(url) Phan Khôi - (1887-1959)

Tác giả Bài
Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
(url) Phan Khôi - (1887-1959) - 26.08.2006 23:17:54
.


PHAN KHÔI





Tiểu Sử

Phan Khôi hiệu là Chương Dân, sinh ngày 20-08-1887 (Đinh hợi) tại làng Bảo An quận Ðiện Bàn tỉnh Quảng Nam, thận phụ là phó bảng Phan Trân (1826-1935) thân mẫu Hòang thị Lệ (1826-1882) con gái của Tổng đốc Hoàng Diệu (1828-1882). Năm 1906 Phan Khôi ra Huế thi Hương, nhưng rớt cử nhân được sắp vào hạng tú tài. Ông lấy biệt hiệu Tú Sơn (Tout Seul / cô độc).

Phan Khôi xuất thân trong gia đình khoa bảng, ông nội là án sát Phan Nhu. Phan Khôi học hán văn từ nhỏ, nhờ đọc các sách Tân thư nên có tình thần Duy tân tin ở Dân quyền. Phong trào Duy Tân hoạt động (1906-1908) do Phan Chu Trinh (1872-1926), Hùynh Thúc Kháng (1876-1947) và Trần Quý Cáp (1870-1908) cùng các sĩ phu tại quê nhà lãnh đạo. Phan Khôi hưởng ứng Phong trào ra Hà Nội học chữ Quốc ngữ và Pháp văn tham gia hoạt động với trường Ðông Kinh Nghĩa Thục mở cửa năm 1907.

Năm 1908 Phong trào bị thực dân Pháp đàn áp, tất cả đều bị bắt bỏ tù hay tử hình. Phan Khôi lúc đó ở Hà Nội, bị bắt đưa về giam ở Huyện Diên Phước (Ðiện Bàn), thời gian ngắn, được ân xá ông ra Huế theo học tại trường Pellerin từ năm (1909-1911). Thân phụ mất về quê để tang, mở trường dạy học, hết tang ông lập gia đình (1913) nhạc phụ là ông Lương Thúc Kỳ (1873-1947) giáo viên trường Dục Anh tại Phan Thiết do ông Nguyễn Trọng Lợi thành lập (Phong Trào Duy Tân).

Sinh hoạt viết Báo

Phan Khôi là nhà văn, nhà báo, còn là nhà nghiên cứu sắc nét đã gây dư luận một thời.
    Ðăng Cổ Tùng Báo (1907) của trường Ðông Kinh Nghĩa Thục.
    Nam Phong (1918) của Phạm Quỳnh (1892-1945), nhưng chẳng bao lâu bất đồng ý kiến, bỏ vào Sài Gòn viết tờ Lục Tỉnh Tân Văn thành lập từ năm 1907.

Ông ra Hà Nội tiếp tục viết:
    Hà Nội Thực Nghiệp Dân Báo (1920)
    Hữu Thanh (1921)
    Phan Khôi trở về Sài Gòn vào năm 1925 cộng tác các tờ:

    Ðông Pháp Thời Báo (1923)
    Trung Lập Báo (1924)
    Thần Chung (1929)
    Tại Sài Gòn ông làm chủ bút:

    Phụ Nữ Tân Văn (1929) thời gian vì khủng khoảng tài chánh đình bản.


Ông ra Hà Nội làm chủ bút:

    Phụ Nữ Thời Ðàm (1932)

Ở Huế ông làm chủ bút:

    Tràng An (1934)
    Phụ Nữ Tân Văn tục bản (1936)

Làm chủ nhiệm kiêm chủ bút:
    Nhân Văn tại Hà Nội (ngày 20.9.1956-15.12.1965)

Trong thời gian nầy ông viết thêm các tờ:

    Giai phẩm (1956)

    Tuần báo Văn (1957)

    Le Courris Indochinois

Phan Khôi dịch bộ Thánh Kinh của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Ðạo Tin Lành sang truyền giáo tại Việt Nam, chưa có Kinh Thánh bằng Việt ngữ. Phan Khôi là nhà Nho am hiểu Pháp văn. Ông đối chiếu hai cuốn Kinh viết từ Hán văn và Pháp văn dịch sang chữ Quốc ngữ (1921).

Phan Khôi gom các bài viết (1917-1945) được đăng tải qua báo chí in thành tập:
    Chương Dân Thi Thoại (chuyện thơ 1936)
    Trở vỏ lửa (1939 cuốn tiểu thuyết ít được nhắc đến)
    Việt ngữ nghiên cứu (Biên khảo 1955)
    Mộng trung mộng (Mộng trong giấc mộng.Hán văn truyện ngắn Nam Phong)
    Hoạn hải ba đào (Sóng gió bể hoạn - Hán văn truyện ngắn Nam Phong)
    Lỗ Tấn truyện ngắn và tạp văn dịch (của Chu Thụ Nhân 1858-1913)
    Nhà xuất bản Đà nẳng Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, nhà văn Lại Nguyên Ân người am hiểu Hán văn cũng như Pháp ngữ đã sưu tầm biên soạn về Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928.

Làm Thơ

Bài thơ Ngụ ngôn ông viết vào khoảng năm 1909 sau vụ Trung Kỳ Dân Biến (1908) với thể thơ tự do nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Vì báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ còn phôi thai. Sự nghiệp văn chương của Phan Khôi có chỗ đứng vinh quang trên văn đàn Việt Nam.
    Mồng bảy tháng bảy năm Canh thân
    Chiếu lệ bắc cầu qua sông Ngân
    Hằng hà sa số cu-ly (cooly) quạ
    Bay bổng về trời dường trẩy quân
    Hai bên bờ sông đậu lốc ngốc
    Con thì kêu đói, con kêu nhọc
    Đường sá xa xuôi việc nặng nề,
    Phần lũ con thơ ở nhà khóc
    Bổng nghe lệnh trời truyền khởi công
    Nào con đầu cúi, con lưng cong
    Thêm bầy Lý Bẻo đứng coi việc,
    Ðụng đâu đánh đó như bao bông!
    Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt!
    Làm có, ăn không, chết cho hết!
    Cắn cỏ kêu Trời, Trời chẳng nghe
    Một con bay lên đứng diễn thuyết
    Hỏi đồng bào nghe tôi nói đây :
    Dân quyền mạnh nhầt là đời nay
    Việc mà chẳng phải mà công ich,
    Không ai cho phép đem dân đày
    Trối kệ Hoàng Ngưu với Chúc Nữ
    Qua được thời qua không thời chớ?
    Quốc dân Ô thước tội tình chi?
    Mà bắt xâu bơi làm khổ sở
    Anh em ta, hè về quách thôi!
    Luôn thể kéo nhau vào cửa trời
    Dộng trống đăng văn, ầm đế tọa
    Ngai vàng bệ ngọc, rung rinh rơi
    Nghe tin dân quạ nổi cách mệnh
    Ðường sá xa xuôi, việc nặng nề
    Phần lũ con thơ ở nhà khóc!
    Trời sai Thiên lôi ra thám thính
    Ðầu đen máu đỏ quyết hy sinh!
    Ngừng búa Thiên lôi không dám đánh
    Năm nay bổng thấy chiếu trời ra,
    Ðánh chữ đại xá trời ban cho
    Dân qụa ở đâu về ở đó
    Từ nay khỏi bắc cầu Ngân hà
    Ờ té ra:
    Mềm thì ai cũng nuốt,
    Cứng thì thời cũng nhả .
    Hằng hà sa số cu-ly quạ
    Bay về hạ giới kêu kha! khá!
    Đông Pháp thời báo 2.6.1928

Hai mươi ba năm sau bài thơ Tình Già trình làng, đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932. Từ đó phong trào thơ mới được bắt đầu, lối làm thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, dường luật nhường chỗ cho phong trào thơ mới. Mở đầu cho thi ca Việt Nam phát triển phong phú hơn. Bài thơ Tình Già của Phan Khôi được đưa vào chương trình giáo dục (trung học) trước 1975 tại miền Nam.
    Tình già

    Hai mươi bốn năm xưa,
    Một đêm vừa gió lại vừa mưa
    Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ
    Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.

    Ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng
    Mà lấy nhau hẳn là không đặng
    Ðể đến rồi tình trước phụ sau
    Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau

    Hay! Nói mới bạc làm sao chớ!
    Buông nhau làm sao cho nở?
    Thương được chừng nào hay chừng nấy
    Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
    Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng
    Mà tính việc thủy chung?

    Hai mươi bốn năm sau
    Tình cờ nơi đầt khách gặp nhau!
    Ðôi mái đầu đều bạc
    Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!

    Ôn chuyện cũ mà thôi.
    Liếc đưa nhau đi rồi!
    Con mắt còn có đuôi


Lý luận Phan Khôi

Phan Khôi là một kiện tướng của “Quảng Nam hay cãi”. Người xưa nói “quân tử hòa nhi bất đồng” người quân tử không đồng nhất với nhau nhưng vẫn giữ tư tưởng sự hòa thuận tôn trọng nhau và cộng tác. Phan Khôi ảnh hưởng nho học và tân học (say mê khoa luận lý học logique) khả năng lý luận uyên bác. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân viết về gia đình Phan Khôi:
    Tôi đã từng biết một gia đình cãi nhau những ba đời. Ðó là gia đình ông Phan Khôi, Cha Phan Khôi, một bậc đại khoa tên là Phan Trân (con án sát Phan Nhu), tôi không rõ giữa ông Phan Nhu và Ông Phan Trân có hay cãi nhau như thế nào không, nhưng giữa ông Phan Trân và Phan Khôi, Các cụ vẫn còn kể lại những vụ cãi nhau rất kinh động. Rốt cuộc, cha thường vác roi đuổi con chạy tơi bời. Ðiều ấy dễ hiểu: ông phó bảng Phan Trân bênh vực cổ nhân như các bậc đại khoa thời ấy; ông Phan Khôi chống lại vì ông đọc Tân thư, tin ở Dân Quyền. (Nguyễn văn Xuân Phong trào Duy Tân sđd trang 93-94)

Phan Khôi phê bình bộ Nho Giáo của Trần Trọng Kim (1883-1953) xuất bản gây các cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh (1892-1945) vào năm 1930 (1). Trên tờ Phụ Nữ Thời Ðàm năm 1932 bài viết “Văn minh vật chất và Văn minh tinh thần” của Phan Khôi đưa đến bút chiến với nhà văn cộng sản Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908-1954).

