Kỳ án ánh trăng (to be cont...)
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 34 bài trong đề mục
PhongAnh 22.10.2006 13:49:46 (permalink)
Chương 13

Trôi dạt


Diệp Hinh hiểu rằng mỗi bước tiến gần ký túc xá, thì số phận trớ trêu cũng áp sát cô gần thêm một bước.
Cô bỗng vụt chạy như bay.
Trước đó cô đã dự tính sẵn hướng đi. Chỉ sau vài giây cô đã chui vào khu nhà ăn số 3 vẫn còn chưa chính thức hoạt động. Hinh bất ngờ hành động khiến Chu Mẫn, Trần Hy trở tay không kịp nên đành chạy theo ngay. Nhưng Hinh đã biến mất trước tầm mắt họ.
Đi qua nhà ăn số 3, thì đến hai dãy ký túc xá cán bộ viên chức. Hinh chạy quanh hai dãy nhà này một vòng rồi chạy vào khu nhà ăn số 5.
Chỉ sau vài lần luồn lách, Hinh đã cắt được “cái đuôi” Chu Mẫn, Trần Hy. Cô đi chậm lại, dần dần thở đều rồi ung dung đi qua nhà ăn số 5, bước vào “khu phố tạp hóa”, cô thấy đã được an toàn hơn nhiều.
Đi trên quãng đường giữa hai dãy các cửa hiệu chưa được bao xa, Hinh bỗng nghe thấy những bước chân rầm rập chạy phía sau. Ngoảnh nhìn lại, Hinh nhận ra hai người trông quen quen – chính là hai nhân viên bảo vệ mà cô đã gặp sáng sớm hôm nay.
Hinh lại đành bỏ chạy thục mạng.
Chạy qua “phố tạp hóa” đến phía trước là nhà đun nước 5 giờ rưỡi sáng mới bắt đầu cung cấp nước sôi, cho nên lúc này không có sinh viên nào xách phích ra lấy nước, phía trước nhà vắng tanh. Hinh chạy qua hàng vòi nước thứ nhất rồi ngoái đầu lại, đúng là hai người bảo vệ ấy đã “tia” cô, họ chạy ào tới. Hinh vòng qua lò đun nước, chạy đến khu nhà tắm công cộng , hòa mình vào dòng người đông đúc đang ra đây để tắm. Hinh nhớ rằng trong ví tiền còn một tích kê tắm, cô bèn đưa cho người gác cổng.
Hai nhân viên bảo vệ chạy vụt ngang qua cổng.
Hinh thở phào bước ra khỏi nhà tắm. Bỗng tiếng loa phát thanh trên cao vọng tới: “Các bạn sinh viên chú ý, văn phòng học sinh và phòng bảo vệ phân viện lâm sàng cần sự giúp đỡ của các bạn: nữ sinh Diệp Hinh đã mất tích. Diệp Hinh mắc bệnh nặng cần được điều trị kịp thời, nếu các bạn các thầy cô nhìn thấy Diệp Hinh, xin hãy đưa bạn ấy về ngay văn phòng học sinh . Lúc ra đi bạn Hinh mặc áo phông dài tay màu xanh nước biển, quần bò trắng, người cao 1,63m cân nặng khoảng 50kg, để tóc dài…”. Tiếng phát thanh là một giọng nữ lanh lảnh, chính là trưởng trạm phát thanh: một nữ sinh sắp tốt nghiệp. Hinh ngao ngán quan sát xung quanh, các sinh viên đều nghiêm túc lắng nghe, có vài ánh mắt đang do dự nhìn cô.
Cô vội rảo bước, và không có ý thay đổi kế hoạch. Phía trước là khu nhà trồng hoa ươm cây của trường, nhà trồng hoa khóa cửa, cánh cổng tre của khu vườn ươm treo biển “không nhiệm vụ miễn vào”, và cũng khóa, nhưng khe cửa khá rộng, cô có thể dễ dàng lách vào. Phía cuối vườn ươm có một cửa nhỏ thông ra ngoài trường, ra khỏi đó là đường Y Uyển.
Hinh bước nhanh ra khỏi vườn ươm, nhân viên bảo vệ lại ở phía sau, còn có cả Chu Mẫn, Trần Hy nữa ! Con mắt của quần chúng thật tinh tường, cô hết chỗ ẩn náu.
Cô lại quay vào vườn ươm, chạy len lỏi qua những cây non. Khi từ Nghi Hưng trở về, cô và Tạ Tốn đã cùng đi qua con đường nhỏ kín đáo này.
Tôi đang một mình chạy như điên. Tạ Tốn, anh đang ở đâu thế?
Chu Mẫn ở phía sau gọi to: “Hinh ơi, đừng chạy nữa, hãy về với bọn mình. Không ai ép cậu đi viện cả!”
Đời nào Hinh lại tin !
Một giọng nam vang lên, chắc là của anh bảo vệ: “Diệp Hinh, bọn tôi đã vào đây cả rồi, cô không thoát được đâu”
Hinh ngoái lại nhìn, đúng là mấy người chỉ còn cách cô vài chục mét, dù mình chạy ra đường Y Uyển vắng tanh vắng ngắt thì cũng vô ích. Chạy nhiều quá, chân Hinh run run, lòng cô lắng xuống, hy vọng cũng mong manh yếu ớt như sức lực cô lúc này. Cánh cửa mở ra ngoài đường đang ở ngay trước mặt, giơ tay ra là xong. Nhưng Hinh đã không còn can đảm để mở nó. Ra để làm gì? Để tiếp tục chạy trên con đường bằng phẳng, hai anh bảo vệ phía sau lực lưỡng đang ở phía sau sẽ chẳng tốn mấy hơi sức đuổi kịp ngay. Tội gì phải chuốc lấy sự bẽ bàng như thế!?
Tiếng bước chân nghe đã rất rõ
Cô bỗng nhớ lại hồi còn bé, mỗi khi cô sắp nhụt chí đầu hàng, mẹ cô thường bảo: “Con là Diệp Hinh kia mà, con sẽ làm được!”. Hình như lúc này tiếng mẹ lại vang bên tai cô: “Con là Diệp Hinh kia mà, con vẫn còn có hy vọng!”.
Hy vọng, vĩnh viễn là điều tốt đẹp, mãi mãi để con người ta theo đuổi.
Hinh giật mạnh cánh cửa, chạy ra khỏi vườn ươm. Đúng như cô dự đoán: con đường Y Uyển vắng tanh vắng ngắt không một bóng người để cho cô ẩn nấp vào họ! Phía sau cánh cửa, hình như có thể nghe thấy tiếng thở gấp gáp của những người đang đuổi theo cô. Có lẽ cô không thể thoát khỏi cảnh bị cưỡng chế, lẽ nào kể từ nay cô phảo vào nằm viện tâm thần – nó vốn không thuộc về cô. Làm ăn kiểu ấy, có công bằng với cô không? Cô chạy hờ hờ mấy bước, cánh cửa phía sau đã bị mở toang. Lúc này cô nhớ đến mẹ và người cha mới qua đời, nhớ đến Âu Dương Sảnh và cả Tạ Tốn. Tạ Tốn thật là tệ, đúng lúc người ta vô vọng nhất thì anh lại ở đâu?
Một hồi còi “pin, pin” khiến cô giật mình. Mắt cô sáng lên: một chiếc tắc xi đỗ từ xa đang ra hiệu cho cô. Quanh đây không có nhà dân, không có cửa hàng mua sắm, thế mà lại có tắc xi trên con đường khuất nẻo này?!
Chiếc tắc xi lao nhanh, rồi phanh gấp bên cạnh Hinh, người lái xe hỏi: “Diệp Hinh có phải không?”. Hinh thấy không có lý do gì để mình không tin ở những điều đang xảy ra trước mắt, giọng cô run run: “Tôi đây”
“Lên xe đi”
Nhân viên bảo vệ đã chạy ra ngoài cửa, Hinh nhanh chóng mở cửa xe lên luôn. Đúng lúc mấy người kia chạy tới thì chiếc xe vụt lao đi, chỉ trong chớp mắt đã bỏ lại sau nó những người truy đuổi đang tức giận xen lẫn thất vọng và thở dài.
Hinh vẫn còn thở hổn hển, đã hỏi ngay anh lái xe “Anh đến quá đúng lúc, chẳng khác gì cứu mạng cho tôi, sao lại khéo thế này?”
Anh lái xe ngạc nhiên hỏi “Khéo à? Không đâu, có người gọi điện cho công ty chúng tôi, dặn là đến đây chờ đón một cô gái tên Diệp Hinh . Ở đây thật khó tìm, một con đường khuất nẻo lại không có biển số nhà gì hết, nên tôi đến hơi muộn một chút. Chẳng lẽ không phải là cô gọi xe à?”
Hinh rất ngạc nhiên, nhưng cô rất nhanh trí, cô sợ anh lái xe sẽ đỗ lại mất, bèn trả lời lấp liếm: “Đúng, đúng là tôi gọi”
Mình không gọi, vậy có thể là ai? Chỉ có Tạ Tốn mới biết con đường này, Hinh thực sự hy vọng đúng là Tạ Tốn. Nhưng tại sao anh ấy lại không xuất hiện?
Nhưng dù Tốn có xuất hiện và có ngồi ngay hàng ghế sau thì Hinh cũng sẽ quyết im hơi lặng tiếng, phớt lờ anh chàng. Và có lẽ Tốn sẽ nói: “Lúc nãy tôi không dám ló mặt ra vì sợ Hinh vẫn còn giận tôi, thấy tôi trên xe Hinh sẽ không chịu lên”. Sau đó anh áp sát mặt lại gần, ngắm nhìn Hinh và nói “Em gầy đi rồi”.
Nghĩ đến đây Hinh không chịu nổi nữa. Những nỗi sợ hãi, lo âu, nghi hoặc, xen lẫn nhớ nhung, hờn giận đang trào dâng trong cô. Cô muốn xông vào đánh Tốn một trận, rồi òa khóc, rồi mắng cho hả: “Mấy ngày hôm nay anh đã đi đâu? Sao không đến tìm em? Sao bụng dạ anh hẹp hòi thế?”. Sau đó lại dịu dàng nói: “Anh biết không, mấy hôm nay lúc nào em cũng nhớ đến anh!”
Nhưng Tạ Tốn không hề xuất hiện. Cô giữ nguyên thói quen trầm tĩnh của Diệp Hinh mọi ngày, lặng lẽ ngồi đó, chỉ hiềm nước mắt cô “thật quá yếu đuối” cứ rơi lã chã.
Anh lái xe thấy tiếng thút thít bèn liếc nhìn, thấy cô đang khóc, anh có phần lúng túng: “Sao thế? Đừng khóc nữa! Có phải bọn người vừa nãy uy hiếp gì cô không?”. Hinh gật đầu, rồi lại lắc đầu. Anh lái xe rất lấy làm lạ. Anh thấy nghi ngờ vị hành khách này, bèn nhắn vào máy bộ đàm: “Ban điều độ! Tôi số 2875, muốn hỏi người vừa nãy gọi xe là nam hay là nữ?”
“Hỏi để làm gì? Là nữ” . Ban điều độ ngán ngẩm trả lời qua ống nghe.
Là nữ? Vậy không phải Tạ Tốn gọi xe. Sao có thể như vậy? Ngoài anh ta ra, còn có ai biết mình sẽ chạy ra cửa sau của khu vườn ươm? Mà nếu đúng thế thì tại sao Tạ Tốn lại không đến? Có biết mình đang cần anh ấy như thế nào không?
“Cô định đi đâu?” Anh lái xe đã yên tâm, anh vốn chỉ định hỏi câu này. Hinh ngớ ra giây lát, nhưng rồi nói luôn: “Ra ga tàu hỏa”
Tạ Tốn, anh đang ở đâu? Hinh không dám nghĩ thêm nữa. Cô vừa định ngẫm nghĩ thêm nữa thì đầu lại thoang thoảng đau. Anh lái xe nhìn Hinh rồi nói: “Cô không mang hành lý, đi ra ga để làm gì?”
Hinh chợt hiểu ra, nghĩ bụng “hỏng rồi”, mua vé tàu hỏa thì phải xuất trình chứng minh thư, chắc nhà trường đã gọi điện cho nhà ga, họ đang chờ mình đến. Dù có mua được vé thì nhà trường cũng sẽ cử người vào tận sân ga. Chỉ có vài chuyến tàu để đi về nhà, mình tránh mặt sao được? Và, trong người cô chỉ có mấy mươi tệ, thì mua vé tàu sao được? Nghĩ đến cảnh nhà trường đã bố trí thiên la địa võng để tìm cô về, cô thấy ớn lạnh, bèn gọi to: “Anh ơi, phiền anh đỗ lại đã, tôi nghĩ lại rồi, tôi xuống đây thôi!”
Anh lái xe thầm nguyền rủa, đành miễn cưỡng ngừng xe bên đường. Hinh lóng ngóng chui ra khỏi xe, vét nốt số tiền trong túi trả cho anh ta: “Anh khỏi phải trả lại”. Rồi cô quay đi luôn. Anh lái xe chỉ còn biết lắc đầu, đếm lại tiền rồi chầm chậm cho xe chạy. Máy bộ đàm bỗng vang lên giọng nghiêm nghị của điều độ viên: “2875 chú ý, đại học Y số 2 Giang Kinh vừa gọi điện đến, trách rằng anh đã chở một nữ sinh viên trốn học đi mất, nếu cô ta còn đang ở trên xe, thì anh cứ tiếp tục lái không dừng lại, và đưa thẳng về cổng đại học Y số 2 Giang Kinh, sẽ có người đón nhận...” Anh lái xe kinh ngạc vội ngoái lại nhìn, nhưng cô gái kia đã biến mất không thấy bóng dáng đâu.
Hinh cũng đoán có lẽ nhân viên bảo vệ đã ghi lại được số xe tắc xi, rồi gọi điện cho công ty để cùng phối hợp. Nếu xuống chậm chút nữa thì chắc cô đã là con cua trong rọ rồi!
Đi đâu bây giờ? Hinh đưa ra một quyết định mà chính cô cũng không ngờ: về trường. Chỗ này không cách xa trường là mấy, nếu cứ nhởn nhơ kiểu này, khó mà nói chắc sẽ không bị chú ý. Nhà trường sẽ huy động lực lượng đi tìm cô, chưa biết chừng sẽ “thông báo tìm người” trên đài truyền hình nữa. Mặt khác, rõ ràng họ đã nhìn thấy mình trốn khỏi trường, thì sẽ không ngờ rằng mình có “gan cóc tía” để xuất chiêu “mã hồi”. Cho nên trong phạm vi trường sẽ lơ là cảnh giác. Đây là một chiến thuật đã quá nhàm: nơi nguy hiểm nhất lại chính là nơi an toàn nhất. Hinh thậm chí còn nghĩ rằng: họ vẫn quên chưa khóa cánh cổng vườn ươm.
Càng nghĩ càng thấy kế hoạch của mình rất có tính khả thi, nhưng về trường, rồi sao nữa?
Trạm phát thanh. Hàng ngày trạm phát thanh ngừng hoạt động lúc 6 giờ rưỡi, sau đó thường là không có ai ở đó. Căn phòng ấy rất chật rất bí, chỉ có chị trạm trưởng và Diệp Hinh là có chìa khóa cửa... Hôm nay chị ấy còn thông báo “truy nã” cô... thì chắc là không có ai ngờ rằng cô sẽ trốn vào đó.

Màn đêm buông xuống thật đúng lúc, một trận mưa nhỏ cũng đến rất kịp thời làm dịu bầu không khí mỗi lúc một thêm oi bức của mấy hôm nay. Mưa đã tạnh, mây cũng tan, mặt trăng ló ra, nhưng không khí trong trường vẫn nằng nặng hơi nước mát trong.
Đúng như Hinh dự đoán, cánh cửa nhỏ của vườn ươm quay ra đường Y Uyển vẫn chưa đóng. Cô bước trên nền đất ướt, xuyên qua khu vườn, vòng đến nhà ăn vẫn mở cửa buổi tối, rồi vào khu nhà điều hành giảng dạy. Trạm phát thanh của trường đặt ở khu văn phòng hành chính – một toà nhà nhỏ. Đó là một tòa nhà 3 tầng được xây dựng vào những năm 50, nằm sát hơi chếch với khu nhà hành chính cũ. Từ khi hầu hết các phòng ban hành chính đã chuyển đến khu nhà được quyên tặng mới xây thì nó cũng trở nên lạnh lẽo vắng tanh như khu nhà hành chính cũ. Nghe nói nay mai sẽ dùng nó làm nhà thực nghiệm động vật học. Tối đến, toà nhà hành chính nho nhỏ này rất hiếm người qua lại. Lúc này Diệp Hinh có thể nghe rõ tiếng bước chân mình. Nhưng cô vẫn thấy hồi hộp. Nếu Tạ Tốn có mặt ở đây thì tốt hơn nhiều, tiếc rằng anh ta chỉ có trong trí tưởng tượng của mình mà thôi.
Vẫn hay nói trạm phát thanh đóng trên tầng 3 của tòa nhà này, nhưng đúng ra là nó chỉ nằm tại một gian gác ở góc phía đông. Bắt đầu từ tầng hai, cầu thang ở phía đông của tòa nhà bắt đầu xoáy đi lên, càng lên càng hẹp, qua tầng 3, nó tiếp tục đi lên gần đến tận nóc thì thấy có một cửa nhỏ. Hinh lấy chìa khóa mở cửa, rồi bật đèn. Trạm phát thanh chật chội một cách thảm hại. Hinh và cả nhóm phát thanh thường tự chế nhạo rằng công tác của họ là “hành đạo trong vỏ ốc sên”. Cửa sổ kính duy nhất bị một tấm ván bọc vải nhung bịt lại để cách âm. Tất cả đã trở thành điều kiện tối ưu cho Diệp Hinh lánh nạn đêm nay. Cô có thể bật đèn mà bên ngoài không ai nhìn thấy. Trốn ở đây cũng còn một cái lợi nữa. Hinh nhích cánh cửa sổ bằng gỗ lên, hé ra một khe hẹp, từ đây có thể nhìn qua ô cửa kính thấy bóng một tòa nhà nhỏ ở xa xa, đó là khu nhà giải phẫu.
Lúc trưa gặp ông Phùng – ông già gù kỹ thuật viên – hỏi ông về “ánh trăng”, rõ ràng ông ta biết, định nói nhưng lại nín lặng. Sau đấy cô gạn hỏi thì ông ta có phần hơi nao núng. Hay là đêm nay mính sẽ nhân đà này lại tìm đến hỏi tiếp? Chưa biết chừng ông ấy sẽ cho biết vài điều bí mật cũng nên. Nhưng ông Phùng đã nhắc lại rằng cô không được đến tìm ông sau lúc nửa đêm, cô cũng chưa rõ ngày mai mình sẽ phải trôi dạt phương nào, chỉ e không thể đợi được nữa.
Khi vừa nhích tấm cửa gỗ lên thì tiếng mưa rơi rào rào vọng vào. Lại mưa rồi. Mỗi khi gặp trời mưa, Hinh chỉ toàn muốn ngồi nhà để tận hưởng cảm giác an toàn dễ chịu. Nếu là đang ở ký túc xá thì cô sẽ ngồi thu lu trên giường để đọc sách hoặc nghe nhạc. Nhưng lúc này ngồi trong trạm phát thanh chật chội, xung quanh là những thiết bị phát thanh vô cảm, rơi vào một “kỳ án” mơ hồ mà cô là người bị hại, số phận chưa biết sẽ ra sao... thì hoàn toàn trái ngược với cảm giác đầm ấm mà cô vẫn mong hướng tới. Cô bất giác khẽ thở dài. Nếu anh chàng tệ hại Tạ Tốn đang ngồi đây, thì mình sẽ cho anh ta được nghe “phát thanh”
Hinh bỗng thấy lòng nao nao. “Đúng là đã nhiều ngày qua mình đã không đến để phát thanh!”. Hinh đến trước bàn làm việc, cô bật cười: trên bàn là một bản thảo phát thanh có nội dung “tìm người” mà chị trưởng trạm phát thanh đã đọc chiều nay. Hinh bật máy chỉnh âm, sửa soạn đâu ra đấy, rồi bật bộ ê-qua-li-dơ, trước mặt là một màn hình nho nhỏ, mỗi lần bắt đầu phát thanh nó thường hiện lên các đường sóng nhấp nhô định vị bước sóng và tần số âm. Hinh đeo tai nghe, dò tìm thông tin “tìm người” về cô. Cô chợt nảy ra ý định tinh nghịch: sau khi xác định rõ âm thanh sẽ không bị truyền ra loa bên ngoài, cô bật nút ghi âm, mỉm cười và đọc: “Có một nữ sinh tên là Diệp Hinh đã mất tích...”
Mới chỉ đọc xong câu này, nụ cười trên khuôn mặt cô bỗng tắt ngấm, đôi mắt cô dần mở to, hơi thở mỗi lúc một gấp.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.11.2006 03:56:46 bởi PhongAnh >
#16
    PhongAnh 22.10.2006 13:56:00 (permalink)
    Chương 14
    Nguồn cơn của nỗi khiếp sợ



