(url) Nguyễn Xuân Khánh
Ngọc Lý 19.09.2006 11:15:37 (permalink)
.

Nguyễn Xuân Khánh




Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
Cuốn tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn
của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nhận giải cao nhất
trong lĩnh vực văn xuôi 2006
Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội


Tiểu Sử:

Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại làng Cổ Nhuế, Hà Nội. Ông đỗ tú tài Toán, học Đại học Y khoa Hà Nội cho đến hết năm 1952 thì ra vùng tự do tham gia bộ đội. Trong khoảng mười năm, ông ở một đơn vị pháo binh, rồi dạy văn hoá tại Trường Sĩ quan Lục quân trước khi chuyển về làm việc tại tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ 1966, ông là phóng viên báo Thiếu niên Tiền phong trước khi về hưu non vào năm 1973. Hiện ông sống ở Hà Nội.

Tác phẩm: Rừng sâu (tập truyện ngắn, Nxb. Văn học, H., 1962), Miền hoang tưởng (tiểu thuyết, Nxb. Đà Nẵng, 1990), Trư cuồng (tiểu thuyết, talawas, 2005), Hồ Quý Ly (tiểu thuyết, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 2000, 2001, 2002, nối bản và tái bản 15 lần), Hai đứa trẻ và con chó Mèo xóm núi (Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2002), (Mưa quê, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 2003). Mẫu thượng ngàn (tiểu thuyết, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 2006).

Sách biên khảo: George Sand – nhà văn của tình yêu (Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1994)

Dịch thuật: Những quả vàng (tiểu thuyết của Nathalie Sarraute, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1996),
Chuông nguyện cầu cho kẻ đã khuất (tiểu thuyết của Taha Ben Jelloun, Trung tâm Văn hoá-Văn minh Pháp và nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 1998),
Bảy ngày trên khinh khí cầu (Jules Verne, Nxb. Kim Đồng, Hà Nội, 1998),
Hoàng hậu Sicile (tiểu thuyết của Pamela Schoenewaldt, Nxb.Kim Đồng, Hà Nội, 1999),
Tâm lý học đám đông (tiểu luận của Gustave le Bon, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2006)

Nguồn: talawas

________


Nguyễn Xuân Khánh
gác bút sau 'Mẫu Thượng Ngàn'

10/08/2006


"Viết là một công việc nhọc nhằn. Tôi chưa bao giờ vì cái đó mà thôi viết cả. Nhưng viết, phải có ý tưởng, sự trải nghiệm, ý thức… Tôi chưa hài lòng thực sự với tác phẩm nào của mình cả. Nhưng có chừng nào, viết ra đến đó, nó còn do số phận. Tôi coi như thế là xong", nhà văn Nguyễn Xuân Khánh tâm sự sau khi cho ra mắt tiểu thuyết "Mẫu Thượng Ngàn".

- Cuốn "Hồ Quý Ly", ông viết trong 4 năm, còn "Mẫu Thượng Ngàn" không kém, cũng là 4 năm. Ông có bí quyết gì sau khoảng thời gian ấy?

- Có tác phẩm tôi viết nhanh, trong 2 năm, có tác phẩm 4 năm. Nhưng nói là viết ra thôi, chứ những suy ngẫm, nó theo mình cả cuộc đời chỉ chờ có duyên. Cuốn Mẫu Thượng Ngàn tôi viết từ năm 1959, tên tiền thân của nó là Làng Nghèo. Cuốn này đáng lẽ xuất bản từ năm 1962 nhưng nó không được phép in.

- Vậy tại sao "Làng Nghèo", một cuốn sách viết về kháng chiến chống Pháp trong một ngôi làng lại trở thành "Mẫu Thượng Ngàn"?

- Vì một lý do đặc biệt, tôi đã phải gửi tất cả bản thảo cho bạn bè giữ hộ. Sau đó, bạn tôi, dịch giả Lê Bầu mới tìm được và trả lại cho tôi. Đến năm 2000, tôi lục lại các bản thảo cũ thấy Làng Nghèokhông còn hợp thời. Tôi cũng đã 71 tuổi, có nhiều suy tư khác đi. Tôi quyết định đẩy mạnh không gian trong tiểu thuyết, từ đơn thuần chỉ là kháng chiến chuyển sang viết về văn hóa Việt, văn hóa làng.

- Điều gì khiến ông quyết định chọn đạo Mẫu làm luồng tư tưởng ngầm nhưng vững chắc chảy xuyên suốt trong cuốn tiểu thuyết này?

- Tôi yêu và kính trọng người mẹ của tôi, một người đàn bà Việt thuần chất. Mẹ tôi một năm có đi hầu đồng một, hai lần. Tôi được cảm nhận không khí của đạo Mẫu từ thuở bé vì thường hay đi theo mẹ đến khắp các đình chùa miếu mạo Việt Nam. Và ngay cả sau này nữa, mỗi lần đi dự các lễ hội dân gian về là thêm được sự tích lũy kiến thức về vốn dân gian. Cái cốt của đạo Mẫu ở Việt Nam không được những người có tri thức nghiên cứu phát triển. Sau khi có đạo Khổng thâm nhập vào Việt Nam, nó bắt đầu bài trừ đạo Mẫu. Nhưng đạo Mẫu là đạo nguyên thủy của người Việt Nam: thờ mẫu, thờ mẹ núi, mẹ sông, mẹ đất, thờ Man nương… Nó có tính chất nguyên thủy ngấm ngầm trong dân gian, không có tính tri thức gì. Nó là đạo của những người nghèo khổ.

- Ngày nay, cứ nhắc đến chuyện đi hầu đồng hầu bóng, là người ta nghĩ ngay đến chuyện mê tín dị đoan và gây tốn kém cho người dân. Ông nghĩ sao?

- Nguyên thủy của tôn giáo dân tộc là ở nông thôn, ở làng, ở quê. Phải nhìn đạo Mẫu rất căn bản đẹp đẽ ở nông thôn. Trước đó, người dân hồn nhiên, không có nhiều tiền. Khi vào thành phố, trong tay người giàu, bọn buôn thần bán thánh, đạo Mẫu mới bị biến hóa đi. Tôi viết tiểu thuyết này, cũng muốn nhằm cho một số người làm văn hóa, có trách nhiệm nhìn nhận nó theo tiểu thuyết chứ không mang tính chất báo chí. Bây giờ người ta mới chú ý đến đạo Mẫu cũng chỉ là lợi dụng. Đánh điệu còn, điệu xác cũng cho là hát dân gian, rồi đi làm cho mấy ông du lịch, mấy cô dân công múa hát, không phải là chất huyền của đạo.



Bìa cuốn "Mẫu Thượng Ngàn".
Ảnh: VTCnews


- Những người đàn bà trong tiểu thuyết của ông có ảnh hưởng từ nguyên mẫu nào?

- Đó là bắt nguồn từ những người đàn bà ở làng tôi thuở xưa, làng Kẻ Noi, Cổ Nhuế. Họ đẹp lắm. Tính tình thuần chất nông dân. Những người đàn bà nghèo chẳng được ai nâng đỡ. Họ chịu đau khổ với số phận của mình như nhân vật bà đĩ Váy, cô Mùi, Nhụ, bà mõ Pháo. Nhưng chưa bao giờ họ đầu hàng số phận.

- Trong tiểu thuyết có miêu tả nhiều tập tục đã mất, những lễ hội chỉ còn trong quá khứ và các đặc tính dân gian khác của người Việt. Ông có thể cho biết một vài chi tiết mà ông thấy ưa thích?

- Đó là “mùa trải ổ”, nam nữ yêu nhau hẹn hò nhau ở một nơi nào đó sau khi lễ hội diễn ra. Họ có thể trao tình cảm với nhau, theo quan niệm của các dân tộc thiểu số miền núi, quan hệ nam nữ không có ghê gớm như từ khi đạo Khổng thâm nhập vào Việt Nam. Những lễ hội mang tính phồn thực, họ lấy chiếc mo cau, biểu tượng cho bộ phận sinh dục của phụ nữ vừa hát vừa gõ, những linh vật như linga, yoni, hay tượng nhà mồ Tây Nguyên… Chúng không phải là những cái dâm, mà là biểu tượng cho sự sinh sôi, được mùa.

TVE (Theo VTCnews)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2006 10:03:35 bởi TTL >
#1
    Ngọc Lý 19.09.2006 11:37:50 (permalink)
    .

    Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh:
    “Đề cập đến nhục cảm
    không có gì là xấu”

    Chu Minh Vũ (thực hiện)




    Chọn chủ đề nông thôn Việt, mà lại viết về văn hóa làng, văn hóa đạo Mẫu - thì quả đúng điển hình Việt Nam nhất. Sự kiện nhà văn Nguyễn Xuân Khánh ở tuổi 75 vừa cho ra đời cuốn tiểu thuyết thứ 4 - Mẫu thượng ngàn càng chứng tỏ ông là một tiểu thuyết gia am hiểu tường tận văn hóa Việt.

    Giới văn học nức lòng chào đón, "còn hơn" cả tiểu thuyết Hồ Quý Ly - Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam 2003. Trong những bộn bề của việc phát huy bản sắc dân tộc, cầm trên tay cuốn sách 800 trang của một nhà văn đáng kính, thật cảm động vì sự ra đời đúng lúc.

    * Ông có thể cho biết sự ra đời của Mẫu thượng ngàn ?

    - Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Năm 1959, khi dự trại sáng tác của Quân đội, tôi viết cuốn Làng nghèo. Lẽ ra năm 1962 - 1963 đã có thể ra đời, nhưng cái làng lớn miền Bắc lúc đó cũng còn nghèo quá, Làng nghèo không in được. Cuốn đó, tôi viết thương tâm lắm. Làng nghèo, và nhân vật không thể không chết, chết nhiều lắm. Và cũng vì vậy mà sách không xuất hiện. Nhưng ý thức viết một cái gì đó thật sâu sắc về văn hóa làng Việt manh nha trong tâm thức thì tôi vẫn giữ nguyên, thậm chí từ lúc bé, đến Làng nghèo càng sâu sắc hơn. Sau khi in cuốn Hồ Quý Ly, tôi mới nhớ lại những làng nghèo trong quá khứ của mình. Bản thảo Làng nghèo bị thất lạc, may mắn còn lại một bản anh Lê Bầu giữ được. Tôi mở rộng thành cuốn tiểu thuyết mới và đẩy lùi lịch sử trở về thời Pháp bắt đầu xâm chiếm đất nước ta - giai đoạn giao lưu văn hóa Đông Tây cưỡng chế bằng bạo lực. Chính giai đoạn lịch sử này bộc lộ chất Việt Nam rõ rệt hơn.



    Nguyễn Xuân Khánh


    * Những người phụ nữ trong Mẫu thượng ngàn hiện lên đầy yêu thương, bao dung nhưng rất mạnh mẽ. Vì đâu mà ông có được những nhân vật nữ sống động như vậy?

    - Tôi đã định viết một cuốn sách về những người phụ nữ từ lâu. Năm 2000, được giao nhiệm vụ viết gia phả cho họ Mạc, được cung cấp đầy đủ tài liệu và những câu chuyện truyền miệng của dòng họ để chấp bút. Và cứ thế, huyền thoại, lịch sử, bà con cứ lần lượt hiện về gây hứng thú cho tôi viết sách - một cuốn sách mang rất nhiều câu chuyện gia đình. Bà tổ Cô bí ẩn trong truyện chính là cụ tôi, bà ba Váy chính là chị họ tôi, vợ một ông chánh tổng. Bà Mõ khốn khổ là hàng xóm gia đình tôi... Năm 1938, một câu chuyện bi thương đã xảy ra trong làng tôi, đó là dịch tả. Thầy tôi, chị tôi, rồi thím tôi lần lượt chết cả. Tôi lúc đó mới lên 6, 7 tuổi ngồi trông con mèo cho nó không nhảy qua xác chị tôi để chị không bị quỷ nhập tràng. Thương lắm... Lẽ ra tôi cứ viết luôn tiểu thuyết về làng Cổ Nhuế nhà tôi, nhưng nếu viết vậy sẽ thiếu đất để nói về văn hóa làng Việt Nam. May mắn, tôi đã sống ít nhất 14 năm Pháp thuộc ở làng rồi đi. Càng sống, càng xa, càng qua nhiều miền đất khác, càng thấy và cảm nhận được những tiếp biến văn hóa, kể từ lúc thầy mất, mẹ đưa ra Hà Nội thị thành đến lúc này. Và bây giờ mới có được cuốn tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn.


    * Và như vậy mọi nhân vật trong Mẫu thượng ngàn đều có nguyên mẫu?

    - Không, có nhân vật là những tổng hợp hư cấu trong văn hóa của nhà văn. Ví dụ, nhân vật ông đầu bếp người Trung Hoa là một sự đối sách giữa thực dân cáo già hàng ngàn năm với lớp thực dân Pháp mới. Bên cạnh sự khác nhau về văn hóa, chúng lại có chung mục đích đồng hóa dân mình. Trong tiểu thuyết này, sự phồn thực được đề cập đến để thể hiện cuộc đấu tranh văn hóa giữa người Việt và người Pháp, thậm chí ngay cả trên giường ngủ. Đề cập đến nhục cảm không có gì xấu, sự giao hòa đàn ông và đàn bà là đẹp nhất và người nhất, không thể lảng tránh. Nó thể hiện sức sống Việt, phồn thực Việt và làm nên sức mạnh Việt Nam cứu rỗi dân tộc và nhân bản.

    * Sau 2 cuốn tiểu thuyết lịch sử liên tiếp, ông hy vọng gì vào người đọc?

    - Lẽ dĩ nhiên tôi tin bạn đọc đủ thông minh để hiểu tính đa chiều của mỗi cuốn sách, không chỉ của riêng tôi. Đương nhiên, tôi cũng chỉ muốn mang đến những điều tốt đẹp nhất cho người đọc, và họ có quyền tham dự, đóng góp sáng tạo lần 2 vào cuốn sách theo suy nghĩ của riêng mình. Tiểu thuyết lịch sử là một mảng lớn vì lịch sử hàm chứa cái vô thức tập thể của cả dân tộc. Tiểu thuyết lịch sử có nhiệm vụ phát hiện những cội nghiệp chung để cho người đọc cùng suy nghĩ.

    C.M.V


    http://www.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2006/7/21/156367.tno
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 19.09.2006 12:17:24 bởi Ngọc Lý >
    #2
      Ngọc Lý 19.09.2006 12:36:01 (permalink)
      .

      Nguyễn Xuân Khánh
      Mẫu thượng ngàn







      Chương VII: Bà tổ cô


      1.

      Tên thực của bà là Vũ Thị Ngát. Đứng về thế thứ họ tộc, bà là cô của ông tú Cao, tiên chỉ Nhậm; là bà của lý Cỏn, hương Ất; là cụ của thằng Cò, cái đĩ Váy con, thằng Điệp, v.v... Nói tóm lại, trong họ Vũ Xuân bà ở bậc cao nhất, nên cả họ tôn là bà tổ cô. Vả lại, đứng về tuổi tác, bà gần chín mươi, già nhất làng, nên không những chỉ họ Vũ Xuân, mà cả làng cũng tôn bà là tổ cô.

      Thuở con gái bà đẹp lắm, thắt đáy lưng ong, khuôn mặt trái xoan, mi thanh mục tú. Chẳng cần trang điểm cũng đẹp nõn nà. Dân làng bảo giá không phải thời loạn mà ở thời bình, chắc dân làng phải đem bà tiến vua, nếu không làm hoàng hậu, chắc cũng phải là quý phi. Đặc biệt cái dáng của bà, nó sang trọng làm sao, cao quý làm sao. Cả chân tay cũng đẹp, những ngón tay dài búp măng, lấp ló dưới chiếc váy sồi đen nhánh là hai bàn chân xinh xinh gót lúc nào cũng đỏ như son. Tất cả con người như một đoá hoa tươi. Bà đứng chỗ nào là chỗ ấy như sáng sủa lên, như rực rỡ lên. Cả họ Vũ Xuân, ai cũng quý cô Ngát. Cha mẹ bà thì nâng niu cô con gái, không dám bắt làm việc nặng đồng áng nhiều, chỉ cho làm việc trong nhà như canh cửi tằm tơ.

      Bố mẹ cô rất lo. Lo vì người con gái đẹp thời loạn dễ gặp điều bất trắc. Lo vì biết gả cô cho ai. Lo nếu gặp anh chồng vũ phu chẳng ra gì, hoặc anh chồng đức hạnh nhưng quá nghèo túng thì đời cô sẽ khổ.

      Lúc ấy, có ông Vũ Huy Tân người tỉnh Nam đến làng. Ông là người đạo cao đức trọng, đỗ phó bảng, rồi từ quan về nhà bốc thuốc. Ông đến chữa bệnh cho người họ Vũ Xuân. Thầy lang cũng họ Vũ, chủ nhà cũng họ Vũ, một đằng Vũ Xuân, một đằng Vũ Huy. Họ tra gia phả. Hoá ra họ Vũ Huy gốc cũng ở Cổ Đình. Họ Vũ Huy, do một ông tổ chi từ đời nhà Mạc, đã lưu lạc xuống tỉnh Nam lập nghiệp mà hình thành nên. Giá như ông Vũ Huy Tân còn đang làm quan thì họ Vũ Xuân chưa chắc đã dám nhận, vì sợ mang cái tiếng thấy sang bắt quàng làm họ. Đằng này, ông Tân đã từ quan, mà hình như từ quan do vua Tự Đức không ưa, gia cảnh lại nghèo, chỉ còn được cái tiếng đỗ đạt cao, cho nên họ Vũ Xuân mới dám nhận họ. Nhận là nhận cái văn hoa, học hành, điều này họ Vũ Xuân còn thiếu và thèm muốn. Vì vậy nên họ Vũ Xuân liền cắt một mẫu vườn, làm ngôi nhà gọn gàng, đón ông Vũ Huy Tân về làm thầy cho cả làng cả tổng. Ông Vũ Huy Tân nhìn thế đất làng Đình, cho là nơi có thế ngoạ hổ tàng long, nơi nằm giữa đồng bằng và miền núi, có thể tiến, có thể thoái nên nhận lời về dạy học ở đấy. Ông Vũ Huy Tân có người bạn đỗ cử nhân là Phùng Khiêm. Ông Khiêm làm tri phủ, bà vợ bệnh mới mất. Vũ Huy Tân thấy cô Vũ Thị Ngát vừa đẹp người, vừa đẹp nết, liền nói với họ Vũ Xuân, làm mối cô Ngát cho cử Khiêm. Họ Vũ Xuân vui mừng thở phào. Bởi vì họ Vũ đang lúng túng. Gả cô Ngát cho một người quá tầm thường thì họ không muốn. Còn gả cô cho một người xứng đáng thì thời loạn quả là khó. Người ta bảo: "Thôi! Cô không làm quý phi, mà làm bà tri phủ thì cũng được".

      Cô Ngát lấy chồng vào năm Tân Dậu. Khi ấy cô mười sáu tuổi. Bây giờ cô không phải là cô Ngát nữa mà là bà phủ Khiêm. Cô theo chồng về xứ Nam, nơi nhậm sở của chồng. Mới mười tám, nhưng cô đã chững chạc lắm. Ngoài nhan sắc ra, cô còn biết chữ nghĩa, lại là người hiền hoà thương người nên ông phủ Khiêm vừa quý trọng, vừa yêu mến cô lắm. Ngoài việc gia đình, có khi cả việc quan ông Khiêm cũng đem ra hỏi cô. Cô chẳng đọc nhiều sách vở, nhưng cứ theo lẽ thường trong dân gian mà trả lời ông. Và cái lẽ thường làng xóm ấy thường lấy sự hoà hoãn, nhân hậu làm đầu. Cái cách ấy của cô, ông cũng tán thành, cho nên vợ chồng rất tâm đắc cùng nhau.

      Thời kỳ cô lấy chồng là thời kỳ nước nhà đau thương nhất. Năm 1858 quân Pháp tấn công Đà Nẵng. Rồi tướng Rigault de Genouilly quay vào Nam chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Cả nước sục sôi căm phẫn vì đất nước bị giày xéo. Vua Tự Đức thì nhu nhược. Nhiều đại thần chủ chiến, nhưng nhà vua lại chủ hoà. Ông Vũ Huy Tân cũng ở trong số các quan chủ chiến và vì lẽ đó ông bị thất sủng, phải từ quan. Vũ Huy Tân về Nam Định nói với Phùng Khiêm:

      "Quân Phú Lãng Sa chỉ mượn cớ ta cấm đạo để gây chiến. Thực ra, ý đồ chính sâu xa của chúng là xâm chiếm toàn bộ đất nước ta. Vì vậy phải Bình Tây Sát Tả."

      "Sao lại sát tả?"

      "Trước kia chỉ cấm chứ bây giờ thì phải sát bọn tả đạo. Bởi vì những người theo đạo Gia Tô lúc này không chỉ là nguồn gốc gây sự bất hoà trong nước ta, bây giờ họ không chỉ là những kẻ đi theo một tôn giáo ngoại lai, rời khỏi gia đình làng xóm, chối bỏ thờ cúng tổ tiên; mà ngày nay họ đã là bè bạn của bọn ngoại bang. Nhiều kẻ đi lính cho Pháp. Nhiều kẻ chỉ đường cho Pháp. Họ đã là những kẻ phản bội đất nước non sông."

      "Đã có bằng chứng gì?"

      "Ở Gia Định, đã có hai trăm người Gia Tô giáo sung vào lính tập đi đánh giết đồng bào. Rồi bác xem, vua Tự Đức cũng phải mở mắt to ra mà nhìn sự thật."

      Ông Vũ Huy Tân, sau đó, về làng, và đi vân du khắp nơi để thực hiện chí hướng Bình Tây Sát Tả. Và quả nhiên, như lời ông dự đoán, vua Tự Đức bị phái cứng rắn trong triều đình ép, bắt buộc phải ra những chỉ dụ cấm đạo Thiên Chúa vô cùng gay gắt.

      Chỉ dụ gay gắt nhất ban hành tháng 7 năm 1861. Đó là chỉ dụ "Phân sáp giáo dân". Chỉ dụ viết:

      Sức nhắc lại cho các địa phương phải nghiêm ngặt chia ghép dân đạo. Trước đây việc chia ghép có nhiều sót lậu. Nay các phủ huyện địa phương phải nghiêm chỉnh.

      Phàm những dân đạo bất kể già trẻ, trai gái, đã bỏ đạo hay chưa bỏ đạo, đều phải thích chữ vào mặt, rồi chia ghép vào các xã thôn bên lương và bị quản thúc thật nghiêm.

      Những tên theo đạo là những kẻ đầu mục hung ác thì vẫn bị giam cầm như cũ. Nếu bọn Tây Dương đến nơi thì đem bọn ấy giết cho hết.

      ...

      Dụ cho các địa phương, hãy chiêu mộ dân nhận phần ruộng đất của dân theo đạo mà cày cấy. Đến vụ thu hoạch chia hoa màu: một phần cho người cày cấy, một phần sung công để cấp lương cho người theo đạo bị giam.

      ...