Phan Khôi là nhà văn miền Nam có danh tiếng mà gia đình đã tập kết ra Bắc, chính quyền Hà Nội năm 1956, cử ông đi Trung Quốc cùng nhà thơ Tế Hanh dự hội nghị kỷ niệm lần giỗ thứ 20 của Lỗ Tấn (1881-1936) tại Bắc Kinh (Peking) trên đất nước đàn anh cộng sản giáo điều, nhưng Phan Khôi tranh luận với cán bộ Trung Cộng về chủ nghĩa Mác xít (Marxist), Phan Khôi phê bình khi tới thăm nhà máy An Sơn như sau:
    Ngày xưa ông Mác nói: lao động sáng tạo nhưng tôi nghĩ rằng nên nói trí thức và lao động sáng tạo mới đúng.

    Cán bộ Tàu lễ phép chữa lại:

    Thưa cụ ông Mác nói là lao động là bao gồm cả trí thức trong đó chứ ạ!
    Cụ Phan trả lời ngay:

    Không đâu ý ông Mác chỉ muốn nói công nhân thôi, còn trí thức thì sau nầy người ta mới thêm thắt vào đó.

Dạy học và hoạt động chính trị

Năm 1934 dạy Việt Văn ở trường tư thục Hồ Ðắc San tại Huế. Năm 1936 Phan Khôi dạy tại trường Chấn Thanh Sài Gòn do Phan Bá Lân làm hiệu trưởng. Năm 1941 trường Chấn Thanh dời về Ðà Nẳng. Trong thời đệ nhị thế chiến (1939-1945) có thể đời sống tại Sài Gòn khó khăn, Phan Khôi về Quảng Nam. Cụ lớn tiếng công kích cán bộ địa phương phá hủy nhà thờ Hoàng Diệu, và chính sách khủng bố của Việt Minh bắt thủ tiêu các đảng phái đối lập. Nhất là các đảng viên VNQDÐ. Ông Trương Phước Tường bị Việt Minh bắt tại Tam Kỳ ngày 4-2-1946. Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm tượng trưng cho tỉnh Ðảng bộ. Phan Bá Lân làm Bí thư và ban chấp hành tỉnh Hoàng Tăng, Phan Khoang, phụ trách Tuyên nghiên huấn. Lê Thận phụ trách Ðặc vụ. (Hoàng văn Ðào sđd trang 354)

Hà Nội ngày 13-7-1946 Võ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở Ban Tuyên huấn Ðệ thất khu Ðảng Bộ của VNQDÐ tại số 9 phố Ôn Như Hầu, trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi chuyển cho VNQDÐ. Việt Minh phao tin lên tìm thấy trong khu vực nhà nầy có chôn xác người, lấy đó làm bằng cớ, lập biên bản kết tội VNQDÐ là tổ chức “hắc điếm” để bắt cóc, giết người. Việt Minh thanh toán VNQDÐ được gọi là vụ án Ôn Như Hầu. Từ đó Việt Minh thanh toán VNQDÐ trên toàn quốc. (Minh vũ Hồ Văn Châm báo đd tr.45)

Cán bộ địa phương không dám thanh toán Phan Khôi và báo cáo lên cấp trên, vì con trai của Phan Khôi là Phan Thao (1915-1960), lúc bấy giờ làm cán bộ cao cấp trong Ủy Ban Trung Bộ, và Phan Bôi (1910-1949) bí danh Hoàng Hữu Nam (anh em chú bác với Phan Khôi) làm thứ trưởng bộ nội vụ Việt Minh. Phan Khôi viết thư gởi Huỳnh Thúc Kháng đang giữ chức Bộ trưởng Bộ nội vụ Huỳnh Thúc Kháng vội vàng can thiệp với Hồ Chí Minh giàn xếp vấn đề, viết thư mời Phan khôi ra Hà nội hợp tác, nhưng kỳ thực giao Phan Bôi để quản thúc.

Tại Quảng Nam vào tháng 7-1946 tại Cầu Chiêm Sơn xã Phú Tân huyện Ðiện Bàn Việt Minh lấy cớ Quốc Dân Ðảng mưu toan phá hoại cầu khi có tàu lửa chở vũ khí vào Nam và thanh toán các đảng viên VNQDÐ. Ngày 20-10-1946 tại Hà Nội Việt Minh tấn công tòa báo của VNQDÐ tại số 80 đường Quan Thánh do nhà văn Khái Hưng (1896-1947) phụ trách, tất cả bị bắt trong hôm đó có Phan Khôi.

Phan Khôi những ngày trên đất Bắc


Phan Thao và Phan Bôi đưa Phan Khôi lên các vùng chiến khu Việt Bắc do Việt Minh hoàn toàn kiểm soát. Sống biệt lập, giao trách nhiệm dịch sách từ Hán văn hay Pháp văn ra Việt ngữ. Phan Khôi tán thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nên phải đứng chung với chủ nghĩa cộng sản.
    Hồng nào hồng chẳng có gai
    Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
    Là hồng thì phải có hoa
    Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?
    Ta yêu hồng lắm hồng ơi!
    Có gai mà cũng có mùi hương thơm.
    (16.03.1951)
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) Phan Khôi đã làm bài thơ Thăm bộ đội, trong Tập văn kháng chiến và cách mạng:

    Vượt núi trèo non tôi đến đây
    Về thăm anh nghỉ dưới chân mây.
    Chúc anh mạnh khoẻ rồi ra trận
    Máu sức càng hăng để đánh Tậy
    Đánh đến bao giờ độc lập thành
    Tôi dù già rụi ở quê anh
    Cũng nguyền nhắm mắt không ân hận,
    Nằm dưới mồ nghe khúc thái bình.
Trong những tháng ngày buồn chán bị cấm đoán cô đơn, Phan Khôi gởi tâm sự qua các bài thơ:
    Tuổi già thêm bệnh hoạn
    Kháng chiến thấy dài ra
    Mối sầu như tóc bạc,
    Cứ cắt lại dài ra.

Trong bài thơ chữ Nho sáng tác năm 1950 Thế Lữ dịch:

    Một mình đêm giao thừa
    Ðến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có
    Ðắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép
    Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay
    Có vợ con mà sống chia cách
    Không sinh kế đành phải ăn nhờ
    Nghe tiếng gà mừng vùng dậy
    Kháng chiến bốn lần gàp xuân rồi!

    Một mình trước cảnh xanh núi rừng
    Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn
    Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền

Phan Khôi tự ví mình như con heo sống dưới chế độ cộng sản miền Bắc:
    Ðánh đùng một cái
    Kêu éc éc ngay
    Bịt mồm, bịt miệng
    Trói chân , trói tay ...
    Từ dây đến cái đao
    Chẳng còn bao xa

Hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, Việt Nam bị chia đôi, sông Bến Hải ngăn cách hai miền Nam Bắc tại vĩ tuyến 17. Gần 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Ngược lại Việt Minh cho các cán bộ kết ra Bắc và để lại khoảng 100 ngàn cán bộ nằm vùng. Gia đình Phan Khôi tập kết ra Bắc, được đoàn tụ gia đình về sống trong phòng hội Văn nghệ Hà Nội số 151 đường Trần Hưng Ðạo. Tương truyền rằng trong bửa cơm người bạn mời có thịt gà Phan Khôi cầm đủa, liền chỉ dĩa thịt gà trên mâm nói rằng “chín năm nay tao lại gặp mầy”. (Hoàng Văn Chí sđd tr.11)

Suốt trong thời gian Phan Khôi sống trên các miền Thượng du rất khổ cực không được ăn thịt gà, đời sống về vật chất cũng như tư tưởng bị giới hạn, có thể nói đây là giai đoạn giam lỏng, không muốn Phan Khôi chống lại chế độ. Hồ Chí Minh tặng cho Phan Khôi một chiếc áo, nhưng lòng ông vẫn lạnh lùng vật chất không thể quyến rũ.

Vụ án Nhân văn - Giai Phẩm

Tết bính ngọ tháng 2 năm 1956 tại Hà Nội xuất hiện đặc san Giai Phẩm mùa Xuân do nhà xuất bản Minh Ðức (tư nhân) do Trần Thiếu Bảo ấn hành. (Chính Ðạo Việt Nam niên biểu 1939-1975 NxB Văn hóa Houton tr. 108)

Giai phẩm Xuân nầy tập hộp các cây bút sáng tác tự do, không lệ thuộc chính quyền. Không chấp nhận sự “lãnh đạo văn nghệ” Trong giai phẩm nầy nổi bậc nhất bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, bị chính quyền kết án chụp mũ phản động, báo bị tịch thâu và ngày mồng 2 Tết Bính thân (13-2-1956).

