(url) Phan Khôi - (1887-1959)
Ngọc Lý 26.08.2006 23:17:54 (permalink)
.


PHAN KHÔI





Tiểu Sử

Phan Khôi hiệu là Chương Dân, sinh ngày 20-08-1887 (Đinh hợi) tại làng Bảo An quận Ðiện Bàn tỉnh Quảng Nam, thận phụ là phó bảng Phan Trân (1826-1935) thân mẫu Hòang thị Lệ (1826-1882) con gái của Tổng đốc Hoàng Diệu (1828-1882). Năm 1906 Phan Khôi ra Huế thi Hương, nhưng rớt cử nhân được sắp vào hạng tú tài. Ông lấy biệt hiệu Tú Sơn (Tout Seul / cô độc).

Phan Khôi xuất thân trong gia đình khoa bảng, ông nội là án sát Phan Nhu. Phan Khôi học hán văn từ nhỏ, nhờ đọc các sách Tân thư nên có tình thần Duy tân tin ở Dân quyền. Phong trào Duy Tân hoạt động (1906-1908) do Phan Chu Trinh (1872-1926), Hùynh Thúc Kháng (1876-1947) và Trần Quý Cáp (1870-1908) cùng các sĩ phu tại quê nhà lãnh đạo. Phan Khôi hưởng ứng Phong trào ra Hà Nội học chữ Quốc ngữ và Pháp văn tham gia hoạt động với trường Ðông Kinh Nghĩa Thục mở cửa năm 1907.

Năm 1908 Phong trào bị thực dân Pháp đàn áp, tất cả đều bị bắt bỏ tù hay tử hình. Phan Khôi lúc đó ở Hà Nội, bị bắt đưa về giam ở Huyện Diên Phước (Ðiện Bàn), thời gian ngắn, được ân xá ông ra Huế theo học tại trường Pellerin từ năm (1909-1911). Thân phụ mất về quê để tang, mở trường dạy học, hết tang ông lập gia đình (1913) nhạc phụ là ông Lương Thúc Kỳ (1873-1947) giáo viên trường Dục Anh tại Phan Thiết do ông Nguyễn Trọng Lợi thành lập (Phong Trào Duy Tân).

Sinh hoạt viết Báo

Phan Khôi là nhà văn, nhà báo, còn là nhà nghiên cứu sắc nét đã gây dư luận một thời.
    Ðăng Cổ Tùng Báo (1907) của trường Ðông Kinh Nghĩa Thục.
    Nam Phong (1918) của Phạm Quỳnh (1892-1945), nhưng chẳng bao lâu bất đồng ý kiến, bỏ vào Sài Gòn viết tờ Lục Tỉnh Tân Văn thành lập từ năm 1907.

Ông ra Hà Nội tiếp tục viết:
    Hà Nội Thực Nghiệp Dân Báo (1920)
    Hữu Thanh (1921)
    Phan Khôi trở về Sài Gòn vào năm 1925 cộng tác các tờ:

    Ðông Pháp Thời Báo (1923)
    Trung Lập Báo (1924)
    Thần Chung (1929)
    Tại Sài Gòn ông làm chủ bút:

    Phụ Nữ Tân Văn (1929) thời gian vì khủng khoảng tài chánh đình bản.


Ông ra Hà Nội làm chủ bút:

    Phụ Nữ Thời Ðàm (1932)

Ở Huế ông làm chủ bút:

    Tràng An (1934)
    Phụ Nữ Tân Văn tục bản (1936)

Làm chủ nhiệm kiêm chủ bút:
    Nhân Văn tại Hà Nội (ngày 20.9.1956-15.12.1965)

Trong thời gian nầy ông viết thêm các tờ:

    Giai phẩm (1956)

    Tuần báo Văn (1957)

    Le Courris Indochinois

Phan Khôi dịch bộ Thánh Kinh của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Ðạo Tin Lành sang truyền giáo tại Việt Nam, chưa có Kinh Thánh bằng Việt ngữ. Phan Khôi là nhà Nho am hiểu Pháp văn. Ông đối chiếu hai cuốn Kinh viết từ Hán văn và Pháp văn dịch sang chữ Quốc ngữ (1921).

Phan Khôi gom các bài viết (1917-1945) được đăng tải qua báo chí in thành tập:
    Chương Dân Thi Thoại (chuyện thơ 1936)
    Trở vỏ lửa (1939 cuốn tiểu thuyết ít được nhắc đến)
    Việt ngữ nghiên cứu (Biên khảo 1955)
    Mộng trung mộng (Mộng trong giấc mộng.Hán văn truyện ngắn Nam Phong)
    Hoạn hải ba đào (Sóng gió bể hoạn - Hán văn truyện ngắn Nam Phong)
    Lỗ Tấn truyện ngắn và tạp văn dịch (của Chu Thụ Nhân 1858-1913)
    Nhà xuất bản Đà nẳng Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, nhà văn Lại Nguyên Ân người am hiểu Hán văn cũng như Pháp ngữ đã sưu tầm biên soạn về Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928.

