[url) Văn Học Miền Nam: Tổng Quan
Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 53 bài trong đề mục
silverbullet 16.09.2006 20:26:38 (permalink)
Nông thôn và thành thị

Thế những độc giả ấy, họ sống trong khung cảnh nào? họ là dân quê ở nông thôn chăng? là dân thành thị chăng?

Về giới bình dân đọc truyện nhật trình, như vừa nói, đa số là thị dân trong Nam. Tuy vậy nông dân khắp nước ở ngoài Trung, ở Cao nguyên không hẳn là không đọc báo. Do hệ thống Thông tin, báo được phổ biến rộng rãi, được đưa sâu vào thôn quê. Thường thường tại các quận lỵ đều có phòng đọc báo, tại các ban Thông tin xã có báo gửi về, những báo ấy có thể chia ra luân phiên phân phối đến các thôn. Loại ấn phẩm do Thông tin phổ biến là những thứ báo chí hoặc của chính quyền, hoặc thân chính quyền, hoặc có hiệu năng chống cộng mạnh, hoặc có giá trị, như các báo Cách Mạng Quốc Gia, Tự Do, Ngôn Luận, các tạp chí Sinh Lực, Quê Hương, Bách Khoa, Sáng Dội Miền Nam..., là những tác phẩm hoặc có nội dung chống cộng, hoặc có giá trị cao, như những cuốn Bí danh (dịch của Lâm Ngữ Đường), Đêm hay ngày (dịch của Arthur Koestler), Đất Hồ của Lưu Kiếm, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc v.v... Sách chỉ được mua một ít với số lượng cũng ít luôn, nên không xuống đến xã, mà chỉ được bày xa nhất là đến phòng Thông tin các quận; tạp chí thường cũng vậy; chỉ có nhật trình được đi xa hơn. Nhưng càng về sau tình hình an ninh càng tồi tệ, cho nên dường như đường xuống nông thôn bị tắc nghẽn.[12]

Dù sao, trên thực tế, trước sau cũng chỉ có một số nhật báo mang tin tức thời sự đi vào thôn quê, còn sách văn nghệ thì không hay vượt quá giới hạn các tỉnh lỵ. Người độc giả chính yếu của văn học nghệ thuật Miền Nam trong thời kỳ 1954-75 là người dân thành phố, bất kỳ là thành phố Trung phần, hay Nam phần.

Tại sao có sự rút lui của nông dân ra ngoài sinh hoạt văn nghệ? Ông Phạm Văn Sĩ nói về giai đoạn 1954-59 ở Miền Nam: “Để gìn giữ tinh thần yêu nước, lối sống lành mạnh, đồng bào tìm đọc những truyện dân gian cũ như Phạm Công Cúc Hoa, Dương Ngọc, Trần Minh khố chuối...”[13] Chữ “đồng bào” đây chắc chắn là chỉ về dân quê, thành phần xưa nay vẫn gắn bó với kho văn học dân gian, văn học truyền khẩu, với các truyện thơ v.v..., bởi tôi không nhận thấy có nam nữ sinh viên các đô thị tìm đọc Trần Minh khố chuối “để gìn giữ tinh thần yêu nước”. Vậy có sự tẩy chay của nông dân tại Miền Nam đối với văn nghệ sau 54?

E không có đâu. Không phải trong mọi sự mọi việc xảy ra đều có một ý nghĩa chính trị. Nông dân và thị dân dần dần xa nhau, họ có những thói quen những sở thích khác nhau: sở thích văn chương cũng như sở thích ăn uống, ăn mặc v.v... Nông dân khoái thuốc lá, rượu đế, họ không nhậu la-de, không hút thuốc thơm, không nhai bò khô, không ghiền cà-phê, không xài khăn mùi-xoa v.v..., cũng như họ đọc Phạm Công Cúc Hoa trong khi giới trẻ Sài Gòn đọc truyện Nhã Ca, Chu Tử, Duyên Anh, đọc thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím. Họ khác nhau vậy thôi, không hẳn vì bên nào “gìn giữ tinh thần yêu nước” trong khi bên kia thiếu gìn giữ.

Ở thôn quê người nông dân không đọc truyện Chu Tử, nhưng con cái của họ qua khỏi bậc tiểu học, lên tỉnh học trung học, đi Sài Gòn, Cần Thơ, Huế v.v... học đại học thì lại đọc Chu Tử, Nguyễn Mạnh Côn và không còn nhớ tới Trần Minh khố chuối nữa đâu. Đồng bào ở nông thôn yêu nước, còn những tử đệ ưu tú của họ lại hết yêu nước rồi chăng? Lẽ nào?

Tôi nghĩ nông dân bị trụt lại với nền văn học thời trước là vì sau này các hoạt động văn học nghệ thuật đã dồn về đô thị cả khiến nông thôn bị bỏ rơi, bị xa lìa.

Ngày xưa, thời Trần Minh khố chuối, thời Phạm Công Cúc Hoa, nho sĩ sống ngay tại thôn quê, lẫn lộn với nông dân. Nguyễn Du, con quan quận công, dòng dõi trâm anh thế phiệt đời đời khanh tướng, ông Nguyễn Du vang danh văn hay chữ tốt từ thuở thiếu thời ấy, đêm đêm cũng đi hát với trai làng, cũng mê những cô lái ở bến đò làng, những cô gái phường vải phường nón, tranh giành nhau với những chàng nông phu chăn bò, cắt cỏ, và bị họ hạ sát ván như đã than vãn trong bài ‘Sinh tế Trường Lưu nhị nữ’. Những nho sĩ lỗi lạc mà lận đận, những vị khoa bảng không thích bon chen, những vị đại thần chán công danh xin về quê trí sĩ, mở trường dạy học, vừa nghỉ ngơi vừa truyền đạo thánh hiền: đó là tiểu học mà cũng là đại học. Đám anh tài trẻ tuổi được đào tạo ở những trường ấy gặp khoa thi có kẻ đậu thi hương, người đậu thi hội, rồi lại có kẻ dự đình thí luôn. Họ đi thẳng từ làng mạc đồng ruộng đến chốn triều đình. Nông thôn là chỗ họ sinh sống, trưởng thành, học hành, vui chơi, tình tự, là nơi họ ngâm vịnh, sáng tác, đọc sách, xem thơ v.v... Những câu ca dao gọi là của bình dân có sự góp phần của nho sĩ; những bài thơ câu đối của nho sĩ được truyền ngay xuống dân gian, có ngay sự bình phẩm của đám bình dân v.v... Những câu thơ Hồ Xuân Hương, Phạm Công Cúc Hoa, Lục Vân Tiên... thành hình trong khung cảnh như thế. Dù có ý định gìn giữ lòng yêu nước dù không, bà con nông dân sống xung quanh Hồ nữ sĩ cũng cứ truyền nhau những câu như “Cá giếc le te lách giữa dòng”, “Hòn đá xanh rì lún phún rêu” v.v... để cười rúc rích chơi. Sau này Tú Kếu chẳng hạn cũng có những câu đáo để, giá nông dân nghe được chắc họ cũng vui lòng góp một tiếng cười mà không sợ sút giảm lòng yêu nước, chỉ tiếc Tú Kếu ở xa quá, quá tầm với của nông dân, trong một khung cảnh cơ hồ không có đường giao tiếp với nông dân. Thôi thì nông dân đành tiếp tục đọc Trần Minh khố chuối vậy, mặc cho đám thị dân múa men thế nào tùy ý. Họ đâu cố tình tẩy chay? Văn học cộng sản, “văn học giải phóng” thì không thế. Trong xã hội của họ không có sự phân hóa thành thị - thôn quê. Cán bộ của họ ¾ cán bộ chính trị cũng như văn nghệ ¾ phân tán lẫn lộn vào nông dân. Và nhất là ở Miền Nam trong thời kỳ 54-75, chỗ hoạt động ẩn náu của họ chính là thôn quê và rừng núi. Cho nên, dân quê rất có thể vừa đọc Trần Minh khố chuối vừa nghe mấy câu vè câu ca dao chống ngụy mà một cán bộ mới giả vờ bắt được trong quần chúng, hay vừa nghe Phạm Công Cúc Hoa vừa nghe truyện anh hùng Nguyễn Văn Bé mà cán bộ cố thổi vào tai.

Người văn nghệ sĩ, giới sinh viên, giới trí thức Miền Nam quốc gia sống dồn cả ở thành thị, sinh hoạt văn nghệ của Miền Nam diễn ra ở thành thị, văn nghệ phẩm không được phổ biến đến nông thôn: đó là một lẽ khiến không có độc giả nông dân trong thời kỳ 54-75. Lẽ khác nữa là trong cái hoàn cảnh của xã hội Miền Nam bấy giờ người nông dân có vai trò nhỏ bé, họ không được quan tâm đến, hình ảnh của họ mờ nhạt hẳn trong văn nghệ phẩm: không thấy có mình trong ấy, tự nhiên họ không thiết tha đến nền văn nghệ này.

Bảo rằng nông dân không được quan tâm, e dễ gây thắc mắc. Ai không quan tâm? Chính quyền ư? Thì chính quyền vẫn có bộ Xây dựng Nông thôn, vẫn có chính sách cải cách điền địa, chương trình Người Cày Có Ruộng, vẫn ra sức lập ấp chiến lược, lập khu trù mật v.v... Văn nghệ ư? Thì văn nghệ vẫn có truyện Hương rừng Cà Mau, Vợ thầy Hương, Chú Tư Cầu...

Vâng, có thế thật. Nông thôn là chiến trường sống mái giữa đôi bên, chính quyền không thể quên nông thôn. Trên chính sách thì thế, nhưng trên chính trường không mấy khi thấy vấn đề nông dân hay nông thôn gây ra xáo động nào. Cái làm đảo điên các chính phủ là những vụ xuống đường của dân thành phố, những đêm không ngủ, những vụ tăng giá xăng giá gạo ở đô thị, là những vụ đòi quyền sống diễn ra ở chợ Bến Thành, chợ Tân Định, những vụ ký giả đi ăn mày trên đường Lê Lợi, đường Trần Hưng Đạo v.v... Nông dân không phải họ không có ý kiến, họ không biết biểu tình; thế nhưng bất quá là thỉnh thoảng một nhóm người từ làng kéo về quận biểu tình chống pháo kích bừa bãi: những cuộc biểu tình bị giải tán dễ ợt, không gây nên khó khăn cho một chính quyền nào, dù là chính quyền cấp quận.

Cũng đã lâu không mấy ai trông thấy đại diện của nông dân loáng thoáng trên chính trường. Ngày trước có các ông Hàn nọ, ông Bá kia, ông Nghị viên, ông Cai tổng v.v...; sau này Bá hộ với Cai tổng mất tích hẳn. Đại diện (hay tự xưng là đại diện) cho dân nghèo bây giờ là những ông nghị nhà lá, ông nghị ka-ki, ông nghị còi ô-tô v.v..., tức những nhân vật của đô thị, với các đề tài tranh cử gồm toàn những giá gạo, giá xăng, sửa chữa đường ổ gà, dựng thêm cột điện v.v... mà thôi.

Còn sách còn truyện viết về thôn quê và dân quê trong thời kỳ này của những Sơn Nam, Lê Xuyên, thì như thể kể chuyện lạ... bốn phương, chuyện xưa tích cũ cho bà con thành thị nghe chơi, trầm trồ kinh ngạc chơi. Nghe chơi vì xa vời, vì không mấy quan thiết đến mình. Những nam nữ thanh niên trong tiểu thuyết Nhất Linh, Khái Hưng v.v..., có những cặp loáng thoáng bên các ngôi chùa ở thôn quê, quang gánh bán buôn kiếm sống ở những gian lều chợ nơi làng quê v.v..., họ yêu nhau thơ mộng, họ làm thổn thức lòng người độc giả thành thị. Còn lão Chòi Mui của Sơn Nam, chú Tư Cầu, vợ thầy Hương của Lê Xuyên xuất hiện là để kích thích óc tò mò hay kích thích dục tình vậy thôi. Người thành thị sau này không thổn thức mà cũng không buồn cười cợt vì nhân vật thôn quê nữa: trên báo chí không còn hình ảnh Xã Xệ, Lý Toét. Trẻ con thành thị lớp sau này lớn lên không còn biết Xã Xệ, Lý Toét là ai. Người đọc báo chỉ cười giỡn với những cô Ký Điệu, cô Oanh Rinh, anh Tám Xạc-ne, với gia đình Ly Ly, Mai Bê Bi v.v..., toàn thị là dân thành phố.

Người độc giả Miền Nam thời 54-75 chuyển từ quê ra tỉnh không phải vì lý do yêu nước nào cả, chẳng qua là thuận theo chiều hướng thay đổi chung chung xảy ra ở các nước kỹ nghệ thời nay. Ở Âu Mỹ từ lâu thành phố đã là những trung tâm hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa v.v... đã thu hút thanh niên nam nữ như ánh sáng thu hút đám thiêu thân, từ lâu các mối tình trong văn chương đã thôi diễn ra bên những bờ “ao ma” của George Sand mà là trong những nhà máy, phòng giấy, những góc phố, công viên, trong các chúng cư v.v... Ở Miền Nam chiến tranh xua người về đô thị gấp hơn, ngăn trở lối về thôn quê ngặt nghèo hơn, cho nên có lẽ nông dân bị bỏ rơi có phần đột ngột. Nông dân xa rời sinh hoạt văn học nghệ thuật vì thế.

(còn tiếp)
#16
    silverbullet 16.09.2006 20:29:08 (permalink)
    Phái tính

    Bây giờ thử tò mò một chút về vấn đề tính phái của người độc giả. Và chúng ta nhận thấy trong vòng hai mươi năm, không cần trải qua một cuộc giải phẫu nào cả, người độc giả Miền Nam lặng lẽ chuyển hóa từ nam ra nữ.

    Thật vậy, đầu thời kỳ, những kẻ đọc Nguyễn Mạnh Côn, Võ Phiến..., phải là đàn ông; cuối thời kỳ đám độc giả trung thành của tủ sách “Trăng mười sáu” Nhã Ca, độc giả của Lệ Hằng, của sách dịch Quỳnh Dao... chắc là thuộc phái thứ hai. Dĩ nhiên không phải vào khoảng 1954-60 không có nữ độc giả, sau 1967-68 không còn nam độc giả nữa: làm gì có chuyện tuyệt đối như vậy ở đời! Nhưng rõ ràng là người độc giả tiêu biểu, chủ động, của giai đoạn thứ nhất có nam tính nổi bật, trái với người độc giả chủ động của giai đoạn thứ hai. Thế chủ động mạnh mẽ của họ rốt cuộc đã khuất phục nhiều tác giả: Hồi 1955 Mai Thảo viết Đêm giã từ Hà Nội, chắc chắn không phải là thứ sách dành cho các thiếu nữ; mười lăm năm sau ông viết những Hạnh phúc đến về đêm, Mười đêm ngà ngọc v.v... mà tôi nghĩ rằng các “nàng” chịu hơn. Hồi 1955 Nguyễn Mạnh Côn đưa ra Đem tâm tình viết lịch sử, đặt một vấn đề chính trị cho đàn ông với nhau, mười lăm năm sau ông viết Tình cao thượng, hình như cũng trong cái chiều hướng muốn nhích đến gần phái nữ; cũng trong giai đoạn sau này Viên Linh “nghiên cứu” một thứ truyện thích hợp với đàn bà con gái: Hạ đỏ có chàng tới hỏi, Tình gương ý lược v.v...

    (còn tiếp)
    #17
      silverbullet 16.09.2006 20:36:56 (permalink)
      Tuổi tác

      Trong vòng hai mươi năm người độc giả Miền Nam không phải chỉ lăm le đổi giống, họ còn bị trụt tuổi nữa. Trước, họ đứng tuổi, về sau họ trẻ dần trẻ dần, cuối cùng họ sắp thành trẻ nít.
      Thật vậy giai đoạn trước là của những Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan, Bình Nguyên Lộc, Mặc Đỗ v.v... Không một ai trong số ấy có hạng tri kỷ vị thành niên cả. Không có thiếu niên nào khoái đọc Thần tháp Rùa, Mưa đêm cuối năm, Bốn mươi... Sau đó là giai đoạn của Nhã Ca Bóng tối thời con gái, của Nguyễn Thị Hoàng, của Hoàng Ngọc Tuấn Hình như là tình yêu v.v..., tức của nam nữ thanh niên thuộc tuổi đôi mươi. Sau nữa, đến giai đoạn của Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện, của Nhã Ca “Trăng mười sáu”, của Hoàng Ngọc Tuấn Thư về đường Sơn Cúc..., là giai đoạn của tuổi sợ ma, tuổi biết buồn, tuổi thích ô mai, của “tuổi ngọc”, tuổi ngu-ngơ v.v... Gớm, mới hồi nào người lớn làm văn chương để thưởng thức với nhau nói toàn chuyện cao xa, chẳng thèm biết đến các oắt-tì kia muốn gì; bây giờ bao nhiêu danh sĩ xúm ùa nhau tán tụng o bế các cô các cậu kỹ quá. Cả văn cả nhạc cùng nhau gây thành một cao trào thiếu nhi: lão nhạc sĩ Phạm Duy độ ấy cũng xoắn xuýt hơi nhiều xung quanh “tuổi mười ba tuổi mười bốn”, không sao?
      Kể ra đổi giống và trụt tuổi là chuyện xảy ra ở khắp nơi, là chuyện thường tình, thuận lẽ. Văn chương nghệ thuật ban đầu là thứ xa xí dành cho hàng ưu tú ở tầng lớp cao trong xã hội, về sau theo đà văn minh nó mới được phổ biến rộng rãi dần dần xuống các thành phần vốn chịu thiệt thòi: quan đọc sách trước dân đọc sau, đàn ông đọc sách trước đàn bà đọc sách sau, người lớn đọc trước con nít đọc sau, thế là phải cách, hợp lý. Ở Pháp, trong một cuốn nhận định về văn học hiện đại của nước ông vào thập niên 1960, khi đề cập đến người độc giả đương thời, François Nourricier nêu lên câu hỏi: “Qu'est ce qu'un lecteur?”, và ông đáp: “C'est une lectrice.” Cũng độ ấy các cô cậu teen-ager đang tung hoành, làm ồn lên khắp Âu Mỹ, ban hát The Beattles hốt bạc vô số kể.
      Ở ta vào thời các ông Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh ra tay làm báo viết sách, Tản Đà viết truyện làm thơ:
      “Đời đáng chán hay không đáng chán
      Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm”

      chúng ta nghĩ trong đám bạn độc giả “tri âm” của họ bấy giờ không thể có cô nào ở tuổi sợ ma: toàn thị là những khách nam nhi ưu thời mẫn thế, tuổi tâm tình (không phải tuổi đời) hẳn không dưới ba mươi.
      Kế sau đó, vào thời Nhất Linh, Xuân Diệu, Nguyễn Bính v.v... quần chúng tri âm có lẽ là những thanh niên ở lứa tuổi hai mươi cả nam lẫn nữ. Sau nữa, sau 1954, vì lẽ thời cuộc và chiến tranh có làm cho con người già đi, khắc khổ đi phần nào, cho nên đám bạn tri âm của những Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ v.v... chẳng những không tiếp tục cái chiều hướng xuống tuổi mà lại có vẻ như già dặn hơn lớp trước, lại có nhiều nam tính hơn trước. Thế rồi chừng mười năm sau, như chúng ta vừa thấy, xảy ra một cuộc đổi giống và trụt tuổi ào ào.
      Văn hóa càng lan rộng càng thấm xuống thấp càng hay. Về phương diện xã hội người ta phải mừng cho những tiến bộ đạt được trong thời kỳ này, người ta phải hãnh diện về vai trò của đàn bà và trẻ em trong sinh hoạt văn nghệ nước nhà. Tuy nhiên, về mặt nghệ thuật, chuyện không hẳn luôn luôn đáng mừng. Tôi nghĩ đến trường hợp những tác giả bị các độc giả “thân ái” của mình nắm tay lôi tụt theo, lôi từ tuổi cao xuống tuổi thấp, từ một tuổi trung niên đầy ưu tư xuống một lứa tuổi ô mai nũng nịu hay toe toét chẳng hạn. Tôi nghĩ đến trường hợp rủi ro của những Sartre, Malraux... vào thập niên 60 ở Pháp bỗng thấy mình lẻ loi và đột nhiên xoay ra viết truyện kiểu Yêu, kiểu Vòng tay học trò v.v... cho hợp nhu cầu thị trường.
      Nhất Linh có lần nói đến vai trò của người đọc trong sự phát triển văn hóa; và vai trò ấy ông coi nặng, nặng lắm, nặng hơn vai trò của... người viết: “Nền văn hóa của một nước cao hay thấp không phải ở chính các nhà văn mà chính là ở độc giả.”[14] Tại sao vậy? Ông cắt nghĩa: “Không phải ở các nhà văn mà chính là ở sự đòi hỏi của đa số dân chúng nên ở các nước Âu Mỹ và Nhật Bản mới có một lâu đài đồ sộ về văn hóa vượt xa nước mình một bực.
      Kể riêng về mặt văn hóa, nước mình có một số nhà văn có thể sánh ngang với các nhà văn nước khác, nhưng trình độ độc giả lại thấp kém; các nhà văn Việt Nam không thể sống nổi được nếu cứ cố viết có nghệ thuật cao. Vì sinh kế họ sẽ phải viết theo thị hiếu của độc giả mới có người coi và sách mới bán được.”[15]
      Một lần nữa, tôi lại trở về với cái “tội” lớn của độc giả đối với văn chương, lần này dựa lưng cẩn thận vào một uy tín! Tôi quá quắt vậy sao? Thực ra, chủ ý không phải thế. Viết theo thị hiếu là do văn sĩ mềm lòng, đừng trách độc giả nặng quá. Dân ta từ trước vốn ít đọc, gần đây khối quần chúng độc giả được mở rộng thêm, thế đã là một điều quí hóa rồi. Cái đám quần chúng độc giả mới gia nhập ấy thoạt đầu trình độ thấp, rồi dần dần sẽ cao, cao như ở Âu Mỹ, ở Nhật Bản. Trước mở rộng phạm vi, sau nâng cao trình độ: cứ tuần tự tiến dần. Trong khi chờ đợi, nếu có những nhà văn nóng lòng xuống đường thì xin cứ tự tiện, lẽ nào vừa vội vàng hốt bạc vừa nghiêm khắc mắng mỏ độc giả.
      Còn Nhất Linh, ông nhấn mạnh vào trách nhiệm của độc giả là vì ông đang chỉ dạy về cách đọc sách, ông đang làm công việc nâng cao trình độ quần chúng. Có lẽ chỉ vì vậy thôi.

      _________________________

      [1] Khai Trí xuất bản, Sài Gòn, 1970, trang 508.
      [2] Theo Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập I, cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách “lần in thứ nhất 3.000 cuốn, chỉ trong nửa tháng là bán hết, lần thứ hai in 2.000 cuốn, cũng hết ngay.” (trang 21), và “từ 1933 đến 1936, nhà xuất bản Đời Nay đã bán được 58.000 cuốn tiểu thuyết và thơ.” (trang 51, 52); cuốn Bước đường cùng in khoảng năm nghìn, còn những cuốn tiểu thuyết chạy nhất của Tự Lực văn đoàn như Nửa chừng xuân thì bốn năm in được 14 nghìn (trang 262). Như vậy nếu mỗi năm in lại một lần thì mỗi lần Nửa chừng xuân in ra ba nghìn rưởi bản.
      [3] Vương Hồng Sển, Thú chơi sách, Tự Do xuất bản, Sài Gòn, 1961, các trang 53, 54, 92 và 112.
      [4] Như trên.
      [5] Như trên.
      [6] Năm 1972 trên toàn cõi Miền Nam mỗi ngày phát hành độ nửa triệu tờ nhật báo và bán được 300 nghìn tờ. (Nguyễn Huỳnh Mai, Để tiến tới việc thành lập một nhật báo địa phương, viện đại học Vạn Hạnh xuất bản, tháng 6-1972).
      [7] Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn 1970, trang 508, 509.
      [8] Nguyễn Ngu Í, Sống và viết với..., Ngèi Xanh xuất bản, Sài Gòn 1966, trang 144.
      [9] “Thời gian trước 1975 ở Việt Nam, sách báo xuất bản tại Sài Gòn như báo Văn, báo Bách Khoa, sách khảo cứu, tiểu thuyết v.v... miền Trung đã tiêu thụ hết ba phần tư số lượng xuất bản.” (Túy Hồng, ‘Đất mới, đời mới, lòng vẫn cũ’, đăng trên báo Đất Mới, Seattle, Washington, số tân niên Giáp Tý 1984, trang 14.)
      [10] Thanh Nam, ‘Hai mươi năm viết văn làm báo ở Sài Gòn’, đăng trên Văn, Hoa Kỳ, số 2, tháng 8-1982, trang 69.
      [11] Theo tài liệu của Nguyễn Huỳnh Mai trong tập khảo luận Để tiến tới việc thành lập một nhật báo địa phương thì mỗi ngày trên toàn Miền Nam bán được độ 300.000 tờ nhật báo, phân phối như sau: 50% tại thủ đô Sài Gòn, 30% bán tại miền Tây, còn lại 20% cho các vùng khác. Như vậy riêng Sài Gòn với miền Tây đã mua 80%, rồi các tỉnh khác của Nam phần lại còn chia bớt cái 20% còn lại nữa chứ. Đồng bào trong Nam gần như mua tất cả nhật trình trong nước!
      [12] Theo tài liệu đã dẫn của Nguyễn Huỳnh Mai thì tại miền Tây số độc giả nhật báo ở đô thị là 26% so với ở nông thôn là 10%.
      [13] Phạm Văn Sĩ, Văn học giải phóng Miền Nam, nhà xuất bản Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1975, trang 22.
      [14] Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, nhà xuất bản Đời Nay, Sài Gòn, 1969, trang 101.
      [15] Như trên.
      #18
        silverbullet 17.09.2006 17:45:17 (permalink)
        VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

        CÁC YẾU TỐ CỦA SINH HOẠT VĂN HỌC
        XUẤT BẢN


        Một thời kỳ mới

        Sau tác giả và độc giả, nên nhìn qua một chút vào giới xuất bản. Trong sinh hoạt văn nghệ, ngoài kẻ viết người đọc ra, hoạt động xuất bản lắm lúc cũng có một ảnh hưởng đáng kể. (Bằng chữ “xuất bản” tôi muốn nói chung cả các công việc in sách, phát hành sách.) Chẳng hạn trong cái sinh hoạt văn nghệ lưu vong của chúng ta hiện nay, việc xuất bản sách gặp khó khăn trong sự phát hành ở những quốc gia quá rộng lớn: chắc chắn điều đó có kiềm hãm sự phát triển văn nghệ không ít. Giả sử có được một tổ chức phát hành đứng đắn, phổ biến ấn phẩm rộng rãi, thu nhặt đầy đủ tiền bạc từ các đại lý để thanh toán cho nhà xuất bản, cho tác giả, thì từ 1975 đến nay hẳn phải có nhiều tác phẩm Việt ngữ ra đời hơn, nền văn học Việt Nam ở hải ngoại hẳn là phong phú hơn nhiều. Lại chẳng hạn trong thời kỳ 1954-75 ở Miền Nam có hiện tượng những nhà xuất bản do văn nghệ sĩ chủ trương, cái đó chắc chắn cũng gây một ảnh hưởng không nhỏ vào cục diện văn hóa: nếu không có những nhà xuất bản ấy, có thể một số lớn tác phẩm giá trị đã không có cơ hội ra đời, và thành tích văn học Miền Nam do đó nghèo đi nhiều.

        Liên quan đến chuyện xuất bản, trong khoảng trước sau vài mươi năm ở Miền Nam có những sự kiện đáng chú ý:

        Hồi tiền chiến một cuốn “Sách Hồng” cho trẻ con giá bán 50 xu thì 1 xu mua được 2 cái trứng vịt; sau này lúc một cuốn sách cho trẻ bán 50$ thì mỗi cái trứng vịt giá 45$.[1] So với vật thực, với món ăn cho thể chất, thì món ăn tinh thần xuống giá gần 100 lần. Sách báo rẻ hẳn đi, rẻ mạt, dễ mua quá chừng.

        Hồi trước người Việt Nam còn học bằng tiếng Pháp, đa số độc giả đọc Pháp văn, trong các hiệu sách phần sách báo ngoại ngữ quan trọng hơn là phần Việt ngữ. Hiệu sách Khai Trí lúc bấy giờ thường bán 70% sách ngoại văn (trong số ấy 50% là Pháp văn), so với 30% sách Việt ngữ. Sau này hàng ngày bán ra độ chừng 80% sách Việt, 20% sách ngoại văn.[2] Ấy là ở tại Sài Gòn, chứ tại các tỉnh sách báo ngoại ngữ càng ít hơn nhiều. Sách Việt thắng lớn, gần như độc chiếm thị trường.

        Ấy là chưa kể những chuyện vẫn thường được nói đến, như dân số gia tăng, như sĩ số gia tăng cực nhanh, số trường đại học mở thêm nhiều, trong đó các phân khoa về nhân văn bao giờ cũng vượt xa những ngành học về khoa học kỹ thuật.

        Như thế, ngành xuất bản có nhiều lý do để phát triển mạnh. Và thực ra, nó đã phát triển. Riêng ở đô thành Sài Gòn đã có cả nghìn nhà in, 150 nhà xuất bản.[3] Những nhà xuất bản như Sống Mới, Khai Trí, Trường Thi, Nguyễn Đình Vượng, Trí Đăng... những nhà phát hành như Thống Nhất, Nam Cường, Đồng Nai, Á Châu v.v..., mức hoạt động của họ chắc chắn các đồng nghiệp thời tiền chiến không thể nào sánh nổi. Nhà Lá Bối chẳng qua là một nhà xuất bản cò con: không có hàng đoàn xe chở sách đi các tỉnh, không có nhà in riêng, không xuất bản sách giáo khoa, thậm chí không có cả một cửa tiệm ngoài đường phố; ấy vậy mà khi cộng sản chiếm Miền Nam, đến tịch thu kho sách Lá Bối ở Tân Phú (ngoại ô đô thành Sài Gòn) chở đi suốt hai ngày mới hết, số sách tịch thu trị giá đến 60 triệu đồng tiền cũ.[4]

        Số lượng các nhà xuất bản tăng lên nhiều, số lượng ấn hành của mỗi tác phẩm cũng tăng thêm dù không cao lắm. Hồi tiền chiến mỗi tác phẩm mỗi lần in trung bình chừng hai nghìn bản; sau 1954 đại khái số ấn hành trung bình mỗi lần cho một tác phẩm văn nghệ là ba nghìn bản.[5]

        Ngành xuất bản phát triển về qui mô, và cũng cải tiến về kỹ thuật. Cuốn sách ra đời ở Sài Gòn trước 1954 về mặt hình thức trông xoàng xĩnh. Thanh Nam có một nhận xét: “Hình bìa do họa sĩ Lê Trung trình bày. Ông này vẽ cả trăm cô gái trên bìa sách, bìa báo đều giống nhau như đúc, gái quê hay gái thành phố thì cũng đều có khuôn mặt như đầm lai, mắt to như mắt búp-bê, riềm mi cong vút, mũi cao, môi trái tim, ngực nở, eo thon và đặc biệt thân mình cô nào cô nấy ngắn ngủn”.[6] Loại bìa trình bày kiểu ấy về sau này rồi vẫn còn tiếp tục xuất hiện trên các sách bình dân, nhưng phần lớn sách báo khác đã có bộ mặt trang nhã mỹ thuật hơn nhiều; sách do các nhà Cảo Thơm, An Tiêm, Quan Điểm, Thời Mới, Lá Bối, Sáng Tạo v.v... ấn hành, có thứ giản đơn có thứ cầu kỳ kiểu cách, nhưng nói chung đều đẹp, nhờ ở sự cộng tác của một thế hệ họa sĩ lớp mới: Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Tạ Tỵ, Nguyễn Trung, Đinh Cường v.v...

