400 câu hỏi nữ giới cần biết

Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 79 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 24.07.2004 20:20:34
53. Người phụ nữ có thai tự theo dõi mình như thế nào?

Phần lớn, thời gian người phụ nữ mang thai đều sống ở gia đình, có điều gì xảy ra trong giai đoạn mang thai thì người phụ nữ là người biết đầu tiên. Do vậy, việc nắm vững những triệu chứng báo trước có thể xảy ra trong giai đoạn mang thai và kịp thời chữa trị là điều rất quan trọng đối với mỗi người mẹ đang mang thai…

Thông thường trong 3 tháng đầu thai nghén, do vận chuyển vật nặng, ngã, sinh hoạt vợ chồng hoặc do những bệnh trong tử cung, rất dễ dẫn đến sảy thai. Triệu chứng báo trước của việc xảy thai, chủ yếu là cảm thấy mỏi lưng trước, đau cuộn bụng dưới và âm đạo ra một ít máu. Khi gặp trường hợp này, phải lên giường nằm nghỉ ngay và gọi bác sĩ đến điều trị.

Nếu máu ra quá nhiều hoặc có thấy máu cục ra theo, việc xảy thai thường là khó tránh khỏi. Nhưng phải đưa đến bệnh viện, để bác sĩ khám xem đã xảy thai hẳn hay chưa và quyết định xem có cần nạo vét tử cung hay không.

Khi mang thai đến tháng thứ 4, người mẹ sẽ cảm thấy thai máy cùng với sự tịnh tiến của thời gian, thai càng ngày càng máy rõ hơn. Khi thai từ tuần thứ 30 - tuần thứ 38 thì đạt đến đỉnh cao, một ngày một đêm có thể máy tới 130lần. Số lần và cường độ thai máy thường đi theo một quy luật nhất định. Thai máy hơi ít vào sáng sớm, buổi tối thì thai máy nhiều hơn. Tiếng thai máy biểu thị tình trạng sức khỏe thai nhi khỏe mạnh, bình thường.

Khi nhau thai bị lão hóa, tác dụng bị giảm đi, làm thai nhi bị thiếu ô xy mạn tính thì thai bớt máy, tình trạng này có thể kéo dài mấy ngày cho đến một tuần, nếu không kịp thời cứu chữa thì thai sẽ chết trong tử cung. Vì vậy, việc thai máy ít đi là một loại tín hiệu của tình trạng thai thiếu ô xy. Nhưng cũng nên chú ý, khi nhau thai bị thiếu ô xy cấp, mới đầu thai phụ chỉ cảm thấy thai máy không yên, vì thế người mẹ phải tự đếm số lần thai máy, theo dõi tình hình thai nhi ở trong tử cung, cần nhất là sau khi thai đầy 7 tháng.

Phương pháp đếm số lần thai máy là: cứ vào sáng sớm, buổi trưa, buổi tối mỗi ngày, người mẹ mỗi buổi tự đếm số lần thai máy trong một tiếng đồng hồ, rồi cộng tổng số thai máy trong 12 tiếng đồng hồ nếu trong 12 tiếng thai máy trên 30 lần thì bình thường; nếu thai máy dưới 20 lần thì có nghĩa là thai bị ngạt trong tử cung, thai máy chưa đến 10 lần thì dự báo hậu quả không hay xảy ra.

Khi phát hiện thấy thai máy có vẻ khác thường, người mẹ phải đến bệnh viện khám ngay. Khi có thai đến tháng thứ 7, thứ tám nếu người mẹ cảm thấy bụng đau từng cơn, âm đạo chảy ra mấy giọt máu thì phải nghĩ ngay đây có thể bị sinh con non, phải lên giường nằm nghỉ ngay và cho gọi bác sĩ đến khám và điều trị.

------> healthy books <-------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 24.07.2004 20:21:46
Chương 4: Sinh con

54. Làm thế nào tính được ngày sinh con?

Sau khi có thai , bất cứ bà mẹ nào cũng đều muốn biết cái ngày đứa tre chào đời, tức là dự đoán chính xác ngày sinh con, để chuẩn bị tốt mọi việc trước khi sinh con. Thường có 2 cách dự tính trước kỳ ở cữ như sau:

1. Cách tính từ lần hành kinh cuối cùng: là cách thông dụng nhất hiện nay, nhìn chung thường bắt đầu tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng, lấy số tháng trừ đi 3, lấy số ngày cộng với 7, kết quả là ta có được ngày sinh con tính sẵn. Chẳng hạn như ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng của một phụ nữ X nào đó là ngày 2 tháng 10 năm 1988. Ta lấy số tháng là 10 trừ đi 3 thì còn 7, lấy số ngày là ngày 2 cộng với 7 thì được 9, vậy thì ngày sinh nở của người phụ nữ này là ngày 9 tháng 7 năm 1989. Nếu đã mang thai từ 1- 3 tháng thì có thể lấy số tháng cộng với 9, lấy số ngày cộng với 7 thì kết quả thu được chính là ngày ở cữ đã tính trước ví dụ như kỳ kinh cuối cùng của một phụ nữ là ngày 6 tháng 2 năm 1987 thì ngày sinh nở của chị là ngày 13 tháng 11 năm 1987. Nếu người phụ nữ chỉ nhớ ngày âm lịch thì lấy số tháng cộng trừ như trên, lấy số ngày cộng với 15. Nếu trước khi có thai, chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ ngắn, quá nửa số người này đều sinh con trước ngày tính sẵn nếu chu kỳ kinh nguyệt dài thì phần lớn đêù sinh con sau ngày tính.

2. Cách tính căn cứ vào đặc trưng cơ thể thể hiện qua các triệu chứng bên ngoài: Đối với một số phụ nữ không nhớ rõ được ngày hành kinh của kỳ kinh lần cuối hoặc nhớ không chính xác kỳ kinh hoặc có thai trong khi còn đang cho con bú thì không thể dùng cách tính trên được nên có thể áp dụng cách tính căn cứ vào đặc trưng cơ thể thể hiện qua các triệu chứng ra bên ngoài.

3. Tính theo chiều cao của đáy tử cung: Bởi vì sau khi có thai, cùng với sự tăng trưởng của thai nhi, tử cung cũng phình to dần lên trong khoang tử cung. Thông thường khi có thai được 3 tháng, tử cung to bằng đầu đứa trẻ mới sinh, đáy tử cung cao hơn khớp mu từ 2- 3 đốt ngón tay. Khi thai được 4 tháng, đáy tử cung nằm giữa rốn và khớp mu. Thai được 5 tháng thì đáy tử cung ở dưới rốn 2 đốt ngón tay, 6 tháng thì đáy tử cung cao ngang bằng rốn. Đến cuối tháng thứ 7 đáy tử cung cao hơn rốn 3 đốt ngón tay, cuối tháng thứ 8 thì đáy tử cung nổi cao hơn rốn một chút nữa, được 9 tháng đáy tử cung thấp xuống một ít, sang tháng thứ 10 đáy tử cung trở lại cao bằng tháng thứ 8. Như vậy có thể căn cứ vào độc đáo của đáy tử cung mà phán đoán sơ bộ thời gian sinh nở của người phụ nữ.

4. Cách tính căn cứ vào biểu hiện nôn oẹ của tháng thai nghén: Đa số phụ nữ đều có biểu hiện thai nghén trong mấy tháng có thai đầu chẳng hạn như buồn nôn, nôn oẹ… Những biểu hiện này thường xảy ra vào ngày thứ 42 của kỳ kinh cuối cùng (tức sau khi đã mang thai 6 tuần) đến ngày thứ 80 (tức 12 tuần sau mang thai) thì hết vì thế có thể dự tính thời gian sinh nở của người phụ bắt đầu từ ngày thai nghén, rồi cộng với 238 ngày tiếp theo, đó chính là khoảng thời gian sinh con. Đối với những phụ nữ có biểu hiện nghén quá sớm hoặc không có biểu hiện nghén thì không thể tính bằng cách tính này.

5. Cách tính theo ngày thai máy: Theo cảm giác của quan của người phụ nữ, phần lớn thai máy trong khoảng thời gian từ tuần thứ 18 - tuần thứ 20 của giai đoạn mang thai. Cứ tính từ ngày thai máy đầu tiên cộng với 140 ngày tiếp theo nữa thì đến ngày ở cữ. Trong mấy cách tính nêu trên, cách tính theo kỳ kinh nguyệt cuối cùng là tương đối chính xác, cách tính theo biểu hiện nghén và đặc trưng cơ thể có độ sai số khá lớn. Nếu có thể ứng dụng kết hợp cả mấy cách tính lại thì độ chính xác càng cao.

-------> healthy books <-------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 25.07.2004 23:23:14
55. Khám thai trước khi sinh con có ý nghĩa gì?

Đã là những phụ nữ có thai, đều nên khám thai theo định kỳ trước khi sinh con. Bởi vì qua việc kiểm tra sức khỏe toàn diện, trước hết, có thể phát hiện thấy một số bệnh của thân thể người phụ nữ đang mang thai. Nếu những bệnh này không phù hợp với việc có thai, có thể kịp thời đem nạo bỏ đi. Hơn nữa, qua khám thai định kỳ, có thể biết được sự phát triển của thai nhi và những thay đổi sinh lý của cơ thể mẹ. Nếu phát hiện thấy điều gì không bình thường, có thể kịp thời chữa trị sớm. Thứ ba, thông qua việc khám thai, sẽ được các bác sĩ phổ biến những kiến thức về vệ sinh, tâm lý, sinh hoạt, dinh dưỡng trong thời kỳ mang thai, nắm đượccác điều cần chú ý trước khi sinh con, sau khi sinh con. Thứ tư, qua việc kiểm tra một cách có hệ thống, có thể đoán trước được có sinh con khó hay không, để quyết định phương thức sinh con hoặc sau khi sinh con, đảm bảo sinh con an toàn. Do đó, mỗi một người phụ nữ có thai, đều phải coi trọng việc khám thai.

Nội dung khám thai có rất nhiều việc phải làm. Khi đi khám lần đầu, phải kê khai tỉ mỉ bệnh án và kiểm tra toàn diện. Trong bệnh án, ngoài việc ghi rõ tuổi, nghề nghiệp, nơi ở ra, phải điền trả lời các nội dung sau:

1.Trước kia có bệnh gì, đã làm phẫu thuật gì?

2. Gia đình có ai bị bệnh kết hạch hay bệnh truyền nhiễm không? Có bệnh cao huyết áp và bệnh di truyền hay không? Mấy thế hệ trước có ai có tiền sử thai đôi không?

3.Thấy kinh lần đầu tiên ở độ tuổi nào? Tình hình chu kỳ kinh nguyệt và số ngày hành kinh, lượng máu hành kinh có bình thường hay không?

4. Lập gia đình vào thời gian nào, tình hình của chồng (bao gồm nghề nghiệp và tình hình sức khỏe).

5. Đã có thai mấy lần? Tình hình đã trải qua sau mỗi lần thai nghén, sinh nở? Đã sảy thai, sinh con non, mổ khi sinh con hoặc có các bệnh khác kèm theo không? Tình hình con cái ra sao?

6. Có nghén không? Cảm thấy thai máy vào tháng nào? Có các hiện tượng tim thình thịch, thở gấp phù thũng, co giật chi dưới không? Âm đạo có ra máu không ?.

Tất cả những vấn đề đó đều có quan hệ mật thiết tới sức khỏe và an toàn của người mẹ và thai nhi tất cả phải trả lời kỹ càng. Sau khi nắm được những điều đã nêu ở trên thì sẽ tiến hành kiểm tra tỉ mỉ và toàn diện, bao gồm

1. Kiểm tra độ phát triển và dinh dưỡng của người mẹ đang mang thai.

2. Đo chiều cao, cân nặng và huyết áp.

3. Kiểm tra tim, phổi, gan, lá lách và tình hình phát dục của tuyến vú.

4. Kiểm tra âm đạo (thông thường chỉ kiểm tra thời gian đầu mới có thai và vào giữa thời kỳ mang thai).

5. Đo độ rộng hẹp của xương chậu và hình dạng của nó.

6. Xét nghiệm máu, nước tiểu, phân.

7. Kiểm tra phần bụng: chủ yếu kiểm tra độ lớn bé của tử cung xem có thai không? Có nghe thấy tiếng tim thai không? Khi đã nghe thấy tim thai lại còn phải tìm hiểu xem số lần đập và cường độ đập của tim thai, chú ý ngôi thai có bình thường không, đầu thai với tỷ lệ của xương chậu như thế nào?

Thông qua những lần kiểm tra tỉ mỉ toàn diện này, bác sĩ sẽ gợi ý có mang thai tiếp tục được không, điều trị và giữ gìn sức khỏe như thế nào đối với các bệnh đi theo, khi sinh con thì sinh con bình thường hay phải mổ hoặc dùng cách nào khác.

----------> healthy books <-----------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 27.07.2004 05:04:53
56. Cần chuẩn bị những gì cho trước khi sinh con?

Gần tới kỳ sinh nở, để chào đón một sinh mạng mới ra đời, người mẹ đều phải chuẩn bị xong mọi thứ cả về tinh thần cũng như vật chất, để tránh luống cuống khi sắp sinh con. Bỏi vì bắt đầu từ hai tuần trước ngày sinh con đã tính sẵn, người phụ nữ có thể sinh con vào bất cứ lúc nào. Cho nên, bắt đầu từ lúc này, phải chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cần thiết, chẳng hạn như chuẩn bị quần áo lót để thay, giấy vệ sinh dùng cho sau khi sinh con xong và băng hành kinh, dây lưng để buộc băng hành kinh phải dài, vì sau khi sinh con phần bụng chỗ thắt lưng xổ ra khá to hơn trước khi có thai.

Còn phải chuẩn trứng gà và đường đỏ, phải cho đường đỏ vào hấp trước, kẻo uống vào bị đi ngoài. Trước mỗi tối đi ngủ, phải sắp sẵn phích nước nóng, chậu rửa mặt tã lót và các đồ dùng cần thiết để vào một chỗ, khi cần là xách đi được ngay. Còn phải dặn người nhà nếu là mùa đông thì hãy chuẩn bị đốt lò sưởi, để sau khi sinh con 3, 4 ngày về đến nhà là có lò sưởi ngay nếu sinh con ở nhà thì ngoài những thứ nói trên, hãy chuẩn bị sẵn một bánh xà phòng, một phích nước ấm đã đun sôi, một miếng vải nhựa to vuông và một chiếc chậu to sạch, một đôi đũa sạch để đề phòng khi sắp sinh con đem khử trùng, dùng làm dụng cụ đỡ đẻ.

Ngoài việc chuẩn bị những thứ nói trên, về tư tưởng, không những phải an tâm, ngủ đẫy giấc mà phải ăn uống tốt và phải chú ý tới 3 việc sau.

1. Tử cung co: Chính là chỉ sự co bóp của tử cung. Khi gần đến ngày đứa trẻ ra đời, do tử cung bắt đầu co bóp, bụng thường cảm thấy một ngày bị căng lên mấy lần. Khi cảm giác này chuyển thành những cơn đau trụy ở bụng dưới hoặc đau mỏi ở thắt lưng theo một quy luật, quá trình sinh con đã bắt đầu nên gấp rút đưa vào viện.

2. Vỡ nước ối: Chính là bọc nước ối bị vỡ, qua âm đạo chảy ra ngoài loại nước có màu vàng nhạt. Thông thường khi sắp sinh con, màng nước ối bị vỡ, nếu trước khi sinh con màng thai bị rách trước, nước ối chảy ra, phải lập tức nằm thẳng và khiêng ngay vào viện, trong tư thế nằm thẳng như vậy. Nước ối thường ộc ra nhiều khi mới chảy, nhưng có khi chỉ xảy ra một chút xíu, lúc này cũng nên đưa đi viện ngay để kiểm tra, để phân biệt đó là nước ối hay là bạch đới loãng (tức khí hư loãng). Nếu nước ối có màu máu hoặc màu xanh, vẩn đụch thì càng phải chú ý.

3. Chảy máu: Trước khi sinh con vẫn có thể có một ít máu cá hoặc máu sẫm có lẫn một ít bạch đới nhầy nhầy từ âm đạo chảy ra, đó chính là dấu hiệu của việc sinh nở đến gần, là hiện tuợng bình thường. Nếu máu ra nhiều hoặc ra máu tươi hoặc ra máu đen hoặc ra những chất nội tiết loãng như nước, cũng phải đến bệnh viện khám ngay.

57. Trước khi sinh con có dấu hiệu gì báo trước?

Một số dấu hiệu báo trước của việc sắp sinh con gồm:

1. Đáy tử cung tụt xuống:

Mấy tuần trước khi sinh con, đáy tử cung tụt thấp xuống.Lúc đó, người mẹ cảm thấy phần bụng trên nhẹ đi, do đó cảm thấy dễ thở, ăn uống dễ hơn nhưng bụng dưới càng xệ ra và cảm thấy tức trong bụng.

2. Có biểu hiện thúc xuống rõ rệt.

Do đầu thai chúc xuống, chui vào trong xương chậu, đè vào các tổ chức và các bộ phận xung quanh hay làm cho đi đái liên tục, cử động chậm chạp, có hiện tượng mỏi tắt lưng, đau đùi và gân rút, ngay cả trở mình khi nằm trên giường cũng khó khăn.

3. Tử cung co bóp.

Người mẹ tự cảm thấy đau ngắt quãng do tử cung co bóp từng cơn một. Sự co bóp này của dạ con không theo một quy tắc nào, có lúc 10 phút đau một lần, có lúc nửa tiếng đau một lần hoặc lúc đau lúc không hoặc lúc nằm xuống thì đau, lúc ngồi dậy làm cái gì đó thì hết, hơn nữa thời gian co bóp cũng rất ngắn phạm vi co bóp chỉ giới hạn ở bụng dưới, Y học gọi hiện tượng co bóp này của dạ con là hiện tượng “co bóp tử cung giả”

4. Thấy dịch hồng ở âm đạo.

Mấy tuần cuối cùng của thời kỳ có thai, chất nội tiết từ trong âm đạo tiết ra ngoài ngày càng nhiều, đồng thời thấy xuất hiện chất có màu máu, gọi là “dịch hồng”, có lúc còn trong âm đạo còn ộc ra khá nhiều nước đó chính là do màng nước ối vỡ ra ngoài, Y học gọi là “vỡ ối”. Sau 24 tiếng đồng hồ thấy ra dịch hồng và vỡ ối thì bắt đầu sinh con, cho nên đó là điềm báo trước quan trọng.

---------> healthy books <----------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 06.08.2004 23:27:52
60. Yếu tố nào quyết định việc sinh con thuận lợi?

Toàn bộ quá trình sinh con có thuận lợi hay không được quyết định bởi 3 nhân tố gồm sức lực để sinh con, sản đạo (tức chỉ sự để mở của tử cung, khung xương chậu và thai) và thai nhi. Nếu 3 nhân tố này bình thường, thích hợp với nhau, thai nhi sẽ được sinh ra một cách dễ dàng suôn sẻ; nếu không sẽ gây khó khi sinh con.

1. Sức lực sinh con.

Là chỉ sức đưa thai từ trong tử cung qua sản đạo ra ngoài, bao gồm sức co bóp của tử cung,sức co bóp cả cơ bụng và sức co bóp của cơ tầng sinh môn, trong đó sức co bóp của tử cung là sức sinh con chính. Sức co bóp của tử cung lúc sắp đẻ gọi là “co bóp dồn”, có thể làm cho cổ tử cung dần dần mở to ra và đẩy thai nhi xuống. Khi cổ tử cung mở hết, chỏm đầu thai nhi xuống đến âm đạo. Mỗi lần tử cung co bóp, thai nhi nhích dần ra túi nước ối được đè lên các tổ chức ở đáy chậu và trực tràng, gây cảm giác buòn đi ngoài. Khi người mẹ chủ động nín thở rặn xuống, làm cơ bụng và cơ hoành cách co bóp, khiến áp lực trong khoang bụng được tăng lên, thúc thai nhi ra ngoài.

Sau khi thai nhi được sinh ra còn có thể kéo theo cả nhau thai. Cho nên, sức co bóp của cơ bụng là điều kiện quan trọng để đưa thai nhi ra ngoài trong giai đoạn 2. Thế nhưng chỉ co bóp cơ bụng khi tử cung co bóp, nếu không sẽ phí công mà làm cho sản phụ dễ mệt mỏi, kéo dài quá trình sinh con. Khi phần đầu thai nhi xuống đến mép dưới khớp mu, tử cung co bóp sẽ làm cho cơ tầng sinh môn co bóp, phối hợp đưa thai nhi ra. Khi thai nhi xuống đến âm đạo, sự co bóp của cơ tầng sinh môn còn có tác động đẩy nhau thai ra.

2. Sản đạo

Bao gồm 2 bộ phận là sản đạo mềm và sản đạo xương. Sản đạo xương là chỉ khung xương chậu, là bộ phận quan trọng của sản đạo, kích thước hình dáng của nó có liên quan mật thiết tới viẹc sinh con. Nếu kích thước, hình dáng khung xương chậu không bình thường, khi sinh con sẽ bị khó khăn, sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình sinh con. Sản đạo mềm là đường ống dẫn cong do đoạn dưới của tử cung, cổ tử cung âm đạo và các tổ chức cơ của hố chậu nhỏ tạo thành. Nếu cửa tử cung mở ra được một cách dễ dàng, âm đạo thông suốt, hội âm (nằm giữa hậu môn và phần ngoài bộ phận sinh dục) lỏng ra thì thai có thể ra một cách thuận lợi, ngược lại thì sẽ trở thành lực cản của việc sinh con.

3. Thai nhi

Việc sinh con có thuận lợi dễ dàng hay không, ngoài các nhân tố sức sinh con, sản đạo ra còn có mối quan hệ mật thiết với ngôi thai, kích thước của thai và sự phát triển của thai có bình thường hay không hoặc do xương sọ quá cứng, không mềm thì dù kích thước, hình dáng của xương chậu bình thường cũng không thể qua lọt được, khiến sinh con khó.

Trong tình hình bình thường, khi sinh con, đầu thai nhi trong tử cung chúc xuống dưới, mông đít quay lên trên, tư thế này giúp sinh con dễ nếu không mông thai nhi ra trước hoặc thai nhi xoay ra nằm ngang thì sinh con khó. Nếu thai nhi phát triển không bình thường, chẳng hạn như bị úng não, hai thai dính liền vào nhau… thì cũng gây sinh khó

------> healthy books <---------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 06.08.2004 23:28:54
61. Thế nào là hiện tượng bình thường sau khi sinh con?

Trong khoảng thời gian từ 6 đến 8 tuần sau khi sinh, trừ tuyến vú ra, các bộ phận trong cơ thể sản phụ đều phải hồi phục trở lại trạng thái sức khỏe ban đầu trước khi có thai. Như vậy thường một loạt những thay đổi về sinh lý của sản phụ, là những hiện tượng bình thường sau:

Trước tiên, sau khi sản phụ sinh nở xong, giống như vừa qua một trận vật lộn dữ dội, người cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Vậy là sau khi sinh xong được ít phút, người mẹ ngủ thiếp đi. Trong 24 tiếng đồng hồ sau khi sinh, nhiệt độ cơ thể có thể hơi lên cao, thường không lên quá 38 độ C, 24 tiếng đồng hồ sau cơ thể dần dần trở lại nhiệt độ bình thường. Do nín thở lấy sức rặn nên năng lượng cơ thể giảm xuống, bề mặt da bị mất nhiệt rất nhanh, gây cảm giác rét lạnh nhưng hồi phục rất nhanh.