Làm Thơ

Bài thơ Ngụ ngôn ông viết vào khoảng năm 1909 sau vụ Trung Kỳ Dân Biến (1908) với thể thơ tự do nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Vì báo chí viết bằng chữ Quốc ngữ còn phôi thai. Sự nghiệp văn chương của Phan Khôi có chỗ đứng vinh quang trên văn đàn Việt Nam.
    Mồng bảy tháng bảy năm Canh thân
    Chiếu lệ bắc cầu qua sông Ngân
    Hằng hà sa số cu-ly (cooly) quạ
    Bay bổng về trời dường trẩy quân
    Hai bên bờ sông đậu lốc ngốc
    Con thì kêu đói, con kêu nhọc
    Đường sá xa xuôi việc nặng nề,
    Phần lũ con thơ ở nhà khóc
    Bổng nghe lệnh trời truyền khởi công
    Nào con đầu cúi, con lưng cong
    Thêm bầy Lý Bẻo đứng coi việc,
    Ðụng đâu đánh đó như bao bông!
    Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt!
    Làm có, ăn không, chết cho hết!
    Cắn cỏ kêu Trời, Trời chẳng nghe
    Một con bay lên đứng diễn thuyết
    Hỏi đồng bào nghe tôi nói đây :
    Dân quyền mạnh nhầt là đời nay
    Việc mà chẳng phải mà công ich,
    Không ai cho phép đem dân đày
    Trối kệ Hoàng Ngưu với Chúc Nữ
    Qua được thời qua không thời chớ?
    Quốc dân Ô thước tội tình chi?
    Mà bắt xâu bơi làm khổ sở
    Anh em ta, hè về quách thôi!
    Luôn thể kéo nhau vào cửa trời
    Dộng trống đăng văn, ầm đế tọa
    Ngai vàng bệ ngọc, rung rinh rơi
    Nghe tin dân quạ nổi cách mệnh
    Ðường sá xa xuôi, việc nặng nề
    Phần lũ con thơ ở nhà khóc!
    Trời sai Thiên lôi ra thám thính
    Ðầu đen máu đỏ quyết hy sinh!
    Ngừng búa Thiên lôi không dám đánh
    Năm nay bổng thấy chiếu trời ra,
    Ðánh chữ đại xá trời ban cho
    Dân qụa ở đâu về ở đó
    Từ nay khỏi bắc cầu Ngân hà
    Ờ té ra:
    Mềm thì ai cũng nuốt,
    Cứng thì thời cũng nhả .
    Hằng hà sa số cu-ly quạ
    Bay về hạ giới kêu kha! khá!
    Đông Pháp thời báo 2.6.1928

Hai mươi ba năm sau bài thơ Tình Già trình làng, đăng trên báo Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932. Từ đó phong trào thơ mới được bắt đầu, lối làm thơ tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, dường luật nhường chỗ cho phong trào thơ mới. Mở đầu cho thi ca Việt Nam phát triển phong phú hơn. Bài thơ Tình Già của Phan Khôi được đưa vào chương trình giáo dục (trung học) trước 1975 tại miền Nam.
    Tình già

    Hai mươi bốn năm xưa,
    Một đêm vừa gió lại vừa mưa
    Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ
    Hai mái đầu xanh kề nhau than thở.

    Ôi đôi ta tình thương thì vẫn nặng
    Mà lấy nhau hẳn là không đặng
    Ðể đến rồi tình trước phụ sau
    Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau

    Hay! Nói mới bạc làm sao chớ!
    Buông nhau làm sao cho nở?
    Thương được chừng nào hay chừng nấy
    Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy!
    Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng
    Mà tính việc thủy chung?

    Hai mươi bốn năm sau
    Tình cờ nơi đầt khách gặp nhau!
    Ðôi mái đầu đều bạc
    Nếu chẳng quen lung, đố nhìn ra được!

    Ôn chuyện cũ mà thôi.
    Liếc đưa nhau đi rồi!
    Con mắt còn có đuôi


Lý luận Phan Khôi

Phan Khôi là một kiện tướng của “Quảng Nam hay cãi”. Người xưa nói “quân tử hòa nhi bất đồng” người quân tử không đồng nhất với nhau nhưng vẫn giữ tư tưởng sự hòa thuận tôn trọng nhau và cộng tác. Phan Khôi ảnh hưởng nho học và tân học (say mê khoa luận lý học logique) khả năng lý luận uyên bác. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân viết về gia đình Phan Khôi:
    Tôi đã từng biết một gia đình cãi nhau những ba đời. Ðó là gia đình ông Phan Khôi, Cha Phan Khôi, một bậc đại khoa tên là Phan Trân (con án sát Phan Nhu), tôi không rõ giữa ông Phan Nhu và Ông Phan Trân có hay cãi nhau như thế nào không, nhưng giữa ông Phan Trân và Phan Khôi, Các cụ vẫn còn kể lại những vụ cãi nhau rất kinh động. Rốt cuộc, cha thường vác roi đuổi con chạy tơi bời. Ðiều ấy dễ hiểu: ông phó bảng Phan Trân bênh vực cổ nhân như các bậc đại khoa thời ấy; ông Phan Khôi chống lại vì ông đọc Tân thư, tin ở Dân Quyền. (Nguyễn văn Xuân Phong trào Duy Tân sđd trang 93-94)

Phan Khôi phê bình bộ Nho Giáo của Trần Trọng Kim (1883-1953) xuất bản gây các cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh (1892-1945) vào năm 1930 (1). Trên tờ Phụ Nữ Thời Ðàm năm 1932 bài viết “Văn minh vật chất và Văn minh tinh thần” của Phan Khôi đưa đến bút chiến với nhà văn cộng sản Hải Triều Nguyễn Khoa Văn (1908-1954).

