VÌ SAO TÔI THICH LÀM THƠ ĐƯỜNG LUẬT (biên khảo)
Thay đổi trang: << < 7 | Trang 7 của 7 trang, bài viết từ 91 đến 99 trên tổng số 99 bài trong đề mục
sóng trăng 01.03.2007 14:44:23 (permalink)
0

Tạm biệt Quỳnh Nguyên và các bạn .
Hương Tình Ðời .


thềm hoa khách đã trở hài ...
vội vàng níu lại ... một hai tự tình
 
 

Gió gió đưa hương ngát một trời
Tình tình hỏi ối ái ai ơi
Lòng rằng rất muốn theo niêm luật
Ý cứ còn ghen ngược nỗi đời
Tiếng nói này là ngôn ngữ mẹ
Âm vần đó nọ mới vui tôi
Ngày xưa bé bỏng lời ru ấy
Ngọt thấm hồn con đến cuối đời
 
Thôi thế thì thôi đành thế nhé
Tạ lòng cũng học chút thơ chơi
Đường ai luật nấy trời Nam Bắc
Gặp nhau một thoáng hương tình đời
 

cảm ơn Hương Tình Đời ghé và chỉ cho một số điều thích thú,
mong bạn ở lại đây chơi, từ từ sẽ khám phá ra nhiều điều vui lắm
 

 
sóng trăng
#91
    Hữu Hạnh 03.03.2007 02:11:01 (permalink)
    0
    Tự Nhủ
     
    Buồn  ơi nói luật tớ đi mau
    Tính chẳng hơn ai thật đáng rầu
    Bác  bảo, người hay theo chính thống
    Em  cười, mình dở bớt câu mâu
    Gom  đôi chữ bỏ niêm, bằng, trắc
    Lượm mấy từ chêm đối, vận , câu
    Tự nhủ từ nay nên học hỏi
    Đường thi thưởng vị nghĩ cho sâu
     
    Hữu Hạnh
     
    #92
      da1uhate 04.03.2007 03:35:04 (permalink)
      0
       
      Bài xướng:
       
      CHẢ MUỐN VỀ
       
      Tám khoảng vành trong học lấy nghề
      Tha hồ ngang dọc với xe dê
      Giang tay hứng trọn người thiên hạ
      Thọc cẳng tràn qua ngọn lạch khê
      Cánh bướm dập dìu hoa chẳng đủ
      Vườn đào mơn mởn lá còn che
      Trên non dưới biển bao nhiêu kẻ
      Tẩn mẩn nghề chơi chả muốn về
       
      Trần Mạnh Hùng
       
       
      Bài họa 1:
       
      TÀN CANH THAO THỨC
       
      Thương ai năm tháng bận tay nghề
      Vẫn chửa xa rời kiếp ngựa dê
      Lá thắm muốn xuôi dòng thủy lộ
      Chim hồng sao bặt bóng sơn khê
      Cành khô queo lá chờ mưa ướt
      Nhụy rửa phai màu đợi nắng che
      Tin đuổi theo tin đi mất hút
      Tàn canh thao thức đợi ai về
       
      Lá chờ rơi
       
       
      Bài họa 2:
       
      cuộc đời trôi mau
       
      thân ham sung sướng học bao nghề
      phú quí sang giàu nó rủ rê
      tâm gửi mộng xuân vào tuyết lạnh
      cười trao giọng khản mấy nồng khê
      nhạt phai mới tiếc thời son trẻ
      tình thắm duyên chung thiếu chở che
      thao thức dăng đêm màu tóc trắng
      vần thơ cuộn nhớ giục ta về
       
      MINH TUẤN
       
       
      Bài họa 3:
       
       
      NGHỀ DÊ
       
      Những kẻ ngồi không thiệt rỗi nghề
      Làng chàng thấy gái trổ mòi dê
      Chiều tàn dọ dẫm lên trung lộ
      Sáng sớm lò dò xuống tiểu khê
      Nắng táp ga lăng đưa nón đội
      Mưa sa lịch sự lấy dù che
      Bô trai khó thắng thằng dai nhách
      Lỡ gặp dông luôn chẳng dám về
       
      da1uhate
      3 Mar 07
       
       
      Bài họa 4:
       
      Ngư-Tiều
       
      sướng đâu thân kiếp có nhiều nghề
      nhiều nỗi oan khiên bước ngựa dê
      bão dập quanh thuyền cơn sóng cả
      mưa vùi ngọn gió xám sơn khê
      Ngư Tiều mấy chú chung niềm đắng
      thầm trách ông trời chẳng chở che
      vất vả quanh năm cùng gió bão
      vẫn vui theo bạn chẳng quay về
       
      YeuDieuLongNu
       
      http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=104875&mpage=184&#251733
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.03.2007 07:58:24 bởi da1uhate >
      #93
        da1uhate 05.03.2007 07:28:29 (permalink)
        0
        Bài xướng:

        CHẢ MUỐN VỀ

        Tám khoảng vành trong học lấy nghề
        Tha hồ ngang dọc với xe dê
        Giang tay hứng trọn người thiên hạ
        Thọc cẳng tràn qua ngọn lạch khê
        Cánh bướm dập dìu hoa chẳng đủ
        Vườn đào mơn mởn lá còn che
        Trên non dưới biển bao nhiêu kẻ
        Tẩn mẩn nghề chơi chả muốn về

        Trần Mạnh Hùng


        Bài họa 1:

        TÀN CANH THAO THỨC

        Thương ai năm tháng bận tay nghề
        Vẫn chửa xa rời kiếp ngựa dê
        Lá thắm muốn xuôi dòng thủy lộ
        Chim hồng sao bặt bóng sơn khê
        Cành khô queo lá chờ mưa ướt
        Nhụy rửa phai màu đợi nắng che
        Tin đuổi theo tin đi mất hút
        Tàn canh thao thức đợi ai về

        Lá chờ rơi


        Bài họa 2:

        CUỘC ĐỜI TRÔI MAU

        Thân ham sung sướng học bao nghề
        Phú quí sang giàu nó rủ rê
        Tâm gửi mộng xuân vào tuyết lạnh
        Cười trao giọng khản mấy nồng khê
        Nhạt phai mới tiếc thời son trẻ
        Tình thắm duyên chung thiếu chở che
        Thao thức dăng đêm màu tóc trắng
        Vần thơ cuộn nhớ giục ta về

        MINH TUẤN


        Bài họa 3:

        NGHỀ DÊ

        Những kẻ ngồi không thiệt rỗi nghề
        Làng chàng thấy gái trổ mòi dê 
        Chiều tàn dọ dẫm lên trung lộ 
        Sáng sớm lò dò xuống tiểu khê
        Nắng táp ga lăng đưa nón đội
        Mưa sa lịch sự lấy dù che
        Bô trai khó thắng thằng dai nhách
        Lỡ gặp dông luôn chẳng dám về

        da1uhate
        3 Mar 07


        Bài họa 4:

        NGƯ TIỀU

        sướng đâu thân kiếp có nhiều nghề
        nhiều nỗi oan khiên bước ngựa dê
        bão dập quanh thuyền cơn sóng cả
        mưa vùi ngọn gió  xám sơn khê
        Ngư Tiều mấy chú chung niềm đắng
        thầm trách ông trời chẳng chở che
        vất vả quanh năm cùng  gió bão
        vẫn vui theo bạn chẳng quay về

        YeuDieuLongNu


        Bài họa 5:

        TIỆC VUI CÙNG BẠN

        Nấu nướng xào chiên cũng cái nghề
        Dưa hành gạo mắm với sườn dê
        Canh hầm mớm lửa sôi rục rã
        Gạo thổi bớt than chín chẳng khê
        Mâm dọn em căng liền chiếu mảnh 
        Tay xoè anh vội lấy dù che
        Tiệc vui đãi bạn tình muôn vẻ
        Đến xế ngà say không muốn về

        Đông Hòa
        04.03.07


        Bài họa 6:

        NON NGHỀ

        Thơ mà thất đối bởi non nghề
        Chẳng học tinh tường chỉ cọp dê
        Cứ nghĩ ngon ăn nhiều dễ dãi
        Đâu ngờ khó nuốt lắm nhiêu khê
        Cao nhân nhận xét làm sao giấu
        Thức giả phê bình há dám che
        Dựa cột mà nghe cho chắc cú
        Còn chừa ngõ hậu có đường về

        da1uhate
        4 Mar 07
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.03.2007 07:55:09 bởi da1uhate >
        #94
          Chỉ Vui Thôi 06.03.2007 14:36:07 (permalink)
          0
          Chỉ Vui Thôi lang thang trên mạng thấy có bài viết hay hay... nghĩ rằng là hữu ích cho việc những ai quan tâm nên post lại!
          Đây chỉ là lòng chân thành của CVT tôi, nếu ai không vừa ý xin thứ lỗi trước!


          THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG LUẬT HAY LUẬT THI (cận thể) VÀ CỔ PHONG (cổ thể)
          Bài viết của Khải Chính Phạm Kim Thư


          Thơ Đường Luật hay Luật Thi (cận thể) là loại thơ ngũ ngôn hay thất ngôn (bát cú và tứ tuyệt hay tuyệt cú) được làm theo luật thơ rất có quy củ đặt ra từ đời nhà Đường bên Trung Quốc (618-907).

          Thơ Cổ Phong (cổ thể) là thể thơ tương đối tự do gồm những câu thơ 5 chữ hay 7 chữ (ngũ ngôn cổ phong hay thất ngôn cổ phong), không hạn chế số câu. Thơ Cổ Phong xuất hiện vào đời Đông Hán (25-220), trước đời nhà Đường.

          I. Đặc Tính và Tác Dụng của Thơ
          Làm văn đã khó mà làm thơ, nhất là thơ Đường Luật, lại càng khó hơn.Trước khi bàn về thi pháp của Thơ Đường Luật, chúng ta cần phải hiểu về các đặc tính và tác dụng của thơ.

          Thơ là hình thức đầu tiên của văn học. Thơ có trước văn tự và âm nhạc. Cảm xúc là nguồn gốc của thơ. Cảm xúc bị xúc động thì trong lòng phát ra lời với âm hưởng và tiết tấu gọi là thơ. Điều này có nghĩa là thơ dùng để biểu lộ tình cảm và tư tưởng con người. Do đó đặc tính của thơ là cảm xúc và nhạc tính. Nhạc tính ở đây có nghĩa là âm hưởng (harmony) và tiết tấu (rhythm). Âm hưởng là sự hòa điệu, hòa âm, và hòa thanh của các từ được dùng để gây xúc động cho thính giả. Tiết tấu có nghĩa là nhịp điệu và sự ngắt nhịp trong câu thơ.

          Thơ có tác dụng để tạo tình hòa khí giữa vợ chồng, củng cố lòng hiếu thảo của con cháu đối với cha mẹ và ông bà, xây dựng đạo làm người, giáo hóa về luân thường đạo lý cho nhân loại, thăng hoa tình cảm con người, can ngăn các việc làm ngang trái của nhà cầm quyền, và cải thiện phong tục cùng tập quán của xã hội. Chính vì thế mà người ta có quan niệm “văn dĩ tải đạo”, tức là thơ văn dùng để chuyên chở đạo lý.

          Nói chung thơ là nghệ thuật truyền thông tư tưởng và cảm xúc bằng ngôn ngữ đượm tính âm nhạc. Mỹ cảm trong thơ do tiết tấu và âm hưởng tạo ra. Thơ nhạc thường đi đôi với nhau vì những bài thơ hay thường được phổ nhạc. Chính vì thế thơ là một nghệ thuật và hệ thống ký hiệu làm phát sinh trong lòng ta những cảm giác, tình cảm, tư tưởng, và ý tưởng. Và cũng chính vì thế mà thơ còn được các nhà cách mạng Quốc Gia chân chính sử dụng để khích động, kích thích, và dẫn khởi lòng yêu nước thương nòi cùng trí tưởng tượng của chúng ta để dùng vào việc cứu nước cứu dân, hầu xây dựng tự do dân chủ và nhân quyền cho toàn dân Việt.

          II. Sự Sáng Tác Thơ
          Sự sáng tác thơ có nghĩa là việc làm thơ. Việc sáng tác thơ bao gồm “lập ý” và “tu từ.”

          a. Việc Lập Ý
          Lập ý có nghĩa là khi làm thơ chúng ta cần phải diễn đạt đúng với những ý tưởng và cảm xúc đang có trong lòng một cách chân thành. Đó là nội dung bài thơ. Chính vì thế mà thơ có thể làm cho người đọc cảm ứng theo ý thơ mà rơi lệ. Việc “lập ý” trong thơ Đường có quy luật về phép dàn ý (xin xem phần nói về bố cục của bài thơ Đường luật “thất ngôn bát cú”.

          b. Việc Tu Từ
          Tu từ có nghĩa là cách dùng chữ hay lời thơ đúng cách và chải chuốt để diễn đạt ý thơ. Tu từ thuộc về mặt hình thức của bài thơ.. Chữ hay lời thơ có tác dụng khích động độc giả. Chính vì thế mà việc tu từ giữ một địa vị quan trọng thi pháp.

          Có hai khuynh hướng về cách dùng chữ trong việc làm thơ: dùng chữ một cách cầu kỳ để kích động độc giả và dùng chữ một cách tự nhiên và bình dị. Việc chủ trương sử dụng chữ một cách cầu kỳ, nhất là trong thơ Đường Luật, là cốt để kinh động độc giả theo ý muốn của nhà thơ. Thơ Đường Luật thuộc về loại thơ nặng phần kỹ xảo.