    Những tiếng rít chói tai phát ra từ hai ống nghe, nó dội vào màng nhĩ của cô một cách nhịp nhàng, tiết tấu của nó giống như tiếng bước chân, lại giống như tiếng tim đập, mỗi lần vang lên lại khiến Hinh rùng mình sởn gáy. Cô ngẩng đầu lên, toàn thân run run: trên màn hình âm tần của bộ ê-qua-li-dơ xuất hiện một cụm sóng âm đang chạy ngang rất nhịp nhàng. Chỉ âm thanh mới có thể hiển thị trên màn hình của bộ ê-qua-li-dơ, nhưng lúc này cô gần như nín thở, thì âm thanh ở đâu ra? Bốn bề im phăng phắc, tấm cửa gỗ đã chặn hết tiếng mưa rơi bên ngoài, thì sóng âm ở đâu ra?
    Hinh thận trọng cắm giắc vào bộ loa, các tiếng ồn kiểu tạp âm tĩnh điện lập tức truyền ra, có điều nó không như các tạp âm sóng âm thông thường mà là rất có nhịp điệu. Nhịp điệu này chậm hơn nhịp tim đập, nhanh hơn nhịp thở. Hinh bỗng bước đi bước lại trong căn phòng, mỗi bước hòa cùng một tiếng động. Âm thanh này rất giống như nhịp bước chân chậm chạp.
    Nhưng rõ ràng là tai cô không nghe thấy một tiếng bước chân nào.
    Cô bước trùng với nhịp âm thanh đi ra đến cửa, mạnh tay giật cửa ra. Nhưng bên ngoài không hề có tiếng động nào, cả toà nhà im ắng đến ngạt thở. Cô nhìn xuống phía cầu thang xoáy trôn ốc, dưới ánh đèn sáng mờ, không tháy có gì cả. Cô thoáng cảm thấy nhẹ nhõm. Nhưng trước mặt cô bỗng tối om, đèn ở hành lang phía dưới tắt ngấm. Hinh thấy toàn thân mình cứng đơ, ngoảnh đầu lại nhìn máy ê-qua-li-dơ thấy các đỉnh sóng âm trên màn hình mỗi lúc một cao hơn, cường độ âm thanh kỳ quái phát ra qua amply mỗi lúc một lớn, hình như đúng là tiếng bước chân mỗi lúc một gần.
    Sao mình vẫn còn đứng nghệt ra đây? Hinh thầm nguyền rủa mình. Cô vội đóng chặt cửa, gài chốt, áp lưng vào cửa, nhè nhẹ thở, như là để giữ khoảng cách với mối nguy hiểm.
    Sau khi đã đóng cửa, thì âm thanh kỳ quái phát ra qua bộ loa lắng xuống, nhưng rồi lại dần mạnh lên. Hinh nghĩ ngợi: “Lẽ nào thực sự có cái gì đó khác thường sắp xuất hiện? Hay là ma sắp hiện ra?… Ôi, Tạ Tốn anh đang ở đâu?”. Mà cho dù là có ma thật thì việc gì phải sợ chứ? Trong nhà này có đèn, có ánh sáng, chỉ cần có đèn thì… Vừa nghĩ đến đây thì đèn vụt tắt. Hinh kinh hãi trước những biến cố bất ngờ này. Trong bóng tối cô đứng ngây ra như tượng, rồi run lên bần bật không sao kìm nén nổi. Cô tưởng tượng Tạ Tốn đang nói bên tai cô: “Em đừng sợ”. Thiếu chút nữa thì Hinh òa khóc.
    Âm thanh kỳ quái vẫn chậm rãi vang lên, trên màn hình của máy ê-qua-li-dơ các làn sóng điện vẫn dập dờn nhấp nháy, đỉnh sóng âm mỗi lúc một cao hơn.
    Liệu có cách giải thích hợp lý nào chăng?
    Tủ điện nguồn dành cho trạm phát thanh đặt ở tường hành lang tầng 3, các thiết bị ở đây đang chạy bình thường, chỉ đèn điện là bị tắt. Hay là có ai đang quậy phá? Một cậu sinh viên nghịch ngợm nào đó đang chọc ngoáy vào nguồn điện, sự bất thường của dòng điện và từ trường cũng có thể khiến máy ê-qua-li-dơ nhận phải tín hiệu…
    Âm thanh quái lạ vẫn mỗi lúc một mạnh lên. Hinh lần đến nơi, nhổ giắc nối ra, nhưng âm thanh vẫn cứ phát ra như cũ.
    Sao những điều này có vẻ quen quen? Hinh chợt nhớ đến cuốn nhật ký đã ghi chép về “Nguyệt quang xã”, anh sinh viên họ Tiêu lần đầu tiếp xúc với đám ma quỷ “Nguyệt quang xã”, tuy đã ngắt nguồn điện nhưng máy quay đĩa vẫn chạy…
    Bỗng nhiên tất cả im tiếng. Bộ loa trở lại là một chiếc thùng gỗ chưa đấu nối gì cả, sóng điện trên màn hình của máy ê-qua-li-dơ biến mất, chỉ còn một màu huỳnh quang. Trong bóng tối chỉ có thể nghe thấy tiếng trái tim cô đập. Mưa gió đã đi qua, hay là một cơn bão tố còn lớn hơn sắp ập đến?
    Sự im ắng kéo dài chừng mười giây, rồi bộ loa bỗng lại vang lên những tạp âm inh tai nhức óc, rít lên điên cuồng như muốn xé nát lòng người. Những sóng âm có quy luật trên màn hình của máy ê-qua-li-dơ lúc nãy bị thay thế bởi những hình sin quái gở nhấp nhô lên xuống, như một họa sĩ điên rồ đang cầm cây cọ hành hạ tấm vải.
    Hinh bỗng thấy nhức đầu như búa bổ, những tạp âm dữ dội như điện truyền sâu vào trong óc cô, trong khoảnh khắc cô đã mất tri giác. Khi tỉnh lại, Hinh thấy các tạp âm đã biến mất và màn hình cũng hết các tín hiệu rối loạn.
    Xung quanh Hinh hoàn toàn im lặng.
    Nhưng rồi lại thấy văng vẳng một loạt âm thanh “lạo xạo” rất khẽ. Hinh chợt nhớ ra rằng lúc nãy cô quá lúng túng nên đã quên tắt máy ghi âm, các âm thanh hỗn loạn trong phòng vừa nãy chắc chắn đã được ghi lại. Cô chợt nảy ra một ý, cô bước lại trước bàn làm việc nói vào máy ghi âm: “Tôi là Diệp Hinh, lúc này là khoảng 22 giờ ngày 11 tháng 5. Cách đây ít phút, có những luồng sóng điện kỳ lạ hiện trên màn hình máy ê-qua-li-dơ, và các âm thanh phát ra loa, thoạt đầu có quy luật, và mỗi lúc một vang hơn. Sau đó đèn ở trạm phát thanh bị tắt thì sóng điện lại trở nên không có quy luật gì nữa, và rất chói tai. Bây giờ đã rất yên tĩnh, nhưng tôi…. tôi rất sợ, thật sự rất sợ hãi”. Hinh đã thổ lộ nỗi lòng, cô thấy nhẹ nhõm phần nào nhưng nỗi khiếp hãi thì vẫn không hề vợi đi.
    “Xẹt, xẹt…” khiến Hinh phát hoảng, âm thanh quái dị kia lại truyền ra loa, thoạt đầu rất khẽ rồi mạnh dần. “Mình nhất định phải làm một việc gì đó”. Ý nghĩ đầu tiên nảy ra là đập nát bộ loa, nhưng cô hiểu rằng làm thế sẽ chẳng ích lợi gì, nên tìm cách khác có tính tích cực hơn.
    Trong phòng này có mắc điện thoại nội bộ, có thể gọi đến phòng bảo vệ, nhưng như thế khác nào tự chui đầu vào thòng lọng? Bị đi nằm viện tâm thần thì đỡ kinh hãi hơn lúc này ở đây sao?
    Một ý nghĩ chợt đến, Hinh dò dẫm trong bóng tối đi đến cửa sổ, mở cánh cửa gỗ, nhìn về phía xa xa, thấy tầng 2 của tòa nhà nhỏ còn sáng đèn le lói. Cô xác định có lẽ chỗ đó là phòng làm việc của thầy Chương Vân Côn ở khu nhà giải phẫu.
    Hinh thầm kêu lên “tạ ơn trời đất”. Lần mò sờ soạng một lúc, cô tìm thấy vài cuốn sổ tay, cầm đến trước màn hình huỳnh quang máy ê-qua-li-dơ để xem, cô tìm cuốn “danh bạ điện thoại nhà trường”. Cô lần giở thật nhanh, miệng lẩm bẩm “Phòng nghiên cứu giảng dạy giải phẫu”… Cuối cùng Hinh đã tìm ra số điện thoại của phòng ấy. Tay run run bấm số điện thoại, tiếng chuông đang reo, một hồi, hai hồi… Hinh thầm cầu xin “mau đến nhấc máy, mau nhấc máy đi…” Nhưng không thấy gì. Khi cô dường như đã hết hy vọng thì tiếng chuông đã ngắt, có người nhấc máy và hỏi “alô?”
    Chính là tiếng thầy Côn.
    “Chào thầy Côn, em là Diệp Hinh ạ!”. Hinh suýt nữa trào nước mắt, giọng cô run run.
    “Diệp Hinh, bạn đang ở đâu? Sao nghe giọng bạn lạ thế? Từ chiều tới giờ cả trường đang đi tìm bạn”. Rõ ràng là thầy Côn rất ngạc nhiên.
    “Em sợ..”. Hinh chẳng biết nên miêu tả cảnh ngộ của mình như thế nào, cô chỉ buột miệng nói ra được hai chữ. Lúc này cô nhận ra rằng cô chẳng cứng cỏi như cô vẫn tưởng.
    “Đừng sợ, bạn đang ở đâu? Tôi sẽ đến đón bạn”
    “Em đang ở trạm phát thanh, trên nóc khu nhà hành chính cũ. Xin thầy hãy mau đến đây nhưng thầy đừng nói với ai, được không ạ? Họ đang định đưa em đi viện tâm thần!”
    “Bạn đã tin cậy tôi như thế, tôi sẽ rất thận trọng. Trước hết sẽ thu xếp ổn thỏa cho bạn đã, rồi sẽ tính sau.”
    “Thầy Côn hãy cẩn thận, ở khu nhà này có thể có nguy hiểm”. Tiếc rằng Vân Côn đã dập máy.
    Hinh ôm hai vai ngồi thu mình trên sàn nhà, ngẩng đầu lên nhìn màn hình của máy ê-qua-li-dơ; các đỉnh sóng âm vẫn dần dâng lên cao, các âm thanh quái dị phát ra loa lại dần mạnh hơn. Tay chân Hinh run bắn không thể kiểm soát được nữa.
    Với Hinh, mỗi giây trong cảnh này dài tựa một năm. Tiếng động quái dị mỗi lúc một đến gần, càng nghe càng thấy giống những bước chân đất đang dần áp tới.
    Cuối cùng, bộ loa như bị dùng hết công suất, phát ra một tiếng nổ dữ dội. Hinh vội bịt chặt hai tai, nghĩ bụng: mỗi nguy đã áp sát cửa.
    Quả nhiên cửa phòng bị đập mạnh, cả nền nhà bị rung lên theo. Tiếng đập cửa quá dữ dội, có lẽ sớm muộn gì họ sẽ phá tung cửa để vào. Chắc vì đã bị khiếp sợ quá lâu, nên Hinh bỗng trở nên can đảm. Cô từ từ đứng dậy, hít một hơi thật sâu, tay nắm vào chiếc ghế đặt trước bàn kê máy chỉnh âm, để chuẩn bị - nếu cửa bị mở tung thì cô sẽ ném chiếc ghế ra.
    Cửa vẫn bị đập ầm ầm không ngớt, rõ ràng là họ muốn vào bằng được.
    “Diệp Hinh, tôi là Chương Vân Côn đây!”
    Hinh thấy người cô nhũn ra như muốn ngã vật xuống đất. Vậy là vẫn có hy vọng.
    Hinh run rẩy bước ra mở cửa, ngoài cửa tối om, thầy Côn tay cầm chiếc đèn pin to.
    Hinh vội nói ngay: “Thầy Côn vào ngay đi, đứng ngoài nguy hiểm đấy!”
    “Nguy hiểm gì? Sao tôi không thấy có chuyện gì cả?” Thầy Côn lia đèn pin khắp bốn phía.
    Ơ kìa, bộ loa đã im tiếng. Hinh kinh ngạc quay đầu lại, cũng không thấy các sóng âm nhấp nhô trên màn hình hiển thị nữa. Hay là “kẻ khác người” ở đây đã hoảng sợ nên bỏ chạy rồi? Có lẽ nên ghi công cho ánh đèn pin, hoặc công ấy thuộc về thầy Côn hùng dũng tiến vào.
    “Chúng ta nên mau đi khỏi đây.” Thầy Côn cũng thấy chẳng nên nán lại lâu ở cái nơi tối đen như mực này.
    “Vâng, nhưng xin phiền thầy cùng đi với em tới khu nhà giải phẫu.”
    Vân Côn ngần ngừ: “Bạn nói là… về phòng làm việc của tôi?... cũng được!”
    Tại sao thầy Côn ngần ngại? Hinh có thể hiểu được: đêm hôm khuya khoắt, một thầy giáo trẻ ngồi cùng một nữ sinh trong phòng, là điều nên tránh. Huống chi mình lại đang là một “phạm nhân bị truy nã”.
    Hinh nhẹ nhàng nói: “Không phải là đến phòng của thầy, mà là xin thầy đi cùng em đến tầng một của nhà giải phẫu.”
    “Sao phải thế?” Giọng thầy Côn đầy vẻ ngạc nhiên.
    “Bác Phùng kỹ thuật viên mặc dù thường làm việc ở đó, em muốn đến chơi, chưa biết chừng sẽ gặp được, em muốn hỏi bác ấy về một việc quan trọng. Gặp rồi, em sẽ nghỉ qua đêm ở một gian lớp học chứ không dám để thầy bị liên lụy. Em chỉ mong thầy đừng thông báo với phòng bảo vệ và phòng quản lý sinh viên, kẻo họ đưa em đi viện tâm thần.”
    Vân Côn hơi ngập ngừng, có vẻ do dự, nhưng rồi vẫn nói: “Tôi sẽ không nói với ai cả! Nào, ta đi!”

    Hai người ra khỏi tòa nhà hành chính cũ, che chung một cái ô vì trời vẫn mưa. Có lẽ do trời mưa nên suốt quãng đường đi, không hề gặp một ai.
    Bước qua bệ cửa xi măng xây cao, họ mở cửa. Phía trong là hành lang tối om, cố nhìn kỹ cũng không thấy một tia sáng nào. Vân Côn nói: “Có lẽ chúng ta đừng vào nữa, rõ ràng là bác Phùng không có ở đây!”
    Vừa dứt lời thì thấy đèn hành lang bật sáng!
    Nhưng hành lang vẫn không một bóng người.
    “Có ai ở đây không? Có ai không đấy?” Vân Côn gọi to, chính anh cũng thấy đúng là có điều bất thường.
    Nhưng Hinh thì dần dần hiểu ra rằng mối nguy hiểm vẫn bám theo cô.
    Cô không muốn làm liên lụy đến Vân Côn.
    “Thầy Côn ạ, chúng ta đi vậy, ở đây có uẩn khúc gì đó, rõ ràng là bác Phùng không có ở trong kia!”
    “Có người đang làm trò ma hay sao? Ai đấy, hãy đường hoàng bước ra đây xem nào!” Vân Côn lớn tiếng gọi.
    “Bác Phùng đang ở trong, đó là tiếng cưa điện của bác ấy.” Hinh bước vào hành lang, chạy ngay đến gian cuối cùng. Vân Côn vội gọi theo: “Bạn Hinh chờ đã, cẩn thận đấy!” Có lẽ đế giầy bị ướt, Vân Côn trượt ngã nên bị rớt lại phía sau. Hinh như không nghe thấy gì, loáng một cái cô đã đứng ngay trước cửa căn phòng.
    Cửa đang khép, tiếng cưa điện vang lên, đúng là từ trong đó phát ra.
    Cô định đẩy cửa, tay đưa ra nhưng lại dừng tay hờ hờ ở đó. Cô lờ mờ cảm thấy có điều gì kì cục chi đây: không thấy ánh sáng lách qua khe cửa, tất nhiên là vì ông già gù có thói quen không bật đèn trong lúc xử lý thi thể, nhưng đêm mưa không thấy trăng sao, thì ông ấy làm việc sao được?
    Sau phút do dự, Hinh vẫn đẩy cửa.
    Cửa đã mở, cô ngây người như pho tượng. Cô không biết có nên tin ở mắt mình nữa không, bộ não thông minh của cô không thể chịu đựng nổi cảnh tượng kỳ quái đáng sợ đang diễn ra trước mắt.
    Nhờ ánh đèn yếu ớt từ hành lang hắt vào, cô nhìn thấy chiếc cưa điện đang vận hành dữ dội trên cái bàn đặt thi thể.
    Cô hình rõ ràng không có ai cầm cưa, chiếc cưa điện như bỗng có sức sống, nó tự xử lý thi thể trên bàn.
    Cô nhìn rõ, đúng là trên bàn có thi thể, và nó đã bị xẻ ra vài đoạn.
    Cô cũng nhìn rõ thi thể ấy có cái đầu hói, lưng gù. Chính là bác Phùng!
    Đôi mắt bác Phùng vẫn mở to, hình như đang nhìn Hinh, ánh mắt lộ vẻ nài nỉ, tuyệt vọng, và cảnh cáo nữa.
    Bao khiếp sợ, áp lực, hẫng hụt và mệt mỏi trong cô ít hôm nay, lúc này đã tích tụ đến ngưỡng không thể vượt qua được nữa. Hinh thét lên một tiếng rất dài, tiếng thét phá tan sự tĩnh mịch của đêm mưa trong khu trường.
    Vân Côn chạy đến nơi, thấy Hinh ngồi rũ trên sàn, toàn thân run rẩy dữ dội, vẫn đang kêu thét lên kinh hãi. Anh cúi xuống ôm lấy cô, ôn tồn nói: “Bạn Diệp Hinh hãy bình tĩnh nào! Cứ kêu thế này sẽ ảnh hưởng đến các cán bộ giáo viên quanh đây.”
    Tuy đã gần đến mức suy sụp hoàn toàn nhưng Hinh vẫn nhớ ra rằng “kêu thét thế này, mình sẽ bị lộ, khác nào gọi nhân viên bảo vệ chạy đến?” Cô lập tức nín lặng, ngừng cả tiếng khóc, đứng lên rồi chạy ra ngoài.
    Vân Côn đứng sau gọi ngay: “Diệp Hinh, bạn định đi đâu?”
    Hinh đứng lại, nghĩ bụng: phải rồi, mình nên đi đâu đây?
    Đầu cô bỗng như mơ hồ trống vắng, khuôn mặt đẫm lệ ngoái lại nhìn Vân Côn bằng ánh mắt buồn bã và bất lực. Vân Côn tiến lại dịu dàng nói: “Thế này vậy, đêm này dù bạn đi đâu, tôi cũng đi với bạn.”
    Đang nói chuyện, bỗng nghe thấy những tiếng bước chân vội vã, hình như có nhiều người đang chạy đến. Hinh thầm nghĩ “gay rồi”, cô hiểu rằng mình không còn thì giờ nữa, không kịp giải thích với Vân Côn nửa lời, cô vụt chạy ra khỏi khu nhà.
    Vừa bước chân ra cửa, thấy một ánh đèn pin cực mạnh chiếu thẳng vào cô, khiến cô không dám mở mắt ra nhìn, theo phản xạ, cô đưa tay lên che mặt. Có tiếng gọi: “Diệp Hinh ở đây! Tìm thấy rồi!”
    Hinh biết chắc đó là các nhân viên được nhà trường cử đi tìm mình, không nghĩ gì khác, cô vụt chạy về hướng không có người. Cô cũng biết nếu cứ chạy trên đường trong trường, thì đèn pin đặc chủng kia sẽ bám sát, họ sẽ dễ dàng đuổi kịp cô. Phải nhanh chóng bỏ rơi họ mới được!
    Chênh chếch với nhà giải phẫu là khu nhà hành chính cũ, cô nhớ rằng lối đi trong đó rất quanh co, có lẽ có thể trốn vào đó, cô bèn chạy thẳng vào khu nhà ấy.
    Cô lên cầu thang rồi chạy lên tầng hai, nghe thấy phía dưới kia rất ồn ào, có người hô lên “cửa phía đông đã có người gác, hai anh hãy lục soát từng gian ở tầng một và tầng hầm. Mọi người còn lại hãy theo tôi lên gác!” Đó là tiếng ông Vu Tự Dũng phó phòng bảo vệ.
    Đôi chân của Hinh đang run: liệu mình còn có thể trốn được bao lâu nữa đây?
    Nhưng cô không chịu “đầu hàng”, không thể để họ dễ dàng đưa mình đi viện tâm thần như thế.
    Mỗi bước ba bậc cầu thang, Hinh tiếp tục chạy lên trên.
    Tòa nhà hành chính cũ này có 5 tầng, cầu thang đưa thẳng lên nóc, sân thượng luôn thông thoáng, còn kê vài chiếc ghế xi-măng để mọi người ngồi nghỉ. Các bước chân vẫn đang đuổi sát phía sau, không còn cách nào khác, cô đành chạy một mạch lên sân thượng.
    Mưa phùn táp lên mặt nhưng Hinh hoàn toàn không có cảm giác gì.
    Hinh chạy một đoạn trên sân thượng, bỗng thấy ánh đèn pin lóe sáng trước mặt, thì ra đã có người lên đây theo một lối cầu thang khác. Thế là cô bị chặn cả hai phía trước sau.
    “Này bạn Diệp Hinh chớ chạy nữa! Lẽ nào bạn không hiểu thiện chí của nhà trường dành cho bạn hay sao?”
    Ôi, nếu mình chỉ là một con chim, thì mình có thể tự do bay đi!
    Ý nghĩ này nảy sinh khiến Hinh cảm thấy mình đã thay đổi thật là đáng sợ.
    Những người đuổi theo cô đều bước chậm lại, dàn từ hai phía thành một vòng cung vây lấy cô.
    Không sao gạt bỏ được cái ý nghĩ đáng sợ kia, nhưng dường như cô không còn sức để khôi phục lý trí của mình cho tỉnh táo hơn.
    Thế là Hinh trèo lên thành tường vây sân thượng, cao chưa đầy một mét.
    Vu Tự Dũng gật mình “gay rồi!” Ông vẫy tay: “Dừng lại, mọi người dừng lại! Bạn Diệp Hinh định làm gì thế?”
    “Làm gì à? Chẳng nhẽ ông không nhận ra hay sao?” Giọng Diệp Hinh lạnh như những giọt mưa đang hắt vào mặt.
    “Em đừng làm bừa! Chúng tôi đến để giúp đỡ em, cứ yên tâm, nhà trường không hề hiểu lầm em. Sẽ quan tâm đến em nhiều hơn. Em mau xuống đi! Em còn chưa ăn tối kia mà? Chắc cũng rất mệt rồi! Nhà trường đã thu xếp cho em đến nhà khách, để em ăn uống tắm gội, rồi đi ngủ. Thế lại không tốt à?”
    “Tiếp đó là, ngày mai đưa tôi đi bệnh viện tâm thần, đúng không?”
    Ông Dũng không biết nên nói thế nào nữa, nhưng may có thầy Lý chủ nhiệm lớp Diệp Hinh kịp đi đến, nói: “Em Hinh xưa nay là một sinh viên rất hiểu biết, sao lại… Em mau xuống đây, cần gì thì nói xem nào!”
    “Chẳng có gì để nói cả! Em biết thầy Lý không thể quyết định xem nên là thế nào, nhưng em mong thầy yêu cầu nhà trường bảo đảm rằng không đưa em đi viện tâm thần, thì em sẽ xuống ngay!”
    Thầy Lý hơi đắn đo, ông Dũng thì cười nhạt, cất cao giọng: “Cho dù thầy Lý không thể quyết định, thì tôi có thể bảo đảm với em: chắc chắn sẽ không đưa em đi viện tâm thần! Bây giờ em xuống đi nào!”
    “Tôi muốn nhà trường phải có văn bản chính thức, tuyên bố rằng bảo đảm ấy có giá trị trước pháp luật, có đóng dấu của Phòng quản lý sinh viên, thì tôi mới xuống!”
    Ông Dũng không ngờ Diệp Hinh “khó nhằn” như thế này, ông phát cáu: “Này, sao em lại trẻ con như vậy? Em sẽ làm bừa chắc?”
    “Có phải ông cho rằng tôi không dám nhảy không? Tôi biết trong số nữ sinh trước kia từng ở phòng của chúng tôi, đã có 12 cô nhảy lầu tự tử, ông cũng đã nói với tôi còn có vài cô khác nữa, tổng cộng là bao nhiêu?” Có lẽ, nhảy xuống dưới kia là cách duy nhất để giải tỏa mọi buồn phiền.
    “Em…” Ông Dũng thực sự thấy điên tiết.
    “Hinh ơi!” Một giọng nói rất quen thuộc vọng đến. Chính là mẹ cô!
    Bà Kiều Doanh được ông Kim Duy Chúc trưởng phòng quản lý sinh viên đưa tới, đang chằm chằm bước đến. Bà quá kinh ngạc trước cảnh tượng trước mắt, bà đưa tay bịt lấy miệng, chỉ chực òa khóc, bà gọi “Hinh ơi” rồi đứng đờ ra không biết nên nói gì nữa.
    “Em Hinh nhìn xem ai đây nào?” Ông Chúc lấy làm may vì mình đã sớm nhắc thầy Lý báo tin cho bà Kiều Doanh, bà đã ngồi chuyến bay trưa nay để đến Giang Kinh.
    “Em thấy rồi!” Hinh nói lạnh lùng: “Mẹ ơi, sao mẹ cũng đến để ép buộc con?”
    Sau phút bất ngờ nhìn thấy con, bà Kiều Doanh trấn tĩnh lại và dịu dàng nói: “Kìa con! Mẹ đâu có ép buộc gì con? Mẹ đến để thăm con, mẹ vẫn chưa đồng ý để đưa con đi viện! Mẹ chỉ… mẹ chỉ không muốn mất con, con là… là người thân yêu nhất trên đời này của mẹ!” Nói xong câu cuối cùng, bà nghẹn ngào.
    Câu nói cuối cùng đã thực sự cảm hóa được Diệp Hinh, cô trào nước mắt, bước xuống sân thượng, tiến về phía trước và nhào vào lòng mẹ, cô khóc nức nở.




    #17
      PhongAnh 24.10.2006 09:43:52 (permalink)

      Chương 15
      Người đàn bà mặt sẹo và Uông Lan San


      “Thành thật mà nói, tôi cho rằng thu xếp đưa Diệp Hinh đi viện tâm thần là một quyết định sai lầm”. Ông Từ Hải Đình nhíu mày, nhìn chăm chú trang lịch in ở đầu cuốn sổ công tác, ông không nhớ mình đã khoanh một vòng tròn đỏ vào ngày 16/6 từ bao giờ.
      Từ khi vị chủ nhiệm khoa thu xếp chương trình để về hưu thì các cuộc họp khoa đều do ông Đình và ông Đằng Lương Tuấn thay nhau chủ trì. Ông Tuấn chăm chú nhìn ông Đình. Chính ông Tuấn đã quyết ý chủ trương đưa Diệp Hinh đi viện, lúc này trước mặt các bác sĩ trẻ chưa có thâm niên, ông Đình lại nói mình “quyết định sai lầm” là có ý gì vậy? Hai ông đang tranh đua chức vụ chủ nhiệm, chỉ mai kia sẽ công bố bổ nhiệm ai làm. Nghe tin cấp trên tiết lộ, nói mình “hơi có ưu thế” thì ông Đình ra đòn này không phải là không có ý đồ.
      “Trong những năm qua, bác sĩ Đình đã đưa các sinh viên tương tự đi viện, chắc anh đã cân nhắc kỹ mọi bề, thậm chí rất đau xót nhức nhối phải không?”. Ông Tuấn từng sang Mỹ tu nghiệp 2 năm, ông rất hiểu sự tàn khốc trong cạnh tranh, nếu cứ nhân từ với Tương Công (Sự tích Tề Tương Công thời Đông Chu là một vua chư hầu hoang dâm tàn bạo. Nếu nương tay với y thì chỉ là tự chuốc lấy kết cục bi thảm) thì khác nào tự sát, vì thế ông trả đũa luôn.
      Ông Đình biết ông Từ hỏi câu đó là có ý công kích mình, ông thấy hơi buồn, nhưng ông cố kiềm chế rồi chậm rãi nói: “Tình hình của Diệp Hinh không giống như các nữ sinh kia. Trước khi đi viện các cô kia học tập sút kém, hiện tượng nói năng lú lẫn rất rõ rệt, hoặc là lúc tỉnh lúc không. Còn Diệp Hinh thì kết quả học tập không những không giảm sút mà còn đạt mức ưu tú, môn giải phẫu được điểm tối đa, việc này chỉ mới cách đây vài tuần”.
      “Nhưng chuyện cô luôn miệng nói là đã gặp linh hồn cha mình thì cũng là biểu hiện tỉnh táo hay sao? Cô ta còn nói đã nhìn thấy ông kỹ thuật viên của phòng nghiên cứu giảng dạy bị xả thây, nhưng rõ ràng là ông ta vẫn còn sống, chỉ là xuất huyết não phải nằm viện để theo dõi mà thôi. Điều này cũng là biểu hiện tỉnh táo ư?”. Ông Tuấn chỉ tay về phía buồng bệnh: “và còn hàng loạt lời nói cử chỉ không sao hiểu nổi nữa đều được ghi trong y bạ. Nếu tôi không nhầm thì chính anh và tôi đã cùng khám bệnh và cùng ghi vào y bạ đó kia mà!”
      Các bác sĩ đưa mắt nhìn nhau, họ đều đã nghe nói trường hợp bệnh nhân Diệp Hinh là không bình thường, nhưng không ngờ lại là một ca mà hai vị phó chủ nhiệm này cũng khám bệnh.
      “Anh nói đều đúng cả, nhưng vẫn cần phải phân tích kỹ hơn. Ta biết rằng cô Hinh đã phải chịu đựng áp lực rất lớn về tinh thần, khi con người bị căng thẳng quá mức họ sẽ nói ra những điều ẩn sâu trong tiềm thức, nhưng đó không có nghĩa là bệnh lý nghiêm trọng đến mức phải đi viện điều trị. Tôi cho rằng cô ấy chưa thật sự tin cậy tôi, anh và nhà trường nên còn nhiều điều chưa nói ra với chúng ta, vì cho rằng dù có nói ra thì chúng ta cũng không tin. Chúng ta đừng quên rằng chuyến đi Vô Tích của cô Hinh đã liên quan đến một vụ án mạng, chứ không phải là chuyện ngẫu nhiên. Chắc chắn cô Hinh đã cảm nhận được một điều gì đó nên mới có động cơ mãnh liệt để đi tìm lời giải cho “vụ mưu sát 405”. Điều tôi muốn nói là không phải cô ta không hề muốn được chúng ta quan tâm. Chúng ta nên coi việc trợ giúp tâm lý là chính, chứ đừng vội vã điều trị thuốc men”. Ông Đình đang suy nghĩ rất sâu về trường hợp Diệp Hinh.
      “Nếu cho nằm viện thì chẳng phải sẽ càng tiện, và càng có thể trợ giúp tâm lý tỷ mỷ hơn cho cô Hinh hay sao? Nếu anh Đình nhất định bảo lưu ý kiến không cần cho nằm viện thì chi bằng cứ giao ca này cho mình tôi phụ trách điều trị”. Ông Tuấn vẫn cảm thấy ông Đình đang cố cãi lấy được, nên ông lên tiếng mạnh hơn.
      Ông Đình cười nhạt “Bác sĩ Tuấn thật sự nghĩ rằng đưa một cô gái có lẽ vẫn đang khỏe mạnh về tinh thần vào nằm viện của chúng ta, sẽ rất hữu ích cho việc trợ giúp tâm lý hay sao?”

