
Chúng tôi nói:
— Chúng tôi muốn giúp bà.
Bà nói:
— Tao không cần giúp đỡ. Tao không cần gì cả. Đi đi.
Chúng tôi hỏi:
— Cái gì đã xảy ra ở đây?
— Bọn mày thấy rõ rồi đấy. Nó đã chết rồi, phải không?
— Đúng. Có phải vì bọn người ngoại quốc mới đến?
— Ừ. Chính nó kêu gọi bọn chúng. Nó đi ra ngoài đường, nó vẫy tay kêu bọn chúng tới. Có khoảng mười hai hay mười lăm thằng. Và trong lúc bọn chúng chơi nó, nó luôn miệng gào lên: "Ôi tôi sướng quá! Sướng quá! Tới đây hết cả đi, tới đây, một người nữa, thêm một người nữa!" Nó chết sung sướng, đéo cho tới chết. Nhưng tao, tao chưa chết! Tao nằm đây, không ăn, không uống, không biết đã bao lâu rồi. Mà cái chết vẫn chưa tới. Khi người ta kêu gọi cái chết, thì nó lại không tới. Nó thích hành hạ người ta. Tao đã kêu gọi nó bao nhiêu năm rồi mà nó vẫn không màng tới tao.
Chúng tôi hỏi:
— Bà có thật tình muốn chết không?
— Chứ tao còn muốn gì nữa? Nếu bọn mày muốn làm một cái gì cho tao, thì hãy đốt cái nhà này đi. Tao không muốn người ta thấy bọn tao ra nông nỗi này.
Chúng tôi nói:
— Nhưng bà sẽ phải chịu đau đớn ghê gớm lắm.
— Đừng bận tâm về chuyện đó. Đốt nhà đi, là xong, nếu bọn mày dám đốt.
— Vâng, thưa bà, chúng tôi dám. Bà hãy tin vào chúng tôi.
Chúng tôi cắt cổ bà bằng một lưỡi dao cạo, rồi chúng tôi đi hút xăng từ một chiếc xe quân đội. Chúng tôi rưới xăng lên cả hai tử thi và trên những bức vách của cái nhà xiêu vẹo. Chúng tôi châm lửa và đi về.
Sáng hôm sau, Bà Ngoại nói:
— Nhà bà hàng xóm bị cháy rồi. Cả hai mẹ con đều ở trong nhà. Chắc là đứa con gái đã để quên cái gì trên ngọn lửa, con nhỏ ấy quả là đồ khùng.
Chúng tôi trở lại đó để lấy mấy con gà và mấy con thỏ, nhưng những người hàng xóm khác đã lấy mất chúng từ đêm hôm trước.
 
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
 
 
CHƯƠNG 55
Chiến tranh kết thúc
 
Đã mấy tuần nay, chúng tôi thấy đi ngang qua trước nhà Bà Ngoại là những người lính ngoại quốc mới của đoàn quân chiến thắng mà bây giờ chúng tôi gọi là quân Giải Phóng.
Những chiếc xe tăng, những cỗ trọng pháo, những xe bọc thép, và những xe vận tải chạy xuyên qua biên giới suốt ngày đêm. Trận tuyến đang di chuyển càng lúc càng xa hơn vào lãnh thổ của nước láng giềng.
Từ hướng ngược lại, có một đoàn khác: những tù binh, những kẻ bại trận. Trong số đó, có rất nhiều người của đất nước chúng tôi. Họ vẫn còn mặc quân phục, nhưng họ đã bị tước hết súng đạn và quân hàm. Họ đi chân trần, gằm đầu xuống, bước về hướng nhà ga nơi họ sẽ bị đẩy lên những toa xe lửa. Sẽ đi về đâu và sẽ đi bao lâu, không ai biết.
Bà Ngoại nói họ sẽ bị đưa đi rất xa, đến một xứ lạnh lẽo và hoang vắng nơi họ bị bắt buộc phải lao động quá gian khổ đến nỗi không một người nào sẽ trở về. Tất cả họ sẽ chết vì lạnh, kiệt sức, đói, và đủ thứ bệnh tật.
Một tháng sau khi đất nước chúng tôi được giải phóng thì chiến tranh hoàn toàn chấm dứt, và những người Giải Phóng ở lại trên đất nước chúng tôi, mãi mãi, người ta nói thế. Vì vậy chúng tôi nhờ Bà Ngoại dạy cho chúng tôi thứ tiếng của họ. Bà nói:
— Sao mà bọn mày lại muốn tao dạy thứ tiếng đó cho bọn mày? Tao đâu có phải là thầy giáo.
Chúng tôi nói:
— Đơn giản thôi, Bà Ngoại. Bà chỉ cần nói với chúng con bằng thứ tiếng ấy suốt cả ngày, rồi cuối cùng chúng con cũng sẽ hiểu.
Chẳng bao lâu, chúng tôi biết đủ để làm thông ngôn cho dân chúng và những người Giải Phóng. Chúng tôi kiếm lợi bằng cách đổi chác để lấy những thứ mà quân đội có rất nhiều: thuốc điếu, thuốc lá tẩm, sô-cô-la, và chúng tôi đổi lấy những thứ mà dân chúng có: rượu vang, rượu mùi, trái cây.
Tiền không còn giá trị nữa; mọi người đều đổi chác mọi thứ với nhau.
Bọn con gái ngủ với đám lính để đổi lấy những cặp vớ lụa ống dài, nữ trang, nước hoa, đồng hồ, và những thứ mà đám lính đã ăn cắp trong các ngôi làng họ đã đi qua.
Bà Ngoại không còn đẩy xe cút-kít ra chợ nữa. Các bà ăn mặc sang trọng đến nhà Bà Ngoại đổi một chiếc nhẫn hay một cặp bông tai để lấy một con gà hay một khúc thịt dồi.
Những thẻ mua hàng được phát ra. Mới bốn giờ sáng người ta đã nối đuôi nhau trước cửa hàng thịt và tiệm bánh mì. Những hàng quán khác vẫn đóng cửa vì chẳng có gì để bán.
Ai cũng thiếu thốn mọi thứ.
Bà Ngoại và chúng tôi thì chẳng thiếu thứ gì.
Sau đó, đất nước chúng tôi lại có quân đội và chính quyền mới của mình dưới sự điều khiển của những người Giải Phóng. Cờ của họ phấp phới ở mọi địa điểm công cộng. Chân dung lãnh tụ của họ được trưng bày khắp nơi. Họ dạy cho nhân dân chúng tôi những bài hát và điệu múa của họ, họ chiếu những cuốn phim của họ trong những rạp xi-nê của đất nước chúng tôi. Các trường học bị bắt buộc phải dạy thứ tiếng của những người Giải Phóng, còn những ngôn ngữ khác đều bị cấm.
Mọi sự phê phán hay đùa giỡn đối với những người Giải Phóng hay đối với chính quyền mới đều không được phép. Chỉ thốt ra một lời chỉ trích, bất cứ ai cũng có thể bị bắt giam không cần qua thủ tục, không cần phải xét xử. Có những người đàn ông và những người đàn bà biến mất mà không ai biết tại sao, và gia đình của họ sẽ không bao giờ còn gặp lại họ.
Biên giới được củng cố lại. Giờ đây không còn ai trốn đi được nữa.
Đất nước chúng tôi bị vây quanh bởi những hàng rào kẽm gai; nhân dân chúng tôi hoàn toàn bị cô lập với cả thế giới còn lại.
 