Phan Khôi là nhà văn miền Nam có danh tiếng mà gia đình đã tập kết ra Bắc, chính quyền Hà Nội năm 1956, cử ông đi Trung Quốc cùng nhà thơ Tế Hanh dự hội nghị kỷ niệm lần giỗ thứ 20 của Lỗ Tấn (1881-1936) tại Bắc Kinh (Peking) trên đất nước đàn anh cộng sản giáo điều, nhưng Phan Khôi tranh luận với cán bộ Trung Cộng về chủ nghĩa Mác xít (Marxist), Phan Khôi phê bình khi tới thăm nhà máy An Sơn như sau:
    Ngày xưa ông Mác nói: lao động sáng tạo nhưng tôi nghĩ rằng nên nói trí thức và lao động sáng tạo mới đúng.

    Cán bộ Tàu lễ phép chữa lại:

    Thưa cụ ông Mác nói là lao động là bao gồm cả trí thức trong đó chứ ạ!
    Cụ Phan trả lời ngay:

    Không đâu ý ông Mác chỉ muốn nói công nhân thôi, còn trí thức thì sau nầy người ta mới thêm thắt vào đó.

Dạy học và hoạt động chính trị

Năm 1934 dạy Việt Văn ở trường tư thục Hồ Ðắc San tại Huế. Năm 1936 Phan Khôi dạy tại trường Chấn Thanh Sài Gòn do Phan Bá Lân làm hiệu trưởng. Năm 1941 trường Chấn Thanh dời về Ðà Nẳng. Trong thời đệ nhị thế chiến (1939-1945) có thể đời sống tại Sài Gòn khó khăn, Phan Khôi về Quảng Nam. Cụ lớn tiếng công kích cán bộ địa phương phá hủy nhà thờ Hoàng Diệu, và chính sách khủng bố của Việt Minh bắt thủ tiêu các đảng phái đối lập. Nhất là các đảng viên VNQDÐ. Ông Trương Phước Tường bị Việt Minh bắt tại Tam Kỳ ngày 4-2-1946. Phan Khôi được bầu làm chủ nhiệm tượng trưng cho tỉnh Ðảng bộ. Phan Bá Lân làm Bí thư và ban chấp hành tỉnh Hoàng Tăng, Phan Khoang, phụ trách Tuyên nghiên huấn. Lê Thận phụ trách Ðặc vụ. (Hoàng văn Ðào sđd trang 354)

Hà Nội ngày 13-7-1946 Võ Nguyên Giáp cho người lục soát trụ sở Ban Tuyên huấn Ðệ thất khu Ðảng Bộ của VNQDÐ tại số 9 phố Ôn Như Hầu, trụ sở nầy vốn của quân đội Nhật giao lại cho quân đội Trung Hoa; rồi chuyển cho VNQDÐ. Việt Minh phao tin lên tìm thấy trong khu vực nhà nầy có chôn xác người, lấy đó làm bằng cớ, lập biên bản kết tội VNQDÐ là tổ chức “hắc điếm” để bắt cóc, giết người. Việt Minh thanh toán VNQDÐ được gọi là vụ án Ôn Như Hầu. Từ đó Việt Minh thanh toán VNQDÐ trên toàn quốc. (Minh vũ Hồ Văn Châm báo đd tr.45)

Cán bộ địa phương không dám thanh toán Phan Khôi và báo cáo lên cấp trên, vì con trai của Phan Khôi là Phan Thao (1915-1960), lúc bấy giờ làm cán bộ cao cấp trong Ủy Ban Trung Bộ, và Phan Bôi (1910-1949) bí danh Hoàng Hữu Nam (anh em chú bác với Phan Khôi) làm thứ trưởng bộ nội vụ Việt Minh. Phan Khôi viết thư gởi Huỳnh Thúc Kháng đang giữ chức Bộ trưởng Bộ nội vụ Huỳnh Thúc Kháng vội vàng can thiệp với Hồ Chí Minh giàn xếp vấn đề, viết thư mời Phan khôi ra Hà nội hợp tác, nhưng kỳ thực giao Phan Bôi để quản thúc.

Tại Quảng Nam vào tháng 7-1946 tại Cầu Chiêm Sơn xã Phú Tân huyện Ðiện Bàn Việt Minh lấy cớ Quốc Dân Ðảng mưu toan phá hoại cầu khi có tàu lửa chở vũ khí vào Nam và thanh toán các đảng viên VNQDÐ. Ngày 20-10-1946 tại Hà Nội Việt Minh tấn công tòa báo của VNQDÐ tại số 80 đường Quan Thánh do nhà văn Khái Hưng (1896-1947) phụ trách, tất cả bị bắt trong hôm đó có Phan Khôi.