      Bệnh viện tâm thần nằm ở vùng ven “khu bệnh viện”, mà trung tâm của nó là Đại học Y số 2 Giang Kinh, nằm kề vùng ngoại ô. Toàn bộ bệnh viện được một vành đai trồng toàn cây ngô đồng chẵn ba chục năm tuổi vây lại, hết sức yên tĩnh. Nhất là khu buồn bệnh, hoàn toàn cách xa chốn “ngựa xe như nước, áo quần như nêm” ồn ã ở bên ngoài, thật sự là nơi con người có thể hoàn toàn tĩnh tâm.
      Khu buồng bệnh là một tòa nhà lớn ba tầng, bệnh nhân nam ở tầng hai và ba, bệnh nhân nữ ở tầng một. Phần lớn bệnh nhân đều nằm ở “khu lớn”, khu này gồm các khoa: khoa bệnh thần kinh thông thường, khoa bệnh nặng, khoa chăm sóc người già và khoa cai nghiện. Mỗi khoa có đến vài chục giường bệnh bố trí trong một gian phòng rất rộng, bốn bề đều có phòng y tá trực ban được cách ly bởi các vách ngăn bằng kính thủy tinh hữu cơ – để các y tá dễ dàng quan sát mọi động tĩnh bên trong. Khoa bệnh thần kinh thông thường, có số bệnh nhân đông nhất, lại được chia thành hai khu vực, bên ngoài phòng y tá trực ban ở phía đông là nhà ăn kiêm vui chơi giải trí với vài dãy bàn dài, bốn góc treo bốn ti-vi màu. Bên ngoài gian vui chơi giải trí là phòng tiếp người nhà bệnh nhân và phòng làm việc của bác sĩ. Xa hơn nữa là một hành lang chạy dày đến tận khu nhà bảy tầng, là nơi khám bệnh kiêm văn phòng hàng chính. Một số ít bệnh nhân nằm ở tầng ba của “khu nhỏ”, chỉ có vài căn buồng bệnh dành cho một người hoặc hai người, có y tá chuyên trách chăm sóc. Thường là một số nhân vật đặc biệt hoặc bệnh nhân nặng mới được bố trí nằm các buồng nhỏ này.
      Từ lâu, các buồng nhỏ đã hết chỗ, bà Kiều Doanh cố “tác động” cũng không có kết quả, đành để cho Diệp Hinh vào nằm buồng chung của khoa thần kinh thông thường.
      Hinh đã khóc không biết bao nhiêu lần, cũng cố tỏ ra trấn tĩnh không biết bao nhiêu lần, nhưng cô càng cố chứng minh trí óc mình vẫn mạnh khỏe thì nhà trường và các chuyên gia thần kinh lại càng cho rằng cô rất thất thường, trạng thái tinh thần sai lệch quá lớn, và càng giữ ý kiến buộc cô phải nằm viện.
      Hầu như không ai còn tin cô nữa, thậm chí cả mẹ cô cũng vậy. Đã rất nhiều lần cô có cảm giác nỗi oan ức chứa chất trong lồng ngực khiến cô nghẹt thở, cô muốn đột nhiên “lên cơn” một phen cho hả. Dường như số phận của cô bị một “bàn tay đen” vô hình nắm lấy rồi mặc sức xoay vần. Nhưng Hinh vẫn suy nghẫm, và hiểu rằng nếu tiếp tục làm ầm ỹ thì chỉ khiến cho “bệnh án” của cô thêm dày hơn, đặc biệt là không thể “lên cơn”, vì chứng cấp cuồng là dấu hiệu rà dấu hiệu rất chuẩn để các bác sĩ thần kinh phải dùng thuốc, cô không thể dại dột mà chấp nhận bị điều trị. Việc điều trị bệnh tâm thần chỉ dành cho bệnh nhân tâm thần, tác dụng của thuốc sẽ là có hại cho những người khỏe mạnh. Cô phải duy trì một bộ não tỉnh táo – đây là con đường duy nhất để nắm vững vận mệnh của mình.
      Phải làm thế nào để không bị dùng thuốc? Hinh nhớ lại bộ phim Nhật Bản “Đuổi bắt” mà cô xem hồi nhỏ, nhân vật nam vì không muốn uống thuốc chữa thần kinh có hại cho mình nên lần nào anh ta cũng giả vờ uống thuốc, rồi đi vào nhà vệ sinh nhè ra. Có lẽ mình có thể dùng cái mẹo này.
      “Đây là thuốc của em sáng nay. Tôi phải đứng chờ xem em uống xong. Trông em có vẻ là một cô gái ngoan ngoãn, lại là một sinh viên kia mà! Em biết không, có nhiều bệnh nhân không chịu nghe lời, khăng khăng rằng mình không bệnh tật gì cả, cứ học theo bộ phim Nhật Bản “Đuổi bắt” – ngậm thuốc nhưng không nuốt, hoặc là vào nhà vệ sinh rồi nhè ra. Cho nên chúng tôi đề phòng là chính: em phải uống từng hụm nước to… đúng thế… nếu chỉ nuốt thuốc mà uống ít nước, sẽ hại cho dạ dày. Tốt rồi, tôi sẽ ngồi với em một lúc.” Chị y tá đã làm tan biến mọi hy vọng của Hinh. Hinh lim dim mắt, cô như cảm nhận được hai viên thuốc đang khoái trá trôi qua thực quản rồi xuống dạ dày mình, chuẩn bị tan vụn ra rồi thấm vào máu, sau đó tập kích hệ thần kinh nhạy bén và khỏe mạnh của cô bằng dược tính của nó. Chị y tá đứng quanh ở giường bên một lúc, thấy bệnh nhân ở “khu nhỏ” này không có khả năng nhè thuốc ra, chị mới chậm rãi bước đi. Hinh ngồi trên ghế đặt bên đầu giường, nhắm mắt. Chẳng rõ có yếu tố tâm lý hay không, hình như thuốc đã bắt đầu phát huy tác dụng: cô thấy mình bình tĩnh hơn như tư duy dường như lại có phần trì trệ. Những hình ảnh trong mấy ngày qua vốn đã đan xem rối mù… thì bây giờ vẫn cứ rối mù, có điều, chúng như một đống rác tạp nham chất chồng, không chút sức sống, cũng không chờ đợi cô tháo gỡ.
      Chẳng lẽ cứ thế này mãi? Bỗng có ai đó đẩy cô một cái, cô bừng tỉnh. Chị y tá mỉm cười: “Diệp Hinh, em xem ai đến kìa!”
      “Mẹ!” Hình như mẹ đang ở phòng đón tiếp người nhà, cô không nén được nước mắt tuôn trào. Bà Kiều Doanh rất xót xa, cũng trào nước mắt: có lẽ gộp những lần con gái bà khóc từ thời tiểu học, trung học lại, cũng chẳng khóc nhiều hơn mấy hôm nay.
      “Con ạ, mẹ chủ trì một hội nghị định hướng công tác, đang đi đến hồi kết, mẹ phải trở về mấy hôm. Đây là bệnh viện tốt nhất của tỉnh, nên mẹ cũng yên tâm để con đến đây điều trị. Vài hôm nữa mẹ lại đến thăm con, con hãy chịu khó nghe lời bác sĩ…”
      Hinh nín khóc, chăm chú nhìn khuôn mặt mẹ. Bà Kiều Doanh vốn vẫn còn nét duyên dáng phong lưu, nhưng bao lo nghĩ và mệt mỏi mấy hôm nay đã khiến bà già đi ít nhiều.
      “Lẽ nào chính mẹ cũng cho rằng con có bệnh thật ư?”
      Hinh đã hỏi câu này không biết bao nhiêu lần.
      “Con gái ngốc nghếch của mẹ, con không có bệnh, lời con nói mẹ đều tin cả!”. Bà Kiều Doanh ôn tồn trả lời mà lòng đau như dao cắt.
      Hinh biết mẹ chỉ an ủi cô đó thôi, chắc chắn bà cũng tin rằng con gái mình cần được vào đây điều trị. Hai mẹ con bịn rịn chia tay. Lúc bà Kiều Doanh quay ra cửa, Hinh không nén được lại trào nước mắt.
      Trở về giường của mình cô vẫn chưa thoát khỏi cảm giác cô độc sau khi mẹ ra về. Hai tay ôm vai, cô ngồi trên ghế suốt hai tiếng đồng hồ không hề nhúc nhích. Hình như trên thế gian này chỉ còn lại mình cô. Tạ Tốn thực đáng giận, anh đang ở đâu? Lẽ nào anh bụng dạ hẹp hòi như thế thật ư? Thế mà em vẫn đang nhớ đến anh đây, anh có biết không? Âu Dương Sảnh đáng thương, liệu bao giờ cậu mới khỏi bệnh? Mẹ thân yêu, con mong mẹ sẽ sớm trở lại, nhưng rồi sao nữa? Họ vẫn cứ giam cầm con ở đây như thế này… Có phải đây là cảm giác thật sự tuyệt vọng? Mọi nỗi hãi hùng trước đây chỉ là khiến cô kinh sợ mà thôi.
      Cứ như thế, Hinh ngồi đến khuya, cô y tá vài lần đến khuyên Hinh đi ngủ, Hinh mới uể oải nằm xuống. Cô văng vẳng nghe thấy các cô y tá thở dài nói với nhau: “Cô sinh viên ấy thật đáng ái ngại, chắc là thuốc đã ngấm rồi đấy”
      “Mới uống thuốc có một ngày mà có tác dụng nhanh thế kia à?”
      “Cũng khó nói lắm”
      Lẽ nào mình bị thuốc tác dụng thật nên mới sa sút như thế này? Nhưng tình thế lúc này mình không sa sút làm sao được? Liệu có phải ngày mai mình sẽ phấn chấn lên chăng? Nhưng nếu thế họ liệu có bắt mình uống thêm thuốc không? Hình như họ mong mình cứ xẹp đi như thế này thì mới gọi là thuốc có hiệu quả! Hinh nghĩ ngợi miên man rối bời, mơ màng ngủ thiếp đi.
      Đây đâu phải là phòng 405, sao lại cũng có một khuôn mặt nát bươm? Không có tiếng nhạc, không có ánh sáng nhợt nhạt, nhưng lại thấy bóng cô gái áo trắng chập chờn mờ tỏ. Đúng là đang ngủ mê, nhưng hình như lại rõ hơn là cảnh có thật. Hinh chăm chú nhìn khuôn mặt dập nát của cô gái, hình như đã từng quen nhau…
      “Tại cô nên tôi mới nên nông nỗi này, phải ở chung với đám người điên!”
      Cô gái áo trắng lắc đầu. và giơ đôi tay về phía Hinh, mười ngón tay xương xẩu hướng tới mặt cô. Cô định xua tay cưỡng lại, nhưng đôi tay cô như bị đè nặng, bất lực không sao nhấc lên được.
      Cơn ác mộng này không thể kéo dài lâu thêm nữa. Hinh mở to mắt, trời ơi… một khuôn mặt nát bươm!
      Ánh đèn yếu ớt bật suốt đêm ở phòng y tá trực ban có thể hắt vào buồng bệnh nhân qua vách thủy tinh hữu cơ, vì cự ly quá xa nên quanh giường Hinh vẫn rất tối, tuy nhiên cô vẫn có thể nhìn rõ người phụ nữ ấy có khuôn mặt dập nát, một bàn tay bịt lấy miệng cô, bàn tay kia xoa lên mặt cô và nói: “Làn da thật mịn màng!”. Hai cánh tay Hinh cũng bị hai bàn tay khác giữ chặt. Hai phụ nữ mặc quần áo bệnh viện màu trắng đang đứng bên giường Hinh, một người mặt nát bươm, nói đúng ra là mặt nham nhở chằng chịt, nhìn trong lúc mờ tối thế này phải giật mình, người kia thì nhìn không rõ mặt nhưng rất khỏe, đang ghì tay Hinh đau điếng. Hinh muốn kêu lên nhưng miệng bị bịt chặt nên đành chịu. Rất nhanh, người mặt sẹo thò tay lần cởi khuy áo ngủ của Hinh. Hinh giẫy giụa, quẫy chân nhưng họ khỏe hơn cô nhiều, xem chừng cô đã hết hy vọng. Đôi tay đang ghì cô bỗng buông ra, và một loạt những âm thanh quái dị vọng đến. Hinh lập tức nhảy xuống giường, ấn chuông cầu cứu phòng y tá trực ban. Rồi chỉ nhìn thấy ở phía xa xa, người phụ nữ mặt sẹo đang đánh nhau với hai người khác, các cô y tá nghe thấy tiếng chuông ở bên này bèn chạy vào, các bệnh nhân khác cũng bị tỉnh dậy bởi tiếng ồn, họ vây lại ngó xem. Các cô y tá kéo ba người tách ra. Ngoài người phụ nữ mặt sẹo, thì người thứ hai là một phụ nữ tuổi trung niên – nhìn vóc dáng thì có lẽ là người lúc nãy vừa ghì tay Hinh, người kia là một bà già tóc hoa râm. Một cô y tá trách móc: “Lại là các người! Nếu còn làm loạn lên nữa, chúng tôi sẽ báo cáo bác sĩ dí điện để điều trị cho các người!”. Lúc này lại có một nam y tá thân hình lực lưỡng chạy đến, một cô y tá nói: “Cô sinh viên không vấn đề gì, còn ba người này thì phải đưa về giường, đêm nay phải trói lại mà ngủ kẻo lại gây rắc rối!”.
      Hinh vội nói: “Hình như bà già không làm gì đâu, đừng trách oan bà ấy”.
      Cô y tá cười nhạt: “Không làm gì à? Cô nhìn hai người kia bị đau ra sao thì biết”.
      Đúng thế, người đàn bà mặt sẹo lại bị thêm một vết máu trên mặt, còn người đàn bà to vâm thì trán sưng vù, cánh tay phải thõng xuống như là bị trật khớp. Rõ ràng là bà già ấy đã cứu Hinh. Hai người kia bị trừng trị là đáng rồi, bà già ra tay cũng khiếp thật. Nhưng bà già có vẻ rồ dại kia sao có thể khiến hai nữ bệnh nhân cao to, ít tuổi hơn hẳn bị ăn đòn khiếp thế? Bà già bỗng tỏ vẻ vô tội, nói nghèn nghẹn: “Tôi có làm gì đâu? Các... các cô nhìn xem, thân già này chưa bị họ nghiền nát ra là đã phải tạ ơn trời đất rồi, sao lại trói tôi?”.
      Hai nam y tá đưa bà già vào đầu tiên, hình như bà còn nguy hiểm hơn cả hai người kia. Hinh đưa mắt nhìn sang, thấy giường của bà cách giường của cô không xa lắm. Anh y tá ấn bà nằm xuống giường, thắt chặt bà bằng dây đai da buộc sẵn ngay mép giường. Còn hai bệnh nhân đã nạt nộ Diệp Hinh thì được đưa đi điều trị vết thương. Vẳng nghe thấy tiếng cô y tá cảnh cáo: “Nếu các người còn dám làm thế nữa thì sẽ bị đưa sang khu bệnh nhân nặng, rồi sẽ được gặp đối thủ còn dữ dằn hơn các người”.
      Lúc này Hinh mới cảm thấy rõ nỗi ê chề, sợ hãi, oán hận đang cùng ập đến với cô. Cô thút thít khóc, y tá đến an ủi cô cũng chẳng thiết nghe.. Vào lúc cô độc không biết bấu víu vào đâu, điều mà Hinh cần không chỉ là an ủi. Điều mà cô cần là tình yêu. Chỉ có tình yêu mới khiến cô lại có can đảm.
      Nửa đêm về sáng, Hinh hầu như không chợp mắt. Vào giờ đến khám phòng buổi sáng, bác sĩ Đằng Lương Tuấn thấy đôi mắt Hinh có quầng thâm, ông nghĩ bụng: “có lẽ bệnh cô ta còn nặng hơn mình dự đoán”. Cô y tá đứng bên báo cáo rằng cô sinh viên này từ sau khi uống thuốc đã rất yên ổn, hầu như cả ngày không nói một câu.
      “Tốt rồi, vậy là thuốc rất phù hợp với cô ta”. Ông Tuấn gật đầu tỏ ý bằng lòng, đồng thời đưa ra phác đồ điều trị cho Diệp Hinh. Ông là nhân vật hàng đầu thuộc trường phái phân tích thần kinh của bệnh viện này, tích lũy kinh nghiệm sau chuyến du học Mỹ, ông rất tin ở kỹ thuật lâm sàng của mình. Trông ông rất có phong độ, nói năng khúc chiết, rất dễ khiến cho bệnh nhân có thiện cảm, vì thế họ thường thẳng thắn bộc bạch với ông mọi nỗi niềm, rất có lợi cho việc điều trị của ông.
      “Bạn Diệp Hinh đừng nên nghĩ ngợi nhiều, tôi đã lập phác đồ cho bạn, chỉ cần chúng ta nói chuyện vài lần để tháo gỡ những băn khoăn trong lòng, thì chỉ ít hôm sau bạn có thể ra viện”. Ông Tuấn nói hết sức nhẹ nhàng để tranh thủ niềm tin và thiện cảm của Hinh.
      “Xin tùy bác sĩ Tuấn, cháu nhất định sẽ làm theo ý bác sĩ”. Thái độ ung dung của Hinh khiến ông Tuấn thầm ngạc nhiên, không biết nên mừng hay nên lo. Nếu cô ta thực sự nhẹ nhõm thế này thì thật là quá tốt, nhưng nếu chỉ là bề ngoài thôi thì sao? Mình sẽ tìm tác nhân gây bệnh như thế nào? Biểu hiện tỉnh táo thế này sẽ là cái cớ để Từ Hải Đình bắt bẻ này nọ !
      Đến giờ ăn trưa, Hinh bưng khay đến trước cửa sổ nhà ăn chờ lĩnh suất ăn. Rất đông người xếp hàng, thỉnh thoảng có bệnh nhân lỡ đánh rơi khay, cơm canh thức ăn vung vãi tứ tung trông chết khiếp, các nhân viên lại phải đến quét dọn, hàng ngũ lại càng chậm tiến.
      “Cô đừng tưởng có thể trốn được tôi”. Một giọng nói lạnh tanh. Hinh ngoái đầu lại, ớn lạnh: chính là người đàn bà mặt sẹo tối qua. Rõ ràng chị ta nhân lúc các y tá không để ý đã chen ngang đứng phía đằng sau Hinh. Các bệnh nhân đứng phía sau bắt đầu chỉ trích, thậm chí có người chửi bới thô tục. Người đàn bà mặt sẹo ngoảnh lại nhăn mặt, mím môi dọa dẫm khiến mọi người cũng bớt xì xào hơn.
      “Chị đừng tưởng tôi sợ chị thật!”. Hinh nói thản nhiên, chẳng buồn quay mặt lại. Cô cũng chẳng hiểu lòng can đảm của mình có từ đâu, nhưng cô biết, ở đây chỉ cô mới có thể bảo vệ cho chính cô.
      Chị mặt sẹo ngớ ra, hoàn toàn không ngờ cô học sinh trông non choẹt yếu ớt này lại dám có gan như thế. Chị ta cười hì hì, đổi giọng: “Được, tôi thích cái tính này của cô! Thực ra tôi đâu có đáng sợ như thế, chỉ vì bị ở đây lâu quá thì thấy buồn. Cô lại mới đến, chưa quen biết ai nên tôi muốn kết bạn với cô để cùng âu yếm với nhau”
      Hinh nghe chị ta nói hai chữ “âu yếm” thật quái dị nhưng cũng thấy sờ sợ, cô cố ra vẻ điềm tĩnh: “Tôi quá sẵn các bạn ở trường học, đằng nào thì tôi cũng không ở đây lâu, tôi chẳng lo sẽ bị cô đơn”
      “Này, cô không biết thật hay giả vờ không biết thế? Đã vào đến đây thì đâu phải chỉ là nhức đầu sổ mũi lặt vặt, làm gì có chuyện dăm bữa nửa tháng là ra viện. Mà dù có ra viện thì chỉ ít lâu sau sẽ lại quay vào. Nếu không quay vào thì chỉ có một khả năng là lên chầu trời, giống như mấy cô gái ở trường cô ngày trước!”
      Hinh bỗng chột dạ: “Chị cũng biết chuyện về các cô gái ấy à? Chị đã biết những gì?”
      “Tôi đã ở đây mười mấy năm, sao lại không biết? “Vụ án mưu sát 405” nghe quen tai chứ?”
      “Chị nói cụ thể hơn được không?” Hinh sốt ruột hỏi
      “Cô đừng hung với tôi thì tôi sẽ cho cô biết. Đến giờ hoạt động tự do chiều nay, cô hãy đi bách bộ với tôi, có được không?” Chị mặt sẹo ôn tồn nói.
      Hinh thấy dạ dày cô oi ói buồn nôn, cô giận mình suýt nữa mắc lừa chị mặt sẹo. Có phải tại mình uống thuốc thần kinh nên đầu óc bị lú lẫn hay không? Cô quay đi, không để ý đến chị ta nữa.
      Chị ta không chịu thôi, lại bám hỏi: “Lát nữa ta cùng ngồi ăn với nhau có được không?”
      “Được chứ, nếu có thể cho bà lão xấu xí này ngồi cùng hai người thì càng hay”. Người nói câu này chính là bà già đã cứu Hinh tối qua. Chắc bà phải xấp xỉ tuổi bảy mươi, lưng hơi còng nhưng đầu tóc chải rất gọn ghẽ. Mặt bà đầy những nếp nhăn, đôi mắt mờ đục, cũng không có gì khác với các vị cao niên thường gặp; bà nói năng cũng rất bình thường, nhưng tại sao phải vào nằm viện tâm thần? Nghĩ đến đây Hinh khẽ thở dài. Cô tự thấy mình rất bình thường, thế mà cũng phải vào đây kia mà!
      “Bà ạ, cháu cảm ơn bà tối qua đã giúp cháu!”
      Bà già lấy làm lạ, nhìn Hinh: “Tôi giúp cô cái gì nhỉ?”
      Hinh lại thở dài, xem ra bà già bị vào đây không phải là không có lý.
      “Thực ra chỉ cô mới giúp được cô thôi”. Bà già lẩm bẩm rồi chen lên đứng trước Hinh (nhà ăn của bệnh viện có quy định rằng người già trên 65 tuổi không phải xếp hàng khi lĩnh cơm). Bà bưng khay cơm canh từ ô cửa sổ nhỏ rồi quay đi luôn, chẳng buồn nhìn Hinh nữa. Hinh thấy lời nói của bà còn có ẩn ý gì đó, bèn bưng khay đồ ăn của mình đến ngồi bên cạnh bà.
      “Cháu là Diệp Hinh, chẳng lẽ bà đã quên tối qua bà vừa cứu cháu à? Thôi được, dù bà nhớ hay quên cháu cũng xin cảm ơn bà! Cháu xin hỏi, bà là…”
      Chị mặt sẹo cũng đến ngồi cùng, cười nhạt: “Bà ấy là Uông Lan San nổi tiếng ra trò! Nếu cô trò chuyện ăn ý với bà ấy, thì cô chỉ có chết! Mấy cô sinh viên của trường cô ngày trước đều thân với bà ấy, cô xem hậu quả là gì nào?”
      Hinh lừ mắt nhìn chị mặt sẹo, nhưng không ngờ bà già lại nói: “Chị ta nói không sai đâu”
      Hinh ngạc nhiên: “Sao lại nói thế? Làm gì có mối liên quan đó? Cháu không tin, các chị kia chết đều do các nguyên nhân khác… nói thế này tức là chắc chắn bà cũng biết về “vụ mưu sát 405”?”
      “Những ai tự cho rằng mình biết, thường lại là chẳng biết gì” Bà Uông Lan San không trả lời thẳng vào câu hỏi.
      “Thấy chưa, bà già này dở hơi!” Chị mặt sẹo không bỏ lỡ cơ hội, “trả thù” luôn
      “Phải! Không dở hơi thì tại sao phải ở đây bốn chục năm? Trong những người hay ra vào chỗ này, có vài người nằm viện hơn chục năm là cùng, đã tưởng mình là bậc nguyên lão rồi” Bà San phản kích chị mặt sẹo, chứng tỏ bà hoàn toàn không có bệnh tật gì.
      Vậy những con người này là thế nào đây?
      Hinh bỗng thấy ngao ngán đến cùng cực, xem chừng mình đành phải thích nghi chung sống với đám người rồ dại kỳ cục này vậy. Nếu muốn giao lưu với họ thì mình cũng phải suy nghĩ như kiểu của họ chăng? Còn có việc gì khó hơn điều này đây? Họ rõ ràng là những con người cần được quan tâm giúp đỡ, nhưng ai sẽ giúp đỡ mình đây?
      Điều Hinh có thể làm, dường như chỉ lại là ngồi ngây trên giường, có lẽ chỉ có cách này mới có thể giữ được sự tỉnh táo cho mình.
      Đã đến giờ được hoạt động tự do, các bệnh nhân đều ra đánh bóng bàn, tập thể dục, đi bách bộ… chỉ có Diệp Hinh vẫn ngồi bất động trên giường. Chị mặt sẹo lại đến bên cạnh nói những câu vớ vẩn chẳng đâu vào đâu. Hinh chán ngán nhìn chị ta một hồi, rồi dứt khoát nhắm mắt lại không để ý nữa.
      “Mấy cô kia lúc mới đến cũng thế này”
      Một giọng thiếu nữ trong trẻo như tiếng chuông bạc. Tại sao mình lại chưa để ý rằng ở đây còn có một cô gái trẻ như thế? Hinh mở mắt ra nhìn, cô lạnh cả người. Đâu phải là một cô thiếu nữ, mà chính là bà già Uông Lan San. Tại sao bà ý lại bắt chước giọng của bé gái?
      “Bà San, bà…”
      “Chị ơi, chị ra kia đi dạo với em được không?” Đôi mắt mờ đục của bà San hình như cũng trong hơn trước, long lanh sức xuân mà chỉ tuổi trẻ mới có.
      Hinh cảm thấy toàn thân rùng rùng ớn lạnh, cô đứng lên rồi lùi lại một bước “Bà... bà là ai?”
      Bà San bước lên một bước, đưa tay ra nắm lấy tay Hinh: “Em là Tôn Tĩnh Tĩnh, em ít tuổi nhất ở đây, chuyện trò chẳng hợp với ai cả, may mà chị lại vào đây, tuổi không chênh nhau là mấy, chúng ta kết bạn đi”
      Hinh đưa tay ra sau lưng, giọng run run: “Cô… năm nay bao nhiêu tuổi?”
      “16 ạ!”
      Hinh bấm nút chuông đặt ở đầu giường xin trợ giúp, một cô y tá đi vào, nhìn tình thế cô hiểu ra ngay: “Bà San lại quậy nữa à?”
      “Em là Tôn Tĩnh Tĩnh kia mà!”. Bà San eo éo cãi lại. Cô y tá đưa bà ta ra, bà ta vừa giãy giụa vừa ngoái đầu lại nhìn Diệp Hinh bằng ánh mắt dữ tợn ai oán, hỏi lạnh lùng: “Tại sao chị lại không chơi với em?”