      Những hạng đầu mục theo đạo loại bướng bỉnh đang bị giam thì quan địa phương phải dạy bảo kỹ càng. Mỗi tháng kiểm soát hai lần, thấy tên nào ngạo mạn hung tợn thì lập tức đem ra thắt cổ cho chết. Những tên cố ý không bỏ đạo thì nghiêm giam cho đến chết.

      ...

      Bà phu nhân hiền hậu đã phải chứng kiến bao cảnh hãi hùng trong những ngày phân sáp ấy. Nơi chồng bà cai trị là một phủ ven biển, ở đấy có nhiều giáo dân. Dân vùng biển vốn là dân nghèo nhất. Lại có nhiều thuyền bè ngoại quốc đi lại ngoài khơi. Đó là nơi các giáo sĩ phương Tây dễ xâm nhập nhất. Thời nhà Lê đã có những xóm đạo hình thành. Bởi lẽ lúc đó người dân vô cùng thuần phác, mà nhà vua lại chưa cấm đạo. Các giáo sĩ phương Tây rất khôn ngoan, họ đút lót các quan lại địa phương để cho phép họ được đi lại tự do truyền đạo. Thậm chí, có giáo sĩ bỏ tiền bạc ra mua những vùng bãi bồi rộng lớn, dụ dân ai đi đạo thì cho đất. Bằng cách ấy, họ đã tạo nên những làng đạo, xứ đạo. Và đến lúc ông phủ Khiêm đến nơi trị nhậm thì đã có những gia đình mấy đời đi đạo. Người dân nghèo đi đạo là những người sùng tín nhất. Các giáo sĩ lại là những người có học vấn cao, có đạo đức trong sạch, có đức tin, có lý tưởng mạnh mẽ truyền bá những điều tốt lành đẹp đẽ của Chúa, nên thường những xóm đạo sống rất hiền hoà, văn minh, thịnh vượng. Điều đó gây nên lòng đố kỵ ở những người không đạo. Vả lại, người đi đạo không thờ cúng tổ tiên. Hơn nữa, nhà vua lại cấm đạo. Do đó, nảy sinh mối hằn thù vô lý giữa hai cộng đồng. Đến khi mối hằn thù được xổng xích, được cho phép và kích động thì sự độc ác trở nên không tưởng tượng nổi.

      Nam Định là tỉnh nhiều giáo dân, cũng là nơi thi hành chỉ dụ phân sáp nghiêm ngặt và kịch liệt nhất. Quan quân dân chúng chặn các ngả đường không cho các làng Thiên chúa giáo đi lại phòng có người đi đạo trốn thoát. Rồi binh lính ùa vào các nhà, lùa tất cả già trẻ gái trai ra tập hợp tại sân nhà thờ. Những kẻ bị coi là cứng cổ, là ngoan cố, là cầm đầu đều đã bị bắt đi giam giữ hết rồi. Trước sân nhà thờ, đàn ông đứng riêng, đàn bà đứng riêng, trẻ con tập hợp lại thành nhóm. Quan lãnh binh đứng lên đọc tên từng người rồi mời các tỉnh khác đến nhận người đem về phân vào các làng bên lương. Mỗi làng bên lương nhận khoảng mươi người sao cho cứ năm người lương quản thúc một người giáo. Thông thường, người ta phân sáp giáo dân đi rất xa, sang tỉnh khác, không gần bờ biển, đàn ông ở tỉnh này, đàn bà ở tỉnh khác. Trẻ con cũng bị tách khỏi bố mẹ giao cho các gia đình bên lương nuôi dạy.

      Trước khi đi, tất cả giáo dân đàn ông, đàn bà đều bị thích chữ vào mặt. Má trái thích hai chữ "tả đạo". Má phải thích tên tổng, huyện nơi gửi đến.

      Cuối cùng là triệt hạ làng cũ. Đầu tiên đốt nhà thờ, rồi đốt tất cả nhà ở sao cho nơi ở cũ của họ san thành bình địa. Lửa cháy đùng đùng. Tre nứa nổ lốp đốp. Đàn bà, trẻ con khóc như ri. Lính giải từng tốp người đi trên đường cái quan. Hành lý duy nhất của mỗi người là cái bị đựng vài manh áo rách. Người ra đi mắt ngấn lệ đầu còn ngoái lại quê hương mà lúc này là những đám cháy đùng đùng.

      Ngoài đám dân bị phân sáp đi hết. Riêng người theo đạo cứng cổ bị bắt giam lên tới gần vạn người. Năm Tân Dậu bi thương ấy người ta giết tới 4.800 kẻ gọi là đầu sỏ. Quan tuần phủ Nguyễn Đình Tân là người rất nghiêm khắc. Mỗi ngày ngài chuẩn y cho giết vài chục tên tả đạo. Mỗi lần xử trảm tả đạo là một lần dân tụ tập đến xem pháp trường đông nghịt như có hội.

      Có bận bà phủ Khiêm cũng dự một cuộc xử trảm tả đạo. Hôm ấy, ngài tuần phủ muốn thị uy. Ngài bắt tất cả quan chức phủ huyện tổng lý đều phải có mặt. Ngay cả vợ con họ cũng phải đến dự.

      Pháp trường thiết lập ngay tại một xã công giáo toàn tòng. Bà phủ Khiêm trông thấy cờ quạt trống chiêng và người đông nghìn nghịt quanh một cái hố rộng. Nói đúng hơn đó là một chiếc ao nhỏ đã tát cạn nước. Bà nghĩ: họ cho rằng chạm tay vào kẻ tả đạo thì bẩn tay, nên họ định chém ngay trong hố rồi cứ thế mà lấp đất kín. Bà thở dài.

      Một hàng cọc mười một chiếc cắm thẳng hàng dưới đáy ao. Mười một tên tử tù bị trói chặt vào những chiếc cọc. Mồm tên nào cũng bị khoá. Người ta đề phòng chúng mở miệng nói những điều xằng bậy khi thi hành án. Ba viên đao phủ mặc quần áo đỏ, chít khăn đỏ, vác đại đao đứng một hàng, mặt đằng đằng sát khí. Quan tuần phủ ngồi trên ghế bành, trên đầu có lọng che. Quan lãnh binh giọng oang oang tuyên đọc bản án.

      ...

      Mười một tên tử tù này là những tên tả đạo nguy hiểm. Có những tên đã bơi thuyền ra biển đến tàu Tây Dương đón cố đạo ngoại quốc vào đất liền rồi còn che chở cho chúng. Có những tên vào tận Đà Nẵng và Gia Định hàng giặc đầu quân vào lính tập để bắn giết dân ta, rồi lại quay trở ra Nam Định để chờ đón quân ngoại bang tới. Có những tên theo giáo sĩ Tây Dương ra nước ngoài học rồi quay trở về trong nước rủ rê người tả đạo đi làm giặc chống lại nhà vua. Tội của chúng rành rành khiến trời chẳng dung đất không tha. Quan trấn thủ đã tra xét kỹ càng rồi tâu lên đức vua. Ngài đã đau xót mà nói rằng:

      Đã từ lâu, một lớp ngu dân đi theo tả đạo, mặc dù Trẫm đã ban lời khuyên dạy, song bọn côn đồ này vẫn chưa ra khỏi giấc mơ. Bên ngoài thì chúng im lặng khoá miệng, nhưng thực ra chúng toàn làm việc dối trá, cả những việc phản loạn. Trẫm đã ra lệnh cho các viên trấn thủ răn dạy chúng trở về đường ngay thẳng nhưng chúng cứ một mực cắm đầu vào con đường tội ác tày trời. Trẫm rất thương xót nhưng nước phải có quốc pháp. Phải xử chúng thật nghiêm.

      Nay quan trấn thủ Nam thành chiếu theo luật pháp thấy tội chúng đáng phải chết. Vậy, cho thi hành án, một là để làm sáng tỏ sự công minh của đức vua, hai là để răn dạy cho toàn thể giáo dân, tránh đi vào con đường tội lỗi.

      Sau bản tuyên đọc của quan lãnh binh, ba hồi trống chiêng chậm rãi ngân vang. Viên chánh trảm quan, đao gài sau lưng quỳ xuống tâu với quan tuần phủ:

      “Bẩm đại nhân, hạ quan mấy ngày hôm nay đã hạ thủ một trăm chiếc đầu phản nghịch. Quần áo hạ quan đã thấm máu nhiều kẻ nghịch tặc đã trở nên khô cứng. Nay, hạ quan xin phép đại nhân được thi hành án theo cách mới.”

      Tuần phủ vẫy tay chuẩn y.

      Bà phủ Khiêm thầm nghĩ: Thì ra không phải chém đầu. Đúng lúc ấy người chánh trảm quan hô dõng dạc:

      “Thi hành!”

      Hai người phụ tá cũng mặc quần áo đỏ được lệnh, liền chạy phăm phăm theo một con mương nhỏ ra chỗ hồ nước lớn bên cạnh. Ở đấy, có tấm ván ngăn nước. Họ chặt dây giữ ván. Và dòng nước theo con mương lập tức ồ ồ chảy vào. Nước chảy xuống cái ao tử tù. Thì ra một cuộc hành quyết dìm nước chứ không phải chặt đầu như thường lệ.

      Người đi xem bỗng ồ lên, khi nước chảy đến đầu gối những người tử tù. Những con người đang giãy giụa tuyệt vọng. Những tiếng kêu ú ớ cố thoát ra từ những cái mồm bị khoá chặt. Những con mắt trắng dã ánh lên sự kinh hãi. Tiếng trống chiêng thúc liên hồi. Tiếng quân reo à à.

      Chánh trảm quan lại hô to:

      "Mở ván thứ hai."

      Hoá ra ở đầu nguồn mương có nhiều lối vào. Nguồn nước thứ hai này mạnh hơn. Khi tấm ván mở ra, nước chảy ào ào vào mương. Người trên bờ hét lên:

      "Nước đã chảy đến bụng."

      Rồi:

      "Nước đã chảy đến ngực."

      Lúc này, những người tử tù giãy giụa lồng lộn hơn. Có những cái cọc lung lay. Có người gồng hết sức để kéo cọc lên. Người chánh trảm quan liền hô:

      “Mở tất cả ván.”

      Bà phủ Khiêm nhắm mắt lại không dám nhìn cảnh tượng ấy nữa. Chẳng biết lần này họ mở mấy nguồn mà dòng nước chảy ồ ồ như một con thác nhỏ. Loáng một cái nước đã ngập đến cổ rồi đến tai những con người bất hạnh. Những cái đầu cố dướn lên nhưng không được nữa.

      Thì ra, cuộc hành quyết nào cũng là một cuộc biểu diễn. Phải diễn sao cho thật ấn tượng. Chặt đầu mãi cũng nhàm chán. Người ta cho rằng những kẻ tà đạo này là những tên đầu sỏ cứng đầu nhất. Vậy nên phải xử chúng một cách khác ấn tượng hơn, đặc biệt hơn, để sao cho cảnh hãi hùng ấy được nhớ đời. Phải cho chết từ từ. Phải cho chết rùng rợn để kẻ khác trông thấy sẽ không bao giờ dám như thế.

      Cuối cùng những chiếc đầu bị chìm nghỉm hết chỉ còn trông thấy những chiếc cọc nhô lên rồi đảo ngoáy lung tung. Trông cái cọc biết con người ở dưới đã kiệt sức đến đâu. Trông cái cọc biết con người đang hấp hối thế nào. Có những cái cọc giật liên hồi. Có những cái cọc đờ đẫn lảo đảo.

      Cuối cùng có hai cái cọc làm nước sủi sùng sục. Hai con người lực sĩ vùng biển đã nhổ được cọc và nổi phềnh lên mặt nước.

      Bà phủ Khiêm nghĩ: có lẽ cả đến chuyện này người ta cũng tính toán từ trước. Bởi vì chính lúc ấy mấy người đao phủ đã sẵn sàng cầm sào đứng dậy. Hai kẻ tử tù đã thoát ra khỏi cọc, nhưng chân tay vẫn bị trói, thế mà họ vẫn bơi được. Họ cố bơi vào bờ, nhưng khi gần đến bờ, thì những đao phủ áo đỏ lại đẩy họ ra xa.

      Nhìn hai người đàn ông tuyệt vọng đang cố bám lấy cuộc sống lòng bà Khiêm chợt xao động khó tả. Một người thì nằm ngửa cố dựa vào cái cọc, cố nằm xa những con sào để khỏi bị đẩy đi đẩy lại. Còn một người kia thì cố bơi vào bờ, nhưng vào bờ sao được khi tay chân còn bị trói, và đằng trước mặt anh ta là một cây sào và người đao phủ áo đỏ đang dứ dứ. Sao anh ta không tự chết đi mà còn cố ngoi lên mặt nước làm gì cho đến nỗi như thế này. Kìa! Cặp mắt anh ta! Anh ta bị khoá mồm nên nói bằng mắt. Đôi mắt cầu xin. Đôi mắt van lơn. Như đôi mắt của một con vật đang hấp hối cố nhìn người chủ. Đôi mắt trắng dã, lờ đờ ấy chợt làm bà phủ Khiêm thấy nôn nao trong lòng. Tự nhiên ruột gan bà cuộn hết lên. Hoa mắt. Buồn nôn.

      Bà phủ vội vàng rẽ đám quan lại chạy ra ngoài vòng người. Bà nghĩ: Sao các người không giết ngay anh ta đi mà lại làm như thế. Ta biết rồi. Đằng sau mấy người áo đỏ, còn bọn lính đang cầm những cây giáo. Họ chỉ muốn hai người tử tù kia vùng vẫy thật mạnh. Và rồi họ sẽ phi giáo xuống như ở thôn quê người ta vẫn cầm xiên đâm cá. Những con cá bị mắc xiên giãy đành đạch. Ý nghĩ ấy làm đầu óc bà chợt quay cuồng. Bầu trời chòng chành.

      Bà vội ngồi xuống bờ cỏ, quay lưng lại đám người. Bà cũng cảm ơn đám người đó vì họ im lặng. Im phăng phắc. Ừ! Im là phải chứ. Nhưng đám người cũng không im mãi được. Bỗng nhiên họ ồ lên một tiếng, họ à lên một tiếng. Mỗi tiếng kêu ấy bà lại thấy nhói ở trong lòng. Bà biết mỗi tiếng ồ ấy là một mũi giáo lao xuống. Bà không còn kịp nghĩ nữa khi toàn thân bà rung lên. Rồi ruột gan lộn tùng phèo chao đảo, mắt tối sầm. Bà cúi xuống và nôn thốc nôn tháo. Nôn đến mức bà kiệt sức phải nằm lăn ra cỏ và không biết gì nữa. Một lúc sau bà chỉ nghe loáng thoáng tiếng ông phủ. Ông lay và gọi:

      “Mình ơi! Mình tỉnh lại đi.”


      2.

      Bà phủ Khiêm ốm mất đến nửa tháng mới khỏi. Ông phủ Khiêm hỏi vợ:

      “Bà ra sao mà tự nhiên lại ngã bệnh nhanh làm vậy?”

      “Tự nhiên thiếp thấy nôn nao. Thấy trong người nhộn nhạo như bị khuấy lộn lên. Nôn mửa rồi thiếp đi. Thấy có người ăn mặc phẩm phục như một vị quan đến bảo: ‘Phu nhân là người tích đức. Nhìn cái cảnh ấy làm gì. Chẳng hay đâu. Tránh xa nó ra’”.

      “Thì ra phu nhân được thần nhân đưa đi để tránh khỏi phải tham dự vào những cuộc hành hình ghê người. Tôi cũng phải cảm ơn nàng. Vì nhờ nàng ốm, tôi được quan tuần phủ miễn cho việc đi tổ chức các cuộc hành quyết.”

      “Kể ra họ cũng thật đáng thương. Nhiều người tôi biết rất rõ họ chẳng có tội gì đâu.”

      “Đã đành là vậy. Người dân đạo thấp hèn chỉ biết làm ăn. Nhưng người Tây Dương muốn lợi dụng họ. Còn nhà vua thì phải có uy. Chỉ có dân đen là khổ. Còn mình làm quan biết họ đáng thương, song vua sai thì phải làm. Sao cưỡng được luật vua ban. Mà này... Lạ thật!... Tôi lại thấy bác Vũ Huy Tân có mặt ở dinh quan tuần phủ."

      "Bác ấy đến đó làm gì?"

      Ông phủ trầm ngâm.

      "Bác Tân là người cứng cỏi. Chắc bây giờ nhà vua cứng cỏi với người Pháp nên bác ấy lại ra giúp. Chưa có chỉ dụ vua ban, bác ấy cũng ra. Chẳng là ông trấn thủ đầu tỉnh và bác ấy là bạn cùng khoa."

      Hai vợ chồng đang nói chuyện thì có tiếng to ngoài ngõ. Bà phủ Khiêm ra xem rồi dẫn một người đàn ông trạc gần ba mươi và một đứa nhỏ vào. Ông phủ còn chưa biết đầu đuôi câu chuyện ra sao, người đàn ông quần áo rách rưới đã quỳ xuống lạy:

      "Bẩm quan lớn rón tay làm phúc, cứu chúng con."

      Ông phủ từ tốn:

      "Có chuyện gì oan khuất anh cứ từ từ nói ra. Giúp được người ngay thẳng là tôi sẽ làm."

      "Con không có điều gì oan khuất. Chỉ xin quan ông quan bà rón tay làm phúc. Con biết con là kẻ có tội.”

      “Đã là kẻ có tội thì ta giúp làm sao được.”

      “Dạ bẩm, con là giáo dân. Theo lời các quan thế là con có tội.”

      “À, ra thế.” - Quan còn suy nghĩ thì người dân kia kể lể.

      “Cả nhà con đi phân sáp đã chết cả rồi. Chỉ còn con và thằng bé này vắng nhà hôm triệt hạ làng nên còn sống sót. Khi về nhà nhìn thấy chỉ còn đống tro tàn, con sợ quá mang thằng bé trốn biệt. Chúng con ẩn nấp trong ruộng cói, rừng sú ven biển. Đói thì bắt con cua con tôm ăn sống. Dựng một túp lều trên đám đất cao để ở. Định sống qua ngày, chờ lúc hết chuyện tố đạo thì về... Ai dè thằng bé mấy hôm nay sốt quá. Con biết nếu cứ gan ở trong rừng sú thì thằng bé sẽ chết... Vì sắp đến mùa mưa bão. Con đánh bạo mò về. Người ta bảo vợ chồng quan là người nhân đức. Xin quan hãy cứu lấy thằng bé... Còn con, con xin nhận tội, con là người bên đạo, con xin vào ngục. Chỉ mong quan cứu lấy thằng bé.” Ông phủ Khiêm gật đầu:

      “Thế thằng bé là con anh sao?”

      “Dạ, không phải. Nó là con người anh. Cả nhà hạ dân chỉ còn sót lại mình nó.”

      “Tên nó là gì?"

      "Dạ, tên Liên ạ."

      "Còn anh tên gì?"

      "Dạ, con là Cam."

      *

      Hôm sau, Cam lên quan đầu thú. Còn thằng bé Liên thì được cô Ngát tức bà phủ Khiêm chữa cho lành bệnh rồi đưa về làng Cổ Đình nhờ họ hàng nuôi giúp. Nó là Liên nhưng vì ăn nói láu táu nên dân làng gọi nó là Liến cho tiện.

      Một hôm, ông phó bảng Vũ Huy Tân đến nhà chơi. Đôi bạn lâu ngày mới gặp mặt, mừng rỡ. Phủ Khiêm sai người nhà bày tiệc rượu. Đã ngà ngà say, Vũ Huy Tân bảo:

      "Bác biết đấy, tôi là người không nhận được chữ hoà. Tôi với người Tây Dương là không đội trời chung. Cho nên khi đức vua ra lệnh phân sáp người tả đạo tôi tán thành ngay. Vua chưa ban chỉ dụ nhưng tôi đã tới ngay quan tuần phủ xin giúp việc. Ông ấy với tôi là người cùng chí hướng."

      Phủ Khiêm biết tính bạn là người cương trực, ông cười:

      "Chắc bác muốn hỏi cái chí hướng của tôi thế nào phải không? Sao lại thế? Chúng ta đều là người học đạo thánh hiền...”

      “Cùng là người học đạo thánh hiền cả, thế mà có người hoà, người chiến.”

      Phủ Khiêm nhẹ nhàng từ tốn:

      “Các bác là người quân tử. Các bác là những hòn núi cao; còn tôi, tôi chỉ làm một chức quan nhỏ...”

      “Quan nhỏ hay quan to đều theo đạo thánh hiền. Mà đạo thánh hiền là đạo học làm người quân tử...”

      “Tôi chưa nói hết. Ý tôi muốn bảo có nhiều cách thi hành đạo cả...”

      Vũ Huy Tân tợp một chén rượu đầy, lúc này mới nói ra tâm sự.

      “Bác biết không, tôi có chút lo lắng nên mới phải từ trên tỉnh lặn lội về đây thăm bác.”

      “Lo lắng gì? Xin bác cho biết.”

      “Chẳng là cái hôm hành hình bọn tả đạo, bác gái bị ngất, có đúng thế không? Sau đó ốm to.”

      “Vâng, có thế thật. Tiện nội hôm ấy phải cảm...”

      “Cảm ư? Người ta nói khác cơ...”

      “Thưa, họ nói làm sao?”

      Vũ Huy Tân gật gù ngẫm nghĩ mãi rồi bảo:

      “Họ nói rằng... Chính bà ấy là người theo đạo Gia Tô. Bà ấy thấy đồng đạo bị giết... nên... không chịu nổi...”

      “Trời ơi! Có chuyện ấy sao. Chính bác, bác cũng biết nhà tôi có theo đạo đó đâu...”

      “Người ta còn có đơn tố cáo bác nuôi một đứa trẻ con nhà tả đạo?”

      “Điều ấy thì có. Nhưng đức vua chẳng ra lệnh phân sáp, cho nhà bên lương nuôi trẻ con bên đạo để cải đạo nó đi hay sao.”

      “Người ta còn tố cáo bác đã nói rằng: ‘Bắt bước qua cây thánh giá là quá quắt. Có ai bắt chúng ta bước qua bàn thờ tổ tiên, ta có chịu không?’"

      “Tôi không nói câu ấy bao giờ.”

      “Thế thì bác phải chứng minh thôi. Chứng minh rằng bác không phải dân tả đạo.”

      Hai vợ chồng phủ Khiêm, sau khi Vũ Huy Tân đi, nơm nớp lo sợ chờ tai hoạ giáng xuống. Quả nhiên, chỉ mấy hôm sau, có giấy triệu tập hai vợ chồng ông lên tỉnh.

      Lòng họ tơ vò trăm mối khi đặt chân lên dinh quan tuần phủ. Quan tuần ngồi trên sập ở giữa sảnh đường, hai bên có lính cắp gươm đứng đầu, có thị vệ phe phẩy quạt lông trĩ, có thị nữ hầu trà thuốc. Trước sảnh đường dưới sân, hai bên có hai chậu cảnh lớn trồng cây to uốn hình hai con hạc đứng chầu.