        Một hiện tượng mới: xuất bản tài tử

        Ngành xuất bản có lớn mạnh nhưng giới văn nghệ không hưởng được mấy ở cái qui mô lớn mạnh ấy: các nhà xuất bản chuyên nghiệp dần dần chuyển hướng hoạt động về phía sách giáo khoa, họ bỏ rơi các nhà văn. Và đó là một đặc điểm của tình hình xuất bản trong thời kỳ này.

        Trước 1954 một mặt sĩ số trong nước chẳng được bao nhiêu, một mặt sách giáo khoa tiếng Việt do nhà nước soạn thảo ấn hành, sách tiếng Pháp được in từ Pháp gửi sang bán, do đó mà giới xuất bản chỉ có in sách văn nghệ. Văn gia với xuất bản gia lúc bấy giờ thật khắng khít.

        Sau 1954 mối liên hệ ấy dần dần hóa lỏng lẻo. Độc giả văn nghệ không tăng mấy mà kẻ cần sách giáo khoa thì tăng vùn vụt. In một nhan đề sách văn nghệ mỗi kỳ đôi ba nghìn cuốn, tiêu thụ chậm chạp; in một nhan đề sách giáo khoa bậc trung học vào mỗi kỳ khai giảng có thể tới mười lăm, hai chục nghìn bản, bán vèo vèo, tới tấp. Như thế mãi tíu tít dồn người trông coi khu vực sách giáo khoa chưa xiết, có đâu ôm đồm cả sách văn nghệ. Do đó có nhà đành từ biệt sách văn nghệ, có nhà chỉ còn thì giờ in văn nghệ phẩm lai rai vào những tháng rảnh rỗi giữa niên khóa, có nhà không trực tiếp đảm trách mà chỉ bảo trợ một số tay xuất bản cò con chuyên về sách văn nghệ: nhà Sống Mới đỡ đầu những nhóm Vàng Son, Phù Sa, Đất Sống..., nhà phát hành Hiện Đại thì đỡ đầu những nhà xuất bản Gió, Kinh Thi, Khai Phóng, Kẻ Sĩ v.v...

        Chúng ta đã có lần nói về hoạt động xuất bản của các nhà văn thời kỳ 54-75, cho rằng tự xuất bản lấy sách mình thì văn sĩ kiếm được một món tiền khá hơn là bán tác phẩm, và họ lại được tự do chọn in những cuốn mình thích, khỏi phải tùy thuộc vào sự phán đoán của nhà xuất bản. Đến đây chúng ta thấy rằng ngoài những lý do chủ quan ấy còn có cái lý do khách quan do tình thế đặt ra: nhà văn bấy giờ không tiện chen lấn nhau với các nhà giáo, chen lấn trong thế bất lợi, trước con mắt hững hờ của giới xuất bản. Họ ra tay tự lo lấy việc của mình vậy. Trong số các văn gia kiêm việc xuất bản có kẻ làm vì lý do này người làm vì lý do khác, không phải ai nấy đều chờ đợi đủ ba lý do.

        Tự xuất bản sách sớm nhất là Nguyễn Hiến Lê, Thế Phong (nhà Đại Nam Văn Hiến), Bình Nguyên Lộc (nhà Bến Nghé); những vị này trước sau gần như chỉ in sách của mình mà thôi: nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê ra đời năm 1954 in đến hàng trăm nhan đề, nhà Bến Nghé thì ít hơn. Sau đó nhà Thời Mới do Võ Phiến chủ trương bắt đầu hoạt động từ năm 1962 đã xuất bản trên 50 nhan đề, nhà Sáng Tạo của Doãn Quốc Sỹ ra đời năm 1963, nhà Lá Bối của Nhất Hạnh ra đời từ tháng 10-1964 đã ấn hành chừng 120 nhan đề, nhà An Tiêm tách từ Lá Bối ra năm 1965 cũng in chừng 80 nhan đề, rồi nhà xuất bản Huệ Minh của Hồ Hữu Tường, nhà Phù Sa của Sơn Nam và Ngọc Linh, nhà Giao Điểm của Trần Phong Giao, nhà Ngèi Xanh của Nguyễn Ngu Í, nhà Thương Yêu của Nhã Ca, nhà Tuổi Ngọc của Duyên Anh, nhà Trình Bày của Thế Nguyên, nhà Thái Độ của Thế Uyên, nhà Ca Dao của Hoài Khanh, nhà Huyền Trân của Nhật Tiến, nhà Kẻ Sĩ của Tô Thùy Yên, nhà Quan Điểm của nhóm Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, nhà Mặt Đất của Nguyễn Đức Sơn, nhà Hoàng Đông Phương của Nguyễn Thị Hoàng v.v... Từ trước đến nay chưa bao giờ văn giới ào ào lăn vào doanh nghiệp đông đảo đến thế. Đó là hiện tượng độc đáo của một thời kỳ.

        Nguyễn Hiến Lê tính ra trong năm 1964 tại Sài Gòn có bốn năm nhà gọi là lớn trên tổng số trên tám chục nhà xuất bản. Số còn lại là... cò con; có lẽ đa số là của văn nghệ sĩ. (Con số này tăng dần cho đến “những ngày cuối cùng” của Nguyễn Khắc Ngữ, thành ra là 150 nhà.) Ông Nguyễn Hiến Lê cũng có mô tả cảnh “hoạt động” của các nhà xuất bản nghệ sĩ, một chuyện ngộ nghĩnh chắc chắn là hiếm thấy ở các nước Tây phương: “Các vị ấy rán bóp bụng để dành một số tiền, xuất bản lấy tác phẩm rồi phát hành lấy. Không mướn một người làm công nào cả. Vợ chồng con cái chia nhau mà làm hết mọi việc và chịu sống rất chật hẹp để có chỗ chứa sách ngay ở phòng viết, phòng ăn, phòng ngủ, bất kỳ nơi nào có một chút chỗ trống. Khách tới mua sách dù chỉ là mươi cuốn được vài trăm đồng thì gia đình cũng nhốn nháo cả lên: tìm xem sách chất ở đâu (nhiều người chưa quen có thứ tự), leo lên lấy, phủi bụi, rồi mở ra đếm, giao cho khách, tính tiền, thu tiền..., cảnh cảm động mà thực vui. Hạnh phúc trong gia đình ở chỗ cùng tiếp tay nhau làm việc.”[7] Trong số “các vị” được hưởng thứ hạnh phúc này tất nhiên có ông Nguyễn Hiến Lê, kẻ dẫn đầu, kẻ khởi xướng, có đầy đủ thẩm quyền để phát biểu thay cho cả giới.

        Về mặt kinh doanh, in sách văn nghệ không đem lại một lợi tức lớn lao, đúng như sự tính toán khôn ngoan của các nhà xuất bản chuyên nghiệp. Bằng chứng hiển nhiên là sau mười năm, mười lăm năm hoạt động, không có một nhà văn nào giàu có nhờ xuất bản cả. Trái lại, vào cuối thời kỳ, vào những năm 72, 73, 74, khi mà các nhà sách giáo khoa “hốt bạc” lớn thì các nhà xuất bản in sách văn nghệ đa số lâm cảnh kẹt vốn, lần lượt ngưng hoạt động. Đến 1974 thì hoạt động này như tê liệt hẳn.

        Kể ra trong tình trạng bình thường, in sách (kể cả sách văn nghệ) không phải là một sự phiêu lưu mạo hiểm, một cuộc “hy sinh” cho văn hóa. Ở ta lúc bấy giờ cuốn sách in ra phải trả cho nhà in 25%, trả tác quyền 10%, giảm cho nhà phát hành từ 40% (nếu gửi bán, thu tiền sau) đến 50% (nếu bán ngay lấy tiền mặt), tặng biếu, hư hao, ế đọng chừng 10% (nếu bán lấy tiền mặt được ngay thì khỏi bị hư hao ế đọng). Như vậy chi ra tất cả 85%, lời được 15%. Ấy là nói về trường hợp sách tiêu thụ được trọn vẹn. Dĩ nhiên thỉnh thoảng có những cuốn không bán được, nằm ì ra hàng đống, đè lên cái vốn nhỏ nhoi èo uột của người văn nghệ sĩ. Dù sao cuốn này bù cuốn khác, rốt cuộc công việc vẫn tiến hành được đều đều hàng chục năm trời, cho đến giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, nó mới gặp bế tắc, cái bế tắc chung cho nhiều hoạt động khác trong xã hội.

        Nhưng về mặt văn hóa, hiện tượng người văn nghệ làm xuất bản đã cải thiện tình thế đáng kể. Văn nghệ sĩ xuất bản thì thường thường về hình thức sách in đẹp hơn, về nội dung sách được chọn lựa tinh hơn giới kinh doanh chuyên nghiệp. Như thế là phải, bởi vì việc trình bày minh họa do các họa sĩ bạn bè thân hữu, việc tìm chọn bản thảo do chính người văn nghệ đảm nhiệm. Người ta nhận thấy các nhà xuất bản này dám chọn dám in những tác phẩm đầu tay của các tác giả chưa có tên tuổi, điều mà giới chuyên nghiệp rất ngần ngại; mặt khác họ lại không bị cái món lợi lớn lao của những sách bình dân sách tiêu khiển cám dỗ: hình như không có nhà xuất bản nào do văn nghệ sĩ chủ trương mà in loại truyện Kim Dung, Quỳnh Dao, in truyện gián điệp, trinh thám v.v...

        Hơn nữa, sự tin cậy vào một tên tuổi văn nghệ, vào một cơ sở xuất bản có uy tín khiến độc giả mạnh dạn hơn trong việc mua sách. Nhất là vào giai đoạn mà tình hình chiến tranh sôi động và kinh tế khó khăn làm giảm sức mua của quần chúng thì vai trò của những nhà xuất bản này thật là quan trọng. Võ Hồng trước cho xuất bản một cuốn truyện là Hoài cố nhân, sau đó nhiều năm vẫn không được mấy ai chú ý, từ khi sách của ông được các nhà Thời Mới và Lá Bối ấn hành tự dưng số người đọc ông tăng hẳn lên. Lại như trường hợp cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên. Cuốn ấy trước đã do Nhượng Tống dịch, sau này do hai ông Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi dịch lại. Khi Lá Bối định in cuốn sau thì bản dịch của Nhượng Tống, do Khai Trí tái bản vẫn còn trên thị trường. Ông Nguyễn Hiến Lê đến nhà Khai Trí dò hỏi tình hình, được ông Khai Trí cho biết: bản dịch Nhượng Tống in ba nghìn bản cách đã ba năm, chỉ bán được hai nghìn. Nhà Lá Bối bèn in ra ba nghìn bản khác và bán trong vòng sáu tháng thì hết sách mà thư các nơi còn gửi về tới tấp đòi mua thêm.

        Trong các nhà xuất bản loại này, Lá Bối là trường hợp đặc biệt: tuy do cá nhân phụ trách nó lại có cái danh nghĩa của giáo hội Phật giáo, nó vừa nương theo sức mạnh của phong trào Phật giáo lúc bấy giờ vừa dựa vào uy tín của nhà văn Nhất Hạnh vừa nhờ ở sự quản trị tận tình của tu sĩ Từ Mẫn.

        Kiểm duyệt

        Liên quan đến chuyện xuất bản trong thời kỳ này, chúng ta nghe nhiều tiếng kêu than về vấn đề kiểm duyệt. Kiểm duyệt, thật ra giới cầm bút Việt Nam đã phải đối đầu với nó lâu rồi, từ hồi Pháp thuộc, Nhật thuộc cho đến nay; dưới các chế độ thực dân, phong kiến rồi cộng sản, chưa bao giờ sách báo Việt Nam được hưởng tự do thực sự. Tuy vậy trước kia ta không có sức chống đối, sau này ở Miền Nam sự chống đối bày tỏ công khai và mỗi lúc mỗi ồn ào: công kích trên báo chí, sách vở, phản đối bằng kiến nghị, chế giễu bằng thơ, bằng họa v.v..., dựa trên Hiến pháp mà chống đối thẳng tay. Tú Kếu chẳng hạn réo chửi “mụ già Kiểm duyệt” thậm tệ:

        “Mặt vác lên như cái mẹt!
        Mõm heo đớp chẳng vừa
        Răng chuột chuyên đục khoét
        Hôi như bọ hung
        Độc hơn bọ chét
        Nhìn thấy chữ là cắn là cào
        Trông thấy mặt là la là hét!”


        Không những mắng Kiểm duyệt, ông còn xỉ vả đích danh Chánh sở Kiểm duyệt nữa:

        “Ông chánh sở thiệt là huê mỹ
        Mang họ Văn thì vẻ phải hay
        Thế mà từ bấy lâu nay
        Riêng ta cứ tưởng là tay cù lần.
        ... Họ Văn đục chữ đã đau
        Lại còn tên Thái, cơ cầu hay chưa?
        ... Đè đầu ông Thái hết mình
        Giống như thằng mõ giữa đình thái... gân!”


        Có lúc Tú Kếu nổi sùng, văng tục:

        “Phối hợp như ông phối cái gì
        Càng thêm mọi rợ xứ man ri
        Phối vê bạc cắc, quân cường đạo
        Hợp giết ngôn từ, lũ tặc nhi
        Nghệ đã tinh thông nghề thái thịt
        Thuật đang bành trướng thuật nâng bi!
        Mẹ cha văn hóa buồn năm phút
        Sửa soạn mang chôn chốn nhị tỳ.”


        Kể ra một “mụ Kiểm duyệt” chịu đựng được chừng ấy lời réo chửi dữ dằn thì mụ cũng không có vẻ gì hung tợn. Vả lại xứ sở đang lâm chiến với cộng sản, và thực tế sau 1975 cho thấy rõ là trước đó đã có rất nhiều cán bộ văn hóa cộng sản nằm vùng chấp hành những kế hoạch phá hoại hiểm độc tại Sài Gòn, cho nên chế độ kiểm duyệt bấy giờ không phải không cần thiết. Một số nhà văn như Nguyễn Mạnh Côn hồi ấy trước sau không chịu ký tên vào bất cứ bản kiến nghị chống kiểm duyệt nào.

        Nhưng điều oái ăm là kiểm duyệt không hoàn toàn hữu hiệu trong việc ngăn chống hoạt động của cộng sản mà lại gây ra nhiều rắc rối trở ngại cho sinh hoạt văn nghệ. Phần lớn các tai hại bực mình gây ra là do luật lệ điều hành có những khoản lúng túng, luộm thuộm, không hợp lý, nhất là do nhân viên phụ trách thiếu hẳn khả năng và tư cách.

        Chẳng hạn giấy phép xuất bản có lúc có giá trị trong sáu tháng, có lúc lại chỉ có giá trị trong vòng ba tháng. Những tác phẩm dày từ khi nhận được giấy phép cho đến khi in xong thường quá thời hạn ấy, phải xin kiểm duyệt lại, và rồi lại bị cấm: bao nhiêu là vốn liếng của nhà xuất bản đi đời!

        Lại chẳng hạn một cuốn triết luận của Đoàn Nhật Tấn bị cấm vì đề cập đến thuyết tiến hóa của Darwin (Chấp nhận vượn thành người là duy vật cộng sản!), một cuốn truyện của Võ Hồng bị cấm vì kể chuyện kháng chiến chống Pháp, một cuốn truyện của Bùi Đăng đã được chính bộ Thông tin mang ra quay thành phim lại bị nhân viên cấm lầm để rồi sau đó hối hả cấp giấy phép trở lại! v.v... Thậm chí chánh sở kiểm duyệt có người đã nói bô bô là sở có nhiệm vụ ngăn chận những sách “kém giá trị”, chỉnh đốn hay loại bỏ những chỗ “văn chương tồi tệ” v.v...

        Thoạt đầu dưới nền đệ nhất cộng hòa, tình hình còn ổn định, chính sách không thay đổi liên tiếp, giấy phép xuất bản sách không cần phải hạn định hiệu lực quá ngắn. Về sau, tình hình biến đổi thoăn thoắt, chính phủ lập lên đổ xuống liền liền, chủ trương đường lối của mỗi chính phủ mỗi khác, có những vấn đề những nhân vật lúc này nói được mà lúc khác không tiện nói đến, sự thực hôm nay không thực đến ngày mai: bản thảo đành ba tháng xét lại một lần!

        Lại nữa ban đầu, hồi đệ nhất cộng hòa, kiểm duyệt là công việc của cả một hội đồng liên bộ, chủ tịch là giám đốc nha Báo chí bộ Thông tin; vì vậy kêu rêu có kêu rêu (văn giới lúc nào chẳng kỵ kiểm duyệt?), nhưng nhiếc móc xỉ vả thì chưa có. Về sau, nó tụt dần xuống hàng một sở nằm trong bộ Thông tin, do một viên chánh sự vụ điều khiển; nhân sự ban đầu còn khá, càng lâu kẻ khá rút đi dần, phải vơ bèo vạt tép, dùng đến hạng chẳng có kiến thức gì, ngồi làm mục tiêu cho những giễu cợt xỉa xói của dư luận.
        ________

        GHI CHÚ

        Khi tập sách này đang in, tôi may mắn được đọc bộ Hồi ký của cố học giả Nguyễn Hiến Lê, gặp đoạn nói về ngành xuất bản và lối làm việc của văn giới Miền Bắc, xin mạn phép trích dẫn ý kiến của một nhân vật vẫn được tin cậy:

        (...) Tôi thấy ngành xuất bản ngoài đó không phát triển mạnh, sách báo in chỉ bằng một phần năm trong Nam; đa số, có thể nói là gần hết nhà văn, nhà biên khảo làm việc ít, chậm, không hăng say, không “đua nở”. Trong hai chục năm sau ngày tiếp thu Hà Nội, không có nhà văn nào cho ra được chín, mười tác phẩm, trung bình chỉ được một, hai.

        Không có gì kích thích họ sáng tác mạnh. Họ đều là công chức, dù không viết gì thì cũng được lãnh khoảng 60$ một tháng, thời trước 1975, tạm đủ sống một mình; nếu viết lách thì phải có danh lớn, hoặc bồ bịch, bè phái thì mới hi vọng được in; vì vậy ta thấy nhiều cuốn có lời đề tựa của một “anh lớn”, thứ trưởng, viện trưởng... nào đó, điều đó tối kỵ ở trong Nam.

        Bản thảo gởi tới một nhà xuất bản, phải bị kiểm duyệt vài ba lần, một lần về tư tưởng, một lần về hình thức, gì gì đó; thoát được mấy cửa ải đó lại phải qua vài lần duyệt nữa xem có hợp thời không, có đáng in ngay không và có ngân sách, có giấy để in không. Phải có ông lớn nào đặc biệt ủng hộ mới mau được in, nếu không thì bị dìm cả chục năm như bộ Tự điển truyện Kiều của Đào Duy Anh; hễ năm sáu năm sau được in thì cũng đã là may rồi. Nhà xuất bản nào cũng có cả mấy chục tác phẩm chưa in được, nhà văn có tên tuổi nào cũng có vài ba tác phẩm nằm ở nhà xuất bản. Có nhà khảo cứu bỏ ra mấy năm soạn một bộ công phu mà không in được, chính phủ an ủi bằng cách trả cho một số tiền nhỏ vài ba trăm đồng rồi giữ bản thảo làm tài liệu cho một cơ quan. Như vậy ông giám đốc một nhà xuất bản lớn thành như một lãnh chúa về văn hóa.

        (Hồi ký,
        trang 584)

        -----------

        [1]Nhận xét của ông Khai Trí trong phiên họp tiểu ban Nhân văn thuộc Hội đồng Văn hóa và Giáo dục, ngày 27-2-1974.

        [2]Do ông Khai Trí cho biết vào phiên họp đã nói.

        [3]Nguyễn Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, tủ sách Nghiên Cứu Sử Địa, Gia-nã-đại, 1979, trang 97.

        [4]Thư của ông Từ Mẫn, giám đốc nhà Lá Bối, viết ngày 13-3-84.

        [5]Đầu năm 1969, tạp chí Bách Khoa từ số 289 đến số 295 có đăng loạt bài phóng sự của Ngê Bá Lí về ‘Tình hình xuất bản sách trước và sau biến cố tết Mậu Thân 1968’.
        Theo ý kiến của các vị được phỏng vấn thì các năm 1965-1966 là những năm cực thịnh của ngành xuất bản ở Miền Nam. Chúng tôi xin lược kê một ít con số hoạt động như sau:

        Nhà xuất bản Số lượng ấn hành mỗi kỳ cho mỗi tác phẩm Trung bình Ít nhất Nhiều nhất

        Nguyễn Hiến Lê 3000 cuốn 2000 5000
        An Tiêm ? 800 (thơ) 7000
        Nam Chi 3000 1000 ?
        Giao Điểm 1000 ? 3000
        Thời Mới 1500 1000 2500
        Ca Dao 2000 ? 3000
        Nguyễn Đình Vượng 1000 ? ?
        Văn & Văn Uyển 6000 ? ?
        Miền Nam 3000 ? ?
        Hoàng Đông Phương 3000 ? 5000
        Văn Nghệ 5000 ? 9000


        Trong số các nhà xuất bản trên đây, hai nhà đặc biệt in nhiều: nhà Văn Nghệ chuyên tái bản sách của Khái Hưng và nhà Văn chuyên in loại sách phổ thông bán giá hạ, trả tác quyền thấp. Ngoài ra, nhà Miền Nam chuyên in lại các tiểu thuyết đã đăng vào nhật trình.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.09.2006 00:04:14 bởi silverbullet >
        #19
          silverbullet 19.09.2006 07:33:35 (permalink)
          VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

          MẤY NÉT TỔNG QUÁT VỀ NỀN VĂN HỌC 1954-75

          VĂN HỌC


          Đặc điểm

          Hai mươi năm đảo điên, thảm khốc vừa qua trong tình hình Miền Nam Việt Nam tất nhiên cũng là hai mươi năm đổi thay xáo trộn trong tâm hồn người Miền Nam. Xáo trộn đổi thay thật là sâu xa. Bởi vậy giữa tâm hồn con người thời này với tâm hồn con người thời tiền chiến, giữa văn chương thời này với văn chương thời tiền chiến có những khác biệt lớn và đột ngột.

          Nhất Linh bảo Nguyễn Vỹ: “Thế hệ trẻ ngày nay, họ không hiểu được tụi mình.” Ngược lại chắn chắn hai ông cũng không hiểu được “tụi họ” đâu. Họ kỳ cục lắm cơ. Cho nên cái văn chương thể hiện tâm tình của họ cũng là một thứ văn chương mà thế hệ Nhất Linh khó lòng thưởng thức được. Nhất Linh bấy giờ chưa hẳn là già, mà những Doãn Quốc Sỹ, Chu Tử không thể bảo là còn non trẻ gì; tuổi tác cách nhau không bao nhiêu nhưng tâm hồn thì vời vợi.

          Tính cách chính trị

          MỘT THẾ HỆ KHỐN ĐỐN VÌ THỜI CUỘC


          Giữa giới cầm bút thế hệ sau, Nhất Linh cùng những người lớp ông lạc loài thấy rõ. Một bên khốn đốn vật vã, một bên ung dung thư thái. Và oái ăm thay! trông có vẻ an nhiên vô tâm lại là lớp người đã bạc đầu vì thế cuộc.

          Đọc mấy trang hồi ký của Nguyễn Tường Thiết viết về thân phụ mình (trên Văn Học Nghệ Thuật, Hoa Kỳ, bộ mới số 3, tháng 7-1985) chắc không mấy ai không xúc động vì câu chuyện đêm đêm Nhất Linh khóc một mình trong phòng, ôm kín một mối đau thương thê thiết mà vợ con không ai biết được nguyên do. Người như Nhất Linh nhất định không thể là một con người đơn giản. Và trong văn giới nửa thế kỷ qua những kẻ đóng góp nhiều vào việc quốc gia xã hội như ông dễ được mấy ai? Vậy mà đọc những tác phẩm Nhất Linh viết sau 1954 người ta có cảm tưởng ông đứng bên lề thời cuộc; trái lại, những Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ v.v... thì đầy ưu tư, sôi nổi. Trong tiểu thuyết, ông chủ trương tránh biện giải cho luận đề, mà ngoài tiểu thuyết cũng không thấy Nhất Linh viết gì về chính trị, về thời cuộc nước nhà. Trái hẳn với những Nghiêm Xuân Hồng, Tạ Văn Nho, Nhuệ Hồng v.v...

          Nhất Linh đã vậy, phần lớn văn nghệ sĩ tiền chiến khác đều thế. Đó chắc chắn là một trong những lý do khiến họ bị lu mờ, mất độc giả. Vì độc giả đứng về phía các tác giả lớp sau: đôi bên cùng “toa rập” làm cho thời kỳ văn học 1954-75 lúc nào cũng sôi động không khí chính trị. Chính trị tính là một đặc điểm của nền văn học Miền Nam bấy giờ.

          Đây là thời kỳ của một lớp người bị lịch sử dày vò, bị thời cuộc quật lên quật xuống nhiều quá. Sau 1945 chuyện theo “cụ Hồ” đánh Pháp làm say sưa mọi người: cả nước vùng lên, muôn người một lòng. Lúc ấy lẽ phải tưởng như thật rõ ràng giản dị. Chẳng bao lâu cái phải bày ra cái quấy, vị cứu tinh trông ra tuồng một tên gian ác láu lỉnh, chủ thuyết cách mạng đưa tới những tố cáo ti tiện, đàn áp dã man. Bèn liều lĩnh bỏ quê ra đi. Rời cứu tinh này gặp ngay cứu tinh khác; chính nghĩa quốc gia thoạt tiên sáng ngời ngời, lý tưởng tự do cao cả. Rồi dần dần đây đó lại nổi lên những lời hằn học đối với cứu tinh, chế giễu đối với lý tưởng. Đây đó dấy lên thắc mắc: Làm gì? Đi con đường nào? Chọn chủ thuyết nào? v.v...

          Nguyễn Kiên Trung phơi bày tâm tình đáng thương của một thế hệ trai trẻ đem tuổi xuân phó thác vào niềm tin nơi Cách mạng Mùa Thu, nơi cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập, để rồi năm bảy năm sau chợt vỡ mộng. Sau Genève, sau cuộc di cư vào Nam, hy vọng mới lại bùng lên. Duyên Anh bảo: “Có hội nghị Genève, thơ, văn, nhạc dậy mùi ly hương và hẹn về xây dựng lại quê hương đổ nát cùng nối chút duyên xưa với người em gái bé nhỏ. Riêng dòng sông Bến Hải thì không những là nạn nhân của một lịch sử chia cắt mà còn là nạn nhân của những rừng thơ, biển nhạc. Quý vị nhạc sĩ, thi sĩ đòi lấp sông Bến Hải thật ồn ào, tưởng chừng dòng sông bị lấp đến nơi rồi. Tiếp đó, quê hương Miền Nam thanh bình, dựng một mùa hoa!”[1] Nghiêm Xuân Hồng không xem đây là chuyện để đùa bỡn. Ông thấy tất cả cái trọng đại của tình thế. “Đất nước Miền Nam ngày nay hiện là cơ hội cuối cùng cho những người thành thực muốn tranh đấu và xây đắp một chế độ công bằng và tự do. Đối với những người đó, thảm kịch trong tâm tư và hành động có lẽ không rộng lớn bằng, nhưng cũng tương tự như tâm tư nặng nề của Jésus trên ngọn núi Golgotha, của Thích Ca lúc khắc khoải dưới gốc cây bồ-đề.”[2]

          Niềm hy vọng tưng bừng ấy không kéo dài được lâu. Chừng bốn năm sau cuộc di cư đã bắt đầu có những bất mãn chống đối chính quyền, chống đối lãnh tụ trong Nam. Trong pho trường thiên tiểu thuyết Khu rừng lau của Doãn Quốc Sỹ nhiều nhân vật rời bỏ cộng sản từ Bắc vào lại tham gia mạnh vào phong trào chống chính phủ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ. Ông Doãn cay đắng. Cuối cuốn Những ngả sông trên dòng đời, Hiển không dằn lòng được trước thái độ xấc láo của một cán binh cộng sản cuồng tín, giơ tay thẳng cánh tát trái nó một cái, định bảo cho nó hiểu về cộng sản, sáng mắt về cộng sản, nhưng rồi “khuôn mặt ruỗng nát của miền quốc gia” hiện ra, những cái xấu xa xú uế của “bãi rác thủ đô” ùa tới, và: “chàng quay đi đôi mắt khô thật ra chàng đương khóc não nề, chàng lắc lắc mạnh cái đầu: - Ta không muốn nói làm gì! Ta không muốn nói làm gì!“

          Thủ đô, đầu não của Miền Nam, nơi tập trung các thứ lãnh tụ: lãnh tụ chính trị, lãnh tụ tôn giáo, lãnh tụ trí thức, văn nghệ v.v.... thủ đô không còn là chỗ tin cậy nữa. Trái lại. Phan Nhật Nam hung hăng nguyền rủa: “một tháng ở thủ đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong linh hồn (...) Một tháng, đủ để chúng tôi hiểu nỗi ti tiện hèn mọn của loại lãnh tụ ngã tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu tình theo ngẫu hứng, vua tôn giáo, đầy thù hận và dục vọng (...) Sài Gòn, chúng tôi thù ghét và ghê tởm thủ đô đục ngầu phản bội và thù hận. Tôi ao ước một cơn hồng thủy sẽ cuốn trôi thành phố sau lưng, một cơn hồng thủy xóa hết dấu tích nhơ bẩn, mà thủ đô đã bôi lên khuôn mặt bi thảm của quê hương.”[3] Ông ngơ ngác hỏi: “Thần tượng của tôi bây giờ là gì? Lãnh tụ? Lãnh tụ cỡ nào?”[4]

          - Không có nữa đâu. Không còn ai để tin tưởng nữa. Không tin vào con đường dẫn dắt nào nữa, mỗi người tự suy nghĩ, tìm kiếm lấy đường. Mỗi nhóm một “thái độ”, mỗi nhóm một cuộc “hành trình”. Nhiều kẻ hành trình luôn về phía bên kia, hành trình vào chủ nghĩa Mác Lê, vào tình tự “quốc gia” “dân tộc” của Hồ Chí Minh!

          Cảnh bát nháo ấy diễn ra trong tiếng bom tiếng đạn. Tú Kếu phát điên luôn:

          [...] “Điên từ khi mất tuổi thơ
          Mười năm loạn lạc bơ phờ tóc xanh!
          Súng thay câu hát ngọt lành
          Bom thay lời mẹ dỗ dành đêm đêm
          Tôi điên, càng lớn càng thêm
          Càng cao tuổi sống, càng thèm được điên”
          [5]

          Điên được không phải dễ. Điên cuồng như Tú Kếu, lồng lên rủa xả như Phan Nhật Nam là phản ứng của lớp người trẻ tuổi, còn nhiều khí lực. Lớp khác, trong lớp đã trải qua nhiều thử thách hơn, lắm kẻ ngán ngẩm không buồn nhắc đến thế cuộc nữa. Nghiêm Xuân Hồng dần dần ngả về các suy tưởng tôn giáo; Vũ Khắc Khoan về những lộng ngôn hoài nghi, hư vô; Nguyễn Mạnh Côn đi vào lập thuyết với những trầm tư siêu hình bí hiểm... Nhưng họ chạy đâu cho khỏi! Trốn thế sự vẫn là một cách phản ứng đối với thế sự. Chính trị dù nó không xuất hiện nó vẫn có mặt. Lẩn quẩn đâu đó, nó luôn luôn ám ảnh thời kỳ 1954-75.

          Và sau 1975, thỉnh thoảng có dịp được hồi tưởng lại, nền văn học thời ấy vẫn không rời được các ám ảnh chính trị.