      #18
        PhongAnh 25.10.2006 03:23:29 (permalink)
        Chương 16
        Ánh trăng, mặt nát, nhập vai


        “Bà ấy cũng như tôi, sẽ không buông tha cô đâu” Diệp Hinh nghe câu này, cô lại rợn người, thì ra chị mặt sẹo đã đứng sau lưng cô tự lúc nào, khoái trá buông ra một câu. Hinh định nói mấy câu để tỏ ra cứng cỏi nhưng lại thấy làm như thế là dối mình và dối người. Cô mím chặt miệng, nước mắt trào ra. Chị mặt sẹo ngồi sà ngay vào ghế kê bên cạnh giường Hinh, lẩm bẩm nói: “Tôn Tĩnh Tĩnh, đã lâu không gặp cô ta! Cô biết không, đó chỉ là một trong vài chục vai của bà Uông Lan San . Hình như bà San luôn sắm vai Tĩnh Tĩnh để làm quen với các nữ sinh trường cô vào đây ngày trước… Đây là hiện tượng phân tách nhân cách điển hình, cô là sinh viên y khoa, chắc cô không thể không biết?”
        Hinh ghét cay ghét đắng chị ta, cô định ấn chuông xin trợ giúp nhưng lại nghĩ chị ta cũng chưa làm điều gì quá đáng, thì mặc xác chị ta vậy. Hinh bèn bỏ ra ngoài phòng. Ra hít thở không khí trong lành có lẽ sẽ dễ chịu hơn.
        Chị mặt sẹo bám theo luôn: “Tôi biết mà, cô không có bệnh gì hết”
        Hinh đứng lại ngay. Suốt bao ngày qua, đây là người đầu tiên nói thẳng với Hinh rằng cô chẳng có bệnh gì cả. Nhưng đáng buồn thay, người ấy lại là một bệnh nhân tâm thần!
        “Thực ra so với các loại bệnh ở cơ quan khác, tỷ lệ chẩn đoán sai bệnh thần kinh cao hơn nhiều” Câu nói này hoàn toàn không giống như của một bệnh nhân tâm thần. Hinh ngạc nhiên nhìn chị ta.
        “Chị rốt cuộc là người thế nào? Tại sao chị biết tôi không có bệnh?” Hinh cuối cùng cũng mở miệng nói.
        Chị mặt sẹo bình thản nói: “Tôi vốn là bác sĩ mà. Cô có cảm giác gì tôi là một bệnh nhân hay không?”
        “Nhưng tối qua chị lại giống như một con dã thú!” Hinh hậm hực nói
        “Sao lại có thể trách tôi gì được? Phòng này toàn là nữ, tôi có nhu cầu bản năng của tôi”
        “Chị bảo rằng chị không có bệnh, vậy tại sao chị phải ở đây bao năm trời?”. Chẳng hiểu ai xui khiến, thế là Hinh bắt chuyện với chị ta. Hai người cùng ra khỏi phòng, đi dọc theo hành lang.
        “Bởi vì xã hội chẳng chấp nhận tôi. Cô biết tại sao mặt tôi trở thành thế này không? Cô im lặng nhưng tôi biết lòng cô vẫn thầm hỏi, đúng không?”
        Hinh gật đầu và càng cảm nhận ra rằng người phụ nữ này không như các bệnh nhân bình thường khác
        “Sau khi tốt nghiệp đại học Y, tôi được cử đến làm việc ở một bệnh viện cấp thành phố. Ở khoa có một bác sĩ chính có chuyên môn rất cao, con người cũng rất phong độ, đám nữ y tá nữ bác sĩ trẻ đều rất say mê ông. Chỉ riêng tôi vì miệt mài với công việc nên ít khi cười đùa với ông. Nhưng ông ta hoàn toàn không như Liễu Hạ Huệ (tên thật là Triển Hoạch, người nước Lỗ thời Đông Chu, đức cao vọng trọng), tuy đã có vợ con nhưng lối sống vẫn rất tùy tiện, các nữ đồng nghiệp xán đến thì ông ấy “chiều” tất, lại vẫn thường xuyên “đánh tín hiệu” với tôi nữa. Tôi không muốn bị sa vào chốn rắc rối ấy, và cũng coi khinh nhân cách của ông ta nên tôi nhất quyết giữ một khoảng cách với ông ta.
        Một hôm chúng tôi được sắp xếp vào cùng một ca trực, tôi đang ở trong phòng trực ban ngồi viết bệnh án thì ông ta vào, toàn nói những chuyện trời ơi đất hỡi và “đụng chạm” vào tôi. Tôi phản đối nhưng ông ta không chịu dừng lại, rồi ôm chặt… xoa người hôn hít. Khi tôi đang gắng chống cự thì cửa phòng bỗng mở toang. Thì ra là vợ ông ta vẫn nghe đồn đại biết chuyện trăng hoa của chồng, nên bất thình lình tìm đến bệnh viện và bắt gặp ngay cảnh tượng này. Chị ta cho rằng chúng tôi đang vụng trộm, nên giận dữ chửi rủa một hồi, rồi quay ra. Vài phút sau chị ta quay vào, cầm một lọ axit sun-phua-ric tạt vào người tôi”
        Hai người bước vào vườn hoa trong sân bệnh viện. Đi dưới ánh nắng mà Hinh thấy rùng mình sởn gáy. Chị mặt sẹo nói mỗi lúc một gấp như là chị lại trải qua cái cảnh này.
        “Vì thế mà khuôn mặt tôi thành ra như hiện nay. Sau chuyện đó tôi rất đau khổ, âu cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng áng chừng họ sợ tôi sẽ có hành động trả thù gì đó, cho nên sau khi chữa lành vết thương cho tôi, họ tống tôi vào đây”. Chị mặt sẹo phẫn uất, tay bưng lấy mặt không dám nhớ lại thêm nữa.
        Diệp Hinh bắt đầu thấy cảm thông với chị.
        “Nhưng ít lâu sau các bác sĩ nhận ra rằng tôi không có vấn đề gì cả, bèn cho tôi ra viện, trở lại làm việc. Khi gặp lại người đàn ông kia, tôi không sao nén nổi, bèn xông vào bóp cổ hắn…”
        Hinh định kêu lên nhưng không thành tiếng vì chị mặt sẹo đã bóp ngay cổ cô, gằn giọng: “Tại sao, tại sao mặt ta thành ra thế này ngươi mới chịu nhìn ta?”. Thì ra chị ta nói năng toàn “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, nhưng Hinh không nghĩ gì khá, cô vung tay đấm vào người chị ta, nhưng vì cổ đang bị nghẹt thở nên nắm đấm cũng chẳng có chút sức lực nào.
        Tuy gọi là vào giờ “tự do hoạt động” nhưng vẫn có các y tá theo dõi các khu vườn hoa, chỉ hiềm chị chị mặt sẹo đã cố ý dụ Hinh đến sau ngọn giả sơn để thoát khỏi tầm nhìn của các y tá. Cho đến lúc có vài bệnh nhân đi đến nhìn thấy cảnh bạo lực này, các y tá mới chạy đến kéo chị mặt sẹo ra.
        “Cứ yên tâm, chúng tôi sẽ đưa chị ta sang khu bệnh nhân nặng… Chị ta rất hay lừa gạt người khác, cũng đã bình ổn được một thời gian dài, nhưng hễ trông thấy các cô gái xinh xắn thì chị ta lại giở chứng quái ác ra ngay… Chị ta mắc chứng hoang tưởng, trước kia đã từng yêu một anh có vợ, bị anh ta phớt lờ. Nhưng chị ta lại nghĩ trái khoáy, cho rằng vợ anh ta muốn hại mình! Thế là chị ta tự hủy hoại nhan sắc…” Chị y tá an ủi Diệp Hinh vẫn còn đang thấy sợ, nên đã kể cho cô nghe câu chuyện mà hầu hết các bệnh nhân ở đây đều đã biết.

        Nhưng Hinh lại không nghe thấy gì cả, cô nằm ngay đơ trên giường của mình, nhìn lên trần nhà cao, một câu hỏi lặp đi lặp lại mãi trong đầu cô: chẳng lẽ cuộc sống của mình cứ tiếp diễn mãi như thế này ư? Có phải mấy cô sinh viên trước kia nằm viện tâm thần đều vì trải qua cảnh ngộ này nên mới mất hết niềm tin để tiếp tục sống?
        Cơn đau đầu dữ dội bỗng lại ập đến.

        Về khuya các phòng trực ban y tá xung quanh chỉ bật đèn lờ mờ, Hinh bất đắc dĩ chìm dần vào giấc ngủ. Biết đến bao giờ mới có một giấc mơ đẹp?
        Dường như đêm nay cô có cảm giác rất tốt đẹp, vì nghe thấy tiếng piano dịu ngọt cùng một giọng nữ tuyệt hay:

        Ánh trăng sáng trong, nỗi sầu não lòng
        Tóc mai điểm bạc, em nhớ người thương

        Ánh trăng lạnh lẽo, khó nhòa nỗi buồn
        Lòng trống vắng, sao đêm mãi chưa tàn?

        Bước đi trong cô quạnh, nỗi sầu bi xé lòng
        Nhớ nhung da diết, tựa cửa sổ thư phòng
        Mong đuổi theo trăng tà, cùng chàng đi muôn phương.

        Giọng hát và tiếng đàn piano sao nghe quen quen, hình như từng nghe thấy trong những giấc mơ…
        Hinh biết đó là giai điệu của bản nhạc “Ánh trăng” của Bet-tô-ven. Chẳng lẽ trong các cơn ác mộng trước kia mình nghe thấy cũng là nó? Nhưng tại sao mình lại không nhận ra? Có phải là tại vì đang ở trong giấc mơ? Nhưng lúc này chẳng phải đang mơ là gì? Sao lại nghe thấy rõ như thế này?
        Tiếng hát và tiếng đàn này cũng thật lạ lùng, dường như nó đến từ nơi chân trời xa thẳm, nhưng lại như đang dìu dặt ở ngay căn buồng này. Hinh trở dậy, bước đi về phía có tiếng hát, đi đến bên cửa sổ ở một góc căn buồng. Dưới ánh sáng mờ mờ, thấy một bóng người mặc đồ trắng, tóc buông dài dưới vai đang tựa cửa sổ cất tiếng hát.
        Chất giọng này như một thứ âm thanh của thiên nhiên.
        Chắc là mình đang mơ? Nhưng Hinh không nghĩ gì nữa, tiếng hát tuyệt vời thế này dù đang là trong mơ thì vẫn khiến cô thấy rất dễ chịu – chỉ cần không nhìn thấy khuôn mặt nát bươm kia là được!
        Tiếng hát bỗng im bặt. Người mặc đồ trắng vừa hát bỗng quay đầu lại, đập vào mắt Hinh sau bức rèm cửa sổ là một khuôn mặt nát bươm.
        Tiếng kêu thét xen lẫn tiếng khóc vang khắp cả khu buồng bệnh nhân.
        Người phụ nữ áo trắng khẽ cười, đưa tay lên bóc gỡ mặt mình, khuôn mặt rách nát bỗng biến mất, chỉ còn lại khuôn mặt của bà già Uông Lan San. Thì ra khuôn mặt nát bươm kia chỉ là chiếc mặt nạ được vẽ cực khéo giống y như thật. Thấy có tiếng ồn, hai y tá trực ban vội chạy đến, nhìn cảnh trước mắt một cô y tá mắng gay gắt: “Lại là bà San! Bà đừng quấy nhiễu cô Hinh nữa được không?”. Còn cô kia thì bước đến giật bộ tóc giả khá dài của bà San xuống: “Bà lại kiếm đâu ra mấy cái của nợ này? Trong buồng bệnh nhân cấm dùng các vật dụng nguy hiểm kia mà!”
        Bà San lúc nãy đang có “eo thon”, bây giờ lại thẳng đơ đơ, vẻ mặt vô cảm: “Tôi hát là việc của tôi, tự cô ta ra nghe kia mà, sao lại nói là tôi quấy nhiễu?” Phát âm tròn trịa mềm mại đầy đặn như giọng một cô gái.
        Lúc này nỗi kinh hãi bất ngờ đến với Hinh đã bắt đầu chùng lại, cô nhìn thẳng vào mắt của bà San, đôi mắt ấy vừa có phần u uẩn vừa có vẻ phóng túng, hình như cô đã từng thấy ở đâu đó.
        Vậy bà San là một bệnh nhân như thế nào? Dường như bà ta đã tái hiện giấc mơ của Hinh. Bà ta biết được bao nhiêu đầu mối liên quan đến “vụ mưu sát 405”?
        Cô y tá đưa bà San về giường. Hinh bước theo hỏi: “bà là ai?”
        Bà San ngoái lại, cười tươi rói nhưng trả lời “lạc đề”: “Tôi hát có hay không?”
        Một nụ cười khiến người ta phải rung động, một bà lão ở tuổi thất thập sao có thể có nụ cười như thế này?
        “Rất hay. Không ngờ bà lại luyện được giọng hát hay đến thế!”
        “Vậy là tôi đã chẳng sống phí hoài hơn hai chục năm trời! Nhưng nói cho cùng tôi vẫn là một kẻ bỏ đi, chỉ biết chơi đàn, ca hát mà thôi. Bà San rầu rĩ thở dài.
        “Này, thực ra bà là ai?”
        Một cô y tá nói: “Thôi nào, cô Hinh vào ngủ đi! Cái vai mà bà ta sắm đêm nay, hình như… bà ta rất ít dùng. Tôi cũng không sao nhớ ra được nữa!”
        Cô y tá tuổi trung niên cười nói: “Thế thì phải phê bình cô vì tội chưa chịu trau dồi nghiệp vụ mới được! Đây là vai Trang Ái Vân, bà ta ít khi dùng. Tôi là ở đây lâu, đã chứng kiến vài lần, hình như chỉ diễn trước các cô sinh viên mà thôi!”
        Trang Ái Vân là ai? Tại sao lại giống cô gái áo trắng mà mình vẫn mơ thấy? Cô ta có liên quan gì đến khuôn mặt nát bươm? Bà San thực chất là người như thế nào? Các vai nhân cách khác nhau mà bà ta sắm, nảy sinh ra từ đâu? Nghe nói đa số người mắc bệnh nhân cách phân liệt thường chỉ sắm hai vai, nhưng tại sao bà San lại “biến tướng” nhiều như thế? Liệu có còn sắm thêm các vai quái dị khác nữa không?
        Hinh trở về giường mình, lòng đầy nghi hoặc băn khoăn, trằn trọc mãi vẫn không ngủ được. Cái tên Trang Ái Vân này hoàn toàn xa lạ. Hinh lần lượt điểm lại tên các cô sinh viên trong vụ “405”: Tưởng Dục Hồng, Du Tĩnh, Lý Thục Nham, Hạ Tiểu Nhã, Nghê Na, Trương Thiên Lộ, Thẩm Vệ Thanh… không hề thấy có tên Trang Ái Vân. Phải chăng cô ta là nhân vật mở đầu trong sê-ri nạn nhân này?
        Hinh phát triển hướng suy nghĩ của mình: lạ thật, nạn nhân đầu tiên là Du Tĩnh thì chưa hề đi viện tâm thần, Dục Hồng là bạn thân của Du Tĩnh. Theo điều tra của anh Bành thì lúc Du Tĩnh nhảy lầu thì Dục Hồng đang nằm viện – tức là vì nằm viện cho nên Dục Hồng mới tránh được cái chết thuộc về năm thứ nhất. Nhưng có cái âm khí lạnh lẽo đã bao phủ lên phòng 405 để đến nỗi năm sau Dục Hồng cũng lại nhảy lầu? Để rồi nhà trường không những phải đóng cửa căn phòng mà còn đưa ra quy định “luân lưu đến ở”. Tức là học xong năm thứ nhất thì các nữ sinh phải chuyển đến ký túc xá của các chị sinh viên năm cuối vừa tốt nghiệp, “đẩy” mối chết chóc cho sinh viên mới vào trường.
        Suy luận từ sự việc của Dục Hồng, nếu ngày 16 tháng 6 sắp đến mình vẫn đang nằm viện, liệu mình có thể thoát nạn hay không?
        “Tiếc rằng cô cũng như tôi, phải chết là cái chắc!” Lời một cô gái vẳng đến tai Hinh, đậm chất giọng miền Giang Nam nói tiếng phổ thông.
        Hinh thót tim định kêu lên. Cô căng mắt nhìn trong bóng tối mờ mờ thấy một cô gái ngồi trên chiếc ghế đặt cạnh giường cô, mái tóc buông lửng phủ che kín mặt nên không thể nhìn rõ.
        “Chị là ai?” Hinh thấy quá lạ lùng, cô bỗng trở nên can đảm, cô không bấm chuông xin gọi trợ giúp.