Sau khi sinh, áp lực trong bụng giảm xuống, mô hoành cách không bị đẩy lên nữa, hơi thở sâu hơn và chậm hơn, mỗi phút thở được 14 đến 16 lần. Do hệ tuần hoàn của nhau thai không còn hoạt động, ổ đệm niêm mạc không còn, cơ thể bài tiết ra nhiều mà hấp thụ kém, các bộ phận trở nên lỏng lẻo mạch đập chậm, đi dần vào quy luật, mỗi phút đập từ 60 đến 70 lần. Sau khi sinh, da bài tiết nhiều, mồ hôi ra nhiều. Khi mới ngủ dậy càng ra nhiều hơn.

Một hai ngày sau khi sinh, sản phụ thường cảm thấy khát, uống nhiều nhưng dạ dày hấp thụ kém. Đẻ xong, do cơ bụng bị nhão ra, ít vận động sự co bóp của ruột yếu đi nên thường gây nên táo bón. Ngược lại có thể lại cần thải ra ngoài một lượng nước lớn qua nước tiểu, do đó, lượng nước tiểu càng ngày càng nhiều lên, mỗi ngày có thể lên tới 2 hoặc 3 lít nước tiểu.

Trong thời kỳ sau khi sinh (tính đến khi bộ phận sinh dục khôi phục trở lại trạng thái bình thường) có nhiều chất thải ra từ âm đạo, gọi là “máu sinh”.Thường sau khi sinh khoảng 3 đến 4 ngày, lượng “máu sinh” ra nhiều, màu đỏ tươi, từ 7 đến 10 ngày thì màu máu nhạt dần, khoảng 3 tuần thì sạch hẳn. Máu sinh thường có mùi tanh của máu, nhưng không hôi.

Sau khi sinh, do sữa kéo về ngày càng nhiều, làm cho bầu vú căng đầy, bắt đầu tiết ra sữa. Trong 1 đến 2 ngày đầu sau khi sinh, trong vú có một lượng khá ít dịch thể màu vàng, gọi là “sữa non”. Thường sau khi sinh 2 đến 3 ngày thì sữa về, lúc này bầu vú căng to rõ rệt, cương cứng, các tĩnh mạch dưới da nổi rõ, nhiệt độ ở da vú nóng lên, có lúc nhiệt độ của cơ thể cũng tăng lên, nách nổi hạch. Ngoài ra trong thời kỳ sau khi sinh, bạch cầu cũng tng lên tới 15x109/lít, rồi trở lại bình thường sau khi sinh 2 tuần.

62. Vì sao sau khi sinh lại bị đau co tử cung?

Sau khi sinh xong, tử cung nhanh chóng co lại, co nhỏ đến mức chỉ to bằng đầu đứa trẻ rồi tiếp tục co dần lại. Hơn 40 ngày sau kể từ khi sinh, tử cung đã co lại nhỏ như quả lê, trở lại trạng thái bình thường trước khi chưa có thai.

Trong quá trình tử cung co nhỏ dần lại, sản phụ thường không có cảm giác gì. Nhưng có một số sản phụ, trong 1 hay 2 ngày sau khi sinh, thường cảm thấy bụng dưới đau cuồn cuộn từng cơn và có thể sờ thấy tử cung tương đối cứng và đang co lại. Y học gọi hiện tượng này là hiện tượng “đau co tử cung”.

Thường những sản phụ sinh con dạ đều bị “đau co tử cung”, đặc biệt dễ xảy ra sau khi bị sản cấp (bắt đầu từ khi sinh đến khi kết thúc, không quá 3 tiếng đồng hồ). Nguyên nhân gây đau dữ dội, có thể là do tử cung bị thiếu máu, thiếu ô xy hoặc do áp lực trong bụng ép vào mạng thần kinh trong thành tử cung mà gây ra. Chớ lo lắng khi bị đau co tử cung, thường chỉ 3 đến 4 ngày sau là có thể dễ chịu hơn. Nếu đau quá nên lấy túi nước nóng chườm vào bụng hoặc uống một ít nước nóng gừng đường, uống thêm viên giảm đau là khỏi.

------------> healthy books <------------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 06.08.2004 23:30:31
63. Sau khi sinh, nhiệt độ cơ thể, mạch đập, huyết áp có gì thay đổi?

Sau khi sinh, cơ thể sản phụ có những thay đổi trên tất cả các mặt, biểu hiện ở nhiệt độ cơ thể, mạch đập, huyết áp đều có những biến đổi mới.

1.Về nhiệt độ cơ thể.

Trong 24 tiếng đồng hồ sau khi sinh, do bị tiêu hao sức lực trong quá trình sinh và mệt mỏi quá độ, nhiệt độ cơ thể có thể hơi tăng lên nhưng thường không cao quá 38 độ C, rồi đều trở lại bình thường sau 24 giờ. Sau khi sinh được 3 đến 4 ngày do sữa căng mà nhiệt độ cơ thể có thể lên hơi cao, Đông y gọi đây là sốt sữa. Nếu vú xung huyết nhiều và chạy hạch, nhiệt độ cơ thể có thể tăng lên đột ngột, có lúc lên tới 40 độ C, nhưng chỉ kéo dài mấy tiếng đồng hồ, nhiều nhất không quá 12 tiếng đồng hồ là nhiệt độ cơ thể lập tức hạ xuống. Nếu nhiệt độ cơ thể tiếp tục tang lên mà không giảm thì phải nghĩ ngay đến việc bị nhiễm bệnh trong thời kỳ sau khi sinh.

2. Về mạch đập

Sau khi sinh mạch đập trở nên mạnh hơn, thường mỗi phút đập khoảng 60 đến 70 nhịp. Đó là sau khi sinh, áp lực trong bụng giảm đi, cơ hoành tụt xuống, tuần hoàn máu của nhau thai không hoạt động nữa, ổ đệm niêm mạc bong ra, khiến mạch đập chậm lại, nhưng phần lớn thường hồi phục lại nhịp đập bình thường từ sau 7 đến 10 ngày. Nếu mạch đập nhanh lên, thường báo hiệu mất máu quá nhiều hoặc mắc bệnh tim, cần hết sức chú ý.

3. Về huyết áp

Sau khi sinh, huyết áp thường tụt xuống và dần hồi phục lại trạng thái huyết áp bình thường trước khi có thai. Nếu huyết áp tụt hẳn xuống, thường là do sau khi sinh máu ra quá nhiều. Ngược lại nếu huyết áp tăng lên thì phải chú ý tìm nguyên nhân, xem liệu có phải bị cao huyết áp hoặc đã mắc hội chứng cao huyết áp từ trước khi sinh không…

64. Vì sao lại ra nhiều mồ hôi sau khi sinh xong? Nên xử lý như thế nào?

Sau khi sinh xong, người mẹ hay ra nhiều mồ hôi, lúc ngủ và khi tỉnh dậy càng ra nhiều hơn, thậm chí ra đầm đìa vào mùa hè, đến mức quần áo đều bị mồ hôi thấm ướt. Đó là do lượng nước trữ trong cơ thể vào những tháng cuối của thời kỳ mang thai khá lớn, khiến sau khi sinh da phải hoạt động bài tiết nhiều mà dẫn đến tình trạng đó.

Có thể coi việc đổ mồ hôi là hiện tượng sinh lý là quá trình quan trọng giúp sản phụ thải ra một lượng nước lớn dư thừa trong cơ thể. Nhưng nếu ra mồ hôi quá nhiều thì sẽ làm cho thể chất sản phụ suy yếu và dễ bị cảm gió, cảm cúm. Do đó, phải giữ nhiệt độ trong buồng người sinh cho thích hợp, mùa đông ấm, mùa hè mát, có không khí lưu thông, thoáng đãng, nhất là vào mùa hè thì càng phải chú ý hơn.

Nhưng nên chú ý tránh để gió lùa qua đầu giường và tránh để quạt điện quạt trực tiếp vào người. Việc mặc quần áo, đắp chăn của người sinh phải lựa theo thời tiết mà mặc áo dày hay mỏng, đắp nhiều chăn hay đắp ít chăn cho thích hợp. Nên phá bỏ tập quán cũ là đội khăn, mặc nhiều áo, đắp chăn dày. Ngoài ra, khi mồ hôi ra nhiều, phải lấy khăn mặt lau khô mồ hôi hoặc lấy nước nóng lau người, để giữ cho da sạch sẽ. Phải thay ngay những bộ quần áo đang mặc bị mồ hôi thấm ướt, để chống bị cảm lạnh.

-------------> health books <------------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 17.08.2004 17:02:46
65. Máu sinh là gì? Có đặc điểm gì?

Sau khi sinh trong quá trình tử cung phục hồi lại trạng thái bình thường như trước khi sinh, tử cung đã hoàn thành xong sứ mệnh tăng sinh niêm mạc lót ổ, để niêm mạc bắt đầu đi vào hoại tử, bị xơ hóa mà bong ra, lẫn lộn với máu, chất nhầy theo âm đạo thoát ra ngoài, người ta gọi đó là máu sinh hay thường gọi là sản dịch (âm Hán Việt là “ố lộ”). Cho nên trong máu sinh có máu, niêm mạc bị hoại tử và chất nhầy…

Trong 3 ngày sau khi sinh, máu sinh ra nhiều, màu đỏ tươi, sau đó màu máu nhạt dần, có màu hồng nhạt, giống như dịch loãng. Trong khoảng từ 7 đến 10 ngày sau khi sinh, trong máu sinh có mang một lượng lớn tế bào và niêm mạc nên có màu vàng nhạt và màu trắng còn goị là máu sinh trắng (tức “bạch ố lộ”), trong khoảng 20 ngày thì máu sinh ra hết, chỉ có một số ít sản phụ bị kéo dài đến một tháng. Thường máu sinh có mùi tanh của máu, trong 6 ngày đầu sau khi sinh, lượng máu ra nhiều, trung bình là 250 mililit (1/4 lít).Quan sát lượng máu, màu sắc, trạng thái và thời gian ra máu là điều hết sức quan trọng để hiểu được tình hình sức khỏe sản phụ sau khi sinh. Nếu máu sinh có mùi hôi hoặc có màu nâu sẫm, chứng tỏ khoang tử cung bị viêm nhiễm. Nếu máu sinh ra nhiều hoặc ra mãi không sạch, chứng tỏ còn sót nhau thai nên hết sức chú ý và mời bác sĩ đến chữa trị.

66. Chăm sóc tuyến vú như thế nào sau khi sinh?

Sau khi sinh, bầu vú có những thay đổi rất lớn. Việc chăm sóc bầu vú là nhằm tạo điều kiện tốt cho việc bú sữa bình thường. Thường trong 12 tiếng đồng hồ sau khi sinh thì bắt đầu cho trẻ bú. Sau khi trẻ bú, sẽ giúp cho tuyến sữa lưu thông, tránh làm cho vú bị cương đau, phát sốt, thậm chí làm tắc tuyến sữa mà gây ra viêm tuyến vú. Do đó nên tập cho trẻ có thói quen bú theo giờ, hàng ngày cứ cách từ 3 đến 4 tiếng đồng hồ có thể cho bú một lần. Để tránh cho vú to không đều nhau nên cho trẻ bú đều hai bên. Trước khi bú phải rửa sạch tay và rửa sạch đầu vú bằng nước lọc. Trẻ bú xong, lấy khăn mặt sạch lau sạch sữa rớt trên đầu vú, sau đó lấy vải gạc sạch hoặc khăn mềm sạch phủ lên đầu vú. Mỗi lần cho trẻ bú no xong, phải dứt đầu vú ra khỏi miệng trẻ, không cho trẻ ngậm đầu vú ngủ, tránh để sữa tích ở đầu vú hoặc do miệng trẻ không sạch mà làm vú bị viêm nhiễm, gây viêm tuyến sữa.

67. Sinh con xong nên chăm sóc hội âm như thế nào?

Hội âm là bộ phận nằm giữa hậu môn và phần ngoài bộ phận sinh dục. Sau khi sinh, bộ phận hội âm của sản phụ có thể bị chảy máu nhẹ, bị sưng, thậm chí có thể bị rách hoặc bị rạch rách một bên để giúp cho việc sinh được dễ dàng, cộng với việc máu sinh ra liên tục sau khi sinh xong nếu không chú ý giữ vệ sinh, không những làm cho hội âm lau lành mà còn có thể bị viêm nhiễm. Muốn giữ vệ sinh cho bộ phận hội âm (chỗ rách cửa mình), trước hết phải chú ý đến tư thế nằm nghỉ. Nếu không bị rách cửa mình hoặc không phải khâu thì những sản phụ như vậy khá dễ dàng, có thể đứng dậy ngồi dậy hoặc hoạt động nhẹ nhàng. Như vậy không những giúp cho dạ con nhanh chóng hồi phục mà còn kích thích muốn ăn, giúp đại tiểu tiện đi được dễ dàng, giúp bộ phận hội âm nhanh lành. Nếu bộ phận hội âm bị rạch hoặc bị rách chớ nên đi lại hoạt động ngay.

Thường sau khi sinh khoảng 8 ngày mới ra khỏi giường là phù hợp, nhưng chớ làm gì động chạm đến miệng vết rách, làm vết khâu khó lành. Thứ nữa là giữ về sinh sạch sẽ. Hãy dùng nước sôi để ấm để rửa bộ phận hội âm (chú ý không được xối nước vào trong âm đạo). Nếu cửa mình bị rách thì rửa bằng dung dịch nước sôi để ấm pha muối theo tỉ lệ 1/5000, hàng ngày rửa từ 1 đến 2 lần và sau khi đại tiện thì rửa 1 lần. Sau đó lấy gạc sát trùng thấm khô, lót vào đó. Gạc lót hội âm cũng phải được sát trùng cẩn thận và thay thường xuyên, để giữ cho sạch sẽ. Người bị sưng viêm bộ phận hội âm, có thể bôi thuốc tiêu viêm. Bắt đầu từ ngày thứ 5 đến thứ 6 sau khi sinh nên ngồi ngâm bộ phận hội âm trong dung dịch sát khuẩn (pha theo tỉ lệ 1/5000) để vết rách mau lành miệng. Sau khi vết rách đã lành hẳn, mỗi ngày rửa bộ phận hội âm một lần. Đồng thời phải chú ý thay băng vệ sinh và quần lót khi hành kinh, giặt xong phải mang phơi ra ngoài nắng để sáy trùng. Sau khi sinh xong, cửa cổ tử cung vẫn chưa khép lại, bề mặt phía trong của tử cung vẫn còn những vết sây sát khi nhau thai bong ra nên rất dễ bị vi khuẩn xâm nhập vào, gây nên viêm nhiễm, do đó phải giữ sạch cửa mình, không những giúp cho bộ phận hội âm mau lành, đồng thời cũng là biện pháp phòng chống viêm nhiễm sau khi sinh.

-------> healthy book <---------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 17.08.2004 17:04:19
68. Thế nào là thời kỳ hậu sản? Theo dõi và chăm sóc sản phụ như thế nào?

Thời kỳ sau khi sinh là khoảng thời gian được tính từ lúc nhau thai xổ ra cho đến khi bộ máy sinh dục và cơ thể người mẹ hồi phục trở lại khỏe mạnh bình thường. Quãng thời gian này thường từ 6 đến 8 tuần.

Trong giai đoạn này, bộ máy sinh dục và tất cả các bộ phận trong cơ thể đều đang hồi phục. Sau khi nhau thai xổ ra, tử cung lập tức co lại, đáy tử cung cao, ngang rốn, sau đó cứ mỗi ngày lại tụt xuống từ 1 đến 2 cm, trong khoảng 10 ngày thì tụt xuống khoang xương chậu. Lúc này kiểm tra phần bụng sẽ không sờ được đáy tử cung nữa. Từ độ cao của đáy tử cung, chúng ta có thể biết được tình trạng co lại của tử cung. Đối với những sản phụ bị đau do co tử cung sau khi sinh thì phải áp dụng những biện pháp xử lý đặc biệt, chẳng hạn như khi đau dữ dội thì có thể châm cứu, uống nước đường phèn và thuốc giảm đau. Đồng thời chú ý xem máu sinh ra nhiều hay ít, có mùi hôi không? Nếu máu sinh ra dầm dề không ngớt, có thể điều trị theo bài thuốc Đông y chứng bệnh “Máu sinh (ố lộ) không dứt”. Phải giữ gìn âm hộ sạch sẽ trong cả giai đoạn sau khi sinh để tránh viêm nhiễm. Nếu bộ phận hội âm (tức chỗ rách cửa mình) bị sưng đau, có thể bôi dung dịch sát khuẩn với nồng độ 50% với cồn. Những người bị khâu cửa mình, cần phải theo dõi xem vết khâu có lành miệng hay không.

Phải chú ý chăm sóc bầu vú, phải lau rửa sạch đầu vú trước khi cho trẻ bú. Nếu đầu vú bị nứt có thể bôi thuốc trước khi cho bú. Nếu bầu vú cương đau, sau khi cho trẻ bú bớt đi, có thể dùng máy hút sữa hút hết lượng sữa còn lại trong vú hoặc có thể phối hợp với một số biện pháp khác để làm giảm nhẹ tình trạng này. Sau khi sinh nên động viên sản phụ ra khỏi giường đi tiểu. Đối với những người đi tiểu tiện khó khăn, có thể chườm nóng, châm cứu để thông tiểu tiện. Cần tăng cường cho sản phụ ăn uống điều hòa các chất dinh dưỡng để dễ tiêu hóa. Cũng cần chú ý ăn nhiều rau xanh, kết hợp với ăn các chất có độ dinh dưỡng cao để chống táo bón. Nên chú ý nghỉ ngơi, sản phụ cần được nằm yên tĩnh trên giường trong 24 tiếng đồng hồ sau khi sinh. Những sản phụ bị mổ thì phải sau một tuần mới được hoạt động. Cần tránh lao động nặng, vì các tổ chức ở hố chậu nhỏ đều bị dão ra còn chưa hồi phục ngay sau khi sinh, việc lao động quá sức sẽ làm cho dạ con bị sa xuống. Khoảng 6 đến 8 tuần sau khi sinh nên đưa sản phụ đi khám để tìm hiẻu xem người mẹ đã bình phục hoàn toàn hay chưa, có gì khác thường thì phải xử lý ngay.

69. Sau khi sinh nên tắm rửa gội đầu như thế nào?

Sau khi sinh, do da sản phụ bài tiết nhiều, mồ hôi ra đầm đìa, bầu vú cương đầy luôn chảy ra sữa, máu sinh thường xuyên ở trong trạng thái ướt át, tỏa ra nhiều mùi lẫn lộn, rất khó chịu vì thế phải hết sức chú ý làm vệ sinh sạch sẽ hơn cả lúc bình thường,để giữ sạch toàn thân và âm hộ, chống bị viêm nhiễm sau khi sinh.

Thông thường, sản phụ có thể đánh răng súc miệng, rửa chân gội đầu bằng nước ấm sau khi sinh, nhưng khi tắm thì phải chú ý đến thời tiết và sức khỏe của sản phụ khỏe hay yếu. Nếu sau khi thể lực đã hồi phục cơ bản thì có thể tắm được nhưng phải múc nước dội lên người mà tắm, không được ngâm người trong bể tắm để tránh nước bẩn ngấm vào âm đạo gây nên viêm nhiễm. Nếu vào mùa đông cơ thể sản phụ rất yếu, chỉ thích hợp dùng khăn tay sạch lau người hoặc dùng nước nóng lau người. Tốt nhất là không được tắm, để chống cảm lạnh.

-------> healthy books <-------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 17.08.2004 17:07:49
70. Vì sao sau khi sinh cần ăn mặc kín đáo?
Sau khi sinh, cơ thể sản phụ có rất nhiều thay đổi, da bài tiết nhiều để thải ra một lượng nước tích trữ quá nhiều trong cơ thể, vì thế đổ rất nhiều mồ hôi. Lúc này nên chú ý lau khô cơ thể, không được để gió thổi trực tiếp vào, không được mặc quần áo sơ sài mỏng manh, dễ bị cảm. Nhưng cũng có nhiều sản phụ sợ “trúng gió sau khi sinh”, bất kể nóng lạnh, đông hè, lúc nào cũng đóng kín cửa, mặc nhiều quần áo, cẩn thận lắm. Thực ra cách làm này cũng chưa đúng. Ăn mặc quá nhiều, quá kín, hơi nóng quá nhiều trong cơ thể không tỏa đi được, mồ hôi ra nhiều hơn, không những làm cho cơ thể trở nên yếu đi, ảnh hưởng đến sự hồi phục của sức khỏe, khi nắng quá thì dễ bị cảm nắng, khiến váng đầu hoa mắt, tim hoảng hốt, sốt cao, thậm chí ngất đi không tỉnh. Điều này rất nguy hiểm. Cho nên việc ăn mặc sau khi sinh phải tùy thuôc vào thời tiết nóng lạnh, vụ đông hay vụ hè mà tăng giảm cho thích hợp với từng hoàn cảnh. Xin chớ mặc quá nhiều, thậm chí một số sản phụ còn bịt khăn mặc áo dày, đắp chăn dày… đều là những thói quen nên từ bỏ.

71. Khi nào sản phụ có thể đi lại, hoạt động là thích hợp nhất? Nên chú ý những gì?
Mười tháng mang thai và sự mất sức ghê gớm sau khi sinh đã làm cho sản phụ mệt mỏi rã rời suy yếu. Cho nên trong 24 tiếng đồng hồ ngay sau khi sinh, sản phụ phải nằm im trên giường nghỉ ngơi, để có thể bớt mệt mỏi. Đối với những phụ nữ sinh thuận, nếu cơ thể khỏe mạnh, sau 24 tiếng đồng hồ nằm trên giường là có thể ngồi dậy đi lại được. Còn đối với những sản phụ bị rách cửa mình lớn, khó sinh, bị phẫu thuật thì phải nằm trên giường lâu hơn, thường phải nằm im trên giường từ 3 đến 4 ngày là thích hợp, nhưng phải luôn luôn trở mình, cử động thích hợp ở trên giường. Sau khi ra khỏi giường đi lại, sáng chiều có thể ngồi trên giường khoảng nửa tiếng đồng hồ. Ngày thứ hai có thể đi đi lại lại trong buồng. Sau ngày thứ ba, tăng dần thời gian và phạm vi hoạt động có thể tập thể dục, co duỗi chân, nằm ngửa rồi ngồi dậy, vận động cơ hậu môn… đều là những vận động có ích. Khoảng nửa tháng sau khi sinh có thể làm một số việc nhà nhẹ nhàng, chỉ làm lao động nặng sau khi đã đầy tháng và chú ý không được đứng lâu, ngồi xổm và làm những việc như phải xách nặng, để tránh làm dạ con bị sa xuống.