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
CHƯONG 56
 
 
Trường học mở cửa lại
 
Vào mùa thu, tất cả trẻ con đều trở lại trường học, trừ chúng tôi.
Chúng tôi nói với Bà Ngoại:
— Bà Ngoại, chúng con không bao giờ muốn đi học nữa.
Bà nói:
— Tao cũng mong vậy. Tao cần bọn mày ở đây. Vả lại, bọn mày còn học được gì thêm ở trường nữa?
— Chẳng có gì cả, Bà Ngoại, tuyệt đối chẳng có gì nữa cả.
Không bao lâu sau đó chúng tôi nhận được một lá thư. Bà Ngoại hỏi:
— Nó viết gì vậy?
— Nó viết rằng bà chịu trách nhiệm về chúng con và chúng con phải đến trình diện ở trường.
Bà Ngoại nói:
— Đốt lá thư đi. Tao không biết đọc và bọn mày cũng không. Chưa ai đọc lá thư đó cả.
Chúng tôi đốt lá thư. Chẳng bao lâu chúng tôi lại nhận bức thứ hai. Nó viết rằng nếu chúng tôi không đến trường, thì Bà Ngoại sẽ bị trừng phạt bởi pháp luật. Chúng tôi lại đốt cả bức thư ấy. Chúng tôi nói với Bà Ngoại:
— Bà Ngoại, bà đừng quên là chúng con một đứa bị mù và một đứa bị điếc nhé.
Vài ngày sau, một người đàn ông đến nhà chúng tôi. Ông nói:
— Tôi là cán bộ thanh tra của các trường tiểu học. Trong nhà bà có hai đứa trẻ ở lứa tuổi phải đi học. Bà đã nhận được hai lá thư cảnh cáo về việc này rồi.
Bà Ngoại nói:
— Ông muốn nói đến những lá thư ấy hả? Tôi không biết đọc. Hai đứa trẻ cũng không.
Một đứa chúng tôi hỏi:
— Ai vậy? Ông ấy nói cái gì?
Đứa kia:
— Ông ấy hỏi chúng ta có biết đọc không. Ông ấy trông thế nào?
— Ông ấy cao to và có vẻ ác ôn.
Chúng tôi cùng la lên:
— Đi đi! Đừng đánh chúng tôi! Đừng giết chúng tôi! Cứu tôi với!
Chúng tôi lủi trốn dưới gầm bàn. Ông thanh tra hỏi Bà Ngoại:
— Lũ trẻ làm cái trò gì vậy? Chúng muốn gì vậy hả?
Bà Ngoại nói:
— Ôi! Tội nghiệp, bọn chúng sợ tất cả mọi người! Bọn chúng đã trải qua những điều khủng khiếp ở Phố Lớn. Tệ hơn nữa, một đứa thì điếc và một đứa thì mù. Thằng điếc phải giải thích những gì nó thấy cho thằng mù, thằng mù phải giải thích những gì nó nghe cho thằng điếc. Nếu không thì bọn chúng không hiểu cái gì cả.
Dưới gầm bàn, chúng tôi tru tréo:
— Cứu tôi với, cứu tôi với! Nó nổ to quá! Nó làm chói mắt quá!
Bà Ngoại giải thích:
— Khi ai làm bọn chúng sợ, thì bọn chúng nghe và thấy những điều không có thật.
Ông thanh tra nói:
— Bọn chúng có những ảo giác. Phải đem bọn chúng vào săn sóc trong bệnh viện.
Chúng tôi rống to tiếng hơn nữa.
Bà Ngoại nói:
— Không còn gì tệ hại hơn! Bệnh viện chính là nơi sự bất hạnh đã xảy ra. Bọn chúng vào thăm mẹ đang làm việc trong đó. Khi bom trút xuống bệnh viện, thì bọn chúng có mặt ở đó, bọn chúng chứng kiến những người bị thương và những người chết; chính bọn chúng đã bất tỉnh suốt mấy ngày liền.
Ông thanh tra nói:
— Hai đứa trẻ thật đáng thương. Chứ ba mẹ bọn chúng đâu rồi?
— Chết hay mất tích rồi. Làm sao mà biết?
— Chắc chắn hai đứa trẻ là một gánh rất nặng cho bà.
— Làm gì khác bây giờ? Bọn chúng không còn ai ngoài tôi.
Khi ra đi, ông thanh tra bắt tay Bà Ngoại:
— Bà là một phụ nữ rất dũng cảm.
Chúng tôi nhận được một lá thư thứ ba trong đó viết rằng chúng tôi được miễn đến trường vì bị khuyết tật và chấn thương tâm thần.
 