        “Là Tưởng Dục Hồng”
        Từng đợt giá lạnh đang dần bủa vây lấy cô, không phải vì Dục Hồng đã chết từ lâu mà là vì người con gái đang đứng bên đã nhìn thấu tư tưởng của cô. Cái khả năng này quá đủ để người ta cảm thấy nghẹt thở. Nhưng nỗi sợ hãi cũng tựa như thuốc phiện, có thể gây nghiện. Lúc này Hinh hoàn toàn có thể kêu lên hoặc bấm chuông cầu cứu, nhưng cô chỉ hơi thẳng người lên và quyết định phải hỏi xem sao, tuy thế nỗi sợ hãi vẫn xen trong giọng Hinh run run: “Tưởng Dục Hồng… đã chết 16 năm trước, vậy chị là người… hay là ma?”
        “Cô tin rằng trên đời này có ma thật không?”
        “Trước đây tôi không tin… nhưng bây giờ cũng không rõ nữa. Đã có quá nhiều sự việc không sao giải thích nổi xảy ra với tôi, tôi chẳng biết có nên tin ở đôi mắt đôi tai của mình nữa hay không…”
        “Trước kia tôi đã về đội sản xuất ở vùng núi Quý Châu, bên ngoài bản là một vách núi hoang vu, trên đó có treo mấy cỗ quan tài (tập quán Phong Táng của một số dân tộc ít người ở TQ: không chôn mà chỉ đặt quan tài lên đó, thậm chí có nơi còn không đặt quan tài). Dân bản đều nói rằng trên vách núi và dưới vực sâu đều có ma, nhưng mấy thanh niên học sinh chúng tôi vì buồn tẻ, lại muốn xóa bỏ mê tín dị đoan nên rủ nhau ra đó vào lúc nửa đêm. Lại còn cá với nhau rằng ai thấy sợ phải bật đèn pin thì người đó phải khao cả bọn một chầu. Cứ thế chúng tôi ra đó vài đêm, chẳng thấy chuyện gì xảy ra cả. Sau này chúng tôi lần lượt trở về thành phố, ai cũng vẫn khỏe mạnh như bình thường”
        “Các chuyện ấy toàn là mê tín, làm gì có ma, đúng không? Người khác nói với tôi điều này tôi còn tin, nữa là chị nói”
        “Cô đang suy luận, chứ tôi chưa nói với cô điều gì cả”. Dục Hồng bỗng hơi dựa người ra phía trước, chỉ tay vào thái dương của mình và nói: “Tất cả, tất cả đều nằm ở đây! Có là ở đây, không có cũng là ở đây!”
        “Vậy thì mùa xuân năm ấy đã xảy ra chuyện gì?”
        “Bạn thân nhất của tôi là Du Tĩnh chết”
        “Tại sao chị lại phải vào nằm viện này?”
        “Họ bảo rằng tôi mắc phải chứng tâm thần phân liệt. Mùa xuân năm đó tôi bỗng nhiên nghe thấy những tiếng nói mà người khác không nghe thấy, nhìn thấy những thứ mà những người khác không nhìn thấy gì. Tôi thường nghe thấy có người nói bên tai tôi “Ánh trăng”, nhưng tôi chẳng hiểu là gì, thường mơ thấy các hình ảnh thời cách mạng văn hóa ở Đại học Y số 2 Giang Kinh. Nên tôi bèn hỏi khắp mọi người xung quanh “Ánh trăng là gì? Nó có liên quan gì đến Đại học Y Giang Kinh ” Nhưng chẳng ai trả lời tôi, trái lại họ đưa tôi vào viện này”
        “Chị Du Tĩnh đã chết như thế nào? Có liên quan gì đến bệnh của chị không?”
        “Không liên quan gì đến tôi. Nhưng cô ấy phải ra đi là cái chắc”. Từ bình tĩnh, Dục Hồng chuyển sang bất an
        “Tại sao chị lại nói thế?”
        “Cái tiếng nói kia, ngoài từ “ánh trăng” ra còn hay nhắc với tôi về ngày 16 tháng 6. Tôi còn một giấc mơ mà chưa dám kể với ai…”
        “Đó là về một cô gái áo trắng, một thứ âm nhạc rất hay, và một khuôn mặt nát bươm, phải không ạ?”
        “Đại loại là thế, nhưng còn có một bóng người nhảy lầu, một chiếc đồng hồ tây treo tường thường đổ chuông đúng 12h đêm”
        “Thật khủng khiếp” Hình ảnh người nhảy lầu và chiếc đồng hồ tây không xuất hiện trong những giấc mơ của Hinh thì Hinh có nên thở phào không?
        “Tôi đã có linh cảm, thấy rằng ngày 16 tháng 6 có thể xảy ra chuyện. Khi Du Tĩnh vào thăm hỏi, tôi đã dặn bạn ấy rằng đêm ấy không được ngủ ở phòng 405 mà phải tìm cách đi ngủ nhờ ở tầng 1. Tôi còn dặn bạn ấy đừng nói chuyện này với bất cứ ai, nếu không cơ hội ra viện của tôi sẽ càng xa vời. Ý nghĩ này thật hão huyền, nhất là với một bệnh nhân tâm thần! Nhưng tôi thật sự lo lắng cho Du Tĩnh, người bạn rất thân của tôi. Đúng là bạn ấy tuy đã giữ kín chuyện nhưng bạn ấy đã không chịu nghe lời khuyên của tôi”
        “Chị đã có linh cảm, tại sao năm sau chị lại cũng đi vào ngõ cụt như thế? Chị tự sát hay sao?”
        “Tôi chẳng biết nữa, có lẽ là thế cũng nên. Trước khi chết, tôi mắc chứng trầm cảm rất nặng nề, chắc là vì cái chết của Tĩnh đã khiến tôi suy sụp chán nản. Tôi đang đi tìm hiểu xuất xứ của “ánh trăng” nhưng vẫn không có chút tiến triển nào. Tôi cũng rất nản lòng. Tháng 4 tháng 5 năm đó tôi đã nằm viện, đến cuối tháng 5 thì ra viện. Các sự việc tiếp theo thì cô đã biết rồi”
        “Tại sao lại có thể không biết về chuyện của mình? Tại sao chị lại kể với tôi những điều này?”
        “Mọi chuyện mà số phận đã sắp đặt thì ta không thể nào làm thay đổi được”
        “Uông Lan San tại sao tôi phải tin bà nhỉ?” Hinh bỗng đưa tay ra ấn nút chuông xin trợ giúp, nhưng tay cô cứ bất động giữa khoảng không và dừng lại ở đó. Cô thở dài: “Bà San hãy về mà ngủ đi, tôi thấy mệt rồi”
        “Tôi là Tưởng Dục Hồng”
        “Được! Dục Hồng, chị là người hiểu biết, tôi mệt, tôi muốn đi ngủ”. Thì ra là lúc Dục Hồng giơ tay chỉ vào đầu mình, Hinh đã nhận ra bàn tay khẳng khiu ấy không thể là tay của một cô gái trẻ, nên đoán ra là bà San đang giở trò quái dị. Chị mặt sẹo tuy ác độc nhưng cái câu kia chị đã nói không sai, dường như bà San nhất định không chịu buông tha Hinh. Tại sao bà ta cứ phải làm thế? Chẳng lẽ đó chỉ là các trò quái quỷ ngẫu hứng của một bệnh nhân tâm thần? Hinh chợt nảy ra ý nghĩ, mình không nên đánh động đến một người mắc chứng nhân cách phân liệt đang chìm đắm trong một vai khác, chưa biết chừng có thể thông qua bà ta để tìm hiểu rõ bối cảnh của “vụ án mưu sát 405” cũng nên.
        Nhưng liệu có phải là “đùa với lửa tự thiêu mình”, để rồi sẽ bị rơi vào nguy hiểm còn dữ dội hơn không?
        Bà San giơ tay che miệng ngáp dài, lúc này đã lộ rõ vẻ mệt mỏi, không quấy nhiễu thêm nữa đứng dậy rồi quay đi. Đi được mấy bước bỗng ngoảnh lại nói: “Tôi còn quên chưa nói với cô, mấy thanh niên học sinh chúng tôi năm xưa nghịch ngợm ở vực sâu bên vách núi, đến năm 1978 chỉ mình tôi còn sống”
        Tiếng bước chân xa dần, Diệp Hinh mãi vẫn không sao ngủ được, hễ nhắm mắt là lại hiện ra bóng mấy cô thanh niên học sinh – như những hồn ma đang vật vờ ở vực sâu bên núi. Bà San nói là có ý gì vậy? Bà ta mắc chứng nhân cách phân liệt, có thể mô phỏng rất giống ngôn ngữ cử chỉ của một ai đó, điều này không có gì lạ, điều kỳ lạ là tại sao bà ta biết rõ mọi sự việc về Tưởng Dục Hồng, các bí ẩn sâu kín của Dục Hồng cũng được bà ta miêu tả rất thật?
        Đương nhiên, tất cả có thể chỉ là những chuyện bịa đặt cực khéo!
        Rất nhiều ý nghĩ vụt lướt qua trong óc Diệp Hinh, cô lại thấy râm ran nhức đầu. Đúng là thân làm tội đời. Từ sáng đến tối ở bên những nhân vật như chị mặt sẹo và bà San, mình chưa phát điên đã là may rồi chứ còn có thể giải mã được điều bí hiểm gì nữa? Nên nhân lúc này nghỉ ngơi một chút thì hơn, đúng là vừa rồi thần kinh đã quá căng, cứ như là đang đi bên bờ vực thẳm, có thể sảy chân rơi xuống bất cứ lúc nào.
        #19
          PhongAnh 27.10.2006 00:16:57 (permalink)
          Chương 17

          KHẮC KHOẢI NHỚ NHUNG


          Hinh lấy làm may mắn vì mình vẫn còn tỉnh táo – ít ra là cô tự cho mình như thế - nhưng cũng đủ để khiến cô dám ngẩng đầu đối mặt với cái hoàn cảnh kỳ quái hiện tại và tương lai mờ mịt chẳng rõ sẽ đi về đâu.

          Đã không thể ngủ được thì chi bằng ra ngoài kia đi dạo, để cho mình nhanh chóng tĩnh tâm trở lại.

          Hinh đi thật khéo léo nhẹ nhàng, cũng có phần hồi hộp vì sợ sẽ bị các bệnh nhân và y tá trực ban trông thấy. Chỉ đi một đoạn đã đến bên giường bà San.

          Bà ta đã ngủ say, đang ngáy khe khẽ. Hinh liếc thấy trên mặt cái tủ con kê bên đầu giường có vài quyển sách, cô thấy tò mò bèn bước lại nhìn dưới làn ánh sáng lờ mờ. Xếp trên cùng là cuốn “Chuyên luận về nghệ thuật sân khấu”, và các cuốn khác: “Nghệ thuật đóng phim”, “Nhập vai”, “Lý luận về biểu diễn”, “Tân Kim Lăng thập nhị hoa – nữ ngôi sao điện ảnh Trung Quốc thập kỷ 40”.

          Thảo nào mà bà già này rất mê sắm vai, thậm chí bà đã “nhập vai”; từ chỗ bắt chước người khác, rốt cuộc đã mắc bệnh sắm vai thể hiện nhân cách của đủ hạng người! Hinh có phần cảm thông với bà Uông Lan San.

          Phía dưới mấy quyển sách là một quyển sổ khá to, cầm lên xem, thì ra nó là một tập phác thảo ký họa. Bà San là con người thật đa tài! Hinh tò mò mở ra xem, ngay trang đầu đã khiến cô giật mình suýt đánh rơi cuốn sổ: đó là bố cục của cảnh vừa nãy bà San sắm vai – một cô gái áo trắng, tóc dài đứng bên cửa sổ, phía sau trên gáy lại là một khuôn mặt rách nát!

          Hinh vội đặt ngay cuốn sổ phác thảo xuống, cứ như là đã tránh thoát được một thứ đồ xúi quẩy. Cô rời khỏi chỗ bà San, rồi đi quanh khu buồng bệnh hai vòng, cảm thấy mình đã tĩnh tâm trở lại nhưng cơn mệt mỏi lại kéo đến. Khi trở lại giường của mình, cô thấy một người đang nằm trên đó!

          Hinh cố định thần nhìn quanh, xác định rằng mình không đến nhầm chỗ, rồi mới nhìn kỹ người đang nằm trên giường – lại là bà San! Hinh thầm nguyền rủa bà ta thật là “khó nhằn”, rất không biết điều. Cô ấn nút chuông xin trợ giúp.

          “Cô nỡ đuổi tôi đi thật ư?”

          Hinh hít thật mạnh một hơi khí lạnh, suýt nữa thì ngã, cô vội bám lấy cái ghế bên giường. Vì cô nhận ra đây là giọng nói của Thẩm Vệ Thanh!

          “Bà San, bà không chịu buông tha tôi thật ư? Thực ra bà muốn gì?”
          “Tôi là Thẩm Vệ Thanh, sao cô phải sợ tôi? Tôi chỉ muốn nói chuyện với cô thôi.”
          “Bà không phải Vệ Thanh, bà là Uông Lan San! Bà ra khỏi giường tôi đi, nếu không sẽ gọi y tá!” Lần đầu tiên Hinh gắt gỏng với bà ta.

          Bà San trở dậy ngồi thẳng đơ trên giường, nhìn chằm chằm vào Hinh, dù ánh sáng rất yếu nhưng Hinh vẫn nhận ra đôi mắt đau khổ của một cô gái trẻ đã phải nếm trải bao nỗi gian truân – chính là đôi mắt của Thẩm Vệ Thanh!

          Và Hinh đã hiểu: bà San sẽ không buông tha cô, cô sẽ không thể thoát.

          “Vệ Thanh đã chết, bà đâu có phải là…” Hinh không tin và cũng không muốn tin người đàn bà đang ngồi trên giường là Thẩm Vệ Thanh.

          “Cô có tư cách gì mà dám nói không phải? Năm 1986 tôi vào đại học y khoa số 2 Giang Kinh, hồi đó gọi là học viện y khoa số 2 Giang Kinh. Tôi là người Nghi Hưng, Hàng Châu. Tháng 4 năm 1987 tôi vào viện này, ông Từ Hải Điền là bác sĩ điều trị, bệnh của tôi đã chuyển biến rõ rệt… Sao cô lại nói là tôi đã chết?”

          “Chị đã nghe nói đến “ánh trăng” bao giờ chưa?” Hinh không trả lời, cô hỏi lại đối phương.
          Bà San bắt đầu thở gấp, rất giống phản ứng của Vệ Thanh hồi nọ: “Đương nhiên là có nghe nói, nhưng cô đừng hỏi làm gì, tôi sẽ không nói đâu!”
          “Với tôi, điều này đã chẳng còn là bí mật nữa, chị quên rồi à: chính chị nói với tôi rằng “ánh trăng” tức là nói về “Nguyệt Quang xã”. Tôi không hiểu tại sao lúc đầu chị không muốn nói, nhưng cuối cùng chị vẫn nói với tôi.”
          “Nói, thì sợ cô sẽ đi đến cái chết; không nói, thì sợ rằng cô chết sẽ không thể nhắm mắt được.” Vệ Thanh lạnh lùng nói.
          Đây là Uông Lan San hay là Thẩm Vệ Thanh? Cảm giác của Hinh lúc này dường như không có ranh giới rõ ràng.
          “Biết về ‘Nguyệt Quang xã’, chẳng phải là sẽ càng tiến gần đến sự thật hay sao?”
          “Chưa chắc là sẽ tiến gần đến sự thật, nhưng có thể khẳng định rằng sẽ tiến rất gần đến sự đau khổ vô bờ bến! ‘Nguyệt Quang xã’ và ‘vụ án mưu sát 405’ có mối liên hệ gì, ai có thể nói cho rõ được đây?”
          “Tại sao chị lại biết về ‘Nguyệt Quang xã’?”
          “Chỉ là ngẫu nhiên thôi. Hồi đó tôi là một cô gái rất yêu đời, tôi và mấy người bạn có chung sở thích đã tổ chức ra một hội nhiếp ảnh. Nhà trường rất ủng hộ việc này nhưng lại không có điều kiện bố trí cho chúng tôi buồng tối. Chúng tôi đành mượn một tầng hầm dưới sàn nhà khu hành chính cũ để làm buồng tối, nơi đó đang là phòng hồ sơ. Hồi đó tôi cũng bị ‘ánh trăng’ ám ảnh, cố đi tìm lời giải đáp, thế rồi phát hiện ra hồ sơ về ‘Nguyệt Quang xã’ – nói về một tổ chức đặc vụ hoạt động trước và sau cách mạng văn hóa. Đọc nó, tôi thấy hầu như rất nhiều thành viên của nó đều nhảy lầu tự tử, nên đoán rằng chưa biết chừng ‘Nguyệt Quang xã’ có liên quan đến "vụ án mưu sát 405’ cũng nên.”
          “Chị có nhìn thấy một cuốn nhật ký không?”
          “Có thấy nó nằm trong hồ sơ năm 1967, tôi đoán rằng cuốn nhật ký chẳng thể đưa ra một kết luận gì nên không mấy quan tâm. Tôi chỉ đọc một số tài liệu trong tập hồ sơ, rồi bị đưa vào đây… Vậy là cô cũng đọc nó?”
          Hinh gật đầu, hỏi: “Tại sao chị nói là đọc các hồ sơ ấy thì sẽ càng tiến gần đến cái chết?”
          Vệ Thanh hơi run run: “Đó là cảm giác của tôi. Từ sau khi đọc hồ sơ ấy hình như tôi đã bước vào một đầm lầy và ngày càng lún sâu hơn. Lúc nào cũng có một nỗi sợ hãi rất khó hiểu và hết sức dữ dội bủa vây tôi, dẫn tôi đến bên vực thẳm. Nghe nói vậy có vẻ rất hão huyền phải không? Tất cả đều là cảm giác, mọi tư duy và hành động của tôi đều bị nỗi sợ hãi ấy khống chế ở khắp mọi nơi.”

          Lúc này lại đến lượt Hinh run rẩy. Cô nhớ đến các sự việc xảy ra trong trạm phát thanh, và những hiện tượng sau đó khi vào nhà giải phẫu – chẳng phải là nỗi sợ hãi rất khó hiểu và hết sức dữ dội hay sao? Phải chăng mình đã đi vào con đường cũ của Thẩm Vệ Thanh?

          “Nhưng, trong số các nữ sinh phòng 405 nhảy lầu, chị là người duy nhất may mắn sống sót. Chị có còn nhớ đã xảy ra chuyện gì, cái gì đã thôi thúc chị nhảy lầu, và chị đã được cứu sống như thế nào không?”

          “Tôi không nhớ, cũng không muốn biết về những điều này. Tôi bằng lòng với điều cô nói lúc nãy: thực ra, tôi đã chết rồi mà!”

          Hinh lập tức nhớ lại hình ảnh Vệ Thanh đang nhảy lầu rơi xuống, xót xa nghẹn ngào, cô trào nước mắt. Không thể ngồi thêm nữa, Hinh đứng lên: “Chị… hãy nghĩ vậy, tôi phải ra ngoài kia…”

          “Cô đừng đi. Hãy nói xem tại sao cô biết tôi đã chết rồi? Lúc đó cô có mặt à?” Vệ Thanh xuống giường, bước đến gần Hinh.

          “Tôi không biết nữa…” Hinh cố nén khóc, cô lùi lại.
          “Hình như nước mắt của cô pha lẫn sự cắn rứt, chuyện là thế nào vậy? Tôi đã chết ra sao?” Giọng Vệ Thanh dần gay gắt hơn, ánh mắt sắc như dao đâm vào trái tim Diệp Hinh đau nhói.

          “Chị đừng dồn ép tôi…” Hinh thấy sự yếu mềm của lòng cô đã bị nhìn thấu, cô biết lòng cô chôn sâu một nỗi cắn rứt – nếu không có chuyến đến thăm của cô thì Vệ Thanh sẽ không phải chết. Ý nghĩ này vẫn cắn rứt Hinh nay bị phơi ra thật lạnh lùng, đẩy Hinh đến chỗ nát tan một cách tuyệt vọng.

          “Có phải là tại cô, có phải tại cô đã…” Vệ Thanh nghẹn giọng, truy hỏi bằng được, cô giơ hai tay, vừa như cầu khẩn, vừa như tỏ ý quyết không cho Hinh đang bước lùi lại có cơ hội được lẩn tránh.

          Cuối cùng, Hinh nức nở òa khóc thảm thiết.

          Ánh đèn mờ nhạt ở phòng y tá trực ban bỗng sáng lên.

          Đã đến giờ giao ban khám phòng. Ông Đằng Lương Tuấn nghe bác sĩ nội trú trực đêm qua báo cáo: nữ bệnh nhân mới vào – cô sinh viên Diệp Hinh – đêm qua lại không ngủ ngon, ông Tuấn cau mày. Hỏi nguyên nhân, thì ra lại là bệnh nhân cũ Uông Lan San lên cơn, sắm ba vai bệnh nhân ngày trước để quấy rối Diệp Hinh.

          Uông Lan San!

          Ông Tuấn chỉ còn biết lắc đầu. Trong chuyên môn, ông vốn không bao giờ chịu lùi bước, nhưng đối với bệnh nhân San thì ông có cảm giác phải bó tay. Người này mắc chứng nhân cách phân liệt hiếm thấy. Thông thường là, bệnh nhân mang đặc trưng nhân cách của mình và có thêm một đặc trưng nhân cách của một người khác mà đương sự tưởng tượng ra. Hiện tượng “phân thân” thành ba loại nhân cách trở lên là cực kỳ hiếm thấy, mặc dù từng có thông tin nói về các trường hợp phân liệt thành hơn mười loại nhân cách, nhưng phần nhiều lại là chẩn đoán sai, chủ yếu là ở khâu phân tích của chuyên gia thần kinh. Nhưng bệnh nhân San đã trải qua nhiều lần chẩn đoán xác đáng, rằng bà ta có thể “sắm vai” 68 loại nhân cách khác nhau, con số này mỗi năm vẫn đang tăng lên. Vì thế bà ta trở thành bệnh nhân nổi tiếng kỳ lạ của giới y học, các chuyên gia bệnh học thần kinh khắp nơi đã đến nghiên cứu và điều trị - thậm chí các chuyên gia hàng đầu từ Âu – Mỹ đã lặn lội sang đây nghiên cứu tỉ mỉ nhưng vẫn không sao nắm bắt được thực chất. Điều lạ lùng là, ngoài vai nhân cách của mình, thì các vai nhân cách kia không hề là do tưởng tượng ra, mà đều là của những người mà đương sự đã từng tiếp xúc. Đương nhiên, phần lớn cuộc đời bà ta sống trong bệnh viện tâm thần, cho nên, xét về hiện tượng thì thấy rằng các vai nhân cách mà bà ta thể hiện đều là mô phỏng các bệnh nhân tâm thần đã từng nằm ở viện này.


          Biên bản của trực ban cho thấy: đêm qua bệnh nhân San lên cơn, lần lượt sắm vai Trang Ái Vân, Tưởng Dục Hồng, Thẩm Vệ Thanh. Dục Hồng và Vệ Thanh đều là sinh viên đại học y Giang Kinh từng nằm viện này. Còn Trang Ái Vân là ai?

          Mùa xuân là thời kỳ dễ mắc bệnh thần kinh, các yếu tố kích thích đặc thù nào đó sẽ làm bệnh nặng hơn và tăng số lần lên cơn. Ông Tuấn gần như có thể khẳng định rằng việc Diệp Hinh nhập viện đã khiến bà San trở nên bất an.

          Ông Tuấn ghi y lệnh vào bệnh án của Uông Lan San, và nhấn mạnh với y tá: “Các vị đừng quên gọi điện đến phòng làm việc của tôi, nắm vững chương trình tôi bố trí, rồi sắp đặt điều trị theo hướng phân tích tinh thần cho bệnh nhân San, cần phải làm khẩn trương!”

          Nhìn qua cửa kính của phòng y tá, ông Tuấn nhìn thấy bà San với cái lưng còng đang dờ dệt bước đi. Ông không sao hiểu nổi: “Bà ta cứ bám riết lấy Diệp Hinh để làm gì nhỉ?”

          “Tại sao đêm qua bà San cứ theo dõi mình mãi?”
          Hinh vừa tỉnh dậy đã nghĩ ngay đến câu hỏi này.
          Hinh bị quấy nhiễu đến khuya, các y tá phải cho uống thuốc an thần, rồi cô mới ngủ được. Bây giờ tỉnh dậy thì trời đã sáng từ bao giờ, các bác sĩ khám phòng theo thông lệ cũng đã kết thúc.

          Hinh thấy cô độc chỉ muốn òa khóc.

          Mới hôm qua cô còn cho rằng mình cứng cỏi và có bộ não tỉnh táo, có thể thích nghi với môi trường để ráng chịu cho qua giai đoạn này, cô nên nghe lời các bác sĩ để tranh thủ sớm ra khỏi đây. Nhưng sau hai đêm liền phải sợ hãi như thế, cô không biết mình có thể chịu đựng được bao lâu?

          Đáng sợ nhất là cảm giác cô độc.

          Đã thấy rõ hậu quả của việc “giao lưu” với bà San và chị sẹo mặt là gì rồi. Hinh sẽ không tiếp xúc với bệnh nhân nào khác nữa, điều này trái với bản tính của cô nhưng cô không còn sự lựa chọn nào khác. Tại sao bọn họ lại làm thế? Khiến cho mình như kẻ bị bắt mất hồn vía, lại không cho mình được ngủ yên – rõ ràng là chẳng tử tế gì. Phải chăng – như “Thẩm Vệ Thanh” nói đêm qua – đây là một “đầm lầy” mỗi lúc một lún sâu? Nhưng dù sao họ cũng đã có “gặt hái”, mình đã thật sự cô độc mất rồi.

          Hinh ra khỏi giường, thấy bác sĩ Tuấn đang ngồi ở phòng y tá ghi biên bản khám phòng. Cô rảo bước đi đến đứng bên ngoài cửa hỏi: “Cháu muốn làm phiền bác sĩ Tuấn một chút!”

          Ông Tuấn quay ra nhìn, thấy Diệp Hinh, ông vội đứng lên hỏi thăm: “Đêm qua cô Hinh nghỉ ngơi có tốt không?”

          “Cháu muốn hỏi bác sĩ, liệu cháu còn phải ở đây bao lâu nữa?”

          Nhìn đôi mắt buồn rười rượi của Hinh, ông Tuấn thấy ái ngại, nhưng ông biết, với vai trò một bác sĩ thần kinh thì cần phải hiểu rằng lý trí phải đứng trên sự thông cảm, ông ôn tồn trả lời: “Kể cũng khó nói rõ, cũng có thể là một hai tháng chẳng hạn, còn tùy thuộc tình hình bình phục của cô.”

          “Nhưng… bọn họ sẽ không chịu buông tha cháu.”

          Ông Tuấn ngớ ra, nhưng chợt nhớ đến các sự việc xảy ra hai ngày qua đối với Hinh, ông nói: “Đừng lo, chúng tôi sẽ chuyển bệnh nhân đã xử tệ với cô sang buồng khác, bà San chưa có hành vi bạo lực đối với cô, thì tôi sẽ có cách, sẽ điều chỉnh thuốc và điều trị phân tích thần kinh, nhất định sẽ khống chế được bệnh tình của người này…”

          “Nhưng cháu vẫn sợ, cháu cảm thấy họ có mục đích gì đó.”

          Ông Tuấn quan sát kỹ Diệp Hinh, thấy cô đầu tóc rối tinh, sắc mặt nhợt nhạt. Một cô gái đang mơn mớn sắc xuân mà lại quên chải tóc soi gương, thì đúng là đã từ lâu bị ám ảnh bởi ý nghĩ vu vơ “mình là người bị hại” – khi ở trường, cô ta lo mình sẽ trở thành nạn nhân của “vụ án mưu sát 405”, nay lại cảm thấy có bệnh nhân chưa từng quen biết lăm le hãm hại mình! Cái cảm giác “bị bức hại” là một trong những đặc trưng điển hình của bệnh tâm thần phân liệt.

          Việc điều trị cho cô gái này vẫn còn một chặng đường khá dài.

          “Cô cứ yên tâm nghỉ ngơi. Giờ hoạt động tự do, hãy chịu khó đi bách bộ, tập thể dục, và gắng đừng nghĩ đến chuyện này. Tôi sẽ nhanh chóng thu xếp để nói chuyện với cô, xem xem nên giúp đỡ cô thế nào là tốt nhất.”

          “Cháu mong bác sĩ sẽ cho cháu được sớm ra viện.” Đôi mắt Hinh đầy vẻ cầu xin, nhưng giọng cô rất kiên quyết.

          “Sẽ cố gắng sớm nhất, nhưng tôi vẫn phải có trách nhiệm với cô.”
          “Nếu có trách nhiệm với cháu thì hãy để cháu rời khỏi đây!” Hinh có phần không kiềm chế được, nói xong, cô có phần hơi hối hận.

          “Rời khỏi đây, cô thấy sẽ an toàn hơn hay sao?” Ông Tuấn càng thêm tin chắc Hinh cần phải nằm viện lâu dài, nói câu này, ông cũng cảm thấy mình hơi thiếu kiềm chế.

          Hinh đã bị câu này tác động: đúng thế, ở đâu có thể khiến mình cảm thấy an toàn đây?

          “Cùng là phải lo lắng sợ hãi, cháu thà sống ở thế giới bên ngoài còn hơn!” Hinh biết khó có thể lay chuyển được sự sắp đặt của ông Tuấn, cô lạnh lùng buông một câu rồi quay ra.

          Ngoài kia là ánh mặt trời tươi sáng.
          Có lẽ ánh nắng có thể soi sáng lòng ta.
          Hinh bước vào ánh nắng mặt trời.