Phan Khôi những ngày trên đất Bắc


Phan Thao và Phan Bôi đưa Phan Khôi lên các vùng chiến khu Việt Bắc do Việt Minh hoàn toàn kiểm soát. Sống biệt lập, giao trách nhiệm dịch sách từ Hán văn hay Pháp văn ra Việt ngữ. Phan Khôi tán thành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nên phải đứng chung với chủ nghĩa cộng sản.
    Hồng nào hồng chẳng có gai
    Miễn đừng là thứ hồng dài không hoa,
    Là hồng thì phải có hoa
    Không hoa chỉ có gai mà ai chơi?
    Ta yêu hồng lắm hồng ơi!
    Có gai mà cũng có mùi hương thơm.
    (16.03.1951)
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) Phan Khôi đã làm bài thơ Thăm bộ đội, trong Tập văn kháng chiến và cách mạng:

    Vượt núi trèo non tôi đến đây
    Về thăm anh nghỉ dưới chân mây.
    Chúc anh mạnh khoẻ rồi ra trận
    Máu sức càng hăng để đánh Tậy
    Đánh đến bao giờ độc lập thành
    Tôi dù già rụi ở quê anh
    Cũng nguyền nhắm mắt không ân hận,
    Nằm dưới mồ nghe khúc thái bình.
Trong những tháng ngày buồn chán bị cấm đoán cô đơn, Phan Khôi gởi tâm sự qua các bài thơ:
    Tuổi già thêm bệnh hoạn
    Kháng chiến thấy dài ra
    Mối sầu như tóc bạc,
    Cứ cắt lại dài ra.

Trong bài thơ chữ Nho sáng tác năm 1950 Thế Lữ dịch:

    Một mình đêm giao thừa
    Ðến ngọn đèn làm bầu bạn cũng không có
    Ðắp lên thân suy tàn một tấm chăn kép
    Chợp mắt mơ là nhằm miếng chua cay
    Có vợ con mà sống chia cách
    Không sinh kế đành phải ăn nhờ
    Nghe tiếng gà mừng vùng dậy
    Kháng chiến bốn lần gàp xuân rồi!

    Một mình trước cảnh xanh núi rừng
    Ta ngồi ngạo nghễ với bầy chim bầy vượn
    Vì ta chạy loạn mà tình cờ gặp cảnh lâm tuyền

Phan Khôi tự ví mình như con heo sống dưới chế độ cộng sản miền Bắc:
    Ðánh đùng một cái
    Kêu éc éc ngay
    Bịt mồm, bịt miệng
    Trói chân , trói tay ...
    Từ dây đến cái đao
    Chẳng còn bao xa

Hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954, Việt Nam bị chia đôi, sông Bến Hải ngăn cách hai miền Nam Bắc tại vĩ tuyến 17. Gần 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Ngược lại Việt Minh cho các cán bộ kết ra Bắc và để lại khoảng 100 ngàn cán bộ nằm vùng. Gia đình Phan Khôi tập kết ra Bắc, được đoàn tụ gia đình về sống trong phòng hội Văn nghệ Hà Nội số 151 đường Trần Hưng Ðạo. Tương truyền rằng trong bửa cơm người bạn mời có thịt gà Phan Khôi cầm đủa, liền chỉ dĩa thịt gà trên mâm nói rằng “chín năm nay tao lại gặp mầy”. (Hoàng Văn Chí sđd tr.11)

Suốt trong thời gian Phan Khôi sống trên các miền Thượng du rất khổ cực không được ăn thịt gà, đời sống về vật chất cũng như tư tưởng bị giới hạn, có thể nói đây là giai đoạn giam lỏng, không muốn Phan Khôi chống lại chế độ. Hồ Chí Minh tặng cho Phan Khôi một chiếc áo, nhưng lòng ông vẫn lạnh lùng vật chất không thể quyến rũ.

Vụ án Nhân văn - Giai Phẩm

Tết bính ngọ tháng 2 năm 1956 tại Hà Nội xuất hiện đặc san Giai Phẩm mùa Xuân do nhà xuất bản Minh Ðức (tư nhân) do Trần Thiếu Bảo ấn hành. (Chính Ðạo Việt Nam niên biểu 1939-1975 NxB Văn hóa Houton tr. 108)

Giai phẩm Xuân nầy tập hộp các cây bút sáng tác tự do, không lệ thuộc chính quyền. Không chấp nhận sự “lãnh đạo văn nghệ” Trong giai phẩm nầy nổi bậc nhất bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần, bị chính quyền kết án chụp mũ phản động, báo bị tịch thâu và ngày mồng 2 Tết Bính thân (13-2-1956).

Các văn nghệ sĩ sống tại Hà Nội chia làm hai thành phần: theo Ðảng làm bồi bút. Hoặc độc lập sống nghệ thuật vì nghệ thuật. Thời bấy giờ dư luận xôn xao trong quần chúng về việc công báo kết quả các “Giải Thưởng Văn Học” năm 1954-1955 trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 112 ra ngày 15.3.1956 và báo Nhân Dân ngày 17.3.1956.