          CHÍNH TRỊ VÀ VĂN HỌC

          Tạp chí Đất Mới ở tiểu bang Washington, số ra ngày 30-9-1984 có phỏng vấn Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh về các nhà văn Việt Nam mà ông thích đọc, được trả lời rằng trong số những tác giả ông chọn lựa đọc đi đọc lại có Đỗ Tấn. Đối với bạn đọc ngày nay, Đỗ Tấn là một tác giả xa xôi. Mà xa xôi thật. Đỗ Tấn nay đã qua đời, từng bị cộng sản bắt giữ từ đầu năm 1975, trước đó hàng chục năm đã thôi xuất hiện trên văn đàn. Ông chỉ viết nhiều nhất trong khoảng không đầy năm năm sau hiệp định Genève. Mà ngay độ ấy Đỗ Tấn cũng không có bao nhiêu văn thơ đăng tải ở Sài Gòn; chỗ ông ra mắt chính các tác phẩm của ông là tạp chí Mùa Lúa Mới mà ông làm tổng thư ký tòa soạn, xuất bản tại Huế, một tờ báo có khuynh hướng chính trị rõ rệt. Tất nhiên, thơ văn Đỗ Tấn lúc bấy giờ cũng mang tính cách chính trị. Thơ văn ấy đã xúc động mạnh quần chúng độc giả, xúc động mạnh một thế hệ thanh niên. Ba mươi năm sau, nhà văn Toàn Phong từ lâu đã sống xa đất nước xa văn chương, đi sâu vào thế giới khoa học, nhưng vẫn còn lưu luyến Đỗ Tấn.

          Trường hợp Đỗ Tấn không phải là một trường hợp đặc biệt. Cùng lượt với ông, bao nhiêu người khác được độc giả chú ý ngay từ một vài tác phẩm đầu tay, tôi nghĩ cũng vì một lý do ấy: Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Nghiêm Xuân Hồng v.v... Cùng là những người “ở bên kia” về, ở ngoài Bắc vào, họ đặt ra một vấn đề mới: bộ mặt thật của cộng sản. Vấn đề hoàn toàn mới mẻ đối với dư luận trong Nam. Họ gây xôn xao. Họ kêu gọi duyệt xét lại các giá trị, thành kiến về chính trị. Họ kêu gọi hành động, tham dự vào thế cuộc. Họ khuấy động giới trẻ. Trong lúc ấy những tác giả lặng lờ, không có thái độ chính trị, tiếp tục viết truyện tình cảm, xã hội, truyện tâm lý, truyện luân lý v.v... thường không được chú ý mấy. Tô Kiều Ngân, Kiêm Minh, Tạ Quang Khôi, Văn Quang, Thanh Nam v.v... viết không kém nhiều tác giả nổi danh ồn ào hơn họ; họ chỉ thiếu cái nhiệt tình chính trị, ngọn lửa của thời đại.

          Phong trào chống cộng sau hiệp định Genève ở Miền Nam có người xem là một thành công của bộ Thông tin. Chuyện không đơn giản đến thế: không phải vì nhà nước khéo khuyên bảo nên ghét cộng sản mà dân chúng xúm nhau ghét. Ở xứ ta, chưa bao giờ có một quần chúng ngoan ngoãn như vậy. Miền Nam không có một nhà văn có tầm vóc Soljenitsyne, nhưng cuộc di cư hàng triệu người và sự tố giác hàng loạt của một lớp văn sĩ mới ít ra cũng có giá trị chấn động của cuốn Quần đảo Goulag tại địa phương. Cơ sở tâm lý của quần chúng đã sẵn, sự tuyên truyền của chính quyền chẳng qua chỉ nương theo một chiều hướng thuận lợi mà thu đạt thêm kết quả.

          Đó là tình hình buổi đầu. Dần dần hoàn cảnh đổi khác, chuyện tố giác cộng sản không tiếp tục nữa, dĩ nhiên, nhưng không khí chính trị không lúc nào thiếu sôi nổi cho đến những năm cuối cùng. Sau này, Nguyễn Văn Trung chuyển từ nhận định triết lý sang suy luận chính trị, rồi từ suy luận tới những kêu gọi dấn thân. Dấn thân thành một danh từ thời thượng. Hoặc “dấn thân” xa như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Lý Chánh Trung, Thế Nguyên..., hoặc dấn thân có chừng mức như Thế Uyên, Nguyễn Văn Xuân v.v..., hoặc là Phật giáo dấn thân như Nhất Hạnh, hoặc là công giáo dấn thân như Nguyễn Ngọc Lan... Có những dấn thân bênh vực cộng sản hay chống lại cuộc chiến tranh chống cộng (Nguyễn Văn Trung, Nhất Hạnh, Vũ Hạnh...); cũng lại có những dấn thân lên án cộng sản (Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Phan Nhật Nam...). Không khí chính trị trong văn giới càng ngày càng trở nên sôi động đến nỗi một người hiền lành bảo thủ như ông Thanh Lãng rốt cuộc cũng bị lôi cuốn vào cuộc dấn thân: ông đi “ăn mày” với ký giả, ông tuyên bố hung hăng chống một chính quyền sắp sụp đổ. Như thể một kẻ sĩ lúc bấy giờ không dấn thân, không đấu tranh chống đối nọ kia thì không yên ổn trong lòng, không bằng ai.

          Nhìn chung từ trước tới sau suốt thời kỳ này lúc nào cũng có những nhóm văn nghệ sĩ gần nhau không hẳn vì lập trường văn nghệ mà là vì một quan điểm chính trị, cũng có những tập hợp nửa văn nghệ nửa chính trị. Kéo dài từ trước Genève đến sau Genève là nhóm sinh hoạt chung quanh Nguyễn Đức Quỳnh; sau 1954 là những nhóm Quan Điểm, Nhân Loại, Tự Do...; sau 1963 là những nhóm Trình Bày, Thái Độ, Lập Trường, Văn Học, Hành Trình v.v... Mỗi giai đoạn có một số nhóm một số nhân vật nổi lên để rồi chìm xuống vào một giai đoạn khác. Có những vị từ địa hạt triết học chuyển sang địa hạt chính trị; có vị lại từ chính trị vào giai đoạn này chuyển sang triết học vào giai đoạn sau; có những vị khác từ tôn giáo nhảy sang chính trị; có những cây bút xã hội, tâm lý ngả dần sang những đề tài chính trị; lại có những tiểu thuyết gia từ các luận đề chính trị lúc đầu lảng dần sang những đề tài tâm lý, triết lý trong những năm sau v.v... Từng cá nhân có thay đồi chuyển biến; nhưng nền văn học của thời kỳ này nói chung không ngớt canh cánh những lo toan vì thế cuộc.

          Văn học Miền Nam thời kỳ 1954-75 đậm màu sắc chính trị hơn văn học tiền chiến, chuyện có thể hiểu được.

          Trước kia, dưới thời ngoại thuộc, cái chính trong hoạt động chính trị là giành độc lập quốc gia. Không có gì để suy tư, để băn khoăn cả, chỉ có dám làm hay không dám làm. Dám thì đứng ra làm, như Nhất Linh, Nguyễn Huy Tưởng, Khái Hưng, Nguyên Hồng, Hoàng Đạo, Nam Cao v.v... Không dám thì cứ ở yên mà viết dài dài: viết truyện làm thơ về xê dịch, về tình yêu, về thời tiết nắng mưa, về thế tình ấm lạnh, về ma quỉ thần linh v.v... Các nhà ái quốc, các chí sĩ có dùng thơ văn là chỉ để kêu gọi lòng yêu nước, chứ không cần biện luận cho một lập trường nào. Giữa đệ tam với đệ tứ có rắc rối chăng là rắc rối giữa các chính trị gia chuyên nghiệp với nhau, không phải chuyện văn học.

          Sau này, ở Miền Bắc văn học tất nhiên phải theo sát chính trị. Thành thử trong thời hậu chiến chính trị ám ảnh cả văn học Miền Bắc lẫn Miền Nam, mỗi nơi một cách khác nhau. Ở Bắc văn nghệ phục thị chính quyền bất cứ theo chủ trương nào, chiều hướng nào, giai đoạn nào: hoặc chủ trương đoàn kết toàn dân hoặc chủ trương độc tài giai cấp, hoặc lúc yêu Trung Cộng hết mình hoặc lúc chống Trung Cộng cật lực v.v... Ở Nam, khi đôi bên đi thuận chiều thì văn nghệ giục giã, thúc bách chính quyền, khi ngược chiều thì văn nghệ chống đối, phản kháng. Ở Nam, thứ văn nghệ có chính trị tính luôn luôn vật vã, nó làm khổ chính trị và tự làm khổ nó.

          Khổ nó, đúng thế. Nhất Linh bảo rằng luận đề từng hại ông, từng làm cho tiểu thuyết của ông mất hay, bớt hay; thế nhưng sau 1954 luận đề chính trị đã biết bao lần ám ảnh thơ, truyện, kịch ở Miền Nam, mà không ngại có thể làm cho những thơ truyện ấy bớt hay. Như vậy văn nghệ cũng khổ chứ, sung sướng gì đâu!

          Thế nhưng đa số văn nghệ sĩ sau Genève cứ lăn vào lối đoạn trường, và họ được đám quần chúng tri kỷ hoan nghênh (ít ra là nhất thời). Trong khi ấy những người tỉnh táo như Nhất Linh thì lại vượt thời gian trong quạnh quẽ.
          ___________________

          [1] Duyên Anh, Áo tiểu thư, Nguyễn Đình Vượng xuất bản 1971, trang 167.
          [2] Nghiêm Xuân Hồng, Lịch trình diễn tiến của phong trào quốc gia Việt Nam, nguyệt san Ngày Về tái bản tại Hoa Kỳ, trang 8.
          [3] Phan Nhật Nam, Dấu binh lửa, Hiện Đại tái bản, Sài Gòn, 1973, trang 54, 55.
          [4] Như trên, trang 23.
          [5] Tú Kếu, Thơ xám, trang 49.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.09.2006 07:35:59 bởi silverbullet >
          #20
            silverbullet 19.09.2006 15:19:23 (permalink)
            VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

            MẤY NÉT TỔNG QUÁT VỀ NỀN VĂN HỌC 1954-75

            VĂN HỌC


            Tính cách tôn giáo và triết học

            MỘT THẾ HỆ MẤT NIỀM TIN

            Giữa thế hệ tiền chiến với lớp sau Genève sự khác nhau không phải chỉ ở một mối ưu tư về chính trị. Dương Nghiễm Mậu không phải là một Trần Tiêu ưu thời mẫn thế, Trần Thị NgH, không phải là một Anh Thơ ham nói chuyện đại cuộc. Họ khác nhau từ trong tâm hồn cho tới lời ăn tiếng nói, từ quan niệm nhân sinh tới cách hưởng lạc, cách yêu đương.

            Tình yêu - Thật vậy, hãy thử để ý đến một nhân vật của Nhã Ca, một cô bé trong Ngày đôi ta mới lớn. Lần đầu tiên bắt gặp sự rung động ái tình của mình, cô ta kêu: “Chết cha, mình đang cảm động.” Các bậc tiền bối tha hồ kinh ngạc: “Chết cha, cái gì lạ vậy?” Tự thuở hồng hoang tới giờ, có thiếu nữ Việt Nam nào phản ứng như vậy trước tình yêu đâu? Những nàng thục nữ yêu kiều như Nguyệt Nga, Thúy Kiều, Tố Tâm không la lối như vậy trước ái tình đã đành; mà những cô Loan, cô Hiền, cô Hạnh của Nhất Linh, Khái Hưng, những cô gái trong tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thạch Lam v.v... cũng không thế; những cô bé đi chùa Hương trong thơ Nguyễn Nhược Pháp, cô chị bồng em đi lễ xin xăm trong thơ Hồ Dzếnh không có thế; cho đến gần đây nhất như cô Mùi của Nhất Linh, chúng ta cũng khó tưởng tượng cô ta có thể bật ra tiếng đùa giễu cái tình cảm “thiêng liêng” của chính mình như thế. Không, trước đây chưa ra đời cái mẫu người con gái khinh mạn, coi đời nhẹ tênh ấy.

            Lại “nhặt” thử một cô bé khác trong số vô vàn cô bé ngộ nghĩnh của Nhã Ca: Soan. Giữa một Mùa hè rực rỡ cô ta bắt đầu biết yêu: cô ta yêu một quân nhân đáng tuổi cha chú mình và cô sắp đặt một kế hoạch tỏ tình bằng cách thủ sẵn một hòn đá chực... rình ném vào anh chàng quân nhân nọ!

            Chúng ta không dám nói các cô gái trong thế hệ đàn chị hồi tiền chiến thiếu say đắm thiếu liều lĩnh trong tình yêu, hay ngại ngần đắn đo hơn trước tội lỗi. Từ lâu lắm trai gái đã chết vì tình rụp rụp; còn sa ngã thì cô gái khuê các bên Tàu ngày xưa như Thôi Oanh Oanh mới hẹn hò lần đầu đã sa ngã ngay dưới mắt con Hồng, Thúy Kiều cũng tại đêm hò hẹn đầu tiên mà trong âu yếm của người tình đã có chiều lả lơi (nếu trời còn cho cô cậu tiếp tục gặp nhau một vài đêm nữa, ai biết chuyện gì xảy ra). Cho nên hãy dè dặt trong sự phát biểu về đạo lý. Chỉ xin để ý đến thái độ yêu đương, đến phong cách yêu đương mà thôi. Về mặt này những cô Loan, cô Nhung, cô Mùi v.v... dù trong lòng họ có nồng nàn đến đâu đi nữa nhưng lời ăn tiếng nói cái nhìn cái liếc của họ cũng vẫn ý nhị, tinh tế, xa xôi, bóng gió. Họ không trực tiếp, đột ngột, bốp chát như những cô Soạn, cô Thuyền sau này. Lớp trước lớp sau, phong cách khác nhau như chiếc áo dài kín đáo dịu dàng khác chiếc quần jeans hồn nhiên sống sượng. Dưới lớp quần áo, nỗi niềm rạo rực có thể giống nhau; nhưng lớp che phủ bên ngoài cái rạo rực có khác, khác xa.

            Vậy thì một bên sống sượng một bên tao nhã ý nhị, cái khác nhau đã rõ. Có điều tưởng không thể dừng lại ở cái khác nhau về phong cách. Bởi vì mỗi phong cách không phải là một sự ngẫu nhiên. Tại sao đang bóng gió xa xôi tự dưng lại trở nên sấn sổ ngổ ngáo như thế? Phải có lý do nào đưa đến những thay đổi ấy, đó mới là vấn đề.

            Theo chỗ chúng tôi nhận thấy sở dĩ lớp sau này tiến tới tình yêu không còn có cái vẻ e dè, trịnh trọng nữa là vì sau này họ thấy trên đời không còn cái gì đáng e dè, trịnh trọng cả. Không còn cái gì là thiêng liêng nữa.

            Mối tình đầu, cái đó ngày trước người ta quí biết chừng nào, trân trọng biết chừng nào. Thế mà Thuyền coi như không. “Chết cha, mình đang cảm động”, cô bé tự chế nhạo mình đó; cô ta chế nhạo ngay cái tình cảm mới chớm nở của mình. Cô ta coi thường nó, chọc quê nó. Và rồi chúng ta sẽ thấy Thuyền không phải là thuộc vào số các cô bé ngang ngược, ngỗ nghịch nhất của thế hệ đâu.

            Ngày xưa chuyện lứa đôi là quan trọng cực kỳ, duyên số được xếp đặt tận trên trời: Có ông lão xe tơ đỏ; có chuyện xin xăm để hỏi ý kiến các đấng Thiêng Liêng, yêu nhau có chuyện khấn vái Trời Đất, cắt tóc thề bồi v.v... Sau này, khi chúng ta đã “văn minh” theo Tây phương, chúng ta không còn tin ở công việc của ông già lẩm cẩm dưới trăng nữa, không hay lôi nhau đi thề thốt nữa v.v..., tuy nhiên chúng ta vẫn rất mực trân trọng các mối tình, từ tình đầu đến tình cuối. Hồi tiền chiến trong tiểu thuyết của những Khái Hưng, Lê Văn Trương, Lan Khai... không thiếu gì những mối tình “lớn” diễn ra ngay cả dưới mái chùa, trong rừng thẳm; trong thi ca của những Đông Hồ, Tương Phố, cho đến Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh... hễ động nói tới ái tình là giọng lâm ly thống thiết không chịu được. Trong văn chương cũng như ngoài đời hễ phụ tình, bạc tình thì bị chê bai khinh bỉ ngay.

            Thoắt cái, sang thời kỳ 54-75 này, ái tình bị chọc quê. Nó gần thành lố bịch. Một cô con gái nguyên lành gặp một người đàn ông đứng tuổi, đã có vợ. Người đàn ông rủ rê, cô gái bằng lòng. Yêu thì yêu, tại sao không? Cô gái suy tính: “Thử tưởng tượng một người đàn ông đứng tuổi, đứng đắn. Một người đàn ông sắp sửa bốn mươi tuổi, có vợ, có địa vị và tiền bạc. Không lý tưởng sao, tuyệt vời nữa.” Đây là cái hôn của người tình “lý tưởng”, cái hôn đầu tiên trong đời cô gái nguyên lành: “Chúng tôi hôn nhau. Cái hôn đầu tiên chưa kịp đoán trước hay chuẩn bị dù sao cũng đã làm tôi thất vọng chút ít. Tôi quệt nước bọt trong tay áo và chàng có vẻ bồn chồn khi nhìn thấy cử chỉ đó. Tôi không biết, lúc ấy tôi khinh chàng. Tôi nói: À, thì ra! Chàng tỏ vẻ không hiểu. Tuy nhiên sau đó chàng vẫn hôn tôi hoài.” Xong chuyện hôn nhau, họ đi tới chuyện khác, xa hơn. Vì cô gái còn nguyên nên đau đớn, đau mà không kêu rên gì cả, được chàng khen ngợi. “Tôi bấu tay trên lưng chàng. Thật không còn thứ đau đớn nào hơn (...) Chàng khen:
            - Em can đảm lắm.
            Tự nhiên tôi nói lớn, giọng hờn mát:
            - Rồi sao nữa, trời đất!
            - Nằm yên...”

            Hôn xong, “yêu” xong, cuối cùng họ xa nhau. Trong khi cô gái xếp quần áo vào va-li để ra đi, thì chàng - người yêu “lý tưởng, tuyệt vời” - muốn có một kỷ niệm: chàng ngồi tằn mằn mớ đồ lót của nàng, bảo: “Cho anh một cái.” Như thế, ái tình được chấm dứt.[1]

            Đọc xong câu chuyện như thế, không khỏi có một cảm tưởng khiếp hãi. Vì đạo đức suy đồi? Vì phong tục tồi bại chăng? Không đâu. Đừng lên mặt đạo mạo mà chi. Vả lại câu chuyện đâu có gì đáng gọi là khiêu dâm? Không có chỗ nào phô bày lộ liễu, không có cảnh mùi mẫn mê ly nào cả. Trái lại, giọng kể còn hờ hững: có sao nói vậy, vắn tắt. Gần như ngây thơ. Và đó là chỗ đáng khiếp. Tác giả nhìn vào những cái “thiêng liêng” nhất trong đời như thể nhìn người ta uống tách nước, kể lại như kể chuyện đi phố lựa đôi giày. Như thể không có xúc cảm. Người trong cuộc không có xúc cảm, cũng như người ngoài cuộc, người kể chuyện. Thật vậy, nếu xúc cảm làm sao còn để ý đến chỗ nước bọt để quệt lên tay áo! Cổ lai có ai bắt gặp trong văn chương một cặp tình nhân quệt nước bọt sau khi hôn nhau? Thử tưởng tượng giữa các mối tình lớn của Paul và Virginie, của Kim và Kiều, của Bảo Ngọc cùng Đại Ngọc, của Ngọc và Lan v.v... có mấy hạt nước bọt như thế dính vào: Tai hại biết chừng nào!

            Có cái nhìn thành kính ngưỡng vọng cuộc đời, mới thấy đời cao đẹp, lung linh huyền ảo. Thế hệ này mở hai con mắt trắng dã, lạnh lùng, khô khấc nhìn vào cuộc đời, khiến cho cuộc đời tự thấy trống trơn, trơ trẽn. Cuộc đời khốn khổ, thẹn thùng, co rúm lại. Tội nghiệp.

            Độ ấy người ta thường hay nói tới cái chết của Thượng Đế. Người chết đi là phải. Chịu sao thấu? Một cái nhìn như cái nhìn của thế hệ bấy giờ có thể giết chết rụi hết: hết mơ mộng, hết thi vị, hết mọi niềm tin tưởng. Thơ mộng đến như Ái tình mà nó còn mất hết cả hào nhoáng, còn trơ nước bọt ra, thì còn gì là Thượng Đế! Trong tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, cuộc nhân sinh luôn luôn bị nhìn một cách sấn sổ như thế; trong bao nhiêu truyện ngắn truyện dài của ông là những cảnh đời trình bày phũ phàng. Bằng lối nói xông xổng, không kiêng nể bất cứ cái gì: cái tục tằn, cái thô bạo, cái xấc láo, cái hỗn xược mất dạy, ác độc, điên khùng v.v... Cha con réo chửi nhau, đàn ông đàn bà làm tình với nhau lê mê chẳng thèm đặt ra vấn đề yêu thương gì ráo trọi, kẻ ác người thiện lẫn lộn làng nhàng như nhau, không phân biệt gì hết trơn... Một nhân vật của Dương Nghiễm Mậu phàn nàn: “Có nhiều người tạo ra những ràng buộc với mình để sống, như ràng buộc với Thượng Đế, với quê hương, với bổn phận, với tình yêu và máu mủ, nhưng tôi thì mất đi gần hết những thứ ấy, dù có muốn tạo ra cũng không sao có được.”[2]

            Trong một không khí tinh thần như vậy người ta dễ hiểu tại sao một thiếu nữ bắt gặp những rung động tình cảm của mình lại tự cười cợt chế nhạo. Rung động thành ra lố bịch. Tình cảm thành ra lỗi thời. Yêu ấy à? Buồn cười chưa, gì mà ngố quá vậy?

            Đời không còn gì là cao đẹp, là thiêng liêng nữa. Trong hoàn cảnh ấy, người ta cười giễu đểu giả, khinh mạn, người ta ngỗ nghịch xấc lấc, trông đáng ghét; nhưng nghĩ lại thì mất niềm tin là cảnh trạng đáng thương.

            Lại vẫn nhân vật nọ của Dương Nghiễm Mậu than thở: “Cuộc sống ngày nay mất đi những tham dự của sức mạnh siêu hình mà người trước tin cẩn để sống. Nhưng có lẽ thái độ can đảm liều lĩnh ấy khiến cho chúng tôi đau đớn hơn. Chúng tôi không thể đổ lỗi cho ai được khi chúng tôi tự cho mình là Thượng Đế.”[3]

            Lý tưởng - Ái tình là cái dễ “tin” hơn cả mà không còn tin vào nó thì biết tin vào đâu nữa: đạo lý, chính nghĩa, lý tưởng v.v... lần lượt sụp đổ hết. Nhiều cấm kỵ của xã hội bị coi thường. Hàng rào lễ giáo thường khi bị đạp ngã. Trước kia, trong một cuốn truyện của Nguyễn Khắc Mẫn thày giáo lỡ đem lòng yêu một cô nữ sinh mà lấy làm ngại ngùng hết sức, đôi bên phải đắn đo mãi mới dám tỏ bày. Bây giờ trong truyện của Nguyễn Thị Hoàng cô giáo lăn nhào vào Vòng tay học trò với tất cả say mê; cô không giấu cái rạo rực thèm muốn khi nhìn vào những phần da thịt hở hang của cậu học trò. Và cuốn truyện được chấp nhận rộng rãi. Phản ứng đạo đức của xã hội cựa quậy rất uể oải, rất khẽ, như không có gì.

            Đất nước mịt mù khói lửa, và bấy giờ người ta nói thế nào, nghĩ ngợi thế nào về chiến tranh? Nguyễn Bắc Sơn ngất ngưởng bảo địch quân:

            “Kẻ thù ta ơi, những đứa xăm mình
            Ăn muối đá và điên say chiến đấu
            Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
            Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
            Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
            Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
            Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước
            Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
            Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
            Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
            Lũ chúng ta sống một đời vô vị
            Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”...

            (‘Chiến tranh Việt Nam và tôi’)

            “Những đứa xăm mình”, những “đứa” ấy không phải chỉ là hạng chiến sĩ Tố Hữu thôi đâu nhé. Tiểu tư sản non choẹt như Hồng Nguyên, lãng mạn như Hoàng Cầm, huênh hoang lớn lối như Vũ Hoàng Chương ngày nào từng kêu ầm lên là sao vàng xòe năm cánh lên năm cửa ô v.v..., hết thảy đều là đứa xăm mình cả. Vì đều tin chắc mẩm vào chính nghĩa của cuộc chém giết, đều hô hào cổ võ tàn sát một cách trịnh trọng. Còn “ta”, kẻ vượt lên trên “chính nghĩa”, lên trên mọi hăng say, tin tưởng, “ta” là nhân vật của thời đại, “ta” mới xuất thế đây thôi. Và bạn bè của “ta”, cùng lớp “ta” đều “hiền khô” như thế cả.

            “Giao thừa đâu mà vội
            Hãy khoan đã chú mày
            Cứ đóng xa vài dặm
            mà ăn uống cho say

            Ta cũng người như chú
            cũng nhỏ bé trong đời
            có núi sông trong bụng
            mà bất lực hôm nay
            ..............................

            Vì nói thật cùng chú
            Trăm năm có là bao
            Binh đao sao biết được
            Sinh tử ở nơi nào.”

            (‘Nghinh địch hành’ - Hà Thúc Sinh)

            Ta đối với chú mà nói được lời như thế vì lòng ta đã tới độ nguội lạnh, không còn gì khuấy động nổi một cơn điên say nữa. Đao to búa lớn: vô ích. Danh từ cao đẹp: vô ích. Lý tưởng thiêng liêng: vô ích.

            Tín ngưỡng - Tình yêu như thế, chính nghĩa như thế, còn tín ngưỡng? Có lần lão học giả Giản Chi đăng cao, và gieo mấy vần tuyệt diệu:

            “Sớm lên ngồi lạnh non cao
            Thở ra mây trắng, hút vào gió xanh...
            Chợt thương con nguyệt nửa vành
            Phiêu du trắng mộng bên cành thông khô...
            Vô biên bừng nở trời thơ:
            Bông hoa ngày dựng ánh hồ sương treo...
            Trần tâm nghe tắt eo xèo
            Trong Vô Sở Trụ bốn chiều chợt không.”

            (‘Chợt không’)

            Giản Chi là người của thời kỳ trước với tất cả cái tao nhã của thời trước. Giá ông bắt gặp thi hữu Nguyễn Đức Sơn thưởng thức cảnh núi chắc ông không khỏi giật mình thảng thốt.

            “Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
            Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
            Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
            Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
            Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
            Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô.”

            (‘Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi’) [4]

            Một già một trẻ, cả hai đều lên núi, cả hai đều mê núi dù kẻ đến sớm người tới chiều, cả hai trong hồn đều phảng phất mùi thiền, trước cảnh núi non cả hai đều xúc động vì chợt đối diện với “hư vô”, với cái “chợt không”.

            Thế nhưng giữa Nguyễn Đức Sơn với Giản Chi, chỗ khác nhau mới lạ lùng. Giản Chi ngồi chững chạc, còn Nguyễn Đức Sơn thì cứ đi “luồn” vô “luồn” ra mãi, cho tới thấm mệt, tới rục rã cả chân. Ông lăng quăng làm chi kỳ cục vậy? Thôi thì lăng quăng cũng được, nhưng ông kể lại trong thơ làm chi? chuyện ấy có liên quan gì đến hư vô? Đem cái nắng tàn run rẩy, cái hoang sơ, cái hư vô xáo trộn với những bước lăng quăng, ông không thấy mình đang làm một cái gì lạc điệu, hỏng kiểu sao? -Thưa, đó chính là sở trường của Nguyễn Đức Sơn. Ông còn xáo trộn lẫn lộn lắm cái kỳ cục hơn nữa, chẳng hạn nước tiểu với nước... thánh, cực lạc với chuyện... đái!

            “Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
            miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
            ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
            em chưa đái mà hồn anh đã ướt”

            (‘Vũng nước thánh’)

            Giữa trời bể bao la, sao rơi sóng vỗ, ông vừa nằm vọc c... vừa suy nghĩ mông lung về lẽ huyền vi của vũ trụ v.v... Những cái như thế không phải họa hoằn mới xảy ra. Nó xuất hiện đều đều trong thơ ông. Nó thành ra một đặc điểm của thơ ông, của tính khí, thái độ ông. Một thái độ thách thức, khiêu khích, chống đối, báng bổ thánh thần, thái độ của người méo miệng trợn mắt làm trò giữa cảnh cúng vái trang nghiêm, của người vất đồ dơ dáy lên những cái vẫn được xem là cao cả thiêng liêng.

            Nếu chỉ lăng quăng gàn dở ngoài đời thì có thể đó là chuyện tính nết. Nguyễn Đức Sơn đưa nó vô trong thơ, cố tình ghép nó bên cạnh cái cao siêu, vĩ đại, thì đây không còn là nết riêng nữa mà là một thái độ tinh thần. Thái độ Tản Đà rất ngông, Nguyễn Đức Sơn cũng ngông; Tản Đà ngông trong thơ mộng, Nguyễn Đức Sơn ngông mà ngỗ nghịch, phá phách.

            Tôi biết: có thể kể ra đây nhiều thi sĩ tên tuổi thời kỳ 54-75, những thi sĩ lúc nào cũng kính Chúa kính Phật. Nhưng nêu ra làm gì cái chuyện thời nào cũng có; vấn đề của chúng ta là chú ý đến chỗ đặc biệt của thời này thôi. Cũng như thời tiền chiến trong tiểu thuyết có biết bao nhiêu là cặp vợ chồng sống êm thấm, bao nhiêu là cô dâu sống yên lành trong nhà chồng; những kẻ ấy không được nhắc đến nhiều như cô Loan của Nhất Linh. Bởi cô Loan mới tiêu biểu cho hoàn cảnh người phụ nữ lúc bấy giờ. Thời cô Loan là thời chống đối giữa cái mới với cái cũ, chống lại gia đình cũ, xã hội cũ. Thời sau này người ta chống thần chống thánh, chống nhau với Thượng Đế, chống nhau với khuôn phép, nề nếp, với... ái tình! Trời đất! Như vậy làm sao sống được? Chẳng những sống mà còn đánh giặc nữa.

            TÔN GIÁO VÀ VĂN HỌC

            Quả thật mỉa mai. Làm sao tin được thời kỳ “lính cậu” đùa giễu “lính chú”, lính “ta” tán dóc với lính “ngươi” ỡm ờ như thế lại là thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất lịch sử nước ta? làm sao tin được trong khi lính bảo “chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi”, lính cứ khơi khơi xem lý tưởng như lông hồng thì hàng triệu thanh niên được động viên hy sinh cho lý tưởng tự do. Làm sao tin được thời kỳ Thượng Đế chết, thời kỳ con người trâng tráo báng bổ thánh thần lại là thời kỳ tôn giáo phát triển mạnh mẽ, sôi động nhất ở nước ta? Vậy mà những chuyện ấy đều có cả, đều thực cả.

            Hãy khoan nói tới những con số tân tín đồ của các tôn giáo lớn vào các thập niên 50, 60, đến cái tỉ số gia tăng cao khác thường của tín đồ cũng như của các giáo đường, chùa chiền trong khoảng thời gian này; hãy khoan nói đến những biểu dương lực lượng tôn giáo cực kỳ lớn lao trong các cuộc tranh đấu chống chính quyền, các cuộc đấu tranh giữa tôn giáo với tôn giáo trong thời gian này v.v...; chỉ để ý một chút đến cái bóng dáng của tôn giáo trong sinh hoạt văn học nghệ thuật lúc bấy giờ đã thấy nó đặc biệt đến chừng nào rồi.