          Mấy ngày qua mưa nắng bất thường, lúc này mặt trời lên cao rực rỡ, không khí tươi mát mà mượt mà. Bước vào vườn hoa, Hinh có cảm giác được thư thái hơn. Nhưng từng tốp bệnh nhân đi ngang qua khiến cô lại thấy mình như một đóa hoa rừng cô độc lạc lõng. Lúc này cô dám đánh đổi tất cả để có được một người bạn tri âm mà trò chuyện. Cô thậm chí thấy bức xúc muốn được hét vang trời: hỡi những người mà tôi yêu, hỡi những người mến yêu tôi, mọi người đang ở đâu? Nhưng mẹ cô đã mải miết đi rồi (Hinh có phần ai oán – sự nghiệp, có thật là quan trọng đến thế không?), Âu Dương Sảnh thì nghỉ ở nhà, nhưng Tạ Tốn thì sao?

          Anh chàng Tạ Tốn từng nói là yêu mình đâu rồi?
          Có lẽ anh ta nghe nói mình phải nằm viện tâm thần, nên nhân đà này đã bỏ rơi mình luôn!
          Ý nghĩ này chợt đến, khiến Hinh thấy sống mũi mình cay cay.
          Diệp Hinh, thì ra nhà ngươi thật quá ư yếu mềm!
          Hinh dường như chẳng còn can đảm để đi tiếp nữa, cô dừng chân bên một gốc cây du to, nhắm mắt lại để ngăn dòng nước mắt đang định trào ra. Hay là mình đã có bệnh thật? Lòng cô nặng trĩu: lúc này chính cô cũng không nhận ra mình nữa, sự nhạy cảm, nỗi đa nghi này nọ còn dành để cho bao chuyện vặt vãnh bủa vây đè nén trong lòng nữa là, nói gì đến nhớ nhung một anh chàng gần như đã lặn biệt tăm!

          Đúng! Đã đến lúc mình nên thật sự lãng quên anh ta!
          Trừ phi anh ta bỗng dưng xuất hiện như có phép lạ, đem đến cho mình ánh dương tràn trề đầy ắp!

          Khi con người ta cõi lòng gần như nguội lạnh, sắp phải đầu hàng nỗi tuyệt vọng thì mới hay ước mong phép lạ sẽ đến với ta.

          Hinh biết mình thật đáng thương, nhưng cô bất lực, ngay nước mắt trào ra cô cũng không ngăn nổi.

          Chính lúc hai hàng lệ thấm ướt mi, thì có một bàn tay đưa ra lau nước mắt cho Hinh.
          Hệt như Tạ Tốn ngày nào.
          Đúng là Tạ Tốn.
          Ý nghĩ đầu tiên của Hinh là đi gặp bác sĩ Tuấn, ông ta nói không sai: mình bị ảo giác quá mạnh, cần được điều trị thần kinh một cách có bài bản. Nhưng Hinh nhìn kỹ, và đụng tay vào nữa, cô có được một kết luận “hão huyền”: đúng là phép lạ đã xuất hiện!

          Hinh thấy hơi hoang mang không biết nên đón nhận vô số cảm giác bất ngờ này như thế nào. Cô không nói được một lời, đột ngột đứng dậy bước đi như một con nai vàng bất chợt bị giật mình. Có lẽ vì cảnh trùng phùng này đã được “tập dượt” trong đầu cô quá nhiều lần, đến khi lên sàn diễn thật thì lại “bị khê” vì hồi hộp trước khán giả đông đúc!

          Với anh, vẻ mặt mình nên lạnh lùng? Hay là nên khóc than trách móc? Hay là hãy mặc anh ấy ôm choàng, mình sẽ kể với anh bao nỗi nhớ nhung?

          Có lẽ mình chỉ nên hỏi một câu: tại sao anh không để cho em quên hẳn anh đi?
          “Hinh em, anh đã đến với em rồi mà!”
          “Em dường như cũng mong anh đến...” Hinh định nói thế, nhưng cô lại thôi.
          “Mấy hôm nay anh không sao tìm được cơ hội để thoát thân, tìm em cũng rất khó, anh vẫn từng giây từng phút nhớ đến em, có lúc nghĩ mãi, nghĩ đến buốt cả óc!”
          Đúng thế: nhà trường rất nghi hoặc về các hành động của mình – nhất là về chuyến đi Nghi Hưng – thì tất nhiên sẽ không buông tha anh. Anh biết không, lúc nhớ anh, em cũng nhớ đến buốt cả óc!

          “Bây giờ thì anh đã được tự do. Anh đã nghĩ rồi, em coi anh là người thế nào thì tùy, nhưng anh sẽ ngày ngày vào thăm em, cùng ngồi với em ở vườn hoa này… Anh muốn được mãi mãi ở bên em!” Hinh biết khi Tốn nói những câu này không hề e ngại bộc lộ những cảm nghĩ xuất phát tự đáy lòng.

          Cuối cùng Hinh cũng dừng những bước chân vội vã, quay trở lại ngắm Tạ Tốn từ đầu đến chân. Tốn mặc chiếc áo choàng dài trắng dài rộng, rõ ràng là anh đã “trà trộn” để vào đây với danh nghĩa một bác sĩ. Ánh mắt anh vẫn kiên định và trong sáng như xưa. Hinh thấy mình không còn ước mong gì khác nữa.

          Nhưng nước mắt “đáng ghét” lại trào ra, Hinh thầm hạ quyết tâm: mình khóc lần này là lần cuối cùng. Thế này cũng hay, mình lại được người mình yêu lau nước mắt cho!

          Tốn ủ hai bàn tay lên đôi má Hinh: “Em đã gầy đi!”

          Liệu có giống hệt như mình đã “tập dượt” không? Quyết tâm của Hinh vừa đưa ra cách đây vài giây đồng hồ, giờ đã tan biến!

          Hinh cầm tay Tốn áp lên môi như định hôn, nhưng Hinh lại khẽ cắn một cái vào tay anh.

          Tốn vờ kêu tướng lên, nhìn vết răng hằn nhẹ trên tay, rồi lại nhìn Hinh: “Em không mở miệng thì thôi, hễ mở miệng là cắn người ta luôn!”

          Rồi cũng đến lúc Hinh nói: “Em là một con bé điên, anh nên tránh xa một chút thì hơn!”

          Tốn ôm choàng lấy Hinh: “Đừng nói vớ vẩn, em tỉnh táo hơn bất cứ ai! Và đáng nói hơn cả là mạnh mẽ hơn bất cứ ai, anh xấu hổ vì mình còn thua xa, vì thế anh càng nể trọng và mến yêu em!”

          Hinh thấy một vài bệnh nhân xung quanh đang tò mò nhìn cô và Tốn, nhưng thôi, kệ họ! Hinh ngả đầu vào vai anh khẽ nói: “Đừng cho em đi tàu bay giấy nữa! Em đang định nói với anh – nghe rồi, thì đừng có mà tự kiêu: vào lúc như thế này anh vẫn không bỏ rơi em, thì sẽ làm cho em càng thêm mạnh mẽ!”

          “Mạnh mẽ, thể hiện bằng cách cắn người ta à? Anh thấy em chỉ “mạnh răng” thì có!”

          “Anh hãy nghiêm chỉnh một chút đi! Em có rất nhiều điều muốn nói với anh.” Nhưng rốt cuộc Hinh không muốn giữa thanh thiên bạch nhật “bất nhã” với mọi người xung quanh lâu hơn nữa, Hinh vuốt lại mái tóc cho gọn, cùng Tốn lững thững bước trong vườn hoa.

          “Có phải những ngày vừa qua nhà trường không ngớt căn vặn anh không?” Nói chuyện với Tốn, bao giờ Hinh cũng thấy rất nhẹ nhõm dễ chịu.

          “Chứ còn gì nữa! Các bố ấy cứ hỏi anh đi với em khi nào?”

          Cũng như Hinh, Tốn thích vận dụng lời bài hát “Không còn gì nữa” của Thôi Kiện. “Và, đi đến nơi nào, nhìn thấy những gì, vân vân! Anh nói thật nhé: ít hôm nay Diệp Hinh – Tạ Tốn trở thành “sao” của toàn trường, có thể gọi là “một cặp tình nhân hạng sao”, khiến vô số người vẩn vơ mơ tưởng!”
          “Thế mà anh vẫn dám vào đây?”
          “Vì anh muốn gặp em!”
          “Có một chuyện rất lạ em vẫn muốn hỏi anh: hôm nhà trường muốn “tóm” em đi viện, em đã chạy trốn theo lối vườn ươm cây mà em và anh đi hồi nọ. Khi ra cổng, thì gặp ngay một chiếc tắc-xi đang đợi, lái xe nói là xe để chở em. Có phải là anh đã bố trí không?”
          “Không! Vì lúc đó anh không hề biết tình hình em ra sao, thì bố trí gì được?”
          “Thế thì lạ thật! Nhưng ngay nhân viên điều độ cũng nói là có một phụ nữ đã gọi xe, thì người ấy có thể là ai?”
          “Những chuyện quái lạ đã xảy ra với em đâu phải là ít? Anh cho rằng chỉ là thêm một chuyện nữa mà thôi!” Tốn nhún vai.
          “Nhưng chính anh cũng đã khích lệ em tìm hiểu cho rõ ngọn ngành kia ma, sao bây giờ lại tỏ ra khôn ngoan để cầu an à?”
          “Nhưng phải tùy lúc! Hiện giờ em đang phờ phạc thế này, không phải lúc cần đau đầu suy nghĩ để làm Sê-lốc Hôm, mà cần phải nghỉ ngơi cho khỏe đã!”
          “Nhưng ngày 16 tháng 6 sắp đến rồi còn gì!”
          “Có lúc anh đã nghĩ rằng, đến hôm đó nếu em vẫn ở trong bệnh viện được canh gác nghiêm ngặt này, thì sẽ tránh được tai họa cũng nên!”

          Thoạt đầu Hinh thấy Tốn nói thật có lý, nhưng ngẫm nghĩ một lát, Hinh lắc đầu: “Dù em tránh thoát, thì tai họa sẽ lại giáng xuống đầu người khác! Năm xưa, ngày 16 tháng 6 Tưởng Dục Hồng đang nằm viện, đúng là được an toàn. Nhưng bạn cùng phòng là Du Tĩnh phải chết. Và, năm sau chính Tưởng Dục Hồng cũng vẫn lại nhảy lầu. Mấy hôm nay em suy nghĩ rất nhiều, cảm thấy rằng mỗi năm lại có một người được ‘lựa chọn’, bị hành hạ đủ kiểu, cuối cùng vẫn cứ là chết! Hình như người được lựa chọn năm nay là em…”

          Tốn bỗng dừng bước, nắm chặt hai vai Hinh, lớn tiếng: “Em đừng nói vớ vẩn! Em nghe đâu cái lập luận vô lý này thế? Em đang đặt bẫy cho chính mình, em có biết không? Em đang giả tưởng rằng mình là người bị hại, sau đó đi sắm vai nạn nhân, điều này còn đáng sợ hơn cả việc em bị hiểu lầm!”

          Lời của Tốn như một trận mưa mát lạnh đã thức tỉnh Hinh: đúng, hồi nọ Du Thư Lượng cũng nói như thế. Rành rành là mình đang sắm vai nạn nhân. Và, người hiện đang hối thúc mình nhanh chóng nhập vai, là bà Uông Lan San. Bà ta đang tiếp cận mình bằng đặc trưng nhân cách của Dục Hồng và Vệ Thanh, chính là ngầm bảo mình rằng không thể chống lại số phận!

          Lúc này Hinh càng thêm biết ơn Tạ Tốn.

          Người ta thường bảo “phúc bất trùng lai” nhưng hôm nay Diệp Hinh không chỉ rạng rỡ sắc xuân vì Tạ Tốn vào thăm. Sau lúc Tạ Tốn ra về không lâu, thì Du Thư Lượng cũng vào, thấy Hinh tuy sắc mặt hơi nhợt nhạt nhưng ánh mắt lại rất vui, Lượng thầm băn khoăn, anh hỏi: “Hinh… có thích nghi được không?”
          “Thế mà cũng phải hỏi? Anh cứ thử vào đây ở khắc biết!”

          Lúc này Hinh mới cảm nhận được rằng có rất nhiều người đang quan tâm đến cô, cảm giác cô độc lúc trước rất không nên có!
          “Hinh thật là cứng cỏi, tôi đã lo lắng vô ích rồi.”
          “Cảm ơn anh đã báo cho em biết tin sẽ bị nằm viện, tiếc rằng em đã không trốn thoát. Nhất là hôm nay anh lại vào thăm em nữa! Em nảy ra một ý này: trở về, anh có thể nói để trạm phát thanh phỏng vấn anh. Anh cứ nói là anh có tư liệu giá trị về Diệp Hinh, cô ta đang vui vẻ nằm viện tâm thần, và nhớ khen em cứng cỏi kiên cường!”

          Cô bé này còn vui vẻ nói đùa được, hay thật! Lượng không thể không khâm phục cô sinh viên đàn em này: “Chắc Hinh cũng đã nghe biết những tin đồn này nọ, em đừng bận tâm làm gì!”

          “Nhưng em cũng thích nghe những tin đồn như kiểu… ‘một cặp tình nhân hạng sao’.”
          Lượng đang đoán rằng Hinh sẽ nói kiểu “hỏi ngược”, anh cười ngượng nghịu: “Em thính tai thật đấy! Anh thì anh không tin những lời đồn đại ấy! Em và Tạ Tốn không hề có chuyện gì hết!”

          “Có thì đã sao ạ? Anh ấy vừa mới vào thăm em! Hinh cười rất trong sáng và hồn nhiên, cô đang đắm mình trong men say nồng nàn – Tốn vừa ra về chưa đến nửa giờ Hinh đã lại thấy nhớ rồi!

          “Gì cơ? Anh ấy vừa mới vào thăm em à?” Lượng rất ngạc nhiên, miệng anh đang định nói gì đó, nhưng anh ngừng lại…

          Hinh thấy Lượng có vẻ khác lạ: “Sao ạ? Tai sao anh ấy lại không thể vào thăm em chứ?”

          “Đương nhiên là có thể. Vậy tức là… đúng là hai người đã…”

          “Rất kỳ lạ hay sao ạ? Nếu không phải thế thì họ đồn đại gì được? Anh ấy và em cùng đi Nghi Hưng, anh ấy vừa nói rằng nhà trường đã biết từ lâu rồi, công an Nghi Hưng cũng đã đến hỏi anh ấy.”

          “Đúng. Em nói đúng. Chỉ tại… tại anh không ngờ mà thôi. Bây giờ anh phải đi, lần sau anh lại vào, em có cần anh mang cho thứ gì không? Ví dụ, các món ăn em thích…”
          “Chắc em đoán không sai tý nào: anh đã mê một chị nào đó, cho nên anh đã trở nên rất chu đáo. Em cảm ơn anh, không cần đâu! Mẹ em mới đi có vài hôm, đã chuẩn bị cho em các thứ, dùng đến mấy năm cũng không hết!”

          Lượng bỗng nghệt ra, nụ cười “bốn mùa thường trực” của anh bỗng chững lại, mắt anh chăm chú nhìn ra xa phía sau lưng Hinh.
          Hinh quay lại nhìn, cũng thấy kinh ngạc, thấy bên ngoài ô kính cửa sổ phòng tiếp khách, có một người đang đứng nhìn họ không chớp mắt. Chính là bà Uông Lan San.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.11.2006 01:04:57 bởi PhongAnh >
          #20
            PhongAnh 28.10.2006 14:37:21 (permalink)

            Chương 18

            Cuộc phân tích hãi hùng



            “Trái tim cô đã bị anh ta chiếm mất một khoảng lớn!” Hinh về đến buồng bệnh nhân, bỗng nghe tiếng bà San nói ở phía sau. May mà Hinh có trí nhớ khá tốt, nếu không, mấy hôm nay bà ta đã sắm nhiều vai như thế - cô khó mà nhận ra đó là tiếng bà ta.

            “Bà nói về anh ấy à? Anh ấy chỉ là một bạn đồng hương của cháu.” Hinh không muốn để ý nhiều đến bà ta, nhưng vì nể trọng người già và cũng không nỡ cau có lạnh nhạt nên cô chỉ đáp lại một câu cho phải phép.

            “Tôi không nói anh ta, mà là nói anh ta!”
            Thật không sao hiểu nổi nữa.
            Hinh biết, ngay trong lúc bình thường không “sắm vai” gì, thì bà San đã là người rất “khó khăn”, cô bèn gật đầu, rồi đi về phía giường mình. Nhưng tiếng bước chân vẫn cứ ở phía sau cô, tiếng nói cũng bám theo: “Thật không sao hiểu nổi nữa!”

            “Bà nói gì thế?” Hinh quay người lại nhìn bà San. Tại sao bà ta có thể biết cô đang nghĩ gì? Thực ra bà ta là một bệnh nhân như thế nào?

            “Tôi là một bệnh nhân như thế nào, chẳng lẽ họ không nói với cô à? Tôi là một người đa nhân cách – một loại bệnh thần kinh khiến người ta cười nhạo nhất!” Hình như bà ta lại đọc được ý nghĩ của Hinh.

            “Bà có thể đoán biết ý nghĩ của cháu à?” Đang giữa ban ngày thật, nhưng Hinh lại cảm thấy hơi sờ sợ.

            “Cho nên vừa nãy tôi nói là anh ta, chứ không phải là anh ta!”
            “Ai đã chiếm một khoảng lớn trong trái tim cháu? Bà có thể nói rõ là ai không?” Nếu bà San nói ra đúng tên Tạ Tốn, liệu có thể coi bà ta là “dị nhân” không đây?

            “Cô chẳng nên biết thì vẫn hơn!”
            “Thực là nực cười! Tất nhiên là cháu biết mình nhớ đến ai chứ!” Hinh bắt đầu cho rằng bà San chỉ như các thầy tướng số giang hồ cố làm ra vẻ bí hiểm, cô bèn chớt nhả dùng cái câu nói kiểu nữ văn sĩ Quỳnh Dao, chắc sẽ làm cho bà ta phát ngán, để “cảnh tỉnh” bà ta.
            “Nhớ nhung ai đó, là một việc nguy hiểm, đã dấn một bước rồi thì khó bề quay trở lại.”

            Hinh như bị gai đâm, ngây người nhìn bà San, rồi thong thả hỏi: “Cháu nghe không hiểu mấy, bà thử ví dụ xem, một việc như thế nào gọi là đã dấn bước rồi khó bề quay trở lại?”

            “Thôi không nói làm gì, kẻo nói ra, tôi e cô không chịu đựng nổi.” Tại sao … câu trả lời này nghe quen quen?

            “Bà cứ nói đi, cháu đã chuẩn bị tinh thần rồi!” Cảm giác tuyệt vọng bắt đầu trỗi dậy trong Hinh.

            “Ví dụ, người ta nhảy lầu tự tử. Đã nhảy ra rồi thì quay lại sao được nữa?”
            Đây chính là câu đối thoại giữa Tạ Tốn và Hinh khi ngồi trên tàu hỏa hồi nọ.

            “Thực ra bà muốn gì? Tại sao bà không chịu buông tha tôi?” Hinh gần như hét lên một cách rồ dại, không chờ bà San trả lời nữa, cô bước nhanh về giường của mình nằm vật xuống, toàn thân run rẩy. Cô định òa khóc, nhưng lại nhận ra rằng mình không có nước mắt.
            Tạ Tốn, anh hãy mau đến với em, đưa em ra khỏi chốn này!

            “Tiếc rằng anh chẳng phải siêu nhân, nếu không anh sẽ đưa em rời khỏi đây, sẽ đi thật xa, đi khỏi trường đại học, đi khỏi cái thành phố này!” Nghe Hinh kể xong mọi chuyện, Tốn nhíu đôi mày rậm, dằn giọng nói.

            “Nếu thế thì biến thành một đôi rủ nhau đi trốn à? Mẹ em sẽ ghét, sẽ không thèm nhìn mặt em nữa! Em chỉ muốn mau được về trường học tập như bình thường.” Hôm nay lại là một buổi chiều xuân nắng vàng rực rỡ, hai bên con đường rải đá cuội trong khu vườn, dường như mọi bông hoa trong vườn đều đang nở rộ, lại có những cánh bướm đang rập rờn sánh đôi. Hinh ngả người trong vòng tay Tốn, lòng cô xốn xang. Có Tốn kề bên, Hinh cảm thấy cuộc sống lại êm đềm như trước. Chỉ tiếc rằng anh không thể suốt ngày sớm tối ở bên Hinh.

            “Anh nói em đừng lấy làm lạ, anh cho rằng vào lúc nhạy cảm này, em ở lại đây không hẳn là nơi không an toàn đâu!”

            “Sao anh lại có ý nghĩ này?” Hinh cảm thấy Tốn lại đang tuyên bố những ý tưởng kỳ cục, nhưng cũng không phải là không có lý. “Anh nói cứ như mình là bác sĩ chuyên trách của em, ông ấy cũng đã nói như thế. Có điều, đây chỉ là cách né tránh tiêu cực, chứ không phải là biện pháp để thật sự giải quyết vấn đề. Năm xưa Tưởng Dục Hồng đã nằm viện tâm thần, thoát chết năm đầu, nhưng vẫn không tránh được tai họa năm sau.”

            “Cho nên em vẫn muốn điều tra rõ sự thật? Nhưng thời gian lại không ủng hộ em, anh đoán chắc em có cảm giác mỗi ngày dài như một năm.”

            “Nhưng khi anh đến, thì mỗi ngày của em lại chỉ ngắn như một giây! Có lúc em thật sự lo mình sẽ lún vào quá sâu, nếu thế thì sẽ khó mà thoát ra được.” Hinh chợt thấy rùng mình, cô lại nhớ đến cuộc nói chuyện với bà San hôm qua.
            Hinh biết, bà ta sẽ không buông tha cô.
            Hinh thậm chí cảm thấy đôi mắt bà San đang nhìn chằm chằm vào cô, đến nỗi sống lưng cô lạnh toát, cô bất giác nhìn quanh bốn phía tìm kiếm. Tốn chào từ biệt, cô cũng không nghe thấy.

            Dưới gốc cây sung, bà San đang ngồi trên chiếc ghế mây, tay phải cầm cây bút chì. Thấy Hinh ngoái nhìn rồi bước đến, mép bà hơi động đậy – vừa giống như buồn bã vì thấy xót thương, lại vừa giống như cười khẩy nảy sinh từ nỗi oán hờn.

            “Bà đang vẽ thật không đấy? Khi vẽ thì nên tập trung tâm trí mới đúng, nhưng bà thì lại cứ nhìn cháu, tại sao thế?” Hinh đến bên gốc cây, nhưng cô lại “cảnh giác” dừng bước.

            “Cô rất xinh đẹp, con gái đẹp lại mặc áo bệnh nhân trắng tinh đã là một bức tranh tuyệt mỹ rồi, đâu cần tôi phải làm cái việc vẽ rắn thêm chân!”

            “Thế thì bà cầm giấy vẽ bút vẽ, để giả vờ vẽ cái gì ạ?”
            Bà San thở dài: “Thấy cảnh đẹp, thì quấy quá vẽ chơi, hành hạ mấy tờ giấy!”

            “Nhưng nếu bà vẽ đẹp, thì không gọi là hành hạ gì được!” Hinh cảm thấy lời lẽ của bà San chứa đầy ẩn ý sâu xa.

            “Cô thử nhìn xem, tôi vẽ ra sao?” Bà San đưa cho Hinh bức vẽ.
            Hinh thoáng do dự, nhưng rồi cũng đón lấy, chỉ thoáng nhìn cô đã phải im bặt tiếng cười: “Đây là cảnh gì vậy? Lúc này mặt trời lên cao nắng vàng rực rỡ, trăm hoa khoe sắc… nhưng bà lại vẽ gió táp mưa sa, hoa rơi lả tả, và người này thì … được, cháu công nhận là bà vẽ rất giống cháu, cháu không phải là rắn, bà cũng không vẽ thêm chân, nhưng vẽ cô gái toàn thân ướt sũng này thì không thể nào là cảnh thật trước mắt!”

            Bà San rướn người cầm lại bức vẽ, mồm lẩm bẩm: “Tri âm hiếm thấy, đứt dây đàn nào còn ai nghe!”

            Hinh định nói “chẳng ai hiểu nổi bà, mà bà còn đòi có tri âm!” nhưng chưa kịp nói thì Hinh ngớ ra “gay rồi!” Thì ra cô đứng dưới cây nên không để ý, chẳng biết mây đen bốn bề đang cuồn cuộn, tiếng sấm mùa xuân vang rền, chỉ trong nháy mắt, mưa to đổ ập xuống!

            Hinh vẫn đứng đó, và thấy càng thêm khiếp sợ bà San: bà ta có khả năng tiên tri!
            Gió mạnh đến cùng mưa rào, những đóa hoa đang nở rộ lập tức bị đập tả tơi, cánh hoa rơi quá nửa, tất cả bỗng tan hoang. Cây sung này tuy lá cành rậm rạp nhưng cũng không chịu nổi trận mưa như trút nước, toàn thân Hinh ướt đẫm. Tờ giấy trên tấm bảng vẽ tất nhiên cũng bị “hành hạ”!