[còn 6 chương]
 
 
CHƯƠNG 57
 
Bà Ngoại bán vườn nho
 
Một ông sĩ quan đến nhà bà Ngoại hỏi mua cái vườn nho. Quân đội muốn xây trên miếng đất của bà một toà nhà cho lính biên phòng.
Bà Ngoại hỏi:
— Và các ông muốn trả tôi bằng thứ gì? Tiền không còn giá trị nữa.
Ông sĩ quan nói:
— Để đổi lấy miếng đất của bà, chúng tôi sẽ lắp hệ thống nước và điện trong nhà cho bà.
Bà Ngoại nói:
— Tôi không cần điện và nước của các ông. Chúng tôi xưa nay vẫn sống chẳng cần những thứ đó.
Ông sĩ quan nói:
— Chúng tôi cũng có thể lấy cái vườn nho của bà mà không cần đổi cho bà cái gì cả. Và đó là điều chúng tôi sẽ làm nếu bà không chấp nhận lời đề nghị của chúng tôi. Quân đội cần sử dụng miếng đất của bà. Đó là nhiệm vụ đối với tổ quốc, và bà phải thi hành.
Bà Ngoại mở miệng ra nói, nhưng chúng tôi xen vào:
— Bà Ngoại, bà đã già nua và mệt nhọc rồi. Cái vườn nho đòi hỏi bà phải làm rất nhiều việc, mà thu hoạch lại chẳng ra gì. Ngược lại, giá trị ngôi nhà sẽ tăng lên rất nhiều nhờ có nước và điện.
Ông sĩ quan nói:
— Hai thằng cháu của bà thông minh hơn bà, Bà Ngoại.
Bà Ngoại nói:
— Đấy, dám nói như vậy đấy! Thì cứ bàn bạc với chúng nó. Đề chúng nó quyết định.
Ông sĩ quan nói:
— Nhưng tôi cần chữ ký của bà.
— Tôi sẽ ký bất cứ thứ gì ông muốn. Nói cho cùng thì tôi cũng chẳng biết viết.
Bà Ngoại thút thít khóc, bà đứng dậy, bà nói với chúng tôi:
— Tao giao cho bọn mày đấy.
Bà đi ra vườn nho.
Ông sĩ quan nói:
— Hình như bà ấy thương cái vườn nho quá, tội nghiệp cho bà già. Sao, đồng ý rồi chứ?
Chúng tôi nói:
— Như chính mắt các ông cũng thấy đấy, miếng đất đó có giá trị tình cảm to lớn đối với bà, và chắc chắn là quân đội cũng không muốn chiếm lấy tài sản mồ hôi nước mắt của một bà già nghèo khổ, hơn thế nữa, bà lại sinh ra từ đất nước của những người Giải Phóng anh hùng.
Ông sĩ quan nói:
— Ồ, vậy sao? Bà già là người gốc...
— Đúng thế. Bà nói ngôn ngữ ấy hoàn hảo. Và cả chúng tôi nữa. Và nếu các ông cố tình lạm dụng...
Ông sĩ quan vội vã nói:
— Không, không phải đâu! Vậy thì các cậu cần những thứ gì nào?
— Ngoài nước và điện, chúng tôi cần một cái buồng tắm.
— Chỉ vậy thôi sao! Nhưng các cậu muốn xây cái buồng tắm ấy ở đâu?
Chúng tôi đưa ông vào phòng chúng tôi và chỉ cho ông nơi chúng tôi muốn có cái buồng tắm.
— Ngay chỗ này, có cửa thông qua phòng chúng tôi. Từ bảy đến tám mét vuông. Có bồn tắm xây bên trong, có chậu rửa mặt, vòi sen, nước nóng, cầu tiêu.
Ông nhìn chúng tôi một lúc lâu, ông nói:
— Cái đó thì làm được.
Chúng tôi nói:
— Chúng tôi cũng muốn có một cái máy nghe đài phát thanh. Chúng tôi không có cái nào cả, và không cách nào mua được một cái.
Ông hỏi:
— Và thế là xong cả chứ?
— Vâng, thế là xong cả.
Ông bật cười:
— Các cậu sẽ có buồng tắm và cái máy nghe đài. Nhưng bây giờ tôi nên đi nói chuyện với bà ngoại của các cậu.
 