Các văn nghệ sĩ sống tại Hà Nội chia làm hai thành phần: theo Ðảng làm bồi bút. Hoặc độc lập sống nghệ thuật vì nghệ thuật. Thời bấy giờ dư luận xôn xao trong quần chúng về việc công báo kết quả các “Giải Thưởng Văn Học” năm 1954-1955 trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 112 ra ngày 15.3.1956 và báo Nhân Dân ngày 17.3.1956.

Các tác giả vừa có tác phẩm tham dự, vừa được làm giám khảo. Họ là văn thi sĩ của đảng của chính quyền, nộp bài và tự chấm bài lãnh giải thưởng. (Tố Hữu giải nhất; giải nhì Xuân Diệu ...)

Phan Khôi người cương trực, viết bài phê bình vạch trần sai lầm đó. Tựa bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” dài 14 trang giấy đánh máy đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập 1 ngày 29-8-1965.

    “Lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc với lãnh đạo?” đưa các vấn đề chính: Sau năm (1954) từ chiến khu trở về Hà Nội, thời gian chấm dứt chiến tranh. Văn nghệ sĩ tiếp tục bị trói buộc trong khuôn khổ của chế độ cộng sản, không có tự do sáng tác, giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu (Trần Dần bị tù), Văn nghệ sĩ góp tiếng nói ôn hòa xây đựng xã hội, không xách động bạo hành, nhưng tiếng nói của họ bay vào hư vô.

Phan Khôi viết truyện ông Năm Chuột trong giai phẩm mùa Thu tập 1 (giai phẩm nầy có thêm tập 2, tháng 10.1956 và tập 3 tháng 11.1956. Giai phẩm mùa Ðông tháng 12-1956 bị đóng cửa cấm phát hành). Trong bài phê bình lãnh đạo văn nghệ Phan Khôi viết :
    Dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường... Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt.. trường thi phong kiến thưở xưa tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng : Một người nào đó con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải “hồi tị”, không được đi chấm thi. Bây giờ cả đến chính mình đi thi mà cũng không “hồi tị” một lẽ ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã “liêm chính” cả rồi, một lẽ là tráng trơn vì thấy mọi cái “miệng” đã bị “vú lấp”.

Bài báo gây dư luận sâu rộng tại Hà Nội “có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới nghe tiếng nói sang sảng của cụ Phan Khôi”. (Hoàng Văn Chí sđd 26)

Phan Khôi còn làm bài thơ ngụ ngôn:

    Một dạo, giữa loài giở cạn giở nước, mở cuộc thi sắc đẹp
    Nhân có sự tranh chấp, ba con Ếch, Cóc, ểnh ương đấu khẩu với nhau
    Tiếng cóc nhỏ hơn hết, nhưng mà động đến trời
    Trời phán: “chỉ có mày là đồng loại với chúng nó, mày sẽ làm vừa ý ta, không được từ chối”
    Sau khi cực chẳng đã phải làm trọng tài, Nhái bén tâu kết quả:
    Ểnh ương giải nhất, Ếch giải nhì, Cóc không ở giải nào cả?
    Trời tỏ dáng không vui, bảo Nhái bén:
    “Mày cố hết sức tìm ra ưu điểm Cóc xem”
    Nhái bén tâu: Cóc có mụt nằm khắp cả người
    Con không tìm ra ưu điểm nào
    Trời phán “Thôi cho mày đi về”
    Mấy hôm sau, có nghị định của Hà Bá sức về:
    “Nhái bén bị đày vĩnh viễn ở dưới nước, không được lên cạn nữa”
    Nhái bén gặp Cá Trê, kể cảnh ngộ của mình , Cá trê bảo:
    “Mày dại lắm đi đâu chẳng biết con cóc là cậu ông Trời”
    Tao đây mà cũng còn thua kiện nó nữa là ...

Nhân Văn

Sau giai phẩm mùa Thu tập 1. Nhân văn ra đời. Phan Khôi giử chức chủ nhiệm kiêm chủ bút số 1 ra ngày 20.9.1956 đến số 6 đang in tại nhà in Xuân Thu bị tịch thu và đóng cửa ngày 15.12.1956.

Tuổi về già nhưng Phan Khôi tận lực theo đuổi lý tưởng, không sợ bạo quyền đe dọa, dùng ngoài bút đấu tranh mong dành lại cho Văn học Việt Nam, một chổ đứng trung thực dưới chế độ cộng sản.
    Nắng chiều tuy có đẹp
    Tiếc tài gần chạng vạng
    Mặc dầu gần chạng vạng
    Nắng được thì cứ nắng
    1956 (Hoàng Văn Chí sđd tr 57)

Nhân văn và Giai phẩm là những bông hoa hương sắc nở ra trên đất Bắc “Trăm hoa đua nở?" không lâu “Trăm hoa bị vào tù!”

Báo Văn

Báo Văn 10.5.1958 số 36 ngày 10.1.1958 do nhà Văn Nguyễn Hồng quản lý tòa sọan, đăng bài ông năm Chuột của Phan Khôi trong số 36 ngày 10.11.1958 từ đó bị đóng cửa. Cộng sản làm cái bẫy “Trăm hoa đua nở” để bắt toàn bộ văn nghệ sĩ có tư tưởng chống lại chế độ, thanh trừng: bỏ tù đưa đi lao động, cải tạo trên các vùng rừng sâu nước độc. Các nhà Văn, thi sĩ thời tiền chiến (trước 1945) nổi danh như: Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Tuân họ sống với cái xác trong xã hội cộng sản, hồn thơ, lời văn của họ đã chết từ lâu. Những năm qua văn nghệ tạm đổi mới đã phục hồi danh dự cho vụ Án Nhân Văn các nhà văn, nhà thơ tiền chiến nhưng họ đã ra người thiên cổ! Nhà thơ Hữu Loan với bài thơ bất hủ “Đồi tím hoa sim” là nhân chứng cuối cùng đã được đài BBC London phỏng vấn đã cho biết thật tế giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử Việt Nam. Văn nghệ sĩ miền Bắc sống trong đe dọa thường bị kết án phản động giống như Phan Khôi viết:

    Thật là cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá... nhược bằng bắt mọi người phải viết theo lối của mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết . Cụ Ðồ Chiểu ơi! Cụ Ðồ Chiểu ơi! Ở thời cụ, cụ đã kêu: Ở đây nào phải trường thi, Ra đề hạn vận một khi buộc ràng! Thế mà ngày, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi đâu còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!!!

Ðầu năm 1956 Phan Khôi dịch cuốn sách trong đó có chữ “Pomme de terre” ông dịch chữ đó “khoai nhạc ngựa”. Báo Cứu quốc chê Phan Khôi già lẩm cẩm dịch sai cho rằng hai chữ trên phải dịch là “khoai tây” sao dịch là “khoai nhạc ngựa”?

Phan Khôi trả lời:
    Ai cũng biết “pomme de terre” là “khoai tây” nhưng lâu nay cán bộ phụ trách cấm ông dùng chữ “Tây” và chữ “Tàu” ..vv. khi ông viết chữ “chè Tàu” thì bị sửa lại thành “chè Trung quốc”, thịt “kho Tàu” thì đổi thành “thịt kho Trung quốc”. Do đó ông chiều ý lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ ông đã dịch chữ “pomme de terre” ông không dịch là “khoai tây” mà dịch là “khoai nhạc ngựa” vì theo tiếng Trung Quốc gọi là “mã linh thự”. Phan Khôi thông hiểu hai ngôn ngữ Hán văn va Pháp văn. Ông lý luận rõ ràng không thể chê vào đâu được.


Phan Khôi với “Nắng Chiều”

Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1956 Phan Khôi, không bị tập trung cải tạo như các văn nghệ sĩ trí thức khác, phải đi lao động khổ sai, nhưng cuộc đời của ông là chuổi ngày còn lại cô đơn!

    Làm sao cũng chẳng làm sao
    Dẫu có thế nào cũng chẳng làm sao
    Làm chi cũng chẳng làm chi
    Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
    (theo Hoàng văn Chí sđd 58)


Ngày sinh nhật thất thập của Phan Khôi viết :

    Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi!
    Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai

Tai vách mạch rừng đến tai nhà văn Nguyễn Công Hoan nhà văn bồi bút đắc lực với chế độ kiếm miếng đỉnh chung, họa lại bài thơ thật vô lễ, khiếm nhã với nhà thơ đàn anh lão thành Phan Khôi.

    Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
    Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai
    Văn chương! Ðù mẹ thằng cha bạc!
    Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
    Lô-dích, trước cam làm kiếp chó
    Nhân văn nay lại hít gì voi
    Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
    Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai
    (Theo Hoàng văn Chí sđd tr.15)

Nắng Chiều là tựa đề tác phẩm Phan Khôi tập hợp các bài bút ký, tạp văn viết từ năm 1946. Bản thảo của Phan Khôi đưa cho nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Bị dìm luôn không được đăng. Có thể bản thảo Nắng Chiều được các nhà văn “bồi bút” trong hội đọc. Thế Lữ (1907-1989) viết bài trên báo nhân dân ngày 12-4-1956 số 1501 lên án Phan Khôi:

Phan Khôi phản cách cách mạng, ngấm ngầm chống đảng lãnh đạo cách mạng từ trong kháng chiến, đó là việc hiện giờ ta đã thấy rõ hiển nhiên. Phan Khôi vẫn khoe là được Hồ Chủ tịch tặng chiếc áo lụa, và kể cho tôi nghe một chuyến gặp Hồ chủ tịch. Chuyện được chiếc áo, tôi không thấy ông ta tỏ ra một ý nào là cảm kích. (Nguyễn Minh Cần sđd tr. 33)

Trong bài phê bình tiếp tục tác giả Ðoàn Giỏi (1925-1989) tựa đề “tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi” đăng trên báo Văn Nghệ số 15 tháng 8-1958. Nhờ loạt bài phê bình trên có trích dẫn, chúng ta còn được tài liệu những tác phẩm cuối cùng Nắng Chiều của Phan Khôi gồm có hai phần:

Phần một các truyện: Cầm Vịt, Tiếng Chim, Cây Cộng Sản

Nói về chuyện Cầm Vịt

    Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế thì đầy đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không thế thì không thuê được người chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối mùa còn phải chia hoa hồng cho anh em nữa, vì thế tuy được lãi nhiều mà vào tay người chủ không còn mấy.