          Những người chủ trương dùng chữ một cách tự nhiên và bình dị quan niệm rằng nếu dùng chữ cầu kỳ quá thì ý thơ sẽ mất đi. Đã mất ý đi thì dù lời thơ có khéo cho mấy cũng làm cho bài thơ mất giá trị đi.

          Muốn việc sử dụng chữ trong một bài thơ được hay và đúng cách, các nhà làm thơ không nên để việc trùng ý xảy ra, không dùng chữ dư thừa vô ích, và tuyệt đối không được dùng chữ tục tĩu. Việc dùng điển cố thì tùy từng trường hợp, tuy nhiên, không nên vì sử dụng điển cố mà làm cho bài thơ tối nghĩa và mất tự nhiên. Muốn việc tu từ được chu đáo, nhà thơ cần phải đọc thơ cho nhiều và để ý chọn chữ cho đúng cách. Khi đã đọc nhiều thơ của các thi nhân nổi tiếng, chúng ta sẽ học hỏi được cách dùng từ và trau dồi thêm ý thơ, nhiên hậu chúng ta sẽ làm thơ được dễ dàng, tức là nói ra đã thành thơ rồi.

          c. Sự Tương Quan Giữa Lập Ý và Tu Từ
          Theo thường tình thì nội dung bài thơ quan trọng hơn hình thức của nó. Điều này có nghĩa là việc “lập ý” quan trọng hơn việc “tu từ.” “Lập ý” là tinh thần và linh hồn, còn “tu từ” chỉ là phục sức hay thân thể mà thôi. Ý nghĩa mới là chính, việc dùng chữ chỉ là thứ yếu mà thôi. Một bài thơ hay là cốt ở ý có cao sâu hay không. Nếu một bài thơ mà cách dùng chữ có hay đến mấy nhưng không có ý cao sâu thì cũng là bài thơ dở. Ý thơ do cảnh ngộ mà có vì cảnh ngộ sinh ra cảm xúc rồi cảm xúc tạo ra ý thơ, rồi sau đó mới dùng lời để diễn đạt. Tuy nhiên, ý thơ được diễn tả bằng lời thơ. Vì thế việc lập ý và tu từ cần phải được đi đôi với nhau thì bài thơ mới tuyệt diệu. Có nhiều trường hợp mà lời không diễn tả được hết ý nhưng vẫn tạo được ý ở ngoài lời. Đó là trường hợp “ý tại ngôn ngoại.”

          Việc sáng tác thơ thường do tính tự nhiên phát khởi cả về ý lẫn từ mà có. Chính vì thế mà các nhà làm thơ đã sáng tác được các câu thơ hay tuyệt diệu nhưng lại không biết cách giải thích tại sao mình làm được những câu thơ đó. Nhiều người chủ trương rằng khi làm thơ, người ta chỉ cốt sao diễn tả được ý và có chút vần điệu là được. Có ý và có vần điệu thì đó là thơ.

          Đã có người cho rằng tiếng Việt ta khi nói ra cũng đã là thơ rồi. Người ta định nghĩa thơ (thi) là thể văn có thanh, vận, âm điệu rõ ràng, và có thể ngâm vịnh được. Quả thật như vậy, tiếng Việt của ta có đủ các yếu tố trên. Tiếng Việt chúng ta có âm điệu thật du dương là nhờ ở tám thanh: 2 thanh bằng và 6 thanh trắc. Những tiếng không dấu hay có dấu huyền được xếp vào loại tiếng có thanh bằng, do đó ta có 2 thanh bằng.Tiếng có dấu sắc, nặng, hỏi, và ngã được xếp vào loại thanh trắc. Riêng tiếng có dấu sắc và dấu nặng lại được chia ra mỗi tiếng có 2 thanh nữa là thanh trắc nhập và thanh trắc khứ tùy theo tiếng đằng sau nó có các phụ âm c, ch, p, và t hay không.

          Thí dụ:

          Thanh trắc khứ: chống, thắng
          Thanh trắc nhập: chốc, trách, chấp, chất
          Thanh trắc khứ: động, rộn
          Thanh trắc nhập: độc, trạch, chộp, chột

          Ở Trung Quốc, thanh âm xưa và nay không giống nhau. Trước đây, chẳng hạn như tiếng Bắc Bình (Quan Thoại) có 4 thanh, tiếng Thượng Hải có 5 thanh, và tiếng Quảng Đông có 7 thanh. Từ đời nhà Đường (618-907) và đời nhà Minh (1368-162 , ngôn ngữ của Trung Quốc có 4 thanh (tứ thanh). Bốn thanh được sử dụng trong thơ Đường gồm 1 thanh bằng (bình thanh) và 3 thanh trắc (thượng thanh, khứ thanh, và nhập thanh).
          Thí dụ:

          Bình thanh: đông. Thượng thanh: đổng.
          Khứ thanh: đống. Nhập thanh: đốc

          Những người phóng khoáng chỉ cốt diễn tả ý một cách trung thực đều không thích làm thơ Đường Luật (Luật Thi) theo lối bát cú (thất ngôn, ngũ ngôn) hay tứ tuyệt (tuyệt cú). Lý do chính là hai loại thơ này đều là thi pháp của Tàu và có luật lệ rất khắt khe. Nếu đã nói là làm thơ Đường Luật thì ta bắt buộc phải theo niêm luật nhất định. Chính vì thế mà các cụ ta và ngay cả các người làm thơ thời nay thường làm loại thơ trông có vẻ là thơ Đường Luật, cũng thất ngôn và ngũ ngôn bát cú hay tứ tuyệt, nhưng thực ra đó là một lối thơ tự do, tức là thơ Cổ Phong. Lối thơ này không cần theo niêm luật hay đối mà chỉ cốt có vần và âm điệu mà thôi.

          d. Điều Kiện Để Sáng Tác Thơ Cho Hay
          Thực tế cho ta biết là việc sáng tác thơ cốt ở cảm xúc và nhạc tính. Chứng cớ là những câu ca dao của ta được phát xuất ra từ những người bình dân trong dân gian mà cảm xúc, ý nghĩa, và nhạc tính của những câu ca dao này thật tuyệt vời. Tuy nhiên, nếu xét về các thi phẩm của những thi nhân nổi tiếng ở Việt Nam trước đây, ở Trung Quốc, và ở các nước Âu Châu, chúng ta sẽ thấy muốn sáng tác thơ cho tuyệt hảo thì cần phải có hai điều kiện: thiên tài và học lực. Hai điều kiện này phải đi đôi với nhau thì việc sáng tác thơ mới đạt tới kết quả mỹ mãn. Lý do chính là nếu không có thiên tài về thơ thì chúng ta không có khả năng tinh tế để mở cửa kho kiến văn và vốn học lực. Có thiên tài về thơ mà không có học lực thì chúng ta không có chất liệu để sử dụng thiên tài về thơ cho đến chỗ tuyệt hảo. Chính vì thế mà tác phẩm Truyện Kiều của Nguyên Du mới trở thành tác phẩm tuyệt trần vô tiền khoáng hậu trong văn học Việt Nam vì Nguyễn Du là nhà thơ vừa có thiên tài về thơ lại vừa có học lực.