            Hồi tiền chiến chỉ có một Hàn Mặc Tử cầu nguyện Chúa mà đã làm náo động cả làng thơ: ai cũng chú ý đến hiện tượng tôn giáo này. Sau 1954 ở Miền Nam không phải chỉ có một con chiên hay những con chiên mà có nhiều kẻ chăn chiên xông pha tích cực trong làng văn làng báo; đồng thời ở phía Phật giáo cũng có bao nhiêu là tu sĩ, cao tăng múa bút trổ tài: nào những Nhất Hạnh, Phạm Công Thiện, những Thạch Trung Giả, Phạm Thiên Thư, Tuệ Sỹ v.v..., ấy là chưa kể những nhà văn nhà thơ những học giả không phải tu sĩ viết về Phật giáo như: Trần Ngọc Ninh, Nghiêm Xuân Hồng, Quách Thoại, Lê Văn Siêu v.v... Bên Thiên Chúa giáo thì các linh mục Thanh Lãng, Trần Thái Đỉnh, Kim Định v.v... đều là những cây bút dồi dào, có ảnh hưởng rộng. Các đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo đều có những viện đại học riêng (Thiên Chúa giáo và Phật giáo dĩ nhiên đã có trước những viện qui mô hơn). Nguyễn Văn Hầu viết về triết lý đạo Hòa Hảo, Hồ Hữu Tường viết về đạo Bửu Sơn Kỳ Hương v.v...

            Chuyện nghe có vẻ khác thường nhưng không vô lý. Chính vì thiếu niềm tin, vì khủng hoảng tin tưởng cho nên người ta mới khẩn cấp tìm đến các tôn giáo, mới hấp tấp tra hỏi các triết thuyết. Ai nấy xô nhau đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề căn bản, những băn khoăn rốt ráo.

            TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC

            Trong cơn hoang mang, kẻ tìm đến tôn giáo người cật vấn các triết gia. Có lẽ ít có thời kỳ nào trong lịch sử nước ta người ta viết và đọc triết học nhiều như thời kỳ này, người ta mê triết lý dữ dằn như thời kỳ này. Trên kệ sách, thấy những nhan đề: Đi tìm một căn bản tư tưởng (của Nghiêm Xuân Hồng), Chúng ta đi về đâu (của Đoàn Nhật Tấn) v.v... Nhân vật của Vũ Khắc Khoan có lần đàm đạo với nhau: “Tôi thường nghe mỗi khi thời thế chuyển xoay là có thuyết lạ ra đời. Xưa thì Tô Tần bàn kế Hợp tung, Mạnh Tử luận ‘Dân vi quý’. Gần đây có ngươi Đăng Thục mưu việc duy nhất tư tưởng Đông Tây, Hồ Hữu Tường băn khoăn muốn vượt Mác-xít.”[5] Thời thế đang chuyển xoay mạnh, thuyết lạ nối nhau ra đời là phải cách lắm. Ngươi Đăng Thục già rồi, đã có ngươi Đình Nhu, ngươi Văn Trung, ngươi Kim Định, ngươi Thái Đỉnh v.v..., kẻ đặt thuyết riêng người mang thuyết mới từ Tây phương về xun xoe truyền bá. Rối rít cả lên. Ôi thôi, đi đâu cũng gặp triết gia; lúc nào cũng có cơ hội bàn triết học. Trong một thiên truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ một cô con gái được cô bạn họa sĩ rủ dự bữa tiệc của giới văn nghệ. Cô gái ngơ ngác nhận thấy: “Trong đám họa sĩ trẻ nổi lên những tiếng thì thầm nào là... ấn tượng, màu nóng, màu nguội, thời kỳ lam, thời kỳ hồng v.v... và bọn nhà văn dùng những chữ... thân phận, bản ngã, bản thể, hiện sinh v.v...” (‘Tiếng hát’, trong Chiều mênh mông). Họa sĩ nói màu nóng màu nguội, thời lam thời hồng: được đi. Nhưng văn sĩ nói những gì lạ hoắc vậy? Những cái quen thuộc xưa nay mất đâu cả rồi? về đâu những mây gió, những lá vàng, những buổi chiều vàng, non xanh nước biếc v.v...? Lần khác, Duyên Anh nói về các thi sĩ: “Viết hàng ngàn danh từ triết lý như vô thức, tâm thức, hình nhi thượng, hình nhi hạ, bản thể, bản ngã, thủy triều, cảm mạo, thương hàn, dịch hạch, phi lý... ra từng mẩu giấy nhỏ, bỏ vào cái lọ. Hễ thi hứng dào dạt, mở nút lọ xóc lia lịa. Mỗi mẩu giấy văng ra là một câu thơ. Hoặc năm bảy mẩu giấy văng ra một lượt cũng là một câu thơ.”[6] Câu chuyện xóc lọ chữ thành thơ, hồi tiền chiến cũng có từng nghe nói, nói để chế giễu các nhà thơ hũ nút. Nhưng trong cái lọ tiền chiến không bao giờ có những chữ phi lý, bản thể, hình nhi thượng với hạ. Trái lại, trong cái lọ thời nay dẫu ra sức khơi tìm cũng ít gặp các chữ chàng, nàng, người em sầu mộng, anh giang hồ, anh dãi dầu, anh sương gió v.v..., ít lắm.

            Thụy Vũ với Duyên Anh là những tác giả lớp sau, nhưng tâm trạng băn khoăn không chỉ thuộc lớp sau. Chuyện Duyên Anh nói trong Áo tiểu thư là chuyện đã có ngay từ những ngày ông mới ở Bắc di cư vào, hãy còn tạm trú tại Nhà Hát Tây Sài Gòn cũ. Sự thực từ khi có những người ê chề với chủ thuyết Mác-Lê, những người thất vọng phải rời bỏ kháng chiến, là đã có khổ tâm, băn khoăn. Trong các tác phẩm đầu tiên của những tác giả thuộc lớp trước như Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến..., xuất bản vào những năm đầu tiên của thời kỳ này, có thể gặp nhiều nhân vật nặng trĩu ưu tư như thế. Người trẻ tuổi họ Đỗ trong Thần tháp Rùa là một: “tâm sự ủ ê lộ ra ở đôi mày hơi nhíu, miệng có cười, cũng héo hắt không vui. Tính vốn ít nói, trong chốn giao du lại cố tình giữ trọn cái nghĩa nước nhạt của người nước Lỗ, cho nên lắm khi cả ngày không lên tiếng một câu, hàng tháng biếng bước chân ra khỏi cổng.” (...) “Nhưng trong câu chuyện, nếu có ai đả động đến thời cuộc, so sánh lý thuyết nọ với lý thuyết kia, là lập tức sắm nắm bước vào vùng thảo luận, nói hàng giờ không biết mỏi. Hoặc nêu thuyết nhà Phật mà bác bỏ định đề Cơ-đốc. Hoặc đề cao tư tưởng của văn sĩ Pascal mà đánh đổ lý luận vô thần. Hoặc chủ trương giai cấp đấu tranh mà công kích những mưu mô tư bản. Hoặc lập luận tự do cá nhân để chống với độc tài đoàn thể. Có ai rụt rè nói đến giá trị nội tại của nghệ thuật ắt Đỗ phải lớn tiếng thích nghĩa nhân sinh. Nhưng nếu có người muốn hạ văn chương xuống ngang hàng một ‘đồ thực dụng’ thời Đỗ lại chép miệng thở dài nhắc đến quan niệm nghệ thuật của Kant.”[7]

            Người trẻ tuổi họ Đỗ như thế nếu lọt vào bàn tiệc văn nghệ của Thụy Vũ sợ gì mà chẳng văng ra những “bản ngã”, “bản thể” với “hiện sinh”, và nếu có tập tành thơ phú thì làm gì trong lọ chẳng có những mẩu giấy nhỏ viết “bản thể”, “bản ngã”, “dịch hạch”, “phi lý”?

            Từ đầu đến cuối thời kỳ này, lớp trước lớp sau đại khái như nhau.

            Thường thường trong giới văn nghệ những kẻ được quần chúng biết rộng rãi nhất là các thi sĩ, các tiểu thuyết gia. Nhưng vào thời kỳ này những tác giả viết triết luận lại được đọc nhiều, được tiếp đón ồn ào. Nguyễn Văn Trung, Phạm Công Thiện, Trần Thái Đỉnh, Kim Định v.v... đều nổi tiếng nhanh chóng, được giới trẻ hoan nghênh. Sách triết học thành ra sách “hốt bạc” của các nhà xuất bản, tên tuổi các triết luận gia thành ra “mốt” ăn khách trên thị trường. Theo kinh nghiệm riêng của chúng tôi khi chủ trương nhà Thời Mới thì hai cuốn sách bán được nhanh nhất nhiều nhất là hai cuốn liên quan đến triết học, tức cuốn Triết học hiện sinh của Trần Thái Đỉnh và cuốn Những trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại dịch của André Maurois. Trong các sách do nhà Huệ Minh của Hồ Hữu Tường ấn hành cuốn được yêu chuộng rộng rãi nhất chắc chắn là cuốn Trầm tư của một tên tội tử hình. Tử hình hay không tử hình, thấy “trầm tư” là khoái rồi. Khi Trần Phong bắt đầu ra tạp chí Văn và chủ trương nhà xuất bản Giao Điểm, ông kêu gọi liên tiếp trong nhiều tháng trời người hợp tác dịch các tác phẩm của Jean Paul Sartre và Albert Camus.

            Thơ, truyện, kịch v.v... lúc bấy giờ lắm khi lân la đến gần triết học. Thơ Thanh Tâm Tuyền được nhắc nhở rộng rãi có lẽ một phần cũng là vì những câu tối tăm trong ấy “có vẻ” ngụ một ý nghĩa triết lý, trông “hình như” có thể suy diễn ra một ý nghĩa triết lý, vì đọc “nghe như” hàm ngụ nhiều tư tưởng. Truyện và kịch của Nghiêm Xuân Hồng, Võ Phiến, Vũ Khắc Khoan (những cuốn Phù thế, Ảo ảnh, Thành Cát Tư Hãn, Người viễn khách thứ mười v.v...) có khuynh hướng triết lý. Nguyễn Mạnh Côn thì nói hẳn ra là ông “đi vào lập thuyết” với cuốn Mối tình màu hoa đào.

            Hồi trước cũng có Trần Trọng Kim viết Nho giáo, có Nguyễn Đình Thi, Lê Chí Thiệp viết về triết học Tây phương, về siêu hình học v.v..., và kẻ đọc nhiều hiểu rộng bao giờ cũng được dư luận kính trọng, tuy nhiên chưa lúc nào có cái không khí ham mê triết như trong thời kỳ sau này. Ham mê ồn ào như giới trẻ mê tài tử điện ảnh, mê ca sĩ; như giới mộ điệu tôn sùng các cầu thủ bóng bầu dục, các võ sĩ quyền Anh v.v... Dĩ nhiên số lượng người biết đọc sách ít hơn số người xem hát, xem đấu bóng đánh võ, ít hơn nhiều lắm lắm; nhưng những “phong trào” sách Kim Định, sách Phạm Công Thiện có thể làm chúng ta liên tưởng từ chuyện nọ đến chuyện kia.

            Thật ra, chúng ta không phải là một lớp quái nhân dị hợm. Chẳng qua thế hệ này sinh nhằm một thời hoảng loạn: không riêng ở miền Nam Việt Nam mà hầu như đâu đâu cũng dấy lên một niềm khao khát triết lý, ngoại trừ trong thế giới cộng sản. Nhiều lần trong lịch sử, loài người đã trải qua những cơn khủng hoảng, hoặc chuyển biến sâu xa, và đó cũng là những thời kỳ huy hoàng của triết học. Như thời đại Thích Ca với 62 triết thuyết và 6 đại môn phái của tư tưởng cổ điển Ấn-độ; như thời Chiến quốc ở Trung Hoa, thời của những Lão Tử, Khổng Tử, Bách gia chư tử; lại như thời kỳ chiến tranh Péloponèse ở miền bán đảo Hi-lạp với bao nhiêu là triết gia Platon, Socrate v.v...; như thời kỳ sau Cách mạng Pháp và các cuộc chiến tranh ở Âu châu, với những Kant, Hegel, Marx... Rồi đến thời kỳ này, sau hai cuộc thế chiến, và dưới sự đe dọa của một thảm họa chiến tranh nguyên tử, lại tưng bừng những triết thuyết của Sartre, Camus, Heidegger, Jaspers v.v...

            Xưa kia loài người sống từng vùng cách biệt nhau, chuyện Hi-lạp không ảnh hưởng đến Trung Hoa, tình hình Trung Hoa không ảnh hưởng sang Ấn-độ. Ngày nay, khủng hoảng là khủng hoảng chung: niềm hoang mang của Âu châu cũng là hoang mang của Mỹ châu, Á châu, cơn buồn nôn phi lý ở bên này cũng làm xây xẩm đến bên kia. Ngoại trừ ở sau bức màn sắt, nơi ai nấy vẫn cứ gối đầu lên một niềm tin đơn giản; còn như chúng ta ở Miền Nam, có sự xao xuyến cũng là điều không sao tránh khỏi.

            _________________________

            [1]Các đoạn văn vừa trích là trong tập truyện Nhà có cửa khoá trái của Trần Thị NgH.
            [2]Dương Nghiễm Mậu, “Rượu, chưa đủ”, trong Tuyển truyện Sáng Tạo, Sống Mới tái bản, Hoa Kỳ, trang 36, 41.
            [3]Như trên.
            [4]Tạp chí Văn, Sài Gòn số ra ngày 1-3-70.
            [5]Vũ Khắc Khoan, Thần tháp rùa, Ngàn Lau xuất bản tại Hoa Kỳ, 1983, trang 15, 16.
            [6]Duyên Anh, Áo tiểu thư, Nguyễn Ðình Vượng xuất bản, Sài Gòn 1971, trang 170.
            [7]Vũ Khắc Khoan, Thần tháp rùa, sđd, tr. 15, 16.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.09.2006 15:22:42 bởi silverbullet >
            #21
              vinhsaigon 20.09.2006 08:07:48 (permalink)
              Thankyou,
              Lọat bài này rất hay , tui khg chờ được nên có bài nào là save bài đó liền hihi
              #22
                silverbullet 20.09.2006 10:01:46 (permalink)


                Trích đoạn: vinhsaigon

                Thankyou,
                Lọat bài này rất hay , tui khg chờ được nên có bài nào là save bài đó liền hihi


                You're welcomed !
                Cám ơn ghé qua xem. Vì có người thưởng thức => không uổng công đăng . Enjoy reading bạn Vinhsaigon .

                ( Khoảng thời gian ngắn, "1954 - 1975", tương đương với một số "sát na" trong chiều dài của lịch sử văn học VN. Nhưng đầy những "biến động"... hy vọng tất cả sáng tác, tác phẩm ... của người Việt, tất cả sẽ được lưu truyền và bảo tồn như một tài sản văn hóa của Việt Nam cho chính chúng ta và cho các thế hệ tương lai.)
                #23
                  silverbullet 20.09.2006 10:12:23 (permalink)
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN
                  MẤY NÉT TỔNG QUÁT VỀ NỀN VĂN HỌC 1954-75

                  VĂN HỌC


                  Tính cách cực đoan

                  CHẤN ĐỘNG TÌNH CẢM

                  Ngược xuôi tìm kiếm, xao xác hơn bao giờ hết vì triết học; mà lại thất lạc, hoang mang, ngờ vực hơn bao giờ hết. Sinh hoạt tôn giáo dấy lên tràn lan, sôi động, dữ dội hơn bao giờ hết; mà con người lại thiếu tin tưởng, bơ vơ hơn bao giờ hết. Cái khủng hoảng tinh thần đã thế, đến như các chấn động tình cảm trong thời kỳ này cũng lại thật nặng nề.

                  Trong Đêm nghe tiếng đại bác, có một lúc đang nói về những thanh thiếu niên phải đi lính đánh giặc Nhã Ca chợt kêu lên: “Quyên tuổi trẻ. Tuổi trẻ của máu me. Tuổi trẻ của bom đạn. Tuổi trẻ của tan nát.” Đến đây, bà giật mình, tự hỏi: “Ô hay. Tôi có đang lãng mạn quá không nhỉ.”[1]

                  Có đấy. Nếu lãng mạn là không kiềm chế được tình cảm, là để nó tuôn tràn ra dạt dào trên giấy, thì bà đã lãng mạn quá rồi chứ còn gì nữa. Thế nhưng, sau đó, cuối sách bà lại tuôn ra luôn cả một mạch thế này: “Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Tôi đang nghe. Tôi đang nghe đây. Gửi gì không. Có. Tôi có gửi. Hãy gọi anh Phan về đêm nay cho mẹ tôi thấy. Hãy mang anh Nghĩa về đêm nay cho chị Phương tôi thấy. Hãy mang tất cả về đêm nay cho tôi thấy. Cho ba tôi thấy. Cho em Kim tôi thấy. Cho chị Hạnh thấy. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Gửi gì không. Có. Tôi có gửi. Cho tôi gửi ra những bông hồng. Những khăn tay, những bữa ăn, những gói thuốc lá. Hãy nhắn với họ. Với Đông, với Hoàng, với Mân, với Nghĩa. Với tất cả. Tôi gửi lời thăm. Thăm tất cả. Tiếng đại bác. Tiếng đại bác. Còn gửi gì nữa không. Còn. Tôi còn gửi. Ngủ đi ba. Ngủ đi mẹ. Ngủ đi chị. Ngủ đi em. Ngủ đi tiếng đại bác. Đại bác. Ngủ đi. Ngủ đi. Tôi còn gửi. Để cho tôi gửi. Gửi cả tương lai tổ quốc ta theo đó.”[2]

                  Thôi lần này thì bà “lãng mạn” quá cỡ mất. Nhưng lần này Nhã Ca không kịp thắc mắc về chuyện mình có lãng mạn hay không, bởi vì bà đứng trước một cảnh thương tâm quá đỗi lớn lao, bà bị xúc động quá mạnh: một gia đình đầm ấm tràn ngập yêu thương bỗng đón nhận một lúc hai cái tang, cả con trai lẫn con rể cùng chết trận. Một buổi tối cả nhà đang quây quần tíu tít với nhau thình lình một quân nhân gõ cửa bước vào, lúng túng với cái tin dữ mang theo, thế là sét nổ long trời lở đất xuống giữa bữa ăn của họ: bà mẹ ngã ra bất tỉnh, cô hôn thê chết lặng, rồi lát sau một thiếu phụ nữa lại lăn vào nhà tình nhân chết giấc... Trong hoàn cảnh ấy, tác giả - vốn cũng là đàn bà - biết làm gì khác hơn: bà bất giác la toáng lên inh ỏi.

                  Phản ứng của Nhã Ca cũng là phản ứng của rất nhiều nhà văn khác trong thời kỳ này, cả nam lẫn nữ. Bà làm ta nghĩ đến một người con gái nết na có lúc chợt thiếp mắt, ngáy khe khẽ, giật mình thức giấc, bẻn lẻn, hỏi xung quanh: “Vừa rồi tôi có ngáy không nhỉ?” Một hôm kẻ cướp xông vào nhà, cả gia đình trải qua một phen thất điên bát đảo, tối đến ai nấy lăn quay ra ngủ, ngáy vang như sấm. Cô gái cũng ngáy bằng thích, và không buồn hỏi han ai nữa, hết cả thẹn thùng. Bấy giờ cả Miền Nam ai nấy đều “lãng mạn” cả. Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố dồn dập tuôn trào. Này là Phan Nhật Nam: “Lòng nóng như lửa, trí não nổ như dông, chân tay muốn chặt ném cho chó gặm, người như nướng trên giàn hỏa (...) Tôi không cần biết, chỉ xin nói một điều: Y chết lảng, chết thối, chết vô ích, vô tích sự, chết bẩn và chết ngu... Tôi không thể nén lòng được, tôi muốn thằng này phải chết năm lần, bảy lượt, chết tan xác, chết nhục nhã, chết ghê tởm (...) Gã trẻ tuổi ngu ngốc, đần độn không được quyền chết trên quê hương bi tráng này. Tao nguyền rủa mày trong suốt ngày dài điêu linh tàn khốc của đời sống Việt Nam.”[3] Vẫn Phan Nhật Nam: “Trong cơn say, nỗi buồn chín đỏ nằm riêng một góc linh hồn không tan biến.”[4] (...) “Một khoảng đời đã đổi, tôi thành kẻ lạ rồi... Một tên hung bạo, trí não căm hờn và thù hận. Tôi chết một phần người trong tôi.”[5]

                  Không phải chỉ có cái chết mới dữ dội. Hạnh phúc lúc bấy giờ cũng trở nên ác liệt: “Tôi gặp cả vùng chân trời nằm gọn trong mắt chàng.”[6] “Và cứ thế chúng tôi chơi với nhau. Cho nhau những ngày tháng thênh thang hạnh phúc, đổ đầy đời nhau những tư tưởng nước chóng bốc hơi thành mây bay trên trời (...) Chúng tôi mở cho nhau những thế giới và chân trời mơ ước...”[7] Du Li viết như thế trong truyện Một tâm hồn sa mạc.
                  “Tâm hồn sa mạc”, “tâm hồn sỏi đá”, con người thì ví với “loài dã thú”, “loài rong rêu”, “loài cỏ hoang”, có khi với “loài rau hoang dại” (Nguyễn Thị Thụy Vũ, Bách Khoa, số ra ngày 13-7-74), con người thường ôm “nỗi chết không rời”, “dựa lưng nỗi chết” v.v... Sáo ngữ của thời đại nghe thảm não, khốc liệt. Câu văn của thời đại nhiều khi nghe dồn dập, hổn hển, chát chúa, như tiếng rít lên, tiếng la hét, tiếng gào, tiếng chửi rủa. Cái vui, cái buồn, cái đau đớn, cái khoái trá, cái gì cũng được đưa tới chỗ cực đoan.

                  Cách nói năng của thời này không giống chút nào với cách nói mực thước, khoan hòa trong văn chương cổ điển; thái độ người thời này không giống thái độ truyền thống:

                  “Nao nao dòng nước uốn quanh,
                  Nhịp cầu nho nhỏ cuối gành bắt ngang
                  Sè sè nấm đất bên đường
                  Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.”


                  Mồ hoang trong buổi chiều tà cũng không hẳn là cảnh buồn. Không có gì chịu buồn thực sự buồn, buồn đến nơi đến chốn. Cái gì cũng dìu dịu, thoang thoảng: sè sè, rầu rầu, nửa này nửa nọ... Những tiếng tĩnh từ kép làm cho nhẹ bớt ý nghĩa, nhẹ bớt cảm giác. Mà tĩnh từ kép lại là cái sở trường của ngôn ngữ dân tộc.

                  Từ xưa đã thế, mãi cho tới gần đây ta vẫn thế. Vẫn chuyên trị về cái dìu dịu, êm êm, mơ mơ màng màng:

                  “Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ
                  Tìm thử chân mây khói tỏa mờ”...

                  (Thanh Tịnh)

                  “Trước sân anh thơ thẩn
                  Đăm đăm trông nhạn về
                  Mây chiều còn phiêu bạt
                  Lang thang trên đồi quê”...

                  (Hàn Mặc Tử)

                  Thơ thẩn, lang thang, mây khói, rèm tơ, cuốn nhẹ, tỏa mờ v.v... Thơ như vậy, văn cũng vậy: Thế rồi một buổi chiều là một kiểu nhan đề, Nắng thu, Bướm trắng, Gió đầu mùa, Nắng mới, Hồn bướm mơ tiên v.v..., những nhan đề nữa. Làm sao dưới những nhan đề lành như thế mà lại có được chuyện hung dữ! Không có đâu. Dưới mái chùa nọ quả có xảy ra câu chuyện ngang trái đau lòng chẳng hạn, nhưng cái đau lòng ấy không hề làm cho người ta điên cuồng lồng lộn lên, chỉ thấy một nỗi buồn... man mác! “Lan liếc mắt ngắm phong cảnh quanh mình, lòng hoài nghi man mác đến cả cỏ, cây, mây, nước. Cúi nhìn dòng nước bạc lấp lánh dưới chân đồi quanh co uốn khúc, rì rì lướt giữa dọc cát vàng; trong cảnh êm đềm ấy, biết đâu không ẩn núp những loài rắn độc hại người.” Cuối Hồn bướm mơ tiên là:

                  “Gió chiều hiu hiu...
                  Lá rụng!”


                  Và rồi cuối thời kỳ thơ mộng êm đềm ấy còn lại một người, một nhà văn nghiêm chỉnh, đàng hoàng, tao nhã. Nhà văn ấy - Nhất Linh - thong thả giảng giải về cách viết văn, cách viết thật sáng sủa, thật giản dị, thật tỉ mỉ chi tiết và hơi vui vẻ một chút. Lắm người chịu là đúng đắn hay ho rất mực, nhưng không mấy ai nghe theo. Ai nấy mãi lo văng tục, gào thét, mãi hục hặc với những cái hoặc cộc lốc, cụt lủn: Yêu, Loạn, Tiền, Con sâu..., hoặc ghê rợn: Mùa hè đỏ lửa, Giải khăn sô cho Huế, Đêm nghe tiếng đại bác v.v...

                  Từ thời Nhất Linh sang thời này, sự thể đổi khác hẳn. Thời sau này là thời của những xúc cảm mạnh. Thời của những cực đoan, của cái quá lố. Lấy con mắt bình thản của người tiền chiến mà nhìn thái độ lớp sau có thể thấy nó như lố lăng, như lập dị. Trong cái tâm trạng cuồng nộ của thời này mà đọc lại nghệ phẩm tiền chiến, thấy nó “trà dư tửu hậu” thế nào.

                  Trở lại câu Nhất Linh nói với Nguyễn Vỹ: “Thế hệ trẻ ngày nay, họ không hiểu được tụi mình.” Quả có vậy. Già dễ dãi bình dân như Nguyễn Vỹ hay già tinh tế trí thức như Nhất Linh, họ đều có chỗ giống nhau và họ đều khác hẳn lớp trẻ. Khác như những tờ tạp chí Phổ Thông, Văn Hóa Ngày Nay đặt bên cạnh những tờ Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Thái Độ, Sáng Tạo, Hiện Đại v.v... Một bên ung dung giản dị, cười cợt, hoặc tủm tỉm hoặc hô hố tuệch toạc: Vậy đó là già. Một bên nhăn nhíu suy tư, kêu gào, quằn quại: thế lại là trẻ. Thời cuộc làm ra thế, khủng hoảng tin tưởng khiến nên thế, những chấn động tình cảm quá mạnh gây ra thế.
                  _________________________

                  [1]Nhã Ca, Ðêm nghe tiếng đại bác, Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ, trang 69.
                  [2]Như trên.
                  [3]Phan Nhật Nam, Dấu binh lửa, Tinh hoa miền Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 351, 352.
                  [4]Sđd, tr. 119
                  [5]Sđd, tr. 122.
                  [6]Tạp chí Bách Khoa số ra ngày 5-9-74.
                  [7]Như trên.


                  ************************
                  Đã đăng:
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [1. Lời nói đầu]
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [2. Khái quát]
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [3. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Nhà văn]
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [4. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Độc giả]
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [5. Các yếu tố của sinh hoạt văn học: Xuất bản]
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [6. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Bối cảnh]
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [7. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & chính trị]
                  VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN [8. Mấy nét tổng quát về nền văn học 1954-1975: Văn học & tôn giáo / triết học]

                  *********************
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.09.2006 10:14:08 bởi silverbullet >
                  #24
                    silverbullet 21.09.2006 07:00:33 (permalink)
                    VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN
                    MẤY NÉT TỔNG QUÁT VỀ NỀN VĂN HỌC 1954-75

                    VĂN HỌC


                    Vai trò của miền Nam

                    Gác những đảo điên với tao loạn, khủng hoảng với chấn động sang một bên, thời kỳ 1954-75 vẫn có cái đặc biệt của nó: vai trò của miền Nam trong văn chương.

                    Trước kia Đông Hồ ở mãi tận đất Hà Tiên xa xôi mà ông viết văn theo giọng Bắc; sau này khi người Bắc đã vào tràn khắp các nẻo đường Sài Gòn thì Lê Xuyên ngồi tại đô thành lại viết rặt giọng Nam.

                    Cái đó không phải một sự tình cờ bị nhặt lên bất thần. Lê Xuyên không phải là trường hợp duy nhất, không phải là kẻ đầu tiên hay kẻ cuối cùng. Trước ông và sau ông, các văn thi sĩ gốc miền Nam khác đều làm thế, trong thời kỳ này. Bình Nguyên Lộc đã viết giọng Nam tuy có pha cốt cách Bắc. Đến Sơn Nam cái hơi Nam rõ rệt hơn. Rồi đến Lê Xuyên nó càng đi xa thêm nữa. Trong các cây bút khảo luận, Thu Giang hãy còn dè dặt, đến Vương Hồng Sển thôi thì rặt Nam tính.

                    Như thế chiều hướng ấy nó tự xác nhận liên tục và mỗi lúc mỗi thêm mạnh mẽ. Cá tính miền Nam hiển hiện rõ trong nền văn học chúng ta thời kỳ 1954-75, hiển hiện có ý thức. Thực vậy, Đông Hồ đã viết được giọng Bắc thì những Sơn Nam, Lê Xuyên lớn lên trong thời thịnh mãn của văn học tiền chiến, thấm nhuần thơ văn Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính v.v... không vì lẽ gì lại không còn viết được giọng Bắc nữa. Cho nên sự hồi đầu của họ về Nam là một chủ tâm.
                    Nhưng trước khi định nghĩa cá tính miền Nam thì câu chuyện về sự hồi đầu ấy nghe có vẻ mơ hồ. Cái gọi là giọng Nam giọng Bắc, là cốt cách Nam Bắc v.v... ấy có gì cụ thể chăng?

                    Có lần bàn đến những đề tài về cá tính miền Nam, Sơn Nam “khẳng định” (chữ của Sơn Nam): “Không có ‘người Việt miền Nam’ mà chỉ có người Việt Nam.” (Người Việt có dân tộc tính không, An Tiêm xuất bản, 1969). Khẳng định như thế nghe có giọng đoàn kết, thống nhất, sát cánh lắm. Nói khác đi, e có vẻ kỳ thị địa phương chăng? Dù sao, tôi nghĩ: thì vẫn là người Việt Nam cả, nhưng người Việt Nam từ Sài Gòn xuống Cà Mau so với người Việt Nam ở Hà Nội, ở Huế, ở Bình Định có những nét đặc biệt, ngộ lắm. Sự nghiệp văn chương của Sơn Nam chính được gầy dựng nên do cái ngộ ấy. Bởi ông là người Nam, ông không để ý đó thôi. Ông đã phát huy cá tính miền Nam một cách tài tình mà không hay. Tài tình mà vô tình.
                    Cá tính văn học miền Nam là điều không thể phủ nhận, và nó rất hấp dẫn. Sự phát huy bản sắc miền Nam là một đóng góp thật quan trọng vào nền văn học Việt Nam. Đâu có phải chuyện gì xấu xa đâu mà vội khỏa lấp!

                    Về sắc thái đặc biệt, điều nhận thấy trước nhất là những từ ngữ địa phương, những cách nói riêng của địa phương. Từ ngữ riêng của miền Nam thật nhiều, càng ngày càng lộ ra nhiều. Trước 1954, dĩ nhiên nó vẫn phong phú, nhưng nó không hay xuất hiện trên sách báo, thậm chí trong tự điển là nơi lẽ ra phải tập trung đầy đủ tiếng nói của dân tộc cũng không có được bao nhiêu tiếng địa phương miền Nam. Lúc bấy giờ địa vị của tiếng nói miền Nam hãy còn khiêm tốn, ngay những học giả người miền Nam vẫn còn ngần ngại chưa muốn đưa những cà tăng, cà ràng, chiếc nóp, lục cụ, ghe ngo, tắc ráng, với những chuyện len trâu, xà nẹo, ăn ong v.v... vào sách. Sau này, mỗi lúc các ông Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên mỗi trình ra, tuôn ra vô số; chừng ấy mới biết là chúng ta còn có cả một kho vô tận chữ nghĩa mấy trăm năm qua chưa xài đến! Chuyện đó thì “mắc mớ” gì tới tui? Tui thì “kể số” gì? Tui có ăn nhậu gì “trỏng” đâu “nà”? Ôi nghe lạ mà vui biết bao nhiêu.