[còn 5 chương]
 
---------

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 02.05.2007 09:13:29
CHƯƠNG 58
 
Cơn bệnh của Bà Ngoại
 
Một buổi sáng, Bà Ngoại không ra khỏi phòng. Chúng tôi gõ cửa, chúng tôi kêu bà, nhưng bà không trả lời.
Chúng tôi đi ra đàng sau nhà, chúng tôi đập vỡ một khung kính cửa sổ để chui vào phòng bà.
Bà Ngoại nằm trên giường, bà không cử động. Nhưng bà còn thở và tim bà còn đập. Một đứa chúng tôi ngồi lại gần bà, đứa kia đi tìm một y sĩ.
Ông y sĩ khám Bà Ngoại. Ông nói:
— Bà Ngoại của các cậu đã bị tai biến não mạch, xuất huyết não.
— Bà có chết đi không?
— Không thể biết được. Bà đã già, nhưng tim bà còn khoẻ. Hãy cho bà uống những thứ thuốc này mỗi ngày ba lần. Và bà cần có người săn sóc.
Chúng tôi nói:
— Chúng tôi sẽ săn sóc cho bà. Cần phải làm gì?
— Đút cho bà ăn, tắm rửa cho bà. Có lẽ bà sẽ bị tê liệt vĩnh viễn.
Ông y sĩ ra đi. Chúng tôi nấu một món xúp nước cốt rau đậu và đút cho Bà Ngoại ăn bằng một cái muỗng nhỏ. Khi đêm xuống, phòng bà có mùi rất hôi hám. Chúng tôi giở tấm chăn của bà lên: chiếc chiếu rơm của bà đầy cứt.
Chúng tôi xin một ít rơm từ một người nông dân và mua những cái quần cao-su và những chiếc tã em bé.
Chúng tôi cởi quần áo Bà Ngoại ra, tắm rửa bà trong chậu tắm của chúng tôi, và dọn giường bà sạch sẽ. Bà gầy ốm đến nỗi những chiếc tã em bé rất vừa với bà. Chúng tôi thay tã cho bà mỗi ngày vài lần.
Một tuần sau đó, Bà Ngoại bắt đầu cử động hai bàn tay. Một buổi sáng, bà chào chúng tôi bằng một tràng những lời chửi bới:
— Bọn chó đẻ! Đi quay cho tao một con gà! Chứ bọn mày tưởng tao sẽ lấy lại sức với món rau đậu và xúp của bọn mày? Tao cũng cần sữa dê nữa! Tao hy vọng bọn mày chẳng bỏ bê mọi việc trong lúc tao bệnh!
— Không, Bà Ngoại, chúng con chẳng bỏ bê bất cứ việc gì cả.
— Đỡ cho tao đứng dậy, bọn vô dụng!
— Bà Ngoại, bà phải ở trong giường, ông y sĩ dặn như vậy.
— Y sĩ, y sĩ! Cái thằng khốn kiếp đó! Tê liệt vĩnh viễn! Tao sẽ cho nó biết tao bị tê liệt như thế nào!
Chúng tôi đỡ cho bà đứng dậy, chúng tôi dìu bà vào bếp, chúng tôi đặt bà ngồi trên ghế. Khi chúng tôi nấu xong món gà, bà ăn một mình hết sạch. Ăn xong, bà nói:
— Chứ bọn mày còn đợi gì nữa? Làm cho tao một cái gậy chắc chắn, lẹ lên, bọn lười tận xương, tao muốn đi xem thử mọi việc có đâu vào đấy không.
Chúng tôi chạy vào rừng, chúng tôi tìm một nhánh cây thích hợp và, trong khi bà ngồi xem, chúng tôi cưa nhánh cây cho đúng cỡ của bà. Bà lập tức chộp lấy nó và doạ chúng tôi:
— Bọn mày sẽ biết tay tao, nếu mọi việc không đâu vào đấy!
Bà đi ra vườn. Chúng tôi đi theo, sau bà một quãng. Bà đi vào nhà tiêu, và chúng tôi nghe bà càu nhàu:
— Quần cao-su! Thật là một ý tưởng quái đản! Bọn chúng điên thật rồi!
Khi bà trở vào nhà, chúng tôi ra cầu tiêu xem thử. Bà đã ném những cái quần nhựa và những chiếc tã xuống hố tiêu.
 