          III. Phép Làm Thơ Đường Luật
          Thơ Đường luật chia làm hai thể: thơ bát cú (Luật Thi) và thơ tứ tuyệt (tuyệt cú).

          Bát Cú : Thơ Bát Cú Có Hai Loại:
          Thất Ngôn và Ngũ Ngôn

          a. Thất Ngôn Bát Cú
          Thơ thất ngôn bát cú là loại thơ mỗi bài có 8 câu và mỗi câu 7 chữ, tức là chỉ có 56 chữ trong một bài thơ thất ngôn bát cú. Thơ thất ngôn bát cú có thể được làm theo hai luật: luật bằng và luật trắc. Về vần thì có hai loại: vần bằng và vần trắc. Tuy nhiên, các nhà thơ thường hay làm theo vần bằng, tức là luật bằng vần bằng và luật trắc vần bằng.

          - Luật Bằng Vần Bằng là bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng và các tiếng ở cuối câu 1,2,4,6 và 8 phải vần với nhau và là vần bằng, chẳng hạn như trong bài họa của Phan Văn Trị đối với bài “Tôn Phu Nhân Qui Thục” của Tôn Thọ Tường, câu đầu của bài thơ này bắt đầu bằng hai tiếng bằng: “Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng.” Các chữ cuối của câu 1, 2, 4, 6 và 8 gồm: “tòng, đông, hồng, sông, và chồng” đều là vần bằng và vần với nhau.
          Cách sắp đặt tiếng bằng trắc (luật thơ) trong các câu của bài thơ thất ngôn bát cú luật bằng vần bằng như sau:

          Luật Thơ

          B - B - T - T - T - B - B (vần)
          T - T - B - B - T - T - B (vần)
          T - T - B - B - B - T - T
          B - B - T - T - T - B - B (vần)
          B - B - T - T - B - B - T
          T - T - B - B - T - T - B (vần)
          T - T - B - B - B - T - T
          B - B - T - T - T - B - B (vần)

          Thí dụ:

          TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
          (Bài họa của Phan Văn Trị)

          Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng
          Mặt ngả trời chiều biệt cõi đông
          Ngút tỏa trời Ngô ùn sắc trắng
          Duyên về đất Thục đượm màu hồng
          Hai vai tơ tóc bền trời đất
          Một gánh cương thường nặng núi sông
          Anh hỡi Tôn Quyền anh có biết
          Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng

          - Luật Trắc Vần Bằng là bài thơ bắt đầu bằng hai tiếng trắc và các tiếng ở cuối câu 1, 2, 4 ,6 và 8 phải vần với nhau và phải là vần bằng, chẳng hạn như trong bài xướng “Tôn Phu Nhân Qui Thục” của Tôn Thọ Tường, câu đầu của bài thơ này bắt đầu bằng hai tiếng trắc: “Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng.” Các chữ cuối của câu 1, 2, 4, 6 và 8 gồm: “tòng, đông, hồng, sông, và chồng) đều là vần bằng và vần với nhau.

          Luật Thơ:

          T - T - B - B - T - T - B (vần)
          B - B - T - T - T - B - B (vần)
          B - B - T - T - B - B - T
          T - T - B - B - T - T - B (vần)
          T - T - B - B - B - T - T
          B - B - T - T - T - B - B (vần)
          B - B - T - T - B - B - T
          T - T - B - B - T - T - B (vần)

          Thí Dụ:

          TÔN PHU NHÂN QUI THỤC
          (Bài xướng của Tôn Thọ Tường)

          Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng
          Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông
          Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc
          Về Hán trau tria mảnh má hồng
          Son phấn thà cam dày gió bụi
          Đá vàng chi để thẹn non sông
          Ai về nhắn với Châu Công Cẩn
          Thà mất lòng anh được bụng chồng

          b. Ngũ Ngôn Bát Cú
          Thơ ngũ ngôn bát cú là loại thơ mỗi bài gồm có 8 câu và mỗi câu có 5 chữ, tức là chỉ có 40 chữ trong một bài thơ thuộc loại này. Thơ ngũ ngôn bát cú cũng theo qui luật về cách gieo vần như thất ngôn bát cú, tức là chỉ có một vần được gọi là độc vận và thường là vần bằng. Cũng giống như thơ thất ngôn bát cú, các vần trong bài ngũ ngôn bát cú được gieo ở cuối câu đầu và cuối các câu chẵn.

          Thơ ngũ ngôn bát cú cũng có luật bằng trắc như thất ngôn bát cú, tức là bài thơ theo luật bằng thì bắt đầu bằng hai tiếng bằng, bài thơ theo luật trắc thì bắt đầu bằng hai tiếng trắc. Cũng giống như thất ngôn bát cú, thường thường các nhà thơ làm thơ ngũ ngôn bát cú theo luật bằng vần bằng và luật trắc vần bằng. Không có mấy ai làm theo vần trắc.

          - Luật Bằng Vần Bằng và cách sắp đặt các tiếng bằng trắc:

          Luật Thơ

          B - B - T - T - B (vần)
          T - T - T - B - B (vần)
          T - T - B - B - T
          B - B - T - T - B (vần)
          B - B - B - T - T
          T - T - T - B - B (vần)
          T - T - B - B - T
          B - B - T - T - B (vần)

          Thí dụ:

          ĐƯỢC TIN BẠN ĐAU
          (Khải Chính tặng bạn Trần Quang Túc, 1966)

          Nghe tin bác bị đau
          Lòng thấy thật buồn rầu
          Tri kỷ xa vời quá
          Tri âm vắng bóng lâu
          Nghe danh tình cách mạng
          Kết bạn nghĩa vô cầu.
          Chúc bác mau bình phục
          Chung vai nguyện có nhau

          - Luật TrắcVần Bằng và cách sắp đặt các tiếng bằng trắc trong các câu của bài thơ ngũ ngôn bát cú luật trắc vần bằng:

          Luật Thơ

          T - T - T - B - B (vần)
          B - B - T - T - B (vần)
          B - B - B - T - T
          T - T - T - B - B (vần)
          T - T - B - B - T
          B - B - T - T - B (vần)
          B - B - B - T - T
          T - T - T - B - B (vần)

          Thí dụ:

          DÒNG CẢM BIỆT
          (Toại Khang tặng Trình Xuyên, Hà Nội, 1990)