                    Vả lại dù khi không xài một tiếng mới mẻ nào, cách nói của người dân quê trong Nam nghe cũng khác lạ, ngộ nghĩnh. Ngộ nghĩnh như kiểu thằng Nhi nói với ba má nó về con trâu vừa mới chết. “Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi ngày, mang trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống đất:
                    - Đ.m. chết hết một con. Đem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Đ.m. không lẽ bỏ luôn.”[1]

                    Nhân vật có lối nói của nhân vật, các tác giả có lối viết của các tác giả. Lối viết của các tác giả trong Nam sau này là lối viết độc đáo, nó làm trẻ lại ngôn ngữ văn chương của dân tộc. Thật vậy, ở Trung và Bắc Việt Nam, trải qua nhiều thế hệ văn gia, câu văn dần dần được trau luyện đẹp đẽ. Trau luyện kỹ quá. Hoặc nó trong sáng giản dị như của Khái Hưng, Nhất Linh, hoặc nó cầu kỳ điệu bộ như của Nguyễn Tuân, hoặc nó phóng khoáng huê dạng như của Hoàng Hải Thủy, Vũ Bằng v.v..., nó vẫn mang cái dấu chung, là được đắn đo trau chuốt.

                    Tôi không có ý bảo rằng các nhà văn trong Nam viết cẩu thả. Không ai có thể bảo người ở vùng nào viết nhanh vùng nào viết chậm, ở nơi nào viết kỹ lưỡng nơi nào lại viết sơ sài v.v..., những chuyện nhảm nhí như thế nhất định không thể được đặt ra bao giờ. Điều chúng ta đang nói đây là cái cảm tưởng khi đọc văn chứ không phải cung cách khi viết văn. Đọc những nhà văn trong Nam như Lê Xuyên, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, như Vương Hồng Sển v.v..., chúng ta có cảm tưởng văn ấy tự nhiên, thân mật mà nhanh nhẹn thoăn thoắt, mà dễ dàng lưu loát quá cỡ. Như thể không xếp đặt gì, cứ tuồng tuột ngon ơ, văn ấy cứ tuôn ra không vấp váp khục khặc bao giờ cả, nó trôi chảy, tài tình quá xá. Ngày nay, trên các báo chí hải ngoại một số nhà văn miền Nam trong đó có Hồ Trường An cũng cho ta cái cảm tưởng ấy. Trong hoàn cảnh lưu vong sầu thảm, ai nấy rầu rĩ, thì văn ông vẫn cứ tươi mơn mởn, vẫn cứ nuột nà.

                    Người miền Trung vào làm ăn trong Nam thoạt nghe bà con trong Nam nói chuyện với nhau vẫn có cảm tưởng ấy: ôi chao, trong này người ta nói sao mà cứ trơn lu, cứ như dầu rót roong roỏng vô chai, như xoa con toán liền tay không dứt, như xua những viên bi tròn chạy rong róc trên một mặt mâm! Lối nói như thế khiến liên tưởng đến câu ca vọng cổ dài dằng dặc mà thoăn thoắt mà ngọt lịm.

                    Người miền Nam không phải chỉ tự nhiên thân mật ở câu văn lời nói, mà còn ở cách bố trí câu chuyện, cách dàn bày vấn đề. Đọc những thiên khảo luận của Bình Nguyên Lộc về nguồn gốc dân tộc, của Sơn Nam về cá tính miền Nam, văn minh miệt vườn, của Vương Hồng Sển về các thú ăn chơi, đọc truyện Phi Lạc của Hồ Hữu Tường v.v..., tưởng như gặp những người thật vui tính, những người xuề xòa, cởi mở, đàm đạo phóng khoáng tự do, lắm lúc có phần lộn xộn, không xếp đặt, không câu nệ.

                    Trên đây nói về cá tính miền Nam có nói đến tiếng “hấp dẫn”. Thực vậy, tôi đã có dịp mừng rỡ thấy rằng cái hấp dẫn ấy không phải là cảm tưởng chủ quan của riêng mình. Cách đây năm năm (tháng 11-1980) một nhà văn tên tuổi từ ngày lưu vong chọn sống ở Texas có thư kể cho tôi một thú vui bất ngờ: Một hôm ông thấy ở chợ có bán mấy bộ sách Tàu dịch lại, mua về đọc chơi. Tình cờ gặp bộ Tây du do Tô Chẩn dịch theo giọng văn trong Nam. “Lý thú không biết nói sao cho anh thấy rõ được (...) có dịp nào rảnh anh thử lấy cuốn Tây du bản dịch Tô Chẩn mà đằm mình trong cái tiếng Việt của nông thôn miền Nam, thích lắm.”

                    Tất nhiên, tôi hoàn toàn đồng ý: Thích lắm. Lý thú không nói sao cho xiết.

                    Thời Tô Chẩn dịch truyện Tàu, và trước nữa, trong thời nông dân miền Nam nói truyện nói vè, nói thơ Sáu Trọng, thơ Sáu Nhỏ, thơ Thầy Thông Chánh, kiểu “nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra”, thời của văn chương truyền khẩu, tiếng Việt miền Nam lý thú như thế. Sau đó, khi sách báo miền Bắc từ thủ đô văn nghệ tiền chiến là Hà Nội tràn vào, ảnh hưởng của nền văn nghệ rực rỡ ấy át hẳn cá tính của miền Nam.

                    Hồ Trường An nhớ lại hồi nhỏ cùng với chị (là Nguyễn Thị Thụy Vũ) đọc Hồ Biểu Chánh và Tây du do Tô Chẩn dịch, cũng mê mệt (như Mặc Đỗ). Lúc hai chị em lớn tuổi hơn chỉ gặp Phi Vân, Trúc Giang viết tiểu thuyết bằng giọng Nam. “Thuở đó, quá ít nhà văn gốc miền Nam chịu viết văn Nam.” Nhưng rồi sau 1954, tình hình lại đổi khác. “Khi vào trung học, chúng tôi xa dần văn chương miền Nam viết theo văn Nam. Mãi đến khi Đò dọc của Bình Nguyên Lộc được xuất bản, tôi mới có dịp trở lại tiếng miền phù sa sông Cửu. Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vân Trang, Hồ Hữu Tường đã làm sống lại ở tôi cái ngôn ngữ hồn nhiên, bộc trực, giàu thổ âm kia. Nhưng đến Lê Xuyên thì ngôn ngữ miền Nam được diễn tả quá sung mãn qua Vợ thầy Hương, Chú Tư Cầu, Kinh Cầu Muống, Xinh.”[2]

                    Sau tiếng nói địa phương và cách nói địa phương, thử chú ý đến đề tài. Đề tài sáng tác cũng như đề tài biên khảo trong thời kỳ này cũng hướng về miền Nam nhiều hơn rõ rệt.

                    Có thể nói tất cả sáng tác của Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh, Sơn Nam, Vũ Bình, Nguyễn Thị Thụy Vũ đều chú trọng vào nếp sống, vào xã hội, phong tục miền Nam. Và đó là cả một lãnh vực tân kỳ phong phú. Chúng ta có miền Nam từ ba trăm năm, nhưng người Việt miền Bắc miền Trung mấy ai biết về đời sống trong Nam trước Rừng mắm’của Bình Nguyên Lộc, Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam? Những sáng tác như thế mở ra trước con mắt của đồng bào khắp nước một thế giới vừa thân yêu vừa mới lạ biết chừng nào.

                    Biên khảo cũng vậy. Nguyễn Văn Hầu, Vương Hồng Sển, Đông Hồ... viết về lịch sử, đất đai, phong tục, văn học, nhân vật miền Nam. Họ viết và lôi cuốn cả những tác giả miền Bắc miền Trung cùng viết theo, như Phạm Việt Tuyền về văn học Đàng Trong, như Nguyễn Văn Xuân về lưu dân vào Nam, Vũ Bằng về những món ăn miền Nam v.v...

                    Thế rồi, hãy để ý thêm một điều nữa: Nhiều tác giả từ Bắc vào thoạt tiên viết về những điều xảy ra ngoài Bắc về những nhân vật Bắc, nhưng dần dần trải qua thời gian khung cảnh Bắc mờ nhạt dần, và người và cảnh miền Nam - nhất là Sài Gòn - tràn lần vào tác phẩm họ. Thoạt đầu các trẻ mồ côi của Nhật Tiến sống trong những cô nhi viện ngoài Hà Nội, về sau các trẻ mù của Lê Tất Điều ở trại mù Sài Gòn; cứ thế miền Nam len vào tiểu thuyết của Văn Quang, Thanh Nam, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Tâm Tuyền, dàn ra khắp cùng.

                    Đã viết về miền Nam, các tác giả Bắc và Trung lần hồi lại còn viết được giọng Nam: “Tôi có quen rất nhiều học trò của Thanh Tâm Tuyền, xuất thân ở các trường trung học tỉnh Bình Dương, trong đó có Võ Kỳ Điền, bạn tôi. Họ đều bảo ông Tuyền rất khoái lối văn diễn tả bằng giọng điệu miền Nam. Điều đó, tôi không lấy làm lạ là ở hai truyện ngắn ‘Tư’ và ‘Dọc đường’, ông viết bằng lối văn miền Nam rất tới. Nhưng khi tôi đọc truyện ngắn ‘Thăm chị buổi chiều’ của Võ Phiến hoặc cuốn truyện dài Mã lộ của Viên Linh, tôi kinh ngạc đến rụng rời. Trời ơi, cả hai viết đối thoại miền Nam khác nào những người đã từng sinh đẻ ở xóm lao động miền Nam, biết nhậu rượu đế với trứng ung, biết ca vọng cổ, đã tiếp xúc với nông dân, thợ thuyền, đã đàm đạo với các ông già ống vố bà già trầu...”[3]

                    Có một thời người Nam viết giọng Bắc, lại đến một thời khác người Bắc viết giọng Nam. Phải chịu là ngộ chứ.

                    Một nhà thơ thuộc dân tộc thiểu số Avar bên Nga có lối ví von ngộ nghĩnh: văn học như một cây đàn, mỗi nhà văn như thể một sợi dây đem đến cho đàn một cung bậc riêng. Gớm, đàn nào mà nhiều dây lắm thế. Dù sao ta có thể liên tưởng đến cây đàn pandur hai dây ở miền núi của ông. Nhớ lại ở ta hồi tiền chiến khung cảnh cùng giọng văn trong hầu hết các tác phẩm nổi tiếng là cảnh Bắc giọng Bắc, rồi nhận ra sắc thái miền Nam trong nền văn học 1954-75 chúng ta nghĩ tới sợi dây thứ hai vừa mới căng trên cây đàn nọ. Phải thú thực là tôi yêu cái cung điệu của sợi dây thứ hai ấy quá thể. Nói theo giọng trong Nam: tôi khoái nó, khoái chí tử.

                    Tại sao có sự “đứng lên” của miền Nam trong văn học 1954-75?
                    Trước hết nó là chuyện dĩ nhiên: Ở đây chúng ta chọn nói riêng về nền văn học từ 17 độ vĩ tuyến trở vào, nền văn học của miền Nam. Trong văn giới số tác giả gốc Nam mỗi lúc mỗi đông, độc giả cũng là độc giả Nam, khung cảnh sáng tác, địa bàn hoạt động, bối cảnh xã hội là miền Nam, chiều hướng Nam hóa của văn học là thuận lẽ.

                    Ngoài ra, có lẽ cũng nên nghĩ đến một yếu tố khác: sự kích thích của di dân từ Bắc vào. Nếu không có cuộc di cư sau hiệp định Genève nhất định là số tác giả Nam cũng sẽ phát triển, đặc thái miền Nam cũng sẽ dần dần được phát huy; tuy nhiên có cuộc di cư ấy thì cái đà phát triển phát huy chắc chắn có nhanh hơn.

                    Để tự nhiên, người miền Nam nhìn đất miền Nam, nhìn cuộc sống miền Nam, có lẽ chỉ thấy nó vậy vậy thôi. Nhưng từ Trung từ Bắc vào nhìn thấy lạ ngay. Món ăn trong Nam trước giờ không ai thấy lạ, Vũ Bằng vào viết ngay một cuốn Món lạ miền Nam. Dưa hấu trong Nam xưa nay vẫn nhiều không ai để ý, Nguyễn Bính vào la lên: “Dưa hấu chất cao ngang nóc chợ!” Dường như hồi xưa Xuân Diệu cũng có lần trầm trồ về cái giọng nói của người miền Nam. Và Hồ Dzếnh nữa, trầm trồ về cách nói miền Nam...

                    Sau này Nguyễn Hoạt viết Trăng nước Đồng Nai, Chu Tử viết cuốn Yêu, cuốn Loạn, Triều Đẩu viết Trên vỉa hè Sài Gòn v.v..., mỗi người mỗi cách, mỗi người chú ý đến một phương diện khác nhau, ai nấy đều có chỗ đề cập đến những nét độc đáo của người và đất Nam phần. Như thế sao khỏi kích thích những tác giả người Nam. Nhất là những tác giả như Bình Nguyên Lộc, như Sơn Nam, vốn tha thiết với quê hương mình rất mực. Một vị “chuyên trị” miền Đông một vị “chuyên trị” miền Tây, một vị chiếm lĩnh Tiền giang một vị Hậu giang, họ đi sâu vào cuộc sống, vào lịch sử địa phương, phát huy cái hay cái lạ, làm cho miền Nam càng ngày càng bày ra những quyến rũ không ngờ. Những Đò dọc, ‘Rừng mắm’, ‘Ba con cáo’, Hương rừng Cà Mau, Thổ ngơi Đồng Nai, Tìm hiểu đất Hậu Giang v.v... của họ đã hay, sở dĩ càng hay là vì sự thưởng thức đầy cảm tình khích lệ của đồng nghiệp Trung và Bắc.

                    “Cà phê nóng lên hơi nghi ngút
                    Lò than hồng lách tách nổ ran,
                    Nghe người kể chuyện xóm làng,
                    Cõi lòng ấm dịu, bàng hoàng, bâng khuâng.”


                    “Chuyện xóm làng” ông lão kể với một kẻ “đồng tâm” đã thú:
                    “Bàn bên cạnh, một ông bới tóc,
                    Liếc sang nhìn đang khóc trộm thầm,
                    Đoán mình là kẻ đồng tâm,
                    Lân la nói chuyện. Mưa dầm cứ rơi.”

                    (Bình Nguyên Lộc - Khai từ Thơ Ba Mén)

                    “Chuyện xóm làng” mà mình có dịp đem kể lại trước một cử tọa đông đảo khách phương xa cũng có cái hay riêng của nó: những cặp mắt ngạc nhiên, thán phục, sự đón chờ tò mò, khao khát, những tràng pháo tay tán thưởng rào rào... Phải thêm hồ hởi chứ.
                    ________________________

                    [1] Sơn Nam, "Mùa len trâu", Hương rừng Cà Mau.
                    [2] Hồ Trường An, "Trên dãi tân bồi", tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, Hoa Kỳ, số 7, tháng 11-85.
                    [3] Như trên.
                    [3]Như trên.
                    #25
                      silverbullet 21.09.2006 21:09:12 (permalink)
                      VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

                      MẤY NÉT TỔNG QUÁT VỀ NỀN VĂN HỌC 1954-75
                      VĂN HỌC



                      Tính cách tự do

                      Vừa rồi, trong khi nói về tâm trạng của thời kỳ 1954-75, rất nhiều lần chúng tôi nhắc đến thời tiền chiến, đối chiếu với tâm trạng tiền chiến. Thực ra cái thái độ tinh thần phản ánh trong nền văn học Miền Nam thời 54-75 không phải chỉ khác với thái độ thời tiền chiến hay thời kháng chiến 45-54. Nghĩa là không phải chỉ có sự khác nhau giữa lớp trước lớp sau, sự khác nhau qua thời gian. Cùng một thời với nhau, Nam Bắc cũng khác nhau nhiều lắm. Cái khác Nam Bắc nói đây không phải là cái khác do địa phương mà là do chế độ chính trị, xã hội gây nên. Dưới chế độ Miền Bắc, mặc dù trải qua bao nhiêu tai ương thảm khốc trong mấy chục năm trời, cũng không làm gì có chuyện băn khoăn dao động tinh thần, có suy tìm triết lý, tôn giáo, không làm gì có những tiếng kêu bi lụy thống thiết. Ít ra không thể có những bộc lộ trong văn chương theo chiều hướng ấy. Trong tác phẩm văn chương Miền Bắc chỉ có những con người lúc nào cũng tin chết vào đảng, vào chủ nghĩa Mác Lê, vào lãnh tụ v.v..., những con người đơn sơ, chắc nịch.

                      Ngoài hai điểm trên, Miền Nam và Miền Bắc còn có một chỗ khác nhau sâu xa nữa. Là ở Miền Nam hiển nhiên có thái độ tự do, cởi mở, khoáng đạt hơn ngoài Bắc nhiều.

                      Đọc truyện của Miền Bắc thấy toàn những nhân vật lúc nào cũng nhảy choi choi lên đòi đánh thằng Mỹ, đòi hi sinh, đòi phục vụ, đòi giúp đỡ bà con xóm giềng v.v..., nam phụ lão ấu người nào người ấy đều tốt cả, như mới được túm cổ từ trong sách luân lý giáo khoa, trong tài liệu học tập của nhà nước lôi ra, hễ cấp nhỏ thì tốt vừa, cấp lớn thì tốt hơn, cấp càng lớn càng tốt, và đồng chí bí thư thì bao giờ cũng là kẻ tốt nhất, kẻ toàn thiện: vừa tử tế, vừa khôn ngoan, vừa hết lòng vừa can đảm, đủ mọi bề. Sự tình như thế làm cho cả nhân vật lẫn tác giả đều có vẻ gì ngô nghê. Và độc giả ở bên ngoài chế độ, độc giả Miền Nam chẳng hạn, đọc những tác phẩm như thế họ có cảm tưởng đọc những loại truyện kể cho nhi đồng với mục đích giáo dục. Rồi đến khi tiếp xúc với bộ đội, với cán bộ cộng sản, với đảng viên cộng sản từ Bắc vào, mục kích những nhác nhớn, gian lận, tham nhũng trong cơ quan, trộm cắp trong xí nghiệp v.v..., họ hoang mang. Cộng sản nào trong sách? Cộng sản nào ở ngoài đời, quanh đây? Ủa, sao mà nhiều thứ cộng sản vậy? Cộng sản nhan nhản ngoài đời hồi gần đây, thứ cộng sản này thì sờ mó được, thì sống động, thực; còn loại cộng sản nói trong sách đã có bao giờ nhập thế hiện xuống một nơi nào ở trần gian chưa? Nơi nào? Trung Quốc chăng? Nga xô chăng? Ở đâu cũng đầy tham nhũng, lười lĩnh, gian lận, vô trách nhiệm, năng suất xuống thấp hết cỡ... Cái cộng sản trong sách là “hiện thực”, hiện thực khoa học, hiện thực xã hội chủ nghĩa; vậy thì thứ cộng sản ngoài đời, sờ sờ trước mắt, thứ cộng sản sờ mó được ở khắp Miền Nam sau 1975 đây là giả tưởng? là siêu thực? Ôi ly kỳ.

                      Nhất định là ở Miền Bắc không thiếu những tác giả có tài, có thể tạo nên nhân vật sống động, nhưng họ đâu có phép làm như vậy? Nhân vật sống động thì phải giống thực tại, mà giống thực tại thì xa chủ trương lãnh đạo rồi, nguy hiểm cho họ biết bao. Họ đành... hiện thực xã hội chủ nghĩa vậy.

                      Để kết thúc cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh kể một câu chuyện: Cuốn Đồi thông hai mộ là một cuốn truyện hết sức tầm thường, theo ông nếu cuốn ấy xuất bản trong Nam thì có lẽ không ai thèm đọc. Thế nhưng ở Miền Bắc người ta giấu giếm chuyền cho nhau xem; không những thế có người còn thức luôn mấy đêm chép tay để đọc và đưa cho các bạn bè tin cẩn đọc, cứ thế một ngày một lan rộng. Vì sao mà người Miền Bắc lại khác thường, lại ham sách dở đến thế? Nhất Linh nghĩ: “Vì họ đã chán ngấy những tiểu thuyết hết ca tụng cái nọ đến ca tụng cái kia, đều đều một giọng.”[1] Cuốn Viếtvà đọc tiểu thuyết đã được đăng dần trên tạp chí Văn Hóa Ngày Nay từ trước năm 1960. Mười lăm năm sau, điều tác giả nói về độc giả Miền Bắc lại diễn ra ngay dưới mắt đồng bào ta ở trong Nam: sau 1975, cán bộ, bộ đội, đồng bào từ Bắc vào Sài Gòn lại tìm đọc vồ vập các loại thơ văn, tìm nghe say mê các loại ca nhạc ra đời trong Nam trước 1975, đọc xong nghe xong lén lút mang ra Bắc chuyền cho nhau thưởng thức, báo hại nhà nước kêu lên inh ỏi là có CIA đánh phá lung tung trên mặt trận văn hóa, phải huy động lực lượng phản công đi, phản công lại nhiều đợt mà không dứt điểm nổi. Văn thơ ấy ca nhạc ấy lén lút mang từ Miền Nam về, thứ hay có mà tất nhiên thứ dở cũng nhiều. Thì ra Miền Bắc vẫn cứ còn kỳ cục. Sau ba mươi năm được lãnh đạo một cách khoa học, sáng suốt, sau ba mươi năm thấm nhuần chủ nghĩa tiến bộ nhất, họ vẫn cứ còn giữ cái ham mê kỳ cục nọ. Bảo rằng đây chỉ là vấn đề tò mò: thấy của lạ thì ham, người Bắc muốn tìm biết những món trong Nam, cũng như người Nam muốn...

                      - Ðâu có! Chuyện ngược lại không hề xảy ra. Văn phẩm ngoài Bắc đem vào phổ biến đầy dẫy ở Sài Gòn, đâu có xảy ra cảnh tranh đọc vồ vập? Đành phải kết luận như Nhất Linh bằng cái lý do chán ngấy “chủ nghĩa” văn nghệ ca tụng vậy.

                      Ngoan ngoãn hè hụi viết mãi những tác phẩm như thế năm này qua năm khác, riết rồi cũng đến một lúc các tác giả Miền Bắc đánh bạo lên tiếng xin đổi kiểu. Và dĩ nhiên họ bị mắng mỏ ngay. Lời qua tiếng lại giữa những Hoàng Ngọc Hiển, Tô Hoài, Kiều Vân, Hà Xuân Trường v.v... trên các tạp chí văn nghệ và chính trị ở Hà Nội trong mấy năm 1979, 1980, 1981... rốt cuộc rồi chẳng đi tới đâu. Một bên muốn “miêu tả sự vật như nó vốn tồn tại và đang tồn tại”, một bên nhất định bắt “miêu tả sự vật như nó phải tồn tại”, nhất định bắt duy trì thứ chủ nghĩa “hiện thực phải đạo”, duy trì nền “văn nghệ phải đạo”: “Sự lấn át của bình diện cái phải tồn tại đối với bình diện cái đang tồn tại trong sự phản ánh nghệ thuật là một đặc trưng của cái cao cả (le sublime) như là một phạm trù mỹ học.” Gớm, trịnh trọng quá. Sự thực đi vào thế giới những nghệ phẩm như thế, ở đâu cũng thấy lổn nhổn toàn những cái “cao cả”, cái lớn cái bé cái lỡ cỡ, cái gì cũng toàn “cao cả” do đám thợ hót sản xuất bừa bãi rụp rụp như thế, cảm tưởng cuối cùng không phải là một cảm tưởng cao cả, mà là một cảm tưởng trước cảnh... lố lăng (le grotesque), cũng một phạm trù mỹ học nữa!

                      Nhưng nói mỹ học làm gì cho to chuyện, trịnh trọng, đao to búa lớn; tham luận, trao đổi, phê bình, góp ý làm gì cho mất công, cho hao tâm tổn trí. Vấn đề vốn giản dị: Một mặt quần chúng chán nghe ca tụng, nghệ sĩ chán ca tụng; nhưng mặt khác giới lãnh đạo giới cầm quyền không chán được ca tụng thì ca tụng chủ nghĩa cứ tiếp tục đúng. Làm sao khác được.

                      Chính sách độc tài bủa giăng những ràng buộc làm trở ngại sáng tác, làm cho giới biên khảo xuyên tạc sự thật, lâm vào cái cảnh phải dối trá với độc giả. Làm người sống thẳng thắn theo lương tâm dưới một chế độ như thế đã khó, huống hồ là làm một văn nghệ sĩ. Trong lãnh vực văn học nghệ thuật, đã rõ “không gì quí bằng tự do”.

                      Còn tại Miền Nam, quốc gia ở trong tình trạng chiến tranh liên miên, Miền Nam có kiểm duyệt, giới cầm bút nhiều lần kích bác chống đối kiểm duyệt, sự chống đối có lúc khá ồn ào vào những năm cuối cùng của chế độ. Tuy vậy, Miền Nam có tự do là điều không thể chối cãi. Một thứ tự do tương đối, có hạn chế, nhưng là tự do rộng rãi hơn hẳn ở những phần đất hay ở những thời nước nhà thuộc quyền cộng sản.

                      Thật vậy, vừa rồi chúng tôi có nói đến sự chống đối kiểm duyệt ồn ào trước 1975, nhưng ngay vào độ ấy văn sĩ vẫn được dõng dạc nói lên những điều họ cảm nghĩ mà không ngại xúc phạm đến người cầm quyền. Tập san Nhà Văn số xuân Ất Mão (tháng 2 năm 1975) đăng lời tuyên bố của Thanh Lãng trả lời một cuộc phỏng vấn: “Tết năm nay, đối với Trung tâm Văn Bút Việt Nam là một cái Tết tha hương, vì cũng như nhân dân Miền Nam, nhà văn Việt Nam đang sống trong một nhà tù lớn, một chốn ly thân, trong thân phận vong thân.” (trang 115). Trong cái “nhà tù lớn” ấy báo Nhà Văn được in, và phổ biến rộng rãi, nhà văn Việt Nam Thanh Lãng vẫn yên lành tiếp tục viết văn, tiếp tục chống nhà cầm quyền bằng tuyên bố này nọ và bằng những hình thức hoạt động khác.

                      Ngay trong trường hợp bị “trù ẻo” thực sự như báo Đối Diện của linh mục Nguyễn Ngọc Lan chẳng hạn thì rốt cuộc cả tờ báo lẫn chủ báo cũng vẫn cứ nguyên lành, đến cuối cùng, dù có vất vả. Hồ Hữu Tường mang cái án tử hình, khi còn ngồi tù ngoài Côn Đảo đã có truyện đăng trên nhật báo ở Sài Gòn. Đối lập như Nhất Linh vẫn ra báo in sách, cho đến chán thì nghỉ. Đại khái thì sự ngăn cản vẫn... lành.

                      TINH THẦN HÀI HƯỚC

                      Thế cho nên ở Miền Nam trong thời kỳ này bùng lên một không khí nghịch ngợm, thịnh phát một nền văn chương trào phúng phong phú hiếm thấy, có lẽ trong văn học Việt Nam chưa bao giờ có một thời kỳ “vui vẻ” như thế này: số lượng các tác giả hài hước, hoặc viết bằng văn xuôi hoặc viết bằng văn vần thật nhiều (Thần Đăng, Tú Kếu, Hà Thượng Nhân, Sức Mấy, Đạo Cấy, Kiều Phong, Thương Sinh, Chu Tử...); tạp chí, nhật báo thường thường dành nhiều trang cho các loại khôi hài; lại có hẳn những tờ báo chuyên chọc cười suốt từ đầu đến cuối (Con Ong, Muỗi Sài Gòn...).

                      Tiếng cười của thời này không phải ngẫu nhiên mà nở trong văn chương. Nó bắt nguồn từ ngoài đời. Ngoài cuộc sống, tự dưng bấy giờ thiên hạ cũng xài một thứ ngôn ngữ có nhiều tiếng dí dỏm: sức mấy, đi một đường lả lướt, rước đèn đều đều với em v.v... Nhạc sĩ hát “sức mấy mà buồn”, “bỏ đi tám”... Ngoài xã hội rộn ràng nghí ngố đùa giỡn, cho nên tiếng cười lọt vào thơ văn.

                      Tiếng cười đùa nổ với tiếng súng lớn nhỏ. Tiếng súng càng giòn tiếng cười càng rộ. Thật vậy, rõ ràng là càng về sau cười đùa càng tợn: đùa nàng Kiều-lá-đổ trong Quốc hội, giễu ông Tổng Ngọc trong chính phủ, ghẹo Quế tướng công trong quân đội, cụ VIP K.K. lôi Tổng thống độc diễn ra xử đi xử lại tơi bời, ai nấy lôi thơ gãi háng của Phó Tổng thống ra cười cợt mãi không thôi... Thật không còn kiêng nể gì nữa. Cười mệt nghỉ, cười chết bỏ.

                      Bảo súng càng giòn cười càng rộ, như thế có ý liên hệ chiến tranh với khôi hài, cái chết với tiếng cười. E khó tìm ra một tương quan giữa hai cái ấy. Tuy nhiên chiến tranh có làm cho cuộc sống đảo điên, cho xã hội hỗn loạn phần nào, cho kỷ cương buông thả, cho luật pháp lỏng lẻo hơn, cho nếp sống phóng túng tự do hơn, luông tuồng bừa bãi hơn. Cười nói ngả nghiêng trong khung cảnh ấy vẫn hợp hơn là trong bầu không khí trang nghiêm, gần như đạo hạnh, của Đệ nhất Cộng hòa. Có thế chăng?

                      Dù sao, mối liên hệ giữa tự do với tiếng cười thì hiển nhiên. Ở Miền Bắc không có văn chương hài hước. Thật ra, ở Hà Nội có lần phọt lên một tràng cười lớn: tức lúc Nhân Văn, Giai Phẩm ra đời. Thế rồi tịt. Chịu khó dai dẳng chỉ còn có ông cụ Tú Mỡ. Bao nhiêu cán bộ văn nghệ được đào tạo để làm thơ trào phúng đều chẳng ai thành công. Tạp chí Văn Học, xuất bản ở Hà Nội, số tháng 9-1965 bảo: “Có người ngại rằng thơ trào phúng sẽ sút kém khi nhà thơ Tú Mỡ trăm tuổi.” Cái ngại của người nào đó có giá trị tiên tri. Tú Mỡ luyện nụ cười từ thời Pháp thuộc, đưa ra trình bày dưới chế độ cộng sản, tuy đã mòn mỏi xệu xạo nhưng vẫn còn dùng được để đánh thằng Tây thằng Mỹ. Tú Mỡ đi rồi, quả sút kém to.

                      Hiện tượng mất tiếng cười ở Miền Bắc là cả một mối lo của nhà cầm quyền. Họ đôn đốc thúc dục cán bộ viết trào phúng, họ tổ chức những “đội ngũ” trào phúng, chỉ vẽ dạy bảo rất chăm: kết quả không được mấy. Trong đại hội văn nghệ lần thứ III hồi 1962 Nguyễn Tuân kêu gọi khẩn cấp: “Đừng khó ‘đăm đăm’... phải cười lên. Cười tủm tỉm hoặc cười nửa miệng, hoặc là cười phá lên, cười rộ lên, cái đó xin cứ theo tùy thích của mỗi người.” Yêu cầu mời mọc đến thế, vẫn không được hưởng ứng.