Các tác giả vừa có tác phẩm tham dự, vừa được làm giám khảo. Họ là văn thi sĩ của đảng của chính quyền, nộp bài và tự chấm bài lãnh giải thưởng. (Tố Hữu giải nhất; giải nhì Xuân Diệu ...)

Phan Khôi người cương trực, viết bài phê bình vạch trần sai lầm đó. Tựa bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ” dài 14 trang giấy đánh máy đăng trong Giai phẩm mùa Thu tập 1 ngày 29-8-1965.

    “Lãnh đạo văn nghệ thành ra vấn đề, quần chúng văn nghệ thắc mắc với lãnh đạo?” đưa các vấn đề chính: Sau năm (1954) từ chiến khu trở về Hà Nội, thời gian chấm dứt chiến tranh. Văn nghệ sĩ tiếp tục bị trói buộc trong khuôn khổ của chế độ cộng sản, không có tự do sáng tác, giai phẩm mùa Xuân bị tịch thu (Trần Dần bị tù), Văn nghệ sĩ góp tiếng nói ôn hòa xây đựng xã hội, không xách động bạo hành, nhưng tiếng nói của họ bay vào hư vô.

Phan Khôi viết truyện ông Năm Chuột trong giai phẩm mùa Thu tập 1 (giai phẩm nầy có thêm tập 2, tháng 10.1956 và tập 3 tháng 11.1956. Giai phẩm mùa Ðông tháng 12-1956 bị đóng cửa cấm phát hành). Trong bài phê bình lãnh đạo văn nghệ Phan Khôi viết :
    Dưới chế độ tư sản, sự đối lập là thường nhân dân đối lập với chính phủ, công nhân đối lập với chủ xưởng, học sinh đối lập với nhà trường... Nhưng ở dưới chế độ của chúng ta, về mọi phương diện, yêu cầu phải không đi đến đối lập, hễ còn đối lập là cái hiện tượng không tốt, cái triệu chứng không tốt.. trường thi phong kiến thưở xưa tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn giữ sạch tiếng : Một người nào đó con em đi thi, thì người ấy có được cắt cử cũng phải “hồi tị”, không được đi chấm thi. Bây giờ cả đến chính mình đi thi mà cũng không “hồi tị” một lẽ ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã “liêm chính” cả rồi, một lẽ là tráng trơn vì thấy mọi cái “miệng” đã bị “vú lấp”.

Bài báo gây dư luận sâu rộng tại Hà Nội “có người thốt lên rằng chín mười năm nay mới nghe tiếng nói sang sảng của cụ Phan Khôi”. (Hoàng Văn Chí sđd 26)

Phan Khôi còn làm bài thơ ngụ ngôn:

    Một dạo, giữa loài giở cạn giở nước, mở cuộc thi sắc đẹp
    Nhân có sự tranh chấp, ba con Ếch, Cóc, ểnh ương đấu khẩu với nhau
    Tiếng cóc nhỏ hơn hết, nhưng mà động đến trời
    Trời phán: “chỉ có mày là đồng loại với chúng nó, mày sẽ làm vừa ý ta, không được từ chối”
    Sau khi cực chẳng đã phải làm trọng tài, Nhái bén tâu kết quả:
    Ểnh ương giải nhất, Ếch giải nhì, Cóc không ở giải nào cả?
    Trời tỏ dáng không vui, bảo Nhái bén:
    “Mày cố hết sức tìm ra ưu điểm Cóc xem”
    Nhái bén tâu: Cóc có mụt nằm khắp cả người
    Con không tìm ra ưu điểm nào
    Trời phán “Thôi cho mày đi về”
    Mấy hôm sau, có nghị định của Hà Bá sức về:
    “Nhái bén bị đày vĩnh viễn ở dưới nước, không được lên cạn nữa”
    Nhái bén gặp Cá Trê, kể cảnh ngộ của mình , Cá trê bảo:
    “Mày dại lắm đi đâu chẳng biết con cóc là cậu ông Trời”
    Tao đây mà cũng còn thua kiện nó nữa là ...

Nhân Văn

Sau giai phẩm mùa Thu tập 1. Nhân văn ra đời. Phan Khôi giử chức chủ nhiệm kiêm chủ bút số 1 ra ngày 20.9.1956 đến số 6 đang in tại nhà in Xuân Thu bị tịch thu và đóng cửa ngày 15.12.1956.

Tuổi về già nhưng Phan Khôi tận lực theo đuổi lý tưởng, không sợ bạo quyền đe dọa, dùng ngoài bút đấu tranh mong dành lại cho Văn học Việt Nam, một chổ đứng trung thực dưới chế độ cộng sản.
    Nắng chiều tuy có đẹp
    Tiếc tài gần chạng vạng
    Mặc dầu gần chạng vạng
    Nắng được thì cứ nắng
    1956 (Hoàng Văn Chí sđd tr 57)

Nhân văn và Giai phẩm là những bông hoa hương sắc nở ra trên đất Bắc “Trăm hoa đua nở?" không lâu “Trăm hoa bị vào tù!”