          Ôi lại người ra đi
          Chia tay có hạn kỳ
          Gia đình mừng tái hợp
          Lan trúc nhớ tương tri
          Song hạc mùa tung cánh
          Bốn phương ý kịp thì
          Cảm tình xanh viễn mộng
          Bút tiễn gót vân phi

          - Luật Bằng Vần Trắc, Luật Trắc Vần Trắc

          Còn có luật bằng vần trắc và luật trắc vần trắc cho một bài thất ngôn và ngũ ngôn bát cú nữa, tức là bài thơ bắt bầu bằng hai tiếng bằng hay hai tiếng trắc và các tiếng ở cuối câu 1,2,4,6 và 8 phải vần với nhau và là vần trắc. Loại thơ vần trắc này rất hiếm người làm nên không được trình bày ở trong phạm vi bài này.

          c. Luật Lệ Chung về Thất Ngôn và Ngũ Ngôn Bát Cú

          - Luật Bất Luận và Khổ Độc

          * Bất Luận (không kể, tức là không cần phải theo đúng luật)

          Trong lối thơ Đường Luật, người ta áp dụng luật“nhất tam ngũ bất luận” cho thơ thất ngôn, và “nhất tam bất luận” cho thơ ngũ ngôn. Điều này có nghĩa là trong thơ thất ngôn thì chữ thứ nhất, thứ ba, và thứ năm không cần phải theo đúng luật; trong thơ ngũ ngôn thì chữ thứ nhất và thứ ba không bắt buộc phải theo đúng luật. Chính vì thế mới gọi là “bất luận” (không kể).

          * Khổ Độc (khó đọc)

          Tuy là có luật “bất luận,” nhưng nếu tiếng đáng bằng mà đổi ra trắc thì trong các trường hợp sau thành ra khổ độc, tức là rất khó đọc và khó ngâm. Đó là chữ thứ 3 của các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ trong thơ thất ngôn hay chữ thứ 1 của các câu chẵn và chữ thứ 3 của các câu lẻ trong thơ ngũ ngôn nếu là bằng mà đổi ra trắc thì gọi là khổ độc và không chỉnh. Tuy nhiên, nếu tiếng trắc mà đổi ra bằng thì không sao.

          - Niêm
          “Niêm” có nghĩa là dính, ý nói sự liên hệ về âm luật của hai câu thơ trong một bài Đường luật phải đúng cách. Đó là bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Chữ thứ 2 của mỗi hai câu sau đây phải niêm với nhau, hoặc là cùng bằng hoặc là cùng trắc, bằng niêm với bằng và trắc niêm với trắc: câu 1 và 8, câu 2 và 3, câu 4 và 5, câu 6 và 7. Điều này có nghĩa là nếu bài thơ thuộc loại bát cú luật trắc vần bằng, chữ thứ nhì của câu 1 là trắc thì chữ thứ nhì của câu 8 cũng phải là trắc; chữ thứ nhì của câu 2 là bằng thì chữ thứ nhì của câu 3 cũng phải là bằng; chữ thứ nhì của câu 4 là trắc thì chữ thứ nhì của câu 5 cũng phải là trắc; và chữ thứ nhì của câu 6 là bằng thì chữ thứ nhì của câu 7 cũng phải là bằng. Nếu bài thơ thuộc loại bát cú luật bằng vần bằng, chữ thứ nhì của câu 1 là bằng thì chữ thứ nhì của câu 8 cũng phải là bằng; chữ thứ nhì của câu 2 là trắc thì chữ thứ nhì của câu 3 cũng phải là trắc; chữ thứ nhì của câu 4 là bằng thì chữ thứ nhì của câu 5 cũng phải là bằng; và chữ thứ nhì của câu 6 là trắc thì chữ thứ nhì của 7 cũng phải là trắc.

          - Bố Cục Bài Thơ Bát Cú

          * Câu số 1 dùng để mở bài (phá đề), câu số 2 dùng để chuyển tiếp vào bài (thừa đề). Hai câu này có tên là hai câu đề.
          * Hai câu 3 và 4 dùng để giải thích đề tài cho rõ ràng. Hai câu này có tên là hai câu thuật (thực) hay trạng.
          * Hai câu 5 và 6 dùng để bàn rộng nghĩa đề tài và được gọi là hai câu luận.
          *Hai câu 7 và 8 dùng để tóm ý nghĩa cả bài và được gọi là hai câu kết.

          - Hai Cặp Câu Thơ Phải Đối Với Nhau Trong Bài Thất Ngôn và Ngũ Ngôn Bát Cú:
          Trong bài thơ bát cú (thất ngôn hay ngũ ngôn), câu 3 đối với câu 4, và câu 5 đối với câu 6.
          Những câu này phải theo đúng luật bằng trắc (hai câu thực hay trạng và hai câu luận). Đối là đặt hai câu cân xứng với nhau sao cho ý và chữ đối với nhau. Thí dụ:

          “Hai vai tơ tóc bền trời đất”
          đối với:
          “Một gánh cương thường nặng núi sông”

          Hoặc:
          “Nghe danh tình cách mạng”
          đối với:
          “Kết bạn nghĩa vô cầu”

          Xin xem bài về “Thanh, Vận, và Đối” do nhà thơ Cung Vũ đã thuyết trình vào ngày 5-5-2002 để hiểu rõ thêm các chi tiết về thanh, vận, và đối. Nếu ai chưa có bài này, xin liên lạc với nhà thơ Cung Vũ qua số điện thoại (Phone) 905-607-8010 hay số điện thư (Fax) 905-607-8011 (Hoa Kỳ).

          Vì bài thất ngôn bát cú chỉ có 8 câu gồm 56 chữ và bài ngũ ngôn bát cú chỉ có 8 câu gồm 40 chữ, ta không nên dùng trùng chữ hay trùng nghĩa khi đối và khi gieo vần. thí dụ có vẻ đối mà không đối như trong hai vế ”Lòng vẫn nhớ” và “Dạ nào quên”. Đó chỉ là một ý “nhớ” mà thôi, không chỉnh. Khi đối phải nhớ đối cả ý lẫn từ, chẳng hạn như “Phước như Đông Hải” đối với “Thọ tỷ Nam Sơn.”

          Mỗi ý mỗi từ sử dụng trong câu thơ đều phải cân nhắc sao cho có chất lượng và có ý sâu xa. Bài thơ Đường Luật rất khó làm, nhưng khi đã làm được thì ta sẽ cảm thấy thật thích thú vì đó là cả một nghệ thuật và quả là một công trình quí báu.

          2. Tứ Tuyệt (Tuyệt Cú)
          Thực ra thơ tứ tuyệt hay tuyệt cú đã xuất hiện trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Mới đầu, thơ tứ tuyệt hay tuyệt cú có nghĩa khác với nghĩa sau này: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Chỉ có 4 câu mà bài thơ diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt hay tuyệt cú. Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường , thơ tứ tuyệt (tuyệt cú) lại phải được làm theo quy tắc về niêm, luật, đối, và vần của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Chính vì thế , sau này người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Điều này có nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Vì vậy niêm, luật, đối, và vần của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt bài bát cú mà thành.