      Bà phủ Khiêm để ý, ở dưới sân gạch bát tràng, giữa hai con hạc, giáp ngay bậc thềm bước lên vẽ hình cây thánh giá bằng vôi trắng. Bà phủ và cả ông phủ Khiêm cũng hiểu ngay vấn đề. Đây là bước kiểm tra đầu tiên. Họ không dám đưa mắt nhìn nhau, mà cứ thản nhiên bước qua cây thánh giá lên bậc thềm rồi vào sảnh đường kính cẩn thi lễ. Quan tuần phủ cười khà khà giọng xuề xoà:

      “Ông bà phủ đã lên đấy ư. Tôi nghe người ta bảo ông nói rằng bước qua cây thánh giá là việc quá quắt cơ mà.”

      “Thưa đại quan” - ông phủ trả lời bằng giọng nhỏ nhẹ nhưng bình tĩnh. “Hạ quan chẳng qua chỉ là một chức quan nhỏ, đêm ngày cần cù làm việc cho thánh thượng, nói một lời nhỏ cũng phải cân nhắc kỹ, học tập các hiền nhân cử chỉ nói năng phải cẩn trọng như người đi trên băng mỏng, dám đâu nói những lời sàm sỡ như vậy. Kính mong đại nhân xem xét.”

      “Ừ, ông nói cũng đúng. Và lúc nãy hai vợ chồng đi qua cây thánh giá cũng chứng tỏ được lời nói. Tuy nhiên việc ông bà nuôi một đứa trẻ đi đạo. Việc ấy có đúng không, hay ông lại cãi là lời vu cáo.”

      “Dạ, việc ấy thì có thật. Hạ quan không dám cãi. Song le, việc ấy hạ quan làm đúng theo chỉ dụ của đức hoàng thượng. Nhà vua thương xót những kẻ lầm đường lạc lối đã truyền đem trẻ con bên giáo, giao cho những gia đình bên lương nuôi dạy, để khi lớn lên, chúng xa rời con đường tả đạo. Vả lại, không phải nó là con nuôi của vợ chồng hạ quan. Chúng tôi chỉ đem chúng về quê cho người họ hàng nuôi.”

      “Thế đem nó về đâu?”

      “Dạ, về xã Cổ Đình, huyện...”

      “Thôi được! Việc này rồi sẽ tra xét. Tuy nhiên có một điều quan trọng nhất tôi muốn hỏi: đó là, ông có theo đạo Gia Tô không?”

      “Điều đó không có, xin đại nhân minh xét.”

      Viên tuần phủ ngọt ngào gặng hỏi:

      “Ông đừng sợ. Cứ phải nói thật. Chắc ông đã rõ chỉ dụ của nhà vua. Quan lại kẻ nào theo đạo Gia Tô, biết hối cải mà ra tự thú tự nguyện bỏ tả đạo thì tha cho. Còn như những kẻ ngoan cố, sau khi tra xét mà phát giác ra thì cách chức rồi khép vào tội ‘giảo giam hậu’ phải thắt cổ mà chết...”

      “Xin đại quan minh xét. Chắc đây là lời đố kỵ vu cáo. Hạ quan xin bảo đảm trong gia đình nhà mình không có một người nào theo đạo. Nếu sai, hạ quan xin chịu tội chết."

      Phó bảng Vũ Huy Tân lúc đó cũng ngồi ở công đường xen vào nói vài lời giúp bạn:

      "Thưa ngài trấn thủ, tôi vốn có quen bác cử Khiêm. Đúng trước đây gia đình bác Khiêm không có ai đi đạo."

      "Quan phó bảng nói vậy là tốt cho ông rồi. Tuy nhiên, việc này hệ trọng không thể sơ sài. Quan phó bảng nói trước đây, nhưng còn hiện nay thì sao. Các giáo sĩ Tây Dương họ thâm hiểm lắm. Triều đình cũng đã điều tra được một số người trong quan lại ngấm ngầm theo đạo Gia Tô, ngấm ngầm chờ người Tây Dương đem quân tới. Thôi được! Việc của ông đã rõ được quá nửa phần. Song còn phải tra xét thêm cho thật rõ ràng. Tôi thiết nghĩ, làm như thế chỉ thuận lợi cho ông thôi. Người quân tử lòng dạ minh bạch như ban ngày..."

      Việc điều tra kéo dài hơn một năm. Hai vợ chồng lúc nào cũng như ngồi trên đống lửa. Trong thời gian tố đạo ấy, con người trở nên quá khích. Người nào cũng muốn tỏ ra trong trắng không dính líu, thành thử trong lúc phủ Khiêm bị ngồi chơi xơi nước, đồng liêu chẳng ai dám đi lại. Chỉ riêng Vũ Huy Tân năng đi lại hơn trước. Ông không sợ hãi gì cả. Ông có tiếng là người chủ chiến ghét Tây, ghét cả cái đạo của Tây. Người ta bảo: "Đến vua định chủ hoà ông vẫn dám chỉ trích, thì ông ta còn sợ cái gì". Nhiều kẻ ghét ông muốn hãm hại song chẳng làm nổi. Ông còn dám nói thẳng vào mặt họ:

      "Con người ta hơn nhau, chỉ đến khi nước sôi lửa bỏng mới rõ. Quân tử ư? Tiểu nhân ư? Chúng ta vỗ ngực là người quân tử, nhưng nhiều khi ta hành xử chẳng khác gì loài chó lợn. Riêng tôi, tôi vẫn dám đi lại với bác Khiêm vì tôi biết rõ lòng dạ bác ấy. Tôi không muốn làm người vô nghĩa."

      Quả nhiên, một năm sau, cử Khiêm được minh oan. Tuy nhiên, triều đình cũng không tín nhiệm ông như xưa. Ông thôi chức tri phủ, mà được cử đi làm giáo thụ ở một phủ khác. Mọi người thấy thế ái ngại cho ông bị giáng chức, riêng ông, ông lại thấy thích. Chăm sóc việc học hành cho dân một phủ, ông thấy việc đó rất có ích. Lương bổng tuy bị kém nhưng ông chẳng lo lắm vì hai vợ chồng vẫn chưa có con, và bà vợ lại là người đảm đang tháo vát. Bà Khiêm vốn có nghề canh cửi. Bà dựng lên mấy cái khung cửi, rồi bà cùng người làm lách cách suốt ngày. Ông giáo thụ nghe tiếng thoi lại lấy làm vui. Học trò loại khá trong vùng đến trường quan giáo thụ xin học rất đông. Cử Khiêm nói với học trò:

      "Người học trò phải giữ cho được tấm lòng son. Lòng son với vua với triều đình. Lòng son với dân với nước. Đó là điều cốt tử của nhà nho trong thời buổi này."

      Rồi:

      "Việc có thị có phi. Muốn xét đoán việc, phải lấy tấm lòng son với xã tắc làm chuẩn mực. Cái gì trái với điều ấy thì không làm."

      Rồi:

      "Ngòi bút có chính có tà. Đại để, muốn chẳng tà thì cũng phải lấy tấm lòng son ra mà xem xét."

      Một bận, phó bảng Vũ Huy Tân, khăn gói trên vai đến gặp cử Khiêm, nói riêng với bạn:

      "Đức vua chúng ta là người không quyết đoán nay chiến, mai hoà. Sát bọn tả đạo quyết liệt đến như thế, mà nay lại thay đổi rồi. Bọn Tây thì luôn đe doạ, đẩy nhà vua lui từng bước, rồi lấn dần từng bước."

      Ông thở dài:

      “Miền Nam thế là hoàn toàn rơi vào tay chúng rồi. Trước sau, bọn Tây cũng đánh ra Bắc.”

      “Biết làm sao bây giờ?”

      “Giặc cướp nổi lên tứ tung. Quan lại thì tham nhũng chỉ lo vét cho đầy túi tham. Còn giặc đang sắp đến nhà. Tôi nghĩ đất nước chỉ còn trông mong vào người nho sĩ chúng ta...”

      “Tôi phải làm gì bây giờ?”

      “Bác làm giáo thụ là cái may. Phải giữ vững chí khí cho người học trò. Cánh học trò mà vững mới làm cho dân biết cần phải làm gì?”

      “Thế còn bác?”

      “Tôi cũng ra đi. Tôi cũng trở về làng Cổ Đình làm thầy dạy học. Khó mà tin được đám quan lại. Như ông tuần phủ, quan trấn thủ, bạn tôi, hôm nay, vua Tự Đức nói khác, thế là ông ta lại có giọng lưỡi khác rồi. Tôi đành phải rời bỏ ông ta. Bác ở lại, cố giữ lấy cái trường học, và cẩn thận giữ mình. Sau này, những người trung thực như bác rất cần cho dân.”

      Lời tiên đoán của Vũ Huy Tân chỉ mấy năm sau đã thành sự thực. Năm 1873 (Quý Dậu), Francis Garnier hạ thành Hà Nội bằng một dúm quân. Chỉ có mấy người lính Pháp cũng hạ được thành Nam Định. Trước đây, bà Khiêm thương xót cho số phận người công giáo trong cuộc phân sáp long trời lở đất. Còn hôm nay, bà Khiêm lại được trông thấy những người công giáo theo Tây đến đốt phá những làng bên lương. Cũng may, chỉ mấy hôm sau Francis Garnier bị giết ở Cầu Giấy nên quân Pháp phải rút đi.

      Lúc này quan cử Khiêm mới có cơ hội chứng nghiệm cái luận thuyết tấm lòng son của mình. Ông kết luận: ở người công giáo lúc ấy, có thiên hướng tà nhiều hơn. Khi mọi việc trở về nề nếp cũ, cử Khiêm khi dạy ở lớp học, lại tiếp tục giảng cho học trò của mình lòng trung trinh với dân với nước, và tấm lòng son của người nho sĩ khi quốc gia lâm sự. Người công giáo thời ấy, không được đi thi, không được ra làm quan, đến cả chức xã trưởng thấp nhất họ cũng không được làm, tuy nhiên vẫn có một số học trò học chữ thánh hiền, họ học chỉ để cho biết. Trong lớp của ông cử Khiêm, cũng có mấy học trò giáo dân. Sau cái hôm ông hùng hồn nói tới tấm lòng son, và ông lại nhìn về phía những học trò bên giáo mà nói, thì đám học sinh giáo dân hôm sau bỏ học hết.

      Năm Nhâm Ngọ (1882), Henri Rivière hạ thành Hà Nội lần thứ hai. Henri Rivière lại bị chặt đầu ở Cầu Giấy giống như số phận Francis Garnier. Song lần này người Pháp không trả lại đất cho ta nữa. Họ quyết định chiếm Bắc Kỳ. Nam Định bị quân Pháp chiếm đóng. Vũ Huy Tân gửi thư cho cử Khiêm:

      Bác hãy làm trọn nghĩa vụ trung với nước của người nho sĩ. Bất đắc dĩ, nhưng chúng ta phải đành gác bút nghiên và cầm đao kiếm. Chúng ta cần mộ quân cứu nước...

      Cử Khiêm, cũng như rất nhiều nhà khoa bảng thời đó, đã tập hợp nghĩa binh đánh Pháp. Sự thực, họ chỉ có tinh thần yêu nước và chí quả cảm. Vũ khí của họ là giáo mác. Nghĩa binh lại không biết gì về quân sự. Đó là những toán quân đùng đùng nổi giận, nhưng ô hợp. Tuy nhiên, họ cũng giết được giặc, và cũng làm cho quân địch lúng túng. Chỉ hơn một nghìn quân Pháp, không đủ để đàn áp và chiếm đóng. Lúc bấy giờ, người công giáo nổi lên, đi lính tập cho Pháp, và họ cũng tập hợp thành những đám đông chống lại nghĩa quân.

      Cử Khiêm, một vị quan nhẹ tay với người công giáo nhất, lúc này cũng trở thành kẻ thù một mất một còn của người đi đạo. Trong một trận giao tranh giữa nghĩa quân và đám người tả đạo có lính Tây yểm hộ, cử Khiêm đã bị bắt.

      Một người học trò cầm đầu đám công giáo, trước kia đã học cử Khiêm, hét to lên:

      “Để xem tấm lòng son của lão cử Khiêm nó hình thù thế nào?”

      Cử Khiêm cười nhạt bảo:

      “Nếu ta không lầm, anh đã theo học trường của ta được một năm thì phải. Chẳng lẽ công ta dạy dỗ mà đầu óc anh chẳng mở ra chút nào sao?”

      Người học trò đáp lại:

      “Tôi học ông chỉ cốt hiểu các ông, để diệt các ông. Chung quy, tôi chỉ muốn xem tấm lòng son của các ông ra sao.”

      Thấy cử Khiêm im lặng, hắn cười rồi chuyển giọng nói ngọt ngào:

      “Dù sao tôi cũng là học trò của thầy. Lúc nãy, tôi có nóng và nói năng thất thố. Thầy tha lỗi cho. Nhưng tôi khuyên thầy nên nhìn rõ sự thật. Nước Nam không chống lại được người Pháp đâu. Thầy nên hàng người Pháp. Tôi biết thầy có lòng nhân hậu. Chính vì vậy, thầy mới bị vua nước Nam hiềm nghi và giáng chức. Các quan Pháp bảo tôi nói với thầy, nếu thầy xin hàng, nhà nước Pháp sẽ trọng dụng.”

      Cử Khiêm cười, điềm tĩnh:

      “Nếu được như vậy cũng tốt đấy. Ta cảm ơn anh. Và để cho ta suy nghĩ thêm, các anh có thể mang ra đây cho ta chiếc mâm, và nậm rượu. Ta đói bao ngày nay rồi."

      Người học trò giáo dân mừng rỡ, liền bưng mâm rượu ra. Cử Khiêm bỏ hết đồ nhắm ra ngoài và bảo:

      "Những thức này không cần. Chỉ cần nậm rượu thôi, ta đã có thức nhắm rồi."

      Khi cái mâm đã trống trơn trước mặt, ông từ tốn rót chén rượu ra chén khà một ngụm. Tiếp đó, ông lần túi áo lấy ra một vật tròn. Tưởng thức nhắm đặc biệt gì hoá ra chỉ là một đồng chinh sáng loáng. Các ông nho sĩ gàn thường chỉ nhắm rượu với ổi xanh, có người nhắm với cái đinh rỉ. Ông này khác người, lại nhắm rượu với đồng xu. Ông cử gạt cái áo the sang bên rồi thò tay vào bụng. Tưởng rằng rượu vào, nóng nên ông gãi. Không ngờ sột một cái. Mọi người chưa hiểu ra sao đã thấy máu đỏ lòm ùa ra chiếc quần trắng. Thì ra đó là một đồng chinh mài sắc. Cử Khiêm đã dùng đồng chinh đó rạch bụng mình ra.

      Mặt tái đi, nhưng cử Khiêm vẫn ngồi nghiêm chỉnh. Và qua vết rạch, ruột trắng hếu từ trong bụng phòi ra. Cử Khiêm còn kịp đưa đống ruột của mình ra cái mâm và nói:

      "Ngươi muốn xem tấm lòng son của ta phải không? Nó đây này. Nó đầy trên mâm đồng rồi đấy..."

      Chỉ nói được một câu, cố gượng nhưng không được, cử Khiêm ngã vật xuống trước con mắt khiếp hãi kính nể của mọi người.


      3.

      Về cái chết của ông cử Khiêm, trên đây chỉ là cách kể thứ nhất. Còn cách kể thứ hai, nhiều tình tiết hơn, có lẽ là cách kể huyền thoại hoá trong dân gian.

      Người ta nói rằng, từ khi còn ở phủ, ông Khiêm đã luôn mài sáng ba đồng chinh. Ngày nào cũng mài thành thử những đồng chinh mỏng quẹt như tờ giấy. Bà cử hỏi để làm gì. Ông bảo để bói dịch. Và ông còn giảng giải cho bà cách lấy quẻ không bằng cỏ thi mà bằng ba đồng chinh. Ông cử mê bói dịch, bất cứ làm việc gì quan trọng một chút, ông cũng bói dịch.

      Cái hôm ra trận định mệnh ấy, ông cũng bói. Nhận được quẻ, ông hơi biến sắc, song người ta hỏi, ông cũng không nói gì cả mà chỉ điềm nhiêm cất mấy đồng chinh vào chiếc áo cánh mặc trong.

      Khi bị bắt, ông là người cầm đầu, lại đã làm đến chức tri phủ nên người ta đóng cũi giải về Hà Nội. Lúc đó Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai. Ông này hay lấy lòng người Pháp nên được người Pháp tin dùng. Nguyễn Hữu Độ giữ cử Khiêm ở trong dinh và lấy lời ngon ngọt ra dụ dỗ. Cử Khiêm không nói gì, bảo còn suy nghĩ. Một buổi sáng, cử Khiêm bảo hôm nay ta thích ăn món lòng giấm. Cử Khiêm thường không yêu cầu gì, nay lại đòi món ăn, Hữu Độ mừng tưởng rằng Khiêm đã mềm lòng. Lúc người nhà mang mâm lên, Khiêm gạt ra tất mà bảo:

      "Hôm nay, chính tôi sẽ đãi quan khâm sai bữa lòng giấm, mà lòng của tôi ngon hơn, trắng hơn, tươi hơn, chứ không như thứ lòng của quan khâm sai, nó bốc mùi hôi lắm."

      Nói đoạn, ông cũng lấy đồng chinh mài mỏng và rạch bụng, bày cỗ lòng trắng phau, đầy máu me, còn phập phồng trên chiếc mâm đồng.

      Nguyễn Hữu Độ thất kinh, gọi bác sĩ đến cấp cứu song không kịp.

      Lúc ông cử Khiêm mất, bà cử mới chừng ba sáu tuổi. Ông cử đã năm mươi. Hai vợ chồng hiếm hoi quá lấy nhau đã hai chục năm mà bà cử vẫn trơ trơ, gọn ghẽ như con cá rô đực. May thay, ở tỉnh Nam có nhiều đền, nhiều phủ. Bà cử đi lễ ở Quán Cháo Đền Dâu, đền Sòng rồi cầu tự ở Phủ Giày. May mắn thay cuối cùng bà hoài thai và sinh quý tử. Ông bà cử sung sướng vô ngần, nâng niu cậu ấm như hòn ngọc quý. Cậu ấm được hai tuổi thì xảy ra tai hoạ.

      Người tâm phúc đến nhà giao cho bà ba đồng tiền mài và nói:

      "Cụ cử dặn dò về nói với bà rằng: dù tao loạn, dù cực khổ thế nào bà cũng cố sống và nuôi cậu ấm thành người. Còn ba đồng tiền này là để nhắc nhở cậu ấm phải cố gắng nuôi chí phục thù cứu nước."

      Có lẽ ông cử đã biết tâm tính bà cử là người quyết liệt. Nếu không có lời trăng trối nuôi con, có thể bà sẽ theo ông sang thế giới bên kia. Ông biết bà là người cũng giống ông, có thể rạch bụng mà chết theo người tri kỷ.

      Bà cử cũng có ý định ấy thật, song vì thương con, vì có lời trăng trối của chồng, bà quyết định không chết nữa, và sẽ bám lấy cuộc sống dù bằng giá nào để nuôi con. Trong thời nhiễu loạn, bà biết mình còn đẹp, dễ là mồi cho những kẻ sói lang. Vì thế, bà phải ăn mặc rách rưới, bôi mặt cho nhem nhuốc, để tóc rối hàng tuần không chải, rồi cõng con trốn về quê nhà.

      Người Pháp đã dễ dàng chiếm được đồng bằng và trung du. Chỉ còn miền núi là nơi quân Cần Vương ẩn náu, là nơi giặc Cờ Đen hoành hành, là nơi quân Tầu cũng tràn sang đánh phá.

      Ở những vùng đã chiếm được, người Pháp tìm mọi cách để bình định, để đàn áp sao cho một mầm mống chống đối cũng không sót lại. Những người liên quan với những kẻ chống đối đầu sỏ cũng phải bắt. Như vậy, tức là bà cử sẽ phải vào nhà ngục. Ngoài việc liên quan, ở tỉnh Nam người ta còn tố cáo khi ông cử chiêu mộ binh sĩ chống Pháp, bà cử cũng tham gia bàn mưu tính kế với chồng để sát tả, nghĩa là đàn áp người theo đạo Thiên chúa. Điều này ngược hẳn với tính cách của bà cử, nhưng ở thời nhiễu loạn, con người có thể vu cáo cho đồng loại những điều họ không làm. Không hiểu sao, những lúc như vậy, con người cứ thích bức hại đồng loại của mình cho đến chết. Hay là tại những lúc ấy xã hội rồ dại, thì con người cũng rồ dại theo. Hay là bởi vì những lúc bình thường con người vốn nhỏ bé, bây giờ gặp thời họ bỗng thấy lớn lên, họ bỗng cảm thấy quyền uy. Họ muốn chứng tỏ quyền uy ấy, họ muốn xoá bỏ mặc cảm nhỏ bé của mình. Và muốn thể hiện quyền uy, không gì bằng bức hại con người cho đến đường cùng. Hay là, tại vì bản chất con người vốn ác, và khi cái ác được phép xổng chuồng, nó đã biến thành kẻ sát nhân.

      Người đàn bà hiền dịu ấy rên lên vì không hiểu sao mình bị đối xử như vậy. Bà không dám ở trong làng nữa, bà ôm con trốn vào trong rừng ở trong hang đá.

      Ông Vũ Huy Tân đang luồn lỏi trong rừng quần nhau với địch nghe tin phải viết thư về Cổ Đình cho các học trò:

      "Các anh phải tìm mọi cách để cứu bà cử Khiêm, đồng thời cứu giọt máu cuối cùng của họ Phùng. Ông cử Khiêm là tấm gương lẫm liệt cho chúng ta noi theo. Phải tìm mọi cách cứu gia đình ông, để khỏi thẹn với vong linh ông ở dưới suối vàng."

      Đám học trò của ông phó bảng, lúc đó, chỉ còn tiên chỉ Nhậm và tú Cao ở làng. Tuy nhiên, lúc đó, họ trẻ quá. Hai người chưa nghĩ ra kế gì, chợt tú Cao sực nhớ tới Liến. Liến chịu ơn bà cử, lại chịu ơn cả họ Vũ Xuân nên mới sống sót đến bây giờ. Tú Cao đến đồn điền gặp Liến và kể lể sự tình. Liến theo đạo nhưng là người có nhân có nghĩa. Anh bảo:

      “May quá! Để em về hỏi chú trưởng Cam. Chú em cũng dọn ở dưới Nam lên đây rồi. Ngày xưa, chính chú em đã đến lạy ông bà cử nên em mới có ngày nay.”

      Ông trưởng Cam là người, hồi phân sáp, đã phải trốn trong rừng cói và đã được cử Khiêm cứu giúp. Trưởng Cam còn là người theo lệnh cha Puginier đi tìm xác và đầu Henri Rivière ở Cầu Giấy. Bây giờ, ông ta có thế lực, lại có công với người Pháp, có công cả với nhà thờ. Ông trưởng Cam là người đạo gốc. Tổ tiên ông, hồi nhà Lê, bị bệnh nan y, được các cố đạo cứu sống. Cụ tổ cảm ơn cứu tử đã xin theo đạo Thiên chúa. Đến đời Cam, người thanh niên ấy, trong lúc triều đình cấm đạo ngặt nghèo, đã đào hầm bí mật dưới đất nuôi cha Colombert suốt mấy tháng trời. Bởi thế, có thể nói, đối với người Pháp, trưởng Cam có thể yêu cầu điều gì, nhà nước bảo hộ cũng giúp đỡ.