            “Bà nói đi, bà dõi nhìn cháu mãi, bà thấy những gì?” Hinh nói gần như cầu xin.
            “Tôi biết lòng cô đang rất mâu thuẫn, cô sợ sẽ lún vào quá sâu. Cô vốn nghĩ mình rất cứng cỏi và tự chủ, nay lại mắc mớ với một con người thì cô khó tránh khỏi phải nghĩ ngợi.” Bà ta nói như một chuyên gia phân tích tâm lý siêu hạng.
            “Bà còn chưa trả lời cháu: bà nói cháu đang nghĩ đến một người, người đó là ai? Tên là gì?”
            “Tên, chỉ là một thứ tín hiệu mà thôi!”
            “Thì ra là bà không biết!”
            Bà San thở dài thườn thượt: “Giả sử tôi nói tên là ‘Tạ Tốn’, thì có thể nói lên điều gì? Cũng chỉ là một cái tên gọi mà thôi!”
            “Nhưng trong lòng cháu, thì cái tên này nói lên tầm quan trọng của anh ta đối với cháu.” Hinh bắt đầu cảm thấy sự bí hiểm của bà San không chỉ là có “đa nhân cách”, cô bèn thổ lộ tâm tình.
            “Thứ đang xâm chiếm lòng cô, không phải là một cái tên, mà là một bi kịch.”

            Hinh hơi nao núng: “Bà lại nói hão huyền chẳng đâu vào đâu! Tại sao bà lại biết? Trừ phi bà thực sự có thể nhìn thấu tim gan người khác? Lẽ nào bà thực sự có khả năng tiên đoán tương lai?”

            “Cô có biết tại sao tôi phải vào viện này bốn chục năm nay không?”

            Hinh không hỏi dồn nữa, cô ngẫm nghĩ. Mấy câu nói của bà San đã tác động mạnh đến cô: nếu bà già này nói đúng (đã gọi ra tên Tạ Tốn, đã biết rõ tâm lý của cô, đã sắm vai Tưởng Dục Hồng và Thẩm Vệ Thanh rất chuẩn – điều đáng sợ là bà ta hầu như chưa nói sai một câu nào) thì cái bi kịch kia sẽ là gì? Chẳng lẽ mình không thoát khỏi kết cục của “vụ án mưu sát 405”? Hay là bà ta vẫn đang tiếp tục sắp đặt để đưa mình vào vai “nạn nhân”, cùng bà ta sắm vai cho thật giống?

            Tại sao bà ta phải làm như vậy?

            “Trang Ái Văn là ai?” Hih cảm thấy có lẽ mọi sự bí ẩn đều liên quan đến cái nhân cách bí hiểm của bà San: áo trắng, tóc dài, tiếng hát tuyệt vời, và … khuôn mặt nát bươm nữa!

            Đôi mắt già nua của bà San thoáng ánh lên một tia sáng rạo rực của tuổi xuân, tuy chỉ thoáng ánh lên nhưng đã lắng đọng trong đôi mắt thẳm sâu của Hinh.

            “Mưa mỗi lúc một to, tôi cũng mệt rồi. Các cô y tá cũng kém tận tình, chẳng thiết gọi chúng ta vào nhà. Bác sĩ Tuấn nói tôi đang ở giai đoạn lên cơn nguy hiểm, không nên để cho bị tác động nhiều. Tôi phải vào nghỉ đã.”

            Bây giờ đến lượt cháu không buông tha bà.

            “Bà hãy nói xem chị ta là ai? Nếu bà không nói, cháu sẽ đoán phứa lên. Cháu nghĩ, chắc chị ta phải là một nhân vật rất quan trọng trong cuộc đời của bà. Có lẽ là một người mà bà rất mến yêu. Bà mê điện ảnh, chắc vì hồi trẻ bà đã từng mong làm ngôi sao màn bạc, cho nên bà mới mô phỏng những con người bà đã từng tiếp xúc và gây ấn tượng mạnh cho bà. Trương Ái Văn là thần tượng của bà hồi trẻ, chắc chị ấy rất đẹp, trang nhã thanh cao, có giọng nói như của một thiên sứ. Chị ấy là cô gái rất tuyệt vời trong con mắt của bà. Nhưng tại sao chị ấy lại mang chiếc mặt nạ nát bươm? Hay là chị ấy có khuôn mặt nát bươm thật?” Nói đến câu cuối cùng, Hinh cũng như đang “u mê”.

            Bà San bỗng đứng thẳng lên bước lại gần Hinh giật phắt lấy bức vẽ ném đi, nắm thật chặt hai cánh tay Hinh, khiến cô thấy đau tay: “Cô có muốn tôi cho cô biết thật không? Tôi đã nhìn thấy…” Bỗng toàn thân bà San run lên bần bật, da thịt trên khuôn mặt già nua rúm ró biến dạng.

            “Bà đã nhìn thấy cái gì?”

            “Tôi đã nhìn thấy … cô ấy … ở ngay chính cô!” Nói xong, bà San như trút được một gánh nặng, rồi cười rất kinh dị.

            Bà Kiều Doanh đã tổ chức xong đợt hoạt động thời trang, trong khi chờ một thách thức tiếp theo, bà muốn tranh thủ về Giang Kinh một tuần. Bấy lâu nay, cảm giác cắn rứt đang dày vò Kiều Doanh: vào lúc cô con gái rất cần được quan tâm thì bà lại đành phải bôn ba vì “sự nghiệp”. Cũng may, bà thấy Diệp Hinh tươi tỉnh hơn trước, hình như cô không mảy may tỏ ý oán trách bà, trái lại, cô nắm tay mẹ trò chuyện liến thoắng, lời lẽ cũng không gợn chút kỳ dị lạ lùng. Bà cho rằng trước đây mình đã quyết định đúng, đồng ý với nhà trường và bệnh viện đưa Hinh vào nằm viện tâm thần, nên mới có được chuyển biến tốt như hiện nay. Cảm giác cắn rứt trong bà cũng vơi đi ít nhiều.

            Được gặp mẹ, Hinh rất đỗi vui mừng. Nhất là khi mẹ nói sẽ đến với cô những một tuần, cô càng vui sướng hơn.

            Trong lúc trò chuyện việc nhà với mẹ, Hinh nghĩ ngợi “có nên giới thiệu Tạ Tốn với mẹ không nhỉ?”

            Mẹ không thể không nghe nhắc đến cái tên Tạ Tốn, cái tên này cùng với tên mình đã trở thành “tiếng xấu” trong trường rồi cũng nên!

            Hinh nghĩ đi nghĩ lại mãi, rồi kết luận phải chờ thời cơ chín muồi đã, rồi mới giới thiệu với mẹ về “người tình hạng sao” Tạ Tốn.

            Hinh ngày nào cũng sống trong sự khắc khoải đợi chờ Tốn. Khi Tốn đến, là quãng thời gian rực sáng của một ngày. Chắc anh đã phải trốn học khá nhiều, có hôm anh vào thăm Hinh đến vài lần. Hinh lo Tốn sẽ học hành sa sút thì gay. Tốn cười: “Càng hay, anh sẽ chờ em ra viện để cùng nhau học bù!”

            “Hôm nay mẹ em nói là đã gặp bác sĩ Điền để bàn về bệnh tình của em. Ngày mai ông Điền sẽ tổ chức buổi đánh giá về em, mong sao ông ấy sẽ cho em ra viện. Em có cảm giác rằng ông ấy ngày càng tin em hơn.”

            “Thế thì quá hay, chúng ta sẽ luôn luôn được ở bên nhau. Nhưng chỉ sợ lúc đó em lại ngán anh mất thôi!”

            Hinh biết là Tốn nói đùa, hoặc nên nói là Tốn đang “vờ lỏng tay để lại tóm cho chặt”, cô chỉ im lặng mỉm cười nhìn anh, và thầm nghĩ “anh chàng ngố ạ, anh có biết ít hôm nay em đợi chờ anh và anh đến với em, gộp cả lại đã đủ để em nặng lòng với anh cả đời rồi không?” Hinh bỗng nhớ lại cái bài hát ngày nào, bèn hỏi: “Anh chỉ chuyển nói úp mở nửa vời, anh còn chưa cho em biết câu chuyện ở phía sau bài hát ‘Chờ đợi, đợi chờ’ là như thế nào!”

            “Cứ nên chờ em ra viện đã, rồi hãy hay. Kể các chuyện sinh tử biệt ly vào lúc này, thì chỉ bất lợi cho tâm trạng của em. Em ở đây đã khó mà nghỉ ngơi yên ổn rồi, không nên khuấy động gì thêm kẻo sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá của bác sĩ.”

            “Nói lời phải giữ lấy lời, sau khi em ra viện, anh phải cho em biết đấy nhé!”

            “Anh sẽ giữ lời, cũng như đã hứa là ngày nào cũng vào đây thăm em vậy.”

            “Trước hết tôi phải nói rõ với cô Hinh rằng, hôm nay tôi gặp riêng cô để nói về vấn đề đánh giá là nằm trong khuôn khổ chuyên môn của tôi, nhưng cũng có phần gọi là “cầm đèn chạy trước ô tô”, vì cô là bệnh nhân của bác sĩ Tuấn, nên sau khi kết luận đánh giá rồi, tôi vẫn cần phải bàn với bác sĩ Tuấn. Ông ấy là thầy thuốc hàng đầu về chuyên ngành này, hai chúng tôi sẽ cùng đưa ra một kết luận hợp lý.” Bác sĩ Đình nói chậm rãi, ông rót một cốc nước khoáng mời Hinh. Cách nói của ông cũng nhạt nhẽo vô vị như cốc nước này, chứ không có sức lôi cuốn như cách nói của bác sĩ Tuấn.

            “Có phải hiện nay cô vẫn hay nghĩ ngợi về ‘vụ án mưu sát 405’ không?”

            “Xin nói thật, cháu không thể không hề nghĩ ngợi, nhưng cháu càng ngày càng cảm thấy rằng: trước kia cháu hay vương vấn về chuyện này, thực chất chỉ là hiện tượng tâm lý bị ám ảnh bởi các tình tiết lịch sử và các lời đồn đại ly kỳ. Cháu cũng có bị ảnh hưởng – ít ra là ảnh hưởng đến việc học tập, nhưng cháu không cho rằng đã đến mức gọi là tâm thần phân liệt!”

            “Nếu ít hôm nữa để cô ra viện, thì cô không sợ rằng mình sẽ trở thành nạn nhân thứ 13 hay sao?” Ông Đình chợt thấy không biết mình nên hay không nên tin vào lời của Diệp Hinh. Mấy hôm nay hình như cô ta đã trải qua một chuyện gì đó.

            “Tất nhiên là cháu sợ. Không dễ gì mà gỡ bỏ được nỗi ám ảnh tâm lý kia, nhưng cháu tin rằng nhà trường sẽ bố trí bảo vệ chu đáo căn phòng ký túc xá của chúng cháu.”

            “Nghe nói trước đây nhà trường đã từng có biện pháp an toàn, nhưng vẫn không ngăn chặn được, đã khiến người ta có cảm giác rằng không sao tránh thoát!”

            “Cháu thật sự không tin bất cứ điều gì gọi là số phận an bài, cháu chỉ tin rằng tuổi xuân phơi phới của mình cần được nâng niu gìn giữ.”

            Cô sống ở đây có tạm gọi là thích nghi không?”

            “Thoạt đầu thì cháu không hợp lắm, ban đêm luôn ồn ào không sao ngủ được, nhưng mấy hôm nay thì đã khá hơn. Các thầy các bạn cũng hay vào thăm, đem đến cho cháu tình cảm đầm ấm của tập thể…”

            “Cô đã từng nhắc đến … tôi đang nghĩ xem cô nên nói là … một người bạn trai, một người bạn học tên là Tạ Tốn. Anh ấy có vào thăm cô không?”

            Đang trả lời rất lưu loát trôi chảy, Hinh bỗng im bặt. Mình có nên nói thật không nhỉ? Mấy câu vừa nói, là cảm nhận rất chân thật của Hinh – tuy hơi thi vị hóa một chút. Trong trường đã đồn đại như thế, thì có lẽ các bác sĩ cũng đã biết cả, mình tội gì phải phụ họa củng cố thêm? Chưa biết chừng nhà trường lại còn cho rằng Tạ Tốn là nhân tố đáng kể khiến mình “có vấn đề thần kinh”! Nếu bây giờ mình khai rằng Tạ Tốn hằng ngày vào đây vài lần thì sợ rằng sẽ bất lợi cho anh ấy, và tình hình sẽ càng thêm rối. Anh ấy vào đây lần nào cũng đều là với tư thế của kiến thực tập sinh, cũng không có ai biết rỗ anh ấy là ai kia mà!

            Hinh bèn gật đầu: “Nói anh ta là bạn trai của cháu thì không thật xác đáng, từ khi cháu nằm viện, anh ta chưa vào thăm cháu lần nào cả. Trước đây, cháu chỉ có một hình cảm mơ hồ không rõ rệt với anh ta, khi bị áp lực quá căng, cháu có hơi nghĩ quá lên về sự tồn tại của anh ta. Thực ra anh ta chỉ là một bạn học khác lớp, chúng cháu không có quan hệ gì thân thiết.”

            Ông Đình thấy Hinh đang sôi nổi bỗng trở nên trầm lặng, nhưng nói năng vẫn rành rọt đâu ra đấy, ông hiểu cô khó tránh khỏi những thăng trầm về tình cảm, nhất là trong những ngày như thế này. Có thể tháo gỡ được, thực không dễ dàng gì, rõ ràng là cô ta đang rất cố gắng.

            “Từ đầu đến cuối, mọi câu trả lời của cô ấy đều không có điểm nào mơ hồ né tránh, cũng không có điểm nào không phù hợp với thực tế. Nói cách khác, tức là cô Hinh không có bất cứ dấu hiệu nào tương tự như chứng bệnh ảo giác. Cô ấy rất chân thật, rất biết suy nghĩ, thậm chí còn biết phân tích tại sao mình lại có nhiều hành vi khiến cho người ta thấy khó hiểu như thế…”
            “Ý bác sĩ Đình là … cô ấy có thể ra viện?” Bác sĩ Tuấn nhìn tập bệnh án của Diệp Hinh đặt ở trước mặt, nhưng ông không đọc. Ông Tuấn vẫn không thể hiểu nổi tại sao ông Đình cứ “lệch pha” với mình trong ca Diệp Hinh này.
            “Tôi vẫn cho rằng lúc đầu cho nhập viện là không thật cần thiết! Đúng là cô ta có hiện tượng ảo giác, bản thân cũng không thể giải thích rõ được, nhưng chỉ cần được tư vấn tâm lý là đủ rồi. Bác sĩ Tuấn là chuyên gia ở lĩnh vực này, nhưng hình như anh chưa bắt đầu xúc tiến điều trị cho cô Hinh, mà mới chỉ cho dùng thuốc. Tuy nhiên, hiện nay cô ấy cũng không cần thiết phải được tăng cường điều trị nữa!”

            Ông ta lại bắt đầu chỉ trích mình điều trị sai? Ông Tuấn bắt đầu thấy nóng mặt nhưng vẫn cố kiềm chế: “Cô Hinh mới chỉ nhập viện nửa tháng nay, hiệu quả dùng thuốc cũng đang rất ổn. Lịch trình công tác của tôi thì kín đặc, còn rất nhiều ca cần được điều trị sát sao hơn. Riêng ca Uông Lan San đã ngốn của tôi không ít thì giờ…”
            “Vậy thì kết luận về Diệp Hinh là thế nào?”
            “Mấy vị lãnh đạo công tác sinh viên của trường cô ta đã nói chuyện với tôi, chủ yếu nhắc đến hai chữ “thận trọng”. Phía nhà trường cũng đang phải chịu áp lực vì sắp đến ngày 16 tháng 6!”
            “Cô Hinh rất cần được trở về với cuộc sống bên ngoài!”
            “Anh Đình ạ, cô ta vẫn là bệnh nhân của tôi, lần đánh giá này của anh vốn không phải là thủ tục phải có. Tôi cho rằng, vì thận trọng, tôi cần phải giữ cô Hinh ở lại để quan sát thêm ít lâu. Nếu phải thế, thì cũng phải chờ sau ngày 16 tháng sáu sẽ cho cô ta ra viện.”
            “Tôi đành nói thẳng vậy, xem ra, nhà trường và cả anh Tuấn nữa cũng tin rằng ngày 16 tháng 6 sẽ xảy ra chuyện không hay gì đó. Thế thì trước đây cô Hinh muốn tìm hiểu rõ sự thật – việc đó có quá nhiều điều đáng ngờ chăng?”

            Ông Tuấn chợt ngớ ra, không biết nên đối đáp ra sao. Hiếm có lúc ông bí không thể trả lời đối phương, mặt ông đỏ bừng, thở gấp hồi lâu, rồi mới nói giọng đều đều: “Anh Đình đừng quên rằng mấy cô sinh viên mà anh đã từng điều trị - cuối cùng đã ra sao. Bao năm qua, anh có ngủ ngon giấc không?”

            Buột miệng nói ra rồi, ông Tuấn mới thấy mình đã quá nặng lời. Đúng thế: ông Đình cảm thấy ngực ông đau nhói, đau thấm lên vai, xuyên sang lưng, một tay áp lên ngực, ngồi xuống, tay kia vội sục tìm khắp túi áo… Ông Tuấn lập tức nhận ra rằng bác sĩ Đình bất chợt bị nhồi máu cơ tim.

            “Nếu không có anh, em chẳng biết mình sẽ ra sao.” Sau khi được Tốn khuyên giải an ủi, tâm trạng Hinh đã bình thản trở lại rất nhiều. Ông Tuấn đã cho cô biết cuối cùng khoa vẫn quyết định cô phải ở lại thêm một thời gian nữa. Hinh có cảm giác mình bị bỡn cợt, nhưng Tốn đã hết lòng an ủi cô, cô mới bằng lòng, sẽ tiếp tục vâng lời các bác sĩ.

            Tốn ra về rồi, Hinh lại không nén nổi buồn phiền vì không được ra viện. Cô muốn nằm ngủ một lát, có lẽ vì nghĩ ngợi nhiều quá nên lại thấy hơi nhức đầu.

            Bác sĩ nội trú đã kê đơn cho Hinh dùng thuốc giảm đau, nhưng uống thuốc rồi thì đầu lại nhức dữ dội hơn. Hinh thấy hình như trong đầu mình có một luồng khí ngỗ ngược đang xông xáo tung hoành, lại thấy hình như nó bị hút bởi một từ trường nào đó, nó chỉ chực phá tung đầu cô để chạy ra.

            Hinh không sao nằm yên được nữa, bèn đứng dậy để đi lại trong phòng. Thoạt đầu, đôi chân cứ không chịu nghe lời… nhưng nào ngờ mới chỉ đi được ít bước, cô hình như đã mất tri giác, rồi chẳng biết mình đã bước đến cửa phòng từ lúc nào.

            Một cô y tá sợ Hinh sẽ đi lại lung tung bèn chạy đến, thấy nét mặt Hinh như đang rất đau đớn, bèn hỏi cô định đi đâu. Hinh quá đau không sao nói được một câu, cô chỉ lắc đầu rất khó khăn, đôi chân tiếp tục bước đi. Biết Hinh đang rất đau đớn, cô y tá bèn dìu Hinh đi bách bộ, có lẽ đi lại, hít thở không khí trong lành sẽ làm dịu cơn nhức đầu.

            Ra khỏi buồng bệnh nhân, Hinh không dừng lại ở lối vào vườn hoa, cô đi dọc theo hành lang. Cô y tá hỏi: “Diệp Hinh, em định đi đâu thế?”

            Mặt Hinh đầy mồ hôi lạnh, hai tay ôm lấy đầu, nói một cách vất vả: “Em muốn đến … chỗ ấy.”
            “Là chỗ nào?”
            “Em cũng không biết nữa.”

            Cô y tá nghĩ bụng: bác sĩ Tuấn đã thận trọng rất có lý! Cô này nào đã bình phục? Đâu có thể cho ra viện được! Nhưng cô cũng rất ngạc nhiên, vì từ khi vào đây, Hinh rất thuần, chưa bao giờ thấy khác thường như thế này. Cô quyết định không ngăn cản Hinh, cô muốn quan sát xem Hinh có hành vi gì bất ổn không, biết đâu có thể hữu ích cho bác sĩ Tuấn điều trị.

            Hai người đi chừng già nửa quãng hành lang, đi qua cửa vào khu buồng bệnh có nhân viên bảo vệ gác, đi qua hai chốt nữa, đến tòa nhà khám bệnh và các phòng hành chính. Đây là tòa nhà bảy tầng, tầng một hai ba là các phòng khám, tầng bốn và năm là phòng điều trị và khôi phục thể lực, các tầng trên là các phòng ban hành chính và văn phòng của các thầy thuốc có thâm niên.

            Hinh đứng trong đại sảnh của phòng khám, dường như không hề để ý đến mọi người đi lại xung quanh, cô ngẩng đầu nhìn, đôi mắt rực sáng, môi hơi mấp máy như đang lẩm bẩm gì đó. Cô y tá thấy hơi hoảng vì hình như mình đã quyết định sai lầm, cô vội hỏi: “Nếu cô Hinh không nói rõ định đi đâu, thì chúng ta quay về nào!”
            “Em biết… em phải đi đâu. Em cảm thấy… là ở trên gác.”
            “Là ở tầng mấy?”
            “Em… không biết. Cứ đi tìm... từng tầng một.” Hinh thở rất khó khăn.

            Cô y tá nghĩ ngợi, nhưng rồi cũng gật đầu: “Được, ta đừng đi thang máy, cứ lên từng tầng xem sao. Nếu cảm thấy là đến rồi thì cho tôi biết!”

            Đi hết tầng hai ba, rồi lên tầng bốn. Hinh thở mỗi lúc một nặng nhọc, chân bước cũng càng chật vật, chắc sẽ gục mất thôi. Khi lên đến tầng năm, Hinh bỗng mở to mắt, vừa thở vừa nói: “Là tầng này. Nhưng chúng ta phải … nhanh lên, em có … cảm giác … không hay.”
            “Nào, đi đâu?”

            Hinh chỉ tay về hành lang phía đông, cô y tá dìu Hinh, cả hai cùng rảo bước. Lúc này Hinh thấy đầu càng nhức dữ dội, cứ như chỉ chực vỡ tung, nhưng hình như cô bị một sức mạnh bí hiểm nào đó dẫn đi, kêu gọi cô đi lên tầng nhà này.

            Họ dừng lại trước một phòng điều trị. Cửa phòng đang khép kín, Hinh gọi: “Nào mau vào đi, chắc vẫn còn kịp!”
            “Vẫn còn kịp cái gì?” Nhìn biển số phòng điều trị này, cô y tá lập tức có một linh cảm không hay. Cô nhớ rằng giờ này có lẽ bác sĩ Tuấn đang ở đây điều trị phân tích thần kinh cho bà Uông Lan San.

            Cô gõ cửa, một nữ y tá ra mở cửa. Phòng này ngăn thành gian ngoài gian trong, có một cửa thông sang nhau, gian trong là nơi bác sĩ điều trị phân tích thần kinh cho bệnh nhân, các y tá hỗ trợ điều trị thường ngồi ở gian ngoài. Cô y tá ở đây thấy Hinh mặc áo trắng bệnh nhân, thì rất ngạc nhiên: “Hai người đến đây làm gì? Đã được hẹn chưa? Bác sĩ Tuấn đang làm việc, không ai được làm phiền!”
            “Mau ngừng lại! Ngưng điều trị ngay đi!” Hinh bỗng gọi to.
            “Các cô không được làm bừa! Điều trị phân tích thần kinh nếu bị gián đoạn thì sẽ gây ra hậu quả rất xấu!” Cô y ta gay gắt nói. Và trách cô y tá đi kèm Diệp Hinh: “Cô thật là … ngay cả kiến thức thông thường mà cô cũng không hiểu? Sao cô lại để cho bệnh nhân điều khiển thế này? Mau đi về đi!”

            Cô y tá đi kèm Hinh cũng biết là đuối lý, bèn kéo tay Hinh: “Nơi này đang rất yên ổn, tất cả đều bình thường, ta đi thôi!”

            Hinh vùng vằng thoát khỏi tay cô y tá, chạy bổ vào gian trong, nhưng Hinh ra sức đập cửa hay xoay tay nắm cửa thật mạnh, cửa vẫn cứ đóng chặt.

            Hai cô y tá xúm vào lôi Hinh ra, cô y tá ở đây gọi với vào gian trong: “Xin lỗi bác sĩ Tuấn, có một bệnh nhân bị lên cơn, chúng tôi đã khống chế được rồi. Anh cứ tiếp tục điều trị đi!” Nói xong, cô áp tai vào cửa nghe ngóng, mặt cô bỗng biến sắc, cô lẩm bẩm: “Chuyện gì thế nhỉ? Sao bên trong lại có một giọng đàn ông khác?”

            Cô nghĩ ngay rằng sự việc đã trở nên nghiêm trọng, bèn lấy chìa khóa để mở cửa ngăn cách, nhưng hình như cửa lại bị khóa trái, không sao mở ra được. Hinh gọi luôn: “Khỏi cần chờ đợi nữa, ba chúng ta xô cửa vậy!” Hai cô y tá nhìn nhau, cảm thấy có lẽ không còn cách nào khác tốt hơn. Cả ba cùng hợp sức xô cánh cửa ấy.

            Cửa bật tung, cả ba cùng ngây người trước cảnh tượng trước mắt.

            Chỉ thấy cửa sổ lắp kính đã mở toang, một người đang đứng ở gờ ngoài mép cửa, chính là bác sĩ Đằng Lương Tuấn! Còn bà Uông Lan San thì đang ung dung ngồi trên ghế sô-pha của bác sĩ điều trị phân tích thần kinh, chân ghếch lên, tủm tỉm cười ông Tuấn đang đứng trên mép cửa.