Tiếng Chim

    Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt gà con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được cũng bay đi tuốt, nó không hề nói “Mầy phải cho tao với!”

Cây cộng sản
    “Có một thứ thực vật cũng như sen Nhật Bản ở xứ ta, trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Ðâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy ở Việt Bắc không chổ nào không có.” Theo Phan Khôi có nơi gọi loại cây trên là “cỏ bù xít” hoặc “cây cứt lợn” hoặc “cây chó đẻ”. Ông nói rằng những tên cây đó đều không nhã tí nào, người có học không gọi như vậy mà gọi là “cây cộng sản”.

    Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái trình trạng ấy bắt đầu có những năm 1930-1931 đồng thời với Ðông Dương Cộng sản đảng hoạt động. Phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy, cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là ( herbe communiste) đáng lẽ dịch là cỏ cộng sản. Nó còn một tên rất lạ hỏi ông già Thổ. Tên nó là cây gì? Ông nói tên nó là (cỏ cụ Hồ) .Thứ cỏ nầy trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường sá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó là như vậy.

Phần hai tạp văn các truyện: Thái Văn Thu, Ông Năm Chuột Chuyện Ba Ông Vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống và Nguyễn Trường Tộ, được trích dẫn

Thái Văn Thu

Theo lời Thu thì nhà hắn cũng đủ ăn, hắn đi ăn trộm không phải vì túng thiếu mà không muốn làm nghề gì hết. Cái nhân sinh quan hắn đại khái là “người An Nam” phải làm giặc đánh Tây mà không làm được, thì đi ăn trộm, ăn trộm của “Tây”.

Nói về Nguyễn Trường Tộ

Tự Ðức có phê vào bổn điều trần của Nguyễn Trường Tộ do quan tỉnh dâng lên một câu Dùng được đấy hay là cho nó một chức quan để lấy lòng nó, dùng sức nó một chức quan Ông ấy tưởng người ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy. “Vua thì như thế còn đám quan liêu từ triều đình đến ở các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn cũng đều là hủ nho, dưới vua, hai hạng người nầy nắm quyền lợi một nước trong tay họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi , thì còn ai mà làm gì được?” Lấy trường hợp Nguyễn Trường Tộ để án chỉ xã hội dưới thời cộng sản.

Phan Khôi con người khẳng khái, Sống và Viết trung thực không luồn cúi dưới chế độ Cộng sản, để mưu cầu danh lợi. Ông sống đúng tiết tháo của một nhà nho cho đến cuối cuộc đời. Những bài viết trong tập Nắng Chiều dù không được xuất bản. Nhưng nhờ Ðoàn Giỏi trích dẫn phê bình. Chúng ta thấy Phan Khôi chủ đích chính trong bài chỉ trích chế độ cộng sản độc tài cai trị tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Phan Khôi là một vì sao lạc dưới chế độ cộng sản, đã giết chết cuộc đời văn chương. Nhưng trong tuổi già nắng xế Phan Khôi viết phản ảnh chế độ cộng sản như loại “cỏ bù xít” vì loại cỏ nầy có mùi hôi như con bọ xít. “Hoa cứt lợn” hay là cây “Chó đẻ”. Học giả Đào Duy Anh sống ở miền Bắc sau 1975 vào Sài Gòn đến thăm nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tâm sự:
    Xã hội chủ nghiã vài trăm năm nữa cũng chưa xây dựng xong, mình sẽ bị phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ (Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê trang 521).

Thiên đường cộng sản từ Liên Sô đã sụp đổ từ năm 1990 làm thay đổi cục diện thế giới, các quốc gia ở Đông Âu đều từ bỏ chủ nghiã cộng sản theo chế độ tự do và dân chủ. Những loại cỏ Phan Khôi đã gọi trong văn chương, hy vọng người Việt Nam nhổ bỏ bớt loại cỏ ấy, trồng những loại hoa xinh đẹp cho quê hương thêm tươi thắm.

Tình thần sống và hoạt động của nhà văn Phan Khôi thật đáng ngưỡng mộ. Theo lời kể lại, người con trai của ông là Phan Thao khi đó là cán bộ đảng, đã không dám đến dự đám tang cha mà chỉ cải trang làm một người tình cờ, dắt xe đạp đi trên vỉa hè trong lúc đám tang đi dưới lòng đường!!!

Trong nhiều thập niên sau đó tên tuổi ông bị lãng quêǹ, sự nghiệp báo chí của ông cũng ít được giới thiệu. Văn học miền Nam trước 1975 đều biết Phan Khôi qua bài Tình Già . Nhà văn Thanh Lãng viết về Phan Khôi trong Phê bình Văn học thế hệ 1932 Sài Gòn 1973, Trăm hoa đua nở cuả Hoàng Văn Chí, mãi cho đến năm 1995, 13 năm tranh luận văn học 1932-1945 in lại 3 tập Tp HCM 1995.

Nhà văn Phan Khôi mất vào lúc 11 giờ sáng ngày 16-1-1959 tại số 73 phố Thuốc Bắc Hà Nội, Phan Khôi sống và mất như nhà thơ Phùng Quán viết:
    Tôi muốn làm nhà văn chân thật
    Chân thật trọn đời
    Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
    Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
    Bút giấy tôi ai cướp giật đi
    Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá
    (Hoàng Văn Chí sđd 121)


Chân thành cảm ơn các tác giả viết về nhà văn Phan Khôi và tôi đã mạn phép trích đăng, dẫn chứng tài liệu và hình ảnh cho bài viết nầy.

Tác giả Nguyễn Quý Đại

Phan Khôi bút chiến

Phan Khôi viết bài phê bình trên Phụ Nữ Tân Văn số 54 tháng 6 năm 1930 “Ðọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” sau đó Trần Trọng Kim trã lời cùng tờ báo trên số ngày 10-7-1930 bài “Mấy lời bàn với tiên sinh về Khổng giáo” tiếp theo số báo 62 ngày 24-7-1930 Phan Khôi viết tiếp “Sau khi đọc bài trã lời Trần Trọng Kim tiên sinh, cảnh cáo các nhà học phiệt”. Trong bài nầy có đề cập đến Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh trã lời Phan Khôi số báo 60 ngày 28-8-1930 “Trã lời bài cảnh cáo các nhà học phiệt của Phan Khôi tiên sinh”. Phan Khôi đáp lại số 70 ngày 18-9-1930 “Về cái ý kiến lập hội Chấn Hưng Quốc Học của ông Phạm Quỳnh”. Sau bài viết của Phan Khôi trên báo Ðông Phương (1933) Nguyễn Khoa Văn đả kích Phan Khôi duy tâm Phan Khôi viết lại trên Phụ Nữ Thời Ðàm gây bút chiến sôi nổi về “Duy tâm hay duy vật”.(Sau nầy người con trai Phan Thao viết bài phê bình báo Nhân Văn do thân phụ giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút ngày 16-12-1956 tại Hà Nội. Bởi vì tư tưởng không đồng nhất Phan Khôi thích Dân Quyền, ngược lại con ông thích cộng sản. “Con cãi lại cha”)

Phần chú thích thêm về tiểu sử nhà văn Phan Khôi

Quảng Nam Đất nước và Nhân Vật của Nguyễn Quyết Thắng trang 598 viết Phan Khôi bị bắt giam đến 1911.
Sử gia Trần Gia Phụng viết trong Đất Ngũ Phụng 2001 bài huyền thọai Phan Khôi trang 89:
“Có lẽ thời gian ngồi tù Phan Khôi không lâu, vì sau đó người ta thấy ông ghi tên theo học trường Pellerin Huế trong hai năm 1909-1910. Năm 1911 thôi học trường Pellerin, Phan Khôi về lại quê nhà thọ tang cha, mãn tang ông lập gia đình năm 1913...”
Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập của Nguyễn Tấn Long trang 80 viết:
“Cuối năm 1907 Phan Khôi bị bắt cần tù tại nhà lao Quảng Nam. Đến cuối năm 1914 thế chiến thú 2 bùng nổ ... Albert Sarraut ân xá một số thường phạm và chính trị phạm trong đó có Phan Khôi.” Vậy ghi lại các đoạn trên để rộng đường suy luận.

Tài liệu tham khảo thêm
Ân tích cộng sản Việt nam của GS Trần Gia Phụng - http://www.freeviet.org/nvth/nhanvan/nchieu.html (http://www.xuquang.com/links/vanhoc/phankhoi/).
Độc giả có thể đọc toàn bài thơ nhất định thắng của Trần Dần - http:/www.freeviet.org/nvth/nhanvan/ndt.html.

http://www.hungsuviet.org/lichsu/nha_van_phan_khoi.htm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2006 10:38:33 bởi TTL >

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Phan Khôi - (1887-1959) - 12.09.2006 11:37:37
.

Phan Khôi
Bàn thêm về “bút chiến”





I. Cái thái độ của chánh khách và của học giả

Đọc Thần chung, trong một số ra trước đây mấy bữa, thấy có bài đề là “Bút chiến” của ông Bùi Thế Mỹ, bàn về sự các nhà ngôn luận đánh giặc cùng nhau trên giấy, bằng ngòi bút [1] .