                      Và, cũng lại như trường hợp xảy ra ở trong Nam: văn chương ngoài Bắc phản ánh sinh hoạt ngoài đời. Văn “khó đăm đăm” là bởi người lo ngay ngáy. Trên báo Nhân Văn số 5, Trần Lê Văn phác họa một chân dung cán bộ: “Người anh khô đét lại, thẳng đờ như một cái áo quan, mắt chỉ biết trợn chứ không biết nhìn, mặt tái đi vì luôn luôn giận dữ với các loại khuyết điểm trên đời, hai hàm răng xít lại, dầu có cạy cũng chẳng ra một nụ cười”... “Đồng chí ấy nói đùa anh cũng vâng vâng dạ dạ vì lâu ngày anh quên cả nói đùa.” Trời đất, người “anh” như thế thì dù nhà nước, dù đảng có cù cũng đành chịu chứ trào phúng trào phiếc gì được!

                      Điều mỉa mai là đoản văn vừa trích từ báo Nhân Văn lại là một đoạn trào phúng có giá trị, ít ra có thể làm “anh” giận điên người. Thành thử, thực ra ở Miền Bắc vẫn có cười đấy, nhưng chỉ cười ở bên ngoài nền văn học chính thống mà thôi: cười trên báo “lậu” chống đối, cười trong những câu ca dao truyện tiếu lâm lưu truyền khắp dân gian. Nguyễn Tuân hướng về phía trước mời cười thì chỉ thấy toàn những mẫu người “khô đét, thẳng đờ, mắt trợn, mặt tái, răng xít lại”; nhưng sau lưng ông thì lúc nào cũng khúc khích tiếng cười trộm lén của quần chúng nghịch ngợm, tinh ma. Họ cười ¾ y như quần chúng từng cười xưa nay dưới mọi chế độ ¾ kẻ áp bức mình: các lãnh tụ, các ủy viên đảng từ tỉnh lên trung ương, các bộ trưởng, dân biểu, và chắc chắn cả những tay chân được hưởng nhiều ân sủng (như Nguyễn Tuân?). Ở Miền Bắc nhà cầm quyền cũng đôn đốc văn nghệ sĩ dùng tiếng cười như một vũ khí để đánh vào kẻ thù: hoặc thằng Pháp, thằng Mỹ, thằng địa chủ, hoặc những cán bộ thấp cổ bé miệng, những công nhân, nông dân kém ngoan ngoãn không hết mình hết sức cho đảng, cho nhà nước; nhưng tiếng cười theo lệnh chỉ huy phát ra hiếm hoi, rời rạc, đơn điệu, nhạt nhẽo. Trái lại, ở Miền Nam tự do hễ đã cười là cười các ông to bà lớn (dân biểu, nghị sĩ, tổng trưởng v.v...) còn công chức cán bộ cấp nhỏ đều được miễn. Cười như thế tiếng cười nghe ngạo nghễ, sảng khoái. Lắm khi, có thô lỗ. Thô lỗ vẫn là xấu, nhưng dù sao cũng không tệ như cái cười cầu tài. Nghệ thuật kỵ cái hèn.

                      CÁI KỲ DỊ

                      Tự do làm nở nụ cười; và cũng chỉ ở Miền Nam mới có cái tự do làm nảy sinh ra kỳ hoa dị thảo. Cái tầm thường thì có thể được chấp nhận dễ dàng, còn cái kỳ dị thường gặp phản ứng mạnh, phải chờ sự phán xét của thời gian. Nhưng dù chưa khẳng định được giá trị của nó vẫn phải nhận rằng thi ca của những Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, triết học của Kim Định, các thị kiến về tôn giáo, chính trị, văn hóa v.v... của Hồ Hữu Tường v.v... là những đóng góp độc đáo, phong phú. Những tài năng phóng khoáng, bất chấp khuôn khổ, không cần biết đến quan niệm chính thống ấy, sau khi Miền Nam sụp đổ thì hoặc phải bỏ nước mà đi (Kim Định) hoặc bị đày đọa thủ tiêu (Hồ Hữu Tường) hoặc bị đánh đập tơi bời (Bùi Giáng). Đến cái thân họ còn không giữ nổi, nói gì đến nghệ thuật cùng tư tưởng.
                      _________________________

                      [1]Nhất Linh, Viết và đọc tiểu thuyết, Ðời Nay xuất bản, Sài Gòn 1969, trang 100.
                      #26
                        silverbullet 23.09.2006 08:37:47 (permalink)
                        VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

                        MẤY NÉT TỔNG QUÁT VỀ NỀN VĂN HỌC 1954-75
                        VĂN HỌC



                        Thành tích

                        Bảo rằng thời kỳ văn học 54-75 phản ảnh một một khủng hoảng tin tưởng sâu xa; bảo rằng thời ấy chất chứa những xúc cảm mạnh bộc lộ trong lối viết cực đoan quá lố; lại bảo rằng so với Miền Bắc thì ở Miền Nam trong thời kỳ này có tinh thần cởi mở khoáng đạt hơn, thường hay cười cợt chỉ trích, lắm kẻ ngông nghênh, có khi kỳ dị, nói thế là nói về một số đặc điểm tâm tình của con người Việt Nam trong thời kỳ này. Bây giờ thử tìm hiểu về những đặc điểm nơi thành tích của nền văn học thời này.
                        Thành tích văn học Miền Nam từ 54 đến 75, so với thời trước đó, hoặc với nền văn học cùng thời ở Miền Bắc, có chỗ hơn lại cũng có chỗ kém, và ở những chỗ không có vấn đề hơn kém thì nó vẫn có những nét khác biệt đáng chú ý.

                        Đối chiếu với Miền Bắc

                        Giữa Miền Nam với Miền Bắc cùng trong thời kỳ này mỗi bên quan niệm công việc khác nhau và làm việc khác nhau. Ở Miền Nam hoạt động văn hóa là việc của những cá nhân tự do, ở Miền Bắc nhà nước huy động mọi khả năng trong nước để thực hiện các chương trình văn hóa do mình vạch ra. Ở Miền Nam, Lê Văn Siêu đơn thân độc mã tiến hành soạn thảo bộ văn học sử Việt Nam và gặp những khó khăn nan giải (cố nhiên); ở Miền Bắc, để soạn bộ Thơ văn Lý Trần (3 cuốn) chẳng hạn, cả tổ Hán Nôm được chỉ định lo sưu tầm tài liệu và phiên dịch; chừng mười năm sau, hai nhóm soạn giả gồm mười hai người bắt tay làm việc dưới sự hướng dẫn thường xuyên của hai học giả Đặng Thai Mai và Cao Xuân Huy; trong khi tám học giả khác lo góp ý, theo dõi, góp tài liệu, soát lại bản thảo v.v...
                        Ở Miền Nam một mình Nguyễn Hiến Lê dịch bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của L. Tolstoi; ở Miền Bắc dịch phẩm ấy được một ban phiên dịch bốn người thực hiện, trong đó có kẻ thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, có người biết tiếng Hoa, tiếng Nga. Tập hợp một số người đông đảo để biên khảo dịch thuật tại Miền Nam thì tổn phí sẽ cao quá, sách đã khó bán mà phần tác quyền chia cho mỗi người sẽ chẳng được là bao. Trong khi ấy ở Miền Bắc mỗi một soạn giả mỗi tháng chỉ tốn của nhà nước mấy chục ký gạo, muốn bao nhiêu người có bấy nhiêu, và ai nấy làm việc tha hồ nhẩn nha trong tinh thần thi đua, không bị những bận tâm về lợi tức, về giá sách quấy rầy.

                        Trong những điều kiện như thế, các bộ môn biên khảo và dịch thuật ở Miền Bắc có một số lợi thế. Tuy vậy các sự hạn chế kiểm soát gắt gao về quan điểm, về lập trường, không khỏi trở ngại công việc của người cầm bút có lương tâm, ảnh hưởng nặng nề đến giá trị tác phẩm.

                        Còn về mặt sáng tác, cái giá mà các văn nghệ sĩ Miền Bắc phải trả cho khoản cấp dưỡng của nhà nước thật quá cao. Sáng tác càng cần một không khí tự do, chắc chắn cần hơn biên khảo và hiển nhiên là cần hơn dịch thuật. Vì vậy mặc dù được giải tỏa khỏi các lo lắng về sinh kế để dành trọn thì giờ cho trước tác, mặc dù được huấn luyện đi huấn luyện lại, được đưa vào thực tế để quan sát, tham dự các mặt sinh hoạt của xã hội, được thúc đẩy ráo riết, giới sáng tác Miền Bắc cũng không đạt được thành tích khả quan.

                        Hiện tôi không có điều kiện để đọc đầy đủ sách Miền Bắc, vậy xin trích dẫn những nhận định của cố học giả Nguyễn Hiến Lê. Ông Nguyễn là một nhà văn độc lập không có thiên kiến chính trị, không từng cộng tác với một chính quyền nào hoặc Nam hoặc Bắc, ông đã ở lại Việt Nam sau 1975 cho đến ngày qua đời, ông lại là nhà văn từng quan tâm nghiên cứu và phê bình văn học, tác giả các cuốn Đại cương văn học sử Trung Quốc, Văn học Trung Quốc hiện đại, Hương sắc trong vườn văn, Luyện văn, Mười câu chuyện văn chương, các thiên tiểu luận Văn thể hùng vĩ, Quan niệm sáng tác của Edgar Poe, Bốn lối kết trong tiểu thuyết v.v...; ngoài ra ông còn dự tính biên soạn một bộ lịch sử văn học Việt Nam giữa hai cuộc thế chiến. Trong những năm sau 1975 ông đã bỏ ra nhiều thì giờ để đọc sách Miền Bắc, và ghi nhận xét của mình vào cuốn Đời viết văn của tôi (Văn Nghệ xuất bản tại Hoa Kỳ, 1986).
                        Ông viết như sau:

                        “Phần lớn thì giờ của tôi dùng để đọc sách báo Bắc Việt, tìm hiểu văn học ngoài đó, và xét chung, tôi thấy về sáng tác, Bắc không phong phú bằng Nam; về khảo cứu sử và cổ văn học của mình thì Bắc hơn Nam, nhưng trừ vài ba tác phẩm thực có giá trị như Chống Nguyên Mông của Hà Văn Tấn..., còn lại đều bình thường thôi; về dịch, Bắc cũng ít hơn Nam.” (sđd, trang 228)

                        Đối chiếu với tiền chiến

                        Nếu thử đối chiếu với thời kỳ văn học tiền chiến, từ thuở phôi thai của văn học quốc ngữ cho đến 1945, thì phải nhận rằng thời kỳ 54-75 không theo kịp sức phát triển nhanh chóng lạ thường của thời kỳ trước. Thực ra rồi sẽ khó lòng có thời kỳ văn học nào theo kịp thời tiền chiến về phương diện này. Từ lời văn mộc mạc của Trương Vĩnh Ký kể những câu chuyện đời xưa “lựa nhón” tới câu thơ trau luyện của Vũ Hoàng Chương, từ lời lẽ vụng về trên báo Nông Cổ Mín Đàm tới câu văn cao kỳ tinh diệu của Nguyễn Tuân trong Tùy bút, trong Chùa đàn, sự cách biệt thật là thăm thẳm. Chỉ trong vòng mười lăm năm mà từ những thiên truyện thô sơ của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn đến tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh, từ bổn Tuồng Lôi Xích phải dịch giới thiệu để biết thế nào là kịch cho đến những vở Kim tiền của Vi Huyền Đắc, Ghen của Đoàn Phú Tứ v.v..., bộ môn nào cũng nhảy những bước nhảy vọt ngoạn mục. Riêng trong thi ca thì đã xảy ra cả một cuộc cách mạng. Những tài năng về văn thơ trưởng thành trong vòng thời gian ngắn ngủi ấy rồi tiếp tục chễm chệ trên các địa vị lãnh đạo Miền Bắc cho đến ngày nay, chưa có người kế vị: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân v.v...

                        Mà không riêng gì trong phạm vi văn chương học thuật, ở các ngành nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc cũng thế. Từ chỗ khởi đầu, một nền hội họa mới, một nền tân nhạc được dựng lên, rồi phát triển thật nhanh đến chỗ cực thịnh với những tên tuổi còn sáng chói đến bây giờ.

                        Thời tiền chiến ấy là thời Pháp thuộc, nhưng dĩ nhiên hiện tượng văn nghệ hưng thịnh kia không dính líu gì với chế độ chính trị. Đưa những lý do chính trị để cắt nghĩa sự thịnh phát nọ là ngớ ngẩn; mà phủ nhận nó, chủ trương che giấu, dè bĩu, chê bai nó vì lý do chính trị thì rõ là lố bịch. Tây thuộc địa không có công gì trong cuộc phát huy văn nghệ rực rỡ ấy, mà cách mạng vô sản cũng chẳng có gì để áy náy, ngượng ngùng, ganh tị trước thành quả của nó. Đây là một hiện tượng văn hóa, phát sinh do những nguyên nhân văn hóa: Cuộc tiếp xúc với Tây phương thay đổi xã hội chúng ta, thay đổi sâu xa nếp sống của chúng ta, ảnh hưởng đến quan niệm nhân sinh, đến lối cảm xúc suy tưởng của chúng ta, kích động mạnh vào tâm hồn chúng ta; mặt khác cuộc tiếp xúc với Tây phương mở ra trước mắt chúng ta một chân trời mới, kích thích óc sáng tạo nghệ thuật của chúng ta. Và chúng ta đã vùng lên đuổi theo trong vòng ba mươi năm tất cả chặng đường dài mà Tây phương đã đi trong ba thế kỷ. Những trường hợp như thế không phải mỗi lúc mỗi xảy ra.

                        Thời kỳ 1954-75 không đi hia bảy dặm, nó có những đặc điểm khác. Sự phát triển văn nghệ theo chiều rộng trên đất nước chẳng hạn.

                        Hồi tiền chiến, trong bộ Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan nói đến 78 vị, trong đó số người cầm bút quê quán từ 17 độ vĩ tuyến vào Nam chỉ được một phần mười. Một phần mười cho nửa nước, ít quá. Trong cái số ít ấy phần lớn là các vị học giả (như Trương Vĩnh Ký, Phan Khôi, Thiếu Sơn) và các nhà thơ (Đông Hồ, Quách Tấn v.v...). Chỉ có đôi ba vị sáng tác bằng tản văn là Hồ Biểu Chánh mà ông Vũ cho là viết truyện bình dân, và Thanh Tịnh với Nguyễn Vỹ vừa làm thơ vừa viết truyện, cả hai phía khá lu mờ. Sau 1954, số người ở Nam phần viết truyện cho quần chúng đông đảo như bà Tùng Long, Ngọc Linh... tăng nhiều, mà số tiểu thuyết gia viết cho hạng độc giả cao hơn cũng lắm: Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Thụy Vũ, Hồ Hữu Tường, Trần Thị NgH...

                        Ở Trung phần, nơi trước kia hầu như chỉ có thi nhân thì sau 1954 đã xuất hiện rất nhiều người viết truyện: Linh Bảo, Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Túy Hồng, Minh Đức Hoài Trinh, Nhã Ca, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thị Hoàng v.v... (Còn thi sĩ, dĩ nhiên lúc nào cũng nhiều.)
                        Nếu sự phát triển của văn chương ¾ nhất là ở nước ta ¾ từ trước đến giờ vẫn bắt đầu bằng vận văn trước rồi mới đến tản văn sau, thì chúng ta thấy trong thời kỳ 1954-75 phần đất phía Nam của đất nước đã tiến thêm một chặng quan trọng trên đường mở mang về văn hóa.

                        Trên đây vừa nói thời kỳ này không đi hia bảy dặm, như thế không có nghĩa là nó không đi, không tiến. Không! chẳng những nó có đi, thực ra trên một vài địa hạt nó còn chạy, còn nhảy, nhảy vọt. Trên địa hạt tiểu thuyết chẳng hạn.

                        Kiểm điểm tình hình tiểu thuyết, năm 1973 Cao Huy Khanh nêu lên vài sự kiện nổi bật: trong hơn 30 năm của thời tiền chiến (1913-1945) Vũ Ngọc Phan chỉ đưa ra được khoảng trên 30 tiểu thuyết gia, thế mà trong vòng không đầy 20 năm từ 1954 đến 1973 đã có xấp xỉ 200 tiểu thuyết gia, trong số đó trên dưới 60 người có giá trị hẳn hoi. Mặt khác theo lời ông Cao thì “tiểu thuyết chúng ta [1] có quá nhiều sắc thái, nhiều tính chất, nhiều đặc điểm khác biệt.”[2]

                        Tiểu thuyết gia tăng lên gấp bội, bộ môn tiểu thuyết lại phong phú hơn về màu sắc dáng vẻ, thế thì sự tiến bộ thật hiển nhiên, rành rành. Đã vậy, thời kỳ 54-73 chỉ sử dụng tài năng của nửa nước, trong khoảng hai phần ba thời gian của thời tiền chiến mà thôi. Và cái nửa nước nói đây hồi tiền chiến chưa có tiểu thuyết gia! Từ một vị thế bất lợi như thế mà tiến xa đến chừng ấy, thời kỳ 54-73 quả đã gây nên thành tích đáng ngạc nhiên đấy chứ.

                        Thế rồi giữa thời tiền chiến với thời kỳ này còn có chỗ nữa tưởng cũng nên chú ý. Số là viết về các nhà văn tiền chiến Vũ Ngọc Phan chia ra một lớp trước và một lớp sau; lớp trước gồm hầu hết là những nhà biên khảo (như Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh v.v...) với những thi sĩ (Đông Hồ, Tản Đà...), còn lớp sau lại gần như chẳng có nhà biên khảo nào, chỉ có năm vị cùng chuyên về ngành lịch sử, viết loại lịch sử truyện ký, trong số đó đã có vài ba vị còn lẫn lộn truyện ký với tiểu thuyết. Lực lượng đông đảo nhất của lớp sau gồm các tiểu thuyết gia, mà tiểu thuyết vào lớp trước chẳng qua còn phôi thai.

                        Sang thời kỳ 1954-75, chúng ta nhận thấy các bộ môn văn học phát triển khá đồng đều (ngoại trừ ngành phê bình văn học): số lượng tiểu thuyết gia không nhiều quá đáng mà số khảo luận gia thì tăng thêm rõ rệt. Bộ môn biên khảo lúc này không những chỉ thu hút thêm nhiều tài năng mà lại còn mở rộng phạm vi nghiên cứu. Như đã thấy, hồi tiền chiến lớp sau chỉ có dăm vị tìm tòi về sử, còn sau 1954 ngoài sử học còn có bao nhiêu khảo luận về triết lý, văn học, thẩm mỹ học, dân tộc học, ngữ học, địa chất học, về âm nhạc, hội họa v.v...

                        Sự phát triển của bộ môn biên khảo trong thời kỳ 1954-75 một phần có lẽ do nơi sự phát triển của ngành đại học Việt Nam sau khi nước nhà thu hồi độc lập: với một số lượng giáo sư và sinh viên mỗi lúc mỗi đông đảo, nhu cầu tìm hiểu, trao đổi kiến thức chuyên môn tất nhiên phải lớn hơn trước. Phần khác, sự thiên lệch quá đáng trong buổi đầu và tình trạng quân bình về sau này giữa các bộ môn có lẽ cũng phản ảnh những bước tiến triển tự nhiên của nền văn học quốc ngữ: Văn học Việt Nam là một nền văn học cố cựu, nhưng sau cuộc tiếp xúc với văn hóa Tây phương nó lại bắt đầu một cuộc đổi mới, một cuộc phục hưng. Có những môn loại tàn đi, lại có những môn loại mới xuất hiện. Bước đầu không tránh khỏi những chênh lệch, ngập ngừng. Về phương diện này, sau 1954, chúng ta thấy sự phát triển đạt đến một tình trạng ổn định hơn trước.

                        Đối chiếu với Miền Nam trước 1954

                        Cuối cùng, đem đối chiếu tình hình văn học ngay ở Miền Nam trước và sau 1954, lại thấy cả một thay đổi lớn lao.

                        Thay đổi ấy trước hết là một sự lớn mạnh. Trước 1954 số văn nghệ sĩ tên tuổi ra mặt hoạt động ở Sài Gòn khá ít oi. Họ có mặt không hẳn là ít, nhưng hoạt động thì không đáng kể. Cũng như các chính khách có uy tín, họ ngần ngại, chờ đợi. Sau hiệp định Genève một mặt lớp văn nghệ sĩ “trùm chăn” tung ra hoạt động, một mặt hàng loạt văn nghệ sĩ từ Miền Bắc di cư vào, tất cả họp thành một số lượng đông đảo, làm cho văn đàn náo nhiệt hẳn lên.

                        Nhưng cái thay đổi quan trọng không phải thuộc về số lượng: Chiều hướng tinh thần đồng thời cũng xoay chuyển hẳn. Trước 1954 sáng tác “trong thành” phản ảnh một tâm lý vọng về chiến khu, về phía Việt Minh. Sau 1954 cả một phong trào chống cộng bừng lên, lan tràn khắp mặt sách báo. Trước 1954 văn học “trong thành” phản ảnh một thái độ hoàn toàn thiếu tự tín: Không tin ở cái nơi mình chọn sống, không tin ở chế độ của mình, không tin rằng mình có một lẽ phải; sau 1954, văn học dõng dạc nói lên cái tâm trạng của một Miền Nam đầy tin tưởng ở lý tưởng tự do của mình.

                        Dĩ nhiên về mặt thành tích thời kỳ sau 1954 cũng vượt bỏ rất xa thời kỳ trước đó.
                        -----------
                        [1] Tức của thời kỳ 1954-73.
                        [2] Cao Huy Khanh, “Vấn đề khuynh hướng trong tiểu thuyết miền Nam từ 1954 đến 1973”, tạp chí Thời Tập số ra ngày 14-4-74 (tr. 44).
                        #27
                          silverbullet 23.09.2006 22:02:30 (permalink)
                          VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

                          GIAI ĐOẠN 1954-1963
                          BỐI CẢNH


                          Tình hình trước 1954

                          Đời sống vật chất

                          Từ ngày bùng nổ cuộc toàn quốc kháng chiến chống Pháp cho đến khi nước Việt Nam bị chia đôi theo hiệp định Genève, ở vùng quốc gia đời sống vật chất khá đầy đủ, sinh hoạt ở các đô thị lắm lúc trông có vẻ phồn thịnh, người dồn về đông đảo, làm ăn náo nhiệt, vui vẻ, hồ hởi nữa; nhưng đời sống tinh thần thì thực ra thường khi thảm não.

                          Theo Đoàn Thêm thì giai đoạn tươi sáng nhất là khoảng thời gian cuối năm 1949 đầu 1950, lúc cựu hoàng Bảo Đại về nước. “Trong khi các giới trí thức và chính trị xôn xao cựa cậy, thì dân chúng tấp nập hồi cư về các thành thị. Từ tháng 7, mỗi ngày có tới vài ngàn người. Số này lên tới 35.000 riêng ngày 30-10, ở Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây. Phải chăng vì giao thông dễ dàng từ khi quân đội Pháp lan tràn kiểm soát vùng duyên hải đông dân Bùi Chu và Phát Diệm (16-10-49). Công chức kéo về rất nhiều nên tới đầu 1950, các công sở Việt Nam đã tái thu dụng được quá nửa số nhân viên các ngạch thời Pháp thuộc.

                          Chính giới Pháp và Việt đều hoan hỉ, và coi trào lưu hồi cư đó như một thắng lợi của giải pháp Bảo Đại: dân bỏ già Hồ về với cựu hoàng; diện tích và dân số vùng chiếm đóng, riêng ở trung châu Bắc Việt tăng lên gấp ba.

                          Cũng tăng rất nhiều, số ruộng cày cấy; và số gạo xuất cảng: từ 59.000 tấn (1945) lại lên 379.000 tấn (1950). Nhân công dồi dào, an ninh khá hơn, các ngành sản xuất đều tiến, lụa, cao-su, than đá, vải sợi, xi-măng, đường, thủy tinh v.v... Trị giá nhập cảng từ 16 tỷ quan (1946) vọt tới 73 tỷ (1949). Hàng hóa tràn ngập các cửa tiệm và sạp chợ. Mức lương bổng công tư đều khá cao, giá sinh hoạt tương đối rẻ. Một thư ký nhà nước hay tiệm buôn lớn, có vợ và ba con, kiếm hàng tháng chừng 2500-3000đ, trong khi giá gạo số 1 tại Sài Gòn là 200đ mỗi tạ, thịt bò 8đ50 một kí, thuốc lá đen 2đ50-3đ một bao...”[1]

                          Trước 1954 đất nước chưa phân chia cho nên những điều Đoàn Thêm nói là nói chung cho cả nước, cho tình hình vùng quốc gia từ Bắc chí Nam. Riêng tại miền Nam lúc bấy giờ cuộc sống còn hơn ở Bắc: dễ dàng hơn, “vui” hơn. Vì vậy ngay trước 1954 đã có nhiều đồng bào Bắc đi vào Sài Gòn sinh sống, trong số đó có những văn nghệ sĩ hoặc vừa rời bỏ kháng chiến trở về hoặc vẫn ở trong thành từ trước: Phạm Duy, Hồ Dzếnh, Phạm Đình Chương, Thanh Nam, Trần Lê Nguyễn v.v... Trần Lê Nguyễn vào Nam trước Thanh Nam và viết thư rủ rê bạn. Thanh Nam kể: “Khoảng đầu năm 1953, Trần Lê Nguyễn ở Sài Gòn viết thư rủ rê tôi vào Nam (làm ăn). Sài Gòn với Trần Lê Nguyễn lúc đó đúng là một thiên đường. Thư nào anh cũng ca ngợi cảnh Sài Gòn, người Sài Gòn và nhất là những nơi chốn ăn chơi đặc biệt Tây phương của Sài Gòn như các sòng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới...” [2]. Thanh Nam muốn soát lại cho cẩn thận bèn viết thư hỏi Vĩnh Lộc. “Lộc cũng trả lời đại khái như Nguyễn, rằng Sài Gòn rất dễ sống, dễ kiếm tiền nếu chịu khó và vấn đề ăn ở cũng giản dị hơn ở Hà Nội nhiều.”[3]

                          Đời sống tinh thần

                          Như vậy, dù có là thiên đường dù không, Sài Gòn trước 54 vẫn sung túc, và Hà Nội vẫn dễ sống. Nói chung, về mặt kinh tế, sinh hoạt ở vùng quốc gia khá tốt đẹp. Tuy nhiên dù được hưởng một đời sống đầy đủ người dân thành thị vẫn không bằng lòng, họ bất bình đối với sự thối nát của nhà cầm quyền; còn ở thôn quê thì dân chúng lại phải chịu nhiều tai họa, cuộc sống luôn luôn bất an. Ông Đoàn Thêm mô tả: “Dân chúng ở các thành thị tuy được tương đối yên ổn, cũng không vì thế mà có ý ủng hộ chính quyền. Trái lại, ở mọi giới, trong các gia đình, giữa tiệc cưới, đám ma, hay buổi họp bạn, câu chuyện chỉ chạy quanh thời sự. Mà thời sự là: Thủ tướng này sắp đổ, vì De Lattre không ưa; Thủ hiến kia mắc việc bê bối đương cầu cứu đức Từ; chạy tỉnh trưởng hay xin giấy nhập cảng phải tặng bao nhiêu tiền; lại còn đầu cơ, tích trữ, chuyển ngân lậu, trốn quân dịch, tuyển lính ma, biển thủ, hối lộ v.v... Tĩnh từ hay được dùng nhất, là thối nát.

                          Đồng bào thôn quê không biết những chuyện đó, nhưng lại ta thán về bao nhiêu tai ương dồn dập: càn quét, đốt phá, hãm hiếp, giam giữ, tra tấn; Tây tha Ta bắt, bắt đi làm xâu hay đắp ụ, xẻ đường, khuân xác chết; gần ngày gặt hái, vẫn phải chạy lánh bom đạn; có chút tiền hay con gái lớn thì đành đem gửi trên tỉnh lỵ; sợ lắm, sợ quá, sợ tất cả mọi người, ông xã ủy, ông đồn, ông lê-dương, ông quận, ông du kích, ông cán bộ... vì ai cũng có thể đánh trói hay bắn giết, theo ngoài kia thì khó sống, theo trong này cũng dễ chết toi.[4]

                          Dân chúng ở thôn quê sống dưới sự uy hiếp, sống trong bất trắc thì sợ hãi chính quyền; dân chúng thành thị sống no đủ nơi “thiên đường” thì khinh bỉ chính quyền. Một hạng người khác sống tại tầng cao nhất của cái “thiên đường” nọ thì lại càng tệ hại hơn: họ vừa khinh bỉ chính quyền vừa tự khinh bỉ mình, họ loay hoay, họ khổ sở, họ trùm chăn tức là rúc đầu trốn lánh không chịu ló mặt, họ sống bên này mà xấu hổ về bên này, họ xa lánh bên kia mà cứ mơ tưởng ca ngợi bên kia, họ xỉa xói chính quyền như thù nghịch, họ tự dày vò mình như những kẻ tội lỗi... Họ sống một đời sống tinh thần hết sức bất an.

                          Hoàn cảnh của người trí thức chọn sống ở vùng quốc gia lúc bấy giờ quả có chỗ lúng túng, khó xử. Sống ở đây tức là sống dưới sự che chở của người Pháp; mà người Pháp thì cứ đeo lấy dã tâm đế quốc, nhất định không chịu trả độc lập cho Việt Nam. Ngày nào Pháp còn cai trị người Việt Nam không thể sống bên cạnh Pháp trong an tâm, ấy là chưa nói đến sự che chở của Pháp, sự cộng tác của ta. Chống lại Pháp? Chống bằng chiến tranh thì chính là chuyện Việt Minh đang làm, nhưng họ làm thế để rồi thiết lập một chế độ độc tài nên không thể theo họ được. Chống lại Pháp bằng cách... tạm hợp tác, để rồi thương lượng, điều đình, thì chính là chuyện bác sĩ Nguyễn Văn Thinh đã làm và Bảo Đại đang làm, nhưng kết quả rất khó tin. Nguyễn Văn Thinh đã thất vọng đến tự tử; Bảo Đại nhì nhằng trong năm năm, mỗi ngày mỗi mất thêm uy tín trong dân chúng.
                          Bảo Đại thoạt tiên tập trung được sự tin cậy của nhiều người. Sau khi Nguyễn Văn Thinh thất bại, người ta cố tìm một nhân vật, và xoay hướng về Bảo Đại. Trước khi nhận lời về nước, ông đã gặp Bollaert ở vịnh Hạ Long ngày 6 tháng 12 năm 1947, được Bollaert tuyên bố thừa nhận Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp ngày 5-6-1948; rồi ông lại đi Pháp và đã thuyết phục được Pháp ký thỏa ước Elysée ngày 8-3-49. Với thành tích ấy trong tay, ông đặt chân về nước lần đầu tiên ngày 28-4-49 tại Đà Lạt.
                          Năm 1949 tình hình vùng quốc gia tốt đẹp, đồng bào bỏ kháng chiến về đông đảo, Bảo Đại tỏ ra thành công. Nhưng rồi cơ sự bắt đầu tồi tệ dần; thỏa ước Elysée trên giấy tờ đã trí trá lăng nhăng mà sự thi hành lại càng rắc rối. Trên giấy tờ bảo rằng Việt Nam độc lập, nhưng lại trói buộc ta vào tổ chức tứ quốc (Pháp, Việt, Miên, Lào), bắt ta theo chính sách do Thượng Hội đồng (Haut Conseil) và Nghị viện Liên hiệp Pháp (Assemblée de l'Union Francaise) hoạch định, bắt đồng bạc ta thuộc khu vực đồng quan Pháp, bắt toàn thể lực lượng quân sự ta trong thời chiến phải đặt dưới quyền sử dụng của tư lệnh hành quân Pháp v.v... Đã thế, trong thực tế người Pháp lại không chịu nghiêm chỉnh thi hành thỏa ước: họ không chuyển giao công sở, không chuyển giao quyền hành, khiến người dân không thấy đâu là sự khác nhau giữa một nước Việt Nam đã được “thừa nhận độc lập” với nước Việt Nam bị trị trước kia!