72. Vì sao phải chú ý vận động một cách thích hợp sau khi sinh?
Vận động sẽ giúp cho con người khỏe mạnh hơn, đây là điều mà ai cũng biết. Vận động thích hợp, mang một ý nghĩa mới đối với sản phụ. Bởi vì sau khi người phụ nữ mang thai, do thai không ngừng lớn lên, chiếm vị trí lớn dần ở trong bụng. Để thích ứng với sự biến đổi này, cơ thể đã có một loạt những thay đổi về sinh lý và giải phẫu. Chẳng hạn như thân tử cung to dần lên, làm vị trí các bộ phận ở xung quanh bị xê dịch, hoành kết tràng và dạ dày bị đẩy lên, thành bụng ngày càng to ra… Sau khi sinh, thành bụng trở nên lỏng lẻo, các bộ phận nội tạng phải trở lại vị trí cũ.
Để giúp cho các bộ phận nội tạng sớm hồi phục trở lại vị trí sinh lý trước kia, sản phụ nên vận động một cách thích hợp. Ví dụ khi nằmnghỉ trên giường nên chú ý trở mình, thay đổi tư thế nằm. Ngày đầu tiên có thể tập ngẩng đầu lên. Ngày thứ hai thì tập cử động tay. Ngày thứ ba tập cử động chân. Ngày thứ 4 chống hai tay vào giường để tập lưng. Ngày thứ 5 tập chân theo kiểu đạp xe. Ngày thứ 6 tập nằm ngửa rồi ngồi dậy… Luyện tập theo thứ tự tăng tiến dần như vậy sẽ giúp cho cơ bụng căng ra, đưa tử cung về vị trí cũ và giúp máu lưu thông, cải thiện chức năng sinh lý. Khi ra đồng làm việc, lúc đầu có thể cảm thấy tim đập mạnh, tâm thần hoảng hốt, váng đầu, đổ mồ hôi, do vậy chỉ nên làm ít, sau đó làm tăng dần lên.
Những hoạt động trong thời kỳ đầu sau khi sinh, cần kết hợp cả với việc xoa bóp bụng, để tác động tử cung trở về vị trí trước kia, hết sức có ích cho việc tránh bị mắc các chứng bệnh sản hậu. Nếu cứ nằm trên giường suốt một tháng ròng thì thật hết sức sai lầm, bởi vậy như vậy không giúp gì cho sự bình phục của cơ thể. Đặc biệt là việc nằm lâu ngày, dễ làm cho tử cung khi cong chưa kịp co về vị trí cũ được, sẽ bị lệch về phía sau vì lúc đó thân tử cung vẫn còn lớn và nặng, dây chằng lại rão, từ đó gây đau thắt lưng và dẫn đến tình trạng không có con. Vì vậy sau khi sinh, không nên nghỉ ngơi quá lâu mà nên chú ý vận động một cách phù hợp.

73. Nên chú ý sinh hoạt tình dục như thế nào sau khi sinh?
Sau khi sinh con, do bề mặt tổn thương trong tử cung vẫn chưa lành, sự cân bằng về chất kiềm, chất acid trong âm đạo vẫn chưa khôi phục lại, nhất là máu sinh còn chưa ra sạch nên vi trùng dễ xâm nhập vào và sinh sôi phát triển. Sau khi sinh nếu sinh hoạt tình dục quá sớm, sẽ là nhân tố đưa vi trùng vào trong âm đạo, gây viêm nhiễm cho âm đạo và tử cung.
Hơn nữa, việc giao hợp có thể làm cho người phụ nữ hưng phấn, kích thích các tạng khí trong khoang chậu vẫn chưa hồi phục hoàn toàn, bị xung huyết, khiến sức đề kháng bệnh tật bị kém đi, dễ bị viêm khoang chậu. Vì thế, khi chưa hết máu sinh, tuyệt đối cấm sinh hoạt tình dục. Để tử cung trở lại bình thường, phải mất khoảng từ 6 đến 8 tuần. Do đó sau khi sạch máu sinh, cũng nên tránh sinh hoạt tình dục.
Cho đến khi được 2 tháng, bề mặt tổn thương ở trong tử cung đã lành, tử cung hoàn toàn hồi phục trở lại như cũ thì có thể sinh hoạt tình dục. Đối với những sản phụ bị rách cửa mình hoặc bị tổn thương sản đạo, việc sinh hoạt tình dục nên chậm lại một chút, như vậy có lợi cho việc lành vết rách, chống được vi trùng xâm nhập vào. Ngoài ra còn cần phải chú ý rằng, khi bắt đầu sinh hoạt tình dục, nhất định phải chú ý tránh thai. Vì có một số phụ nữ, tuy không hành kinh trong thời kỳ cho con bú những vẫn có thai.

74. Bố trí việc ăn uống như thế nào sau khi sinh?
Để lấy lại sức lực đã tiêu hao và bị tổn thương trong quá trình sinh con, sản phụ cần được bổ sung các chất dinh dưỡng, vừa là để chuẩn bị cho thời kỳ bú sữa của trẻ. Vì thế phải cho sản phụ ăn các món ăn ngon, có độ đạm cao, thuần chất sau khi sinh. Nên ăn các loại thực phẩm dễ tiêu hóa mà giàu chất dinh dưỡng. Thường sau khi sinh một ngày bắt đầu cảm thấy khát, phải uống nhiều nước và cho ăn các thức ăn dễ dẫn lưu. Sang ngày thứ hai, có thể ăn những món ăn thanh đạm, hơi loãng, mềm như phở, mì, trứng gà trần, cháo kê… Việc ăn cháo kê, đường phèn, trứng gà, vừng là một tập tục tốt, vì có nhiều chất sắt và vitamin… Sang ngày thứ ba trở đi thì có thể ăn các món ăn có độ đạm cao một cách bình thường, nhưng phải chú ý nhiệt lượng của thức ăn, trong món ăn phải có đủ chất albumin, chất khoáng và vitamin, có thể tăng vừa phải lượng trứng, tôm và một số món ăn chế từ đậu. Ngoài ra, do nằm lâu, cơ bụng và cơ hố chậu nhỏ lỏng rão, đường ruột co bóp kém, dễ bị táo bón nên vẫn phải ăn nhiều canh cá, canh thịt, cũng có thể ăn nhiều rau. Mặt khác, không nên bắt sản phụ quá kiêng khem trong việc ăn uống. Đối với những trường hợp không cho sản phụ ăn tạp, chỉ cho ăn tinh, thậm chí kiêng này kiêng nọ, chỉ cho uống nước cháo, đều là những cách làm sai.

75. Cần chú ý ăn uống những gì trong thời kỳ cho con bú?
Dinh dưỡng của trẻ sơ sinh đều lấy từ sữa mẹ. Cho nên yêu cầu về nhiệt lượng và chất dinh dưỡng cần cho người mẹ đang cho con bú, thường nhiều hơn bình thường và lượng thức ăn trong thời kỳ cho con bú phải nhiều hơn lúc bình thường 1/3. Vì thế trong thời kỳ cho con bú, trừ mỗi ngày ăn 3 bữa ra còn phải cho ăn thêm, để giữ sức khỏe cho cơ thể mẹ. Hơn nữa chất lượng thức ăn mà người mẹ ăn vào có liên quan chặt với chất lượng và lượng của sữa. Chẳng hạn nếu lượng dinh dưỡng trong cơ thể người mẹ không tốt thì sẽ làm giảm lượng sữa, rồi đến chất albumin, chất béo, nhiệt lượng cũng không đủ, sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu của trẻ. Nếu trong thành phần thức ăn chỉ chủ yếu dùng các lương thực chính mà không ăn gì đến lương thực phụ, trong sữa sẽ thiếu mất chất albumin dành cho cơ thể thì sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, lớn lên của trẻ. Do đó trong bữa ăn của sản phụ, ngoài việc phải đảm bảo số lượng cần thiết mà còn phải đảm bảo chất lượng. Có thể ăn tăng thêm thịt gà, trứng, thịt, cá và các nội tạng của động vật (như tim, gan, thận…). Vì những thức ăn này không những có acidamin rất cần cho cơ thể con người mà còn có nhiều loại sinh tố mà con người cần. Đồng thời cong phải ăn nhiều loại hoa quả và rau tươi chẳng hạn như táo, chuối, quýt, sơn tra và rau, rau cải dầu, hồng, cà rốt… Đây là những loại rau và hoa quả giàu chất sắt và đồng, đồng thời có cả vitamin B1 và các vitamin khác. Để bổ sung chất canxi mà cơ thể cần, có thể ăn nhiều canh xương, canh đậu phụ. Như vậy vừa đáp ứng được nhu cầu của cơ thể mẹ, lại có đủ sữa tốt đáp ứng được nhu cầu sinh trưởng phát triển của trẻ sơ sinh. Nhưng phải chú ý không được ăn các chất quá béo, ngọt, đồ rán và các chất kích thích như nóng, cay, để tránh làm tổn thương dạ dày, đường ruột, gây chán ăn, làm kém sữa. Phải duy trì chế độ ăn uống hài hòa, đủ chất này cho đến khi cai sữa. Có những người khi đang nuôi con bú lại ăn rất ít, kết quả là không đủ sữa, gây khó khăn cho việc nuôi con.


------>healthy books <------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 17.08.2004 17:10:59
76. Vì sao phải thận trọng dùng thuốc trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ?
Khi người mẹ dùng thuốc trong thời kỳ đang cho con bú, có khá nhiều loại thuốc tiết ra qua sữa, chẳng hạn như các loại thuốc Atropin, thuốc phiện, các loại thuốc có chứa hàm lượng iod, thuốc streptomycin, tetracyclin, muối acid salicylic, sulfa… Nếu trẻ bú phải loại sữa có chứa những chất thuốc này, thường bị ảnh hưởng không tốt. Nếu người mẹ sử dụng lâu dài, những loại thuốc này hoặc dùng với liều lượng cao, có lúc còn làm cho trẻ bị ngộ độc thuốc. Chẳng hạn như các loại thuốc Atropin có thể gây đỏ mặt, khô họng, tim đập nhanh, nóng ruột không yên. Thuốc Tetracyclin làm cho trẻ xạm răng… Cho nên người mẹ phải hết sức thận trọng trong việc dùng thuốc trong giai đoạn đang cho con bú. Khi phải sử dụng thuốc nếu bệnh nhẹ, thời gian điều trị ngắn, không ảnh hưởng lắm đến trẻ thì trẻ vẫn bú được. Nếu bệnh nặng, phải chữa trị lâu dài, ảnh hưởng lớn đến trẻ thì tốt nhất không cho trẻ bú nữa mà nên dùng nịt hút sữa hút sữa ra đổ đi, sau khi khỏi bệnh lại tiếp tục cho trẻ bú. Nếu là bệnh gây viêm nhiễm đầu vú thì nên bôi thuốc bên ngoài. Trước khi cho trẻ bú nên dùng nước ấm rửa sạch thuốc đi.

77. Những thay đổi của thời kỳ mang thai được hồi phục lại như thế nào sau khi sinh?
Mọi biến đổi của cơ thể mẹ trong thời kỳ mang thai, trong điều kiện bình thường, đều được hồi phục trở lại trạng thái bình thường trong khoảng thời gian sau khi sinh từ 6 đến 8 tuần.
Về bộ máy sinh dục, sau khi nhau thai xổ ra, thân tử cung đã co lại ngay chỉ to bằng đầu đứa trẻ, nặng 1 kg. Đáy tử cung cao ngang rốn, sau đó mỗi ngày lại tụt thấp xuống từ 1 đến 2 cm, khoảng 10 ngày thì tử cung xuống đến khoang chậu, dùng tay khám phần bụng đã không thể sờ thấy đáy tử cung nữa. Trong tuần đầu tiên, sau khi sinh, trọng lượng của tử cung rút xuống còn 500 gam, hết tuần thứ hai chỉ còn 350 gam. Được khoảng 8 tuần thì trọng lượng rút xuống chỉ bằng trọng lượng tử cung lúc bình thường là 60 đến 80 gam. Sau khi nhau thai xổ ra, niêm mạc tử cung theo ra cùng với máu sinh, thành tử cung lại mọc lên lớp niêm mạc mới. Trong khoảng 10 ngày sau khi sinh, các bộ phận khác trong tử cung đều được phủ một lớp niêm mạc mới sinh, làm bề mặt tử cung lành lại. Những chỗ mạch máu bị đứt gãy thì cầm lại, các tổ chức đã hoại tử và những vết máu lưu trên bề mặt của nó bong ra, hoàn toàn lành lại trong khoảng từ 6 đến 8 tuần sau khi sinh. Đẻ xong, cổ tử cung bị giãn ra, xung huyết, hơi sưng lên, trong giống như cổ tay áo. Khoảng 7 ngày sau khi sinh thì cửa cổ tử cung khép lại, cổ tử cung dần dần hồi phục trở lại hình dạng trước kia. Sau bốn tuần thì cổ tử cung hồi phục lại hoàn toàn bình thường. Nhưng do bị tổn thương sau khi sinh, hình dạng của cổ tử cung từ chỗ trước kia là hình tròn thì nay trở thành hình bẹt bị rách ngang. Bộ phận âm hộ và âm đạo, hội âm do bị rách mà bị xung huyết và sưng lên, nếp nhăn màng dính của thành âm đạo mở ra, sau khi sinh xong tuy nó dần dần hồi phục trở lại, nhưng không thể hồi phục trở lại nguyên dạng. Màng trinh bị rách nên chỉ để lại một số dấu vết. Các tổ chức xung quanh hố chậu nhỏ bị rão ra sau khi sinh, sẽ dần dần hồi phục sau 2 đến 3 tuần. Về buồng trứng, khi người phụ nữ mang thai, do nhau thai tiết ra một số chất kích thích tố, làm trứng không rụng và người có thai cũng không thấy hành kinh nữa. Sau khi sinh xong, do nội tiết tố của nhau thai không còn, buồng trứng được khôi phục lại chức năng cũ, nang noãn mới lại bắt đầu phát triển. Thường thường có thể hành kinh lại sau khoảng 6 tuần. Nếu người mẹ vẫn cho con bú thì việc hành kinh và rụng trứng có thể đến chậm hơn.
Về các hệ thống tổ chức khác trong toàn cơ thể, chẳng hạn như hệ thống tiết niệu, trong thời kỳ người mẹ mang thai, ống dẫn nước tiểu và bể thận được phình to ra, sẽ từ từ hồi phục trở lại trong khoảng thời gian từ 4 đến 6 tuần sau khi sinh, lượng nước tiểu cũng dần trở lại bình thường. Còn hệ thống hô hấp và tiêu hóa, sau khi sinh, do áp lực trong khoang bụng không còn nữa, mô hoành cách được hạ xuống nên người mẹ không còn thở hổn hển nữa mà trở lại bình thường. Ruột, dạ dày cũng trở lại vị trí bình thường, khôi phục lại chức năng cũ. Tuy vậy, sức co bóp của đường ruột hơi chậm, lại do các nguyên nhân như nằm giường lâu, ăn ít, lượng nước bài tiết nhiều… mà có thể bị táo bón, thường phải tăng cường hoạt động, ăn nhiều hoa quả, rau để chống táo bón. Về hệ thống tuần hoàn, sau khi sinh, lưu lượng máu về tĩnh mạch tăng lên rõ rệt, hồng cầu bị giảm đi, huyết áp thấp xuống, nhưng sau đó sẽ dần dần trở lại bình thường. Ngoài ra, do phải mang thai lâu ngày thành bụng bị chảy xuống, khoảng 6 tuần sau khi sinh mới thu nhỏ lại được, bề mặt da bụng cũng co lại, những vẫn còn những vân thai màu trắng.

78. Thế nào là tuổi mãn kinh?
Cuộc đời người phụ nữ, bắt đầu từ khi ra đời cho đến khi kết thúc thì sự thay đổi của tất cả các khí quan, các hệ thống trong cơ thể đều được diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau kể từ tuổi thơ ấu, tuổi dậy thì, tuổi trưởng thành, tuổi mãn kinh và tuổi già.
Cái gọi là tuổi mãn kinh chính là thời kỳ chuyển đổi chức năng sinh lý phụ nữ từ chỗ chín nục sang suy thoái; cũng chính là giai đoạn quá độ, thời kỳ chuyển tiếp từ trạng thái chức năng sinh lý dồi dào sang trạng thái suy thoái của tuổi già mà Đông y gọi là “trước và sau thời kỳ mãn kinh”. Thời kỳ này chỉ kéo dài trong mấy tháng hoặc cùng lắm là mấy năm.
Thời kỳ mãn kinh có thể chia ra thành 3 giai đoạn là thời kỳ tiền mãn kinh, thời kỳ tắt kinh và thời kỳ hậu mãn kinh. Trong thời kỳ tiền mãn kinh, do nang noãn trong buồng trứng cảm ứng không nhạy với các nội tiết tố có tác dụng kích thích giới tính mà tuyến yên tiết ra, cho nên một số nang noãn bị giảm ít hẳn đi và phát dục không đầy đủ, thậm chí không chín được để rụng thành trứng mà chỉ có thể tiết ra một ít nội tiết tố ostrogen, vì thế mà mất đi khả năng sinh. Niêm mạc tử cung tăng trưởng, phát triển hay bong ra, rụng xuống đều phụ thuộc vào sự tăng lên hay giảm đi của nội tiết tố ostrogen trong máu. Vì thế mà chu kỳ kinh nguyệt rối loạn, kỳ kinh và lượng máu cũng có những biến đổi khác.
Sau đó, do chức năng buồng trứng càng ngày càng bị yếu đi, lượng nội tiết tố oestrogen tiết ra bị giảm đi đến mức không đủ làm cho niêm mạc tử cung bong ra, dẫn đến tình trạng tắt kinh. Khi đến thời kỳ tắt kinh, độ tuổi tắt kinh của người phụ nữ phần lớn trong khoảng 45 đến 50 tuổi, bình quân là 47 tuổi, có người tắt sớm ở độ tuổi 40, cũng có người kéo dài đến tận 55, 56 tuổi. Những hiện tượng này đều là những hiện tượng bình thường. Vào cuối thời kỳ tắt kinh, buồng trứng của phụ nữ càng bị xơ hóa, teo nhỏ lại, trở nên cứng hơn, cuối cùng bị mất hẳn chức năng nội tiết.
Trong thời kỳ mãn kinh, do cơ thể chuyển từ trạng thái nội tiết theo chu kỳ trong suốt một thời gian dài quá độ sang trạng thái nội tiết mới nên có nhiều biểu hiện bị rối loạn cơ năng nội tiết và mất cân bằng hệ thống thần kinh thực vật. Thế nhưng, những biểu hiện này thể hiện ra nặng hay nhẹ, nhiều hay ít, diễn ra lâu hay chóng đều có sự liên quan chặt chẽ tới thể chất, loại thần kinh, tình trạng dinh dưỡng và môi trường sống của từng cá nhân, đặc biệt là có liên quan mật thiết tới nhân tố tinh thần.
Tuy nhiên, những biểu hiện này phần lớn đều là những hiện tượng sinh lý ình thường, là những biểu hiện tạm thời, thuận theo sự điều trị xử lý của bản thân, không những có thể thích ứng dần mà còn tạo nên sự cân bằng mới về nội tiết trong đó. Những cảm giác khó chịu và hiện tượng đau đầu cũng dần dần biến mất.


------> healthy books <-------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 17.08.2004 17:12:39
79. Độ tuổi và thời gian mãn kinh của phụ nữ liên quan tới những yếu tố nào?

Độ tuổi của người phụ nữ khi bước vào thời kỳ mãn kinh đã được cuốn sách “ Hoàng đế nội kinh” của Trung quốc có từ cách đây hơn 2000 năm viết rằng:

“ Nữ tử…thất thất nhâm mạch hư, thái xung mạch suy thiểu…địa đạo bất thông, cố hình hoài nhi vô tử dã”; có nghĩa là: “Đàn bà… 49 tuổi thì mạch Nhâm hư, mạch (thái xung) suy giảm…địa đạo không thông, vì thế bị teo đi mà không có con”.

Điều này đã nói rõ độ tuổi trung bình của thời kỳ mãn kinh là 49 tuổi. Lúc này do chức năng buồng trứng bị thoái hóa nên không còn kinh nguyệt, không thể sinh con được nữa. Nhìn chung, độ tuổi mãn kinh bắt đầu từ tuổi 45 đến 50, bình quân là ở độ tuổi 47. Nhưng lại khác nhau tùy theo từng nước, từng khu vực. Độ tuổi tắt kinh phần lớn ở độ tuổi sớm nhất là 35 tuổi, muộn nhất là 55 tuổi, bình quân là 47 tuổi. Độ tuổi tắt kinh trung bình của phụ nữ nông thôn Trung quốc là 47,5 tuổi. Theo thống kê của một số nhà học giả của Trung quốc, số phụ nữ tắt kinh trước tuổi 40 chiếm 13,4%, số phụ nữ tắt kinh ở độ tuổi 55 chiếm 3%. Nếu tắt kinh trước độ tuổi 30 đến 40 thì là tắt kinh quá sớm, thoái hóa sớm, còn tắt kinh ở độ tuổi trên 50 thì là tắt kinh quá chậm hoặc tắt kinh muộn.

Thời gian mãn kinh là khoảng thời gian 5 năm trước khi tắt kinh và 5 năm sau khi tắt kinh, thế những có người diễn ra rất ngắn, chỉ trong mấy tháng hoặc 2 đến 3 năm, có người lại kéo dài mười mấy năm. Theo thống kê của nước ngoài, số người có thời gian mãn kinh kéo dài từ 3 đến 12 tháng chiếm 35%, số người có thời gian mãn kinh kéo dài từ 8 đến 12 tháng chiếm 40%, số người có thời gian mãn kinh kéo dài trong 24 tháng hoặc lâu hơn chiếm 25%.

Việc phụ nữ bước vào tuổi mãn kinh sớm, hay muộn, thời gian mãn kinh dài hay ngắn phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Theo con số thống kê, phụ nữ sống ở những niên đại khác nhau, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau thì tuổi tắt kinh cũng khác nhau. Hơn nữa, cùng với sự chuyển dịch của từng niên đại số phụ nữ tắt kinh sớm càng ngày càng ít đi, số người tắt kinh muộn càng ngày càng theo xu hướng tăng lên. Sự thật này đã chững minh rằng: độ tuổi mãn kinh và thời gian mãn kinh của phụ nữ có kéo dài được hay không rất có thể có quan hệ chắc chắn tới sự phát triển của xã hội, tới việc cải thiện đời sống cư dân và tới tuổi thọ của con người.

Qua nghiên cứu của các nhà khoa học còn phát hiện ra mối quan hệ chặt chẽ giữa độ tuổi mãn kinh và thời gian mãn kinh với độ tuổi thấy kinh lần đầu. Đại đa số đều cho rằng: thấy kinh sớm thì khả năng tình dục, khả năng sinh con khá mạnh, tuổi sinh cũng kéo dài hơn, tuổi mãn kinh muộn hơn. Ngược lại, nếu thấy kinh muộn thì tuổi mãn kinh sớm. Cũng có nhà khoa học phát hiện ra rằng, tuổi mãn kinh và thời gian mãn kinh còn có quan hệ tới di truyền. Theo thống kê, tuổi mãn kinh và thời gian mãn kinh của đa số phụ nữ khá giống với người mẹ của họ. Có người còn quan sát, độ tuổi mãn kinh của đa số các chị em gái sinh đôi đều giống nhau, cho dù điều kiện sinh sống của những phụ nữ mang thai đôi rấtkhác nhau, những độ tuổi mãn kinh lại hoàn toàn giống nhau,thời gian mãn kinh cũng gần như nhau. Điều này đủ để chứng tỏ, độ tuổi mãn kinh và thời gian mãn kinh dài hay ngắn có liên quan chặt chẽ tới nhân tố di truyền của dân tộc. Có người đã thống kê rằng, những phụ nữ mãn kinh sớm đều thuộc loại người có thể chất gầy yếu, không có sức, có thời gian mãn kinh tương đối ngắn.