Ông Bùi nói phải lắm. Ổng nói phàm bút chiến cốt để binh vực lấy chủ nghĩa mà mình đã tin chớ không phải để đấu khẩu nhau như hàng tôm hàng cá. Ông lại chê và phản đối hết sức những cái giọng nói xấu nhau của mấy ông ra ứng cử nghị viên.

Nhưng cái bài ấy chỉ nói sơ lược mà thôi. Theo tôi tưởng, về các cuộc bút chiến, còn có nhiều điều nên nói và nên biết nữa.

Bởi vậy tôi viết bài nầy để phô bày thêm một vài lẽ cần yếu trong cuộc bút chiến. Trước khi động bút, B sánh với động binh, tôi tuyên ngôn rằng đây là một đạo viện binh muốn dàn thêm ra cho kín mặt trận, chớ không phải kéo ra để cự chiến với quân họ Bùi đâu.



*


Trong các cuộc bút chiến thường có hai cái thái độ: cái thái độ của bọn chánh khách và cái thái độ của bọn học giả. Kêu bằng chánh khách, tức là những người ra làm quốc sự; những người ra ứng cử nghị viên cũng nhập vào môn ấy.

Bất kỳ ở nước nào cũng vậy, hễ đã ra làm quốc sự thì thế nào cũng hướng nhiều về quyền lợi hơn là về đạo đức (cái quyền lợi ấy hoặc thuộc về một người, hoặc thuộc về một đoàn thể, hoặc thuộc về công chúng, chi cũng kể là quyền lợi cả). Hễ đã khuynh hướng về quyền lợi thì cái mục đích của sự tranh biện với nhau là để choán lấy quyền lợi về phe mình. Mà hễ đã muốn choán lấy quyền lợi cho mình thì tức nhiên phải công kích bên phe địch.

Quyền lợi chẳng là một thứ tương phản với đạo đức. Bụng lúc bấy giờ chứa những quyền lợi là quyền lợi, thì miệng nói ra đạo đức sao được?

Bởi vậy cho nên những tay ra làm quốc sự, nhằm hồi họ tranh quyền với nhau, họ nói xấu nhau chẳng còn chỗ chừa chỗ dẻo. Mà cái đó cũng đã thường thấy trong các nước văn minh, ò có lẽ văn minh chừng nào thì cái đó lại càng kịch liệt chừng nấy, chớ không phải một mình chi nước ta.

Vẫn biết rằng cái sự bươi xấu nhau như vậy, cái sự bất đạo đức như vậy là chẳng hay chi, song can họ không thể can, mà cấm họ không thể cấm. Bởi vì, cái đời là cái đời quyền lợi, thì trong lúc tranh nhau quyền lợi, tối mày tối mặt, vớ được chi nói nấy, ai mạnh miệng nấy hơn, còn rồi đâu mà lựa lời? Chửi nhau trên tờ báo, ấy còn là thanh bai một chút, giá có dịp cho họ chửi nhau bằng miệng, họ cũng chẳng từ!

Tranh chi thì cứ việc tranh, song làm sao cho nó có vẻ ôn hòa, cho ra dáng quân tử, như được vậy thì tốt lắm. Song chừng như không có thể được thì phải. Không có thể được cho nên luật pháp cũng phải nới tay. Theo hồi bình thường, luật có điều buộc tội kẻ nói xấu người khác, kêu là điều phỉ báng (diffamation) song trong khi cử nghị viên, ai vì sự tranh cử mà nói xấu nhau, luật không buộc điều ấy cho; là vì lẽ đó.

Luật đã nới cho thì tùy ý, mặc sức tha hồ mà chửi nhau chẳng ai thèm thò miệng vào làm chi!

Cũng có khi những tay chánh khách tranh biện nhau về lý tưởng nào, về chủ nghĩa nào trong vòng chánh trị, không đụng chạm nhau về quyền lợi, thì cái quang cảnh lại đổi ra tạnh ráo, sáng sủa, chớ không sấm chớp, bão bùng, u ám như trước nữa. Song khi ấy thì họ lại đã đứng về phương diện học giả rồi.



*


Trong cuộc bút chiến, chỉ có thái độ nhà học giả là ngộ hơn hết, phải chăng hơn hết, sang trọng hơn hết.

Các nhà học giả cãi nhau cốt để tìm cho ra sự thiệt, cho thấy chơn lý. Ngoài điều ấy, không còn có mục đích gì nữa. Thiệt như câu thành ngữ Tây mà họ Bùi đã dẫn: "Có biện luận thì mới nẩy ánh sáng ra". Khổng Tử ta cũng bảo rằng: "Học thì phải hỏi cho kỹ và biện cho sáng" (Thẩm vấn chi, minh biện chi). Cho nên, trong học giới, sự cãi cọ biện bác với nhau, là một sự rất có ích và rất cần cho việc học.

Nói nghe mà thèm!

Khắp cả nước ta, từ ngày có báo đến giờ, sự tranh đấu nhau về quyền lợi thì thường có mà sự biện luận nhau về học vấn thì tựa hồ như chưa có. Nhớ mười năm về trước có cuộc bút chiến của ông Nguyễn Háo Vĩnh với Nam phong về vấn đề văn quốc ngữ; năm ngoái đây có cuộc bút chiến của Tiếng dân với Đông Pháp thời báo về vấn đề sử Nam [2] ; song vì có một bên cãi bướng, thành ra cuộc tranh biện không có giá trị chi cả. Trong báo giới không có cuộc bút chiến có giá trị, ấy là điều sỉ nhục cho nhà ngôn luận đã đành, mà cũng là sự bất lợi cho mọi người.

Chi cái đó mà sỉ nhục? C Đừng lấy làm chơi, sỉ nhục lắm chớ!

Trong đời, nhứt là trong một nước cần sự biết như ta đây, khi nào mà lại chẳng có những điều nên nói đi nói lại, những lẽ cần phải biện cho vỡ ra, thế mà nhà ngôn luận ngồi im, không vi sử đến, đủ tỏ ra là kém học thức, kém sự luận nạn và phán đoán, chẳng đáng lấy làm sỉ nhục hay sao?

Bất lợi cho mọi người là vì công chúng không có thì giờ mà đọc sách, mà học; điều hay lẽ phải phần nhiều nhờ ở tờ báo. Tờ báo không có cuộc bút chiến nào về học vấn, ấy là thiệt thòi cho công chúng, cho kẻ đọc.

Đại để cuộc bút chiến về học vấn cần phải có, mà muốn có cuộc bút chiến ấy có giá trị thì nhà ngôn luận phải tập lấy cái thái độ của học giả.

Cái thái độ của chánh khách là kịch liệt, võ phu; cái thái độ của học giả là bình hòa là nho nhã. Sự kịch liệt võ phu đã không thể không có được thì cái khí tượng hòa bình nho nhã lại cần phải có luôn luôn.

Về thái độ học giả, kỳ sau sẽ nói rõ hơn.


II. Cái thái độ của học giả trong cơn bút chiến

Trong bài trước đã nói: các nhà học giả cãi nhau cốt để tìm cho ra sự thiệt, cho thấy chơn lý. Ngoài điều ấy, không còn có mục đích gì khác nữa.

Bởi vậy cho nên, trong khi cãi nhau đó, bên nào cũng phải giữ lấy cái thái độ của mình cho ôn hòa, cho nho nhã. Vì muốn tìm chơn lý thì phải tìm ở trong sự bình tĩnh, điều độ, trật tự mới thấy được, chớ chơn lý không hề khi nào ở trong sự ồn ào, hỗn độn cáu giận [3] mà ra . Lời tục thường nói: "nóng mất ngon, giận hết khôn", phải lắm; trong những lời nói bởi giận dữ mà ra, chắc không có trí khôn ở đó. Tìm chơn lý được là nhờ ở trí khôn; nay trí khôn mất đi thì lấy chi mà tìm?

Trong cơn bút chiến, nhà học giả chỉ thấy cái thuyết của bên địch mình, mà không thấy đến cái người chủ trương cái thuyết ấy. Nghĩa là cái thuyết ấy nó sai lầm bởi đâu, tại làm sao mà mình công kích, đó là những điều mình nên giãi bày ra cho kỹ; còn cái người lập ra nó, bất cần là bạn với mình hay là thù với mình, đều không có quan hệ gì. Bên Âu châu ngày xưa có một đấng hiền triết viết sách thường hay chỉ trích những điều sai lầm của thầy mình rồi nói rằng: "Ta yêu thầy ta, ta còn yêu chơn lý hơn nữa". Trong học giới phương Tây ngày nay còn truyền tụng câu ấy mà cho là danh ngôn. Thầy là ân nhân của mình, còn có thể vì chơn lý mà chẳng nệ thay; vậy thì nếu gặp bên địch là một người thù của mình, càng nên vì chơn lý mà không căm hờn mới phải vậy.

Nhà học giả cãi nhau về một vấn đề gì, về một lý thuyết gì, không nên trông cho mình được thắng mà phải trông cho chơn lý được thắng. Ngộ như cãi nhau mà mình phải, ấy là chơn lý nhờ mình mà được thắng mình mừng đành rồi. Trái lại, nếu bên kia là phải, thì chơn lý nhờ bên kia mà được thắng, mình há lại nên giận sao? Nếu mình giận thì ra cái cuộc biện luận đó, mình chỉ vì khách khí, vì tánh háo thắng, vì sự tư lợi cho mình, chớ không có ý gì về chơn lý cả.