[còn 4 chương]
 

meocon_thongminh93
  • Số bài : 1087
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2006
  • Nơi: Hải Phòng
RE: TIỂU THUYẾT :CUỐN SỔ LỚN - 14.06.2007 19:09:47
CHƯƠNG 59
 
Kho báu của Bà Ngoại
 
Một buổi tối, Bà Ngoại nói:
— Đóng chặt tất cả cửa ra vào và cửa sổ. Tao muốn nói chuyện với chúng mày, và tao không muốn bất kỳ ai nghe.
— Không ai đi qua nơi này cả, Bà Ngoại.
— Đám lính biên phòng đi rảo khắp nơi, bọn mày biết rõ mà. Và chúng có thể nghe lén qua cửa nhà mọi người. Đưa cho tao một tờ giấy với một cây bút chì.
Chúng tôi hỏi:
— Bà muốn viết cái gì hả, Bà Ngoại?
Bà la lên:
— Bảo sao thì làm vậy! Đừng thắc mắc!
Chúng tôi các đóng cửa sổ và cửa ra vào, chúng tôi mang giấy và bút chì ra. Bà Ngoại, ngồi ở đầu bàn bên kia, vẽ một cái gì lên tờ giấy. Bà nói thầm thì:
— Đây là nơi giấu kho báu của tao.
Bà đưa tờ giấy cho chúng tôi. Bà đã vẽ trên đó một hình chữ nhật, một dấu thập và, dưới dấu thập, một vòng tròn. Bà Ngoại hỏi:
— Bọn mày hiểu không?
— Dạ, Bà Ngoại, chúng con hiểu. Nhưng chúng con đã biết rồi.
— Sao, chứ bọn mày đã biết cái gì?
Chúng tôi thầm thì đáp:
— Biết kho báu của bà được chôn dưới cây thập giá trên mộ Ông Ngoại.
Bà Ngoại im lặng một lúc, rồi bà nói:
— Đáng lẽ tao phải nghi ngờ điều đó. Bọn mày biết đã lâu chưa?
— Đã lâu lắm rồi, Bà Ngoại. Ngay từ lúc chúng con thấy bà thăm mộ Ông Ngoại.
Bà Ngoại thở hổn hển:
— Chẳng có gì mà hớn hở. Rốt cuộc tất cả cũng để cho bọn mày. Bây giờ thì bọn mày đã đủ khôn để biết phải làm gì với cái đó.
Chúng tôi nói:
— Lúc này thì chẳng làm gì được chuyện gì với cái đó.
Bà Ngoại nói:
— Chẳng làm gì được. Bọn mày nói đúng. Phải chờ đợi. Bọn mày chờ đợi được không?
— Được, Bà Ngoại.
Cả ba người cùng im lặng một lát, rồi Bà Ngoại nói:
— Tao chưa nói hết. Nếu tao bị tai biến một lần nữa, hãy nhớ là tao không cần bọn mày tắm rửa, không cần quần cao-su, không cần tã em bé gì cả.
Bà đứng dậy, bà lục lạo trên kệ tủ, giữa những chai rượu. Bà quay lại với một cái chai nhỏ màu xanh:
— Thay vì những món thuốc gớm ghiếc của bọn mày, bọn mày hãy rót hết chai này vào cốc sữa đầu tiên của tao.
Chúng tôi không trả lời. Bà hét lên:
— Bọn mày có hiểu không, đồ chó đẻ?
Chúng tôi im lặng. Bà nói:
— Có lẽ bọn mày sợ người ta khám nghiệm tử thi phải không, đồ nhãi ranh? Sẽ chẳng có khám nghiệm tử thi gì cả. Sẽ chẳng có ai mất công từ trưa tới chiều để khám nghiệm một bà già chết vì bị tai biến lần thứ nhì.
Chúng tôi nói:
— Chúng con không sợ họ khám nghiệm tử thi, Bà Ngoại. Chúng con chỉ nghĩ là bà có thể hồi sinh một lần thứ nhì nữa.
— Không. Tao sẽ không hồi sinh. Tao biết mà. Cho nên phải chấm dứt càng sớm càng tốt.
Chúng tôi im lặng. Bà Ngoại bật khóc:
— Bọn mày không biết toàn thân bại liệt là thế nào cả. Thấy tất cả, nghe tất cả, mà không cử động được. Nếu bọn mày không làm được cho tao một việc nhỏ như vậy, thì bọn mày đúng là lũ vô ơn, lũ rắn rít mà tao đã uổng công nuôi nấng.
Chúng tôi nói:
— Đừng khóc nữa, Bà Ngoại. Chúng con sẽ làm điều đó; nếu bà muốn chúng con làm, thì chúng con sẽ làm.
 