      Nghe Nhậm và tú Cao trình bày chuyện bà cử Khiêm, ông Cam nói rằng:

      “Ơn ông cử bà cử hết đời tôi cũng chẳng quên. Tuy nhiên, tôi lại chẳng thạo những công việc ngoài đời. Nhưng tôi xin tìm mọi cách giúp đỡ, mà cũng là để trả cái ơn sâu nặng.”

      Ông trưởng Cam tìm đến cha Colombert.

      Cha Colombert là một ông già ngoại năm mươi. Hơi đậm người, hơi chậm chạp vì tuổi tác, song có một gương mặt hồng hào rất hiền lành phúc hậu. Đức giám mục Puginier một hôm bảo cha:

      “Tôi biết cha tuổi đã cao. Cha đã làm được nhiều việc đạo tốt lành. Tôi không muốn phải bổ nhiệm cha đến một nơi còn khó khăn. Nhưng Cổ Đình cần một con người nhiều kinh nghiệm và tốt bụng như cha.”

      Cha Colombert vui vẻ nhận lời ngay. Ông chỉ xin đức giám mục cho ông trưởng Cam đến làng Cổ Đình cùng cha. Colombert có nhiều kỷ niệm gắn bó với trưởng Cam, thậm chí chịu ơn Cam. Ông muốn Cam ở gần mình lúc tuổi già. Cha coi ông Cam, ngoài chuyện là người đồng đạo, còn như người thân trong gia đình của mình.

      Nghe trưởng Cam kể lể đầu đuôi, cha Colombert nói ngay:

      “Lòng xót thương kẻ khó của Chúa là vô hạn. Thấy ai gặp cảnh đau khổ là người Công giáo chúng ta phải giúp ngay. Huống hồ gia đình ông cử Khiêm lại là ân nhân của ông. Để tôi lên Hà Nội hỏi xem.”

      Ông đến toà giám mục. Đức ông giám mục trả lời:

      “Việc này thật là khó. Bên quân sự họ vẫn than phiền là nhà thờ chúng ta can thiệp quá sâu vào việc đời. Họ bảo chúng ta muốn tách rời giáo hội khỏi sự chỉ huy của chính quyền bảo hộ. Họ có biết đâu rằng không có nhà thờ ở xứ Bắc Kỳ này, thì chính quyền bảo hộ vững sao được. Tôi không muốn phải cầu xin họ...”

      Thấy cha giám mục có ý chối từ, Colombert nằn nì:

      “Xin đức cha nghĩ giùm. Tôi cho rằng vẫn còn cách.”

      “Thế người đàn bà ấy địa vị ra sao?”

      “Bà ta là vợ một vị khoa bảng, nói chung lại, một bà quan. Bà ta được dân họ Vũ Xuân ở Cổ Đình rất kính trọng. Vả lại, bà ta còn có công với đạo ta. Là ân nhân của ông trưởng Cam, một người uy tín của xứ đạo Cổ Đình. Nếu không có bà thì nhà ông trưởng Cam tuyệt giống nòi. Mà như cha biết đấy, dù là người theo đạo, người dân xứ này vẫn rất coi trọng việc nối tiếp nòi giống của mình.”

      “Ông trưởng Cam này là người thế nào nhỉ?”

      “Ông là người đạo gốc. Đã giúp việc đạo rất nhiều. Bị bắt hồi phân sáp. Đáng lẽ triều đình An Nam đã giết. May nhờ ta chiến thắng họ phải ký hoà ước và cam đoan không cấm đạo. Mà cha có nhớ cái người đi tìm xác ngài thiếu tá Henri Rivière không? Chính ông Cam này đấy...”

      “Chuyện ấy thì tôi nhớ. Muốn hỏi đến chuyện gia đình ông Cam cơ. Ông ta đã có vợ con gì chưa?”

      “Ông ta chưa lấy vợ bao giờ.” - Cha Colombert chợt thở dài. “Khổ thân ông ta! Cứ một hình một bóng có lẽ đến hết đời. Bởi vậy bao nhiêu tình cảm ông Cam đều dồn hết cho cháu tên là Liến. Và chính bà cử Khiêm đã sai người nuôi dưỡng anh chàng Liến này... Thiết nghĩ cái ơn ấy của bà ta, giáo hội cũng nên đền đáp. Và đền đáp được thì cử chỉ ấy sẽ được dân Cổ Đình vô cùng tán thưởng. Rất có lợi cho uy tín của nhà thờ.”

      Đức giám mục gật đầu:

      “Tôi chịu thua sự biện hộ của cha rồi đấy. Đúng là chúng ta cần giúp người đàn bà này... Nhưng giúp bằng cách nào đây?... Nếu bà ta là giáo dân... thì tiện cho ta quá.” - Óc đức cha chợt lóe sáng – “Ừ nhỉ!... Sao ta chẳng nghĩ đến cách này... Thôi có cách rồi. Có phải đức cha bảo bà ta đã goá chồng? Và ông Cam lại chưa có vợ?... Đấy! Cách là ở đấy. Đúng rồi chúng ta sẽ ghép bà phủ Khiêm lấy ông Cam. Như vậy bà Cam là vợ ông chánh trưởng, một người đạo gốc. Và bà ta khi ấy sẽ là người theo đạo. Con bà ta rồi sau này cũng theo đạo. Lợi đủ mọi đường. Trong trường hợp này, nhất định nhà nước bảo hộ sẽ tha tội cho bà.”

      *

      Việc bà phủ Khiêm tái giá lấy ông trưởng Cam người công giáo được họ Vũ Xuân đem ra bàn lợi hại. Ông tú Cao buồn hẳn đi. Ông thấy thương cho cô út, người cô trẻ nhất, đẹp nhất mà ông hằng kính yêu. Cứ thấy thương cho cái kiếp má đào hồng nhan bạc mệnh. Nhưng liệu còn cách gì khác tốt hơn để cứu cô và em bé. Ông Vũ Xuân Nhậm lại thấy mừng trong dạ. Mừng song chẳng dám nói ra. Mừng vì bỗng dưng họ Vũ Xuân lại được tăng thế lực. Không cần đi đạo mà vẫn là thông gia với bên giáo. Mừng vì có lợi cho việc buôn bán gỗ của ông. Tay Liến làm việc ở đồn điền tiếng là do họ Vũ Xuân nuôi, nhưng nói chính xác là do chi Mạnh của họ Vũ Xuân trông nom. Liến có quan hệ với tú Cao, với Xuân Cỏn là chủ yếu. Nhậm muốn quan hệ với trưởng Cam và những mối quan hệ ở Hà Nội. Nhậm sẽ thừa dịp để làm việc họ cho tốt đồng thời cũng tạo thế cho việc buôn bán của mình.

      Ông trưởng Cam trực tiếp đến gặp bà cử Khiêm:

      “Thưa ân nhân, thực quả trong thâm tâm, tôi chẳng muốn đũa mốc lại chòi mâm son. Song, cha Colombert và chúng tôi nghĩ nát óc mà chẳng có cách gì khác. Xin ân nhân cứ yên lòng. Tôi tuy ít học song cũng biết điều hơn lẽ thiệt. Gia đình chúng tôi đội ơn ân nhân, công ấy nặng tựa núi cao, chỉ có phen này may ra mới đền đáp nổi. Nếu ân nhân muốn, chúng ta giả làm vợ chồng cũng được. Thực lòng, tôi ái ngại, làm việc này chỉ cốt cứu mạng ân nhân và cháu bé là điều chính.”

      Bà cử Khiêm không nói gì cả, chỉ khóc tầm tã. Khi trưởng Cam đi khỏi, bà đến bàn thờ chồng, chít khăn tang quỳ lạy:

      “Ôi thôi! Thiếp đã phụ chàng rồi. Đáng lẽ ra thiếp phải chết đi mới đền đáp được tình nghĩa vợ chồng. Song còn con chúng ta thì sao. Còn giọt máu cuối cùng của họ Phùng thì sao? Thiếp mà ra đi, ai sẽ nuôi nấng chở che cho nó...”

      Khóc suốt một ngày một đêm trước ban thờ chồng, sau đó người ta không bao giờ thấy bà khóc nữa. Bà trở nên lặng lẽ, kiêu kỳ, cả ngày không nói một lời. Và lạ chưa! Bà càng lặng lẽ kiêu kỳ bao nhiêu, thì bà càng đẹp lên bấy nhiêu. Gương mặt trở nên bình thản. Con mắt trở nên trong veo. Thân hình thì gầy guộc đi nhưng thanh tú vô ngần, nhất là đôi bàn tay. Ở bà, không phải cái đẹp trần thế mà là cái đẹp thiên thần. Dân làng bảo: "Lạ nhỉ, cô Ngát từ khi tái giá lấy chồng bên đạo, cô càng đẹp hơn, mà lại giống như cái đẹp của Đức Bà".

      Hôm động phòng, bà Khiêm trăm mối tơ vò. Bà là người từ bé sống trong nề nếp gia giáo, là người nhu mì, kín đáo. Bà sợ sự thô lỗ cuồng nộ. Sống với ông Khiêm, tính cách ấy càng được củng cố; bởi vì ông cũng giống bà, trong tình vợ chồng, tuy yêu quý nhau, nhưng họ rất trọng chữ lễ. Ngoài tình trai gái, ông còn coi bà như người tri kỷ, người bạn tâm giao. Đến nay, mặc dầu khi quyết định hôn nhân, bà đã suy nghĩ rất nhiều, thế mà lòng bà vẫn như mớ bòng bong và vẫn cứ tự trách thầm mình như đã có lỗi. Không biết ông ta thế nào? Hay là lại gặp một kẻ vũ phu? Liệu bà quyết định hôn nhân có đúng không? Nếu như gặp cảnh ngang trái thì sao? Họ là người công giáo, liệu họ có thực tâm như những lời hứa ngon ngọt? Liệu họ có mang mối hận thù, và cuộc hôn nhân này chỉ là sự giả tạo, và khi vào tay họ thì ta sẽ thành nạn nhân cho sự thù hận.

      Lòng bà còn đang ngổn ngang như vậy, cánh cửa buồng bỗng kẹt mở. Ông trưởng Cam bước vào. Ông lại gần đĩa đèn dầu lạc khêu cho tỏ, rồi ngồi xuống chiếc ghế mây. Bà Ngát vẫn im lặng ngồi trên phản, hai chân thõng xuống đất. Câu nói đầu tiên của ông Cam là:
      “Cầu Chúa ban phước lành cho ân nhân của tôi!”

      Vừa nói ông vừa làm dấu. Bà Ngát vẫn không nói. Bà chăm chú nhìn ông. Khi xưa, người đàn ông mang đứa trẻ đến cầu xin vợ chồng bà giúp đỡ, bà không để ý kỹ đến anh ta. Bà chỉ biết mang máng là anh ta hơn tuổi bà và giọng nói, gương mặt thành thật và hồn hậu. Chỉ có thế thôi. Rồi khi được tin bà bị truy nã, họ hàng cầu cứu và anh ta xuất hiện, lúc này bà chỉ khóc và khóc. Bà còn bụng dạ nào mà chú ý đến anh ta nữa. Còn lúc này, trong căn buồng vắng vẻ chỉ có hai người, và tình cảnh đã khiến họ trở thành vợ chồng, thì bắt buộc bà phải chú ý đến.

      Ông ta là một con người hơi cao gầy, tuổi đã trên bốn mươi, nét mặt hiền nhưng đăm chiêu, có thể nói buồn buồn. Gương mặt sáng sủa. Có lẽ ông ta cũng lúng túng cố tìm lời nói. Để xoá đi sự lúng túng ấy ông ta lấy cái điếu bát rít một hơi thuốc dài. Cái điếu kêu giòn tan phá sự im lặng, tạo không khí thân mật hơn. Ông ta không nhìn mặt bà, và nói bằng cái giọng như hồi hộp, cảm động.

      “Thưa ân nhân. Tôi đã định là suốt đời ở một mình, chỉ làm công việc phụng sự Chúa. Việc hôn nhân này là ngoài ý định của tôi... Nhưng tôi phải làm việc này vì... Tôi vẫn tự hứa với mình: chịu ơn ai thì phải nhớ suốt đời... và tìm mọi cách mà đền đáp... Cứu được ân nhân là... lòng tôi mãn nguyện lắm rồi... Còn như tình vợ chồng... Tôi chẳng biết nói thế nào cho phải... Ừ... Nếu ân nhân có được điều tri âm thì... đi một nhẽ... Còn nếu ân nhân thấy mình bị xúc phạm... Thì xin người hãy yên tâm... chúng ta chỉ coi nhau như là bạn, là tình đồng loại thôi cũng được... Xin ân nhân chớ ngại ngần... đối với tôi được ân nhân coi là bạn đã tốt lắm rồi, đã thoả lòng tôi lắm rồi... Bởi vì... bởi vì...”

      Câu nói dài và cử chỉ xúc động của trưởng Cam đối với bà Ngát lúc này hoàn toàn là điều bất ngờ. Dáng điệu của người chồng, rồi sự thành thực hiện rõ trên gương mặt ông ta chợt làm bà tin cậy vững tâm. Hoá ra ông ta không phải loại người thô lỗ, khủng khiếp như bà suy nghĩ và tưởng tượng. Hoá ra, ông ta không phải loại người giả dối, loại người miệng xơn xớt nói cười... Cho đến lúc này, ông ta hoàn toàn là người tử tế. Vì thế, bà phải lên tiếng.

      “Bây giờ, chúng ta đã là vợ chồng; xin ông đừng gọi tôi là ân nhân nữa. Tiếng ấy chính tôi phải nói với ông mới đúng. Thân tôi, đã đến bước này, thế nào cũng được. Tôi chỉ xin ông đoái thương đến đứa trẻ, con tôi. Phải nói thực với ông rằng nếu không có nó, chắc tôi chẳng cần sống ở cõi đời này nữa.”

      Nói đến đấy, bà sụp xuống đất, quỳ lạy ông. Ông trưởng Cam luống cuống đỡ bà dậy:

      “Nào, thôi bà, đừng làm thế, người công giáo chúng ta chỉ quỳ lạy trước đức Chúa Trời. Cầu xin Chúa hãy che chở cho chúng con.”

      Hai người nói chuyện thật khuya mới đi ngủ. Lúc đi ngủ cũng khác thường. Bà thật không ngờ ông Cam đã chuẩn bị sẵn hai chiếc chăn đơn. Mỗi người mỗi chiếc. Lại có cả một chiếc gối dài ngăn giữa hai người. Ông bảo:

      “Đáng lẽ tôi phải sắm sửa hai chiếc giường. Song nghĩ đi nghĩ lại thấy không tiện. Sợ người ta dị nghị.”

      Đến lúc này, bà mới hoàn toàn tin là con người này thành thực giúp bà. Không phải ông ta lợi dụng khi bà nguy khốn. Và từ đấy, hai ông bà sống với nhau như hai người bạn. Còn người ngoài thì tin chắc đấy là một cặp vợ chồng với một đứa con, sống với nhau rất hạnh phúc.

      Nhà ông trưởng Cam, có thể nói, khá giả. Ông có gần chục mẫu ruộng. Sở dĩ ông nhiều ruộng vì ông là người có công với đạo, có công với nhà nước bảo hộ. Khi ông quyết định ở tại Cổ Đình, đức cha giám mục, rồi cha Colombert đã tìm hết cách để nhà nước bảo hộ cấp đất cho trưởng Cam. Lẽ dĩ nhiên, Philippe Messmer được đất thì ông cũng phải có phần, tuy ít hơn. Cuộc sống phong lưu, ông dùng không hết, nên thỉnh thoảng lại hiến nhà thờ để phụng thờ Chúa, và để nhà thờ trợ giúp những kẻ khó.

      Bà Ngát càng sống với ông càng thấy lạ. Ông rất chăm đọc sách. Ông biết chữ Quốc ngữ, biết cả chữ Nho. Ông nói với bà:

      “Trước kia, nhà nghèo rớt mùng tơi, tôi không biết chữ. Sau đó, ở gần các cha, tôi học chữ Quốc ngữ. Cha Colombert tài lắm. Ông hiểu người nước ta lắm. Cụ là Tây mà thuộc cả Truyện Kiều. Bà có nhớ cái hôm cha Colombert và tôi đến nhà thờ họ Vũ Xuân xin cưới bà không? Hôm ấy cha rất chú ý đến bà. Cha xem tướng đấy. Lúc về, cha nói với tôi:

      Rằng hay thì thật là hay
      Xem ra ngậm đắng nuốt cay thế nào...”

      Bà Ngát ngạc nhiên:

      “Cha là người Tây mà cũng vận Kiều khéo thế sao?”

      “Cha là giáo sĩ được hội thừa sai Paris cử sang nước ta lúc cha chưa đến ba mươi tuổi. Cha đã trải qua nhiều gian truân. Có lúc đã nằm hầm suốt sáu tháng trời. Chính tôi đã đào hầm cho cha trốn. Ngày thì chui hầm, đêm mới chui lên mặt đất làm việc đạo. Người ý nhị lắm. Rất thương xót người nghèo. Rất hiểu lòng con người. Cha nhìn thấy bà, bảo với tôi rằng: "Bà ta bằng lòng lấy ông chỉ là sự bất đắc dĩ. Mình cũng không nên thấy người ta gặp khó mà ép uổng. Chúa dạy ta ‘làm phước cho ai thì lòng phải vô tư. Làm sao cứ như tự nhiên. Làm xong việc gì cho ai thì quên ngay...’".

      Những cuộc nói chuyện như thế làm cho hai người xích lại nhau dần dần. Thằng bé Trung con bà cũng được ông trưởng Cam rất quý. Ông thường bế nó sang nhà xứ chơi với cha Colombert, ông già này cũng rất thích tiếng trẻ con cười trong căn nhà của Chúa. Ông già bảo Ngát:

      “Bà trưởng có thằng bé lanh lợi lắm. Đợi nó lớn lên tôi sẽ dạy nó học. Cả chữ Quốc ngữ, cả chữ Nho, cả chữ Tây nữa.”

      “Thưa, cha cũng biết chữ Nho ạ?”

      “Phải biết chứ. Đạo thánh hiền cũng có những điều giống như đạo của Chúa. Ví dụ đạo Khổng dạy con người nhân nghĩa, còn đạo Thiên chúa thì lấy tình thương yêu con người làm căn bản...”

      Dạo thằng bé bị mắc thương hàn, ông trưởng Cam suốt đêm ngày chăm sóc thằng bé. Cha Colombert thì thuốc thang. Ngoài việc chăm người, ông già còn là một thầy thuốc...

      Cứ như thế, đôi vợ chồng gán ghép kia dần dần gắn bó với nhau. Tuy nhiên, đêm đêm, cái gối dài vẫn nằm ở giữa. Bà muốn vứt nó đi nhưng không dám. Còn ông thì hình như ông chưa muốn bỏ nó. Đúng là thế! Bởi vì ông Cam là đàn ông, ông phải chủ động, ông phải nhìn cử chỉ và giọng nói của bà để hiểu rằng bà đã muốn, và đã đến lúc cái gối ấy không nên như một dòng sông ngăn cách nữa. Bà không thể hiểu ông đang nghĩ gì? Chẳng biết ông có biết rằng lòng tốt của ông, sự dịu dàng đôn hậu của ông đã được bà cảm hiểu và chấp nhận. Tại sao gương mặt ông lúc nào cũng rầu rầu thế kia. Cái gì đã ngăn cản ông. Trước kia bà co lại nên ông dè dặt là phải. Còn bây giờ bà đã nhích lại, đã cởi mở tấm lòng mình, vậy cớ gì ông không đón nhận.

      Cho tới một đêm; đêm ấy, hai vợ chồng vui chuyện rầm rì với nhau rất khuya. Đến đêm hôm ấy ông mới kể sự tình cho bà nghe về cái đoạn sau khi hai chú cháu ông đến xin ông cử Khiêm cứu giúp.

      "May mà tôi kịp ra đầu thú ở nhà lao tỉnh. Họ phân chia tù thành hai nhóm: một nhóm là những người có đạo ra đầu thú ngoan ngoãn; một nhóm là những người họ cho là đầu sỏ, hoặc bướng bỉnh chống lại, hoặc ngoan cố trốn lủi mà bị tố cáo hay bị quan quân tìm được. Nhóm đầu sỏ cứ mỗi ngày thắt cổ mười người. Thắt rồi mà vẫn treo lủng lẳng trên cành cây suốt nửa buổi. Chả là để đe doạ đám đông tức là nhóm thứ nhất, nhóm sợ sệt ngoan ngoãn. Họ đe doạ như thế để bắt chúng tôi phải bước qua cây thánh giá."

      "Thế có ai bước qua không?"

      "Cũng có người, phần đông là đàn bà. Tuy thế, khi được thả ra, họ vẫn theo đạo như cũ. Còn một số chừng năm chục người chúng tôi vẫn không chịu bước qua. Thế là họ mang chúng tôi ra tra tấn, mỗi ngày một lần."

      Nói đến đấy, ông Cam ngừng lại. Ông lại xoay sang kể lể về cha Colombert.

      "Ông cụ là người thánh thiện. Ông đúng là con của Chúa. Ông thường nhắc kể cho chúng tôi về đoạn đời lúc Chúa bị đóng đanh câu rút. Ông cụ bảo: ‘Tôn giáo nào, đạo nào ở trên đời này cội nguồn cũng đều tốt đẹp cả. Chỉ có cá nhân con người làm cho nó xấu đi thôi. Người bên lương cội rễ cũng chẳng ác. Chỉ vì con người ta nóng vội cố thuyết phục hoặc loại trừ nhau cho nhanh nên mới sinh ra sự bất cộng đới thiên’".

      Tự nhiên, bà Ngát chợt thấy thương ông vô cùng. Bây giờ, bà đã hoàn toàn tin cậy ông rồi. Ông nợ ơn bà hay bà đã nợ ơn ông. Có lẽ, ở cõi đời này, nếu tất cả mọi người đều biết đến ân nghĩa, đều biết nợ ân nhau thì cuộc đời đã tốt đẹp biết bao nhiêu. Bà nhẹ nhàng giơ tay ra nắm lấy tay ông. Cái gối dòng sông chướng ngại giữa hai người đã bị vứt bỏ lúc nào bà cũng chẳng hay. Bà là con chim lạc, ông cũng là con chim lạc có khác gì đâu. Lúc đó là đầu đông. Gió bên ngoài xào xạc trên ngọn tre. Bà chợt thấy thèm một hơi ấm. Bà quên cả sự e thẹn thụ động đàn bà của mình. Bà xích vào nằm sát bên ông. Người đàn ông hình như cũng hiểu. Ông cũng thèm tìm hơi ấm của bà. Hai người ôm lấy nhau. Nhưng chuyện ấy chỉ xảy ra trong giây lát. Đột nhiên, ông nhỏm dậy, rời khỏi cánh tay mềm mại của bà. Ông rên lên:

      "Không được đâu!"

      Người đàn bà ngỡ ngàng:

      "Chúng ta là vợ chồng. Sao lại không được?"

      Ông kêu khe khẽ bằng tiếng kêu của con thú bị thương:

      "Cho tôi van bà: Không được đâu!"