          Cách ngắt những câu trong bài bát cú để làm thành bài tứ tuyệt như sau: ngắt 4 câu đầu, ngắt 4 câu giữa, ngắt 4 câu cuối, ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối, và ngắt 2 câu đầu và 2 câu số năm và số sáu. Vậy ta có 5 cách ngắt bài bát cú để làm thành 5 bài tứ tuyệt, mỗi bài vẫn đủ ý, đúng niêm luật, và đối đúng cách. Tuy nhiên, ta có thể làm ngay một bài tứ tuyệt, thất ngôn hay ngũ ngôn, theo đúng luật thơ của cách ngắt bài tứ tuyệt từ bài bát cú mà không cần phải làm bài bát cú rồi mới ngắt ra. Cách giải thích này cốt cho ta thấy rằng có nhiều cách làm thơ tứ tuyệt. Điều này có nghĩa là khi ta làm một bài tứ tuyệt, ta phải theo niêm, luật, đối, và vần của một trong năm bài tứ tuyệt được ngắt ra từ bài thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú.

          Sau đây là thí dụ về cách ngắt bài thất ngôn bát cú thành ra 5 bài tứ tuyệt và bài nào cũng đủ ý và đúng luật.

          Bài thơ NHƯ Ý
          (Khải Chính Phạm Kim Thư tặng Lê Mỹ Như Ý, 1994)

          Như ý ai ơi thật tuyệt vời
          Văn Thơ vẹn cả hiếm ai người
          Tình sâu tô điểm công dày đắp
          Nghĩa lớn vun trồng đức rạng soi
          Tài trí danh vang nơi đất khách
          Sắc hương ánh tỏa khắp phương trời
          Bảy năm góp mặt “Người Yêu Dấu”
          “Nỗi Nhớ Khôn Nguôi” kiếp đổi đời

          Bài trên được ngắt thành 5 bài tứ tuyệt theo năm cách sau: 4 câu đầu, 4 câu cuối, 4 câu giữa, 2 câu đầu và 2 câu cuối, 2 câu đầu và 2 câu năm sáu:

          1.
          Như Ý ai ơi thật tuyệt vời
          Văn thơ vẹn cả hiếm ai người
          Tình sâu tô điểm công dày đắp
          Nghĩa lớn vun trồng đức rạng soi

          2.
          Tài trí danh vang nơi đất khách
          Sắc hương ánh tỏa khắp phương trời
          Bảy năm góp mặt “Người Yêu Dấu”
          “Nỗi Nhớ Khôn Nguôi” kiếp đổi đời

          3.
          Tình sâu tô điểm công dày đắp
          Nghĩa lớn vun trồng đức rạng soi
          Tài trí danh vang nơi đất khách
          Sắc hương ánh tỏa khắp phương trời

          4.
          Như ý ai ơi thật tuyệt vời
          Văn thơ vẹn cả hiếm ai người
          Bảy năm góp mặt “Người Yếu Dấu”
          “Nỗi Nhớ Khôn Nguôi” kiếp đổi đời

          5.
          Như ý ai ơi thật tuyệt vời
          Văn thơ vẹn cả hiếm ai người
          Tài trí danh vang nơi đất khách
          Sắc hương ánh tỏa khắp phương trời

          - Bài thất ngôn tứ tuyệt có thể được làm riêng rẽ, không cần ngắt ra từ bài bát cú. Lý Thường Kiệt làm bài thơ tứ tuyệt sau đây khi ông đem quân chống quân nhà Tống (1076). Sở dĩ ông làm ra bài thơ này là vì quân nhà Tống đánh trận hăng lắm, ông đã đem hết sức chống giặc nhưng vẫn sợ quân mình ngã lòng nên mới đặt ra câu chuyện nói rằng có thần ban cho 4 câu thơ để củng cố lòng hăng say đánh giặc của quân lính. Bài này được làm theo cách ngắt của 4 câu đầu của bài bát cú: luật trắc vần bằng, 3 vần, hai câu cuối đối nhau:

          Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
          Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
          Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
          Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

          Nghĩa của bài này được tóm lược như sau:
          "Núi sông nước Nam thì vua nước Nam ở
          Rõ ràng phận đã định ở trong cuốn sổ của trời
          Làm sao bọn giặc lại xâm phạm đất của ta được
          Lũ chúng mày rồi sẽ bị thua bại hết"

          - Bài ngũ ngôn bát cú “Được Tin Bạn Đau”
          (đã trích dẫn ở trên) được ngắt thành 5 bài tứ tuyệt như sau:

          1.
          Nghe tin bác bị đau
          Lòng thay thật buồn rầu
          Tri kỷ xa vời quá
          Tri âm vắng bóng lâu

          2.
          Tri kỷ xa vời quá
          Tri âm vắng bóng lâu
          Nghe danh tình cách mạng
          Kết bạn nghĩa vô cầu

          3.
          Nghe danh tình cách mạng
          Kết bạn nghĩa vô cầu
          Chúc bác mau bình phục
          Chung vai nguyện có nhau

          4.
          Nghe tin bác bị đau
          Lòng thấy thật buồn rầu
          Chúc bác mau bình phục
          Chung vai nguyện có nhau

          5.
          Nghe tin bác bị đau
          Lòng thấy thật buồn rầu
          Nghe danh tình cách mạng
          Kết bạn nghĩa vô cầu

          - Bài ngũ ngôn tứ tuyệt có thể được làm riêng rẽ, không ngắt ra từ bài ngũ ngôn bát cú. Khi đem quân vào thành Thăng Long để mở tiệc khao quân sau khi đánh cho Thoát Hoan (giặc nhà Nguyên) phải bỏ chạy (1284). Trần Quang Khải đã làm bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt sau đây. Bài thơ này được làm theo luật trắc, vần bằng, thuộc khuôn khổ 4 câu sau của bài ngũ ngôn bát cú, 2 vần, hai câu đầu đối nhau.

          Nguyên Tác của Trần Quang Khải:

          Đoạt sáo Chương Dương độ
          Cầm Hồ Hàm Tử quan
          Thái bình nghi nỗ lực
          Vạn cổ thử giang san

          Trần Trọng Kim đã diễn Nôm:

          Chương Dương cướp giáo giặc
          Hàm Tử bắt quân thù
          Thái bình nên gắng sức
          Non nước ấy nghìn thu

          Cụ Trần Trọng Kim đã diễn nôm bài trên theo lối thơ cổ phong, không theo niêm luật của bài ngũ ngôn tứ tuyệt. Chính vì thế mà cụ chỉ nói là “diễn nôm” mà thôi. Thơ Đường Luật khó khăn là thế. Phải là tay lão luyện lắm mới có thể diễn tả ý của mình theo thơ Đường Luật được. Chính vì thế mà đa số các thi nhân sau này họ làm thơ thất ngôn hay ngũ ngôn nhưng lại làm theo thể Thơ Cổ Phong chứ không phải là Thơ Đường Luật.