 
CHƯƠNG 60
 
 
Bố của chúng tôi
 
Khi Bố của chúng tôi đến nhà, ba bà cháu chúng tôi đang làm việc trong bếp vì trời mưa bên ngoài.
Bố dừng lại trước cửa lớn, hai tay khoanh trước ngực, hai chân dang ra. Bố hỏi:
— Vợ tôi đâu?
Bà Ngoại cười khẩy:
— Ối chào! Thì ra nó có chồng thật đấy chứ.
Bố nói:
— Đúng, tôi là chồng của con gái của bà. Và kia là hai đứa con trai của tôi.
Bố nhìn chúng tôi, nói thêm:
— Các con đã cao lớn hẳn lên. Nhưng các con vẫn không thay đổi.
Bà Ngoại nói:
— Con gái của tôi, tức là vợ của anh, đã ký thác hai đứa trẻ cho tôi.
Bố nói:
— Đáng lẽ cô ấy ký thác chúng cho người nào khác thì tốt hơn. Cô ấy đâu? Tôi nghe nói cô ấy đi nước ngoài. Có thật không?
Bà Ngoại nói:
— Chuyện đó cũ rồi, toàn là chuyện cũ rích. Chứ từ đó đến giờ anh đi đâu?
Bố nói:
— Tôi đã bị bắt làm tù binh. Và bây giờ tôi muốn tìm lại vợ tôi. Đừng cố tình giấu giếm với tôi điều gì cả, mụ phù thuỷ già.
Bà Ngoại nói:
— Tôi rất ái mộ cái cách anh cảm ơn những gì tôi đã làm cho hai đứa con của anh.
Bố hét lên:
— Tôi đếch cần! Vợ tôi đâu?
Bà Ngoại nói:
— Anh đếch cần? Đếch cần hai đứa nhỏ và tôi? Thế thì được, tôi sẽ chỉ cho anh biết vợ anh ở đâu!
Bà Ngoại đi ra vườn, chúng tôi đi theo. Bà trỏ gậy vào luống hoa mà chúng tôi đã trồng trên mộ của Mẹ:
— Kia kìa! Vợ anh ở chỗ đó. Dưới đất.
Bố hỏi:
— Chết rồi ư? Vì sao? Lúc nào?
Bà Ngoại nói:
— Chết. Vì một quả lựu đạn. Vài ngày trước khi hết chiến tranh.
Bố nói:
— Chôn người tuỳ tiện bất cứ chỗ nào là vi phạm luật lệ.
Bà Ngoại nói:
— Chúng tôi chôn nó nơi nó chết. Và đó chẳng phải là tuỳ tiện bất cứ chỗ nào. Đây là vườn của tôi. Cũng là vườn của nó hồi nó còn bé.
Bố nhìn những chiếc hoa ướt và nói:
— Tôi muốn nhìn thấy cô ấy.
Bà Ngoại nói:
— Anh không nên làm thế. Đừng quấy nhiễu người chết.
Bố nói:
— Nói gì đi nữa, cô ấy cũng sẽ phải được chôn trong một nghĩa địa. Đó là luật lệ. Đưa tôi một cái xẻng.
Bà Ngoại nhún vai:
— Đưa cho ông ấy một cái xẻng.
Dưới mưa, chúng tôi xem Bố tàn phá vướn hoa nhỏ của chúng tôi, chúng tôi xem ông đào đất. Ông chạm đến những tấm chăn, ông lôi chúng lên. Một bộ xương lớn nằm dưới đó, với một bộ xương bé tí dính vào ngực.
Bố hỏi:
— Cái gì thế, cái gì trên cô ấy thế hả?
Chúng tôi nói:
— Đó là một em bé. Em gái nhỏ của chúng con.
Bà Ngoại nói:
— Tôi đã bảo ông hãy để cho người chết được yên. Vào rửa tay trong bếp đi.
Bố không đáp. Ông nhìn chằm chằm vào hai bộ xương. Mặt ông đầm đìa mồ hôi, nước mắt, và nước mưa. Ông leo ra khỏi cái hố một cách đau đớn và bỏ đi không hề ngoái lại, hai bàn tay và quần áo ông dính bùn bê bết.
Chúng tôi hỏi Bà Ngoại:
— Mình sẽ làm gì?
Bà nói:
— Lấp cái hố lại. Chứ còn làm gì nữa?
Chúng tôi nói:
— Bà hãy đi vào chỗ ấm áp, Bà Ngoại. Chúng con sẽ làm việc này.
Bà đi vào nhà.
Chúng tôi dùng chăn gói lại, chúng tôi vác hai bộ xương lên gác xép, chúng tôi trải những khúc xương ra trên rơm cho khô ráo. Rồi chúng tôi trèo xuống và lấp cái hố nơi không còn ai nằm nữa.
Sau đó, suốt mấy tháng, chúng tôi lau chùi và đánh bóng cái sọ và những khúc xương của Mẹ và em bé, rồi chúng tôi cẩn thận ghép từng bộ xương lại bằng cách dùng dây kẽm nối các khúc xương vào nhau. Khi chúng tôi làm xong việc, chúng tôi treo bộ xương của Mẹ lên một cái đòn dông trên nóc gác xép và cho bộ xương em bé đu lên cổ Mẹ.
 