Trước khi biện luận cùng ai, mình phải có cái chủ ý như vậy, phải có cái lòng trung thành đối với chơn lý như vậy, thì tất nhiên nó sẽ hiện ra cho mình cái thái độ đúng đắn, là cái thái độ của học giả.

Ở nước ta, vì thuở nay trong làng ngôn luận chưa hề có cuộc bút chiến có giá trị, như đã nói trong bài trước, thành ra người ta còn cho sự ấy là sự lạ tai lạ mắt. Những người mà trong xã hội không trọng thị, họ cãi bậy với nhau, chẳng ai kể chi; còn những người mà xã hội đã cho là hạng người khá, ngộ có nói qua nói lại một vài lời với nhau thì thiên hạ đã ồn lên, nói rằng: "Ủa! Té ra mấy ông nầy mà cũng đã chửi nhau rồi!” Rồi những người gọi là hạng khá ấy, đối với công chúng cũng phải giữ mình, phải tránh hết thảy những sự cãi chối đôi co dầu có thấy chỗ sai lầm của nhau cũng không dám nói, cứ việc làm thinh mà chịu. Ấy là lầm cả thảy, cả công chúng và hạng người khá cũng lầm.

Phải hiểu rằng cuộc biện luận không phải là đám chửi nhau, cái thái độ của học giả không phải là của bọn võ phu. Khoan đã! Công chúng chớ vội huýt còi, nên đứng im mà nghe các nhà học giả họ biện luận với nhau cho nẩy ra chơn lý. Còn các nhà ngôn luận! Không nên sợ công chúng hiểu lầm mà đành chôn chơn lý trong đám mây mù.

Nhà ngôn luận, đương trong cơn bút chiến, giữ một lòng trung thành với chơn lý mà thôi, còn chưa đủ; phải cần có nhiều điều khác nữa.

Cần nhứt là phải biết phép luận lý. Mình muốn bẻ bác những lời của bên địch, phải chiếu theo phép luận lý mà bẻ bác; muốn chủ trì cho cái thuyết của mình, cũng phải dựa theo phép luận lý mà chủ trì. Khi cái thuyết của mình ngó bộ núng thế, phép luận lý không có thể bảo hộ cho nó được nữa thì đành phải liệu mà cuốn cờ bó giáp chịu bại trận một cách chánh chánh đường đường, chớ không nên ráng gân cổ mà cãi bướng, cãi bướng thì thành ra ngụy biện.

Luận lý học thì mênh mông lắm, song đây chỉ nói qua vài điều cần cho sự bút chiến mà nghe. Phàm trong khi hai đàng đối luận cùng nhau về vấn đề gì, thì trước phải lập ra những cái định nghĩa (définition) cho phân minh, cho nhứt trí, hai bên không có thể hiểu khác nhau được. Rồi lại phải vạch ra cái phạm vi của vấn đề, hai bên cùng đứng trong phạm vi ấy mà nghị luận, chớ không được vượt ra ngoài. Như vậy thì cuộc bút chiến sẽ có thứ tự chỉnh tề và có hiệu lịnh sum nghiêm [4] , kẻ xem phải lấy làm thích mắt.

Trong các rạp hát bộ ta, khi có chiến trận thì thế nào hai bên cũng có khấu ó [5] nhau bằng lời nói. Quốc trạng thì kêu tướng Phiên: mầy là khuyển dương chi bối; tướng Phiên cũng mắng Quốc trạng: Mầy là đồ nhũ xú tiểu nhi! Ủa hay! Các ngài đánh trận với nhau thì cứ lấy binh pháp mà đánh, sao lại nhiếc nhau làm chi vậy? Trên sân khấu có phải là chỗ chợ búa đâu?

Nhà ngôn luận khi đánh giặc bằng bút cũng dùng cái cách độc miệng ấy thì thật là đáng xấu hổ quá. Có người lại bươi đến việc riêng của bên địch ra mà nói, mà là việc chẳng ăn nhập chi với vấn đề đương bàn luận hết, thế mới ngán cho! Những người như vậy cũng chẳng nên đem phép luận lý mà nói với họ làm chi, song chỉ nên cho họ một bài học khác.

Tóm lại, trong bài nầy, tôi muốn chỉ ra cái thái độ của học giả trong cơn bút chiến, trước hết là phải biết yêu chơn lý, rồi phải theo khuôn phép, giữ trật tự, tỏ ra mình là ôn hòa, nho nhã, trái lại với cái thái độ của võ phu, của tiểu nhân. Tuy vậy, đây mới xem bề mặt chớ chưa lật qua bề trái; bài thứ ba nữa, tôi sẽ nói đến những điều cấm kỵ trong cuộc bút chiến, ấy là bề trái của nó.


III. Những điều cấm kỵ trong cơn bút chiến hay là "chiến thời công pháp"

Giữa vạn quốc có đặt ra một thứ pháp luật chung, kêu là "Vạn quốc công pháp" để làm mẹo mực cho sự giao thiệp với nhau trong lúc bình thường; lại đặt riêng một thứ công pháp nữa kêu là "Chiến thời công pháp" để làm khuôn phép cho các nước trong khi có chiến tranh. Những nước giao chiến với nhau phải phục tùng chiến thời công pháp cũng như thời bình thời phải phục tùng vạn quốc công pháp vậy.

"Chiến thời công pháp" cốt để ngăn ngừa sự tàn bạo phi pháp trong lúc đánh nhau, cho nên mỗi một điều là khuynh hướng về mặt tiêu cực. Đại để như: Cấm dùng độc khí và những thứ súng có thể giết người quá lạm; cấm bất kỳ nước nào trong những nước giao chiến không được đem quân đi ngang qua phần đất của nước trung lập; cấm bắn hay là thả trái phá vào những nơi thành thị đông dân cư...

Đánh nhau bằng súng phải vậy thì đánh nhau bằng bút cũng phải vậy. Nếu trong cuộc bút chiến không có cái gì làm cái máy hãm cho sự biện luận thì ai muốn nói ngang nói dọc gì cũng được cả, tuy cái hại không phải là đổ máu nhiều quá, mà là “phun máu” dơ quá!

Vậy nhà ngôn luận phải biết những điều cấm kỵ trong cơn bút chiến, coi nó như là chiến thời công pháp mà không thể vi phạm được. Cái công pháp nầy không phải tôi dám tự tiện đặt ra, song tôi chỉ thuật lại mà thôi, tôi thuật lại những điều cấm kị mà các chiến tướng trong trường ngôn luận xưa nay gìn giữ.

Những điều cấm kỵ ấy trong bài thứ hai đã nói phớt qua một ít rồi, ở đây chỉ nói thêm cho rõ hơn.


Cấm không được nói phạm đến nhân cách người bên địch. . Khi nào mình muốn phản đối với cái thuyết nào của ai, mình chỉ nên nhắm vào cái thuyết ấy mà nói, chớ không nên nhắm vào người lập ra hay là đứng chủ trì cái thuyết ấy. Mặc dầu người ấy có thói xấu, tiếng dơ, hay là thế nào đi nữa, mình cũng không được bươi móc đến hoặc bằng cách trực tiếp, hoặc bằng cách gián tiếp. Nhứt là khi người bên địch đó bình nhựt không ưa nhau với mình thì mình lại càng nên giữ khít nước.


Cấm không được nói ra ngoài đề. . Bàn một việc chi, cứ nội trong việc ấy, mới trông có ngày giải quyết được; nếu cứ nói lan rộng mãi ra thì chẳng biết nói đến đời nào cho rồi. Có nhiều cuộc bút chiến, hai bên đối đáp mãi với nhau, càng ngày càng giang ra xa lắc, chẳng còn nhớ đến hồi đầu nói chuyện gì nữa. Như vậy, thật là chỉ báo hại cho hao giấy tốn mực mà chẳng có ích gì cho chơn lý cả.


Cấm không được trích lấy một vài lời của bên địch. . Khi nào mình muốn phản đối một cái bài của ai thì phải nên lấy lòng thành thật mà hiểu hết ý của cả bài người ta đã, nếu là đáng, thì hãy phản đối. Trong khi biện luận, cũng nên lấy lòng thành thật mà để mắt vào cả bài của người ta, chớ không nên trích ra một vài chữ hoặc một vài lời để làm nê cho mình công kích. Có người vẫn tâm phục cả bài của người ta là được, song chỉ vì ý riêng, bươi móc ra một vài lời để đánh đổ cả một bài cho khoái ý, làm như vậy thật là trái với lương tâm mình. Nói láo với người khác còn chưa là đê tiện mấy; nói láo với lương tâm mình mới thật là đê tiện.


Cấm không được dùng những chữ tối nghĩa hay là nhiều nghĩa. Nhà viết văn, nhứt là trong văn biện thuyết, phải dùng chữ nào cho đích đáng chữ ấy. Dùng chữ đích đáng như vậy, tỏ ra mình có sự thấy sáng suốt, không chịu nói cách lờ mờ, vả lại tỏ ra mình có chí khí cao thượng, mạnh dạn, không thèm rụt rè, không thèm trở vỉa. Có người hay dùng những chữ tối nghĩa hay là nhiều nghĩa để phòng sau bên địch đánh ngõ nầy thì chạy ngõ khác, cái đó thật là hèn mạt quá, thà "trốn lính" cho rồi, biểu ra đương lấy đầu tên mũi đạn làm chi!