      Sự xót thương trong người đàn bà chợt bùng lên. Bà hiểu ông có một vết thương nào trong lòng ghê gớm lắm. Một vết tử thương. Bằng sự linh cảm nhạy bén của người đàn bà, bà hiểu ông rất cần có bà lúc này. Và chỉ có bà thôi mới làm lành được vết tử thương trong ông. Vì vậy, bà hết sức nương nhẹ, bà hết sức dịu dàng ôm lấy ông, vỗ về ông. Đầu người đàn ông ngả vào vai bà. Ông ta khóc. Ông Cam đã rấm rứt khóc trên vai người đàn bà.

      *

      Tại sao ông trưởng Cam khóc? Tại sao ông lại kêu lên không được ở cái phút mà người đàn ông như ông đáng được hưởng từ người đàn bà đã hoàn toàn đặt niềm tin cậy, đã hoàn toàn phó thác cuộc sống cho ông?

      Cũng phải thông cảm cho ông. Đúng là người đàn ông sẽ cảm thấy nhục nhã, sẽ cảm thấy bị tử thương, sẽ cảm thấy hình như mình không phải là người nữa, khi anh ta mất khả năng giống đực, mất khả năng làm công việc tái sinh sản. Trường hợp ông Cam là như vậy. Tại sao ông Cam lại luôn buồn buồn khi ông có hoàn cảnh tốt đẹp như thế.

      Câu chuyện có nguồn gốc từ những ngày phân sáp, lúc ông bị cầm tù khi ra đầu thú, lúc ông bị tra tấn hàng ngày. Có một người cai ngục điên rồ, khi thấy tra tấn bằng mọi kiểu rồi mà những người giáo dân cũng không chịu bỏ đạo, hắn giơ nắm tay lên dứ vào mặt ông Cam và nói:

      "Mày không chịu nghe tao ư? Tao còn một cách nữa, mày không nghe thì cũng phải nghe."

      Cách mà người cai ngục nói là lấy hai thanh tre kẹp vào hai quả cà của người đàn ông. Rồi hắn bóp mới đầu còn nhẹ, sau rồi nặng tay. Cho đến lúc ông Cam hét lên như xé trời và ngất lịm. Hai quả cà của Cam đã bị vỡ nát. Cái bìu bị sưng lên to như cái ấm giỏ và tím ngắt. Cam sốt mê man gần mười ngày, không ăn một hạt cơm, chỉ uống nước. Không biết sức chịu đựng của Cam phi thường đến thế nào, mà sau đó vết thương của anh dần dà tự khỏi. Từ đấy, có điều lạ vô cùng là con chim của anh co lại và rút vào trong bụng. Một người có số phận như Cam thông thường sẽ biến thành một con người hằn thù tàn độc với mọi người. Nhưng Cam lại không thế, anh tiến triển ngược lại. Có lẽ cái lý tưởng tình yêu vô biên của Chúa đã thức dậy nơi anh.

      *

      Câu chuyện tình lạ lùng của bà tổ cô tôi đọc được trong cuốn gia phả của họ Vũ Xuân xã Cổ Đình. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện sơ sài hơn nhiều. Tôi đã dùng trí tưởng tượng cố dựng lại cho sinh động.

      Đến đoạn cuối, cuốn gia phả có câu: "Về sau hai ông bà sống với nhau rất hạnh phúc". Nên hiểu câu này như thế nào? Nhiều người trả lời tôi rằng về sau ông Cam khỏi bệnh. Câu chuyện kết có hậu như vậy làm tôi cũng vui lây. Nhưng tôi cứ hỏi không biết bà Ngát chữa bệnh cho chồng bằng cách nào, bằng thuốc gì. Tôi đến xóm Vườn, tức xóm Đạo ở Cổ Đình thì một bà già nói với tôi:

      "Bằng phép màu của Chúa chứ còn bằng gì nữa."

      Câu trả lời chưa làm tôi thoả mãn. Tôi lại hỏi người dân Cổ Đình bên lương. Một người bảo tôi:

      "Trước đây, ở Cổ Đình chúng tôi có một ông lang giỏi lắm. Cụ Tổ ông ta làm ở viện Thái y trong triều đình. Nhà ông lang không có con trai nên các bài thuốc gia truyền của ông đều thất truyền cả."

      Một ông cụ già vui tính và hẳn là rất tinh quái nói với tôi thế này:

      "Có gì đâu! Một người bên đạo bảo với tôi rằng: hằng đêm bà Ngát vẫn kiên trì chữa bệnh cho ông. Chỉ có mình bà mới chữa như thế được thôi. Tức là bà ta bế đầu ông lên, cho ông bú như mẹ cho con bú. Rồi một tay bà xoa vào lưng ông, tay kia bà kéo cái chim ra. Đau đấy, nhưng có cái vú bú, và có cái tay xoa lưng ông cũng đỡ đau phần nào. Tôi còn nghe nói có bận bà kéo mạnh quá ông đau điếng, cắn chảy máu cả vú bà. Cứ như thế, mỗi ngày một ít, cuối cùng con chim chui hẳn ra. Và thế là ông Cam khỏi bệnh. Ông ta mừng đến phát khóc, ôm lấy vợ và nói: Bà đã sinh lại ra tôi lần thứ hai."

      Tôi cười phá lên và ông già vui tính cũng cười phá lên. Chẳng biết đùa hay là thật nữa. Tuy nhiên, dù sao ít nhất cũng có một phần sự thật ở câu chuyện. Đó là tình yêu của người đàn bà, chỉ có người đàn bà yêu thương mới có thể làm cho ông Cam sống lại.

      Chỉ có điều không vui: đó là sau này bé Trung đứa con của bà Cam bị chết vì bệnh đậu. Người ta thì thầm với nhau:

      "Thằng bé là con thánh, con cầu tự ở Phủ Giầy. Nay lại đem cho bên đạo nuôi. Cậu giận cậu chẳng thèm ở lại nữa."

      Sau đó ông trưởng Cam cũng qua đời. Ông qua đời bên bà vợ và trong vòng tay của Chúa. Đời ông thế là mãn nguyện. Ông trao lại tất cả của cải cho bà Ngát. Chín mẫu sáu sào ruộng và ba vò tiền bạc trắng. Bà Ngát chia của cải ra làm ba phần. Cho ông Liến gọi ông Cam bằng chú ruột một phần. Cho lý Cỏn trưởng họ Vũ Xuân là cháu gọi bà là cô một phần. Còn một phần bà giữ lại.

      Khi ông Cam chết bà lại cải đạo thêm một lần. Tức là bà không đi lễ nhà thờ nữa, mà trở về với đạo Mẫu. Bà lên núi Mẫu Sơn, dùng tiền tu bổ lại đền, dùng ruộng làm ruộng hương đăng cho đền Mẫu.

      Từ đấy, dân Cổ Đình gọi bà Ngát là bà tổ cô.


      Nguồn: Mẫu thượng ngàn, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 2006


      http://www.talagi.de/sangtac/truyen.php?bai=47#story
      #3
        Ngọc Lý 19.09.2006 12:47:12 (permalink)
        .


        Nguyễn Xuân Khánh
        Mẫu thượng ngàn





        Chương XI: Bà Ba Váy kể chuyện

        1.

        Tôi là con ông Thần Rừng. Gọi Thần Rừng vì ông cụ tôi quanh năm suốt tháng sống trong rừng, sống nhờ rừng. Ông cụ thông thuộc rừng núi quê tôi như thuộc lòng bàn tay. Ông cụ săn bắn, bẫy chim, đào củ, hái măng, hái nấm... làm kế sinh nhai. Cụ biết bắt chước tiếng kêu của loài vật và cả mọi tiếng chim. Thường hiếm khi bắt chim chơi. Chỉ có ai đặt cọc tiền trước, thuê bắt loại chim nào, lúc ấy cụ mới bắt. Mà đã định bắt là bắt được ngay. Cứ như thể khu rừng là cái lồng chim riêng nhà cụ, và khi nào muốn thì thò tay vào lồng mà bắt ngay ra con chim mình cần. Cả rắn cũng vậy. Rắn cũng bắt theo sự đặt hàng của khách. Ngoài ra, cụ còn biết chỗ nấm mọc gọi là mỏ nấm, nhất là loại nấm hương. Cụ bảo mỗi loại nấm chỉ có thể mọc trên gỗ của một số loài cây. Không phải gỗ nào cũng có nấm hương. Có những loài cây quý mọc ra những loại nấm đặc biệt quý, loại nấm ấy có thể dùng chữa bệnh tật. Thầy tôi nói đó là nghề bí truyền của cụ. Ngoài việc hái nấm tự nhiên, ông cụ còn biết trồng nấm. Nghề trồng nấm hương và thu hái nấm hương sau này ông cụ sẽ chỉ truyền cho con gái và con rể thôi. Anh Phác (Trịnh Huyền) ngày xưa vẫn theo bố tôi đi săn bắn. Ông cụ rất quý anh Phác, nhưng chỉ truyền nghề bẫy chim, còn nghề nấm hương thì chưa. Cụ bảo: "Bao giờ cậu và cái Váy nên vợ nên chồng, tôi khắc bảo. Mà lỡ ra tôi chưa bảo kịp, thì cái Váy nó đã học rồi, nó sẽ truyền nghề cho chồng con nó...".

        Thật là một câu nói gở! Bởi vì ông cụ chưa kịp truyền cho anh Phác thì đã qua đời. Ông cụ bị rắn cạp nia cắn. Thứ rắn khoang trắng khoang đen ấy lợi hại vô cùng. Một ông bạn thợ săn cõng cụ từ trong rừng về nhà cứu chữa. Mới đi được nửa đường, ông cụ đã chết trên lưng người bạn, không kịp trối trăng với vợ con nửa lời.

        Đến hội mùa xuân năm ấy, tình của tôi và anh Phác đã khăng khít lắm. Đã tính chuyện lấy nhau, nhưng rồi anh Phác đi theo cụ Đề và không trở về làng nữa, để cho duyên tình tôi dở dang...

        Cả nhà tôi, đàn bà đều tên là Váy cả. Mẹ tôi là bà Đĩ Váy. Tôi là Váy chị, em tôi là Váy em. Tôi đi làm lẽ người ta. Vợ thứ ba nên dân làng gọi là bà ba Váy. Khi tôi đẻ đứa con gái, chồng tôi, ông lý Cỏn, đặt tên là Đào. Nhưng cả nhà vẫn gọi nó là Đĩ Váy Con.

        Sau khi cha tôi mất, anh Phác bỏ làng ra đi, mẹ ốm, gia đình tôi rơi vào cảnh túng quẫn cùng cực. Mẹ tôi nợ nhà ông lý Cỏn hai mươi thùng thóc song không có cách nào trả nợ được. Chẳng lẽ ba mẹ con ôm nhau chờ chết đói hay sao. Chỉ có mỗi một lối thoát. Bà mối bảo mẹ tôi: "Để cho con Váy chị đi làm lẽ cho ông Lý. Nhà người ta hiếm, quý người. Làm bà lý Ba, một bước nhảy lên nhất nhì trong xã, chẳng sướng hay sao. Cuối năm sinh được một thằng cu, người ta sẽ coi cô ấy như hòn vàng". Thế là tôi đành nhắm mắt đưa chân về nhà ông lý Cỏn. Lúc đó tôi mới mười bảy tuổi. Ông lý Cỏn đã ngoại ba mươi và đã có hai bà vợ. Cả hai bà đều chưa có con.

        Bà Cả đã cứng tuổi nên hay ghen. Bà Hai nguyên là đào hát, ăn nói ngọt ngào lắm. Bà muốn kéo tôi về phe, nên thường đến chơi với tôi và kể cho nghe nhiều chuyện trong gia đình, kể cả những chuyện chăn gối phòng the. Bà Hai rất kình địch với bà Cả nên có bao nhiêu chuyện về bà Cả đều thổ lộ với tôi hết.

        Bà Cả tên là Lụa, hơn ông lý Cỏn những bốn tuổi. "Nhan sắc có thể gọi là xấu, nhất là cái môi trên cứ cong tớn lên. Đã xấu thế, mà đàn bà chẳng ra đàn bà" - Bà Hai chê bai. Tôi hỏi: "Sao đàn bà lại chẳng ra đàn bà?". Bà Hai cười: "Thì lúc vợ chồng ân ái với nhau ấy. Thật là buồn cho người đàn ông, khi người đàn bà lúc ấy lại chỉ biết nằm thượt ra như cây gỗ. Rồi cái miệng lúc ấy lại chỉ biết kêu lên ú ú ớ ớ nữa chứ. Thật chán mớ đời! Thật nẫu cả ruột". - Bà Hai nói xong cứ ôm bụng cười. Tôi lại hỏi: "Chuyện ấy làm sao chị biết được". Bà trả lời: "Thì lão ấy kể lại với chị". Bà Hai ngồi im một lúc, mường tượng lại chuyện ngày xưa rồi kể:

        "Cái hồi lão ấy mới cưới chị, bà Cả ghen lồng lộn. Nhất là dạo ấy lão không hề vào buồng mụ ta. Một hôm mụ đe: "Mình mà không động đến tôi nữa, tôi sẽ mách thầy cho". Ông Lý nhà chúng mình cũng sợ ông chánh Thi, tức ông bố vợ. Chị cũng doạ lão: "Ông mà cứ sang với mụ ấy luôn - liệu hồn! Tôi sẽ không cho ông vào buồng tôi nữa đâu". Lão ấy cuối cùng phải năn nỉ với mình, rồi chia lịch ra, ngày chẵn ở với chị, ngày lẻ ở với mụ ấy. Chị cũng làm cao mãi mới bằng lòng cho như vậy."

        Tôi thật tan nát cả cõi lòng khi nghe bà Hai kể câu chuyện tranh chồng ấy.

        Ở gia đình họ Vũ được ít lâu, chắp nhặt những điều nghe thấy, dần dần tôi mới rõ được mọi chuyện.

        Thực ra, cụ chánh Thi gả con gái cho ông lý Cỏn cũng phải suy nghĩ đắn đo. Bởi vì đám cưới ấy chưa thực môn đăng hộ đối. Ông cụ Cảo, bố ông Cỏn, tuy giàu, nhưng chưa có chức tước trong làng. Cô Lụa, tức bà cả Cỏn sau này, lúc ấy đã ngoại hai mươi. Trai làng không ngó tới, vừa vì cô xấu, vừa vì không ai dám trèo cao. Cụ chánh Thi rất sốt ruột, lo con gái ế chồng. Ông Cỏn lúc ấy mới mười sáu tuổi, khá lanh lợi. Lại là con nhà giàu. Cụ chánh Thi ngắm nghía mãi, cuối cùng chấm Cỏn cho con gái mình. Cụ Chánh sai bà mối đến đánh tiếng cho họ Vũ Xuân. Bà mối nói rõ lợi hại:

        "Cô Lụa nết na, lại là con nhà gia thế. Tuy không được chim sa cá lặn, nhưng cũng không thể gọi là xấu. Nếu cậu Cỏn sánh duyên với cô Lụa, thì gia đình ta sẽ có lợi nhiều. Thứ nhất là có vây có cánh. Giàu có mà thiếu vây cánh, thì mối lo lắng nguy hiểm luôn rình rập. Thứ nhì, khi cậu Cỏn đã làm rể cụ Chánh, thì lẽ đương nhiên cụ Chánh phải gây dựng cho con rể. Thứ ba, cô Lụa về làm dâu cũng có dấn có vốn chứ không phải về tay không. Cụ Chánh hứa sẽ cho cô Lụa một mẫu ruộng làm của hồi môn."

        Ông cụ Cảo là người thực tế. Ông suy đi tính lại kỹ càng, rồi ép con trai phải lấy Lụa. Đêm đầu tiên động phòng, Cỏn không thích Lụa, nhưng vì tính tò mò của chàng trai mới lớn, cũng đã làm tròn nhiệm vụ của người chồng. Lụa, lần đầu tiên, va chạm với đàn ông, sợ dúm dó, nên cảm thấy đau. Cô ta doạ:

        "Làm người ta đau thế. Ông về ông mách thầy cho."

        Đến đêm thứ tư, thứ năm, Lụa bỗng lên cơn giật, miệng ú a ú ớ, Cỏn sợ quá vội thắp đèn lên xem sao thì bị Lụa kéo lại, thổi tắt phụt đèn, rồi cấu vào lưng Cỏn:

        "Khỉ ơi là khỉ."

        "Có làm sao không?"

        "Chẳng sao cả! Thôi nào, nữa đi.”

        Ấy, cái người đàn bà động một tí lại doạ mách thầy, thực ra là người đàn bà chí thú xây dựng cơ nghiệp nhà chồng. Chỉ phải cái tính hay ghen, hay cậy thế cha, nhưng thực ra là người đôn hậu, lại giỏi công việc nhà nông. Một tay bà chỉ huy sắp xếp công việc cho vài chục người làm, tất cả đều đâu ra đấy. Lại biết thưởng phạt công minh. Rõ là tay nội tướng tài giỏi. Rõ là người đàn bà quý báu trời đã ban cho nhà họ Vũ Xuân, để cho gia đình ấy ngày càng thêm giàu có thịnh vượng. Lý Cỏn, nhờ có bà, không phải lo việc nhà, mà chuyên tâm vào việc to tát, vào việc làm cho họ Vũ Xuân thêm sang thêm danh giá.

        Ông chánh Thi là người quyền thế nhất trong vùng. Ông lại thân thiết với quan phủ, quan huyện. Thấy Cỏn thông minh, lanh lẹn, ông liền khuyên con rể bán ruộng để chạy chọt chân lý trưởng. Rồi từ đó, ông truyền nghề hào lý chăn dân cho Cỏn.

        Lý Cỏn vẫn thường khoe mình có hai sư phụ: Một là cụ chánh Thi, hai là cụ tú Cao. Cụ chánh Thi dạy Cỏn cách phi ngựa nước đại, còn cụ tú Cao luôn như bộ hàm thiếc để ghìm chân ngựa lại. Cụ Chánh dạy rằng làm quan phải biết lập uy. Cụ tú Cao lại dạy làm quan luôn phải biết run sợ, phải biết giữ lại chút ân đức dành cho con cháu. Nghe như có vẻ trái ngược nhau, song Cỏn khôn ngoan nên biết nghe lời cả hai người.

        Lúc lý Cỏn mê mẩn cô đào Huệ, Lụa bảo thế nào ông cũng không nghe, cứ cưới về làm bà Hai. Lụa sang mách bố:

        "Anh ấy không biết điều, cứ đòi vợ nọ con kia. Anh Lý được như ngày hôm nay, tất cả đều nhờ thầy. Thầy phải răn dạy anh ấy cho con."

        Ông cụ Chánh ậm ừ nhưng không động tĩnh gì cả.

        Lúc ông lý Cỏn cưới tôi về làm vợ Ba, thấy tôi trẻ quá, người lại phây phây mỡ màng, bà Cả càng ghen lồng ghen lộn. Tôi tưởng bà sẽ hành hung tôi, nhưng chuyện đó không xảy ra. Không hành hung, nhưng việc giữ chồng thì bà quản rất chặt. Không một đêm nào ông Lý được ngủ ở nhà tôi. Ông chỉ lén lút đến lúc chập tối, kéo tôi vào buồng, rồi nhập nhụa vội vội vàng vàng trong chốc lát sau đó lại ra đi. Có lẽ ông chê tôi lôi thôi, nghèo khổ, nhưng tuổi trẻ hơn hớn của tôi vẫn làm ông mê đắm. Vả lại, ông phải thú nhận, tôi là người đàn bà đằm thắm. Dù ông ở với tôi vội vàng, ngắn ngủi, không hiểu sao tôi vẫn đem lại cho ông những điều ngọt ngào mà hai người đàn bà kia không có. Tôi chẳng yêu thương mà lấy ông, nhưng sự hiền dịu, sự cam chịu của tôi dần đã cuốn hút ông, đến mức ông luôn hờn ghen (điều mà ông không có với hai người đàn bà kia). Sự ghen tuông ấy, đôi lúc, trở nên quái quỷ, khó hiểu. Những lúc ấy, ông hành hạ tôi bằng cách lấy tay véo vào bầu vú cho đến lúc chúng tím bầm lại mới thôi. Ông ta đâu có biết rằng sự ghen tuông hành hạ tôi như thế chỉ làm cho tôi càng ngày càng xa cách ông. Và càng xa cách, tôi càng luyến tiếc mối tình xưa, thời trẻ. Nhiều đêm, tôi vẫn chảy nước mắt và nhủ thầm:

        "Anh Phác ơi! Bây giờ anh ở nơi chân trời góc biển nào? Người ơi! Sao mãi chẳng về?"

        Người đàn bà ghen tuông ấy giữ chồng có hiệu quả. Thời gian của bà ở với chồng là nhiều nhất, so với hai chúng tôi. Bà hai Huệ nói cứng thế thôi, chứ thực ra bà vẫn phải chịu lép vế so với bà Cả. Còn tôi thì chẳng cần phải nói làm gì. Tôi như một thứ của ăn vụng. Chồng tôi ăn vụng vào những giờ hiếm hoi mà ông bớt xén được của bà Cả. Nhưng điều kỳ diệu lại xảy ra với tôi trước tiên. Tám tháng sau tôi đã có đứa con đầu lòng: thằng Cò. Rồi liền tù tì năm một, tôi sinh thằng Tũn, thằng Tĩn, thằng Bòi, cái đĩ Váy Con. Tôi sinh con dễ dàng đến nỗi mọi người phải phát ghen. Mà đứa trẻ nào ra đời cũng xinh đẹp, cũng khỏe mạnh.

        Và, điều lạ lùng cũng xảy ra với hai người đàn bà kia. Khi tôi sinh đứa thứ nhất thì cả hai bà đều mang bầu. Ỷ thế bà Cả có mang, lý Cỏn lấy cớ vợ cần yên tĩnh nên chểnh mảng việc gối chăn. Đã thế, lại có bận dám bỏ bà Cả ở đêm một mình, chui sang nhà tôi ăn vụng cả đêm. Bà cả Cỏn tru tréo lên và lại về mách ông chánh Thi. Cô Lụa kiên quyết bắt cha lần này phải xử tội lý Cỏn cho đến nơi đến chốn.

        Cụ Chánh gọi lý Cỏn đến. Cỏn cứ lần khân mãi, cuối cùng cũng phải sang nhà bố vợ. Thấy dáng vẻ con rể có phần lúng túng, ông cụ cười, sai gia nhân dọn rượu ra, rồi vuốt râu, cười khà khà:

        "Anh Lý, thầy khen anh đấy. Chén rượu này thầy mừng anh."

        Tưởng ông nhạc nói mát trước khi nổi giận sấm sét, lý Cỏn cứ tăn tiu, xoay xoay chén rượu trên tay. Cụ Chánh vỗ vai con rể:

        “Làm trai phải nhiều vợ mới đáng tài trai. Như thầy đây, mới chỉ có ba bà, thầy vẫn chưa thỏa chí. Còn anh, mới ngoại ba mươi, trong nhà đã có ba bà. Mà cùng một lúc ba bà đều mang thai. Thật đáng mặt đàn ông. Con gái thầy, có lúc mè nheo một tí cũng chả sao. Cũng là chuyện thường tình. Chỉ có điều thầy dặn, phải khu xử cho khéo, phải chia đều công bằng... Hơi mệt đấy... nhưng sẽ trong ấm ngoài êm.”