                          Một thỏa ước như thế chỉ có thể là bước khởi đầu trên đường tranh thủ chủ quyền, Bảo Đại cố tiến thêm những bước khác, nhưng không đạt kết quả. Về nước năm năm ông không tiến xa hơn thỏa ước Elysée. Dần dần người ta thất vọng về ông. Sự thất vọng bắt đầu từ năm 1951, theo Đoàn Thêm[5].

                          Ông Đoàn ghi nhận sự việc, nhưng đối với Bảo Đại ông vẫn dè dặt không muốn buông lời phê bình nghiêm khắc. Còn linh mục Cao Văn Luận thì ngay cuộc gặp mặt đầu tiên đã đâm chán con người có “dáng mệt nhọc” này, linh mục chỉ nói chuyện vài phút rồi cáo từ. Ở một chỗ khác trong cuốn hồi ký Bên dòng lịch sử, ông nhận xét Bảo Đại “ham săn bắn chơi thuyền hơn là ham việc nước”[6]. Ấy là không kể những ham mê khác, gây lắm tai tiếng.

                          Đất nước như thế, lãnh tụ như thế: kẻ thức giả có mặt trong vùng quốc gia phần nhiều “trùm chăn”. Chỉ trong vòng vài phút gặp linh mục Cao Văn Luận, Bảo Đại đã than phiền về chuyện thiếu sự hợp tác của những người quốc gia chân chính. Và linh mục Cao cũng có nói đến tình trạng của hạng này: “Ít lâu sau, một số nhà trí thức bất hợp tác với Pháp, vừa từ vùng Việt Minh trốn về đến gặp tôi như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Dương Đôn v.v... Họ là những người không có một lập trường hay một thái độ nào rõ rệt, dứt khoát.

                          Họ còn được gọi, đôi khi tự gọi, là những nhà trí thức hay chính trị trùm chăn. Họ không chịu hợp tác với Việt Minh, có lẽ vì họ thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản, không chấp nhận được chủ nghĩa cộng sản, và những thủ đoạn đàn áp tôn giáo, trí thức, địa chủ của Việt Minh. Nhưng họ cũng không muốn hợp tác với người Pháp. Nếu hỏi họ muốn làm gì, định làm gì, thì họ không thể nào trả lời được, ngoài câu chờ xem.”[7]

                          Vừa rồi, tôi đã trích dẫn quá nhiều. Sự thực, trong khoảng thời gian trước 1954 tôi không có mặt ở vùng quốc gia, không nghe thấy gì, không biết gì đích xác về việc và người ở đây, cho nên nghĩ rằng tốt hơn nên trông cậy ở các chứng nhân. Và sau đây lại xin tiếp tục trích dẫn nữa, để mong hiểu thêm về tâm trạng của người trong vùng quốc gia lúc bấy giờ. Ông Đoàn Thêm tỏ ra rất chú ý đến tâm lý giới trí thức, trong cuốn Những ngày chưa quên ông nói về vấn đề này nhiều lần. Có lúc ông cho rằng trùm chăn có hai hạng: “Hạng thứ nhất thực ra chẳng có ý thức chính trị nào cả. Vì sinh kế, họ phải sống lụy, lụy chế độ ngoài kia, hoặc lụy chế độ trong này. Ở đâu họ cũng chịu đựng, nên chẳng ưa ai, hễ thấy sơ hở là kêu ca. Bởi họ không lý tưởng, họ có mặc cảm bị coi là thấp kém, là sợ Việt Minh hay sợ Pháp, tuy sự thực thì sợ cả hai, nên đối với họ cũng như đối với người khác, họ phải lên tiếng này nọ, để tỏ ra mình bất khuất: có thế thôi. ? Hạng thứ hai, thì tương đối cao hơn một bậc. Họ có quan tâm đến hiện tình xứ sở. Họ muốn Pháp nhả bớt nhiều quyền mà chúng còn bo bo nắm giữ, nên chê trách Pháp là ngoan cố và lạc hậu. Nhưng họ sợ phá hoại, vì họ có tài sản hoặc ít ra cũng mong có một ngày kia, và nghĩ rằng phá hoại chỉ có lợi cho cuộc tranh đấu giai cấp hơn là cho sự tranh thủ độc lập. Nên khi ở ngoài kia, họ vẫn thì thầm chỉ trích sự lợi dụng kháng chiến để đảo lộn xã hội. Họ đòi Pháp từ bỏ chính sách thuộc địa, nhìn nhận tự do và tự chủ của Việt Nam, và nếu được thế thì nhường cho Pháp một ít mối lợi cũng không sao.”[8]

                          Lại có lúc ông mượn lời “người trong chính giới” chia chính khách trùm chăn làm ba hạng. “Những vị đó tuy không mai danh vì cũng có tên tuổi, nhưng ẩn tích tại nhà chờ thời, và cho tới nay, đã một mực từ chối khi được mời ra giúp việc công. Lý do thường được viện dẫn, là chưa có hoàn cảnh thuận tiện và chưa thấy chính nghĩa trong vùng chiếm đóng. Nhưng nhiều người trong chính giới đã mỉa mai: có ông ngại bị chê là Việt gian tuy thực tình vẫn thân Pháp; có ông bất lực, giá có được giao việc cũng chẳng làm nổi, bởi thế cứ thoái thác hoài, nhảy ra e lộ chân tướng; lại có ông quá yêu sự sống, chỉ lo đối phương ám hại nên lẩn trốn mà còn lên vẻ cao sĩ.”[9]

                          Tình hình văn nghệ

                          Hoặc sợ hãi “quốc gia” mà oán trách hoặc chê bai “quốc gia” mà xa lánh, tẩy chay, trùm chăn, như thế chưa lấy gì làm tệ. Tệ nhất là thái độ của giới văn nghệ lúc bấy giờ: họ công khai bỉ báng “quốc gia”, ngưỡng vọng “ngoài kia”. Thân họ gửi “trong thành”, lòng họ hướng về “ngoài khu”. Họ rất hăng hái trong sự đề cao ca ngợi phía bên kia. Họ nâng công việc ấy thành phong trào, thành cái “mốt” văn nghệ. Ở đây lại xin trích dẫn dông dài. Xin nhường lời cho kẻ có thẩm quyền, nhà văn Thanh Nam, có mặt ở cả Hà Nội lẫn Sài Gòn trước 1954: “Trước kia ở Hà Nội, tôi cũng đã có nghe tiếng Trúc Khanh và có đọc ở đâu đó một vài bài thơ của anh. Tuy không được nổi tiếng như Vũ Anh Khanh với ‘Tha la xóm đạo’ nhưng Trúc Khanh cũng có những vần thơ ‘bốc lửa đấu tranh’ như đa số thơ văn đề cao kháng chiến tại Sài Gòn những năm cuối thập niên 40, đại khái tôi còn nhớ hai câu trong bài ‘Người qua sông Dịch’ của anh đăng trên một tờ báo xuất bản ở Sài Gòn:

                          ‘Thu xưa khói lửa tơi bời
                          Từng đoàn xanh tóc cả cười ra đi...’


                          Thời đó, những bài thơ như vậy đã thành một cái ‘mốt văn nghệ’, ngay cả trên tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy tục bản của nhà xuất bản Tân Dân ở Hà Nội cũng đăng đều đều những loại thơ văn ca ngợi các ‘chiến sĩ ngoài kia’ như vậy. Ngoài những bài thơ của Hoàng Cầm được chuyển lén lút vào thành như bài ‘Bên kia sông Đuống’, ‘Đêm liên hoan’... tất cả những người viết văn, làm thơ tại Sài Gòn, Hà Nội bấy giờ đều hướng đề tài vào hình ảnh cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở Hà Nội thì còn dè dặt, xa xôi, chỉ nói bóng gió tới những người trai ‘ra đi vì nước’, những ‘cô gái một lòng chờ đợi người hùng chiến thắng trở về’ nhưng trong Sài Gòn thì khác hẳn, hầu hết báo chí, sách truyện, thi ca đều nói thẳng đến những chiến sĩ cầm súng chống Pháp trong ‘bưng’. Tôi còn nhớ có những loại sách mỏng khoảng 30, 40 trang như loại Sách Hồng, Truyền Bá thời tiền chiến tên là loại sách Bạn Trẻ của nhà xuất bản Nam Việt, mỗi tuần ra một cuốn; trình bày rất đẹp mang những cái tên rất khêu gợi, hấp dẫn như: Em không về nữa, chị ơi, Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng, Cái chết của anh tiểu đội trưởng, Mây trôi về Bắc v.v... Bên cạnh những loại truyện mỏng dành cho học sinh đó là những tiểu thuyết dài cũng mang những cái tựa thật kích thích như Người yêu nước, Trái lựu đạn không kịp nổ, Hờn chinh chiến của một số nhà văn mà sau này hầu hết đã bỏ ra khu như Vũ Anh Khanh, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang... Tuyên truyền lộ liễu nhất là tập truyện Nửa bồ xương khô của Vũ Anh Khanh, cuốn tiểu thuyết kêu gọi học sinh bỏ thành ra bưng chiến đấu này lại bán chạy ngoài sức tưởng tượng, cả ở trong Nam lẫn ngoài Bắc đến nỗi sau khi bị tịch thu, cuốn truyện còn được bán giá chợ đen trong giới học sinh mê kháng chiến (...) (Cựu thủ tướng Nguyễn Văn Lộc hồi đó cũng là một trong số những nhà văn viết chuyện kháng chiến trong thành rất hăng say với bút hiệu Sơn Khanh.)”[10]

                          Lý thuyết gia Mác-xít trong thành bấy giờ là các ông Thiên Giang, Thê Húc, Tam Ích.

                          Ngoài cái xu hướng mà Thanh Nam vừa nói có một xu hướng phi chính trị. Ông Nguyễn Hiến Lê lúc ấy vừa viết vừa dịch và nhà Phạm Văn Tươi xuất bản những cuốn sách thuộc loại “Học làm người”. Ở đây không có bóng dáng thời cuộc. Chuyện chính trị bị lờ hẳn đi. Chỉ có những phương pháp học hành, làm ăn sao cho có kết quả, chỉ có chuyện tổ chức công việc, rèn luyện tính tình v.v...

                          Lại còn có một xu hướng khác, gồm những nhân vật từng biết cộng sản, không tán thành nhưng cũng không quyết liệt chống lại cộng sản. Đó là các ông Trần Văn Ân, Nguyễn Đức Quỳnh với tờ Đời Mới, Hồ Hữu Tường với tờ Phương Đông; kẻ chủ trương một chủ nghĩa “nhân bản mới” người chủ trương trung lập chế. Nhưng ảnh hưởng rộng rãi nhất vẫn là của loại văn nghệ kháng chiến trong thành.[11]

                          Tóm lại vùng quốc gia miền Nam trước 1954 sống đời vật chất đầy đủ, nhưng tình trạng xã hội, chính trị, văn hóa thật là bại hoại. Xã hội bất công, nạn tham nhũng lan tràn, cờ bạc đĩ điếm công khai tổ chức dưới sự bảo trợ của chính phủ; nhân tài xa lánh chính quyền, quốc gia lệ thuộc ngoại nhân, lãnh đạo bê bối làm dân chúng thất vọng; trong hoàn cảnh chán nản lòng người hướng về “ngoài kia”.

                          Trong sự tưởng tượng của người “trong thành” thì “ngoài kia” là một cái gì mơ hồ, bởi mơ hồ nên đẹp đẽ. “Ngoài kia” không ai biết thực sự mặt mũi nó ra làm sao, mà cũng chẳng ai cần biết. Thỉnh thoảng người “trong thành” có được những kẻ mới dinh tê từ “ngoài kia” về mô tả bộ mặt thật của “ngoài kia”, kể xấu về “ngoài kia” thì họ lại không muốn nghe: họ muốn bảo vệ giấc mơ của mình, không để nó bị xâm phạm, thương tổn. Vì “ngoài kia” là giấc mơ của người “trong thành”, là một chỗ tưởng tượng cho người “trong thành” ký thác bao nhiêu nỗi ước mơ của mình, cho người “trong thành” lẫn trốn các bực dọc, tủi hổ, uất hận, bất bình. “Trong thành” bị Tây ức chế thì “ngoài kia” là “độc lập”; “trong thành” tham nhũng mục nát thì tất nhiên “ngoài kia” phải trong sạch; “trong thành” giàu nghèo chênh lệch, thì “ngoài kia” bắt buộc phải có công bình xã hội, phải là thiên đường của người nghèo v.v...

                          Trong giai đoạn chót của thời kỳ 1945-1954, “trong thành” có mặc cảm thất bại, thua trận, xấu xa, bẩn thỉu, trụy lạc...

                          Bấy giờ cuộc đình chiến 1954 và những biến cố khác liên tiếp xảy đến đổi hẳn tình thế, đem lại niềm tự tin và hy vọng tưng bừng cho Miền Nam.

                          _________________________

                          [1] Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, Nam Chi Tùng Thư xuất bản, Sài Gòn, 1967, trang 153, 154.
                          [2] Thanh Nam, ‘Hai mươi năm viết văn làm báo ở Sài Gòn’, tạp chí Văn, Hoa Kỳ, số 1, trang 35,36.
                          [3] Như trên.
                          [4] Đoàn Thêm, sđd, trang 176.
                          [5] Như trên, trang 177.
                          [6] Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, trang 202.
                          [7] Như trên, trang 163-164.
                          [8] Đoàn Thêm, sđd, trang 126-127.
                          [9] Đoàn Thêm, sđd, trang 151.
                          [10] Thanh Nam, bài đã dẫn, trang 71, 72.
                          [11] Ngoài ý kiến của Thanh Nam, xin ghi nhận thêm ý kiến của Nguyễn Hiến Lê là nhân vật đã hoạt động văn nghệ ở Sài Gòn từ trước 1954: “Trong thời kháng Pháp, văn học ở thành (vùng bị chiếm) từ Bắc tới Nam không có gì cả. Hầu hết các nhà văn tên tuổi thời tiền chiến đều theo kháng chiến, tôi không biết họ sáng tác được những gì, có lẽ chỉ một số bút ký, và một số bài thơ ái quốc, hô hào diệt địch, nhiệt tâm tuy nhiều, nhưng nghệ thuật có phần kém tiền chiến.
                          Ở miền Nam Lý Văn Sâm viết được vài tiểu thuyết rồi ra bưng. Nhóm đệ tứ Triều Sơn, Thê Húc, Tam Ích, Thiên Giang viết được ít bài phê bình có tư tưởng xã hội, sau in thành vài tập mỏng. Triều Sơn viết khá hơn ai cả, nhưng chết sớm. Hồ Hữu Tường năm 1945 (?) còn ở Hà Nội cho ra một tập mỏng về văn hóa Việt Nam. Khi vào Nam, ông xuất bản tờ Phương Đông chủ trương trung lập, vài cuốn trào phúng Nga, Trung Cộng.” (Đời viết văn của tôi, Văn Nghệ, Hoa Kỳ, 1986, trang 152).
                          #28
                            silverbullet 25.09.2006 15:38:50 (permalink)
                            VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

                            GIAI ĐOẠN 1954-1963

                            BỐI CẢNH


                            Tình hình từ 1954

                            Khi hưng thịnh


                            CUỘC NGƯNG CHIẾN

                            Trước hết cuộc ngưng chiến đem lại một cảm tưởng hòa bình. Hiệp định Genève rồi đi tới đâu? Sau hai năm rồi có hay không có tổng tuyển cử? Đối với quần chúng, những chuyện đó thật mù mờ. Nào ai biết! Dù sao ngay lúc ấy mọi người cũng thở phào nhẹ nhõm. Ít ra tiếng súng ngưng nổ, người ngưng chết; ít ra không còn có những cuộc lùng bắt lính, không có bố ráp, thủ tiêu v.v...; ít ra người ta có thể nghĩ đến công việc làm ăn, cày cấy, dựng lại nhà cửa, những ngôi nhà hoặc bỏ hoang lâu ngày, hoặc từng bị phá đi đốt lại nhiều lần ở miền quê v.v...

                            Đối với phía cộng sản, nhất là đối với giới cầm quyền bên phía cộng sản, thì cuộc ngưng chiến này chẳng qua là một dịp nghỉ tay. Nghỉ tay để chuẩn bị cuộc đụng độ mới. Cuộc đụng độ ấy, họ đã bố trí kỹ, ngay từ khi ký kết ở Genève, ngay cả trước khi ký kết. Họ bố trí những “cơ sở” bí mật nằm vùng tại Miền Nam, họ cho bộ đội cưới vợ thật gấp để tạo những liên hệ tình cảm mật thiết tại Miền Nam hầu làm đầu mối cho những hoạt động lẩn lút, những hoạt động phá hoại khủng bố do cán bộ của họ từ ngoài Bắc chui vào sau này v.v... Tuy nhiên đối với dân chúng Miền Nam, với giới trí thức, văn nghệ sĩ, với cả giới chính trị Miền Nam, những tính toán, mưu mô âm thầm ấy không có ai ngờ tới. Tạm thời ai nấy nhẹ nhõm, yên trí bắt đầu một thời kỳ xây dựng.

                            ĐỘC LẬP, THỐNG NHẤT

                            Thời kỳ hòa bình lại trùng hợp với thời độc lập. Điều mà Bảo Đại không đạt được suốt bảy năm nhì nhằng với Pháp (kể từ cuộc gặp gỡ Bollaert ở vịnh Hạ Long) bỗng nhiên Pháp buông tay thả ra: Ngày 4 tháng 6 năm 1954, Pháp ký hiệp ước Độc Lập (Traité d'Indépendance) với thủ tướng Bửu Lộc, thừa nhận Việt Nam độc lập với chủ quyền toàn bị theo công pháp quốc tế, Pháp bằng lòng chuyển giao hết những công sở và thẩm quyền còn tạm giữ. Sau đó phái đoàn Nguyễn Văn Thoại do chính phủ Ngô Đình Diệm chỉ định tiếp tục điều đình để ký với Pháp một loạt hiệp định vào ngày 29 tháng 12 năm 1956 về thể thức thi hành hiệp ước 4-6-54. Thế là chủ quyền quốc gia được thu hồi trọn vẹn. Ngày trao trả dinh toàn quyền cũ, tức phủ cao ủy cũ, tức dinh Độc Lập sau này; ngày hạ lá cờ tam tài của Pháp xuống, thượng quốc kỳ Việt Nam lên trước dinh Độc Lập; ngày quân đội Pháp xuống tàu rút về nước v.v... là những biến cố gây xúc động lớn lao trong lòng một dân tộc vừa chịu trăm năm áp bức.

                            Tại sao Pháp đổi thái độ vào lúc ấy? Tại sao đang cứng bao nhiêu năm, tự dưng Pháp lại mềm? Có phải vì những thất bại quân sự bấy giờ làm cho Pháp nhận thấy mình không còn hy vọng trở lại Việt Nam nên chẳng thà buông trả nửa nước Việt Nam sớm vài năm cho được yên thân? Dù sao, đó là chuyện của Pháp. Còn đối với dân Miền Nam, chỉ biết lúc bấy giờ hòa bình và độc lập cùng đến một lúc: còn gì quý hơn.

                            Đã thế, Miền Nam lại được thống nhất trong một thời gian ngắn sau đó. Trước, Pháp và Bảo Đại duy trì những lực lượng vũ trang riêng cho Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên v.v..., mỗi lực lượng kiểm soát một phần đất đai, áp dụng những luật lệ địa phương riêng biệt, thật là phiền phức, trông chẳng ra làm sao cả. Sau khi cầm quyền và gặp những rắc rối với Bình Xuyên, chính phủ Ngô Đình Diệm hoặc kêu gọi các lực lượng vũ trang tự nguyện hợp tác, hoặc tấn công các lực lượng chống đối, lần lượt thực hiện được sự thống nhất Miền Nam.

                            Về thể chế, trước đây chữ “Quốc gia Việt Nam” dùng trong thời Bảo Đại không chỉ thị một nước có chế độ chính trị rõ rệt, có chủ quyền đầy đủ. Chữ nghĩa có tính cách hàm hồ. Sau cuộc bầu cử năm 1955, Miền Nam có một quốc hội dân cử, sau tháng 10-1956 có hiến pháp, có thể chế cộng hòa. Quốc gia có chủ quyền, chủ quyền ấy thuộc về toàn dân. Đâu ra đấy.

                            VAI TRÒ MỘT LÃNH TỤ

                            Mặt khác, chính sự kiện nhân vật Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh thay thế vai trò của Bảo Đại lúc bấy giờ cũng gây niềm hứng khởi, tạo được sự tin tưởng trong quần chúng. Điều đó chính ông Ngô lúc ấy cũng không ngờ đến: Ngày về nước, ông ngồi trong một chiếc xe hơi đen kín mít, kẻ đứng ngoài không nhìn thấy người bên trong, chạy vèo một cái từ phi trường về dinh thủ tướng, khiến dân chúng đón đợi hai bên đường ngơ ngác hỏi nhau: “Phải ‘ông ấy’ không nhỉ.”

                            Lúc ông Ngô về Sài Gòn, cũng như lần ông ra Huế, có vài nhân vật chứng kiến, chú ý, và ghi nhận phản ứng nồng nhiệt của dân chúng: tướng Lansdale và linh mục Cao Văn Luận. Linh mục Cao chỉ kể vắn tắt: “Tôi có ghé qua cuộc mít-tinh tại Phú Văn Lâu, và tôi nhận thấy cảm tình của dân chúng miền Trung đối với ông Diệm thật là chân thành và nồng nhiệt.”[1] Nhưng tướng Lansdale quan sát kỹ hơn, nhận xét tinh hơn và đã không dằn lòng được trước những điều trông thấy. Ông bảo hôm đó thoạt tiên ông đi phi trường vì tò mò, nhưng lái xe ra đường Công Lý ông “ngạc nhiên vì thấy nhiều đám đông đứng nghẹt hai bên đường”. Ông Lansdale nghĩ “dân chúng của một thủ đô trong thời chiến tranh này đã quá nhàm chán chẳng thèm liếc mắt ngó những nhân vật tai to mặt lớn đi trên xe hơi lộng lẫy...”, ông cũng lại biết rằng: “không có mấy cố gắng để vận động dân chúng ra đường chào đón mà chỉ có lời loan báo giản dị rằng ông Diệm sẽ về vào sáng hôm đó.” Thế mà quang cảnh trước mắt ông thật khác thường: “Có những gia đình mọi người chụm lại bên nhau, con nít trèo lên lưng hoặc vai và vịn lấy tay cha mẹ, hoặc dồn vào một chỗ trên hè phố. Nhiều xe bán nước mía đi bán rong hai bên. Mọi người phấn khởi và vui thích trong không khí của một ngày lễ.”[2] Dân chúng ngưỡng mộ như thế mà ông Ngô ngồi trong xe kín chạy tuột một hơi, chẳng mui trần, chẳng có vẫy tay, chẳng cười với dân hai bên đường phát nào cả! Tướng Lansdale tiếc hùi hụi. Ông nóng lòng muốn bàn ngay với thủ tướng Ngô về kế hoạch vận dụng cảm tình của quần chúng vào công cuộc xây dựng xứ sở. Ông tướng nổi hăng, viết ngay hôm ấy, viết suốt đêm đến sáng cho xong một bản kế hoạch. Nhưng lúc gặp ông đại sứ Hoa Kỳ thì ông này thấy không tiện gửi đến chính phủ Việt Nam một bản ý kiến như vậy. Chính phủ không khuyên chính phủ được thì cá nhân góp ý với cá nhân vậy: tướng Lansdale trong cơn hứng chí cao độ liền lôi một thông dịch viên tiếng Pháp đi thẳng đến gặp thủ tướng Ngô.

                            Biểu tình đông đảo, công kênh nhau chờ đón nhẫn nại bên đường, và ngay cả việc hiến kế của ông tướng Mỹ đều chưa phải là chuyện cảm động nhất: Trong cuốn Nhật ký Đỗ Thọ, người quân nhân này kể rằng năm 1955, ông đang học năm cuối cùng bậc trung học ở trường Khải Định, Huế; sau khi thủ tướng Ngô về nước, cậu học sinh Đỗ Thọ vượt sông Bến Hải về Hà Tĩnh để đưa gia đình vào Nam. Ông bảo: “Tôi viết lại chi tiết nhỏ nhặt về đời tôi, gia đình là muốn nói lên sự tin tưởng ở thủ tướng Ngô Đình Diệm (1954), động cơ đã thúc đẩy tôi nên tìm mảnh đất Miền Nam làm nghiệp sống.” (Ấn bản do Đồng Nai, Sài Gòn, phát hành ngày 27-10-70, trang 70, 71.)

                            Giữ lòng tin tưởng kính mến ấy cho đến tận lúc ông Ngô qua đời như Đỗ Thọ có lẽ chỉ được một số người, nhưng cái thái độ lúc ban đầu của Đỗ Thọ thì có thể cũng là thái độ của số đông.

                            Và không phải chỉ có quần chúng có mối cảm tình và lòng tin ấy đối với chính phủ Ngô Đình Diệm. Giới trí thức giới nghệ sĩ vốn thận trọng và thường xa cách chính quyền, thế mà vào những năm đầu sau hiệp định Genève họ cũng mất cái dè dặt cố hữu. Doãn Quốc Sỹ nói chuyện với Nguyễn Ngu Í về cái lúc ông mới từ Bắc di cư vào, viết kịch Một mùa xuân tin tưởng đăng trên báo Lửa Việt của sinh viên hồi 1955: “Thời ở chẳng yên, mà lại là thời cảm động nhất, tin tưởng ở Cách mạng; lúc bấy giờ, gặp các ông bộ trưởng, đổng lý văn phòng, là anh anh tôi tôi thân mật với nhau, không chút ngượng ngùng.”[3]

                            Chính cái “thân mật”, “không chút ngượng ngùng” thuở ấy đã đưa một nhóm học trò trung học lên đài danh vọng, đã biến mấy cậu bé mới từ Bắc di cư vào thành những nhà văn nổi tiếng một thời: Lê Tất Điều, Trần Dạ Từ v.v... Họ bắt đầu cuộc đời cầm bút bằng cách xúm xít nhau làm báo Văn Nghệ Học Sinh của Lê Bá Thảng, tức tờ báo của Bộ Thông tin. Ba mươi năm sau Lê Đình Điểu (tức Lê Ngọc Hà thuở ấy) nhắc lại chuyện cũ trên tờ Tin Việt ở California (số 21 ra ngày 25-6-84) với tất cả bùi ngùi cảm động.

                            Rõ ràng chính quyền lúc bấy giờ là một chính quyền được mến yêu, và lãnh tụ là một nhân vật được tin tưởng. Một thi sĩ đại danh như Vũ Hoàng Chương lúc này cũng không cần dè dặt nữa. Ông Vũ, nhân dịp Miền Nam bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý về việc truất phế Bảo Đại, trao quyền cho Ngô Đình Diệm, đã không ngần ngại viết những lời say sưa trong Hoa đăng:

                            “Lá phiếu trưng cầu một hiển linh,
                            Phá tan bạo ngược với vô hình.”

                            hay
                            “Hợp ý toàn dân kết ý trời.”

                            Lại chắc chắn cũng vì tin tưởng ở một triển vọng ổn định lâu dài của tình thế, vì yên tâm ở một chính quyền đứng đắn, lúc bấy giờ có rất nhiều trí thức du học ở Âu châu kéo về nước. Không còn chuyện trùm chăn, chuyện lẩn tránh chính quyền nữa. Họ tích cực tham gia xây dựng quê hương trên những lãnh vực chuyên môn khác nhau. Riêng về văn hóa, những vị hồi hương vào độ ấy như Nguyễn Văn Trung, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Khắc Hoạch, Trần Bích Lan v.v... đã có những đóng góp đáng kể.

                            CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG

                            Thế rồi ngay sau khi cầm quyền, trong lúc còn phải tiếp tục những cuộc hành quân bình định (ở Rừng Sát, Cái Vồn, Ba Lòng v.v...), ông Ngô đã tức thì khởi công tiến hành những kế hoạch xây dựng về giáo dục, kinh tế, xã hội...

                            Trong thời chiến tranh, các chánh phủ quốc gia trước thu rút lại trong các thành phố lớn, bỏ nông thôn cho cộng sản hoành hành. Sau 1954, chính phủ Miền Nam tiến rộng ra, dựng cơ sở hành chánh đến khắp các thôn ấp, cả những thôn ấp thượng du. Một nhu cầu đặt ra ngay trước mắt: giáo dục. Hành chánh đặt đến đâu, trường học phải lập ngay đến đấy cho con em đồng bào có chỗ học. Trong vòng một năm đầu không xã nào không có trường tiểu học; vài năm sau gần như không có quận nào không có trường trung học, có quận cả công lẫn tư đôi ba trường. Rồi đại học cũng phát triển mạnh, phát triển cả ra ngoài thủ đô: Đà Lạt, Cần Thơ, Huế, ngay bên cạnh sông Bến Hải.

                            Trong khi ấy thì đập Đồng Cam ở Phú Yên được xây ngay từ năm ngưng chiến đầu tiên. Rồi các vùng định cư, các khu dinh điền, các khu trù mật... được thành lập dồn dập, đập thủy điện Đa Nhim khởi công, trung tâm nguyên tử lực Đà Lạt hoàn thành; rồi đường hỏa xa được sửa sang, xe hỏa chạy thông suốt, một cuộc đua xe đạp Bến Hải ? Cà Mau tuyên dương cảnh thái bình khắp nước; rồi nhà máy xi-măng dựng lên ở Hà Tiên, xa lộ, làng đại học ở Thủ Đức; rồi chính sách cải cách điền địa đem ruộng đất chia cho dân nghèo, chính sách lành mạnh hóa xã hội: đóng cửa sòng bạc, nhà chứa, dẹp tiệm hút v.v... Không nghi ngờ gì nữa, ai cũng thấy Miền Nam phát triển mạnh. Bây giờ hơn mười năm sau mùa xuân 1975, chỉ cần một cái nhìn qua tình hình đời sống Miền Nam và một chút hồi tưởng về những thực hiện trong đôi ba năm sau cuộc ngưng chiến 1954 có thể làm ta thấy rõ không khí xây dựng hồi đó rộn rịp chừng nào và thành quả tốt đẹp hơn chừng nào.

                            Vùng liên khu V cũ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) vốn thuộc về cộng sản trong suốt thời kháng chiến và mức sống rất thấp. Sau hiệp định Genève ba năm, đến 1957 ở thôn quê trong các xóm làng đã mọc lên nhiều nhà ngói, trong nhiều vườn nhà có giếng xi-măng, tại các quận lỵ có nhà hộ sinh, có nhà máy xay gạo, trai làng sắm xe đạp và lắm nơi sắm cả xe gắn máy, về sự di chuyển công cộng thì đi xa có xe hơi, đi gần trong phạm vi quận xã có xe Lam ba bánh, nông dân bắt đầu mua máy cày v.v... Người ta cảm thấy rõ rệt mình đang tiến sang một giai đoạn mới của cuộc sống, tươi sáng hơn trước.

                            CUỘC DI CƯ

                            Tuy nhiên trong các yếu tố của tình hình Miền Nam sau 1954, quan trọng hơn cả chắc chắn là cuộc di cư.

                            Trong những ngày rối ren của 1954-55 mà tổ chức cuộc tiếp đón rồi định cư hàng triệu đồng bào từ Bắc kéo vào ào ạt, chính phủ Ngô Đình Diệm đã phải một phen vất vả không ít. Nhưng cuộc di cư ấy, một khi giải quyết xong, là cả một thắng lợi lớn cho chế độ mới.

                            Trước hết là một thắng lợi chính trị trên bình diện quốc tế. Hàng triệu người bỏ chạy trong ngày khải hoàn của quân đội Hồ Chí Minh tại Miền Bắc, đó là cả một sỉ nhục cho họ Hồ trước dư luận, đó là màn giới thiệu ngoạn mục cho chính phủ Ngô Đình Diệm vừa ra đời. Dư luận quốc tế thoạt tiên có thể không biết đến cái chính phủ và những nhân vật lu mờ ở Sài Gòn, trong khi tiếng đồn về những Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ v.v... còn vang dội khắp nơi. Nhưng cuộc di cư hàng triệu người vào Nam phải được chú ý, phải gây được lắm suy nghĩ cho khách bàng quan, ngoại cuộc.