Những người mãn kinh muộn đa phần là những người có thể chất khỏe mạnh, thời gian mãn kinh khá dài. Đương nhiên vẫn còn một số nhân tố khác có ảnh hưởng tới độ tuổi mãn kinh, chẳng hạn như chịu sự hạn chế của điều kiện khí hậu ở các nước khác nhau, ở từng vùng khí hậu khác nhau. Điều kiện sống cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới độ tuổi mãn kinh. Điều kiện sống kém hay quá thừa dinh dưỡng, ăn nhiều, béo phì làm mất điều hòa sự trao đổi chất trong cơ thể… đều có thể làm cho con người ta bước vào tuổi mãn kinh sớm. Cho nên mong rằng, những phụ nữ càng gần đến tuổi mãn kinh càng nên hiểu rằng tuổi mãn kinh là quá trình sinh lý mà mỗi một phụ nữ tất phải trải qua, xin chớ quá căng thẳng lo lắng, bởi vì nhân tố tinh thần cũng là một trong những nhân tố gây ảnh hưởng tới thời kỳ mãn kinh.

-------->healthy books <--------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 17.08.2004 17:16:50
Chương 5: Phòng và chữa các bệnh nữ giới

80. Tuổi dậy thì thường gặp những bệnh gì?

Những bệnh hay gặp nhất trong độ tuổi dậy thì chính là những trở ngại trong quá trình phát dục đầy đủ. Biểu hiện là đặc trưng giới tính và kinh nguyệt không bình thường. Đặc trưng giới tính thể hiện rõ nét nhất ở người con gái trong tuổi dậy thì là bộ ngực đầy đặn, mông, vai tròn trịa, hình dáng cân đối nở nang và bắt đầu thấy kinh nguyệt.

Nếu không thấy có sự thay đổi rõ rệt nào ở bản thân cô gái, ngược lại lông tóc rậm rì, cơ bắp thì phát triển, da thô, thậm chí âm hộ phát triển không bình thường hoặc đến 18 tuổi mà vẫn chưa hành kinh thì đa số đều là những cô gái có vấn đề trong việc phát dục, chẳng hạn như có dị tật ái nam ái nữ. Nếu đặc trưng giới tính phát triển bình thường, điều khiếm khuyết duy nhất là vẫn chưa thấy kinh nguyệt thì phải xem liệu có phải dị tật, không có âm đạo bẩm sinh, có vách ngăn ngang âm đạo và màng trinh bị bít kín hay không.

Kinh nguyệt bình thường có vị trí hết sức quan trọng trong các bệnh ở tuổi dậy thì biểu hiện là kinh nguyệt muộn, bế kinh, kinh nguyệt ít, xuất huyết tử cung theo chức năng và thống kinh.

Cái gọi là kinh muộn, tức là chỉ những cô gái bắt đầu hành kinh sau khi đã qua tuổi 18. Nếu đã đến tuổi dậy thì mà vẫn chưa có kinh nguyệt hoặc đã thấy kinh nguyệt lần đầu, kinh nguyệt đã tương đối đều đặn, sau đó bị tắt kinh từ 3 tháng trở nên thì gọi là bế kinh.

Những cô gái đã đến tuổi dậy thì mà vẫn chưa hành kinh thì gọi là chứng “bế kinh có tính nguyên phát”. Còn những trường hợp bế kinh thuộc dạng thứ 2 gọi là chứng “ bế kinh có tính kế phát”. Nếu kỳ kinh cách nhau khá lâu mới thấy kinh một lần, hơn nữa máu hành kinh lại ít thì gọi là ít kinh. Nếu do vệ sinh hành kinh không được sạch sẽ hoặc do chức năng buồng trứng không bình thường, không rụng trứng được, khiến niêm mạc tử cung mất bình thường, gây chảy máu tử cung, gọi là chảy máu tử cung dạng chức năng. Nếu trước và sau khi hành kinh hoặc đúng vào lúc hành kinh bị đau bụng dưới, mỏi lưng, khi đau dữ dội còn làm đau hậu môn, âm hộ, đồng thời còn có cảm giác buồn nôn, bị nôn mửa, chân tay lạnh, nặng hơn còn bị hôn mê, hiện tượng này gọi là chứng thống kinh.

Việc bị viêm nhiễm trong tuổi dậy thì là khá hiếm, nhưng thiếu nữ có thể bị viêm âm đạo. Phần lớn là do thiếu nội tiết tố oestrogen. Cũng có người mắc bệnh viêm nhiễm đặc biệt khác, chẳng hạn như kết hạch ở bộ máy sinh dục. Nếu phát hiện thấy bị bế kinh, kinh nguyệt ít, kèm theo sốt nhẹ, hâm hấp, đau bụng, toàn thân mệt mỏi… nên nghĩ ngay đến bệnh này. Nếu bị u hạch ở các bộ phận khác, như kết hạch ở phổi, kết hạch ở tuyến dịch Lympho (tên la tinh), kết hạch ở ruột… phải cảnh giác vì xương chậu rất dễ bị mỏi. Còn bệnh ung thư, thường ít thấy trong tuổi dậy thì, nhưng cũng có thể có ở tử cung, ung thư buồng trứng. Ung thư buồng trứng trong tuổi dậy thì thường hay thấy nhất là “u nang dạng da”, thuộc loại u lành tính. Tuy vậy, trong số u buồng trứng trong độ tuổi dậy thì, các cô gái không thể coi thường việc khám khoang chậu.


--------> healthy books <------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 17.08.2004 23:33:58
81. Chữa bệnh trứng cá như thế nào?

Trứng cá được gọi là “nụ hoa tuổi trẻ”, y học gọi là “mụn trứng cá”, là một chứng bệnh ngoài da thường hay có ở thanh niên. Do nội tiết tố giống đực trong cơ thể khi ở độ tuổi dậy thì tăng lên khá cao, kích thích tuyến nhầy ở da phát dục đầy đủ, khiến chất nhầy ở da tiết ra nhiều.

Chất nhầy ở da phải đi qua lỗ chân lông để ra đến bề mặt cơ thể nếu lỗ chân lông bị bít kín, chất nhầy ở da bèn tích lại dưới lỗ chân lông, tạo thành những hạt nhỏ lấm tấm như hạt gạo trên mặt da, đó chính là trứng cá, lấy tay bóp nhẹ sẽ thấy chảy ra một chất giống như bã đậu có màu trắng. Có lúc do chất nhầy tích lại dần dần bị khô, bị không khí ô xy hóa, lại bị nhuốm bụi nên thấy có “vẩy đen” mà tạo nên trứng cá đen.

Nếu bề mặt da không sạch, lại bị vi khuẩn xâm nhập vào và phát triển, sẽ gây nên viêm nhiễm làm trứng cá bị sưng đỏ, nặng thì mưng thành mủ, để lại những nốt sẫm, rất khó hết. Có lúc chứng viêm này còn ăn sâu vào da, đến khi khỏi viêm còn để lại những lỗ sâu, ảnh hưởng đến vẻ đẹp.

Khi có trứng cá xin chớ nặn bóp, để tránh làm lỗ chân lông bị doãng rộng ra, gây nên viêm nhiễm. Phải thường xuyên rửa mặt bằng xà phòng và nước ấm, để cọ sạch những chất bẩn và chất nhầy trên bề mặt lớp da giữ cho lỗ chân lông được thông thoáng, nên tránh sử dụng các loại kem mỹ phẩm. Về mặt ăn uống nên hạn chế ăn các loại thức ăn ngọt và béo, kem, lạc… nên tránh ăn các thức ăn có chất kích thích cay nóng, ăn nhiều rau, hoa quả, giữ cho đại tiện đều đặn.

Khi sử dụng thuốc, nên dùng loại thuốc sát trùng có lưu huỳnh để rửa bên ngoài, có tác dụng tiêu viêm chất nhầy và tẩy đi các chất tích tụ trên da. Bên trong thì uống vitamin A vì rất có tác dụng đối với những mụn trứng các mẩn đỏ. Tetracyclin rất nhạy cảm với loại khuẩn hình roi của mụn trứng cá, dùng nó lâu dài với một liều lượng nhỏ, rất có tác dụng đối với mụn trứng cá bị mưng thành mủ và loại mụn mẩn đỏ dạng bị viêm.

Ngoài ra, vitamin B1 hoặc B5 cũng có tác dụng chữa trị đối với trứng cá. Có thể dùng thang thuốc Đông y gồm: Thạch cao sống 15 gam, lá Sơn tra 12 gam, vỏ cây dâu trắng (tang bạch bì) 9 gam, hoàng tinh 9 gam, quả sơn tra 15 gam, lá trắc bá 9 gam, cho tất cả vào ấm sắc lấy nước uống. Dùng bài thuốc này hiệu quả khá hay.

Còn có thể lấy đại hoàng, lưu huỳnh, mỗi thứ một ít, số lượng bằng nhau, đem nghiền nhỏ rồi trộn đều lên, hòa với nước chè, bôi lên mụn trứng cá, mỗi ngày bôi từ 1 đến 2 lần, kiên trì chữa trị, cũng có thể khỏi. Uống các loại viên tễ của Đông y như viên phòng phong thông thánh, viên đường quy long hội, mỗi ngày uống từ 6 đến 9 gam, vừa chữa khỏi mụn trứng cá, vừa khỏi táo bón.

------> healthy books <------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 23.08.2004 17:39:12
82. Làm thế nào giữ được mái tóc khỏe đẹp?

Tóc không những có tác dụng bảo vệ da đầu mà còn có tác dụng làm đẹp phần đầu. Mấu chốt của việc giữ vẻ đẹp của tóc là ở chỗ bạn gội, chải, chăm sóc tóc như thế nào. Phải thường xuyên gội sạch đầu để giữ cho tóc sạch sẽ. Nếu tóc không bắt bụi, mỗi tuần có thể gội đầu một lần. Nếu tóc bắt bụi nên gội đầu thường xuyên. Trước khi gội đầu, phải chải mượt tóc trước, để tránh cho tóc bị rụng quá nhiều khi gội.

Độ nóng của nước gội đầu ở trong khoảng từ 37 đến 38 độ C là thích hợp. Nếu nước nóng quá sẽ làm cho tóc bị tổn thương mà bị rão, dòn, dễ bị rụng. Nếu dùng nước lạnh thì không sạch gầu. Khi gội đầu, không nên lấy sức cào giật, kẻo làm xước da đầu. Khi gội đầu, tốt nhất nên dùng loại xà phòng trung tính như xà phòng thơm, kem gội đầu… Sau khi gội xà phòng xong phải dùng nước ấm gội sạch.

Phải thường xuyên chải tóc. Việc chải tóc sẽ giúp lưu thông tuần hoàn máu ở da đầu, khiến tóc tốt hơn, và giữ cho tóc sạch sẽ, thẳng sóng, bóng đều và dài bền. Chải đầu còn giúp cho tóc bông lên, mềm ra lưu thông không khí, tạo điều kiện cho da trao đổi không khí. Khi mái tóc được chăm sóc tạo thành những kiểu tóc đẹp sẽ làm tăng vẻ đẹp cho con người. Khi chải đầu, chớ giật tóc quá mạnh, để tránh làm tổn thương da đầu mà gây nên viêm nhiễm. Không được dùng chung lược, nếu không dễ bị lây các bệnh về tóc. Không nên dùng lược quá cứng, có răng lược quá nhọn, để khỏi làm xước da đầu, và phải thường xuyên cọ lược sạch sẽ.

Cắt tóc là biện pháp quan trọng để bảo vệ đầu tóc. Cắt tóc có thể kích thích tóc mọc. Nếu sợi tóc quá nhỏ và màu quá nhạt, việc cắt tóc thường xuyên có thể làm cho tóc đen hơn và sợi to hơn. Việc uốn tóc bằng điện, sẽ làm cho tóc khô mà dễ gãy, vì thế tốt nhất là nên nửa năm hay một năm mới làm đầu một lần, không nên uốn tóc thường xuyên. Việc sấy tóc cũng giống như uốn tóc, bôi dầu vào tóc rồi mới sấy sẽ tốt hơn sấy khô.

Ngoài ra, còn có thể dùng biện pháp xoa bóp da đầu để chăm sóc mái tóc. Việc xoa bóp sẽ giúp cho việc điều tiết sự nội tiết của tuyến nhầy dưới da, tác động vào sự trao đổi chất của da đầu. Cách làm như sau: hai tay đặt lên đỉnh đầu, dùng ngón trỏ và ngón giữa vạch thành một vòng tròn rồi bóp mạnh vào từng vùng trên da đầu, xoa bóp từ trước trán ra đến sau gáy, sau đó xoa bóp đến 2 bên thái dương. Mỗi ngày làm từ 1 đến 2 lần, mỗi lần từ 10 đến 15 phút.

83. Vết sạm ở mặt được hình thành như thế nào? Có thể làm mất đi được không?

Các học giả gọi vết sạm là vết rám hay còn gọi là vết vân gán, phần lớn xuất hiện ở hai bên gò má, sống mũi, phía bên dưới trước trán và xung quanh miệng…, hình dạng to nhỏ khác nhau, có màu nâu nhạt hoặc màu nâu sậm. Do vết sạm thường xuất hiện ở phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai nên cũng gọi là vân thai. Người ta còn chưa rõ nguyên nhân phát sinh ra các vết sạm, có thể là do nội tiết tố oestrogen kích thích tế bào sắc tố màu đen, làm cho sắc tố bị tán phát và lặn vào mặt mà gây ra. Ngoài việc xuất hiện ở thời kỳ mang thai, vết sạm còn xuất hiện khi cơ thể con người bị mắc một số bệnh mạn tính như viêm gan mạn, lao, viêm khoang chậu mạn hoặc do uống thuốc tránh thai lâu ngày, dinh dưỡng kém hoặc thiếu máu… Số người rám da như thế này khá nhiều, hơn nữa, thường bị rám nhiều hơn vào mùa hè, mùa đông thì bị ít hơn hoặc mất hẳn vết rám. Điều này chứng tỏ rằng, vết sạm có thể liên quan tới phản xạ quá mức của ánh nắng mặt trời. Cũng có người bị sạm da theo di truyền. Những năm gần đây, có người đã quan sát trên lâm sàng thấy rằng: một số người quá lo lắng, buồn phiền sợ hãi vì vết sạm trên má, có thể làm cho bệnh nặng thêm; bởi vì việc xét bệnh tình cũng có sự quan hệ nhất định tới các nhân tố thần kinh.

Muốn chữa vết sạm, trước tiên phải triệt các nhân tố gây bệnh có liên quan, chữa một cách tích cực các bệnh mạn tính có khả năng gây nên các vết sạm, tránh phơi nắng lâu ngày. Thứ ba, có thể uống hoặc tiêm vào cơ bắp một lượng lớn vitamin C. Nếu uống, mỗi ngày uống 0,2 đến 0,3 gam, mỗi ngày uống từ 2 đến 3 lần. Khi tiêm vào cơ bắp, mỗi lần tiêm 200mg, mỗi ngày tiêm một lần. Đồng thời có thể bôi thêm dung dịch ôxy già 3% vào bên ngoài vết sạm, mỗi ngày bôi từ 1 đến 2 lần. Theo Đông y, nguồn gốc gây ra bệnh này là do thận âm không đủ, can khí uất mà trì hoặc do khí huyết không điều hòa mà tạo nên, nên thường chữa trị bằng cách bổ âm, bổ thận, điều hòa can khí, điều hòa khí huyết, phần lớn hay dùng viên địa hoàng 6 vị, viên tiêu dao hoặc viên thư an, mỗi lần uống từ 6 đến 9 gam, mỗi ngày uống 2 lần.

------->healthy books <-----

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 24.08.2004 14:52:47
84. Tâm trạng không vui có gây ảnh hưởng đến kinh nguyệt không?

Kinh nguyệt có bình thường hay không là do chức năng của hạ khâu não, tuyến yên, chức năng buồng trứng có bình thường hay không và có phối hợp ăn khớp với nhau hay không. Khi người phụ nữ có tâm trạng buồn rầu lo lắng, đau khổ như có tang, thất tình, sợ hãi hoặc có mâu thuẫn trong công tác, có thể làm thay đổi sự phối hợp điều tiết của hạ khâu não - tuyến yên - buồng trứng, khiến chức năng của buồng trứng rối loạn, vì thế làm kinh nguyệt thất thường, nếu thần kinh bị tổn thương nặng hơn thì có thể gây ra bế kinh, cho nên người phụ nữ phải luôn giữ được tâm trạng ổn định, đó mới là điều kiện quan trọng đầu tiên để kinh nguyệt ra đều đặn.

85. Vì sao những người béo hay quá gầy, kinh nguyệt đều thất thường?

Kinh nguyệt là chỉ sự chảy máu của tử cung do niêm mạc tử cung bong ra theo chu kỳ mà có. Sự thay đổi có tính chu kỳ đều đặn của kinh nguyệt là do hạ khâu não - tuyến yên - buồng trứng có sự điều tiết, ràng buộc lẫn nhau trong việc tiết ra các chất nộ tiết, trong đó có các chất kích thích của tuyến sinh dục nữ, đặc biệt là sự thay đổi lúc ra ào ạt, lúc ra ít của nội tiết tố oestrogen, vì thế làm hàm lượng oestrogen trong cơ thể ít đi và không còn, cộng với những hoạt động quá độ của lớp da tuyến thượng thận mà những người béo thường hay mắc và sự giảm sút chức năng của tuyến giáp trạng, khiến quá trình thay thế các nội tiết tố trong cơ thể bị rối loạn, làm ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng.

Vì thế kinh nguyệt bị thất thường, lượng kinh ra ít hoặc bị bế kinh. Những người béo phì có thể bị chứng kinh nguyệt không đều. Những người quá gầy cũng khiến chu kỳ kinh nguyệt bị ảnh hưởng. Nhìn chung, nếu trọng lượng cơ thể nhẹ hơn 10% trọng lượng cơ thể chuẩn hoặc nếu cơ thể bị gầy rộc đi trong một thời gian ngắn, việc điều tiết các chất nội tiết tố trong cơ thể bị rối loạn thì có thể làm cho chu kỳ kinh nguyệt trở nên thất thường, máu kinh trở nên loãng hơn, lượng máu kinh ra ít, thậm chí dẫn đến bế kinh. Qua đó có thể thấy, cơ thể béo phì ra quyết không phải cái gì cũng tượng trưng cho “sự phúc hậu”, cơ thể quá gầy cũng không phải là biểu hiện của “sự thon thả”. Vì vậy người béo quá thì phải tăng cường vận động, hạn chế ăn chất béo. Người gầy quá thì nên tăng cường bồi bổ, điều hòa thói quen ăn uống của mình, như vậy mới điều hòa được kinh nguyệt, cơ thể phát triển khỏe mạnh.

86. Thế nào là có kinh muộn? Việc thấy kinh muộn thường do yếu tố nào?

Đại đa số các cô gái đều thấy kinh lần đầu tiên trong độ tuổi 12, 13, đến 16, 17 tuổi. Nếu quá 18 tuổi mới thấy kinh thì gọi là “kinh muộn”. Một trong những nguyên nhân gây nên chứng kinh muộn là do cơ thể chậm phát triển. Vì cơ thể chậm phát triển nên bộ máy sinh dục cũng chậm phát triển, do đó kinh nguyệt có muộn. Còn đối với một số người cơ thể phát triển bình thường chiều cao, trọng lượng đều thích hợp, đặc trưng giới tính đã phát triển đầy đủ, nhưng vẫn chưa thấy kinh, điều này có thể bị ảnh hưởng bởi sự xúc động hay kích thích về tinh thần, tâm trạng, cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tác động của môi trường sống. Một nguyên nhân nữa là do nhân tố di truyền. Thông thường nếu người mẹ hay những người trong gia tộc đều có kinh muộn thì con cái cũng thấy kinh khá muộn. Cũng có trường hợp có kinh muộn là do ăn uống thất thường hoặc dinh dưỡng không đủ, thế nhưng những trường hợp này là khá hiếm

-----> healthy books <--------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 27.08.2004 00:19:29
87. Không có kinh nguyệt, có thể có con được hay không?

Kinh nguyệt là biểu hiện của sự phát triển bình thường của bộ máy sinh dục nữ. Tuyệt đại đa số phụ nữ không có kinh nguyệt thì không thể có con. Bởi vì việc không có kinh nguyệt, tất yếu nói rõ rằng, một bộ phận nào đó trong bộ máy sinh dục bị trắc trở, hiển nhiên là không thể sinh đẻ được.

Nhưng có mấy trường hợp đặc biệt, ví dụ như, có rất ít những phụ nữ trưởng thành đầy đủ, tuy buồng trứng và tử cung đã có những biến đổi theo đúng quy luật, nhưng đến cuối chu kỳ, niêm mạc tử cung không bong ra mà lại tự thoái hóa đi, cho nên không có hiện tượng hành kinh, được Đông y gọi là “ám kinh” (tức “hành kinh ngầm”). Những người như thế này tuy không hành kinh, nhưng vẫn rụng trứng bình thường, vì thế vẫn sinh đẻ được.

Cá biệt có phụ nữ kết hôn quá sớm khi bộ máy sinh dục còn chưa phát triển hoàn thiện, vừa khéo chỉ sau một lần rụng trứng là đã có thai, tất nhiên trường hợp này cũng được coi là thụ thai không hành kinh. Ngoài ra, do mắc một số bệnh khiến người phụ nữ bị tắt kinh nên khi chức năng sinh sản vừa hồi phục trong quá trình điều trị đã thụ thai ngay, trường hợp này cũng coi như thụ thai không có kinh. Cho nên đối với những phụ nữ không có kinh nguyệt, phải đưa đi kiểm tra phụ khoa thật cẩn thận, sau khi xác định được nguyên nhân gây bệnh mới có thể kết luận có khả năng sinh đẻ hay không?

88. Thế nào là xuất huyết thời kỳ rụng trứng? Thế nào là tiếp xúc có tính cọ xát?

Trong chu kỳ kinh nguyệt bình thường, bắt đầu từ ngày thứ 12 đến ngày thứ 14 là ngày rụng trứng. Việc chảy một ít máu ở âm đạo trong thời kỳ này được gọi là xuất huyết thời kỳ rụng trứng. Trường hợp này là do nang noãn lúc đó bị phá vỡ, nội tiết tố oestrogen lúc tăng lên lúc giảm xuống, làm thay đổi sự lưu thông của mạch máu mà ra ngoài. Để theo dõi phân biệt sự xuất huyết của thời kỳ rụng trứng với các bệnh khác, cần chú ý đo nhiệt độ cơ bản của cơ thể. Nếu máu ra đúng vào ngày rụng trứng thì đó là xuất huyết thời kỳ rụng trứng.

Việc chảy máu trong thời kỳ rụng trứng có thể không cần chữa trị gì nếu máu ra ít và nhanh hết còn nếu máu ra nhiều, có thể uống thuốc cầm máu với liều lượng thích hợp. Có lúc đồng thời với việc chảy máu thời kỳ rụng trứng, còn cảm thấy khó chịu và đau bụng dưới. Nếu đau nhẹ và ít, có thể chườm nóng vào bụng là khỏi. Nếu đau dữ dội, lại kéo dài thì nên mời bác sĩ đến khám và chữa trị. Cái gọi là chảy máu có tính cọ sát, đó là chỉ sự chảy máu do cổ tử cung, nhưng phần lớn thường hay chảy máu do sinh hoạt tình dục. Những trường hợp hay bị chảy máu nhiều lần, thường là bị các bệnh ung thư, viêm nhiễm nặng nên cần đến bệnh viện khám xét kỹ càng, ngoại trừ sự biến chuyển của các bệnh ác tính.