        Đấy, cái cảnh lấy chồng chung là như vậy đó. Thật buồn phiền, thật thảm hại. Ba người đàn bà tranh nhau ân sủng của một người đàn ông. Đáng lẽ ra, số phận của tôi đâu có đáng chịu như vậy. Tôi đã có con, và có nhiều con với ông Lý, nhưng trong tôi vẫn luôn có một khao khát, trong tôi vẫn luôn có một tình cảm không thỏa mãn, mối tình xa xưa từ thời con gái vẫn để lại trong tôi một dư vị ngọt ngào khôn nguôi... Đừng tưởng thời gian đã xoá nhòa nó hẳn... Không, nó vẫn còn đấy... Nó vẫn như ở trước mắt tôi... Điều sâu kín mà tôi không thể thốt nên lời... Đừng tưởng một người đàn bà nghèo khổ, dốt nát, quê mùa như tôi chẳng có tình cảm gì... Tôi như cánh đồng hạn lâu ngày.... Nó chỉ chờ một cơn mưa. Nó chờ đợi một trận mưa dầm dề, mà nó đã tuyệt vọng, tưởng chừng như sẽ chẳng bao giờ thấy. Tâm trạng của tôi lúc gặp anh Phác trở về là như vậy đó. Tôi thảng thốt ở bên mỏ nấm, ở bên bờ con suối. Tôi chẳng hề e thẹn trong hang đá khi đứng trước mặt anh, thổ lộ với anh những lời trách móc, nhưng thực chất là những khát khao mà năm tháng đã dồn nén, tích tụ trong tôi. Tôi run lên trong đôi cánh tay rắn chắc của anh. Người đàn bà thuần thục trong tôi như đã quên mất cái run rẩy khi ôm lấy người đàn ông, thì lạ chưa, cái run rẩy nóng bỏng ấy lại xuất hiện trở lại, bởi vì tôi cảm thấy đây mới là người đàn ông thực của riêng mình. Lạ chưa, tôi đã khóc trong cuộc ân ái ấy. Và tôi như kẻ điên rồ lao vào mối tình xưa, lao vào cuộc ngoại tình không lối thoát. Những cuộc ái ân vụng trộm bên con suối, bên cái mỏ nấm mà tôi nghĩ chỉ có cha tôi ngày xưa biết, và ngày nay chỉ có tôi và Trịnh Huyền biết đã diễn ra liên tục. Tôi như chẳng biết sợ là gì, tìm mọi cách nói dối để đến với Trịnh Huyền. Cuộc tình vụng trộm đầy hiểm nguy. Có thể nó sẽ gây tai họa cho tôi. Và nó càng nguy hiểm hơn, vì Trịnh Huyền là người giả mạo, người trốn chạy trên quê hương mình. Anh có thể mất mạng như chơi vì lý Cỏn là người cầm quyền, vì anh và ông ta là hai kẻ tình địch.

        Chẳng có điều gì ở đời giữ được kín mãi. Có thể có những con mắt đã để ý đến chuyện tôi hay vào khu rừng ấy. Trịnh Huyền đã linh cảm thấy điều đó. Tôi cũng vậy, nhưng tôi không thể cưỡng lại nỗi đam mê đi tìm người đàn ông thực sự của riêng mình. Mối tình đầu đời, nay biến thành mối tình muộn, mối tình ấy càng trở nên cuốn hút hơn khi tôi có thể so sánh hai sự va chạm ân ái giữa tôi với Trịnh Huyền và với chồng tôi. Đối với ông lý Cỏn, tôi càng lúc càng thờ ơ, còn ông càng lúc càng thô bạo. Hình như, trong lúc ái ân ông muốn đánh dấu, muốn chứng tỏ tôi là mảnh đất của riêng ông. Và còn điều này nữa, hình như trong lúc giao hoà đã có sự nghi ngờ. Ông như con cáo đã đánh hơi thấy điều lạ khi đứng trước hang ổ của mình.

        Cũng may, sự nguy hiểm qua đi, khi đại họa xảy ra với làng Đình. Sở dĩ tôi phải kể lể nhiều về chị Lụa, tức bà cả Cỏn, bởi vì chị gặp nhiều bất hạnh. Cũng là phận gái với nhau cả, nên tôi thương xót cho số phận chị. Chị hay ghen, thậm chí có lúc quá quắt, nhưng đó là cảnh chồng chung, trách chị làm sao được. Nỗi bất hạnh của chị cũng là khởi đầu cho sự bất hạnh to lớn của Cổ Đình. Có thể nói đó là một đại nạn.

        Lại nói khi tôi về nhà ông lý Cỏn. Được gần một năm, tôi sinh cháu đầu lòng, đó là Xuân mà tôi vẫn gọi là thằng Cò. Mấy tháng sau khi tôi sinh con, thì chị cả Cỏn sinh cháu Long, chị hai Cỏn sinh cháu Tùng. Khi tôi mới về nhà họ Vũ, người ta nhìn tôi bằng con mắt rẻ rúng lắm. Bởi vì tôi nghèo, tôi chỉ là một nàng hầu, tôi chỉ là đứa con gái bị gán nợ, giá trị của tôi chỉ bằng hai mươi thúng thóc. Họ cho rằng tôi may mắn lắm nên một bước đã nghiễm nhiên thành bà Lý. Tuy nhiên, sau khi tôi sinh được con trai, rồi tiếp theo đó, chị Cả và chị Hai cũng sinh được luôn hai cháu trai, thì mọi người lại nhìn tôi bằng con mắt khác hẳn đi. Ông thầy tướng số bảo họ Vũ Xuân có quý nhân đến nhà phù trợ nên chỉ có một năm đã sinh được ba quý tử. Ông thầy bảo tôi đã đem lại sự hanh thông cho ông Lý. Tôi như một ngôi sao lành đến để khai thông cho một dòng sông bị tắc nghẽn. Nếu nói về đường con cái thì quả có sự khai thông thật. Mấy năm sau đó, tôi đẻ liền cho ông Lý thêm ba đứa con trai. Mà lại đẻ bằng những cuộc ân ái vội vàng cứ như vụng trộm, kể ra cũng tài thật. Đúng tôi là người đàn bà mắn con và nhờ những đứa con trai ấy, số phận tôi cũng bớt bị khinh rẻ.

        Riêng chị cả Cỏn, nghe ông thầy tướng nói như vậy, chị bớt cay nghiệt hơn, tức là chị nới lỏng dây trói với ông lý Cỏn. Tuy chị không thả lỏng cho ông Lý ở thâu đêm với tôi, nhưng ít ra chị cũng không đay nghiến lắm, khi ông Lý chập tối đến nhà tôi có về muộn hơn một chút. Tôi biết ao ước thầm kín của chị cả Cỏn. Chị muốn có một bầy con trai, càng đông càng tốt, ít ra chị muốn có đủ bộ bốn con Long, Ly, Quy, Phụng. Người đàn bà giàu có lại đông con trai, là đại phúc, vừa giàu của lại giàu con. Do vậy, chị phải giữ rịt ông Lý ở với chị. Chị hai Cỏn, sau khi sinh thằng Tùng, liền bị bệnh. Ông lang bảo chị không sinh nở được nữa. Như vậy, đã bớt một đối thủ. Bây giờ đối thủ là tôi. Chị cả Cỏn muốn chạy đua với tôi. Sau lần sinh thứ nhất của tôi, chị Cả đã tìm mọi cách không cho chồng sang với tôi dù là chập tối một lát. Chị bảo bao giờ chị có mang lần thứ hai, chị mới thả cho ông đi. Ông lý Cỏn liền giở thủ đoạn lén lút. Ông biết sáng nào bà Cả cũng đi thăm đồng. Khoảng thời gian này hơn một tiếng. Đúng lúc ấy ông lẻn sang chỗ tôi, kéo tôi vào buồng, tốc váy lên, và loáng một cái ông đã làm xong bổn phận con đực một cách thòm thèm. Đấy là cái đận tôi có mang thằng Tũn. Sau khi cái bụng tôi đã mây mẩy lùm lùm, bà cả Cỏn về tra hỏi chồng.

        “Tại sao bụng cô Ba lại to lên như thế?”

        “Tôi chẳng biết.”

        “Hay là nó chơi ngang.”

        Lúc này lý Cỏn mới cười xoà với vợ:

        “Đừng nói thế mà phải tội. Con tôi đấy. Một hôm bà đi đồng vắng, tôi sang nó, chỉ chạm vào thôi. Ai ngờ cô Ba mắn thế. Bà nó đừng xị mặt ra thế. Cũng là điều mừng, là cái phúc nhà ta chứ sao.”

        Đận ấy, tôi lại đẻ con trai, và ít tháng sau bà Cả cũng mang thai, nhưng lại sinh con gái: đó là cái Thắm. Sau khi đẻ Thắm, bà Cả tự dưng ngừng sinh nở. Trời chẳng chiều lòng bà. Mấy năm liền bà cứ trơ ra. Bà lên đền Mẫu, dâng lễ vật rất hậu, xin con cầu tự. Bà Tổ cô đứng ra làm lễ. Bà Tổ cô là người rất sùng bái. Tuy nhiên, chẳng bao giờ người ta thấy bà hầu bóng. Người họ Vũ Xuân đồn với nhau rằng bà Tổ cô hầu bóng rất oai phong lẫm liệt, song từ khi ông phủ Khiêm mất, bà không hầu nữa mà chỉ làm chủ điện ở đền Mẫu thôi.

        Lúc ấy bà Tổ cô đã già rồi. Khi bà cả Cỏn thưa với cụ về việc cầu tự, cụ bảo sẽ phá lệ vì con cháu để ăn mày cửa thánh, cụ sẽ đích thân bắc ghế hầu thánh. Có lẽ đây là lần đặc biệt, lần cuối cùng cụ đặt tấm lụa hồng phủ diện lên đầu. Cụ bảo cụ vẫn hầu những giá xưa.

        Thoạt đầu pháp sư (cung văn) dâng văn thỉnh Mẫu:

        Bóng trăng loa
        Mẫu đơn nhất đoá
        Gió lay mành
        Nhang xạ thoảng hương đưa...

        Cuộc hầu bóng ấy không đông người - ý cụ muốn vậy. Chỉ có con cháu trong nhà và một số con nhang đệ tử thân thiết. Không đông nhưng mà thành kính, trang nghiêm. Câu hát tiếng đàn của pháp sư dắt tâm hồn con người dần vượt thoát khỏi miền cõi tục, để nhập vào cõi thiên hương. Giá Mẫu diễn ra nhanh, nhưng cũng đủ để con người dọn mình nghiêm trang bước vào cõi tâm linh hư ảo.

        Xe loan thánh Mẫu đã trở về cung trời rồi, người cung văn chuẩn bị chuyển giọng sang bài văn cô Chín đền Sòng, cô Mùi đã dặn ông như vậy. Cũng phải thôi, bởi vì cô Chín thiêng lắm, cô lại rất hào phóng ban tài phát lộc, cô sẵn sàng ban cả những niềm vui trần thế to lớn, ví dụ như ban cho một đứa trẻ. Mà cuộc hầu bóng này chẳng là cuộc hầu bóng cầu tự cho bà cả Cỏn hay sao.

        Tuy nhiên, ông cung văn hoàn toàn ngạc nhiên khi chiếc khăn phủ diện được tung ra. Những ngón tay của cụ Tổ cô giơ lên lại ra hiệu cho pháp sư hát văn giá quan Hoàng Mười. Cũng được thôi! Hôm nay hầu chẳng nhiều. Giọng người cung văn còn khỏe, tràn trề khí lực.

        Ông này hát điệu dọc lại rất hay. Giọng ông sang sảng làm cụ Tổ cô hài lòng, mặt tươi hơn hớn.

        Đức Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An
        Ở huyện Thiên Bản, làm quan đất Phủ Giày.

        Ông pháp sư đâu có biết cuộc lên đồng này là cuộc bắc ghế hầu thánh cuối cùng của cụ Tổ cô. Nó vừa là cuộc cầu tự cho con cháu, lại vừa là sự hồi tưởng. Cụ Tổ cô muốn nhớ lại những chuyện xưa về người chồng về một vị quan trung hiếu tiết liệt. Đã gần năm mươi năm rồi, người đàn ông tri kỷ đã ra đi. Cũng chính vì ông mà bà Tổ cô đã hi sinh, đã chịu lỡ làng cả một kiếp người.

        Lưỡi gươm thiêng cứu nước phù đời
        Đánh đông, dẹp bắc việc ngoài chốn binh nhung.

        Ông phủ Khiêm, người chồng thứ nhất của cụ Tổ cô chẳng là người như thế hay sao? Để tỏ lòng trung liệt, ông đã tự rạch bụng phơi tấm lòng son ra giữa thanh thiên bạch nhật, làm tấm gương cho người đời soi chung.

        Cụ Tổ cô cũng tri ân vô cùng với tấm lòng trọng nghĩa của người chồng thứ hai. Cụ Trưởng lấy cụ bà, chủ yếu vì muốn cứu bà, cứu lấy giọt máu cuối cùng của dòng họ Phùng xứ Nam. Ông lão là người theo đạo Gia-tô kể đã mấy đời. Con người đạo gốc ấy dám vi phạm cả lệ đạo vì cái ơn cứu tử ngày xưa. Bà cụ vẫn còn nhớ, có những năm về quê nội, ông cụ đã lén làm ngơ cho bà về Phủ Giầy, để cho bà lễ bái theo tục lệ đạo Mẫu mà bà, dù đã cải đạo, vẫn còn sùng tín.

        Cuộc hành lễ này có nhiều ý nghĩa như thế đấy, tuy nhiên cụ không hề quên công việc cho con cho cháu. Lúc phát lộc, cụ rút trong người ra một chiếc khăn thêu, rồi dùng nó bọc một quả cam trao cho chị cả Cỏn:

        “Quả cam con ăn, cái khăn con luôn để trong người. Mẫu sẽ thương con, con sẽ cầu được ước thấy.”

        Chị cả Cỏn cầm lấy gói lộc, cung kính giơ thật cao trên đầu, rồi cúi rạp xuống để trán sát mặt đất, chị cảm thấy như lòng mình rúng động.


        2.

        Bà Cả rước chân nhang ở đền Mẫu về thờ vào đầu năm, cuối năm linh nghiệm liền. Bà sinh con trai thứ hai đặt tên là Ly. Cậu ấm quý như hòn vàng, nhưng là con cầu tự nên khó nuôi lắm. Quặt quẹo luôn. Bà Cả lại mất sữa nên cậu Ly còm nhom. Cũng may lúc đó tôi sinh cái đĩ thứ năm, đĩ Váy Con, hai bầu sữa của tôi buộc phải chia ra cho hai anh em nó bú. Ở nhà ông lý Cỏn, không biết ai đặt ra lệ, mà lũ trẻ con gọi ba người đàn bà chúng tôi theo cách gọi khác nhau rất lạ. Con tôi và cả con bà Hai đều phải gọi chị cả Cỏn là Đẻ, mặc dù bà ấy không hề đẻ ra thằng Cò, thằng Tũn, thằng Tĩn, thằng Bòi và con đĩ Váy Con. Bà hai Cỏn, thì tất cả bọn trẻ đều phải gọi bằng Mợ (ý chừng theo cách gọi tân thời kiểu thành phố). Còn tôi, bà ba Váy, thì chúng nhất loạt đều gọi bằng U (ý chừng vì tôi là người nhà quê, đặc sệt nhà quê). Cách gọi ấy cũng có cái hay, vì nó phân biệt rất rõ ràng, không gây ra nhầm lẫn. Vả lại cách gọi ấy cũng còn hay, vì trẻ con làng tôi đều gọi mẹ bằng U, nên gọi U rất thân mật, gần gũi. Hơn nữa, ở nhà tôi đông trẻ rất vui, rất xuề xoà, tôi lại là người yêu trẻ nên thằng Long, thằng Ly con bà Cả, thằng Tùng con bà Hai cũng thích đến nhà tôi. Nhất là thằng Ly, nó bám tôi lắm. Mỗi lần tôi cho bú, thằng Ly bám một vú, cái đĩ Váy Con bám vú bên kia. Thằng Ly bú rất nhanh. Loáng một cái nó đã mút cạn bầu sữa. Khi ấy, nó lại bú tranh nốt bầu bên kia, mà lần nào đĩ Váy Con cũng phải nhường. Khốn thay, thằng bé bú nhiều nhưng lại mắc bệnh đi tướt. Thành thử, đĩ Váy Con tuy bú ít nhưng da dẻ hồng hào, chân tay bụ bẫm; còn cu Ly tuy bú nhiều mà da dẻ lại nhăn nheo, người vẫn còm nhom. Bà cả Cỏn bảo sữa tôi không hợp với Ly. Bà thuê vú em cho cậu bé bú, song thằng bé vẫn đi tướt và suốt ngày đòi: "Bú u cơ", nên cuối cùng lại phải trao nó cho tôi chăm sóc. Tôi chăm bẵm thằng Ly hết lòng như con đẻ rứt ruột, nên cuối cùng thằng bé cũng khỏi bệnh và lớn thành người.

        Năm thằng Ly lên sáu, cụ Tổ cô gần chín mươi, cụ già quá nên thân thể rệu rã, sắp sửa đến cõi. Cụ dặn đừng làm ma chay linh đình, bởi vì cụ nửa đi đời nửa đi đạo, nếu mang thi thể cụ về nhà ông lý Cỏn làm ma to kèn trống phúng điếu như kiểu bên đời, thì cánh bên đạo nhà ông Liến, Láu sẽ phản đối. Còn nếu làm tang lễ ở nhà thờ, thì cánh họ Vũ Xuân sẽ chẳng bằng lòng. Chi bằng cứ theo di chúc của cụ, đem chôn cụ ở rừng báng đằng sau đền. Rồi dăm năm nữa, con cháu hãy ra Hà Nội, tìm hài cốt cụ cử Phùng chôn ở cánh đồng Bông gần chùa Hà, Cầu Giấy, đem về chôn cạnh cụ - Có như thế mới làm dịu nỗi ân hận của cụ. Cụ thề sẽ không đi bước nữa sau khi ông phủ Khiêm chết. Dù chỉ là sự chấp kinh phải tòng quyền, nhưng cụ đã tái giá tức là đã thất hứa, không phải đạo với người chồng mà cụ kính yêu. Sống không sửa được lỗi lầm, thì khi chết phải sửa lỗi lầm ấy.

        Ngày hôm trước khi cụ qua đời, con cháu họ Vũ Xuân lần lượt đến chào cụ. Bà cả Cỏn mang thằng Ly đến từ biệt cụ lần cuối. Chẳng hiểu sao khi trông thấy thằng bé, cụ lại chảy nước mắt và bảo:

        "Cụ thương chắt lắm."

        Cụ Tổ cô chết được ba tháng, thằng Ly đang khỏe mạnh, đột nhiên ngã bệnh. Ban ngày nó vẫn chơi đùa, ban tối bỗng nổi cơn sốt cao. Sờ trán nóng như hòn than. Gần sáng bụng chướng lên đau quằn quại. Hết đau bụng, sang đi lỏng. Hết đi lỏng, sang sài giật. Bà cả Cỏn cuống cuồng sang cụ tú Cao xin thuốc. Cụ Tú sang thăm bệnh cho cháu nhưng bệnh quá nặng. Thằng bé gầy gò có khuôn mặt tuấn tú đến tối hôm sau mê sảng cứ luôn mồm gọi "cụ ơi!". Chẳng ai biết là cụ nào. Gọi luôn mồm cho đến sáng thì thằng bé đi.

        Bà cả Cỏn mất đứa con trai thông minh mà bà rất yêu, đâm suy nghĩ héo hon, rồi sinh bệnh. Cụ tú Cao mang hết sở trường ra chữa cho cháu dâu. Rất lạ! Toàn thuốc tốt thuốc quý mà bệnh của bà lý Cỏn cứ trơ ra không chịu lui. Cụ chánh Thi xót con gái, đón ông lang làng Gồ, ở xa cách kẻ Đình hai chục cây số về chữa cho con gái. Diệu vợi lắm. Phải mang võng đi đón rồi lại đưa về. Tốn công tốn của lắm mà bệnh vẫn chẳng chịu lui.

        Bệnh bà cả Cỏn càng ngày càng nặng. Ông lý Cỏn nhà tôi lúc này mới điểm lại tất cả tình hình. Bà cụ Tổ cô chết tháng hai. Thằng cu Ly chết tháng năm. Khi chết thằng bé cứ gọi "Cụ ơi". Vậy nó gọi cụ nào. Rồi sang tháng sáu, bà Lý lại liên tiếp bị bệnh. Như vậy có nghĩa gì? Tại sao họ Vũ Xuân lại bị lắm tai ương như vậy. Chữa thuốc mãi không khỏi... hay là bị ma ám. Cả nhà bàn nhau đến chùa hỏi ông hộ Hiếu. Cụ chánh Thi nói:

        "Lão điên ấy hỏi làm gì? Toàn trò bịp bợm để doạ nạt người ta."

        Riêng tôi, tôi vẫn nhớ tới chuyện năm xưa họ Vũ Xuân vứt ông Thần Cẩu (con chó đá) xuống hồ Huyền, sau lại phải vớt lên; rồi chuyện ông Tây Pierre mắt mèo bị ma ám, sau được ông Hiếu chữa khỏi. Cho nên tôi vẫn tin ông Hiếu. Một buổi tối tôi lén ra chùa lễ ông Hộ Pháp và xin ông Hiếu cho biết tình hình cõi âm thế nào, tình hình gia đình tôi rồi sẽ ra sao? Ông hộ Hiếu lại lấy bát nước trong vắt bí hiểm của mình ra, đặt trên đó một nén hương nằm ngang, rồi xuýt xoa khấn vái. Cuối cùng ông nói với tôi:

        "Đi đi thì hơn... Chị không hiểu à... Tôi bảo chị nên cho các cháu lánh đi ít lâu thì hơn... Thiên cơ bất khả lậu... Nhưng cứ lánh đi... đợi khi yên ổn sẽ trở về. Đây, tôi cho chị mấy lá bùa. Đeo cho mỗi đứa trẻ một cái ở cổ... Bùa trừ tà đấy.”

        Năm ấy tôi lại sinh đứa con thứ sáu nên ông Hộ cho sáu cái bùa.
        Tôi nghe lời ông Hộ, đang đêm mang con về nhà mẹ đẻ bên làng Già. Ông lý Cỏn thấy vắng lũ trẻ hỏi tôi, nhưng nghe tôi nói, ông cũng bằng lòng. Đến khi một cậu em bà cả Cỏn cũng quay ra ốm thì cả chồng tôi và cả cụ chánh Thi đều nao núng lắm. Ông cụ chánh Thi rước ông thầy phù thuỷ làng Gồ về xem số, làm lễ. Ông ta phán rằng:

        "Động đến ngài "đại thụ linh thần" ở gốc cây đa rồi. Thần cây đa bắt bà Cỏn về làm quân hầu đầy tớ. Không sửa lễ làm ngài hạ cơn giận dữ, thì ngài sẽ còn giáng tai hoạ cho cả bên nội lẫn bên ngoại."