Báo Văn

Báo Văn 10.5.1958 số 36 ngày 10.1.1958 do nhà Văn Nguyễn Hồng quản lý tòa sọan, đăng bài ông năm Chuột của Phan Khôi trong số 36 ngày 10.11.1958 từ đó bị đóng cửa. Cộng sản làm cái bẫy “Trăm hoa đua nở” để bắt toàn bộ văn nghệ sĩ có tư tưởng chống lại chế độ, thanh trừng: bỏ tù đưa đi lao động, cải tạo trên các vùng rừng sâu nước độc. Các nhà Văn, thi sĩ thời tiền chiến (trước 1945) nổi danh như: Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Tuân họ sống với cái xác trong xã hội cộng sản, hồn thơ, lời văn của họ đã chết từ lâu. Những năm qua văn nghệ tạm đổi mới đã phục hồi danh dự cho vụ Án Nhân Văn các nhà văn, nhà thơ tiền chiến nhưng họ đã ra người thiên cổ! Nhà thơ Hữu Loan với bài thơ bất hủ “Đồi tím hoa sim” là nhân chứng cuối cùng đã được đài BBC London phỏng vấn đã cho biết thật tế giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử Việt Nam. Văn nghệ sĩ miền Bắc sống trong đe dọa thường bị kết án phản động giống như Phan Khôi viết:

    Thật là cái tội phản động ở xứ nầy sao mà ghép một cách dễ dàng quá... nhược bằng bắt mọi người phải viết theo lối của mình, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết . Cụ Ðồ Chiểu ơi! Cụ Ðồ Chiểu ơi! Ở thời cụ, cụ đã kêu: Ở đây nào phải trường thi, Ra đề hạn vận một khi buộc ràng! Thế mà ngày, bảy tám mươi năm sau cụ, người ta còn làm ăn gì được nữa cụ ơi! Tôi đâu còn là tôi đâu được nữa cụ ơi!!!

Ðầu năm 1956 Phan Khôi dịch cuốn sách trong đó có chữ “Pomme de terre” ông dịch chữ đó “khoai nhạc ngựa”. Báo Cứu quốc chê Phan Khôi già lẩm cẩm dịch sai cho rằng hai chữ trên phải dịch là “khoai tây” sao dịch là “khoai nhạc ngựa”?

Phan Khôi trả lời:
    Ai cũng biết “pomme de terre” là “khoai tây” nhưng lâu nay cán bộ phụ trách cấm ông dùng chữ “Tây” và chữ “Tàu” ..vv. khi ông viết chữ “chè Tàu” thì bị sửa lại thành “chè Trung quốc”, thịt “kho Tàu” thì đổi thành “thịt kho Trung quốc”. Do đó ông chiều ý lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ ông đã dịch chữ “pomme de terre” ông không dịch là “khoai tây” mà dịch là “khoai nhạc ngựa” vì theo tiếng Trung Quốc gọi là “mã linh thự”. Phan Khôi thông hiểu hai ngôn ngữ Hán văn va Pháp văn. Ông lý luận rõ ràng không thể chê vào đâu được.


Phan Khôi với “Nắng Chiều”

Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1956 Phan Khôi, không bị tập trung cải tạo như các văn nghệ sĩ trí thức khác, phải đi lao động khổ sai, nhưng cuộc đời của ông là chuổi ngày còn lại cô đơn!

    Làm sao cũng chẳng làm sao
    Dẫu có thế nào cũng chẳng làm sao
    Làm chi cũng chẳng làm chi
    Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao
    (theo Hoàng văn Chí sđd 58)


Ngày sinh nhật thất thập của Phan Khôi viết :

    Lên bảy mươi rồi mẹ nó ơi!
    Thọ ta, ta chúc nọ phiền ai

Tai vách mạch rừng đến tai nhà văn Nguyễn Công Hoan nhà văn bồi bút đắc lực với chế độ kiếm miếng đỉnh chung, họa lại bài thơ thật vô lễ, khiếm nhã với nhà thơ đàn anh lão thành Phan Khôi.

    Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
    Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai
    Văn chương! Ðù mẹ thằng cha bạc!
    Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài
    Lô-dích, trước cam làm kiếp chó
    Nhân văn nay lại hít gì voi
    Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
    Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai
    (Theo Hoàng văn Chí sđd tr.15)

Nắng Chiều là tựa đề tác phẩm Phan Khôi tập hợp các bài bút ký, tạp văn viết từ năm 1946. Bản thảo của Phan Khôi đưa cho nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Bị dìm luôn không được đăng. Có thể bản thảo Nắng Chiều được các nhà văn “bồi bút” trong hội đọc. Thế Lữ (1907-1989) viết bài trên báo nhân dân ngày 12-4-1956 số 1501 lên án Phan Khôi:

Phan Khôi phản cách cách mạng, ngấm ngầm chống đảng lãnh đạo cách mạng từ trong kháng chiến, đó là việc hiện giờ ta đã thấy rõ hiển nhiên. Phan Khôi vẫn khoe là được Hồ Chủ tịch tặng chiếc áo lụa, và kể cho tôi nghe một chuyến gặp Hồ chủ tịch. Chuyện được chiếc áo, tôi không thấy ông ta tỏ ra một ý nào là cảm kích. (Nguyễn Minh Cần sđd tr. 33)