89. Vì sao lại bị bế kinh trong tuổi dậy thì?

Bế kinh thường được phân ra làm hai loại. Một loại là chỉ những cô gái đã quá 18 tuổi mà vẫn chưa hành kinh lần đầu tiên, những trường hợp này gọi là “bế kinh có tính nguyên phát”. Loại bế kinh thứ hai là chỉ những cô gái đã hành kinh theo một chu kỳ nhất định, bỗng tắt kinh từ 3 tháng trở lên, những trường hợp này gọi là “tắt kinh có tính kế phát”.

Có loại bế kinh bình thường, có loại bế kinh bất bình thường. Loại bế kinh bình thường là những trường hợp thấy kinh muộn do di truyền. Còn trường hợp sau khi thấy kinh lần đầu tiên, kinh nguyệt lúc ra lúc không trong một hai năm đầu đều không có bệnh gì, không nên chạy chữa, hai ba năm sau sẽ tự đều đặn bình thường.

Loại bế kinh bất bình thường thì có rất nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như tử cung non, màng trinh bít kín hoặc chức năng của tuyến yên ở dưới não của tuyến giáp trạng hoặc tuyến thượng thận là những bộ phận tiết ra các chất nội tiết tố bị mất điều hòa hoặc do buồng trứng bị viêm, phát dục không đầy đủ hoặc do tử cung có những thay đổi khác thường, ví dụ như kết hạc màng tử cung… thế nhưng những trường hợp như thế này là khá hiếm.

Ngoài ra, có có một số bệnh khi mắc phải cũng có thể gây ra bế kinh, chẳng hạn như bệnh thiếu máu, bệnh giun móc… Bởi những bệnh này sẽ làm cho cơ thể thiếu dinh dưỡng, sức khỏe suy yếu, việc tiết ra các chất nội tiết tố bị suy giảm, niêm mạc tử cung phản ứng không bình thường đối với các nôi tiết tố mà dẫn đến tình trạng bế kinh. Tuy vậy, đại đa số những trường hợp bế kinh có tính bệnh lý trong tuổi dậy thì đều có liên quan tới chức năng điều tiết của hệ thống thần kinh não. Nếu tâm trạng buồn phiền lo lắng, căng thẳng quá độ, môi trường thay đổi hoặc khí hậu có những thay đổi đột ngột, mưa dầm dề, cóng lạnh, mệt mỏi quá độ v.v… sẽ làm cho não, thần kinh bị tác động mà gây ra bế kinh. Có thể thấy rằng, việc giữ vệ sinh kinh nguyệt, lao động nghỉ ngơi thích hợp, giữ cho tinh thần vui vẻ thì có thể tránh được bế kinh.

90. Thế nào là bế kinh có tính sinh lý?

Những phụ nữ đã quá 18 tuổi mà vẫn chưa hành kinh hoặc đã hành kinh theo một chu kỳ nhất định nhưng tự nhiên bị tắt kinh từ 3 tháng trở lên, đều gọi là bế kinh. Những cô gái đã quá tuổi 18 mà vẫn chưa hành kinh thì gọi là bế kinh có tính nguyên phát còn loại thứ hai thì gọi là bế kinh có tính kế phát.

Bế kinh được phân thành hai loại gồm bế kinh có tính sinh lý và bế kinh có tính bệnh lý. Bế kinh có tính sinh lý chỉ là một hiện tượng bình thường. Trong hai ba năm đầu của tuổi dậy thì, sau khi người con gái đã bắt đầu hành kinh, do chức năng nội tiết của buồng trứng còn chưa được ổn định nên kinh nguyệt hay thất thường. Sau khi người phụ nữ có thai, do hoàng thể của buồng trứng tiết ra một lượng lớn hoàng thể tố (tức progestin), kích thích niêm mạc tử cung không ngừng phát triển mà không hề bong ra nên người phụ nữ không có kinh nguyệt hàng tháng nữa. Sau khi đẻ, hồi phục lại chức năng của buồng trứng đòi hỏi phải có một thời gian nhất định. Việc cho con bú cũng có tác dụng hạn chế nhất định đối với buồng trứng, nên thời gian để người phụ nữ hành kinh trở lại cũng có những thay đổi. Khi người phụ nữ đã ngoài 40 tuổi, do chức năng của buồng trứng dần dần thoái hóa làm niêm mạc tử cung thiếu mất sự kích thích có tính chu kỳ nên kinh nguyệt thường mấy tháng mới có một lần cho đến khi sạch kinh. Những hiện tượng bế kinh xảy ra trong tuổi dậy thì, khi mang thai, khi đang cho con bú và trong tuổi mãn kinh được gọi là bế kinh có tính sinh lý là hiện tượng bình thường.

91. Thế nào là bế kinh có tính bệnh lý? Nguyên nhân phát sinh từ đâu?

Tắt kinh do có bệnh tật ở một bộ phận nào đó trong bộ máy sinh dục hoặc do bị bệnh trong cơ thể gây ra được gọi là bế kinh có tính sinh lý. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra bế kinh có tính bệnh lý. Khái quát lại thì có thể chia thành 7 nguyên nhân gồm:

1. Nhân tố tinh thần

Sự thay đổi đột ngột của môi trường sống, sự biến đổi của khí hậu và những vết thương về tinh thần, sự sợ hãi, lo lắng buồn phiền, sự căng thẳng v.v… dưới tác dụng phản xạ của hệ thống thần kinh, sẽ làm ảnh hưởng đến chức năng nội tiết của tuyến sinh dục mà gây ra bế kinh.

2. Dinh dưỡng kém

Việc thiếu dinh dưỡng trong một thời gian dài, chẳng hạn như thiếu chất albumin, thiếu các loại vitamin… có thể gây trở ngại cho quá trình nội tiết mà dẫn đến bế kinh.

3. Bệnh tật trong cơ thể

Các bệnh truyền nhiễm cấp, mạn tính, bệnh thiếu máu nghiêm trọng, bệnh lao, bệnh thận, bệnh phong thấp, bệnh đái đường, sự rối loạn của nhiễm sắc thể giới tính v.v… thường làm ảnh hưởng đến chức năng buồng trứng gây ra bế kinh.

4. Tử cung bị bệnh

Các trường hợp như: không có tử cung bẩm sinh hoặc không có niêm mạc tử cung, tử cung bị cắt bỏ, tử cung phát triển không hoàn thiện, nạo tử cung quá sâu, khoang tử cung dính liền lại với nhau hoặc chữa bệnh bằng phóng xạ; việc tử cung mắc các bệnh nặng như viêm niêm mạc tử cung có tính kết hạch, việc kéo dài thời gian cho trẻ bú hoặc mất điều hòa thần kinh huyết quản khiến tử cung khô héo hoặc làm mất niêm mạc tử cung… đều có thể gây nên bế kinh, khiến các nội tiết tố của buồng trứng không thể tác động được tới tử cung.

5. Buồng trứng có bệnh

Buồng trứng bị thiếu do bẩm sinh hoặc phát triển không tốt và phẫu thuật cắt bỏ hai bên buồng trứng hoặc sau khi điều trị bằng phóng xạ, hai bên buồng trứng bị u nang hoặc một bên buồng trứng bị phá hoại hoặc bị nhiễm chứng bệnh của buồng trứng đa nang… đều có thể làm cho bế kinh.

6. Có vấn đề ở hạ khâu não

Tuyến yên bị bệnh: chẳng hạn như bị cảm, bị viêm nhiễm làm cho tác dụng của tuyến yên kém hiệu quả hoặc uống thuốc tránh thai để ngăn cản tác động của hạ khâu não - tuyến yên, cũng dẫn đến bế kinh.

7. Bệnh tật từ các tuyến nội tiết khác

Nếu cơ năng sinh lý của tuyến giáp trạng quá mức bình thường hoặc yếu, khiến buồng trứng tác động kém tới các phản ứng của các nội tiết tố tuyến sinh dục, cộng với sự thay đổi của quá trình trao đổi chất trong cơ thể, dễ gây ra bế kinh hoặc tuyến thượng thận tăng sinh, có khối u hoặc chức năng hoạt động suy yếu, cũng làm cho bế kinh. Hơn nữa, còn phải chú ý rằng, có một số hiện tượng bế kinh giả, cũng gọi là bế kinh ẩn, tức là có sự thay đổi của kỳ kinh nguyệt nhưng do bị vách ngăn ngang âm đạo bẩm sinh, do màng trinh đóng kín, do âm đạo hoặc cổ tử cung bị đóng kín bẩm sinh hoặc bị tổn thương sau này, khiến máu kinh không thoát ra ngoài được mà gây ra bế kinh. Những bệnh nhân loại này thường bị đau bụng dưới có tính chu kỳ, thậm chí đau dữ dội theo từng tháng, khác những trường hợp bị bế kinh thực sự đã nêu ở trên

----> healthy books <------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 27.08.2004 00:21:08
92. Phòng và điều trị bế kinh như thế nào?

Để tránh bị bế kinh, trước hết phải chú ý giữ gìn vệ sinh kinh nguyệt. Do sức đề kháng của cơ thể trong chu kỳ kinh nguyệt khá yếu nên cần chú ý chế độ dinh dưỡng, sắp xếp hợp lý mọi sinh hoạt, công tác, tránh gây nên những căng thẳng kích thích về thần kinh và tránh bị cảm gió, cảm lạnh, tránh bị nhiễm các bệnh về kinh nguyệt.

Ngoài ra còn phải chú ý giữ gìn vệ sinh trong giai đoạn cho con bú, bỏ thói quen cho con bú quá lâu, loại trừ những ổ nhiễm bệnh mạn tính, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, tránh nạo thai, nắm vững những ứng dụng của việc uống thuốc tránh thai, để ý phát hiện những khác thường trong cơ thể và kịp thời lý. Nếu làm được việc ngăn chặn ngay từ lúc chưa xảy ra thì có thể tránh được rất nhiều trường hợp bế kinh.

Bế kinh không phải là một căn bệnh mà là một chứng trạng của rất nhiều bộ phận và sự thay đổi bệnh tật cả cơ thể. Bởi vậy trong việc chữa trị chứng bế kinh, cần sớm tìm ra nguyên nhân và bệnh lý của nó, sau đó chữa trị theo nguyên nhân. Nếu bị bế kinh do nhân tố thần kinh gây ra thì chỉ cần loại bỏ được lo lắng buồn phiền về thần kinh và gánh nặng tư tưởng, cải thiện hoàn cảnh thì kinh nguyệt sẽ trở lại bình thường.

Nếu bị bế kinh do suy dinh dưỡng hoặc do bệnh tật trong người gây ra, chỉ cần nâng cao chế độ dinh dưỡng, trị đúng nguyên nhân gây bệnh, bổ sung đủ dinh dưỡng, cơ thể khỏe lên thì kinh nguyệt cũng trở lại bình thường.

Nếu do tử cung phát triển kém hoặc do chức năng của buồng trứng, tuyến yên bị mất điều hòa mà dẫn đến bế kinh thì có thể uống loại vỉ thuốc tránh thai kết hợp, mỗi ngày uống một viên, liên tục trong 20 ngày thì ngừng. Nếu ra được kinh thì sẽ uống thuốc tiếp vào ngày thứ 5 (tính từ ngày bắt đầu hành kinh). Chất oestrogen chứa trong lượng thuốc này có tác dụng thúc tuyến yên tiết ra chất hoàng thể, từ đó làm tăng lượng oestrogen được tiết ra từ buồng trứng mà kích thích rụng trứng. Có thể uống liên tục trong 3 chu kỳ kinh. Những người bị suy giảm chức năng buồng trứng hoặc chức năng tuyến yên hoạt động quá mức bình thường đều có thể sử dụng thuốc này. Chữa trị bằng một chu kỳ nhân tạo, tức là mỗi ngày uống một loại 0,5 mg, uống liền 20 ngày, sau đó bắt đầu từ ngày từ ngày thứ 15 trong khi đang uống thuốc, mỗi ngày tiêm 10 mg chất hoàng thể vào cơ bắp. Sau khi đã hành kinh, lại bắt đầu chu trình điều trị thứ hai kể từ ngày hành kinh thứ 5.

Ngoài ra, việc tác động vào chất kích thích tuyến sinh dục cũng có thể kích thích được chức năng của buồng trứng, làm rụng trứng, khôi phục lại kinh nguyệt. Chất nội tiết tuyến giáp trạng cũng có tác dụng nâng cao quá trình trao đổi chất, những người có sự trao đổi chất kém, cũng có thể áp dụng. Nếu bị bế kinh do khối u ở tuyến yên, buồng trứng hoặc do bị mắc chứng đa nang ở hai bên buồng trứng thì nên làm phẫu thuật ngay. Dùng thuốc Đông y rất giúp ích cho việc dưỡng máu bổ thận, thông khí hoạt huyết, thường có tác dụng thúc kinh ra nên có thể mời thầy thuốc Đông y kê đơn bốc thuốc điều trị.

------> healthy books <----------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 28.08.2004 05:00:05
93.Những nguyên nhân nào có thể gây ra thống kinh? Khi bị thống kinh thì nên làm thế nào?

Những trường hợp bị đau bụng dưới, đau mỏi thắt lưng vào trước và sau kỳ kinh hoặc trong lúc đang hành kinh, thậm chí còn làm ảnh hưởng đến sinh hoạt, học tập và công tác, chính là chứng thống kinh.

Theo thống kê không đầy đủ ở trong và ngoài nước, có khoảng trên 50% phụ nữ bị đau bụng ở những mức độ khác nhau trong khi hành kinh, trong đó 1/10 số phụ nữ bị đau dữ dội, thậm chí phải nằm nghỉ trong thời gian hành kinh, không thể làm việc hoặc tham gia học tập. Căn cứ vào nguyên nhân phát bệnh, có thể chia chứng thống kinh thành 2 loại gồm: chứng thống kinh có tính kế phát và chứng thống kinh có tính nguyên phát.

Chứng thống kinh có tính nguyên phát là chứng đau bụng khi bắt đầu hành kinh, thường xuất hiện ở các cô gái trẻ tuổi chưa qua sinh nở.

Chứng thống kinh có tính kế phát là chứng thống kinh do những biến đổi bệnh lý về khí chất của bộ máy sinh dục dẫn đến, cho nên được gọi là chứng thống kinh có tính khí chất, đa số hay xuất hiện ở các phụ nữ trung niên hoặc nhưng phụ nữ đã qua sinh đẻ.

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến chứng thống kinh có tính nguyên phát. Một là do nhân tố tinh thần, những cô gái quá ưu tư, quá lo lắng, tinh thần căng thẳng hay bị thống kinh.

Có một số nữ thanh niên do không hiểu về kinh nguyệt mà có tâm lý xấu hổ, sợ hãi, kinh ghét v.v… cũng bị thống kinh. Hai là do cơ bắp quá mạnh hoặc co bóp loạn xạ, ép mạnh vào mạch máu làm cho tử cung bị kích thích mà sinh ra đau bụng. Nếu cửa tử cung hoặc thân tử cung nhỏ hẹp, vị trí tử cung bị lệch đi hoặc tử cung quá cong, niêm mạc tử cung bong ra từng cục, có thể làm cho máu kinh không thông kích thích tử cung co bóp dữ dội mà gây ra đau bụng. Có người do tử cung phát triển không đầy đủ, gây nên sự co bóp không đều đặn nhịp nhàng nên cũng dễ bị chứng thống kinh. Ba là do nhân tố nội tiết. Rất nhiều bác sĩ cho rằng sự phát sinh của chứng thống kinh là do tử cung quá nhạy cảm với chất hoàng thể được tiết ra từ buồng trứng, nên đã co bóp quá mức, khiến cơ tử cung bị thiếu máu mà gây ra đau bụng. Cũng có người lại căn cứ vào chất tiền liệt tuyến của những phụ nữ bị thống kinh cao hơn của những phụ nữ bình thường; hơn nữa cũng trong một người, khi cơ thể đang trong thời gian thống kinh thì tố chất tiền liệt tuyến lại cao hơn lúc bình thường, vì thế mà cho rằng thống kinh có liên quan tới tố chất của tiền liệt tuyến.Các thầy thuốc Đông y cho rằng: người phụ nữ bị thống kinh là do khí huyết khó lưu thông, thậm chí “bất thông tắc thống” (tức “không thông thì sinh ra đau”). Nguyên nhân của nó là sau khi bị nội thương, bị cảm lạnh, và tinh thần bị căng thẳng v.v… Còn chứng thống kinh có tính kế phát phần lớn là do bộ máy sinh dục bị tật bệnh, chẳng hạn như chứng viêm khoang chậu, ung thư v.v… gây ra.

Điều trị thống kinh, trước hết phải tìm ra nguyên nhân. Những người bị mắc chứng thống kinh có tính nguyên phát, chớ nên quá lo lắng căng thẳng. Việc rũ bỏ được những sợ hãi và lo lắng là vô cùng có lợi. Cần chú ý giữ vệ sinh khi hành kinh, hoạt động thích hợp, ăn nhiều rau, để thông đại tiện, giảm bớt sự xung huyết của khoang chậu. Khi đang hành kinh, không được uống nước lạnh không ăn các chất cay nóng, sẽ giúp giảm bớt phần nào cơn đau. Khi bị đau dữ dội, hãy lấy túi nước nóng chườm vào bụng dưới, có thể làm tăng sự vận hành của máu, khiến bụng bớt đau. Cũng có thể uống một số thuốc giảm đau, chẳng hạn như viên khử đau, Atropin, viên ninh khôn hoàn của Đông y, viên ngọc dịch kim đan. Có thể dùng thuốc điều kinh vào trước thời gian hành kinh mấy ngày, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 8 viên, uống trước bữa ăn, cứ uống như vậy cho đến khi hành kinh xong mà không thấy đau bụng nữa thì ngừng thuốc, hiệu quả khá tốt. Dùng cỏ ích mẫu 31 gam, gừng sống 36 gam, đường đỏ 6 gam hoặc hương phụ 9 gam, lá ngải tươi 9 gam, đường đỏ 63 gam, cho các vị thuốc này vào ấm sắc lấy nước uống; vừa đơn giản vừa công hiệu. Có thể lấy điếu ngải cứu khô châm lửa cứu ở giữa bụng dưới, mỗi lần cứu khoảng 10 phút thường có thể hết đau. Sau khi sử dụng các loại thuốc trên mà bệnh vẫn không chuyển, nên đến bệnh viện để khám và để bác sĩ xác định biện pháp điều trị. Nếu mắc chứng thống kinh có tính kế phát nên tích cực chữa khỏi những bệnh có tính nguyên phát, sau khi chữa khỏi thì chứng thống kinh cũng khỏi theo.

-------> healthy books <-------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 29.08.2004 03:36:37
94. Thế nào là chảy máu tử cung chức năng? Đặc điểm từng loại như thế nào?

Có một số phụ nữ hành kinh rất bất thường chu kỳ kinh ngắn, thời gian hành kinh kéo quá dài, lượng máu hành kinh càng ngày càng nhiều lên, hơn nữa lại không tìm ra bệnh tật gì về khí chất của bộ máy sinh dục sau khi đã khám phụ khoa thì đều gọi là chảy máu tử cung có tính chức năng. Căn bệnh này thường xuất hiện trong thời kỳ cơ thể mất cân bằng về nội tiết tố trong tuổi dậy thì, tuổi hết kinh, sau khi đẻ hoặc sau khi sảy thai v.v… Người ta phân loại chảy máu tử cung có tính chức năng ra làm 2 loại gồm chảy máu không phóng noãn và chảy máu có phóng noãn là:

1. Chảy máu không phóng noãn: Là trường hợp chảy máu thường hay gặp nhất, hay thấy xuất hiện trong tuổi dậy thì và tuổi mãn kinh. Biểu hiện của nó là chu kỳ kinh nguyệt trở nên thất thường, thường có tiền sử bế kinh trong một quãng thời gian nhất định trước khi bị chảy máu tử cung. Phần lớn chu kỳ kinh kéo dài, lượng máu hành kinh ra nhiều hoặc ra dầm dề không dứt. Khi máu ra nhiều, có thể gây ra bệnh thiếu máu. Máu ra nhưng không kèm theo đau bụng, đó là đặc trưng của loại bệnh này. Nhiệt độ cơ bản của cơ thể vẫn giữ nguyên vì không có sự rụng trứng.

2. Chảy máu có phóng noãn: Thường hay gặp ở những người nạo thai hoặc sau khi đẻ đủ tháng. Ở những người này, chu kỳ kinh nguyệt thường đều đặn hoặc bị rút ngắn lại, thời gian chảy máu bị kéo dài (quá 7 ngày trở lên), lượng máu ra nhiều hoặc ít không đều nhau. Có thể chảy máu trước kỳ kinh, sau kỳ kinh vẫn dầm dề không ngớt, nhiệt độ cơ bản của cơ thể xuống 35 độ C.

Chữa chảy máu tử cung do rối loạn chức năng như thế nào?

Sau khi bị chảy máu tử cung do rối loạn chức năng, nên chú ý nghỉ ngơi đúng mức, tránh căng thẳng tinh thần, mệt mỏi quá độ hoặc vận động mạnh. Nếu máu ra nhiều nên nằm nghỉ ngơi để giảm bớt lượng máu chảy ở khoang chậu và phải uống thuốc co tử cung và thuốc cầm máu, ví dụ như uống các loại thuốc cầm máu để cấp cứu ngay như An lạc huyết, Tiên nha thảo và Vitamin K… Bài thuốc bốc sẵn của Đông y (gồm than Đương quy 9 gam, than Đan bì 9 gam, than Ngó sen 9 gam, viên keo ả rập 9 gam, hương phụ nướng 9 gam, than Bồ hoàng 9 gam, than Quán trọng 7 gam, than Trần tông 7,5 gam, Xuyên tục đoán 15 gam), hiệu quả cầm máu cũng rất tốt.

Nếu thiếu máu, có thể uống thuốc bổ máu. Khi bị thiếu máu nặng, trong tình hình có điều kiện, vẫn nên tiếp máu, sau đó căn cứ vào tình hình cụ thể mà áp dụng các biện pháp điều trị khác nhau. Chẳng hạn, đối với những người bị chảy máu tử cung trong tuổi dậy thì, thường phải uống thuốc cầm máu trước, sau khi máu cầm sẽ tiến hành chữa theo chu kỳ, làm cho rụng trứng, khôi phục lại chức năng buồng trứng, nhưng phải do bác sĩ chỉ đạo tiến hành. Đối với phụ nữ đã có chồng, việc dùng thuốc viên để chữa khó cầm máu được, có thể phải nạo tử cung. Có khoảng một nửa số phụ nữ sau khi được xử lý xong, máu chảy ở tử cung dần dần được cầm lại.

Đối với một số phụ nữ đang trong tuổi mãn kinh, việc điều trị bằng uống thuốc, nạo tử cung đều không có hiệu quả, có thể xem xét đến biện pháp cắt bỏ tử cung hoặc làm cho tuyệt kinh bằng cách chiếu tia phóng xạ vào niêm mạc tử cung, nhằm hủy diệt niêm mạc của tử cung, làm mạch máu cứng lại, để đạt được mục đích cầm máu. Hoặc dùng X quang chiếu sâu vào buồng trứng, tiêu diệt chức năng buồng trứng, làm cho tắt kinh vĩnh viễn, nhưng điều này sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình trao đổi chất của toàn cơ thể, do đó bất đắc dĩ lắm mới dùng biện pháp này.