 
CHƯƠNG 61
 
Bố của chúng tôi trở lại
 
Chúng tôi không gặp lại Bố cho đến vài năm sau.
Trong thời gian đó, Bà Ngoại bị tai biến một lần nữa, và chúng tôi đã giúp bà chết như bà yêu cầu. Bây giờ bà được chôn trong cùng ngôi mộ với Ông Ngoại. Trước khi người ta mở mộ, chúng tôi đã lấy kho báu ra và đem giấu nó dưới cái băng ghế trước cửa sổ phòng chúng tôi nơi vẫn còn khẩu súng, những viên đạn và những quả lựu đạn.
Một đêm kia Bố trở lại và hỏi:
— Bà Ngoại của các con đâu?
— Bà đã chết rồi.
— Các con sống một mình à? Làm sao mà xoay xở?
— Tốt lắm, Bố.
Bố nói:
— Bố đến đây để trốn. Các con phải giúp bố.
Chúng tôi nói:
— Mấy năm nay chúng con chẳng có tin tức gì về bố.
Bố đưa hai bàn tay cho chúng tôi xem. Ông không còn cái móng tay nào nữa. Tất cả các móng tay đều đã bị nhổ tận gốc:
— Bố vừa ra khỏi tù. Người ta đã tra tấn bố.
— Vì sao?
— Bố không biết. Chẳng có lý do gì cả. Bố là một cá nhân bị tình nghi về chính trị. Bố không được phép hành nghề chuyên môn của mình. Bố bị theo dõi liên tục. Người ta thường xuyên lục soát chỗ ở của bố. Bố không thể nào sống trong đất nước này nữa.
Chúng tôi nói:
— Bố muốn vượt biên?
Bố nói:
— Đúng. Các con ở đây, chắc các con phải biết đường biết lối...
— Dạ, chúng con biết đường biết lối. Cái biên giới này không thể vượt qua được.
Bố cúi đầu xuống, nhìn hai bàn tay một lúc, rồi nói:
— Phải có một chỗ nào sơ hở chứ. Phải có cách vượt qua chứ.
— Nếu bố liều mạng thì được.
— Bố thà chết còn hơn ở lại đây.
— Bố phải tự quyết định sau khi nghe rõ mọi việc.
Bố nói:
— Bố lắng nghe các con đây.
Chúng tôi giải thích:
— Điều khó khăn trước hết là phải đi đến tận cái hàng rào kẽm gai đầu tiên mà không bị thằng lính tuần tiễu nào bắt gặp, cũng không bị bọn lính trên chòi canh nhìn thấy. Điều này thì làm được. Chúng con biết giờ giấc của lính tuần tiễu và vị trí của các chòi canh. Hàng rào thì cao một mét rưỡi và dày một mét. Bố phải có hai tấm ván. Một tấm để trèo lên hàng rào, tấm kia thì đặt lên trên hàng rào để đứng lên đó. Nếu bố mất thăng bằng, bố sẽ té vào kẽm gai và bố không thể nào gỡ ra được nữa.
Bố nói:
— Bố sẽ không mất thăng bằng.
Chúng tôi nói tiếp:
— Bố phải giữ lại hai tấm ván ấy để làm giống y như vậy mà vượt qua cái hàng rào thứ nhì dựng cách đó bảy mét.
Bố cười:
— Đó là trò chơi của trẻ con.
— Dạ, nhưng cái khoảng cách giữa hai hàng rào thì có gài mìn.
Bố tái mặt:
— Thế thì... hết cách.
— Không. Đó và vấn đề may rủi. Những trái mìn được gài theo chữ chi, trông như hình w. Nếu bố bước theo đường thẳng, có thể bố sẽ chỉ đạp lên một trái mìn. Nếu bước sải chân, thì hầu như tỷ lệ may rủi là một phần bảy.
Bố nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
— Bố đành liều.
Chúng tôi nói:
— Nếu thế thì chúng con sẵn sàng giúp bố. Chúng con sẽ đi với bố đến cái hàng rào thứ nhất.
Bố nói:
— Được lắm. Bố cảm ơn các con. Các con không có chút gì để ăn sao?
Chúng tôi mời ông ăn bánh mì và phó-mát sữa dê. Chúng tôi cũng mời ông uống một ít rượu nho đã làm từ vườn nho cũ của Bà Ngoại. Chúng tôi rót vào ly của ông vài giọt thuốc ngủ mà Bà Ngoại biết rành cách chế tạo từ các thứ thảo mộc.
Chúng tôi đưa Bố vào phòng chúng tôi và nói:
— Chúc bố ngủ ngon. Chúng con sẽ đánh thức bố vào sáng mai.
Chúng tôi ngủ trên băng ghế ở góc bếp.
 
 
CHUƠNG 62 (CHƯƠNG CUỐI )