                            Đối với dư luận trong nước, đối với đồng bào miền Nam cuộc di cư ấy cũng có tác dụng chấn động. Ban đầu là sững sờ, ngờ vực, là những va chạm do tập quán địa phương của đôi bên, do thành kiến chính trị. Miền Nam, nơi từng có cái “mốt” văn nghệ vọng bưng biền, Miền Nam không thể không lấy làm khó chịu trước hình thức “cải chính” phũ phàng như thế về chế độ của họ Hồ, không thể tin ngay được vào những lý do chống cộng của cuộc di cư. Nhưng ít ra lòng ngưỡng vọng về bưng phải dao động, những lời ca ngợi kháng chiến bị đánh bạt đi, và im bặt ngay. Nhất định không thể có phép lạ tuyên truyền nào của chính quyền gây được một tác động tâm lý tương đương với tác động của một cuộc di cư lớn lao như thế.

                            Khối di dân với thái độ chính trị thuận lợi ấy là chỗ dựa chắc chắn cho một chính phủ quyết tâm chống cộng. Suốt chín năm cầm quyền, vào những giờ phút khó khăn, tổng thống Ngô vẫn được sự ủng hộ của di dân.

                            Trong cuốnLoạn mà Chu Tử bảo là viết theo chuyện thực (ở phần “Để thay đoạn kết”), ông đã cho thấy thái độ và sự hoạt động của một nhóm trí thức di cư như thế nào trong những ngày Bình Xuyên đánh phá chính phủ. Những người di cư như Hiệp, như Huyền, họ vào Nam có lý tưởng, có nhiệt tâm, họ ý thức giá trị của mình, họ hãnh diện về vai trò của mình trong giai đoạn lịch sử này. Vì thế, mặc dù là ít so với dân số miền Nam, nhờ ý chí quả quyết, nhiều khi họ giữ vai chủ động. Hiệp, một thanh niên di cư đang nghèo, đang đi tìm việc, đến trước ngôi biệt thự đồ sộ của một ông đốc phủ sứ, chợt trông thấy tấm bảng cảnh cáo chó dữ. Chàng hơi ngại, nhưng tự nhủ ngay: “Một người di cư không có quyền ngán điều gì.” (trang 5). Thế là chàng mạnh dạn... Người ta có thể thấy trong đó một chút gì phường tuồng, quá đà, có thể ngờ rằng cái quá đà ấy rồi sẽ đưa tới thất vọng, chán nản sau này; dù sao đó là thái độ tiêu biểu lúc bấy giờ, của buổi đầu đầy tin tưởng, đầy quyết tâm.

                            Mặt khác cuộc di cư đã đưa vào Miền Nam một số nhân tài trong giai đoạn cần kíp. Rất nhiều nhân vật từ Miền Bắc vào sau này giữ địa vị trọng yếu trong các lãnh vực kinh tế, chính trị, quân sự ở Miền Nam. Riêng trong phạm vi văn học nghệ thuật, vai trò của khối văn nghệ sĩ di cư thật quan trọng. Ngay buổi đầu, sự hoạt động hăng hái của họ tạo không khí phấn khởi tưng bừng. Rồi trong cái số di dân đổ vào được đưa vội vàng đến tạm trú tại các trường học, các lều trại sơ sài, trong số đó có những sinh viên về sau thành ra các nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế..., có những cậu bé mới vào trung học về sau thành ra những văn thi sĩ Lê Tất Điều, Duyên Anh, Trần Dạ Từ, Tú Kếu, Hà Thúc Sinh...

                            Cuộc di cư còn có ảnh hưởng vào văn hóa miền Nam một cách sâu xa hơn, tuy âm thầm lặng lẽ hơn. Thật vậy, từ sau cuộc di cư 1954, ngày một ngày hai không ai để ý đến, nhưng cuộc sống ở miền Nam đổi khác: cái quai nón của người con gái đổi khác, chiếc áo đàn bà mặc trên người đổi khác, món quà người ta ăn hàng ngày không giống xưa, cái bìa báo bìa sách biến dạng đi v.v... Giọng nói miền Nam cũng biến đổi nữa, không sao? Sau này có cô ca sĩ nào mà không hát giọng Bắc; vả lại không cần phải chờ đến lúc thành ca sĩ mới đổi giọng: mọi nữ sinh, kể cả những cô nữ sinh trung học tận dưới Rạch Giá, Cà Mau hễ cất giọng lên là cũng hát giọng Bắc luôn. Và xa tít trong đồng quê, dọc bờ biển hoặc ven rừng núi, xung quanh những vùng định cư Cái Sắn, Phước Tĩnh, Gia Kiệm... chẳng hạn, phong tục tập quán miền Bắc cũng dần dần tỏa ra, len lách thấm dần vào xã hội miền Nam. Rồi kỹ thuật canh tác, kỹ thuật ngư nghiệp cổ truyền v.v... của miền Bắc cũng lan rộng ảnh hưởng của nó.

                            Vũ Bằng nói về sự thay đổi của cách ăn mặc, của cảnh hội hè trong Nam trước và sau cuộc di cư: “Cùng với những cái áo dài may kiểu mới thay thế cho những cái áo bà ba cũn cỡn, anh em ta ở đây, ngày tết, đã tỏ ra trang trọng hơn trước trong việc trang trí nhà cửa và ăn uống cũng như sửa soạn”[4]. “Cách đây[5] mười lăm năm (...) Sài thành không biết có xuân sang và ăn cái giao thừa không bằng vui cái đêm lễ Giáng sinh. Nhưng bây giờ đã khác: xa xa có tiếng giày dép người ta đi lễ giao thừa.”[6] Khác lắm: Trước không những mặc áo bà ba cũn cỡn mà nữ sinh đi học còn đội nón cối, trông rất ít chất thơ mộng. Trước quà bình dân trong chợ, bên đường, là những bánh cống, bánh lọt, bún nước lèo..., còn tiệc tùng yến ẩm thì toàn kéo nhau đi tiệm Tàu ăn món Tàu; sau này bún ốc, bún thang, giò chả, chả cá, gỏi cá, rồi nhất là phở Bắc vùng lên, hớn hở kết thân với đủ mọi giới đồng bào bất phân giàu nghèo Nam Bắc... Còn nhớ đâu đó thi sĩ Đông Hồ từng có lần luận về sự phát triển của phở ở miền Nam, và ông khen sau này có khi tô phở còn vui vẻ sẵn lòng chấp nhận một mớ giá sống cho hợp khẩu vị bà con địa phương, ông xem cái “đóng góp” ấy của miền Nam như là một sáng kiến để làm cho món ăn được mát dạ, giải nhiệt, thích hợp với khí hậu trong này.

                            Người Bắc di cư, cái khối người bỏ “cụ Hồ” theo “cụ Ngô” thoạt tiên rất dễ ghét đối với người miền Nam, dần dần họ đổi kiểu nón đội trên đầu họ thay kiểu guốc mang dưới chân dân Sài Gòn, họ làm vang tiếng giày dép trong đêm giao thừa Sài Gòn, họ thêm thắt lung tung vào bữa ăn sáng bữa nhậu khuya của người Sài Gòn. Họ góp phần quan trọng vào việc chuyển hướng chính trị trong quần chúng miền Nam. Rồi chúng ta sẽ thấy vai trò của họ trong văn học nghệ thuật thời kỳ này không kém quan trọng chút nào.

                            KHỐI NÔNG DÂN MIỀN TRUNG

                            Nói đến sự chuyển hướng chính trị do cuộc di cư từ Miền Bắc vào, lại không thể không nói đến vai trò chính trị của khối nông dân miền Trung được tiếp thu vào khu vực quốc gia sau hiệp định Genève 7-54.

                            Trước, Pháp và những chính phủ hợp tác với Pháp chỉ kiểm soát được các đô thị. Sau Genève, cộng sản tập kết ra Bắc, toàn thể lãnh thổ phía nam sông Bến Hải thuộc về chính phủ quốc gia, không phân biệt nông thôn hay thành thị. Sự gia nhập của khối nông dân miền Trung vào phía quốc gia, về một khía cạnh, cũng có giá trị tương tự như cuộc di cư từ Bắc vào Nam. Bởi vì khối nông dân này cũng hiểu biết về chế độ cộng sản như di dân. Cũng như di dân Miền Bắc, họ từ phía cộng sản chuyển về phía quốc gia. Cuộc chuyển vị tại chỗ không khác với cuộc chuyển di của người Bắc bao nhiêu, xét về ảnh hưởng chính trị.

                            Chúng tôi phải nói riêng khối nông dân miền Trung mà không nói bao trùm tất cả nông dân, bởi vì hoàn cảnh nông thôn ở Nam phần và nam Trung phần vẫn khác. Chính quyền Hồ Chí Minh sở dĩ bị chối bỏ oán ghét là từ khi thi hành chính sách độc tài giai cấp, công khai xuất lộ chế độ đảng trị; điều ấy chỉ xảy ra từ liên khu V ra Bắc mà thôi. Chỉ từ liên khu V trở ra (tức từ Phú Yên ra Bắc) mới có thuế nông nghiệp, có đấu tố địa chủ phú nông, có áp chế trung nông, tiểu tư sản v.v... Cho đến 1954, đối với đồng bào trong Nam, cộng sản ít nhiều còn giữ được bộ mặt của Việt Minh: đoàn kết toàn dân kháng chiến. Vì thế những điều di dân từ Bắc vào nói về cộng sản thường được lỗ tai tri kỷ của đồng bào miền Trung đón nhận một cách thông cảm, mà lại không lọt được vào tai đồng bào Nam phần. Có phải vì vậy mà có những nhà văn từ Bắc vào, như Doãn Quốc Sỹ, thấy rằng đa số độc giả của mình ở miền Trung, và sau này, lúc sách không ra được miền Trung nữa, thì đành tính việc ngưng xuất bản (trong cuộc phỏng vấn của Nguyễn Ngu Í, đã dẫn ở một phần trước).

                            Cuộc di cư năm 1954 của đồng bào Bắc vào Nam vẫn được xem như một cuộc bỏ phiếu bằng chân để từ chối chế độ cộng sản; sau 1954 ở nam vĩ tuyến 17 đến lượt nông dân miền Trung: họ bỏ phiếu nhiều lần nữa. Những lần sau này là bỏ phiếu táo tợn, thê thảm, vì bỏ phiếu đẫm máu, dưới lửa đạn cộng quân, tại Bình Long, Phú Bổn, Quảng Trị, trên Đại lộ Kinh hoàng... Cứ mỗi lần cộng sản tới nơi nào là bà con nông dân miền Trung liều chết bỏ chạy, không cách gì ngăn cản nổi.

                            Khi cộng quân tiến chiếm Quảng Trị, trong tổng số ba trăm nghìn dân toàn tỉnh chỉ có năm chục nghìn bị kẹt lại.[7] Nhà văn Dương Nghiễm Mậu đến thăm trại tạm cư Hòa Khánh trong dịp này chợt trông thấy ở một ngả ba đường có tấm bảng lớn sơn xanh kẽ chữ trắng: “Quận Gio Linh”. Ơ hay! Quận Gio Linh ở Hòa Khánh, sát thị xã Đà Nẵng? Thì ra đây là khu trại tạm trú của đồng bào tản cư từ Gio Linh vào. Toàn quận chừng ba chục nghìn dân thì đi thoát đến hăm tám nghìn.[8] Tấm bảng nọ không phải không có ý nghĩa: “Ở đây là người Gio Linh, ngoài kia chỉ còn đất trống trơ. Đây mới đích thực là Gio Linh sống.” Đất Gio Linh sát kề Trung Lương, bên cạnh vĩ tuyến 17. Càng gần cộng sản dân càng trốn chạy cộng sản mạnh.

                            Nghiêm Xuân Hồng cho rằng sau hiệp định Genève, do sự bộc lộ chân tướng vô sản chuyên chính của Việt Cộng và do sự rút lui của Pháp khỏi Việt Nam, chuyện chống ngoại xâm mất đối tượng và hiểm họa độc tài phát hiện rõ rệt, cho nên trên chính trường Việt Nam chỉ còn hai đối thủ để chống chọi nhau trong một cuộc thử lửa quyết định: tức phe quốc gia và phe cộng sản.[9] Ông Nghiêm đặc biệt chú ý đến cuộc di cư 1954, ông phân tích thành phần di dân và nêu rõ cái ý thức giai cấp đấu tranh chống vô sản của di dân vốn đa số gồm trí thức tiểu tư sản, trung tiểu nông.
                            Ở đây, chúng ta đang tiếp tay ông Nghiêm, góp vào khối di dân thêm một khối lượng đông đảo nữa. Cái tâm sự giống nhau giữa dân di cư Bắc Việt và đồng bào ở nông thôn miền Trung cũng phản ảnh vào văn nghệ: trong những năm đầu tiếng nói cất lên từ miền Trung của Võ Phiến, Đỗ Tấn... rất hợp với tiếng nói cất lên từ khối di dân của Nguyễn Mạnh Côn, Doãn Quốc Sỹ v.v... Rồi những Đoàn Nhật Tấn, Lôi Tam v.v... của miền Trung cũng vẫn có những bận tâm chính trị tương tự, trong khi đa số các tác giả miền Nam tỏ ra hờ hững với “cuộc thử lửa quyết định”.

                            CÁC BIẾN LOẠN PHÍA CỘNG SẢN

                            Cũng lại trong giai đoạn này, giai đoạn 1954-63, đã xảy ra những biến cố ở ngoài lãnh thổ Miền Nam Việt Nam nhưng ảnh hưởng rất sâu đậm vào tinh thần của Miền Nam, nhất là vào tinh thần giới trí thức, giới văn nghệ. Tôi muốn nói đến những biến cố bên kia những bức màn sắt, màn tre.
                            Gần gũi nhất là những cuộc nổi loạn ở Miền Bắc: vụ cán bộ Miền Nam tập kết kéo nhau đến phá bót cảnh sát Bờ Hồ, học sinh tập kết làm loạn ở Ngã Tư Sở ngay tại thủ đô Hà Nội, vụ đồng bào Quỳnh Lưu, Nghệ An nổi dậy đánh nhau với chính quyền, vụ chính quyền công khai nhận lỗi trong chính sách cải cách ruộng đất, Trường Chinh và Hồ Viết Thắng bị cất chức, những nạn nhân oan ức của đấu tố được trả tự do trở về tìm cán bộ trả thù gây ra náo loạn trong xã hội v.v... Những chuyện như thế làm kinh ngạc thành phần dân chúng thân cộng trong Nam, và làm cho chính đồng bào Bắc Việt di cư cũng lấy làm bất ngờ. Hồi năm 1958, viết chương đầu cho cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc (do Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa xuất bản ở Sài Gòn năm 1959), ông Hoàng Văn Chí bảo: “Những người thông thường, có đôi chút kinh nghiệm đau xót với cộng sản, kể cả những đồng bào Bắc Việt di cư cũng không ngờ rằng trong một thời gian không đầy hai năm tình hình ở nơi quê cha đất tổ có sự thay đổi quá nhanh chóng như vậy. Họ nhớ ngày nào quân đội của ‘Cụ’ kéo vào chiếm đóng Hà Nội, nhân dân thủ đô còn đón rước tưng bừng. Nào cờ quạt, nào biểu ngữ, nào cổng chào, nào kéo nhau đi xem văn công, xem triển lãm. Họ không ngờ rằng chỉ một năm sau khi họ bỏ nhà bỏ cửa ra đi, bộ đội oai hùng đó lại bị chính ngay nông dân vác gậy phang vỡ đầu.”

                            Đối với giới trí thức của Miền Nam thì vụ chống đối của trí thức Miền Bắc cùng các biến loạn trong thế giới cộng sản càng làm cho họ suy nghĩ.
                            20 tháng 2 năm 1956 tại đại hội lần thứ 20 của cộng đảng Nga, bỗng nhiên Khrushev nặng lời tố cáo Staline, đập đổ một thần tượng sừng sững lâu đời, làm cho giới chính trị cộng và thân cộng đâm ra hoang mang, chới với, mất phương hướng; 26 tháng 5 năm 1956 Trung Cộng phát động chính sách Trăm Hoa Đua Nở; 28 tháng 6 năm 1956 vụ Poznan bùng nổ ở Ba-lan; 28 tháng 10 năm 1956 nhân dân Hung-gia-lợi lại nổi dậy ở Budapest, làm náo động dư luận thế giới; sang năm 1957 nghệ sĩ và trí thức Trung Cộng thừa cơ hội Trăm Hoa Đua Nở xúm nhau công kích đảng và chính quyền. Nhà nước ra tay trấn áp, La Long Cơ bị “phê bình” dữ dội. Trăm hoa hết dám đua nở.

                            Ở Miền Bắc trong thời gian ấy cũng bùng nổ một cuộc “khởi nghĩa” của trí thức và văn nghệ sĩ.

                            Tháng 3 năm 1956 nhà xuất bản Minh Đức cho ra tập Giai Phẩm Mùa Xuân, bắt đầu nêu lên các khuyết điểm của đảng. Tháng 8-56, lại ra Giai Phẩm Mùa Thu. Ngày 15-9-56 báo Nhân Văn ra số 1. Rồi bao nhiêu là báo khác: Đất Mới (của sinh viên), Trăm Hoa (của Nguyễn Bính), nhật báo Thời Mới v.v... cũng ùa theo công kích nhà nước và giới lãnh đạo. Thậm chí dần dần tờ Văn, tạp chí của hội Văn nghệ, cũng quay ra chống đảng...

                            Đảng và nhà nước độ ấy phải một phen vất vả mới dẹp được... loạn. Ngày 15 tháng 12-1956 Hồ Chí Minh ký sắc lệnh qui định chặt chẽ giới hạn “tự do” của báo chí, phạt đến khổ sai chung thân tịch thu gia sản những kẻ phạm cấm. 304 văn nghệ sĩ bị bắt đi chỉnh huấn. Một số bị giam vào nhà pha Hỏa Lò (Thụy An, Nguyễn Hữu Đang). Nhiều người bị cất chức, bị đưa đi “học tập lao động”, bị đày đi những nơi ma thiêng nước độc, mất tăm mất tích.

                            Chỉ một thời gian ngắn sau khi đất nước bị chia cắt bày ra thế lưỡng phân đối địch minh bạch, một thời gian ngắn sau khi hàng triệu người chối bỏ cộng sản ra đi vào Nam, một thời gian ngắn sau khi cuộc tranh đấu cho độc lập chấm dứt và cuộc tranh đấu cho tự do bắt đầu thì “phía bên kia” chợt bày ra liên tiếp nhiều dấu hiệu suy nhược, như thế làm sao bên này không “hồ hởi”?! Nói đến tâm trạng của trí thức Miền Nam lúc bấy giờ lại nhớ đến trường hợp Nguyễn Mạnh Côn với cuốn Đem tâm tình viết lịch sử. Cuốn sách đã viết xong từ lâu, xếp chữ xong từ lâu, nhưng tác giả cứ để đấy, chần chờ. Đến năm 1958, sau những biến động vừa kể bên phía cộng sản, ông liền quyết định cho ấn hành, lòng đầy hứng khởi.

                            Lúc suy đồi

                            CUỘC TẤN CÔNG QUÂN SỰ CỦA CỘNG SẢN

                            Sự trạng tốt đẹp cho đến năm 1959, Miền Nam đã bẻ gãy các mưu toan lũng đoạn tình hình do cộng sản chủ trương, đến nỗi Lê Duẩn sau hai năm hoạt động ở Miền Nam đã trở về Hà Nội báo cáo sự thất bại và đề nghị một kế hoạch mới: tấn công bằng quân sự. Về phía bên này, cũng vào năm 1959 đại sứ Hoa Kỳ Elbridge Durbrow và tướng Williams báo cáo về Hoa-thịnh-đốn tình hình lạc quan ở Việt Nam và đề nghị cho rút cố vấn Mỹ về nước trong vòng hai năm tới.

                            Nhưng đến đây, từ năm 1959, thì các rắc rối bắt đầu. Chủ trương dùng vũ lực của cộng sản được Miền Bắc đưa ra thực hiện. Tháng 5-1959 đoàn vận tải mở đường mòn Hồ Chí Minh. Bảy mươi nghìn cán bộ tập kết được tăng phái vào Miền Nam. Tháng 12-1959, Mặt trận Giải phóng Miền Nam ra đời. Trong năm 1959 có 250 viên chức của Miền Nam bị cộng sản sát hại. Năm 1960, số viên chức bị ám sát lên đến 1400 người. Rồi dần dần xảy ra những trận đụng độ cấp đại đội, cấp tiểu đoàn v.v...

                            Trước chính sách công khai dùng vũ lực để thôn tính Miền Nam của cộng sản, ông Kennedy vừa nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ vài tháng, thay vì rút cố vấn, đã gửi ngay 15 nghìn quân Mỹ sang giúp Việt Nam. Bắc Việt lại tăng cường xâm nhập để đối phó. Cứ thế đôi bên cùng leo thang.

                            Muốn tránh sự hiện diện đông đảo của quân đội Mỹ trên lãnh thổ ta và muốn tìm một chiến lược thích hợp để đối phó với chiến tranh du kích của cộng sản, chính phủ Ngô Đình Diệm chú ý đến các kinh nghiệm chống cộng ở Mã-lai. Một số chuyên viên người Anh được mời sang, chính sách ấp chiến lược được đề ra để tách lìa cán bộ cộng sản khỏi dân chúng. Các biện pháp này tỏ ra hữu hiệu; vào năm 1962, hoạt động cộng sản đã suy yếu nhiều. Nhưng ngay sau đó, tình hình chính trị của Miền Nam lại đổ ra tồi tệ, khiến các thắng lợi quân sự hóa ra vô ích.

                            SỰ RỐI LOẠN Ở MIỀN NAM

                            Sau khi cầm quyền ba, bốn năm, tổng thống Ngô bị một nguồn dư luận càng ngày càng rộng rãi chỉ trích là độc tài. Bất mãn nhóm lên từ các đảng phái quốc gia, từ các chính khách đối lập. Năm 1959, một phi công ném bom dinh Độc Lập. Đầu năm 1960 một nhóm 18 nhân vật ? nhóm Caravelle ? gửi đến tổng thống một bản nhận định chính sách và khuyến cáo sửa chữa các khuyết điểm. Ngày 11 tháng 11 năm 1960 một số sĩ quan cấp tá ? Vương Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi... ? tổ chức một cuộc đảo chánh hụt. Nhưng tình thế đặc biệt trở nên trầm trọng từ ngày xảy ra vụ Phật giáo. Tháng 5-1963 Phật tử Huế biểu tình chống chính phủ vì vấn đề treo giáo kỳ. Câu chuyện dần dần đưa đến những cuộc chống đối rộng lớn khắp nước, rồi những cuộc tự thiêu, đến chuyện bao vây chùa, bắt sư sãi v.v... Diễn tiến sự việc ảnh hưởng mạnh đến dư luận Hoa Kỳ, tổng thống nước này đã ủng hộ một nhóm tướng lãnh lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Biến cố ấy kết thúc nền đệ nhất cộng hòa, chấm dứt giai đoạn đầu của thời kỳ sau Genève ở Miền Nam. Giai đoạn mà chính phủ ta có chính sách rõ ràng, liên tục, mà ta giữ được chủ động trước tình thế cho đến trước năm cuối cùng.

                            Sau này thì ôi thôi, toàn những thay đổi bấp bênh; ta bị sự việc dập dồn tràn ngập, chỉ những lo tả xông hữu đột để đối phó với tình hình, chẳng còn đâu là chính sách, là chủ động nữa.

                            _________________________

                            [1] Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ.
                            [2] E.G. Lansdale, Tôi làm quân sư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, bản dịch của L.T., Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 33, 34.
                            [3] Nguyễn Ngu Í, Sống và viết với..., Ngèi Xanh, Sài Gòn, 1966, trang 139, 140.
                            [4] Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, Sống Mới tái bản ở Hoa Kỳ, trang 283.
                            [5] Câu này viết ra có lẽ vào khoảng 1970-71.
                            [6] Vũ Bằng, sđd, trang 267, 268.
                            [7] Dương Nghiễm Mậu, ‘Quảng Trị đất đợi về’, trong tập bút ký Những ngày dài trên quê hương, Sài Gòn, 1972.
                            [8] Sđd.
                            [9] Nghiêm Xuân Hồng, Lịch trình diễn tiến của phong trào quốc gia Việt Nam, nguyệt san Ngày Về tái bản tại Hoa Kỳ, trang 85, 245, 246.
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.09.2006 15:40:50 bởi silverbullet >
                            #29
                              silverbullet 26.09.2006 18:08:25 (permalink)
                              VĂN HỌC MIỀN NAM: TỔNG QUAN

                              GIAI ĐOẠN 1954-1963

                              VĂN HỌC


                              Hoạt động tưng bừng

                              Tình hình văn học trong giai đoạn đầu ở Miền Nam phản ảnh cái phấn khởi, tin tưởng, tích cực, nghiêm chỉnh của tình hình chung lúc bấy giờ.
                              Chính quyền trong những năm đầu được sự ủng hộ của đa số dân chúng, của các đảng phái. Nhờ sự ủng hộ ấy thủ tướng Ngô chân ướt chân ráo mới về nước đã thắng lực lượng Bình Xuyên, Ba Cụt v.v..., đã thắng Bảo Đại. Giữa chính quyền và trí thức nghệ sĩ, cái quan hệ trong buổi đầu cũng rất đề huề. Ta đã thấy Doãn Quốc Sỹ từng nhắc lại với Nguyễn Ngu Í những tiếp xúc “anh anh tôi tôi”, thân mật, không ngượng ngùng, với các nhân vật chính quyền độ ấy.

                              Chính phủ Ngô Đình Diệm thực ra không có hẳn một chính sách văn hóa, không chủ tâm “lái” văn nghệ vào một con đường nào, không có tham vọng lãnh đạo văn hóa. Nhưng chính phủ có khuyến khích, giúp đỡ phương tiện cho văn nghệ. Đối với giới họa, có các cuộc triển lãm hội họa mỗi mùa xuân. Đối với văn giới có Giải thưởng Văn chương Toàn quốc hàng năm. Đối với ngành nhiếp ảnh nghệ thuật, có các cuộc triển lãm nhiếp ảnh quốc tế cũng tổ chức hàng năm. Phải nhận rằng những cuộc triển lãm như thế đã phát huy liên tiếp trong các năm đầu thập niên 60 nhiều họa sĩ chân tài. Để đẩy mạnh sinh hoạt sân khấu kịch trường, ông Vũ Đức Diên được giúp đỡ mở quán Anh Vũ. Nhiều nghệ sĩ di cư từ Bắc vào đã được giúp đỡ phương tiện để xuất bản sách báo: Đó là trường hợp các nhóm Tự Do, Sáng Tạo v.v... Nhiều hiệp hội văn hóa như Văn Bút Việt Nam, như Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa v.v... được tiếp sức khi cần trong những nhu cầu điều hành, sinh hoạt.

                              Về phía văn nghệ sĩ trong hoàn cảnh bấy giờ, sự hoạt động tưng bừng hẳn lên. Những nhân vật tiền chiến bấy lâu im tiếng bây giờ lại xuất hiện. Họ cảm thấy đến lúc có thể yên tâm mà tung chăn không ngượng ngùng trước dư luận, đến lúc có điều kiện ổn định cho những dự định qui mô, những công trình dài hơi.

                              Vũ Hoàng Chương hăng say ngây ngất:

                              “Gió nối vần mây giục đấu tranh
                              Tâm tư lồng lộng kết nên thành
                              Thành ngăn sóng Đỏ, mây sừng sững
                              Nước Tổ về ngôi đẹp sử xanh”
                              (Hoa đăng)


                              Nhất Linh từ ngày về nước vẫn im lặng, “nghỉ ngơi”, vui với cây cỏ núi rừng như một đạo sĩ ngoài vòng trần tục, ông Nhất Linh ấy bây giờ quyết định “hạ sơn”. Ông chiêu tập anh tài, lại làm báo lại viết sách, viết trường giang tiểu thuyết phỏng ước dài mấy nghìn trang, ông thành lập hội Văn Bút Việt Nam, ông phục sinh và mở rộng Tự Lực văn đoàn v.v... Học giả Đào Đăng Vỹ đơn thân độc mã khởi công soạn bách khoa từ điển, cho in dần dần. Các ông Lê Văn Siêu, Hoàng Trọng Miên, mỗi người bắt đầu theo cách riêng một bộ lịch sử văn học Việt Nam, từ khởi thủy...

                              Các bậc tài danh trong hàng huynh trưởng tưởng đã buông tay bỗng dưng trở lại hoạt động hăng hái, còn các khuôn mặt mới thì chen nhau xuất hiện. Nhiều tạp chí văn nghệ ra đời, mỗi tờ qui tụ một số cây bút mới: Sáng Tạo, Bách Khoa, Hiện Đại, Thế Kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Nhân Loại v.v... Có khi một tờ nhật báo cũng thành chỗ hội ngộ của nhiều cây bút giá trị: tờ Tự Do chẳng hạn. Cũng có trường hợp một số tài năng chọn cách ra mắt bằng một nhà xuất bản: nhà Quan Điểm tung ra những Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Tạ Văn Nho, Mặc Đỗ v.v... Để nói lên cái náo nức tưng bừng lúc bấy giờ chắc chắn nên chọn Mai Thảo. Nhà văn này vốn thường khoa tay quá trán, nói không tiếc lời, hồi ấy đã chọn đúng lúc để vung lên những hò hét nhiệt liệt nhất, ồn ào nhất: “đem ngọn lửa văn hóa vượt vĩ tuyến sáng lên ở đây hôm nay.”[1] “Năm 1954 còn ghi lại, chói lọi, cái đẹp ấy của mùa mới, cái đẹp ấy của lên đường. Ta từng đi chật đất. Ta từng có, lớp lớp. Ta từng đến, hàng hàng. Những khởi đầu của từng hoạt động văn học, từng phát động nghệ thuật nói chung của ta tuyệt đúng, tuyệt đẹp.”[2]

                              Cảnh tượng trăm hoa đua nở tưng bừng ấy không phải chỉ là một hiện tượng văn học. Ở các bộ môn nghệ thuật khác đại khái đều thế cả. Trong ngành nhạc, Phạm Duy từ kháng chiến bỏ về đã lâu, vào Nam cũng đã lâu, mà không có hoạt động gì đáng kể. Sau 1954, ông hoàn thành liên tiếp hai bản trường ca Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Trong ngành họa, ban đầu là những hoạt động của Tạ Tỵ, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn..., nhưng tiếp liền sau đó xuất hiện một loạt nhiều họa sĩ trẻ chân tài. Điện ảnh hãy còn là mới mẻ, nhưng ngay trong những năm đầu tiên đã đưa ra mấy cuốn phim giá trị, trong đó phim Chúng tôi muốn sống mười năm sau rồi đoạt một giải thưởng ở Hán Thành.

                              Trong khung cảnh thái bình, nước nhà vừa có chủ quyền, có chế độ dân chủ, trong một xã hội được lành mạnh hóa dần dần, dưới một chính phủ đang được tín nhiệm, trong không khí vui vẻ xây dựng một miền đất tự do để ngăn ngừa hiểm họa độc tài, văn học nghệ thuật đã phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. Giai đoạn đầu (1954-1963) không đạt đến nửa thời gian của thời kỳ văn học 1954-75, thế nhưng trong tổng số các tác giả nổi tiếng của toàn thời kỳ này thì giai đoạn đầu chiếm bảy, tám phần mười. Và tôi nghĩ rằng những tác giả có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng, những tác giả mà tiếng nói có sức vang vọng trong dư luận, chi phối được ít nhiều nhân tâm thế đạo, loại tác giả ấy phần lớn thuộc về giai đoạn này hơn là giai đoạn sau.

                              (còn tiếp)
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 53 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9