-----------> healthy books <--------------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 31.08.2004 05:08:43
98. Bạch đới là gì? Trong điều kiện bình thường bạch đới có thay đổi gì?

Trong điều kiện sinh lý bình thường, huyết tương thấm qua các mạch máu nhỏ li ti, qua tổ chức hạch của thành âm đạo cùng với chất nhầy do dịch hạch và thân tuyến niêm mạc tử cung, thân tuyến cổ tử cung, tuyến lớn tiền đình và tuyến bàng quang niệu đạo… tiết ra, trộn lẫn với tế bào biểu mô tử cung trong âm đạo bong ra, với một ít bạch huyết, tế bào tự do, tạo thành một chất nhầy màu trắng sữa, giống như lòng trắng trứng gà hơi có mùi tanh, chính là bạch đới (ta vẫn gọi là khí hư). Bạch đới không những giúp cho âm đạo giữ được độ ẩm nhất định mà còn có tác dụng chống vi khuẩn của bệnh tật xâm nhập vào.

Lượng bạch đới tiết ra và tính chất thái của bạch đới lúc bình thường được thay đổi tùy theo hàm lượng oestrogen trong cơ thể phụ nữ nhiều hay ít. Chẳng hạn như khi còn nhỏ bộ máy sinh dục còn chưa phát dục đầy đủ, nhìn chung trong âm đạo, không có các chất nội tiết nên không có bạch đới. Nếu thấy có bạch đới, phải đưa đi khám ngay để tìm nguyên nhân, điều trị kịp thời. Vào độ tuổi dậy thì, buồng trứng dần dần phát triển và tiết ra các chất kích thích, khiến bộ máy sinh dục sản sinh các chất nội tiết, vì thế mới có bạch đới.

Đến tuổi trưởng thành, buồng trứng phát triển hoàn thiện, hàng tháng đều tiết ra nội tiết tố oestrogen và progesteron, vì thế làm cho bạch đới được thay đổi theo chu kỳ tùy theo hàm lượng nội tiết tố ra nhiều hay ít. Trong chu kỳ kinh nguyệt, khi lượng nội tiết tố oestrogen tăng lên, các tổ chức của thân tuyến cổ tử cung được tiết ra nhiều, hàm lượng nước trong nó cũng tăng lên, cho nên thấy xuất hiện loại chất nhầy như nước, như lòng trắng trứng, có thể kéo thành sợi, đặc biệt là trước đêm rụng trứng, chất nội tiết loại này càng nhiều, vì thế làm cho chị em phụ nữ luôn cảm thấy cửa mình ẩm ướt. Sau khi rụng trứng lượng nội tiết tố progesteron tăng lên, khống chế việc tiết ra chất nhầy của cổ tử cung, lúc này bạch đới có màu trắng sữa, dạng keo dính. Ngoài ra trong thời gian mang thai, ngày nóng, làm lao động nặng và khi bị kích thích tình dục, các chất nội tiết này cũng ra nhiều, khiến lượng bạch đới tăng lên, có lúc còn chảy thành dòng ra ngoài. Cho nên trong điều kiện sinh lý bình thường, bạch đới có lúc nhiều lúc ít, trạng thái của nó cũng có thay đổi, nhưng những hiện tượng này đều là hiện tượng bình thường, không cần để ý đến.

99. Làm thế nào phân biệt được bạch đới sinh lý và bạch đới bệnh lý?

Bạch đới sinh lý là loại bạch đới chịu tác động, ảnh hưởng của hàm lượng oestrogen trong cơ thể, thay đổi về số lượng và trạng thái tùy theo hàm lượng đó nhiều hay ít. Còn khi cơ thể mắc bệnh, tính chất của bạch đới cũng bị thay đổi. Vậy thì làm thế nào phân biệt được bạch đới có tính sinh lý hay bạch đới có tính bệnh lý? Thường phải hết sức chú ý theo dõi số lượng, màu sắc, trạng thái, mùi vị và các chứng bệnh kèm theo của bạch đới. Nếu bạch đới ra không nhiều, màu trắng sữa, dạng lòng trắng trứng, hơi có mùi tanh, nhưng cảm giác không có gì khó chịu thì thuộc dạng bạch đới sinh lý.

Nếu bạch đới ra quá nhiều, thậm chí còn lẫn máu thì thuộc loại bạch đới có bệnh. Nếu bạch đới có màu vàng sạm, dạng bọt, có mùi hôi khẳn đồng thời bị ngứa đau ở âm hộ hoặc khi giao hợp bị đau v.v… phần lớn đều là viêm âm đạo dạng trùng roi. Khi bạch đới có màu trắng đục, thuộc thể bã đậu hoặc như cục sữa đông, có lúc còn có mùi hôi, kèm theo âm hộ bị ngứa, bị đau, phần lớn là viêm âm đạo dạng nấm. Còn nếu bạch đới có màu vàng hoặc màu mủ có mùi hôi thối, giống như nước gạo hoặc mủ, đa số đều thuộc dạng bị nhiễm vi khuẩn mưng mủ gây ra, chẳng hạn như viêm cổ tử cung mạn tính, viêm âm đạo người già và viêm niêm mạc tử cung. Nếu trong bạch đới có lẫn máu thì gọi là bạch đới đỏ hay xích bạch đới, thường thấy ở các bệnh viêm loét cổ tử cung ở mức độ nặng, thịt thừa cổ tử cung, khối u cổ tử cung, u xơ dưới màng nhầy v.v… Bạch đới dạng nước, là bạch đới loãng, có lúc giống như nước gạo, thường phát sinh từ các bệnh ung thư cổ tử cung, ung thư thân tử cung, ung thư ống dẫn trứng v.v… cũng có lúc là bị chứng viêm hoặc mắc bệnh u xơ dưới màng nhầy cũng có thể ra bạch đới. Tóm lại, có rất nhiều nguyên nhân gây bạch đới có tính bệnh lý, đa số đều là các bệnh viêm nhiễm, cũng có cái là u ác tính, vì vậy cần phải kiểm tra kỹ bạch đới có bệnh, sau khi chuẩn đoán chính xác phải chữa trị kịp thời.

-------> healthy books <--------

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 05.09.2004 22:21:59
100. Bạch đới đỏ thường có ở những bệnh nào?

Khi thấy ra bạch đới đỏ (hay còn gọi xích bạch đới), phải nghĩ ngay đến các bệnh sau:

1. U thịt (tức thịt thừa) cổ tử cung: Do bề mặt u thịt bị viêm, bị xung huyết nên máu thấm ra, lẫn vào với bạch đới chảy ra ngoài.

2. Loét cổ tử cung nặng: Do cổ tử cung bị viêm loét mà máu ứa ra, hòa lẫn vào với bạch đới.

3. Viêm âm đạo cấp: Chủ yếu là bạch đới dạng mủ, nhưng trong giai đoạn xung huyết cấp, có thể bạch đới lẫn máu.

4. Viêm âm đạo tuổi già: Thường hay bị sau khi tắt kinh, có lúc bạch đới cũng lẫn máu và cảm thấy nóng bỏng ở âm hộ.

5. U xơ dưới màng nhầy tử cung: Khi u xơ bong ra khỏi âm đạo, do bề mặt u xơ bị viêm loét, hoại tử nên có thể ra bạch đới lẫn máu.

6. Ung thư cổ tử cung: Những người mắc bệnh ung thư cổ tử cung, dễ bị chảy máu khi có sự va chạm nếu bề mặt khối u còn bị loét thì sẽ có bạch đới lẫn máu kèm theo cả mùi hôi thối nấm xâm nhập vào, chủ yếu là chứng viêm do khuẩn nấm màu trắng gây ra. Nếu bị cả viêm âm đạo nấm thì gọi là viêm âm đạo, âm hộ dạng nấm.

7. Viêm cửa mình trẻ em: Do trẻ êm mặc quần quá chật đũng, dễ bị nhiễm bẩn;do không thay tã lót kịp thời, vệ sinh đại tiểu tiện không sạch nên bị hăm, bị viêm da cửa mình; do bị các bệnh truyền nhiễm cấp, sức đề kháng của toàn thân giảm đi, những chỗ không giữ được sạch sẽ sẽ bị viêm nhiễm làm cho cửa mình bị viêm.

8. Viêm tuyến lớn tiền đình, sưng nang.

9. Mẩn ngứa cửa mình: Bệnh này thường phát ra ở chỗ tiếp giáp giữa màng nhầy và da. Bệnh làm hỏng bề mặt da, mọc lên nhiều nốt màu hồng bề mặt trở nên lồi lõm, có lúc rộp thành kiểu hoa rau, đây là do nhiễm phải chất độc của căn bệnh mẩn u cục mà dẫn đến tình trạng trên.

10. Loét âm hộ cấp: Là một loại loét lành tính ở âm hộ không phải do sự tiếp xúc, cọ sát với vật gì đó gây ra. Vết loét có thể xuất hiện ở các bộ phận của âm hộ, phần lớn hay thấy ở mặt trong của môi lớn, môi nhỏ của âm hộ, rồi xuất hiện ở màng nhầy tiền đình và xung quanh cửa âm đạo. Thường phát bệnh cấp, phát triển nhanh, có thể bị sốt và toàn thân bị các chứng bệnh khác rất lạ, có lúc còn chảy ra các cục mủn rữa. Ung thư niêm mạc tử cung thì bạch đới phần lớn đều có dạng nước, có lúc ra lẫn một ít dung dịch máu.

Do đó có thể thấy, việc ra bạch đới đó, ngoài bị các bệnh u thịt thuộc cổ tử cung, viêm âm đạo ra, phần lớn đều do các khối u, ung thư gây nên, cần hết sức chú ý. Tuy vậy, cũng có lúc do việc đặt vòng hạn chế sinh đẻ ở tử cung, khiến bạch đới có lẫn một ít tia máu, có thể là do vòng cọ sát vào niêm mạc tử cung mà gây ra chảy máu.

101. Âm hộ phụ nữ dễ bị mắc những bệnh gì?

Âm hộ phụ nữ có thể bị mắc rất nhiều bệnh. Những bệnh thường hay mắc gồm:

1) Viêm cửa mình (viêm âm hộ): Do cửa mình phụ nữ là nơi thường xuyên có các chất nội tiết của âm đạo, máu hành kinh, khí hư chảy ra nếu không giữ được vệ sinh sạch sẽ thì có thể bị viêm. Khi bị viêm cấp tính có thể bị sưng to, chảy máu, bị loét hoặc bị mẩn ngứa từng mảng hoặc bị viêm lông hoặc bị viêm xung quanh lông , thậm chí còn mưng mủ cấp ở chân lông hoặc xung quanh tuyến nhầy dưới da. Nếu bị viêm cấp mà không chữa trị kịp thời thì bệnh sẽ chuyển sang mạn tính.

2) Viêm cửa mình dạng nấm: Là do khuẩn nấm xâm nhập vào, chủ yếu là chứng viêm do khuẩn nấm màu trắng gây ra. Nếu bị nấm thì gọi là viêm âm đạo, âm hộ dạng nấm.

3) Viêm cửa mình trẻ em: Do trẻ em mặc quần áo chật đũng, dễ nhiễm bẩn, do không thay tã lót kịp thời, vệ sinh đại tiểu tiện không sạch nên bị hăm, bị viêm da cửa mình, do bị các bệnh truyền nhiễm cấp, sức đề kháng của toàn thân giảm đi, những chỗ không được giữ gìn sạch sẽ dễ bị viêm nhiễm.

4) Viêm tuyến lớn tiền đình, sưng nang.

5) Mẩn ngứa cửa mình: Bệnh này thường phát ra ở chỗ tiếp giáp giữa màng nhầy và da. Bệnh làm hỏng bề mặt da, mọc lên nhiều nốt màu hồng nhạt , màu đỏ sẫm hoặc màu xám do làm cho bề mặt trở nên lồi lõm, có lúc rộp thành kiểu hoa rau, đây là do nhiễm phải chất độc của căn bệnh mẩn u cục mà dẫn đến tình trạng trên.

6). Loét âm hộ cấp: Là một loại loét lành tính ở âm hộ không phải là do sự tiếp xúc, cọ sát với vật gì đó gây ra. Vết loét có thể xuất hiện ở các bộ phận ở âm hộ, phần lớn hay thấy ở mặt trong của môi lớn, môi nhỏ của âm hộ, rồi xuất hiện ở màng nhầy tiền đình và xung quanh cửa âm đạo. Thường phát bệnh cấp, phát triển nhanh có thể bị sốt và toàn thân bị các chứng bệnh khác.

7). Viêm phù nề âm hộ dạng mạn tính: Căn bệnh này phần lớn là do mắc bệnh chân voi mà gây ra, biểu hiện là âm hộ hoăch một bộ phận nào đó của âm hộ bị sưng dày mãi lên, khi bị nặng thì gọi là bệnh da voi âm hộ, hay xuất hiện ở bộ phận âm vật, cũng có thể bị ở môi lớn, môi bé của âm hộ. Ngoài ra cũng có thể bị các bệnh khác như kết hạch ở âm hộ, sưng u cục ở âm hộ.

--------->healthy books <-----------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 15.09.2004 09:31:25
102. Vân trắng ở âm hộ là biểu hiện của chứng bệnh gì? Phòng chữa như thế nào?

Vân trắng ở âm hộ thường do bệnh ngứa ở âm hộ gây ra, biểu hiện là xuất hiện từng đám vân trắng trên bề mặt âm hộ, lớp da dày cộp lên, cứng ra hoặc khi lớp da chỗ có vân trắng bị sây sát, nứt nẻ do ngứa gãi thì không những có cảm giác bị ngứa rát mà còn cảm thấy rất đau ở âm hộ. Vân trắng ở âm hộ là thuộc triệu chứng tiền ung thư trong biến chứng của bệnh vân trắng ở âm hộ nhưng không phải mọi biểu hiện của lớp da âm hộ bị chuyển sang màu trắng đều là bệnh vân trắng ở âm hộ.

Tỷ lệ chuyển sang ác tính của bệnh vân trắng ở âm hộ khá cao, đạt 10-20%, cho nên cần làm tốt công tác phòng chống. Trước hết phải chú ý giữ gìn sạch sẽ vệ sinh âm hộ. Hàng ngày nên dùng nước ấm rửa sạch âm hộ 2 lần, chớ dùng thuốc pha ra để rửa âm hộ. Nếu bị viêm cổ tử cung hoặc viêm âm đạo nên sớm chữa trị, để làm giảm sự tác động của bạch đới đối với lớp da âm hộ. Nếu phát hiện thấy lớp da âm hộ chuyển sang màu trắng, bị ngứa, bạch đới ra nhiều nên kịp thời đi khám, khi cần sẽ làm sinh thiết bệnh lý, để chuẩn đoán chính xác rõ ràng, dù kết quả kiểm tra là âm tính, cũng vẫn phải chú ý theo dõi sự phát triển của bệnh trạng. Muốn theo dõi mức độ âm hộ bị mẩn ngứa tăng lên như thế nào, bản thân có thể lấy gương soi vào âm hộ để xem vết vân trắng có phát triển rộng ra hay không. Nếu phát hiện thấy bệnh tiến triển thì hãy đi khám sinh thiết một lần. Đối với việc điều trị bệnh vân trắng, phải theo chỉ dẫn của bác sĩ. Có thể dùng bài thuốc Đông y gồm các vị sau: kim ngân hoa, sa sàng tử, quả bạch tật lê… sắc lấy nước uống và rửa chỗ ngứa, đồng thời chiếu tia laser vào, điều trị bằng cách làm đông lạnh chỗ ngứa. Nếu bệnh tiến triển ở mức độ trung bình và nặng hoặc tuổi đã cao, qua điều trị vẫn không khỏi thì có thể cắt bỏ phía ngoài âm hộ.

103. Ung thư ở âm hộ có những biểu hiện gì? Chữa trị như thế nào?

Ung thư ở âm hộ chiếm vị trí thứ tư sau các bệnh ung thư ở bộ máy sinh dục nữ. Phụ nữ châu Á thường phát bệnh này ở độ tuổi trên dưới 50. Biểu hiện của thời kỳ đầu thường không rõ ràng nên hay bị bỏ qua. Có người chỉ bị một nốt hạch nhỏ và cứng ở âm hộ nên có thể không tự linh cảm thấy bị bệnh một cách rõ ràng. Có lúc chỉ thấy bị loét sau khi bị sây sát ở bề mặt lớp da âm hộ, không thấy đau thấy ngứa. Nếu đó là bệnh vân trắng ở âm hộ chuyển thành bệnh ung thư âm hộ thì triệu chứng nổi bật nhất là mẩn ngứa âm hộ, từng chỗ có thể nhìn thấy rõ vết cào xước. Nếu bệnh tình phát triển thì bệnh sẽ tiến triển hình thành hoa, hình vết loét, háng sưng hạc lùn, pha to và cố định, cửa mình chảy ra nhiều mủ hoặc chất có lẫn máu. Nếu bị viêm nhiễm kế phát hoặc do khối u sưng ăn sâu vào bên trong đè vào dây thần kinh âm hộ thì thường cảm thấy đau, mệt, đi đái nhiều, đái đau, đi đái khó khăn, táo bón.

Để sớm phát hiện ra ung thư âm hộ và kịp thời chữa trị, nếu thấy có hạch cứng ở bộ phận âm hộ, có vết loét hoặc sưng thành cục, phải lập tức đến bệnh viện khám, có thể cắt lấy một miếng da hoặc một ít tổ chức dưới da ở chỗ nghi ngờ, đưa vào xét nghiệm sinh lý. Sau khi chuẩn đoán chính xác, phẫu thuật cắt bỏ là biện pháp chữa trị đầu tiên. Nếu khối u sưng to ăn sâu vào niệu đạo, khi tiểu tiện khó khăn, có thể điều trị bằng tia phóng xạ, nhưng do bề mặt lớp da âm hộ ẩm ướt, sức chịu đựng tia phóng xạ kém, dễ bị bỏng và hoại tử, hơn nữa tế bào ung thư lại rất phân tán, không nhạy cảm với tia phóng xạ nên ít dùng đến. Việc điều trị bằng chất hóa học cũng có tác dụng nhất định, có thể kết hợp điều trị.

----------> healthy books <----------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 15.09.2004 09:34:34
104. Vì sao âm hộ lại mẩn ngứa? Khi âm hộ bị mẩn ngứa nên làm thế nào?

Phụ nữ ở bất cứ độ tuổi nào cũng có thể bị mẩn ngứa âm hộ, nhưng đa số hay bị ở những phụ nữ đang độ tuổi mãn kinh. Khi bệnh còn nhẹ thường hay ngứa về đêm, ngứa rất khó chịu, thoắt ngứa thoắt hết. Do ngứa không chịu được nên phải gãi vào chỗ ngứa, thậm chí gãi xước cả da mà vẫn không hết ngứa, vì vậy ảnh hưởng đến sự nghỉ ngơi và giấc ngủ cá nhân.

Có rất nhiều nguyên nhân làm cho âm hộ bị ngứa. Chẳng hạn như mặc quần lót ẩm và dày, khiến âm hộ luôn bị ẩm, làm cho da bị ngâm mềm ra mà bị hăm. Những phụ nữ mập béo, hai bên đùi hay cọ sát vào nhau, mồ hôi lại ra nhiều, chất nhờn dưới da cũng tiết ra nhiều, cũng có thể là nguyên nhân gây ngứa ngáy ở âm hộ. Bạch đới ra quá nhiều do bị các chứng viêm như viêm âm đạo thể trùng roi, viêm âm hộ thể nấm, viêm cổ tử cung, u thịt thừa cổ tử cung hoặc có thai hoặc bị ung thư khoang chậu hoặc thể chất suy yếu… đều có thể làm âm hộ bị ngứa. Những phụ nữ trong các trường hợp này, do bạch đới ra quá nhiều, làm âm hộ luôn luôn ẩm ướt kích thích đến da khiến âm hộ bị ngứa.

Còn các nguyên nhân khác như sự kích thích của nước tiểu, ảnh hưởng của bệnh ngứa hậu môn, các bệnh ở âm hộ (ví dụ như bệnh căng phòng tĩnh mạch âm hộ, bệnh vân trắng ở âm hộ, bệnh ngoài da…), ảnh hưởng của các bệnh như thiếu vitamin A và B, bệnh đái đường, bệnh hoàng đản; hoặc cơ thể quá mẫn cảm (với các chất sợi hóa học, vòng tránh thai hoặc thuốc tránh thai, thuốc uống…). Đó đều là những nguyên nhân gây ngứa âm hộ.

Khi bị ngứa ở âm hộ, phải đi khám tìm ra nguyên nhân ngay, trị đúng nguyên nhân gây bệnh, đồng thời phải mặc loại quần áo rộng, mềm, mỏng, không được mặc quần áo quá dày; phải vệ sinh âm hộ sạch sẽ, hàng ngày dùng khăn mặt bông thấm nước ấm lau nhẹ, không được lấy xà phòng sát mạnh, càng không được dùng nước nóng để làm cho đỡ ngứa, vì việc dùng nước nóng làm cho đỡ ngứa chỉ giải quyết được cảm giác ngứa trong chốc lát. Khi âm hộ bị xung huyết quá độ, có thể làm cho mút dây thần kinh hưng phấn cao, khiến bệnh nặng thêm. Sau khi tắm rửa xong, âm hộ mềm mại ra, không còn bị bất cứ một chất nào xâm nhập vào, như trẻ sơ sinh được thoa lên mình một lớp phấn tắm. Muốn giữ cho âm hộ sạch sẽ, khô ráo, không được dùng các loại thuốc linh tinh, để tránh làm tổn thương làn da âm hộ, thậm chí làm âm hộ bị sưng mọng lên, chảy nước, viêm nhiễm tiếp.

105. Khi bị viêm tuyến lớn tiền đình, thường có những biểu hiện lâm sàng nào? Việc chữa trị nên tiến hành như thế nào?

Tuyến lớn tiền đình nằm ở phía sau môi lớn âm hộ. Với những đặc điểm của vị trí này, tuyến lớn tiền đình rất dễ bị viêm nhiễm. Khi bị cấp tính, ống tuyến bị viêm do vi khuẩn xâm nhập vào, có chỗ đỏ lên, sưng, nóng, đau, có thể gây sốt toàn thân. Do màng nhầy của thân tuyến mọng lên xung huyết, ấn nhẹ vào thân tuyến có lúc có thể có dịch mủ từ trong miệng ống tuyến chảy ra.Khi ống tuyến sưng to bít chặt cửa ống lại, các chất nội tiết từ bên trong tiết ra không thoát được ra ngoài, thành mủ và nhanh chóng lan rộng, có chỗ mưng thành cục mủ to rõ rệt. Có người bệnh, vết mưng nủ có thể vỡ ra, chẳng hạn như vết vỡ khá to, có thể dẫn lưu được các chất khác ra ngoài, khiến bệnh nhanh chóng rút đi và khỏi hẳn. Nếu vết vỡ nhỏ, việc dẫn lưu không thông, bệnh có thể tái phát. Cũng có người sau khi điều trị đã khỏi chứng viêm cấp, dịch mủ tiêu đi thành bọng nước trong, có cái to có cái nhỏ, thông thường bọng nước này không to hơn quả trứng gà, có thể tồn tại trong một thời gian dài, thậm chí kéo dài trong nhiều năm, không có bệnh gì, nhưng cũng có thể bị viêm lại nhiều lần.