Cuộc chia ly
 
Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy rất sớm. Chúng tôi xem lại để biết chắc rằng Bố đang ngủ say.
Chúng tôi chuẩn bị bốn tấm ván.
Chúng tôi đào kho báu của Bà Ngoại lên: những thỏi vàng và bạc, rất nhiều món châu ngọc. Chúng tôi đặt hầu hết những thứ ấy vào một túi vải. Mỗi đứa chúng tôi cũng mang theo một quả lựu đạn, phòng trường hợp bất ngờ gặp phải bọn lính tuần tiễu. Dẹp được bọn lính tuần tiễu, chúng tôi có nhiều thì giờ hơn.
Chúng tôi đi do thám một vòng gần biên giới để xác định vị trí tốt nhất: một góc khuất giữa hai chòi canh. Nơi đó, dưới một gốc cây to, chúng tôi giấu cái túi vải và hai tấm ván.
Chúng tôi trở về, chúng tôi ăn uống. Sau đó, chúng tôi mang thức ăn điểm tâm đến cho Bố. Chúng tôi phải lay ông để đánh thức ông. Ông dụi mắt và nói:
— Đã lâu rồi bố mới được ngủ ngon như thế.
Chúng tôi đặt khay thức ăn lên hai đầu gối của ông. Ông nói:
— Thật là một bữa tiệc! Sữa, cà-phê, trứng, dăm-bông, bơ, mứt! Những thứ này không thể tìm thấy ở Phố Lớn. Làm cách nào các con có được?
— Chúng con làm việc. Ăn đi, Bố. Chúng con không có thì giờ để mời bố ăn một bữa nữa trước khi bố lên đường.
Ông hỏi:
— Tối nay đi hả?
Chúng tôi nói:
— Đi ngay bây giờ. Bố ăn xong thì đi ngay.
Ông nói:
— Các con điên rồi hả? Bố từ chối vượt qua cái biên giới chó đẻ đó vào giữa ban ngày! Bọn chúng sẽ thấy.
Chúng tôi nói:
— Chúng ta cũng cần phải thấy đường, Bố ạ. Chỉ có những người ngu mới cố vượt biên giới vào ban đêm. Ban đêm, mật độ tuần tiễu tăng gấp bốn lần và cả khu vực đó thường xuyên bị quét đèn pha. Ngược lại, sự canh gác trở nên lỏng lẻo vào khoảng mười một giờ sáng. Bọn lính biên phòng nghĩ rằng chẳng có ai điên mà vượt biên giới vào giờ đó.
Bố nói:
— Các con tuyệt đối hữu lý. Bố trông cậy vào các con.
Chúng tôi hỏi:
— Bố cho phép chúng con lục soát các túi quần túi áo của bố trong lúc bố ăn chứ?
— Các túi của bố? Tại sao?
— Bố không được để lộ danh tính. Nếu có điều gì xảy ra và bọn chúng biết bố là bố của chúng con, thì chúng con sẽ bị kết tội tòng phạm.
Bố nói:
— Các con nghĩ đủ hết mọi chuyện.
Chúng tôi nói:
— Chúng con phải nghĩ đến sự an toàn cho bản thân.
Chúng tôi lục soát quần áo của bố. Chúng tôi lấy những thứ giấy tờ, thẻ căn cước của Bố, sổ địa chỉ, một chiếc vé xe lửa, mấy cái biên lai và một tấm ảnh của Mẹ. Chúng tôi đốt tất cả trong lò bếp, trừ tấm ảnh.
Lúc mười một giờ, chúng tôi lên đường. Mỗi đứa chúng tôi mang một tấm ván.
Bố không mang gì cả. Chúng tôi bảo ông chỉ đi theo chúng tôi và gây ít tiếng động chừng nào tốt chừng ấy.
Chúng tôi đến gần biên giới. Chúng tôi bảo Bố nằm xuống sau một cây to và đừng nhúc nhích.
Chẳng mấy chốc, cách chúng tôi vài mét, có hai tên lính tuần tiễu đi ngang qua. Chúng tôi có thể nghe bọn chúng nói:
— Tao tự hỏi sẽ được ăn món gì.
— Thì cũng thứ cứt ấy như thường lệ.
— Hết thứ cứt này đến thứ cứt khác. Hôm qua, đồ ăn rất ghê tởm, nhưng đôi khi cũng có bữa ngon.
— Ngon? Mày sẽ không nói như vậy nếu mày đã ăn món xúp mẹ tao nấu.
— Tao chưa bao giờ ăn món xúp mẹ mày nấu. Mẹ hả, tao, tao cũng chẳng có mẹ. Tao chưa bao giờ được ăn gì ngoài cứt đái. Trong quân đội, ít ra, tao cũng có lúc được ăn ngon.
Bọn tuần tiễu đi xa. Chúng tôi nói:
— Đi, Bố. Chúng ta có hai mươi phút trước khi đám lính tuần tiễu khác lại đến.
Bố kẹp hai tấm ván dưới nách, bước tới, đặt một tấm ván dựa vào hàng rào, trèo lên.
Chúng tôi nằm úp mặt dưới gốc cây to, chúng tôi bịt hai tai, chúng tôi hả miệng.
Có một tiếng nổ.
Chúng tôi chạy đến hàng rào kẽm gai với hai tấm ván và cái túi vải.
Bố nằm gần hàng rào thứ nhì.
Đúng, có một cách để vượt qua biên giới: đó là cho một người nào đó đi trước.
Nhặt cái túi vải, bước theo dấu chân, rồi dậm lên cái xác cứng đờ của Bố, một đứa chúng tôi đi vào đất nước khác.
Đứa ở lại trở về nhà Bà Ngoại.
 
[hết]
Đón đọc: BẰNG CHỨNG (La Preuve),
cuốn thứ nhì trong bộ ba tiểu thuyết của Agota Kristof.
 

 

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 55 trên tổng số 55 bài trong đề mục