Trong bài phê bình tiếp tục tác giả Ðoàn Giỏi (1925-1989) tựa đề “tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi” đăng trên báo Văn Nghệ số 15 tháng 8-1958. Nhờ loạt bài phê bình trên có trích dẫn, chúng ta còn được tài liệu những tác phẩm cuối cùng Nắng Chiều của Phan Khôi gồm có hai phần:

Phần một các truyện: Cầm Vịt, Tiếng Chim, Cây Cộng Sản

Nói về chuyện Cầm Vịt

    Tôi thấy làm cái nghề này tuy vất vả mà ăn ở như thế thì đầy đủ lắm, giữa chủ và bạn cũng không có chi khác nhau. Ông chủ nói rằng nếu không thế thì không thuê được người chẳng những phải trả tiền thuê mỗi tháng mà cuối mùa còn phải chia hoa hồng cho anh em nữa, vì thế tuy được lãi nhiều mà vào tay người chủ không còn mấy.

Tiếng Chim

    Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt gà con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được cũng bay đi tuốt, nó không hề nói “Mầy phải cho tao với!”

Cây cộng sản
    “Có một thứ thực vật cũng như sen Nhật Bản ở xứ ta, trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Ðâu thì tôi chưa thấy, chỉ thấy ở Việt Bắc không chổ nào không có.” Theo Phan Khôi có nơi gọi loại cây trên là “cỏ bù xít” hoặc “cây cứt lợn” hoặc “cây chó đẻ”. Ông nói rằng những tên cây đó đều không nhã tí nào, người có học không gọi như vậy mà gọi là “cây cộng sản”.

    Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền, trừ khử không hết được, nó lan tràn ra ngoài đồn điền. Cái trình trạng ấy bắt đầu có những năm 1930-1931 đồng thời với Ðông Dương Cộng sản đảng hoạt động. Phong trào cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy, cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là ( herbe communiste) đáng lẽ dịch là cỏ cộng sản. Nó còn một tên rất lạ hỏi ông già Thổ. Tên nó là cây gì? Ông nói tên nó là (cỏ cụ Hồ) .Thứ cỏ nầy trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường sá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó là như vậy.

Phần hai tạp văn các truyện: Thái Văn Thu, Ông Năm Chuột Chuyện Ba Ông Vua Kiền Long, Quang Trung và Chiêu Thống và Nguyễn Trường Tộ, được trích dẫn

Thái Văn Thu

Theo lời Thu thì nhà hắn cũng đủ ăn, hắn đi ăn trộm không phải vì túng thiếu mà không muốn làm nghề gì hết. Cái nhân sinh quan hắn đại khái là “người An Nam” phải làm giặc đánh Tây mà không làm được, thì đi ăn trộm, ăn trộm của “Tây”.

Nói về Nguyễn Trường Tộ

Tự Ðức có phê vào bổn điều trần của Nguyễn Trường Tộ do quan tỉnh dâng lên một câu Dùng được đấy hay là cho nó một chức quan để lấy lòng nó, dùng sức nó một chức quan Ông ấy tưởng người ta báu cái chức quan của ông ấy lắm đấy. “Vua thì như thế còn đám quan liêu từ triều đình đến ở các tỉnh phần nhiều là hủ nho, đám sĩ phu ở dân gian càng đông hơn cũng đều là hủ nho, dưới vua, hai hạng người nầy nắm quyền lợi một nước trong tay họ cấu kết với nhau để giữ lấy quyền lợi , thì còn ai mà làm gì được?” Lấy trường hợp Nguyễn Trường Tộ để án chỉ xã hội dưới thời cộng sản.

Phan Khôi con người khẳng khái, Sống và Viết trung thực không luồn cúi dưới chế độ Cộng sản, để mưu cầu danh lợi. Ông sống đúng tiết tháo của một nhà nho cho đến cuối cuộc đời. Những bài viết trong tập Nắng Chiều dù không được xuất bản. Nhưng nhờ Ðoàn Giỏi trích dẫn phê bình. Chúng ta thấy Phan Khôi chủ đích chính trong bài chỉ trích chế độ cộng sản độc tài cai trị tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Phan Khôi là một vì sao lạc dưới chế độ cộng sản, đã giết chết cuộc đời văn chương. Nhưng trong tuổi già nắng xế Phan Khôi viết phản ảnh chế độ cộng sản như loại “cỏ bù xít” vì loại cỏ nầy có mùi hôi như con bọ xít. “Hoa cứt lợn” hay là cây “Chó đẻ”. Học giả Đào Duy Anh sống ở miền Bắc sau 1975 vào Sài Gòn đến thăm nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tâm sự:
    Xã hội chủ nghiã vài trăm năm nữa cũng chưa xây dựng xong, mình sẽ bị phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa nếu không có sự thay đổi mạnh mẽ (Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê trang 521).

Thiên đường cộng sản từ Liên Sô đã sụp đổ từ năm 1990 làm thay đổi cục diện thế giới, các quốc gia ở Đông Âu đều từ bỏ chủ nghiã cộng sản theo chế độ tự do và dân chủ. Những loại cỏ Phan Khôi đã gọi trong văn chương, hy vọng người Việt Nam nhổ bỏ bớt loại cỏ ấy, trồng những loại hoa xinh đẹp cho quê hương thêm tươi thắm.