          IV. Thơ Cổ Phong

          Như đã đề cập ở phần mở bài, thơ cổ phong (cổ thể) là thể thơ tương đối tự do, không cần niêm luật, gồm những câu thơ 7 chữ hay 5 chữ (thất ngôn cổ phong hay ngũ ngôn cổ phong). Thơ cổ phong xuất hiện vào đời Đông Hán (25-220), trước đời nhà Đường. Sau đây là những đặc điểm của thơ cổ phong:

          - Số chữ trong mỗi câu phải là 7 chữ hay 5 chữ (ngũ ngôn hay thất ngôn).
          - Không có niêm luật và đối chặt chẽ như thơ Đường.
          - Không hạn chế số câu, thường là từ 4 câu trở lên, muốn dài ngắn bao nhiêu cũng được.
          - Người ta thường làm Thơ Cổ Phong với số câu là 4 câu, 6 câu, 8 câu, hay 12 câu.
          - Những bài thất ngôn dài quá 8 câu được gọi là bài thất ngôn trường thiên và ngũ ngôn dài quá 16 câu gọi là ngũ ngôn trường thiên.
          - Tuy không cần niêm luật (bằng trắc), nhưng vẫn cần âm hưởng và tiết tấu. Cách gieo vần trong thơ cổ phong có thể độc vận hay liên vận. Có thể cứ 4 câu lại đổi vần hay cứ 8 câu đổi vần, hoặc mỗi 2 câu đổi vần một lần cũng được.
          - Cách đối thì tùy, muốn đối thì đối, muốn không thì không. Nếu đã đối thì phải đối cho chỉnh. Ý đối ý và chữ đối chữ cho đúng cách.

          Ta có thể định nghĩa Thơ Cổ Phong là lối thơ tự do làm theo 7 chữ hoặc 5 chữ. Thơ bát cú hay tứ tuyệt có thể là Đướng Luật hay Cổ Phong là tùy theo bài thơ đó có đúng niêm luật và đối hay không. Tuy nhiên, theo thói thường thì khi đọc một bài thơ bát cú hay tứ tuyệt, ngũ ngôn hay thất ngôn, người ta có thành kiến cho đó là thơ Đường Luật. Vì thế, nếu làm thơ theo lối Cổ Phong, ta nên đề ở đầu trang là Thơ Cổ Phong. Một cách khác nữa để tránh hiểu lầm, ta nên phân bài cổ phong có 8 câu (ngũ ngôn hay thất ngôn) ra làm hai đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Sau đây là các bài cổ phong làm mẫu:

          Ngũ Ngôn Bát Cú Cổ Phong


          KHEN TRẦN BÌNH TRỌNG

          Giỏi thay Trần Bình Trọng
          Dòng dõi Lê Đại Hành
          Đánh giặc dư tài mạnh
          Thờ vua một tiết trung
          Bắc vương sống mà nhục
          Nam quỉ thác cũng vinh
          Cứng cỏi lòng trung nghĩa
          Ngàn thu tỏ đại danh

          Phan Kế Bính


          Thất Ngôn Tứ Tuyệt Cổ Phong

          Bài xướng của Hạng Võ

          Lực bạt sơn hề khí cái thế
          Thời bất lợi hề truy bất thệ
          Truy bất thệ hề khả nại hà
          Ngu hề Ngu hề nại nhược hà


          Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt Cổ Phong

          Bài họa của Ngu Cơ

          Hán binh dĩ lược địa
          Tứ diện Sở ca thanh
          Đại vương ý chí tận
          Tiện thiếp hà liêu sinh


          Thất Ngôn Trường Thiên Cổ Phong

          TẾT THA HƯƠNG

          Hôm nay lạnh quá trời buông tuyết
          Ngồi ngắm không gian tính tháng ngày
          Chợt nhớ ra rằng năm đã hết
          Xứ người tết đến biết sao đây
          Tìm đâu cho được cành mai ấy
          Chồng bánh chưng xanh pháo đỏ hiên
          Đâu cảnh khói hương bay nghi ngút
          Cả nhà sum họp lễ gia tiên
          Nước non xa cách bao giờ hợp
          Những tết qua rồi tết khổ đau
          Giặc giã đua nhau gây đổ nát
          Quê hương tan tác bởi vì đâu
          Quê nhà tết đến dân đau khổ
          Đất khách xuân về dạ vấn vương
          Ở đây ai đón xuân cùng tết
          Tết đến trong lòng xuân nhớ thương
          Xa quê sống giữa người xa lạ
          Lạ cảnh lạ người lạ thói quen
          Muốn ngỏ tâm tư ai hiểu được
          Cười cười nói nói để mà quên

          Khải Chính Phạm Kim Thư


          Thất Ngôn Bát Cú Cổ Phong

          DẾ DUỔI BÊN ĐÈN

          Kiến chẳng phải kiến voi chẳng voi
          Trời sinh dế duổi cũng choi choi
          Ngắn cánh lên trời bay chẳng thấu
          Co tay vạch đất cũng khoe tài
          Mưa sa nước chảy lên cao ở
          Lửa đỏ dầu sôi nhảy tới chơi
          Quân tử có thương xin chớ phụ
          Lăm lăm bay nhảy để mà coi

          Tú Quì


          Ngũ Ngôn Trường Thiên Cổ Phong

          ÔNG ĐỒ GIÀ

          Mỗi năm hoa đào nở
          Lại thấy ông đồ già
          Bày mực tàu giấy đỏ
          Bên phố đông người qua.
          Bao nhiêu người thuê viết
          Tấm tắc ngợi khen tài
          Hoa tay thảo những nét
          Như phượng múa rồng bay
          Nhưng mỗi năm mỗi vắng
          Người thuê viết nay đâu
          Giấy đỏ buồn không thắm
          Mực đọng trong nghiên sầu
          Ông đồ vẫn ngồi đấy
          Qua đường không ai hay
          Lá vàng rơi trên giấy
          Ngoài trời mưa bụi bay
          Năm nay đào lại nở
          Không thấy ông đồ xưa
          Những người muôn năm cũ
          Hồn ở đâu bây giờ