Cấm không được đem người mà phân bì với lời nói. . Ví dụ có một ông chủ bút nào ghiền a phiện như Trần Độc Tú bên Tàu mà viết báo công kích a phiện, thì mình không nên viện lấy cớ đó mà nói rằng : "Sao ông cũng ghiền ông lại nhè a phiện mà công kích?" Nếu mình nói như vậy thì là bất luận lý (illogique) quá. Bởi vì, sự công kích đó là có ích cho công chúng, ta nên nhìn là phải; còn sự nói một đường làm một nẻo của ông kia chẳng qua là cái lỗi riêng của ổng, mặc ổng, mình nói làm chi? Mình nói đến, ấy là mình chủ ý nói xấu người ta, chớ chẳng ích chi cho công chúng và cũng chẳng ích chi cho ông ấy nữa. Đem người mà phân bì với lời nói thì có khác chi thằng con cứng đầu mà Mạnh Tử đã bày đặt ra, nó nói với cha nó rằng: Cha dạy tôi làm điều phải, sao cha chưa hề làm điều phải?(!)


Cấm nói xỏ xiên và lỗ mãng. . Đã cấm không được nói phạm đến người bên địch, phần rồi; lại còn cũng không được dùng những lời xỏ xiên để mà châm chích bên địch nữa. Như trong bài trước đã nói: đánh giặc thì ăn thua nhau bằng binh pháp, còn bút chiến thì ăn thua nhau bằng luận lý học (logique) chớ còn nói hỗn chẳng hề hơn ai. Đến như dùng những lời lỗ mãng, chỉ tỏ ra mình là người vô giáo dục, không ích chi đã đành, mà trở lại mình hại mình đó thôi.


Cấm đánh trả đòn. . Khi cãi nhau về một vấn đề gì mà mình bị thua thì nên chịu thua một cách thật thà là hơn, không nên cùng trong lúc ấy lại kiếm thế trả thù bên địch về một vấn đề khác. Gà chọi, nó bị bên địch đá cho một đòn đau thì nó có phép trả lại liền; song cái tư cách của nhà ngôn luận không phải như gà chọi!

Đây nhẫn lên bẩy điều chẳng qua là nêu lên những điều đại khái mà thôi, viết ra nữa khí rườm rà, vả lại giấy cũng hết rồi, xin cho phép tôi kết.

Nếu y như cái "công pháp" trên nầy thì chẳng là bó tay bó chơn lại mà đánh nhau sao? Cuộc bút chiến còn có oai phong gì và còn có thú vị gì nữa? Nhưng mà không; muốn cho có oai phong, có thú vị, phải tìm ở nơi khác; còn những điều nầy thì phải giữ, không phạm được, vì nó là công pháp.

Một bài nữa, tôi sẽ làm cho cuộc bút chiến bớt cái vẻ nghiêm nghị mà trở nên vui.


IV. Không có gì làm vui cuộc bút chiến cho bằng giọng khôi hài


Luận về bút chiến, tôi viết bài nầy nữa là hết. Mà tôi tưởng bài nầy, ý nó cũng quan trọng như các bài trên.

Trong bài thứ III đã nói, nếu ép phải theo các điều cấm kỵ kể ra đó thì cuộc bút chiến thành ra nghiêm khắc lạnh lùng mà buồn bẽo quá. Bởi vậy các nhà bút chiến xưa nay đã bày ra một lối trong trường văn trận bút để điểm chuyết cho nó đỡ buồn. Ấy là giọng khôi hài.

Văn khôi hài là một thể văn riêng. Còn sự khôi hài tôi nói đây chỉ là một ít lời khôi hài điểm chuyết trong bài văn.

Xưa nay đã có nhiều người nhận ra rằng văn chương mà có điểm ý khôi hài vào là lợi ích nhiều bề lắm. Đã vui tai cho người đọc mà có khi lại phát minh cho chơn lý. Càng những cái vấn đề khô khan lạnh lạt bao nhiêu, mà trong khi biện luận mình nên cho một vài ý khôi hài vào thì nó lại càng trở nên tươi tỉnh mặn nồng bấy nhiêu.

Bởi đó cổ kim Đông Tây có nhiều nhà viết văn nhờ khéo khôi hài mà nổi danh trong một thuở. Cho đến các bậc thánh triết cũng chuộng sự khôi hài. Nói chi ông Esope ở Hy Lạp thì cả đời ông chỉ nói đùa luôn. Nghiêm trang như ông Khổng Tử phương Đông ta mà ngài cũng không cấm nói dỡn. Có một lần ngài nói với học trò rằng: Cắt cổ gà mà dùng dao bầu chọc huyết trâu làm chi! Rồi ngài thú nhận liền mà rằng: câu nói ấy là câu ta nói dỡn.

Thật vậy, sự nói dỡn nó làm cho cuộc giao tế của loài người trở nên thân mật mà đầm ấm, những người vui tánh, khéo khôi hài thì ai cũng ưa, chớ còn "lập nghiêm ai dám lại gần".

Chỉ có một điều là trong sự khôi hài phải cho biết cách. Nói dỡn mà "phạm nọng" [6] người ta, ấy là không biết nói dỡn, thế thì trở lại chẳng bằng đừng nói là hơn. Trong Kinh Thi có câu: "Thiện hí nước hề, bất vi ngược hề" nghĩa là khéo nói dỡn cợt mà chẳng đến làm hại, thật đáng làm mẫu mực cho sự khôi hài vậy.

Tôi dám nói rằng trong xã hội ta tuyệt nhiên không có cái sự hí hước như Kinh Thi nói đó. Những phường hạ lưu nói xỏ nói xiên nhau chẳng đủ kể rồi. Còn đến trong đám người khá, người có học, hội đàm với nhau, thì phải lựa từng chữ, giữ từng lời, thường hay quá ư câu cẩn. Cho nên trong đám thượng lưu ta nói chuyện với nhau thường ít nghe có tiếng cười, và nói chừng vài phút thì hết chuyện, rồi ngồi đó mà ngó nhau. Ấy là vì trong lúc nói hay giữ gìn thái quá vậy.

Cũng vì trong xã hội không quen cách hí hước theo phép lịch sự, thành ra ít người phân biệt được câu nói đùa với câu nói xỏ khác nhau thế nào. Tục ngữ có lời: "Nói chơi không biết nói thiệt không hay", là chỉ mấy anh đó.

Cũng vì vậy nên trong làng ngôn luận, trên tờ báo ít thấy có những bài đùa nhau một cách nhã. Nếu có ai hiểu cách ấy mà muốn viết ra cũng không dám viết, sợ người ta không biết, cho là xỏ nhau hoặc chửi nhau. Làm vậy thành ra trong tờ báo xứ mình chẳng có cái vẻ gì là cái vẻ "sống" hết, nó cứ lừ đừ như người buồn ngủ toan ngủ gục!

Báo giới bên Tây bên Tàu thì không như vậy. Nhiều cuộc bút chiến của họ ngộ bắt kinh.

Bên Tàu cách mươi năm nay có cuộc bút chiến về khoa học với huyền học là có danh hơn hết. Cuộc ấy có đến mươi cái báo và độ trên mười nhà học giả dự vào, đánh giặc với nhau đến nửa năm. Về sau nó sẽ có tên trong lịch sử, kêu bằng "khoa huyền luận chiến".

Trận ấy có nhiều tay chiến tướng khéo khôi hài, làm cho vui trò, làm cho độc giả phải hoan nghinh. Vì đọc báo như vậy thì cũng như đi xem diễn kịch mà lại có ích cho sự học hơn nữa. Tôi cử ra một trò khôi hài mà nghe.

Trương Quân Mại về phe huyền học, viết một bài phản đối khoa học, nhưng sau rốt có mấy câu vô ý tỏ ra như là phải có khoa học mới được. Bên kia, Hồ Thích viết một bài trả lời.

Bài của Hồ Thích đề là “Tề Thiên Đại Thánh với Trương Quân Mại”. Mới nghe cái đề ai cũng phải cười nôn ruột và phải chú ý để coi ở trong nói chuyện gì.

Ở trỏng nói rằng: "Xưa kia Tề Thiên Đại Thánh đấu phép với Phật tổ Như Lai, Đại Thánh nói rằng: mỗ có vân đẩu cân, bay một cái xa đến 18 vạn dặm. Phật tổ giơ bàn tay ra nói rằng: đố bay thế nào cho thoát khỏi cái bàn tay nầy. Đại Thánh bay đi. Bay thiệt xa đến tận đâu đâu, đến chỗ có năm hòn núi lớn. Ông ta nghĩ rằng nếu không để lại dấu tích gì ở đây thì chẳng lấy gì làm cho Phật tổ tin mình đã đến, bèn viết một hàng chữ trên hòn núi lớn hơn hết và đái ở dưới một đống, rồi bay về thuật lại cùng Như Lai. Như Lai đưa bàn tay ra thì ra nơi ngón cái có một hàng chữ rõ ràng và dưới đó có mùi nước đái khỉ i vì Đại Thánh nguyên là cốt khỉ. Thế là Đại Thánh bay mấy cũng không khỏi tay Như Lai. (Chuyện này thấy trong truyện Tây du). Nay Trương Quân Mại nói rằng mình có vân đẩu cân bay thoát khỏi phạm vi khoa học, song về sau cũng quay đầu lại, mà không thoát khỏi được. Như vậy Trương quân chẳng khác gì Đại Thánh!".

Ấy đó, cái cách khôi hài của họ nó có lý thú là như vậy. Nó lại có ích cho sự biện thuyết nữa, vì nếu chỉ lấy lời lẽ mà phản bác thì dài dòng mất bao nhiêu; cái nầy, đem một câu chuyện nực cười làm ví dụ thì đỡ nói nhiều mà lại càng rõ nghĩa.

Bài trả lời ấy bấy giờ người Tàu họ cho là khéo khôi hài mà nhã lắm; chẳng ai hề trách Hồ Thích có ý nói xăm nói điếm chi, vì họ biết cách nói chơi, họ hiểu nhau rồi.