Sau khi phát hiện ra mình bị viêm tuyến lớn tiền đình, phải chú ý nghỉ ngơi, uống thuốc kháng sinh và đi khám bệnh, làm phẫu thuật cắt bỏ hoặc thông ống tuyến tùy theo tình trạng mưng mủ ở tuyến như thế nào. Sau khi làm phẫu thuật xong sẽ bình phục nhanh chóng

--------> healthy books <---------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 15.09.2004 09:36:12
106. Thế nào là viêm âm đạo thể nấm? Việc chữa trị ra sao?

Có rất nhiều loại khuẩn nấm. Viêm âm đạo thể nấm chủ yếu là bệnh viêm âm đạo do khuẩn nấm trắng gây ra. Loại bệnh này có thể lây trực tiếp thông qua giao hợp, cũng có thể lây gián tiếp qua việc tắm chung ở các bể tắm công cộng, bể bơi, ngồi hố xí bệt, mặc chung quần áo hoặc dùng chung dụng cụ khám bệnh… Căn bệnh này thường hay gặp ở những phụ nữ có thai, những người bị mắc bệnh đái đường hoặc những người sử dụng kháng sinh lâu dài, cũng có khi bệnh này có liên quan với bệnh “nấm ở chân”. Đặc biệt là đối với bé gái và người già, do lượng nội tiết tố oestrogen tiết ra ít nên sức đề kháng của âm đạo kém, rất dễ bị viêm chứng bệnh này. Triệu chứng chủ yếu của căn bệnh này là bạch đới ra nhiều, ra giống như bã đậu, có màu trắng sữa, âm hộ hoặc âm đạo rất ngứa, có lúc cảm thấy nóng rát, đi đái liên tục, đi đái cảm thấy buốt, khi giao hợp thì bị đau…

Bệnh viêm âm đạo thể nấm làm cho âm đạo ngứa ngáy khó chịu, ảnh hưởng đến giấc ngủ và công tác, vì thế phải tích cực đề phòng. Trước hết, với người trong gia đình, phải dùng riêng chậu, riêng khăn. Chậu, khăn rửa chân, lau chân của mình cũng phải dùng riêng ra với chậu, khăn để rửa, lau âm hộ phải thường xuyên khử trùng bằng nước sôi, phải thường xuyên thay giặt quần lót. Ngoài ra phải tắm theo kiểu múc nước dội, ngồi hố xí xổm, cách ly hẳn với các nguồn truyền bệnh. Những người mắc bệnh đái đường phải luôn luôn rửa sạch âm hộ, giữ âm hộ sạch sẽ. Điều trị chủ yếu bằng canxi bicar - bonat loại 4% và dung dịch per manganat kali 1:5000, dùng thuốc này để rửa âm đạo, ở âm hộ thì bôi loại thuốc chống nấm, trong âm đạo thì đặt thuốc viên chống khuẩn hoặc chống nấm hoặc dùng bài thuốc Đông y gồm các vị sà sàng tử 30 gam, hoàng bá 15 gam, sâm (khổ sẩm) 15 gam, phèn khô 15 gam, hoắc hương 15 gam, đại hoàng 15 gam, đem đun kỹ, lấy nước xông rửa âm hộ, mỗi ngày 1 lần. Phải hết sức kiên trì khi dùng thuốc, không được vừa thấy bệnh đõ đã ngừng chữa ngay, bởi loại bệnh này có thể lây qua đường ình dục nên trong thời gian chữa bệnh tốt nhất không được giao hợp hoặc cả hai vợ chồng cùng chữa bệnh, để bệnh khỏi triệt để.

107. Viêm âm đạo thể trùng roi được phát sinh như thế nào? Phòng chữa ra sao?

Viêm âm đạo thể trùng roi là một loại bệnh viêm âm đạo thường gặp do loại trùng roi có lông gây nên. Phương thức của bệnh này gồm:

- Một là lây trực tiếp qua việc cọ xát, tức là trong bộ máy sinh dục nam (trong đường tiết niệu) có trùng roi sống ký sinh nên khi giao hợp thì truyền cho phía nữ.

- Hai là tắm chung trong bể tắm công cộng, dùng chung khăn tắm, chậu rửa, hố xí bệt đã bị nhiễm bẩn, đều có thể bị lây gián tiếp mà sinh ra mắc bệnh. Sau khi bị bệnh, thành âm đạo bị xung huyết, các chất tiết ra trong âm đạo nhiều lên nên bạc đới ra nhiều, có màu vàng nhạt, có lúc giống như màu mủ xanh vàng, đặc điểm của nó là thường có bọt ra theo có mùi thối, lúc nặng có thể ra lẫn máu. Loại bạch đới này chảy ra âm hộ, gây cảm giác bỏng rát hoặc ngứa ngáy như có dòi bọ ở âm hộ và âm đạo hoặc cảm thấy đau đớn. Khi trùng roi xâm nhập vào đến niệu đạo, tuyến bàng quang niệu đạo thì sẽ đi đái liên tục, bị chứng niệu cấp. Khi cả bàng quang cũng bị viêm thì sẽ bị đi đái buốt. Nếu đến bệnh viện khám bệnh, có thể tìm thấy trùng roi âm đạo trong các chất tiết ra từ âm đạo.

Bệnh viêm âm đạo thể trùng roi hơi khó chữa vì thế phải tích cực phòng chống, chữa bệnh triệt để. Phương pháp phòng chống là phải tắm theo kiểu múc nước dội hoặc tắm vòi hoa sen, dùng hố xí xổm, không dùng chung khăn tắm, chậu rửa, khăn lau chân v.v…Khăn tắm, chậu rửa của bản thân mình phải thường xuyên phải được khử trùng bằng nước sôi (ngâm khoảng 20 phút). Ngoài ra, cũng có một số người tuy có trùng roi, nhưng lại không bị bệnh cho nên phải cách ly hẳn với những nguồn có khả năng gây bệnh, phải làm tốt công tác kiểm tra thường xuyên, kịp thời tìm ra những người có loại khuẩn này, để sớm điều trị. Việc chữa trị căn bệnh này, thường dùng thuốc uống để diệt khuẩn hoặc cũg có thể đặt thuốc vào trong âm đạo, có thể dùng dung dịch Acid acetic loại 0,5% để rửa. Và sau khi hành kinh xong,có thể đặt thuốc vào trong âm đạo, mỗi chu trình điều trị là 10 ngày.Cũng có thể dùng bài thuốc Đông y gồm sà sàng tử 30 gam, khổ sâm 15 gam, phèn khô 15 gam, bách bộ 15 gam, hoàng bá 15 gam, bạc hà 15 gam cho vào sắc lấy nước xông rửa âm hộ, mỗi ngày 1 lần, 10 ngày là một chu trình điều trị. Khi bệnh đã đỡ nhiều, phải đi kiểm tra lại, dù kết quả kiểm tra là am tính, cũng vẫn phải kiên trì điều trị tiếp 3 vòng kinh nữa, để bệnh khỏi hẳn.

--------->healthy books <---------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 15.09.2004 09:37:49
108. Viêm cổ tử cung là thế nào?

Viêm cổ tử cung là một trong những loại bệnh thường gặp của các loại bệnh phụ khoa của phụ nữ, được chia ra thành hai loại là viêm cấp và viêm mãn tính. Phần lớn những người bị viem cổ tử cung cấp đều là những người do bị rách, bị tổn thương cổ tử cung sau khi đẻ hoặc sau khi tổn thương tử cung sau khi sảy thai, khiến vi khuẩn xâm nhập vào mà gây ra, biểu hiện là cổ tử cung bị xung huyết từng chỗ, bị sưng mọng, lớp biểu mô bong ra; người bị nặng thì cổ tử cung có thể bị loét, bị hoại tử, chảy ra khá nhiều loại bạch đới có mủ, bụng dưới căng lên, nhưng do cảm giác ở cổ tử cung chậm nên khó phát triển, thường bệnh hay chuyển sang mạn tính. Viêm cổ tử cung mạn là căn bệnh do bệnh viêm cổ tử cung cấp chuyển sang, cũng có trường hợp do sử dụng các loại thuốc có tính kiềm, tính acid lâu dài hoặc do nội tiết khác thường, tiết ra trong âm đạo nhiều chất có tính bệnh lý làm mềm cổ tử cung, làm lớp biểu mô cổ tử cung bị ngâm trong các chất nhầy, rồi bị bong ra, khiến vi khuẩn có thể xâm nhập vào mà gây nên bệnh.

Trong số những phụ nữ đã sinh bình thường, cứ khoảng 8-9 người trong số 10 người bị viêm cổ tử cung có mức độ do viêm nhiễm khác nhau. Biểu hiện của viêm cổ tử cung mạn là cổ tử cung bị loét trợt, cổ tử cung sưng to, cổ tử cung có u thịt thừa và có bọng nước ở thân tuyến cổ tử cung. Trong đó, chứng loét trợt cổ tử cung là chứng bệnh hay bị nhất. Triệu chứng chính của bệnh viêm cổ tử cung mạn là bạch đới ra nhiều, trong bạch đới có chất nhầy màu trắng hoặc có mủ vàng nhạt. Khi có kèm theo u thịt thừa thì sẽ ra bạch đới lẫn máu hoặc ra máu sau khi giao hợp. Khi chứng viêm ăn dọc dây chằng đáy tử cung lan đến khoang chậu, có thể làm vùng thắt lưng xương cụt bị đau, khiến khoang chậu đau quặn và gây đau buốt khi giao hợp. Cũng có người còn bị đi giải liên tục và bị chứng niệu cấp.

109. Thế nào là bệnh loét trợt cổ tử cung?

Loét cổ tử cung là một loại bệnh của viêm cổ tử cung, là căn bệnh do bề mặt cổ tử cung bị viêm đã tiết ra khá nhiều mủ, dung dịch mủ này làm lớp biểu mô của cổ tử cung mềm nhũn ra, chết đi rồi bong ra từng mảng, bề mặt cổ tử cung sau đó lại mọc lên một lớp biểu mô mới, nhưng do lớp biểu mô mới này khá mỏng và trong suốt, làm nổi rõ mạch máu và các tổ chức ở trong, nhìn giống như một vật bị thối rữa, bóng đỏ, cho nên gọi là bệnh loét trợt cổ tử cung. Bệnh loét trợt cổ tử cung thường phân ra làm 3 mức, nếu diện tích bị loét nhỏ hơn 1/3 diện tích cổ tử cung, thì gọi là loét nhẹ; nếu diện tích bị loét chiếm 1/2 diện tích cổ tử cung thì gọi là loét vừa (tức loét trung bình); nếu diện tích bị loét vượt quá 1/2 diện tích cổ tử cung thì gọi là loét nặng.

110. Phòng chống bệnh viêm loét cổ tử cung như thế nào?

Để phòng chữa bệnh viêm loét cổ tử cung được tốt phải hết sức chú ý giữ vệ sinh nửa cơ thể dưới. Mỗi tối đều phải rửa sạch cửa mình, giữ sạch sẽ bộ phận hội âm, thường xuyên thay giặt quần lót. Chú ý giữ vệ sinh trong thời kỳ kinh nguyệt và khi sinh hoạt tình dục. Xin chớ tự phá thai, nạo thai. Khi sinh đẻ, cố gắng tránh không để rách cổ tử cung. Nếu phát hiện thấy cổ tử cung bị rách thật sự, phải nhanh chóng khâu lại ngay. Khi kiểm tra lại cơ thể sau khi đẻ, càng phải chú ý xem cổ tử cung đã bình phục hay chưa. Nếu phát hiện thấy cổ tử cung bị viêm, phải chữa ngay. Kịp thời chữa khỏi chứng viêm đường âm đạo cũng là một mắt xích quan trọng để phòng tránh chứng viêm cổ tử cung.

Nếu không kịp thời, tích cực chữa trị chứng viêm cổ tử cung, không những có thể bị chuyển sang viêm mạn tính mà lớp mủ đặc dính do cổ tử cung tiết ra còn ngăn không cho tinh trùng đi qua, khiến người mẹ không thụ thai được, vì thế phải rất tích cực chữa trị. Khi chữa bệnh, phải đặt loại thuốc kháng sinh đặc trị vào chính chỗ bị viêm và uống cả kháng sinh dùng cho toàn thân, đồng thời phải tạm ngứng sinh hoạt tình dục. Có rất nhiều phương pháp chữa bệnh viêm cổ tử cung mạn. Có thể bôi các loại thuốc như Nitrat bạc 25 - 50%, Permanganat ka-li loại 40% hoặc kết tinh acid crôm nguyên chất vào chỗ loét, kết quả điều trị khá tốt. Các phương pháp chữa trị khác như đốt điện, là điện, phẫu thuật lạnh, chiếu laser, cắt bỏ,v.v…đều có thể áp dụng được. Phương pháp đốt điện va là điện là phương pháp dùng dòng điện cực nóng đốt vào lớp biểu mô bị viêm, để giúp cho lớp da non mọc tốt hơn. Phương pháp phẫu thuật lạnh là phương pháp lợi dụng dung dịch ni-tơ đặc, chế tạo ra luồng nhiệt độ thấp từ 600 đến 1900, phun luồng nhiệt độ thấp đó vào chỗ bị loét, làm ngưng mạch máu ở chỗ bị viêm, khiến tổ chức bị viêm đông cứng lại, bị chết mà bong ra. Phương pháp chiếu tia laser là phương pháp dùng chùm tia laser phá hoại thân tuyết, lớp biểu mô của ổ bệnh. Đối với những người phải làm các phẫu thuật trên, chỉ cho phép tiến hành phẫu thuật sau khi họ đã sạch kinh được 3 ngày. Phương pháp phẫu thuật khoét chóp là phương pháp cắt bỏ lớp biểu mô bị viêm theo hình chóp. Hiệu quả của phương pháp này rất đảm bảo. Còn về việc áp dụng cách chữa trị nào cho thật thích hợp với từng người, đều phải do bác sĩ khám xét, tùy theo tình hình bệnh trạng cụ thể của mỗi cá nhân mà xác định lựa chọn cho phù hợp. Đối với bệnh loét trợt cổ tử cung, để phân biẹt và loại trừ bệnh ung thư cổ tử cung, trước tiên phải làm sinh thiết cổ tử cung.

---------> healthy books <--------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 20.09.2004 04:56:05
111. Thế nào là ung thư cổ tử cung? Ung thư cổ tử cung có những biểu hiện lâm sàng nào?

Ung thư cổ tử cung là khối u thường thấy ở phụ nữ, hay phát bệnh nhiều nhất ở độ tuổi 35 - 55 tuổi. Hiện vẫn chưa khẳng định được nguyên nhân gây nên ung thư cổ tử cung xuất phát từ đâu. Căn cứ vào một số tài liệu lâm sàng, có thể liên quan đến một số nhân tố khác sau:

1) Tảo hôn: Rất nhiều tài liệu thống kê đã chứng minh rằng, tuyệt đại đa số những người bị ung thư cổ tử cung đều là những phụ nữ đã lập gia đình, trong đó tỉ lệ phát bệnh ở những phụ nữ do tảo hôn, đẻ sớm, đẻ nhiều và đẻ quá dày lại khá cao. Điều này có thể có liên quan nhiều đến việc sinh hoạt tình dục quá nhiều cổ tử cung và những lần bị viêm nhiễm cổ tử cung ở những người đẻ sớm.

2) Rách cổ tử cung và loét trợt cổ tử cung: Việc cổ tử cung bị rách, bị nứt, nhất là những vết nặng, thường hay kèm theo viêm nhiễm, làm lớp biểu mô của cổ tử cung tăng sinh, thậm chí hình thành u thịt thừa mà chuyển thành ung thư.

3) Ảnh hưởng của việc đầu bao cao su bẩn: Đầu bao cao su bẩn cũng có tác động nhất định đối với việc phát bệnh ung thư: tỷ lệ phát bệnh ung thư ở những phụ nữ có chồng sử dụng bao cao su quá dài, đầu bao cao su bẩn là khá cao.

4) Do nhiễm virus: Người ta đã tìm thấy virus trong ung thư cổ tử cung của một số người, chứng tỏ khả năng gây bệnh ung thư cổ tử cung có liên quan tới virus.

5) Các nguyên nhân khác: Thần kinh căng thẳng, u uất làm ảnh hưởng tới một số quá trình trao đổi chất nào đó mà biến thành ung thư. Việc không chú ý giữ gìn vệ sinh khi sinh hoạt tình dục, chẳng hạn như giao hợp khi đang hành kinh, sinh hoạt tình dục quá sớm sau khi đẻ, đều là những nhân tố có liên quan nhất định gây nên bệnh ung thư.

Những người mắc bệnh ung thư cổ tử cung phần lớn đều không cảm thấy có triệu chứng gì trong giai đoạn đầu. Khi kiểm tra sức khỏe chung cho mọi người, quá nửa số người này mới được phát hiện. Thường hay thấy bạch đới ra nhiều, nhất là sau khi đã hết kinh. Vì vậy nếu thấy bạch đới ra nhiều lên, phải hết sức cảnh giác, định kỳ khám và làm xét nghiệm sinh thiết cổ tử cung. Trong giai đoạn đầu mới bị bệnh, bạch đới (tức khí hư) trông giống như bạch đới bình thường, không có gì khác biệt. Nhưng cùng với sự phát triển của bệnh, bạch đới ra càng ngày càng nhiều, trông giống như nước vo gạo, có lúc còn lẫn ít máu. Nếu các tổ chức ung thư bị hoại tử thì bạch đới có mùi thối khẳn.

Song song với việc bạch đới ra càng ngày càng nhiều, triệu chứng đầu tiên của bệnh này là âm đạo ra máu, lúc đầu thường ra máu khi có sự tiếp xúc với âm đạo (ví dụ: vợ chồng sinh hoạt tình dục với nhau, táo bón phải rặn, khám phụ khoa…) lượng máu ra khá ít, thời gian cách quãng khá lâu. Khi bệnh tiến triển hơn, máu lại ra tiếp, số lần ra máu tăng lên, có trường hợp vì thế mà thành thiếu máu mạn tính. Đến giai đoạn cuối, máu ra nhiều hơn, có lúc còn làm cho bị hôn mê và bị sốc choáng.

Ở những bệnh nhân bị ung thư ở giai đoạn cuối, do khối u to lên ăn vào đến thành xương chậu và gần vào dây thần kinh, thường bị cơn đau liên tục ở vùng xương ống và xương cùng. Nếu khối u đè vào mạch máu của khung chậu, máu về không lưu thông được, sẽ làm cho chi dưới bị phù và đau đớn. Nếu khối u đè vào ống dẫn nước tiểu, sẽ làm cho bể thận hoặc ống dẫn nước tiểu tích nước tiểu lại, ống dẫn nước tiểu bị co giật, có thể gây ra những cơn đau bụng bị co giật ghê gớm.

Do tế bào ung thư ăn lan ra các nơi nên còn gây ra nhiều triệu chứng khác nhau như: đi tiểu tiện liên tục, niệu cấp, đau quặn trực tràng… Do bị đau đớn và ra máu lâu dài, những bệnh nhân ung thư ở giai đoạn cuối thường gày tọp, đuối sức, ăn uống sút kém, đó chính là “cái chất của bệnh ác tính”.

---------> healthy books <---------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 20.09.2004 04:57:37
112. Phòng chữa bệnh ung thư cổ tử cung như thế nào?

Việc không lập gia đình sớm, khi sinh đẻ có kế hoạch, tránh để rách cổ tử cung và bị loét trợt, chú ý giữ vệ sinh tình dục… đều là những biện pháp có ý nghĩa tích cực đối với việc phòng tránh bệnh ung thư cổ tử cung. Không những thời gian ủ bệnh của căn bệnh này khá dài mà quá trình tiến triển của bệnh sau khi đã hình thành tế bào ung thư cũng diễn ra chậm chạp. Nếu sớm phát hiện, kịp thời đều có thể chữa khỏi. Cho nên những phụ nữ từ 30 tuổi trở lên, phải thường xuyên kiểm tra theo định kỳ và quan trọng nhất là phải xét nghiệm sinh thiết tế bào cổ tử cung.

Các phương pháp chữa bệnh ung thư cổ tử cung gồm: điều trị bằng tia phóng xạ, phẫu thuật cắt bỏ, điều trị bằng chất hóa học và bằng thuốc Đông y… Việc chữa bệnh bằng thuốc gì, cách gì, phải do bác sĩ sau khi khám xét, chẩn đoán rồi mới xác định. Nếu cổ tử cung và âm đạo của bệnh nhân chưa bị nặng bị teo tóp, bị hẹp, sự tiến triển của khối u tử cung vẫn giới hạn khoang chậu thì có thể điều trị bằng phóng xạ. Khi ung thư mới ở giai đoạn đầu, ung thư chưa bị di căn và ung thư cổ tử cung độ I thì có thể làm phẫu thuật bóc tách. Việc điều trị bằng chất hóa học, có thể áp dụng cho ung thư cổ tử cung giai đoạn cuối hoặc kết hợp phẫu thuật và chiếu tia phóng xạ nhưng cách chữa này hiện vẫn còn đang thăm dò. Việc chữa ung thư bằng thuốc Đông y, đang có hiệu quả nhất định đối với điều trị ung thư ở giai đoạn cuối và điều trị các phản ứng xuất hiện sau khi đã phẫu thuật đã chiếu tia phóng xạ, đã điều trị hóa chất đối với các tế bào ung thư.

113. U xơ tử cung là căn bệnh gì?

U xơ tử cung là căn bệnh ung thư lành tính thường có trong bộ máy sinh dục nữ. Căn bệnh này ít thấy ở các cô gái đang tuổi dậy thì, phần lớn thường phát bệnh trong độ tuổi từ 30 - 50 tuổi. Đến nay người ta vẫn chưa rõ nguyên nhân gây bệnh, cũng có thể liên quan tới việc chất nội tiết tố oestrogen có quá nhiều và kích thích lâu dài trong cơ thể. Do vị trí u xơ tử cung nằm ở nhiều chỗ khác nhau nên có thể chia thành u dưới màng nhầy, u giữa thành cơ, u dưới màng dịch. Biểu hiện lâm sàng của u xơ tử cung thể hiện ở mấy phương diện sau:

1) Chảy máu tử cung: Chảy máu tử cung là triệu chứng hay gặp nhất của u xơ tử cung, biểu hiện là hành kinh ra quá nhiều, kỳ kinh kéo dài chu kỳ rối loạn, thường hay thấy nhất ở u xơ dưới màng nhầy và u xơ giữa thành cơ.

2) Nổi u cục ở bụng: U xơ dưới màng dịch thường không có triệu chứng gì rõ rệt. Khi u xơ lớn nhanh, có thể sờ thấy u cục ở bụng dưới nhất là vào lúc sáng sớm hay sẩm tối. Khi vị trí tử cung được đẩy lên, càng thấy rõ khối u.

3) Bạch đới ra nhiều: Do thân tuyến niêm mạc tử cung tiết ra nhiều chất nội tiết, khiến bạch đới tăng lên hoặc khi u xơ dưới màng nhầy bong ra khỏi của tử cung hoặc cửa âm đạo, do bề mặt bị loét, bị hoại tử, đã tiết ra một lượng lớn bạch đới có máu hoặc có mủ.