Tình thần sống và hoạt động của nhà văn Phan Khôi thật đáng ngưỡng mộ. Theo lời kể lại, người con trai của ông là Phan Thao khi đó là cán bộ đảng, đã không dám đến dự đám tang cha mà chỉ cải trang làm một người tình cờ, dắt xe đạp đi trên vỉa hè trong lúc đám tang đi dưới lòng đường!!!

Trong nhiều thập niên sau đó tên tuổi ông bị lãng quêǹ, sự nghiệp báo chí của ông cũng ít được giới thiệu. Văn học miền Nam trước 1975 đều biết Phan Khôi qua bài Tình Già . Nhà văn Thanh Lãng viết về Phan Khôi trong Phê bình Văn học thế hệ 1932 Sài Gòn 1973, Trăm hoa đua nở cuả Hoàng Văn Chí, mãi cho đến năm 1995, 13 năm tranh luận văn học 1932-1945 in lại 3 tập Tp HCM 1995.

Nhà văn Phan Khôi mất vào lúc 11 giờ sáng ngày 16-1-1959 tại số 73 phố Thuốc Bắc Hà Nội, Phan Khôi sống và mất như nhà thơ Phùng Quán viết:
    Tôi muốn làm nhà văn chân thật
    Chân thật trọn đời
    Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
    Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
    Bút giấy tôi ai cướp giật đi
    Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá
    (Hoàng Văn Chí sđd 121)


Chân thành cảm ơn các tác giả viết về nhà văn Phan Khôi và tôi đã mạn phép trích đăng, dẫn chứng tài liệu và hình ảnh cho bài viết nầy.

Tác giả Nguyễn Quý Đại

Phan Khôi bút chiến

Phan Khôi viết bài phê bình trên Phụ Nữ Tân Văn số 54 tháng 6 năm 1930 “Ðọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim” sau đó Trần Trọng Kim trã lời cùng tờ báo trên số ngày 10-7-1930 bài “Mấy lời bàn với tiên sinh về Khổng giáo” tiếp theo số báo 62 ngày 24-7-1930 Phan Khôi viết tiếp “Sau khi đọc bài trã lời Trần Trọng Kim tiên sinh, cảnh cáo các nhà học phiệt”. Trong bài nầy có đề cập đến Phạm Quỳnh. Phạm Quỳnh trã lời Phan Khôi số báo 60 ngày 28-8-1930 “Trã lời bài cảnh cáo các nhà học phiệt của Phan Khôi tiên sinh”. Phan Khôi đáp lại số 70 ngày 18-9-1930 “Về cái ý kiến lập hội Chấn Hưng Quốc Học của ông Phạm Quỳnh”. Sau bài viết của Phan Khôi trên báo Ðông Phương (1933) Nguyễn Khoa Văn đả kích Phan Khôi duy tâm Phan Khôi viết lại trên Phụ Nữ Thời Ðàm gây bút chiến sôi nổi về “Duy tâm hay duy vật”.(Sau nầy người con trai Phan Thao viết bài phê bình báo Nhân Văn do thân phụ giữ chức chủ nhiệm kiêm chủ bút ngày 16-12-1956 tại Hà Nội. Bởi vì tư tưởng không đồng nhất Phan Khôi thích Dân Quyền, ngược lại con ông thích cộng sản. “Con cãi lại cha”)

Phần chú thích thêm về tiểu sử nhà văn Phan Khôi

Quảng Nam Đất nước và Nhân Vật của Nguyễn Quyết Thắng trang 598 viết Phan Khôi bị bắt giam đến 1911.
Sử gia Trần Gia Phụng viết trong Đất Ngũ Phụng 2001 bài huyền thọai Phan Khôi trang 89:
“Có lẽ thời gian ngồi tù Phan Khôi không lâu, vì sau đó người ta thấy ông ghi tên theo học trường Pellerin Huế trong hai năm 1909-1910. Năm 1911 thôi học trường Pellerin, Phan Khôi về lại quê nhà thọ tang cha, mãn tang ông lập gia đình năm 1913...”
Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập của Nguyễn Tấn Long trang 80 viết:
“Cuối năm 1907 Phan Khôi bị bắt cần tù tại nhà lao Quảng Nam. Đến cuối năm 1914 thế chiến thú 2 bùng nổ ... Albert Sarraut ân xá một số thường phạm và chính trị phạm trong đó có Phan Khôi.” Vậy ghi lại các đoạn trên để rộng đường suy luận.

Tài liệu tham khảo thêm
Ân tích cộng sản Việt nam của GS Trần Gia Phụng - http://www.freeviet.org/nvth/nhanvan/nchieu.html (http://www.xuquang.com/links/vanhoc/phankhoi/).
Độc giả có thể đọc toàn bài thơ nhất định thắng của Trần Dần - http:/www.freeviet.org/nvth/nhanvan/ndt.html.

http://www.hungsuviet.org/lichsu/nha_van_phan_khoi.htm
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2006 10:38:33 bởi TTL >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9