        Người dân làng Đình đổ đến xem đám cúng lễ thần Cây đa đông như hội. Ngài chỉ định bắt một mạng bà Cỏn về làm lính hầu, song gia đình ông Lý nhà tôi giàu có, nên sắm sửa đồ tế lễ khá hậu hĩnh. Đáng lẽ chỉ phải sắm một cô hình nhân thế mạng, nhưng nhà tôi đã sắm hai cô. Đó là hai cô tố nữ bằng giấy. Hai cô đều váy tím khăn nhung đen; chỉ có khác một cô áo đỏ, một cô áo xanh, một cô tay cầm quạt, một cô tay bưng cơi trầu. Hai cô hình nhân thế mạng đều xinh đẹp, mặt trắng, lông mày ngài đen nhánh, mắt phượng, môi son. Đồ bằng nan giấy mà tinh xảo đáo để. Hai cô tựa lưng ở hai bên cột đằng trước cái ngai "đại thụ linh thần". Cạnh ông thần cẩu còn dựng con ngựa bạch và chiếc lọng đều bằng giấy. Còn vàng mã tiền giấy thì một mâm tú ụ. Hôm ấy, gốc cây đa đầu làng bỗng sinh động, tưng bừng hẳn lên vì màu sắc xanh đỏ tím vàng. Lũ quạ ngoài đồng thấy người đông đúc, cũng bay cả đàn về đậu trên ngọn đa nhòm xuống, góp thêm vào sự náo nhiệt bằng những tiếng kêu quạ quạ ồn ĩ.

        Việc cúng thần là chính, nhưng ông Lý nhân tiện, làm cả cúng cháo lá đa. Nghĩa là cúng luôn cho cả những cô hồn, những ma đói ma khát, để cho các vong linh phiêu bạt ấy không thể thừa gió bẻ măng gây thêm tai họa. Những chiếc lá đa khoanh hình bồ đài xâu tăm, được rót đầy cháo thí vào, được bày la liệt bên những chiếc rễ đa nổi trên mặt đất, hoặc trong những bụi cây, gốc cỏ chung quanh.

        Ông lý Cỏn thân làm chủ lễ. Ông thầy phù thuỷ mặc áo đỏ đánh trống. Một chú bé phụ lễ đánh cái chập cheng. Ông thầy ê a đọc bài văn cúng. Chồng tôi lễ bốn lạy rồi tiến đến ngai thờ rót rượu. Sau đó ông nhắm mắt lẩm nhẩm van xin:

        "Con xin ngài thương chúng con lũ người trần mắt thịt, trót mạo phạm đến oai linh. Con xin ngài có phạt thì cũng giơ cao đánh khẽ. Xin đức ngài mở lượng hải hà tha thứ, xá tội cho vợ con là Nguyễn Thị Lụa, con cụ Nguyễn Văn Thi. Nay gia đình chúng con xin dâng lễ vật ngựa, lọng, mũ mão, hia hốt đầy đủ. Lại xin dâng tố nữ một đôi, hai kẻ hình nhân thế mạng, để thay thế Nguyễn Thị Lụa ngày đêm hầu hạ linh thần..."

        Sau khi ông Lý khấn, một trận gió to nổi lên cùng với tiếng trống, tiếng chũm chọe hình như cũng rộn ràng hơn trước. Những chiếc lá đa, những chiếc bồ đài bị lật sấp rồi bị gió cuốn theo... Hai cây nến đỏ trên ngai tắt phụt. Dân làng thì thầm với nhau: "Ngài thiêng, ngài nhận đấy". Ông lý Cỏn nhà tôi tay run run châm lại nến. Rồi ông quỳ xuống xì xụp lạy như tế sao. Thầy phù thuỷ khua trống rộn rã để kết thúc cuộc lễ. Dân chúng còn chờ xem đến lúc đốt vàng mã. Ngọn lửa lem lém trên những vạt áo xanh đỏ của hai cô tố nữ. Lửa biến những mảnh giấy màu thành những tàn đen kéo chúng bay vút lên trời...

        Cuộc tế lễ linh đình đến như vậy mà cũng không làm sao cứu nổi mạng con người. Bà cả Cỏn nhà tôi cũng chỉ trụ được hai ngày nữa thôi, rồi cuối cùng cũng tắt thở.

        Đám ma của chị Cả là cả một câu chuyện rắc rối. Ông Lý nhà tôi cẩn thận nhờ mấy người bấm quẻ để xem giờ nhập quan, giờ phát tang... ngày giờ chôn cất. Cả mấy người đều nói cùng một câu làm ông Lý lo sợ, chạy ngay sang nhà cụ tú Cao:

        "Ông ơi! Con biết làm thế nào bây giờ đây?"

        Trông thấy bộ mặt hoảng hốt của người cháu, cụ Tú ôn tồn:

        "Có chuyện gì, anh Lý cứ bình tĩnh nói cho chú xem sao."

        "Trùng tang! Tất cả đều nói trùng tang ông ạ."

        "Trùng tang ư?"

        Ông già nhắc lại lời người cháu. Đến lượt bộ mặt ông cụ cũng biến sắc, tái nhợt đi.

        "Ông ơi! Cháu Ly ẩn tuổi mẹ nó, hai mẹ con sinh cùng giờ, chết cùng giờ. Hai mẹ con lại chết chỉ cách nhau một tháng. Đúng là trùng tang rồi ông ạ. Đấy là chưa kể cụ tổ nhà mình cũng mới chết. Rồi cậu út bên nhà ngoại con đang bị ốm."

        Cụ Tú cố lấy giọng cứng cỏi để an ủi:

        "Anh Lý đừng nên tin vào những chuyện mê tín. Tôi đọc sách thánh hiền từ lúc để chỏm, có bao giờ thấy sách nói đến chuyện trùng tang. Đừng nên nghe các ông thầy phủ thuỷ. Đừng nên làm những chuyện rắc rối. Đạo nghĩa vợ chồng cứ thực bụng xót thương, rồi lễ nghi chẳng sơ sài, đào sâu chôn chặt, thế là trọn vẹn."

        Ông lý Cỏn nhà tôi sang hỏi bố vợ. Ông chánh Thi gật gù:

        "Kể ra lời cụ Tú là đúng với sách. Nhưng suy cho kỹ, thánh hiền vốn ở nơi đâu? Chẳng phải là ở tận bên Tầu hay sao?... Còn ở đây là quê hương chúng ta, vậy, anh Lý cứ nên theo phong tục mà làm. Ngày xưa, các cụ chôn người chết trùng ra sao. Ngày nay, ta cũng làm theo đúng như thế. Thầy cũng đi hỏi rồi. Người ta bảo nhà mình bị trùng nặng chứ không phải trùng nhẹ. Nghĩa là bên nội bị ảnh hưởng, mà cả bên ngoại cũng phải chịu theo. Chuyện này chẳng phải chuyện chơi. Anh phải có bổn phận với bên nội, nhưng cũng phải lo lắng cả cho bên ngoại. Chị Lụa là phận đàn bà. Người ta bảo nữ nhân ngoại tộc. Nhưng không hẳn như thế đâu. Cái sự trùng tang này ghê gớm lắm."

        Đã nói đến tục lệ, ai còn dám cãi. Người ta sống ở làng, sống với họ tộc, anh em, cô dì chú bác; ai có thể dám bất cần, dám làm điều gì trái với tình cảm của mọi người. Ngay cả cụ tú Cao, một người đức cao vọng trọng, cụ cũng không dám đi ngược với tục lệ. Nhỡ ra có chuyện gì, cụ làm sao gánh nổi trách nhiệm.

        Người hoảng hốt nhất là ông Lý nhà tôi. Từ lúc nghe hai tiếng trùng tang, người ông tựa như mê mẩn đi. Ông Lý, từ lúc làm người, chỉ thấy mọi sự ở đời đều xuôi thuận với ông. Đây là lần đầu tiên ông gặp điều không như ý, điều gay go. Cũng là lần đầu tiên, một người thân thiết, gắn bó với ông nhất đã ra đi. Con người lanh lợi, mưu mẹo ấy đột nhiên như ngã gục.

        Chị Cả nằm thẳng dẵng trên giường. Ông Lý chẳng nhờ ai. Chính tay ông đã vuốt mắt cho bà. Cũng chính tay ông đã lấy chiếc đũa ngáng miệng cho bà. Người đàn bà ấy có lúc hay làm nũng. Chị Cả có lúc hay doạ mách tội ông Lý với cụ chánh Thi. Nghĩ cho cùng, người đàn bà ấy, tiếng là con nhà quyền thế, tiếng là lấy chồng giàu có, song thử hỏi đời chị ấy có sung sướng hay không. Người đàn bà ấy cũng đầu tắt mặt tối quanh năm, chẳng khác gì những kẻ lam lũ. Cũng cơm hẩm, dưa khú như người tá điền. Chị ấy cũng dậy sớm theo tiếng gà gáy sáng, cũng xay lúa giã gạo cho đến lúc trăng gác đầu ngọn tre. Giờ đây, con chị chết mới tròn một tháng, chị đã vội theo con. Chết vào giờ xấu! Chết trùng tang! Chết ai oán gây nên nỗi nơm nớp cho mọi người. Theo đồn đại, sẽ còn những người khác đi tiếp. Sau bà, sẽ là ai đây? Lão thần trùng sẽ còn bắt những ai? Thật lạ lùng. Biết lão thần trùng là mối nguy chính nhưng chẳng ai dám nhắc đến chữ "Thần trùng". Ai cũng tránh, cũng kiêng gọi tên ấy. Cứ như thể nhắc đến chữ ấy là lão ta sẽ hiện ra ở ngay sau lưng, cả gia tộc nhà chồng tôi cứ như mê đi. Mọi người lặng lẽ, kẻ nào việc nấy. Ít nói là tốt nhất. Gia đình chúng tôi đang làm một việc rất lạ. Chúng tôi biết mười mươi đây là một đám trùng tang, nhưng mọi người cứ phải thản nhiên coi đây như một đám tang thường. Chúng tôi đang cố tình đánh lừa thứ ma ác, đánh lừa lão thần trùng quỷ quyệt.

        Cái Thắm rất thương mẹ. Con bé mới chừng mười ba, mười bốn mà đã đảm đang chẳng khác gì chị Cả. Nó chẳng nhờ dì Hai, chẳng khiến dì Ba. Nó tự tay đun nước ngũ vị hương, rồi quây màn làm lễ mộc dục lau rửa cho mẹ sạch sẽ, rồi thay quần áo mới cho bà tươm tất.

        Thầy phủ thuỷ làm lễ phạt mộc, yểm bùa. Ông cầm nắm hương đọc phù chú, lấy con dao dựa chém nhẹ vào những tấm ván của chiếc áo quan bằng gỗ vàng tâm để đuổi lũ tà ma còn ẩn náu trong đó. Sau đó yểm bùa. Yểm cả trong áo quan, yểm cả những xó xỉnh tối tăm trong nhà.

        Lễ phạm hàm mới thật thảm thương. Ở trường hợp chết bình thường người ta dùng ba đồng chinh đã mài sáng loáng và một bát gạo. Người hộ tang hô ba lần: sơ hàm, tái hàm, tam hàm. Mỗi lần hô, người ta bỏ vào miệng người chết một đồng chinh và một thìa gạo. Riêng ở trường hợp này, vì chị cả Cỏn chết trùng tang người ta không dùng đồng chinh và gạo. Vật bỏ vào miệng người chết lúc này là một nắm kim nhọn hoắt. Tiếp đó là việc làm khủng khiếp. Ông thầy phù thuỷ lại múa hương, lại thét, lại đọc phù chú. Sau đó, ông lấy kim khâu, chỉ chắc, khâu kín hai môi người chết lại. Cái kim đâm vào môi sừn sựt, không hề có máu chảy ra. Tôi nhìn mà sởn tóc gáy, mắt nhắm nghiền lại. Cái Thắm thương mẹ quá, khóc rãy lên, rồi nằm ngất thẳng cẳng.

        Tiếp đến làm lễ khâm liệm cho chị Cả. Người ta dùng những tệp giấy bản kê đầu, chèn đầu, rồi bó người chết bằng những tấm vải liệm dài. Người chị Cả cuối cùng được gói lại gọn ghẽ, vuông vức trông như chiếc bánh chưng dài...

        Trong cuộc lễ khâm liệm ấy, mấy người đàn bà yếu bóng vía trong nhà bị ngất. Cái Thắm bị ngất lâu nhất. Đến như chị hai Cỏn vốn kình địch với chị cả Cỏn mà cũng phải lả người đi, khóc không thành tiếng. Ông lý Cỏn chồng tôi có lẽ là người thương xót chị Cả nhất. Cứ tưởng ông ít đằm thắm với chị Cả là vì ông ít yêu thương chị. Hoá ra không phải. Cứ nhìn ông mà xem. Ông ngơ ngơ ngác ngác, nước mắt chảy ròng ròng, sụt sịt như một đứa trẻ. Người ta gọi ông cũng chẳng thưa, cứ như kẻ mất hồn...

        Tại sao, lúc khâm liệm chị Cả lại phải làm những chuyện khác thường như bỏ kim vào miệng và khâu môi như vậy? Trong đám tang tôi không dám hỏi, mãi về sau mới biết.

        Người ta bảo rằng chết trùng tang rất độc. Không làm theo đúng tục lệ, sẽ làm chết nhiều người khác trong họ tộc. Có gia đình bị trùng tang chết liền nhau tới chục người. Cái kẻ ác độc gây ra tang tóc ấy chính là thần Trùng. Đó là một ác thần. Nó thường biến thành một con rắn đến mộ người chết trùng, rồi nằm cạnh xác chết. Nó đe doạ vong linh người chết, hành hạ, tra khảo xác chết. Nó buộc người chết phải khai ra tên họ, ngày sinh tháng đẻ của những người thân còn sống, để rồi sẽ về bắt tiếp những người đó. Trường hợp này phải bỏ kim vào mồm và khâu miệng lại. Khâu như vậy cốt đề phòng. Nhỡ ra, người chết bị thần trùng tra khảo đau quá, cũng không có thể há miệng ra mà khai với vị ác thần những điều mình biết.

        Người hộ lễ là cụ tú Cao. Cụ là người từng trải, lịch lãm, nắm vững mọi thủ tục, công việc tang lễ. Cụ cắt đặt công việc cho từng người trong nhà rất khéo. Người nào đúng việc nấy. Đáng lẽ ra ông lý Cỏn nhà tôi phải làm tang chủ, nhưng từ lúc chị cả Cỏn mất ông như người mất hồn. Tôi phải đưa ông về nhà, bắt ăn, rồi bắt ngủ một lúc, ông mới đỡ, tuy nhiên vẫn còn ngơ ngác không điều khiển được mọi việc. Thằng cháu Long con chị cả Cỏn phải đứng ra làm tang chủ. Thằng Long kém thằng Cò con tôi một tuổi, nhưng về thế thứ nó là anh thằng Cò, lại là con đẻ chị Cả nên làm tang chủ là phải. Thằng bé mười sáu tuổi, khá lanh lợi và xót thương mẹ. Lúc chị Lụa tắt thở, nó cầm chiếc áo cánh của mẹ leo lên nóc nhà để hú hồn hú vía:

        "Ba hồn chín vía bà Nguyễn Thị Lụa ở đâu có nghe thấy tiếng con trai là Vũ Xuân Long, thì hãy về với con với cháu."

        Nó hô ba lần, vừa hô vừa khóc. Thằng bé suýt ngất xỉu trên mái nhà. Ông thầy phù thuỷ bảo:

        "Xin gia đình cứ làm lễ đúng như lệ thường, như mọi đám ma khác. Nếu không làm khéo đánh động tới người (ý nói thần Trùng), sẽ rất bất lợi."

        Ý ông phù thuỷ, như tôi đã nói, là phải thật khéo để đánh lừa thần Trùng. Cứ làm như thể gia đình không biết chị Lụa đã bị chết trùng tang.

        Cụ Tú phải thay mặt gia đình sang có lời với cụ đồ Tiết nhờ họ Đinh giúp đỡ một số việc. Nghĩa tử là nghĩa tận, cụ đồ sai Trịnh Huyền đến thổi kèn giúp cho việc hiếu được nghiêm trang, long trọng.

        Tiếng kèn lâm khốc lúc phát tang của ông Huyền làm cho cả làng Đình phải nôn nao, kéo nhau đến đám tang. Ông Cỏn làm việc quan, lại giàu có, nên khách khứa đông nườm nượp. Cái sự trùng tang là việc riêng trong nhà, cụ Tú giấu biệt, lại cấm tiệt con cháu không được hở ra. Hơn nữa, họ Vũ Xuân gia pháp rất nghiêm, nên lúc ấy trong làng không ai hay biết; người làng rủ nhau đến thăm hỏi như đám ma thường. Ngoài các vị chức dịch trong vùng đến viếng, còn thấy mặt cả hai ông chủ đồn điền: ông Pierre và ông Julien. Từ khi ông Philippe chết, bà vợ đầm của ông không bén mảng sang đồn điền nữa. Người ta bảo bà ấy sợ cái xứ sở này. Người ta còn nói bà thề rằng sẽ không bao giờ đặt chân lần thứ hai tới đất Cổ Đình. Tiếng là đồn điền thuộc về cả hai ông chủ Tây, nhưng ông Pierre chỉ ham mê vẽ vời không thích bận bịu công việc, nên tất cả công việc đều ở trong tay ông Julien. Dân Cổ Đình bảo hai ông Tây này rất khôn. Một ông là võ một ông là văn. Ông Julien thì nhanh nhẹn tháo vát nhưng tính tình nóng nảy. Ông Pierre, ngược lại với ông em, là người văn vẻ nho nhã. Ông ta được dân trong xóm mến. Nhờ ai đứng làm mẫu cho vẽ thì trả tiền tử tế. Có những bà chỉ gánh đôi quang gánh nhẹ, đi đi lại lại trước mặt ông chừng một lúc, thế mà cũng được ông trả công cho một hào, bằng tiền công làm việc vất vả cả ngày. Thỉnh thoảng ông còn chia kẹo cho trẻ con. Cái nhà ngang nhà thím ba Pháo bỏ không, đem cho ông Pierre thuê để đồ vẽ cũng được đồng bạc mỗi tháng. Ông ta lại chẳng hề khinh rẻ cái phận nghèo hèn làm mõ của thím Pháo - vì vậy, dân bảo chắc kiếp trước ông Tây này là người Nam và tu đạo Phật nên mới thế.

        Ông Pierre ở xứ ta đã lâu, am hiểu lệ tục xứ mình, lại biết nói tiếng ta. Tuy giọng còn lơ lớ chút ít, nhưng đứng trước linh cữu bà Lý, ông ăn nói thật nghiêm trang, văn vẻ chẳng khác gì người ta:

        "Đồn điền chúng tôi biết tin bà Lý quy tiên. Chúng tôi đến phúng viếng, mang hoa đến chia buồn cùng tang quyến."

        Quản Láu mặc đồ đen bưng mâm trên có chai rượu, nắm hương, bó hoa đặt lên hương án trước linh tọa. Nhạc kèn lâm khốc của Trịnh Huyền cất lên ai oán. Trai gái trong nhà, nam tả nữ hữu ngồi xệp hai bên rập đầu xuống đất khóc ô hô, khi hai ông Tây cúi đầu vái lễ.

        Thằng Long, thằng Xuân, thằng Cò, thằng Tũn, Thằng Tĩn chống gậy vông, mặc áo xô đáp lễ. Hai ông Tây vái bốn vái. Lũ con trai sụp xuống đất đáp trả lễ ba lần.

        Sau đó cụ Tú và ông Lý phải ra tiếp khách. Ông Lý ngơ ngác, đi loạng choạng. Tôi phải dìu chồng tôi ra đứng bên bàn nước. Ông Tây Julien đưa con mắt sắc sảo ra nhìn chung quanh. Rồi ông chăm chú nhìn ra đám kèn trống, nhìn chằm chằm vào ông Trịnh Huyền với bộ mặt sứt sẹo quái gở. Tôi cứ nghĩ rằng bộ mặt nửa thực nửa hư, nửa hiền nửa ác, nửa đẹp nửa đáng ghê sợ của ông dễ làm người ta chú ý. Mà cũng đáng chú ý thật, vì khi ông Huyền thổi kèn những vết sẹo bên nửa mặt trái của ông đỏ lựng lên, giữa đống thịt đỏ lựng ấy lại có những vết tím bầm. Ông Huyền cũng có ý tứ, ông ngồi khuất sau người đánh trống cơm và cố nghiêng phần mặt xấu xí đi chỗ khác. Song, ông đã như thứ người bị trời đánh dấu, chúi vào đâu được để che đậy nổi con người mình. Càng cố che giấu càng dễ bị nhận ra. Tôi chợt thấy thương và lo cho ông khi con mắt soi mói của ông Tây Julien chợt ngẩng lên và hỏi chồng tôi:

        "Cái người... thổi kèn kia... là ai?... Có phải... Trịnh Huyền... đó không?"

        Chồng tôi như cái máy đáp lại:

        "Dạ dạ..."

        Người Tây lại hỏi:

        "Có phải... cái người này... mở lớp... dạy học không?"

        Chồng tôi ngơ ngác rồi đáp bằng những câu như vô hồn:

        "Dạ không."

        "Ông Lý biết không... Phải cẩn thận... Phải rất cẩn thận..."

        Ông Tây hoạ sĩ Pierre, vì am hiểu phong tục, thấy hỏi những chuyện như vậy có lẽ không hợp trong lúc gia chủ đang có tang nên đưa mắt ra hiệu cho ông Tây em.

        Lúc đó, ông Julien mới như giật mình nhìn sang ông cụ có chòm râu lơ thơ vào đôi mắt rất sáng đang nâng chén nước trà bốc khói cho ông. Cụ Tú hiền lành nhìn vào mắt hai người Tây và nói:

        "Xin mời các quan lớn."

        Ông Tây anh đỏ mặt đỡ lấy chén nước:

        "Xin cụ đừng gọi tôi như vậy. À quên, xin giới thiệu với em đây là cụ tú Cao. Còn đây là ông Julien em tôi. Con rể cụ Tú chính là bác sĩ Alexandre mà anh em ta có dịp tiếp kiến ở nhà cha xứ."

        Julien giơ cả hai tay niềm nở nắm lấy bàn tay dài và gầy guộc của ông già. Người Tây sôi nổi ấy không chú ý đến ông già, nhưng cụ Tú tỏ ra rất quan tâm tới anh ta. Ông cụ đã quan sát không bỏ sót một cử chỉ nào của Julien, từ lúc anh bước chân vào nhà mình.

        Đêm xuống, khách viếng đã hết. Cả làng đến nghe ông thợ kèn thổi kèn giải. Đêm trước hôm đưa đám ma, ở làng tôi, người ta thường thi khóc: cháu khóc cô, con khóc mẹ, chị khóc em, chồng khóc vợ... Người khóc thường là đàn bà, tóc xõa rũ rượi, ngồi bẻ quặt chân trên đất nức nở khóc... Tiếng khóc là những lời kể lể về tính nết hiền thục, hay lam hay làm, rồi những kỷ niệm với người đã khuất... Nay người ra đi, âm dương cách trở, chẳng còn nhìn thấy mặt nhau để thương để nhớ để sầu cho người còn sống... Tiếng kể lể, tiếng khóc ơ hờ, tiếng nấc, tiếng gọi... thỉnh thoảng tiếng kèn lại dấy lên lâm li thống thiết làm mọi người ngồi dưới cây rơm, ngồi trên sân gạch bặt lặng cúi đầu.