4) Có triệu chứng đè vào các tổ chức: Khi u xơ tử cung to lên, đè vào bàng quang có thể làm cho đi tiểu liên tục, bí đái, thậm chí sỏi thận. Nếu khối u đè vào trực tràng, có thể gây táo bón; nếu đè vào ống dẫn nước tiểu có thể làm cho bể thận, ống dẫn nước tiểu tích nước lại; đè vào dây thần kinh và tĩnh mạch trong và tĩnh mạch ngoài của xương cánh chậu, khiến máu về tĩnh mạch không thông, gây phù chi dưới.

5) Không có con được: Do u xơ ngăn cản trứng thụ tinh làm tổ trong dạ con hoặc làm ảnh hưởng đến tinh trùng, đến sự di chuyển của trứng đã thụ tinh, khiến 25 - 35% số người mắc bệnh không thụ thai được.

6) Các triệu chứng về hệ thống tuần hoàn: Do kinh nguyệt ra nhiều trong thời gian dài, thường dẫn đến bệnh thiếu máu, gây choáng, tim hồi hộp, đuối sức…

----------> healthy books <--------

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 09.11.2004 06:26:00
114. Nên làm thế nào khi phát hiện thấy u xơ tử cung?

U xơ tử cung là một loại u lành tính, chỉ bị biến chứng sang ác tính khoảng 1 -5%. Có người sau khi tắt kinh, u xơ thường teo đi, do đó không nên quá lo lắng căng thẳng khi thấy mình bị u xơ. Sau khi qua khám xét hội chuẩn, khối u, triệu chứng lâm sàng để xét xem liệu có cần duy trì chức năng sinh đẻ nữa hay không và căn cứ vào tình hình u xơ phát triển cùng các triệu chứng kèm theo để xác định biện pháp điều trị. Những người bị u xơ nếu gần đến độ tắt kinh hoặc các triệu chứng đã giảm đi sau khi tắt kinh hoặc nếu tuổi còn trẻ đã bị u xơ mà không thấy có bệnh trạng gì hoặc u xơ còn nhỏ không to hơn bào thai 3 tháng, không có gì đặc biệt hoặc tuy lượng máu kinh ra nhiều nhưng không ảnh hưởng đến sức khỏe, hơn nữa lại mắc bệnh có tính toàn thân, không phù hợp với phẫu thuật thì có thể điều trị bằng thuốc hoặc chiếu tia phóng xạ. Có thể uống Methyl testosteron. Có thể sử dụng các loại thuốc co tử cung và thuốc cầm máu như thuốc thúc đẻ nhanh và an lạc huyết, viêm cầm máu nhạy…

Dùng thuốc Đông y viên như quế chi, phục linh hoặc viên hoạt huyết hóa ứ hoặc viên làm tan u cục (âm Hán Việt là: nhuyễn kiện tán kết dược), cũng có tác dụng hoặc chữa trị nhất định. Đối với những bệnh nhân tuổi đã quá cao, sức khỏe không tốt hoặc bị kèm thêm các bệnh tim, thận không thể phẫu thuật được thì có thể xem xét điều trị bằng tia phóng xạ như chiếu phóng xạ ỏ bên ngoài cơ thể hoặc chiếu tia ra-di-um vào trong tử cung. Nếu kinh nguyệt ra quá nhiều, âm đạo ra máu thất thường, đã qua điều trị bằng thuốc mà không có hiệu quả, khối u sưng to kèm theo các triệu chứng đau đớn và bị chèn ép, u lớn hơn thai 3 tháng, lớn với tốc độ nhanh hoặc nghi ngờ có thể bị biến chứng thành u ác tính thì phải xem xét cẩn thận khi quyết định cắt bỏ tử cung. Có một số bệnh nhân trẻ, chỉ bị một u, lại muốn vẫn đảm bảo được khả năng sinh đẻ thì có thể làm phẫu thuật nạo bỏ khối u.

115. Thế nào là chứng mọc niêm mạc tử cung hay không đúng chỗ? Thường có những triệu chứng gì?

Các tổ chức dạng niêm mạc tử cung mọc ở trong các bộ phận và các tổ chức nằm ngoài khoang tử cung, các tổ chức dạng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ này cũng giống như niêm mạc tử cung bình thường, đều chịu sự kích thích của các nội tiết tố tiết ra từ buồng trứng, cũng tăng sinh tiết ra các chất chảy máu theo chu kỳ, từ đó gây nên hàng loạt về bệnh lý và triệu chứng lâm sàng được gọi là chứng mọc viêm niêm mạc tủ cung không đúng chỗ. Triệu chứng thường thấy của căn bệnh mọc niêm mạc tử cung không đúng chỗ gồm:

1) Đau bụng dưới theo chu kỳ: Chứng này có quan hệ mật thiết tới kinh nguyệt. Ban đầu, bụng luôn luôn chướng đầy và đau khi đến kỳ kinh và thường đau kéo dài đến khi sạch kinh. Sau đó, lượng máu tiết ra ở chỗ mọc niêm mạc không đúng chỗ ngày càng nhiều lên, khiến bụng đau dữ dội hơn. Báo chí nước ngoài cho biết: tỷ lệ thống kinh do niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ gây ra chiếm khoảng 50%. Nếu các tổ chức dạng niêm mạc này mọc ở vùng dây chằng xương hông, xương cùng nó còn làm đau mỏi thắt lưng, xương hông rồi truyễn xuống hậu môn và làm người ta bị đau khi giao hợp.

2) Kinh nguyệt ra nhiều: Nếu các tổ chức dạng niêm mạc này mọc ăn sâu vào trong cổ tử cung, nó có thể làm cho tử cung to ra, gây ảnh hưởng lớn đến chức năng co bóp của tử cung khiến máu ra nhiều hơn, cũng có thể do các tổ chức dạng niêm mạc này mọc ở buồng trứng tạo thành các bọc nang, phá hoại kết cấu tổ chức của buồng trứng, làm ảnh hưởng đến chức năng của buồng trứng, khiến máu ra nhiều hơn cũng có trường hợp do máu ứ xung huyết trong khoang chậu, khiến kinh nguyệt ra quá nhiều máu.

3) Không thụ thai được: tỷ lệ không thụ thai được do chứng niêm mạctử cung mọc không đúng chỗ gây ra cũng rất cao. Có tài liệu của nước ngoài cho biết, có khoảng nửa số bệnh nhân mắc chứng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ, đồng thời cũng là những người không có con. Điều này là do khi các tổ chức dạng niêm mạc tử cung này mọc ở khoang chậu chảy máu theo chu kỳ, tạo thành chỗ sưng chảy máu bên trong, sau đó thì xơ hóa, dính liền với các tổ chức xung quanh, làm ống dẫn trứng bị bít chặt không thông được hoặc do buồng trứng bị lấn mất chức năng mà không điều hóa được, đều dẫn đến tình trạng không thụ thai được

116. Chữa bệnh niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ như thế nào?

Có hai cách chữa bệnh niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ là uống thuốc và phẫu thuật.

1) Về việc điều trị bằng thuốc

Do các tổ chức dạng niêm mạc mọc lung tung cũng cùng chịu sự chi phối, tác động của các nội tiết tố oestrogen và progesteron, tạo ra sự tăng sinh, tiết dịch, bong ra theo chu kỳ, nhưng lại không thể thải ra ngoài được, nên dẫn đến một loạt thay đổi bệnh lý và triệu chứng lâm sàng. Vì vậy, dùng nội tiết tố giống đực và nội tiết tố progesteron đối kháng với nội tiết tố oestrogen đã trở thành phương thuốc chính chữa chứng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ hiện nay. Những loại thuốc này phải do bác sĩ chỉ đạo sử dụng. Đông y có phương thuốc hoạt huyết khứ ứ khá hiệu nghiệm. Những phụ nữ bị mắc chứng niêm mạc tử cung mọc không đúng chỗ nếu có thể thụ thai được một lần thì triệu chứng này có thể biến mất trong thời gian có thai và sau khi đẻ nhưng đây chẳng qua là sự trì hoãn tạm thời. Thường vẫn có thể tái phát lại bệnh cũ sau một thời gian tương đối dài.

2) Về việc chữa trị bằng phẫu thuật

Nếu chữa bằng thuốc không có hiệu quả, triệu chứng bệnh lý nặng hơn, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt, công tác và học tập hoặc có chỗ bị biến chứng hoặc buồng trứng bị sưng mọng v.v… thì nên nghiên cứu xem xét dùng phẫu thuật cắt bỏ. Nếu có trường hợp do bệnh biến chứng trong một thời gian dài, bệnh tình lại phát triển nặng hơn, khiến các tổ chức trong khoang chậu dính chặt lại với nhau, không thể dùng phẫu thuật cắt bỏ hoặc do thể chất suy yếu hoặc còn mắc thêm các bệnh khác mà không thể phẫu thuật được, vẫn có thể chiếu tia X quang hoặc chiếu tia cô-ban vào buồng trứng, phá hủy chức năng buồng trứng, làm cho tuyệt kinh, hạn chế được căn bệnh.

117. Tử cung bị di lệch ra đằng sau hoặc ngả quá về phía trước thường có những biểu hiện gì? Chữa như thế nào?

Tử cung nằm ở giữa khoang chậu. Khi đứng thẳng tử cung chếch lên về phía trước, âm đạo chếch xuống phía dưới, cả hai tạo thành một góc vuông còn thân tử cung hợp với cổ tử cung tạo thành một góc tù 170 độ. Vị trí của tử cung là do cơ của đáy chậu, màng gân và dây chằng mang giữ, nhưng hay bị thay đổi do tử thế, cơ thể thay đổi và do sự biến đổi của các khí quan xung quanh. Trường hợp tử cung bị lệch khỏi vị trí hay gặp nhất là tử cung bị lệch về phía sau, trong đó lại chia ra thành tử cung bị ngả ra sau và tử cung bị gập ra sau. Nếu quan hệ giữa thân tử cung và cổ tử cung không có gì thay đổi, toàn bộ tử cung bị lệch ra xa nhau, khiến thân tử cung tạo thành một góc tù lớn hơn 90 độ với âm đạo thì là tử cung bị ngả ra phía sau. Nếu góc giữa thân tử cung và cổ tử cung bị lật ra phía sau thì là tử cung bị gập ra sau. Khi tử cung bị gập ra sau, thường có thể do khoang chậu xung huyết khiến các chất nội tiết từ thân tuyến cổ tử cung được tiết ra nhiều hơn, lượng bạch đới (tức khí hư) ra nhiều, lượng máu kinh nguyệt cũng tăng lên, nếu lượng máu này không thoát được ra ngoài một cách dễ dàng thì có thể gây nên thống kinh. Nếu tử cung bị di lệch ra sau làm cho buồng trứng sa xuống đến lỗ trực tràng tử cung thì có thể gây đau lưng hoặc đau quặn hậu môn, nếu nặng thì buồng trứng bị chạm mỗi khi sinh hoạt tình dục. Còn một trường hợp nữa là tử cung quá gập về phía trước. Điều đó có nghĩa là: thân tử cung và cổ tử cung nối với nhau thành một góc nhỏ hơn 90 độ, trường hợp này có nghĩa là tử cung quá sa về phía trước. Việc tử cung quá sa về phía trước, phần lớn là do sự biến chứng của các bệnh bẩm sinh gây nên. Do cửa cổ tử cung chọc vào thành âm đạo nên thường gây ra thống kinh, thậm chí còn dẫn đến không có con.

Khi tử cung bị lệch ra khỏi vị trí, nếu không có triệu chứng gì, thì không cần xử lý. Nếu có triệu chứng bệnh tật thì có thể chữa trị theo mấy phương pháp sau:

1) Chữa tử cung bị lệch về phía sau: Trước tiên áp dụng biện pháp nằm úp sấp, rèn luyện mỗi ngày, tức là hàng ngày sau khi đã đi đại tiện, tiểu tiện xong thì nằm úp sấp xuống giường, hai tay ôm lấy đầu, áp sát ngực xuống giường, mông nhổm lên, tạo thành một góc vuông với đùi và chân, nằm ở tư thế như vậy khoảng 15-20 phút. Qua cách tập này, nếu tử cung bị lệch nhẹ về phía sau thì có thể dễ dàng trở lại đúng vị trí. Nếu lệch quá nhiều nên đến bệnh viện dùng thủ pháp kéo tử cung trở lại đúng vị trí, sau đó lại tập theo kiểu này, kiên trì tập luyện sẽ có hiệu quả. Nếu tử cung bị lệch quá nặng, đã nhiều lần dùng thủ pháp mà vẫn không trở lại đúng vị trí, ngày càng thể hiện rõ triệu chứng bệnh tật, hơn nữa lại không tìm ra được các nguyên nhân khác có thể gây ra những triệu chứng này thì phải nghiên cứu xem xét dùng phẫu thuật đưa tử cung về đúng vị trí.

2) Chữa chứng tử cung quá sa về phía trước: Khi tử cung quá sa về phía trước, trước tiên nên đến bệnh viện phẫu thuật mở rộng cổ tử cung, khi máu kinh nguyệt lưu thông thì khỏi bệnh thống kinh. Hơn nữa, do thay đổi được góc độ giữa thân tử cung với cổ tử cung nên dễ có thai. Nếu có thai, vị trí không bình thường này của tử cung có thể chữa khỏi.

 

Asin
  • Số bài : 1534
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.06.2003
RE: 400 câu hỏi nữ giới cần biết - 09.11.2004 06:27:11
118. Vì sao bị sa tử cung (tức sa dạ con)?

Tử cung được dây chằng và các tổ chức cơ của đáy chậu nâng đỡ, nằm giữa chậu hông, giữ cho thân tử cung kéo lên về phía trước, cổ tử cung chúc xuống dưới về phía trước theo đúng vị trí bình thường. Nếu khi sinh con, sau khi đường sản đạo mềm đi, bị tổn thương, hội âm (tức cơ tầng sinh môn) bị rách không được phục hồi chu đáo và không liền sẹo tốt, việc sinh đẻ lại quá nhiều, quá dày, khiến các tổ chức đáy chậu vẫn mang giữ dạ con bị dão hoặc bị rách. Sản phụ lại lao động nặng như gánh nước, ngồi xổm làm việc trong những ngày chưa đầy tháng hoặc trong mấy ngày đầy tháng và sau khi đẻ laị không hoạt động thích hợp hoặc nằm ngửa quá lâu khiến tử cung bị lệch ra đằng sau, hoặc cơ thể phụ nữ sau khi tắt kinh hoặc trong thời gian cho con bú bị suy yếu, các tổ chức đáy chậu bị dão nên việc màng giữ tử cung và âm đạo kém đi. Do dạ con bị lệch về phía sau, áp lực trong bụng ngày càng gia tăng trong một thời gian dài như bị ho mạn tính, bị táo bón đã thành thói quen và thường xuyên làm việc trong tư thế ngồi xổm, lúc bình thường do cơ thể không chịu tập thẻ dục, cơ thịt lỏng nhão v.v… đều dễ dàng làm sa dạ con.

Bệnh sa dạ con được chia thành 3 mức độ: Sa dạ con độ I là chỉ dạ con bị sa xuống cách âm đạo khoảng 4 cm, còn các triệu chứng khác thì không có biểu hiện rõ rệt. Sa dạ con độ II là chỉ cổ tử cung đã hoàn toàn lộ ra ngoài âm đạo, gây cảm giác đau quặn ở nửa dưới cơ thể, lưng mỏi bụng căng, bạch đới ra nhiều. Sa dạ con độ III là chỉ cổ tử cung và thân tử cung đã ra hẳn bên ngoài, do cổ tử cung rơi ra ngoài lâu dài nên thường xuyên bị cọ xát, rất dễ bị tổn thương viêm loét, bị chảy máu hoặc ra bạch đới có mủ và cảm thấy đi lại khó khăn, kinh nguyệt rối loạn, máu hành kinh ra quá nhiều hoặc âm đạo chảy máu bất thường, đồng thời bị các chứng nặng hơn như đi tiểu tiện liên tục, tiểu tiện không tự chủ được, tiểu tiện khó khăn.

119. Phòng chữa bệnh sa dạ con như thế nào?

Cần chú ý mấy điểm sau trong việc phòng chống bệnh sa dạ con. Đó là:

1. Trước tiên phải kết hôn đúng độ tuổi, sinh hoạt tình dục muộn.

2. Trong thời gian hành kinh, mang thai, phải tránh để mệt mỏi quá độ, không nên làm việc nặng và những công việc phải thường xuyên ngồi xổm, khom lưng.

3. Không được kéo dài thời gian cho con bú, thường chỉ cho trẻ bú từ 10-12 tháng là thích hợp nhất.

4. Sau khi đẻ, phải chú ý bồi bổ sức khỏe và giữ gìn vệ sinh cá nhân, ăn nhiều chất giàu dinh dưỡng như thịt, trứng, ăn nhiều hoa quả và rau tươi.

5. Hai, ba ngày sau khi đẻ nên đứng dậy đi lại, hoạt động thích hợp, tuyệt đối không được nằm lỳ trên giường, phải tập thể dục của người đẻ nhằm luyện cho các cơ đáy chậu hông có khả năng mang giữ chắc hơn, tuy vậy không nên làm lao động nặng trong 3 tháng đầu sau khi đẻ.

6. Luyện thành thói quen đi đại tiện vào một giờ nhất định, tích cực chữa khỏi các bệnh hay làm cho áp lực tong bụng gia tăng, chẳng hạn như: chẳng hạn như viêm phế quản mạn, táo bón đã thành thói quen…

Tích cực phòng chống, ta có thể tránh được bệnh sa dạ con. Nếu bị sa thì nên đến bệnh viện khám bệnh, để bác sĩ chữa trị. Các biện pháp chữa trị bệnh sa dạ con thường dùng gồm:

a) Rèn luyện thể dục: Tập nằm sấp chổng mông lên hoặc vận động hậu môn, là có thể tập được cơ hậu môn, có tác dụng đối với việc chữa bệnh sa dạ con ở mức độ nhẹ.

b) Dùng phương pháp Đông y: Có thể uống viên ích khí hoàn của Đông y theo liều lượng mỗi ngày uống từ 2-3 lần, mỗi lần 1 viên, nếu bị viêm loét, có thể uống thuốc viên hoặc thuốc nước long đờm tả can hoàn.

c) Châm cứu: Chủ yếu châm vào các huyệt nối với nhau thai, sẽ giúp bệnh chuyển mạnh ( người bệnh có cảm giác dạ con co lên), kết hợp với châm các huyệt Huyền chung, Tam âm giao, Túc tam lý…mỗi ngày châm một lần.

d) Nâng tử cung (tức dạ con) lên: Dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của bác sĩ chọn lấy một dụng cụ nâng tử cung lên, buổi sáng sớm nhét vào, buổi tối lấy ra, kiểm tra định kỳ vào tháng thứ nhất, tháng thứ 3, tháng thứ 6, nếu thấy mức độ sa dạ con giảm đi thì đổi lấy dụng cụ nhỏ hơn.

e) Phẫu thuật: Đối với những người có dạ con bị sa ở độ II, độ III hoặc dùng các biện pháp phi phẫu thuật không có hiệu quả, tự cảm thấy bệnh không đỡ, lại không muốn sinh đẻ nữa thì có thể cắt bỏ.

123. Phòng chữa bệnh viêm khoang chậu như thế nào?

Nguyên nhân gây ra bệnh viêm khoang chậu phần lớn là do bị nhiễm vi khuẩn mà có. Hơn nữa, do lúc bình thường không chú ý giữ gìn vệ sinh âm đạo sạch sẽ, khiến vi khuẩn ở cửa âm đạo xâm nhập vào sâu bên trong; hoặc do không khử trùng tốt dụng cụ phẫu thuật khoa sản, sau khi mổ đẻ lại không được chăm sóc đầy đủ, vi khuẩn trực tiếp xâm nhập vào trong bộ máy sinh dục; hoặc do sức đề kháng của cơ thể kém đi sau khi hành kinh, sau khi sảy thai hoặc sau khi đẻ, tạo điều kiện cho vi khuẩn bắt đầu hoạt động đều là những nguyên nhân chủ chốt gây nên căn bệnh viêm khoang chậu.

Vì thế, lúc bình thường cần chú ý giữ gìn vệ sinh sạch sẽ âm hộ. Khi rửa hậu môn nên dùng ngón tay cọ từ đằng trước ra đằng sau. Nếu bị bệnh trĩ, sau khi đi đại tiện xong, tốt nhất nên xối nước rửa âm hộ và hậu môn, đó là các đề phòng tốt nhất chống vi khuẩn nhiễm vào trong.

Phải thường xuyên thay băng vệ sinh khi hành kinh, nếu lót bằng xô màn thì phải giặt sạch sẽ phơi khô chỗ có nắng gió, phải chú ý giữ vệ sinh khi hành kinh, nhất là tránh sinh hoạt tình dục khi đang hành kinh. Nếu kinh nguyệt ra trước ngày hoặc kinh nguyệt ra thất thường không biết hành kinh vào ngày nào mà lại muốn sinh hoạt tình dục thì phải uống thuốc kháng sinh liền trong 2-3 ngày liền, để chống viêm nhiễm.

Cần chú ý giữ gìn sau khi đẻ và sau khi sảy thai, hàng ngày phải rửa sạch âm hộ, khi tắm không được tắm trong bồn, cấm sinh hoạt tình dục trong một tháng. Ngoài ra, làm tốt công tác tránh thai, giảm tỷ lệ nạo hút thai nhân tạo và các dịch gây tổn thương trong khoang chậu, là hết sức quan trọng chống vi khuẩn xâm nhập vào, chống viêm khoang chậu.

Khi chữa trị bệnh viêm khoang chậu, cần phải chú ý nằm nghỉ trên giường, nằm ở tư thế nửa nằm nửa ngồi khi bị cấp tính để giúp cho khí hư trong âm đạo chảy ra ngoài. Phải bồi bổ thêm chất dinh dưỡng và uống nhiều nước, giữ cân bằng chất điện giải, để cho chứng viêm không bị lan rộng. Đối với những bệnh nhân bị sốt cao còn phải dùng khăn mặt thấm nước hoặc túi nước đá đặt chườm vào những chỗ có động mạch đang căng máu như đầu, nách, háng… để hạ thấp nhiệt độ.

Về thuốc thì có thể dùng các loại thuốc kháng sinh như Penicilin streptomycin… hoặc sắc thuốc Đông y uống gồm ngân hoa, liên kiều, địa đinh, cỏ bại tương, đan bì, xích thược, đương quy, xuyên khung… Cứ dùng thuốc điều trị cho đến khi bệnh khỏi hẳn được 2 tuần thì mới ngừng thuốc, để tránh bị chuyển sang viêm mạn tính.

Đối với chứng viêm mạn tính, khi kỳ kinh bắt đầu thì dùng liên tục từ 3-5 ngày các loại thuốc kháng sinh chống viêm nhiễm như viên chống viêm, viên hoàng liên (cũng có thể dùng thêm thuốc Đông y dưới sự chỉ dẫn của bác sĩ gồm các vị thuốc như: kim ngân hoa, bồ công anh, hạ khô thảo, xích thược, hạt cải, bồ hoàng sống, ngũ linh chi, hương phụ, tam lăng, nga truật… thì hiệu quả hay hơn.

Nếu có điều kiện, có thể mời bác sĩ chạy lý liệu hoặc dùng liệu pháp thẩm thấu thuốc, ở nhà thì dùng túi cát vàng, muối to sao nóng chườm vào bụng dưới cũng đỡ được một phần. Nếu chữa tổng hợp các cách mà vẫn không khỏi thì có thể điều trị bằng phẫu thuật).

 

Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 79 bài trong đề mục