Song nếu đem câu chuyện ấy mà viết trong báo An Nam mình thì thế nào cũng có người cho là xỏ lá, vì người ta nói rằng: Hồ Thích nói như vậy là cầm Trương Quân Mại như con khỉ!

Ấy là lời thêu dệt. Nếu cứ bắt tròn bắt méo theo kiểu bà gia với nàng dâu đó thì thôi, chẳng ai còn dám nói đùa nói bỡn một câu nào hết. Cho đến Khổng Tử cũng ngậm miệng mà không dám thò cái câu "cắt cổ gà, chọc huyết heo" ra!

Ta hãy mở rộng độ lượng ra một chút mà nghe những lời đùa bỡn của người đời. Đừng có nên "thông ngôn" một cách xiên xẹo. Bao giờ trên tờ báo có nhiều giọng khôi hài thì bấy giờ mới có cuộc bút chiến có lý thú, vì nó tương quan với nhau vậy.

Thần chung, Sài Gòn, s. 106 (28.5.1929); s. 108 (30.5.1929); s. 111 (2 và 3.6.1929); s. 114 (6.6.1929).



------------------------------------------------
[1]Bài “Bút chíến” của Bùi Thế Mỹ đăng Thần chung số 102 (23.5.1929)- Các chú thích đều của người biên soạn (Lại Nguyên Ân)

[2]Ở đây nhắc lại cuộc tranh luận của C.D. (Phan Khôi) với Huỳnh Thúc Kháng, Trần Huy Liệu về việc người Pháp giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn.
[3]Hai từ “cáu giận” là tạm đoán, vì bản chụp bị mờ, không rõ.

[4]sum nghiêm: như oai nghiêm.
[5]khấu ó: chính ra là gấu ó, trỏ việc ngầy ngà, mắng mỏ nhau (theo H. T. Paulus Của: Sđd)

[6]phạm nọng: chưa rõ nghĩa; “nọng” trỏ khúc thịt cổ (lợn, bò, trâu); phải chăng “phạm nọng” cũng tương tự “chặn họng”, “chọc họng”?

Nguồn: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1929, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2004.

http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5404&rb=0306

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005
RE: Phan Khôi - (1887-1959) - 23.09.2006 14:34:15
.

Phan Khôi
Cấm sách, sách cấm





Ở vào thế kỷ hai mươi, là thế kỷ mà thiên hạ làm phách, hô lớn lên hai chữ tự do, nói rằng đâu đâu cũng phải tôn trọng sự tự do, đâu đâu cũng phải tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản nầy, bỗng dưng nghe đến hai chữ "cấm sách" thì há chẳng phải là một sự lạ hay sao? Song le, là lạ cho ở xứ nào kia, còn xứ nầy, sự ấy đã ra như cơm bữa rồi, không còn lạ gì nữa.

Sự cấm sách đã không phải là lạ, thì dầu viết ra một cuốn sách mà bàn về sự ấy, chắc cũng không ai cho là lạ, huống chi viết sơ một vài cột báo mà bàn, thì lại là sự rất thường. Duy có một vài cột báo, viết thế nào mà có hiệu lực mạnh làm sao, đến nỗi ngày nay báo ra, ngày mai phế lịnh cấm sách, nếu được vậy thì lại là sự lạ hơn.

Nhưng mà có đâu! Chúng tôi làm gì có phép thông thần ấy? Mà dầu cho ai nữa cũng không có.

Vậy thì chúng tôi viết đây để làm chi? Định nói cái gì?

Không, chúng tôi nói rất tầm thường, không có gì lạ. Như một đứa con nít khi kẻ lớn bảo ngồi yên trên giường thì chúng tôi cũng ngồi yên, không dám vùng dậy chạy, song chỉ lấy tay mó máy cái này cái kia, hay là rúc rích đôi chút mà thôi.

Vài năm nay, cả ba kỳ ta nơi nào cũng có cấm sách, mà cấm nhiều nhứt là Trung Kỳ rồi đến Bắc Kỳ, vậy phải lấy tình thiệt mà khai rằng ở Nam Kỳ có rộng rãi hơn, có dễ thở hơn. Ấy nhưng mà phân biệt như vậy có làm gì, hễ đã cấm thì bất luận ít nhiều, đều mang tiếng chung là cấm sách cả.

Mà có mang tiếng cũng không làm sao, có ngại gì cái đó. Không lẽ muốn tránh tiếng rồi để cho những sách bậy bạ được lưu hành tự do mà không cấm.

Ủa mà có sách gì lại là sách bậy bạ? Dâm thơ chăng? Yêu thơ chăng? Không biết. Hễ cho là bậy bạ thì nó là bậy bạ.

Cấm thì cấm. Nhưng mà tốt hơn là nên cho biết tại làm sao mà cấm.

Một cuốn sách, in ra cốt để bán, cũng như con người có chơn để đi xứ nọ xứ kia. Nay ví phỏng an trí một người nào ở một nơi mà không cho đi đâu, thì người ấy tức là người có tội rồi, mà trước khi an trí đó, tòa án phải tuyên minh tội trạng của người ấy. Cấm một cuốn sách mà không cho bán, cũng vậy, cũng nên tuyên minh tội trạng của nó.

Hiện nay có nhiều cuốn sách bị cấm mà không hiểu vì cớ gì. Mà cũng không ai đem sự ấy ra kêu nài. Phải, không kêu nài là phải, vì có buộc tội thế nào đó, thì mới có chỗ đôi co; còn như cứ chiếu theo đạo luật chỉ có một chữ ( chữ Cấm ( mà thi hành, thì còn ai nói năng gì được nữa?

Hay là không cho ai nói năng gì được như vậy là đắc sách? Có lẽ. Nhưng mà thường thường hễ người ta không nói ra cho hả hơi được thì lại cứ bực tức trong lòng.

(Tòa kiểm duyệt bỏ hết một đoạn.)

Mà chưa biết chừng, hoặc giả vì sách vở đặt câu không nên thân mà cấm đi chăng ; nếu vậy thì lại là may phước cho học giới ta biết chừng nào.


*


Trên đó là cấm sách; dưới đây là sách cấm.

Một cuốn sách, bất kỳ nội dung nó ra làm sao, cứ để yên không cấm thì người ta coi như thường. Dầu có lắm người khích thích vì nó chăng nữa, song cũng còn có lắm người coi như thường. Ðến cấm đi một cái, thì hết thảy ai nấy đều chú ý vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ lại làm cho người ta càng đọc!

Người ta nói rằng một pho tượng gỗ đã sơn thếp rồi mà chưa khai quang điểm nhãn thì nó chưa linh, đến chừng khai quang điểm nhãn rồi thì nó mới linh. Ấy vậy, cấm cuốn sách nào, tức là khai quang điểm nhãn cho cuốn sách ấy.

Cho nên ở ta đây đã có nhiều sách linh lắm, có nhiều cuốn đã hiển thánh rồi. Việt Nam vong quốc sử và Hải ngoại huyết thơ đã hiển thánh hai mươi năm nay; còn mới đây Một bầu tâm sự cũng đòi đạp đồng ngang lên nữa.

Thiên hạ họ mua sách cấm mắc tiền lắm, thường giá mắc gấp đôi lúc chưa cấm, lâu ngày, rồi đến gấp mười gấp trăm. Tức như dân An Nam là dân không ham đọc sách, hay tiếc tiền, mà đến sách cấm thì cũng trằn trọc trằn xa mua cho được. Mua rồi đọc chùng đọc vụng, ai biết đâu mà bắt.

Người Tàu đương đời Mãn Thanh, vào khoảng Khương Hy, Kiền Long, có nhiều bộ sách bị cấm, mà cấm chừng nào thì người ta lại càng đọc và càng lấy làm thích chừng nấy. Có người đời bấy giờ đã nói: "Các cái vui ở thế gian không cái nào bằng trong đêm có tuyết, đóng cửa lại mà đọc sách cấm". (Nguyên văn bằng chữ Hán: Thiên hạ chi lạc mạc quá ư tuyết dạ bế môn độc cấm thơ).

Ở đất nhà Nam ta, chỉ có mây mù mà không có tuyết, làm cho giảm mất cái thú vui trong khi đọc sách cấm. Song le, đã có cái thú khác thế vào. Có người đã phát minh ra được và nói rằng: "Không có cái thú gì bằng cái thú trong lúc trời mưa, đóng cửa cho chặt lại, rồi......đọc sách cấm!"

Cái thế lực của sách cấm là như vậy, còn cấm sách nữa thôi? ...


C.D. [1]
Ðông Pháp thời báo, Sài Gòn, s.763 (1.9.1928)


----------------------------------------------
[1]C.D. là chữ viết tắt bút hiệu Chuơng Dân của Phan Khôi


Nguồn: Trích Phan Khôi-Tác phẩm đăng báo 1928, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông-Tây xuất bản, 2003

http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=707&rb=06

Ngọc Lý
  • Số bài : 3255
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2005

saigonthangtu
  • Số bài : 102
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 05.05.2007
RE: Phan Khôi - (1887-1959) - 10.05.2008 10:47:47
          .             
Hồ sơ
Phan Khôi


 

Lại Nguyên Ân
sưu tầm, biên soạn

http://www.viet-studies.info/Phankhoi/index.htm

©  Lại Nguyên Ân 2003  
Văn bản sưu tầm, giới thiệu, hiệu chỉnh, chú giải
đều thuộc quyền của người sưu tầm và biên soạn


1928 | 1929 | 1930 | 1931

.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2008 10:50:40 bởi saigonthangtu >