        Ai không biết khóc thì thuê thợ kèn khóc giúp. Người nhà quê chúng tôi vẫn như vậy, đã đành là phải sống bằng miếng cơm ăn, nhưng cũng không thể sống mà thiếu hội hè. Vui có hội vui, mà buồn cũng phải có hội buồn. Thổi kèn giải là một đêm hội buồn. Trong khi cánh đàn ông đốt đèn sáng trưng trong nhà, xúm xít nhau quanh đám tổ tôm hoặc đám chắn, thì những người đàn bà, trẻ con chúng tôi ngồi dưới ánh trăng và nghe kèn giải. Đám kèn giải còn kéo dài tới lúc nửa đêm, tức là giờ các cụ làm lễ chuyển cữu. Tôi không biết các cụ cắt nghĩa lễ chuyển cữu ra sao, chứ đám đàn bà chúng tôi cho rằng chuyển cữu tức là giở mình cho người chết. Ôi chao! Nằm dài mãi trong áo quan cũng mỏi lắm chứ, người dưới cõi âm chắc cũng phải giở mình như người cõi dương.

        Song còn lâu mới tới nửa đêm, lúc này chỉ có đèn nến sáng trưng ở bàn thờ linh tọa, còn tất cả mọi người đều ngồi chìm trong bóng đêm trăng. Nó sáng mờ mờ đủ che khuất khuôn mặt kỳ dị của Trịnh Huyền. Hàng tháng nay, tôi bận bịu với công việc trong nhà nên không có thì giờ mà nghĩ tới ông ta nữa. Nghĩ cho cùng, ông Lý nhà tôi, dù có bị mất bà vợ cả thì cũng vẫn còn bà Hai và tôi tức bà Ba. Còn Trịnh Huyền thì sao? Ông ta sống cũng phải sống trong nỗi nơm nớp lo sợ. Và điều buồn nhất là ông ta chẳng có người đàn bà nào sống bên cạnh để chăm lo cho, để nâng giấc an ủi những khi ốm đau, hoạn nạn...

        Tôi ngồi ở chân cây rơm thở dài nghĩ như vậy. Tôi cúi đầu xuống, lắng nghe tiếng kèn ai oán của ông lẩn quất trong lùm tre, mái rạ. Nó làm cho tôi rưng rưng muốn khóc. Nó làm cho tấm lòng mộc mạc của tôi thổn thức, xốn xang. Hai bố con ông Trịnh Huyền thổi kèn và ngâm khóc khéo lắm. Ngày trước, đám hội hiếu bên làng Già sang giúp thường kết thúc đêm kèn giải bằng một điệu múa sinh tiền. Người ta bảo sống gửi thác về. Chết tức là về ngôi nhà chính của mình. Vậy nên chết cũng nên tiễn bằng điệu múa vui.

        Hai bố con ông Trịnh Huyền không làm như vậy. Họ lại kết thúc đêm kèn giải bằng một khúc hát. Ông Huyền lúc này không thổi kèn. Ông đánh cây đàn trong tiếng bập bung nhè nhẹ của chiếc trống cơm. Cháu Nhụ ngồi dưới chân ông. Hai bố con hát một bài hát rất lạ. Bài hát sầu thảm, chẳng hề giống một làn điệu nào, nhưng lại phảng phất tất cả nghe vừa quen vừa lạ. Nó nức nở cái hơi làn thảm, nó lâm li như kèn lâm khốc. Tôi gục đầu xuống đầu gối, cứ thấy rờn rợn gai gai. Về sau, tôi mới biết đó là bài khóc của ông năm xưa khi người vợ ra đi, lúc ông xa quê, lúc con bé Nhụ còn bé tí. Ngày xa xưa ấy, cháu Nhụ chưa biết hát; còn bây giờ, chính cháu Nhụ đang cất tiếng bằng cái giọng ai oán giữa đêm khuya. Nó hát rằng:

        Con thương mẹ, con trèo lên núi
        Chẳng thấy mẹ đâu
        Chỉ thấy vượn mẹ bồng con
        Ạ ời... vượn khóc nỉ non.

        Con thương mẹ, con lội xuống khe
        Chẳng thấy mẹ đâu
        Chỉ thấy ếch nhái kêu sầu
        Sầu suốt đêm thâu.

        Con thương mẹ, con lên hỏi trời
        Trời chẳng trả lời
        Chỉ thấy mây mờ giăng mùng
        Sương rơi như khóc.

        Con thương mẹ, con xuống hỏi đất
        Đất chẳng trả lời
        Đất rì rầm khẽ hát lời ru
        Ru rằng:
        Âm dương cách trở đôi đường
        Mẹ đi để nhớ, để thương, để sầu.
        Mẹ đi để héo giàn trầu
        Để thui giàn bí, để đau hàng cà.

        Thì ra đây là câu khóc mẹ của cháu Thắm. Con bé thưởng cho phường kèn những ba xu, bảo ông Huyền hát dâng cho mẹ nó một câu hát nào hay nhất mà cũng sầu thảm nhất.

        Trong câu hát này, cái Nhụ cũng cảm thấy như chính nó đang khóc mẹ, người mẹ mà nó hầu như không còn nhớ mặt. Vì vậy giọng nó rưng rưng đầy nước mắt. Còn ông Trịnh Huyền, nghe giọng đứa con hát, nghe tiếng khóc thê thảm của cháu Thắm, mà ông lại đang diễn cái bài hát do tự tay ông đặt ra, mượn miệng đứa con để nói lời chia biệt, cho nên tiếng đàn của ông khác hẳn lúc thường. Nó làm cho mọi người trong đám tang im phăng phắc. Đám tổ tôm trong nhà cũng bỏ chơi, kéo ra thềm, kẻ đứng người ngồi, chau mày nghe lời tiễn biệt.

        Vì là đám ma trùng tang, nên ông chánh Thi, người đứng đằng sau chỉ đạo đám ma con gái, bắt mọi nghi thức tang lễ đều phải hoàn hảo. Ông Chánh muốn hồn ma và thần Trùng buộc phải bị quyến rũ, buộc phải mê mẩn đi, để bị hút theo tiếng kèn, tiếng đàn, tiếng trống. Chính vì vậy, ông Trịnh Huyền phải trổ hết tài nghệ, làm sao tiếng kèn của ông phải làm người ta bật khóc. Tiếng kèn đầy ma lực quyến rũ ấy quả thật đã làm đám tang như trở thành một cuộc lên đồng. Ở đây, cả làng đã bị cuốn hút, tất cả mọi người đều đã biến thành những con đồng. Như thế, đám ma mới ra đám ma. Trịnh Huyền cũng thực chẳng ngờ rằng tiếng kèn của mình lại có thể làm mê hoặc, đánh lừa được cả thần Trùng, ma quỷ.

        Ngày hôm sau, đưa đám lúc mặt trời lên. Đây là cuộc đánh lừa thần Trùng có tính toán rất kỹ lưỡng, tính trước cả đường đi lối về. Đường đi của linh cữu, đặc biệt khác lệ thường. Con đường phải ngoắt ngoéo, rắc rối, bất ngờ. Bảo rằng để cho hồn ma khó nhận ra đường, sẽ quên mất lối, kẻo lại dẫn thần Trùng quay trở về nhà. Người ta không đi theo cửa chính. Gia đình xé rào, mở một lối đi ở bên luỹ tre giáp đồng. Khi đám ma qua trổ tre ra đồng, lập tức con đường ấy bị lấp lại ngay. Người ta lấy rong gai lấp đầy, bịt kín lại. Rồi đóng cọc buộc chặt, thậm chí sai đầy tớ trồng ngay những gốc tre mới. Chỉ vài tháng nữa, chỗ này sẽ xanh um, sẽ chẳng ai có thể nhận ra nơi đây đã có một lối đi chỉ dành riêng cho đám ma ấy nữa.

        Khi ra ngoài đồng, bốn chàng trai lực lưỡng cầm bốn hình nộm gọi là bốn ông phương tướng dẫn đầu. Bốn hình nhân mặt mày dữ tợn ấy là bốn tướng trừ tà ở bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Bốn bộ mặt đen, trắng, đỏ, xanh. Bốn ông thần dữ tợn cầm bốn thứ binh khí, chuỳ, đao, giáo, kiếm. Bọn trẻ trong làng đông nghịt chạy theo bốn hình nhân do bốn trai đinh lực lưỡng vác, họ hò hét và nhảy nhót.

        Đáng lẽ đám tang qua đồi, rồi vượt sông sang khu rừng bên kia bờ, nhưng bốn ông phương tướng lại dẫn ra hồ Huyền. Vẫn là mưu mẹo để đánh lạc đường. Người ta cho linh cữu lên thuyền bơi ra vùng nước bao la sau đó chui vào đám sương mù dày đặc buổi sớm. Tiếng kèn ai oán của ông Trịnh Huyền vang xa trên mặt nước mênh mông sương trắng. Ra đến giữa hồ thì sương mù dày đặc kết thành những hạt nước nhỏ.

        Đoàn người đưa tang ướt sũng, khi thuyền cập bờ bên kia. Đám ma vượt mấy quả đồi sim, qua khu rừng trám, thì đến quả đồi hoang nơi đào huyệt. Huyệt đào theo bậc tam cấp. Thầy phù thuỷ đội mũ đầu hổ theo bậc đất xuống đáy huyệt. Đó là thần hổ trị huyệt. Bốn ông phương tướng bằng giấy được cắm ở bốn góc. Thần hổ tức thầy phù thuỷ cầm hương, đọc chú, khử tà, yểm bùa. Có lúc ông đọc lầm rầm, có lúc ông quát, ông thét để đuổi lũ ma quỷ tránh xa khỏi nơi đây.

        Thầy phù thuỷ bảo trường hợp này trùng nặng nên không chôn quan tài xuống dưới đất. Phải chôn bán âm bán dương, đợi cho đủ ngày mới chôn hẳn. Người ta đặt ngang trên huyệt hai tấm ván dày rồi đặt quan tài lên đó. Phía trên, ông Chánh sai dựng một túp lều lợp tranh để che nắng che mưa.

        Tôi thắp ba nén nhang cắm trước ngôi nhà mồ của chị cả Cỏn mà khấn rằng:

        Chị Cả ơi! Em về nhà ta, làm phận nàng hầu. Em cam phận lẽ mọn nàng hầu, chẳng bao giờ dám ăn ở quá với cái số kiếp hèn mọn của mình. Em chẳng bao giờ dám tự ỉ vào chuyện có nhiều con mà làm điều gì trái với phận của mình. Em vẫn luôn một lòng cung kính, và hầu hạ chị. Lũ con của em, tiếng rằng em sinh ra, nhưng thực chúng là con của chị. Chị sống khôn chết thiêng hãy thương lấy chúng nó, để giữ gìn cho dòng dõi ông Lý, chồng chúng ta, càng ngày càng đông cành xanh ngọn... Em cắn cỏ lạy van chị. Xin hãy thương lấy đàn con của chị. Xin hãy thương lấy dòng giống của nhà ta. Em cắn cỏ em lạy van chị...

        Tôi cứ rối rít van xin như thế. Tôi đầm đìa, ròng ròng nước mắt. Tôi thực sự tin rằng những lời cầu khẩn thành thật của tôi sẽ làm cho người đàn bà nhiều uy quyền đã ra đi ấy sẽ động lòng, sẽ không bao giờ quay trở về cõi dương để làm xáo trộn cuộc sống của chúng tôi, những người còn sống.


        Nguồn: Mẫu thượng ngàn, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội, 2006


        http://www.talagi.de/sangtac/truyen.php?bai=48#story
        #4
          Ngọc Lý 24.10.2006 09:26:22 (permalink)
          .

          Phạm Lưu Vũ
          “Mẫu Thượng ngàn” - Một tác phẩm vừa có danh, vừa có... giá




          Không biết thiên hạ thường đọc sách trong tư thế nào, chứ một kẻ tạm coi là mọt sách như tôi thì tư thế ưa thích nhất bao giờ cũng là nằm đọc. Vì thế tôi vừa không thích, lại vừa ớn những cuốn có bìa cứng. Huống chi đây lại là một cuốn tiểu thuyết dày tới 800 trang khổ 13,5 x 20,5 bìa đẹp, bóng láng nhưng cứng như sắt nguội, thì nằm đọc quả là vất vả. Dùng một tay thì không đỡ nổi, mà dùng cả hai tay thì chỉ một lát đã mỏi rã rời. Thế là hết xoay bên nọ, lại trở bên kia, bê cuốn sách trên tay chẳng khác nào bê một cái thớt gỗ nghiến, mới đọc được vài chục trang đã đỏ ửng cả lòng bàn tay, chỉ sợ ngủ gật mà đánh rơi sách xuống mặt thì dễ... đi bệnh viện như chơi.

          Đó là tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, do NXB Phụ nữ ấn hành năm 2006. Dù sao thì cái vụ bìa cứng bìa mềm trên cũng chỉ là nói cho vui, không hề quan trọng. Điều quan trọng là tiểu thuyết này vừa đoạt giải “Nô-ben Hà Nội” năm 2006 của Hội Nhà văn danh giá đất Kinh kỳ (Hội Nhà văn Hà Nội). Rất cám ơn nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã mua tặng tôi và anh Nguyễn Hoà (SCL) mỗi người một cuốn. Tôi đã phải thoa rượu mật gấu (nuôi) vào hai bàn tay để quyết đọc trong khoảng bốn năm hiệp, mỗi hiệp vài tiếng, từ đầu cho đến cuối cuốn tiểu thuyết đó. Với tư cách là một bạn đọc, tôi cũng xin mạn phép được (liều mạng) phát biểu một số suy nghĩ (thiển cận) của mình về cuốn tiểu thuyết này, đặng góp vui tí chút cho văn đàn như sau:

          Đúng như những gì mà các báo, mạng đã giới thiệu gần đây về Mẫu Thượng ngàn, đây là một tiểu thuyết có những trang mô tả rất quý, rất sinh động, đầy chất tư liệu về văn hóa phong tục của làng quê Việt Nam hồi cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Nhưng nếu “văn hoá” nghĩa là dùng cái “văn” để “cảm hoá”... thì cuốn sách này còn mang một nét khác, đậm hơn cả cái nét “văn hoá” kể trên. Đó là nét “dâm hoá” - dùng cái “dâm” để cảm hoá... Hình tượng người phụ nữ nông thôn hiện lên trong cuốn sách như những thiên thần dâm dục hạng lực điền (sàng), những cái máy hút tinh khí đàn ông có công suất cực lớn. Mặc dù đã được giải thích bằng “tư tưởng” của “chủ nghĩa” phồn thực, được núp dưới những tính cách “cao thượng” trứ danh (như quảng cáo ở bìa 4), song, công bằng mà nói, thì đó chẳng qua chỉ là những cái dâm nhà quê, dâm cổ điển. Những cái dâm pha trộn giữa sự hút hồn, sát đực kiểu Hạ Cơ thời Xuân Thu bên Tàu, với cái dâm man dại trong Trăm năm cô đơn” của Gacía Marquez (nhân vật bà Mùi trong truyện là một ví dụ).

          Ngoài những thành công về “văn hoá” và “dâm hoá” kể trên, đọc cuốn sách này, người đọc có cảm giác như được vào thăm một ngôi chùa cổ, nhưng là một ngôi chùa mới được dựng lại, trên cái nền chùa đã bị phá huỷ từ lâu. Tiếc rằng các nghệ nhân thời xưa hầu như đã khuất bóng, thành ra ngôi chùa đó dẫu cũng có bố cục chữ công, chữ đinh gì đấy, dẫu cũng được trang trí long, ly, quy, phụng gì đi nữa... thì thực chất, cũng chỉ là một ngôi chùa... giả cổ mà thôi. Oái oăm nhất, đồng thời cũng đáng tiếc nhất là nhân vật chính mang cái tên của một vị đại Nho thời Tam Quốc (là Trịnh Huyền) lại (hơi bị) mờ nhạt, chẳng tạo nên ấn tượng nào đáng kể ngoại trừ cái tài thổi kèn đám ma và bộ mặt nửa thiên thần nửa quỷ sứ (!) của mình, chưa kể đến cái kết cục của ông ta cũng hơi bị đột ngột và có phần... lãng xẹt. Dù sao, trong tác phẩm cũng có những “xen” miêu tả rất đạt, rất hay như cảnh đám ma vùng đồng chiêm trũng, cảnh dịch tả ở làng Cổ Đình, cảnh vì tránh chết “trùng” mà phải chôn người “bán âm bán dương”... Đặc biệt “xen” người chết sống lại (anh chàng Điều, con “giống” của họ Đinh) tả rất xuất sắc, công phu. Tiếc rằng sự công phu ấy về sau hầu như... chẳng để làm gì. Lại có những “xen” không mấy thuyết phục, thiếu thực tế như đoạn tả việc tìm xác tên thực dân Henri Rivière, đoạn tả về hai nhân vật Mường, Ngơ, đoạn tả những cái hấp dẫn, mượt mà, đầy... dâm lực của mấy bà nạ dòng nhà quê lam lũ ngót bốn mươi tuổi, lại có tới năm sáu con... Văn này mà mấy bà nhà quê ở quê tôi nghe được, chắc thể nào mấy bà ấy cũng bảo là tác giả... nói điêu! Lại còn những cách đặt tên nhân vật. Đồng ý là người nhà quê xưa đặt tên con rất nôm na, dân dã... nhưng không đến nỗi tuỳ tiện, dễ dãi kiểu Cỏn, Tẻo, Liến, Láu... như trong truyện. Làm như thế chỉ tổ giảm chất thực của văn chương đi, đồng thời lại tăng chất kịch của tiểu thuyết lên... Nhưng thôi, theo thông lệ xưa nay, thì một tác phẩm đã được trao giải “chính qui, chính thống”, do một ban chung khảo, toàn những tên, tuổi có “cỡ” như thế này, thì thói thường, người đọc chỉ được phép khen mà thôi. Vậy xin nói về những cái được của tác phẩm này.

          Cái được thứ nhất là những sự ẩn ý, thâm trầm (chưa bàn đến đúng, sai) của tác giả gửi gắm vào câu chuyện. Hai dòng họ Đinh và họ Vũ trong làng đối lập, kèn cựa với nhau, tạm gọi là sự đối lập giữa quân tử (họ Đinh), và tiểu nhân (họ Vũ)... Rốt cuộc họ Đinh (quân tử) lại để lại trong làng một cái dòng giống giả, lai Tây (con dâu họ Đinh là Nhụ bị gã chủ đồn điền Julien cưỡng hiếp, sinh một đứa con đặt tên là Nhị). Còn dòng giống thực nếu có, chắc chỉ còn cách tha phương, reo rắc ở ngoài thiên hạ mà thôi (nhân vật Đinh Công Điều - chồng Nhụ trốn đi Sài Gòn hay Cao Miên gì đó...). Nhưng thực ra, dòng quân tử (họ Đinh) ấy ở làng Cổ Đình vẫn chưa phải đã đến nỗi tuyệt tự. Có điều cái gien “quân tử” đó phải “ẩn” vào dòng... tiểu nhân là họ Vũ thì mới tồn tại được (nhân vật Cò - Xuân là con hoang của Đinh Công Phác (Trịnh Huyền) với bà ba Váy, vợ Lý Cỏn (họ Vũ)). Tuy nhiên, tất cả những rắc rối đầy ẩn ý triết học, lẫn lộn quân tử với tiểu nhân đó chưa phải quan trọng. Điều quan trọng là những kẻ láng giềng gọi là “Tàu” kia, dù đã hơn hai nghìn năm có mặt ở xứ sở này, lại có hẳn một nghìn năm đô hộ, vậy mà vẫn bị coi là những “chú khách” (lời nhân vật Lềnh trong truyện), vẫn không “lai” được tí dòng giống (văn hoá) nào. Trong khi cái kẻ mũi lõ mắt xanh ở tận phương trời Tây kia, dẫu có mặt ở xứ sở này chưa đầy trăm năm, nhưng đứa con lai (do cưỡng hiếp) của nó vẫn được (Thánh Mẫu) chấp nhận, vẫn từ đó hoà nhập với cái cộng đồng tín ngưỡng mũi tẹt da vàng này. Câu nói đầy tính thoả hiệp, ngụy biện của nhân vật Nhụ về đứa con lai Tây của mình ở những dòng cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, chính là muốn (ngầm) nói lên cái tư tưởng đó của tác giả: “Anh ạ, ngày xưa có lần mẹ em bảo: “Đã là người ta, con ơi, ai chẳng là con của Mẫu”...”

          Cái được thứ hai của cuốn tiểu thuyết là nó không sa vào lối mòn của cả một nền “văn học minh họa” (chữ dùng của cố nhà văn Nguyễn Minh Châu) xưa nay. Bối cảnh của cuốn tiểu thuyết rõ ràng gắn với những mâu thuẫn gay gắt mang tính thời đại của cả một nền văn hoá, của cả dân tộc. Song tác giả đã để cho những mâu thuẫn đó tự phát triển, và tự giải quyết một cách hết sức tự nhiên, hết sức con người, không bị chi phối bởi bất cứ một thứ “ánh sáng”, hay một thứ “chủ nghĩa” (bịp bợm) nào. Ở đây, ta cũng bắt gặp một vài dáng dấp của cái gọi là “luồng gió mới” (những nhân vật như Tuấn, Huy, Hoa...) song đó chỉ là những hiện tượng nhân sinh tất yếu, chỉ là sự báo hiệu của những tư tưởng cấp tiến mà thôi (chưa hẳn đã là Cách mạng). Cuối cùng, kết thúc của cuốn tiểu thuyết cũng không phải là một cái kết có “hậu”, không phải một cái kết “bừng sáng tương lai” như thông lệ của những tiểu thuyết, hoặc những truyện ngắn đầy tác dụng tuyên truyền được cấp giấy phép thời cách đây chưa lâu (ví dụ truyện “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân...).

          Nếu cần phải bàn thêm một tý, thì bố cục của cuốn tiểu thuyết này cũng hơi bị “có vấn đề”. Xem xét kĩ, sẽ thấy sự lúng túng của tác giả khi muốn thể hiện một loạt những nội dung mà ông không biết sắp xếp vào đâu cho hợp lý, đành để cho nhân vật tự kể (ví dụ những chương bà ba Váy kể chuyện). Cách kết cấu này (lạ sao) thi thoảng lại bắt gặp ở một số nhà văn Trung Quốc thời hiện đại (ví dụ Khâu Hoa Đông). Không thể nói là ai bị ảnh hưởng của ai, chắc là “tư tưởng lớn” gặp nhau đó thôi.

          Nói gì thì nói, bằng việc trao giải cho tác phẩm dày dặn này, HộI Nhà văn Hà Nội muốn chứng tỏ một điều, rằng nền tiểu thuyết của văn chương Việt Nam hiện nay mà được như cuốn Mẫu Thượng ngàn này, thì kể như cũng... quí hoá lắm rồi.

          20/9/2006

          © 2006 talawas

          http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8168&rb=0102
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9