          Vũ Đình Liên

          V. Kết Luận

          Các bạn yêu thơ hãy cứ làm thơ một cách tự nhiên trước, miễn sao diễn tả được ý của mình và có âm điệu là được. Có Đường Luật thì cũng có Cổ Phong, có lục bát thì cũng có biến thể lục bát. Rồi dần dần quen đi, ta sẽ làm thơ một cách dễ dàng, xuất khẩu thành thơ, và tự nhiên thành luật. Đừng vì niêm luật hay đối quá mà làm bài thơ gượng gạo mất hồn thơ của các bạn đi. Muốn làm thơ một cách tự nhiên và cảm động được lòng người, ta cần phải có tâm hồn thơ và yêu thơ. Kế tiếp ta phải tìm đọc những tác phẩm trứ danh trong văn chương như Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Hồ Dzếnh, thơ Xuân Diệu, thơ TTKH, thơ Nguyễn Bính, thơ Vũ Hoàng Chương, thơ Bàng Bá Lân, thơ Chu Mạnh Trinh, thơ Tản Đà, thơ Nguyễn Công Trứ, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Thế Lữ, và ca dao, v.v. Không những đọc mà ta còn phải học thuộc lòng để đưa vào tiềm thức những cung điệu, những tứ thơ kỳ diệu, và những chất liệu giúp ta làm thơ một cách tự nhiên hơn. Khi có hồn thơ lai láng, hãy cứ viết ra cho hết ý, rồi đọc lại để kiểm soát niêm luật sau. Cứ như thế ta sẽ đi vào thơ một cách tự nhiên.

          Khải Chính Phạm Kim Thư


          -------------------------------------------------------------------------------------------------

          Tài Liệu Tham Khảo

          1. Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục, ấn bản lần thứ mười, 1968.
          2. Trình Xuyên Nguyễn Ngô Riễn, Hoa Bút Trình Xuyên (Tuyển tập 2 1981-1990), Papyrus, San José, CA, USA, 1994
          3. Trần Trọng Kim,Việt Nam Sử Lược, Quyển I,Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục,Saigon, 1971.
          4. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Tản Đà Vận Văn, Tập II, Sống Mới tái bản.
          5. Trần Trọng San, Thi Pháp Thơ Chữ Hán, Bắc Đẩu, Scarborough, Ont.,
          Canada, 1998.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.03.2007 14:43:39 bởi Chỉ Vui Thôi >
          #95
            tietkimquyduc 13.03.2007 17:58:51 (permalink)
            0
            -Bài thơ mới toanh...đã lên Chiếu thơ HST...mod TL và mấy cao thủ bên đó
            đã họa...Xin mời các bạn vntq...
            -------------------------------
            Copy từ HST về...
             
            -TĐ có nói là đã bị 'tẩu hoả'...nhưng tâm đắc thì mới có hứng...
             
            Tám Vui, năm Lòng
             
            Vui là thích thú...thật hài lòng
            Vui tính trời cho khó mất lòng
            'Vui thú điền viên' vườn với ruộng
            'Vui đâu chầu đấy' lợn và lòng
            Vui chân rảo bước quên bờ vực
            Vui miệng yêu em tận đáy lòng
            Vui cảnh nào về chầu cảnh ấy
            Vui xuân Đinh Hợi vợ yên lòng...
             
            tietkimquyduc/TĐ-13/3/2007
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.03.2007 18:00:35 bởi tietkimquyduc >
            #96
              huongtinhdoi 13.03.2007 19:18:16 (permalink)
              0

              Trích đoạn: tietkimquyduc

              -Bài thơ mới toanh...đã lên Chiếu thơ HST...mod TL và mấy cao thủ bên đó
              đã họa...Xin mời các bạn vntq...
              -------------------------------
              Copy từ HST về...
               
              -TĐ có nói là đã bị 'tẩu hoả'...nhưng tâm đắc thì mới có hứng...
               
              Tám Vui, năm Lòng
               
              Vui là thích thú...thật hài lòng
              Vui tính trời cho khó mất lòng
              'Vui thú điền viên' vườn với ruộng
              'Vui đâu chầu đấy' lợn và lòng
              Vui chân rảo bước quên bờ vực
              Vui miệng yêu em tận đáy lòng
              Vui cảnh nào về chầu cảnh ấy
              Vui xuân Đinh Hợi vợ yên lòng...
               
              tietkimquyduc/TĐ-13/3/2007



              Trước hết phải xin lỗi các quí vị là Hương đã định ra đi không trở lại đàm tiếu chuyện văn chương...Nhưng vì thấy (bài thơ mới toanh...Đã lên chiếu thơ HST...) mời họa. Nên cũng bị lôi cuốn vào con tầu nhập ma , họa chút sai luật Buồn - Vui...Mong quí  vị thông cảm cho. Chào tạm biệt Hương Tình Đời
               
              TÁM BUỒN NĂM LÒNG
               
              Buồn chứ vui chi thói dối lòng
              Buồn sao hẹp lượng lại đen lòng
              Buồn lo cỏ dại đầy nương ruộng
              Buồn phải chuộng yêu lũ lợn lòng
              Buồn thấy duyên ai rơi đáy vực
              Buồn tình nghĩa cạn bực muôn lòng
              Buồn thay đạo đức như đêm ấy
              Buồn héo hon Xuân tấy cả lòng
               
              Hương Tình Đời
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.03.2007 20:34:30 bởi huongtinhdoi >
              #97
                Huyền Băng 14.03.2007 21:50:41 (permalink)
                0
                Ban Quản Trị nhận thấy trang thơ này không còn là trang đăng thơ sáng tác nữa, mà chủ yếu là phê bình chỉ trích nhau.

                Ban Quản Trị tạm thời khoá trang này lại, để tránh lời qua tiếng lại không tốt.

                Sau khi có ý kiến chung của BĐH sẽ thông báo và mở lại.

                TM BQT
                HB
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.06.2007 14:55:21 bởi Huyền Băng >
                #98
                  Huyền Băng 01.06.2007 15:08:36 (permalink)
                  0
                  Chào mọi người,
                   
                  Topic này trước đây đã đăng một số bài phê bình chỉ trích lẫn nhau làm mất hòa khí trong trang thơ.
                   
                  Huyền Băng đã xoá những bài viết mang tính chỉ trích làm mất hòa khí, cũng như một số bài đối thoại liên quan đến các bài chỉ trích.
                   
                  Đây là topic thơ của Thiềng Đức, lại có thơ của nhiều thành viên khác, nên Ban điều hành mang trở ra đây, để mọi người có thể đọc hoặc copy bài của mình về, Và để tránh trường hợp tiếp tục tranh cãi, BĐH khoá topic này lại.
                   
                  Riêng với TV Thiềng Đức, nếu bạn muốn đăng thơ tiếp tục thì đề nghị bạn mở một topic mới và chỉ đăng những thơ mình sáng tác thôi, tránh phê bình trong trang thơ sáng tác. Những trao đổi có tính cá nhân, đề nghị mọi người sử dụng PM.
                   
                  Thân tình,
                  HB  
                  #99
                    Thay đổi trang: << < 7 | Trang 7 của 7 trang, bài viết từ 91 đến 99 trên tổng số 99 bài trong đề mục
                    Chuyển nhanh đến:

                    Thống kê hiện tại

                    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                    Kiểu:
                    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9