            “Bác sĩ Tuấn!”

            Ông Tuấn dường như bừng tỉnh lại sau khi nghe thấy tiếng gọi và tiếng xô cửa vừa rồi, ông quay người lại, lưng hướng ra ngoài, nghi hoặc nhìn ba người vừa xông vào.

            Bà San bỗng cất tiếng, nhưng lại là một giọng đàn ông: “Có phải ông lại không nỡ rũ bỏ danh lợi phù phiếm tầm thường không? Ông cho rằng đến bao giờ mới có thể dừng lại? Dù có làm chủ nhiệm khoa, hay bác sĩ chánh chủ nhiệm, sau đó là giám đốc bệnh viện, rồi sao nữa? Trên chặng đường đã đi qua, ông đã làm biết bao chuyện trái với lương tâm của mình? Nào là chữa bệnh án, nhận phong bì, sao chép luận văn … Nay lại vẫn muốn tiếp tục đi nữa ư?
            Điều đó sẽ rất đáng buồn.
            Bầu không khí ở thành phố này rất bẩn, nhưng vẫn còn sạch hơn tâm hồn của con người.
            Tôi nên hòa tan vào không khí ở đây, ít ra cũng có tác dụng đóng góp một phần nguyên liệu cho mọi người hít thở.”

            Ba người phụ nữ đều nhận ra tình thế đầy nguy hiểm. Hinh và cô y tá đi kèm mình cùng bước đến ghì chặt bà San, Hinh còn bịt miệng bà ta nữa. Cô y tá của phòng điều trị này từ từ bước đến bên cửa sổ, khẽ gọi: “Bác sĩ Tuấn bị lừa bịp đó thôi! Anh là một thầy thuốc chân chính, anh còn có tương lai rộng mở, anh hãy xuống đi…”
            “Được, tôi sẽ xuống!”

            Cô y tá rú lên một tiếng kinh hoàng, Hinh ngẩng đầu nhìn, trên bậu cửa không thấy bóng bác sĩ Tuấn đâu nữa.




            #21
              PhongAnh 28.10.2006 14:40:15 (permalink)

              Chương 19
              Đúng hay là sai


              Ngày 6 tháng 2

              “Bà dùng nhân cách của ai khi nói chuyện với bác sỹ Tuấn?”. Cảnh tượng bác sỹ Tuấn nhảy lầu đã làm đậm thêm bức màn đen ám ảnh Diệp Hinh, sự đe doạ của cái chểt ngày càng mạnh thêm. Hinh bắt đầu ngủ mê thấy hình ảnh Thẩm Vệ Thanh nhảy lầu, cô hiểu rằng cô đã tin theo tín ngưỡng nào thì vẫn có một số sự việc dường như không thể tránh khỏi. Tâm trạng Hinh bắt đầu xuống dốc, hàng ngày, chỉ những lúc gặp gỡ Tạ Tốn hoặc mẹ, Hinh mới cảm thấy cuộc sống còn có hương vị ngọt ngào. Nhưng bây giờ mẹ Hinh đã kết thúc đợt nghỉ một tuần lễ, sắp phải lên đường. Bà San sẽ bị đưa sang buồng bệnh nhân nặng, Hinh muốn tận dụng những cơ hội cuối cùng này để hoá giải bầu không khí thần bí vây quanh bà già ấy.
              “Nếu tôi còn nhớ được, thì tôi đã không bị coi là mắc bệnh tâm thần đa nhân cách. Cô nên biết rằng, bệnh nhân đa nhân cách –ngoài bản thân ra – thì không thể ghi nhớ về các biểu hiện nhân cách khác. Nếu không, thì chỉ là diễn kịch mà thôi. Bên công an cũng đã hỏi tôi, nhưng tôi trả lời gì được? Chắc chắn họ cũng sẽ hỏi cô: tại sao cô lại tìm đến hiện trường?” Bà San nằm trên giường, đôi mắt nhìn thẳng lên trần nhà, hỏi vặn lại Hinh.

              “Lúc đó cháu thấy nhức đầu, có cảm giác như bị một sức mạnh từ bên ngoài dắt mình đi, thế là cháu đi tìm. Cho đến khi tìm thấy phòng điều trị mà bà đang có mặt, khi bước vào gian trong thì lại không thấy nhức đầu nữa.” Hinh trả lời bà San, có sao nói vậy. Giờ đây Hinh hầu như có thể khẳng định: bà San là nhân vật then chốt của hàng chuỗi sự việc ly kỳ.
              “ Theo tôi, sau khi bác sỹ Tuấn nhảy lầu, thì cô đã hết nhức đầu!”
              “Bà đừng nói linh tinh thế! Tuy cháu bất mãn với việc chẩn đoán và quyết định của bác sỹ Tuấn, nhưng cháu cũng chưa bao giờ có ác cảm với ông ấy. ông ấy là một thầy thuốc giỏi và rất cần mẫn.”
              “Cô giải thích chuyện nhức đầu của cô như thế, có hợp với lẽ thông thường không?”
              Hinh lắc đầu. Bà San cứ như là đã hiểu thấu tất cả. “Hình như cô ngày càng giống tôi, chứng tỏ cô có duyên với nơi này, sau này cô sẽ còn thường xuyên vào đây!”
              “Cháu sẽ không! Theo cháu nghĩ, trên đời này có những chuyện không thể giải thích bằng những lý lẽ thông thường, nhưng cháu sẽ không bận tâm làm gì.”
              “Nói một đường, nghĩ một nẻo. Mồm nói là thế, nhưng tại sao cô cứ đeo bám mãi “vụ án mưu sát 405”?
              Lúc này Hinh mới nhớ ra rằng bà lão này có thể nhìn thấu ruột gan người ta, cô bỗng rùng mình: nếu định “moi tin” bà lão thì khác nào con thiêu thân lao vào lửa?
              “Tôi không đáng sợ như thế đâu, tôi cũng buồn vì cái chết của ông Tuấn. Tôi không muốn nhìn thấy bất cứ ai -kể cả cô - phải chết”. Bà San muốn chấm dứt sự im lặng của Hinh, nhưng rõ ràng là câu nói này không có mấy tác dụng an ủi.
              “Bà đã nhìn thấy rất nhiều người chết, phải không?” Mới chỉ trong vòng một tháng, cháu đã tận mắt nhìn thấy hai người nhảy lầu.”
              “Tôi chưa nhìn tận mắt quá nhiều cảnh chết chóc, nhưng dù nhìn thấy một ai đó đang sống khoẻ mạnh, tôi cũng có thể cảm thấy cái chểt đang có mặt. Hồi tôi còn trẻ, thường dại dột nói luôn với người ta, thế là tôi bị đưa vào đây. Mọi người xung quanh đều nói triệu chứng của tôi là điển hình của người bị “ma ám”, tức là bị ma nhập vào người. Hồi đó, tôi nửa tin nửa ngờ, nhưng sau này thật sự hiểu rõ – toàn là nói láo cả!”
              Hinh nhớ đến cảnh tượng ở phòng điều trị, bà San chẳng phải rất giống như “bị ma nhập” hay sao?
              “Có lẽ, ma mà người đời thường nói, chính là cái chết là bà cảm nhận thấy. Thực ra nó ở đâu?”
              Bà San đang nằm bỗng ngồi thẳng người dậy, đưa sát mặt vào gần Hinh, như muốn nhìn cô cho thật rõ, đồng thời giơ ngón trỏ của bàn tay phải gõ gõ vào đầu: “Chúng đều ở trong này!” Rồi lại chỉ ngón tay trỏ vào trán Hinh: “Chúng cũng nằm ở đây!” Nói xong, bà ta lại nằm thẳng đơ trên giươngg.
              Hinh sững sờ, cô bỗng cảm thấy cái cách nói này nghe quen quen… “Cháu không hiểu bà nói thể là ý gì”. Hinh chỉ mong bà San nói cho rõ.
              ‘Cô không hiểu thật à? Đã nghe cái câu tục ngữ “ma ám tâm trí” và “trong lòng có ma” bao giờ chưa?”
              “Ý bà nói là thực ra trên đời này không hề có ma, ma quỷ chỉ có ở trong đầu người ta thôi, đúng không ạ?”
              “Tôi cũng sẽ không nói là đúng, và cũng không bảo là sai.”
              “Vậy rốt cuộc là đúng hay là sai?”
              Bà San lại ngồi dây, cả hai ngón tay trỏ cùng chỉ vào trán Hinh: “còn muốn tôi phải nói bao nhiêu lần nữa? Cô cho là đúng hay cho là sai cũng thế, đều là ở đây!”.

              12H ngày 3 tháng 6

              Bà San đã bị chuyển đi, Hinh lại thấy hơi ngao ngán như thiếu vắng một cái gì đó. Phải chăng sẽ không thể lại có được những ngày tươi sáng? Tình cảm của Tạ Tốn và sự che chở của mẹ dường như chưa thể làm tiêu tan sự ám ảnh của tử thần mơ hồ quanh quẩn đâu đây: “Vụ án mưu sát 405” vẫn chưa sáng tỏ, bà Uông Lan San có lẽ là điểm nút để tháo gỡ mọi điều bí ẩn, nhưng bà ta thì điên điên rồ rồ, chính bà ta đã như một bóng đen cực lớn, có thể giết người trong gang tấc chẳng ai dám đến gần, nữa là định coi bà ta là một đầu mối thật sự! Các nữ sinh ngày trước nằm viện không ai thoát khỏi nhảy lầu, liệu có liên quan đến bà San không?
              Hinh đang ngồi đờ đẫn thì cô y tá đến, nói là có người vào thăm Hinh. Đó là thầy giáo trẻ Chương Vân Côn dạy môn giải phẫu. “Thưa thầy, buổi tối hôm đó, chắc em đã làm thầy bị liên lụy.” Vân Côn vào thăm, Hinh thấy hơi ngạc nhiên.
              “Không đến nỗi nào. Đúng là nhà trường có hỏi đến tôi, nhưng Hinh đâu phải phạm nhân bị truy nã, tôi cũng không làm điều gì trái pháp luật, nên cũng không bị o ép gì cả.”
              “Thầy vào gặp em có việc gì không ạ?”
              “Không. Chỉ là thăm bạn thôi. Tôi mong Hinh chịu khó dưỡng bệnh, để sớm ra viện. Nếu Hinh bằng lòng, kỳ nghỉ hè này tôi sẽ dạy bù cho, đừng để bị lưu ban.”
              Hinh gật đầu cảm ơn.
              Mỗi người thân, bạn học, thầy giáo vào thăm, đều đem đến cho Hinh sự đầm ấm và lòng can đảm.
              Hinh trở về buồng bệnh, như được thêm phần khích lệ, cô mở cuốn giáo trình giải phẫu học ra đọc. Khi mới vào đây, Hinh không tin rằng mình sẽ bị ở lại lâu dài, cô mang theo một lô giáo trình. Cô rất sợ bị thiếu bài vở. Nào ngờ, vào đây rồi, đêm đêm bị kinh hoàng như thế khiến Hinh tiu nghỉu, thế là đành gác chuyện học hành lại. Đây là lần đầu tiên cô mở sách ra, mới đọc chừng nửa giờ đã thấy mỏi mệt.
              Mắt Hinh rời khỏi trang sách, cô muốn đứng lên đi dạo, tạm nghỉ một lát. Mới đi được vài bước, Hinh nhìn thấy thầy Côn ngồi trong phòng làm việc của y tá đang cúi đầu trên bàn đọc một thứ gì đó.
              Trong phòng làm việc của y tá thì chỉ có hồ sơ bệnh án của bệnh nhân là đáng để đọc, nhưng thầy Côn chỉ là một giáo viên dạy môn giải phẫu thì sao lại được phép đọc hồ sơ bệnh án ở đây chứ? Thầy ấy đang xem hồ sơ bệnh án của ai vậy nhỉ?
              Đoán rằng thầy Côn có mặt ở đây chắc là có liên quan đến mình, Hinh bèn rảo bước đi đến. Vân Côn bỗng ngẩng đầu, nhìn thấy Hinh ngoài cửa kính, anh hớt hải vội vã đứng lên bước ra khỏi phòng, bóng anh mất hút trong hành lang dài.
              “Vừa nãy thầy giáo Côn đã đọc bệnh án của ai thế? Thầy ấy đâu phải bác sỹ ở đây, có tư cách gì mà vào đọc bệnh án?” Hinh đoán chắc phải có uẩn khúc chi đây, cô sẵng giọng hỏi các chị y tá.
              Các cô y tá thì không nghĩ thế, nên trả lời rất tự nhiên: “Anh ấy đã được giám đốc bệnh viện ký giấy cho phép, anh ấy đọc hầu hết bệnh án của mọi người”.
              “Thầy ấy có đọc bệnh án của em không?’
              “Chúng tôi không giám sát nên không biết.” Các cô y tác đưa mắt nhìn nhau, Hinh cũng đã hiểu ra. Nhưng tại sao thầy Côn lại đọc bệnh án của cô?
              Không hiểu tại sao, cái bống đen ám ảnh cô lại mỗi lúc một lớn hơn. Hinh thậm chí cảm thấy mình đang bị rơi vào một âm mưu lớn, khó mà thoát ra và cũng không được ai hỗ trợ.
              “Có khách vào thăm Diệp Hinh kìa!” Các cô y tá đã có cớ để xua Hinh đi ra.
              Hinh hoàn toàn không ngờ người đang ngồi trong phòng tiếp khách lại là Âu Dương Sảnh. “Sảnh ơi, hãy cứu mình ra khỏi đây!” Hinh không ngờ mình lại mở đầu bằng câu nói thảm thương này.
              Sảnh vốn đang cảm thấy hơi thấp thỏm, lúc này nhìn Hinh nhợt nhạt trong bộ quần áo bệnh nhân, mái tóc dài không được chải gọn gàng, cô bật khóc.
              Sảnh - một cô gái trời không sợ, đất không sợ, thì ra cũng biết khóc!
              Hinh chợt nhận ra mình quá uỷ mị mềm yếu, Sảnh lần đầu vào thăm, sao mình lại để cho bạn phải khóc thế này?
              “Sảnh ơi, mình không hoa mắt nhìn nhầm đấy chứ?” Hinh nắm chặt hai cánh tay Sảnh, ngắm nhìn Sảnh mãi. Sảnh cũng đang như vậy, nước mẳ yếu đuối làm ướt đôi má cô.
              Hinh nhận thấy Sảnh sau một thời gian nghỉ dưỡng bệnh lại có phần đẫy đà hơn trước, cô liến thoắng khen ngợi để làm dịu bầu không khí buồn bã: “Lúc này cậu đã không còm nhom nữa, đã thành một mỹ nhân rất chuẩn rồi!”
              Sảnh “xuỳ” một tiếng, cô trở lại bản tính vốn có: “Hinh gớm thật đấy, vừa thấy mặt đã nói kháy nhau rồi! Tớ vừa mới được bệnh viện giảm án cho, bèn vào đây ngay với cậu! Cậu thấy bất ngờ phải không? Cậu đang ngỡ là ai vào thăm? Tớ thử đoán xem nào… có phải là anh chàng Tạ Tốn không? Huyền thoại “cặp tình nhân hạng sao” thật đáng để người ta ngưỡng mộ! Tớ lại đoán tiếp: có phải anh giáo viên trẻ dạy môn giải phẫu không? Tớ vừa nhìn thấy anh ta, có phải là anh ta vừa vào thăm cậu không?”
              “Thôi đừng nhắc đến làm gì! Tớ vẫn nghĩ anh ta là người rất tốt, nhưng vừa rồi lại thấy hơi lạ lùng: anh ta vào để đọc bệnh án của tớ!” Hinh cau mày.
              Sảnh ơ một tiếng, rồi nói: “Tớ sẽ tìm cách điều tra về anh ta. Lâu nay tớ buồn thỉu buồn thiu, khi nghe nói cậu bị ép vào nằm viện, bệnh vàng da của tớ vẫn chưa ổn, tớ rất ức vì không thể vào thăm cậu, tớ đã mấy lần ngồi khóc mãi!”
              Hinh cảm động rơm rớm nước mắt: “Thôi nào thôi nào, thực ra tớ vẫn ổn, chỉ tại chuyện lúc trước hấp tấp điều tra “vụ án mưu sát 405” khiến mọi người cho rằng tớ bị tâm thần! Tuy nhiên, tớ cũng lần ra được một số đầu mối, nhưng những đầu mối này lại dẫn tớ đến một mê cung lớn hơn! Nếu cậu không vào đây, chắc tớ đành phải từ bỏ, vì vẫn phải tiếp tục nằm viện.”
              “Chuyện là thế nào cậu kể hết đi, đừng bỏ sót một điểm nào -kể cả các tình tiết với “Kim Mao Sư vương”.
              Sảnh rời bệnh viện tâm thần ra về với một tâm trạng vừa vui mừng vừa nặng nề cùng đan xen. Cô nhìn bầu trời rực nắng, cố cảm nhận tâm trạng của Diệp Hinh đang sống trong bệnh viện. Hinh nhất định không công nhận mình mắc bệnh tâm thần, giữ vững tâm thế ấy lâu dài như vậy, riêng điểm này đã là rất hiếm thấy rồi.
              Nhưng Hinh có mắc bệnh tâm thần thật không? Sảnh thấy mình đáng bị ăn đòn vì dám nảy ra ý nghĩa này, sao mình lại có thể nghi ngờ trạng thái thần kinh của Hinh! Mọi trạng thái vui buồn hay hờn dỗi của Hinh vừa nãy không hề có điểm nào hơi thái quá, Sảnh cảm nhận thấy Hinh thậm chí còn “bình thường” hơn nhiều so với tuyệt đại đa số người bình thường khác!
              Nhưng Sảnh cũng hiểu rằng bệnh viện chuyên ngành thần kinh Giang Kinh nổi tiếng cả nước không thể đơn giản mà “hội chẩn nhầm”, huống chi mẹ cô nói là, bác sỹ Đình và bác sỹ Tuấn là hai thầy thuốc kỳ cựu và tài ba, tỷ lệ nhầm lẫn của họ vô cùng thấp. Mọi biểu hiện tâm thần của con bệnh đâu phải luôn xuất hiện từng giờ từng phút, có lẽ vừa nãy chỉ là lúc Diệp Hinh đang tỉnh táo cũng nên.
              “Âu Dương Sảnh!” Bỗng phía sau cô có tiếng gọi. Một nam sinh viên vóc người tầm thước đi đến, Sảnh nhớ ra đây là anh bạn đồng hương của Diệp Hinh - hội trưởng hội nhiếp ảnh của trường, có cái tên nghe là là: Du Thư Lượng.
              “Bạn vừa vào thăm Diệp Hinh à?”
              “Đúng thế”. Sảnh hơi có ý dè chừng nhìn Lượng, lượng mặc áo choàng trắng, một cuốn giáo trình đang kẹp nách. ‘Bạn ấy thế nào rồi?” “Vẫn ổn cả!” Lượng thấy Sảnh có vẻ e dè kín tiếng, anh không hỏi thêm nữa. Anh chào Sảnh rồi dắt xe đạp đi, Sảnh không nén được bèn gọi: “Anh muốn biết Hinh đang thế nào, sao anh không vào thăm bạn ấy?”
              “Mấy hôm trước tôi đã vào vài lần, bọn tôi đang kiến tập thực tế ngay ở đây, nên rất thuận tiện.”
              “Hinh phải nằm viện, sao nam giới các anh đều thi nhau vào thăm nhiều thế nhỉ? Tuy nhiên, Hinh như bông hoa lê gặp mưa – em còn thấy thương nữa là, nam giới các anh tích cực hơn là phải? Nhưng em lấy làm lạ, mấy hôm qtrước anh vào thăm, sao hôm nay lại không vào?”
              Lượng há miệng ngạc nhiên, sau cặp kính, đôi mẳt anh chớp mạnh mấy cái, rồi mới nói: “Tôi xin nói rõ vậy: tôi và Hinh chỉ đơn thuần là tình đồng hương! Tôi biết Sảnh là bạn chí than của Hinh, tôi xin nói thật là mỗi lần gặp Hinh, tôi lại thấy buồn buồn.”
              Thế mà em chưa được biết, anh Lượng là con người đa sầu đa cảm! Tại sao anh lại thấy thế ạ?”
              “Lại còn phải hỏi à? Hinh phải nằm viện, môi trường này gây ức chế rất căng, bị ở lâu rồi mà bệnh tình chưa khá lên tý nào…’
              “Dừng lại đã, anh nói gì cơ? Chưa khá lên? Em thấy rằng Hinh căn bản không có vấn đề gì hết! Căn cứ vào đâu mà anh cho rằng Hinh có vấn đề thật? Anh thử nói xem?”
              Lượng ngẩn người: “Có phải cô đã lâu chưa về trường không?”
              “Em bị viêm gan A nên về nhà tĩnh dưỡng, vừa được giải phóng thì em vào đây ngay!”
              “cũng không thể trách gì được. Thoạt đầu tôi cũng cho rằng Hinh không có bất cứ vấn đề gì, chỉ hiềm.. có một vài chuyện tôi thực tình không muốn nói, rất khó nói… Cô cứ về trường mà hỏi.”
              “Trường thì rộng, người thì đông hàng vạn, em biết hỏi ai đây?” “Tôi cung cấp cho Sảnh một chi tiết: đã nghe nói về “cặp tình nhân hạng sao” chưa?”
              Sảnh vờ không biết gìm cô nhíu mày: “Nghe cứ lạ hoắc! Họ nói về anh à?”
              “Vớ vẩn! Ở lớp C của các cô có một nam sinh viên…”
              “Ôi, anh bị mắc lừa rồi! Tất nhiên em đã biết “Kim Mao Sư Vương”! “Cứ về mà hỏi anh ta đi!’

              16H ngày 3 tháng 6

              “Anh Tốn ở đây phải không?” Sảnh đứng ở hành lang ký túc xá nam nồng nặc khen khét, cô vừa lắc đầu vừa gõ cửa phòng. Cửa không đóng, nhưng vì Sảnh thoáng nhìn thấy có người đang thay áo nên đành lịch sự gõ cửa. Nghe thấy một giọng nam nói: “Sư Vương ơi, vận đào hoa đã đến kìa!”
              Sảnh bực mình, lẩm bẩm đọc thơ Mao Trạch Đông: “Khoai đã nấu chính, cho thêm thịt bò, không ăn thì vứt!” Anh chàng Tạ Tốn có ở đấy hay không, sao cứ ngại ngùng e thẹn như con gái thế nhỉ?’
              Vừa dứt lời thì thấy ngay một nam sinh cao lớn bước ta, mày thẳng mắt sáng, rất điển trai. Sảnh thầm thán phục Hinh tinh mắt. Cô hỏi: “Anh là Tạ Tốn phải không?”
              “Không phải tôi” “Thế thì anh ra làm gì? Không phải tôi đến để chia suất cơm, anh định nhận vơ cũng không xong đâu! Tôi muốn gặp anh Tốn, anh gọi giúp tôi với!’ Sảnh cất cao giọng.
              “cần gì bạn cứ nói với tôi!” “Nhưng anh là ai?” “Lệ Chí Dương. Vì Tạ Tốn bị quấy rối quá nhiều, nên tôi phụ trách nhắn tin cho cậu ấy!”
              Sảnh chợt nhớ ra: đây là anh chàng mặt lạnh mà Hinh đã từng nhắc đến. Dù biết anh chàng này khá khăng khít với Tạ tốn. “Tôi chẳng quan tâm tên anh là gì, nhưng anh là vợ hay là bà bô của anh Tốn thế này? Anh ấy là trang quốc sắc thiên hương hay sao mà sợ người ta đến quấy rối? tôi cần nói chuyện với anh ấy, anh gọi giúp đi! Tôi là bạn thân của Diệp Hinh!”
              Đôi mắt Chí Dương bỗng trợn tròn như muốn “toé lửa”, chằm chằm nhìn Sảnh: “Được! Bọn này đang muốn tìm Diệp Hinh để tính sổ thì các cô lại tự tìm đến! Diệp Hinh đã mắc bệnh tâm thần gì, sao lại còn kéo theo cả cậu Tốn? Ngay cả công an cũng đến tận đây để hỏi toàn những chuyện giời ơi! Bạn nói đi, Diệp Hinh đã lên cơn rồ dại gì thế?”
              “Anh lên cơn rồ dại thì có!” Nếu là các cô gái khác bị Chí Dương bốp chát sỉ vả như thế, chắc đã phải oà khóc, nhưng đây lại là Âu Dương Sảnh – cô chỉ hơi rơm rớm thôi. Sảnh lừ mắt nhìn lại, lạnh lùng nói: “Hinh đang phải nằm viện, có lẽ bạn ấy cũng có chỗ hiểu lầm gì đó nên tôi đến để tìm hiểu, làm rõ vấn đề. Nhưng nếu không nói chuyện với anh Tốn thì sao mà biết được? Không cho người ta làm rõ sự việc, lại còn cắn nhặng cả lên!” Sảnh lại cất cao giọng hơn nữa: “Tạ Tốn! Nếu anh vẫn còn là đàn ông đàn ang thì ra đây nói cho rõ xem!”
              Một nam sinh viên đứng bên nói ỡm ờ bí hiểm: “Kìa, Lệ đại hiệp cũng chỉ vì quá yêu…” Chưa nói hết câu đã bị Lệ Chí Dương cho ngay một chưởng vào ngực, khiến anh chàng ho lụ khụ. “Bạn cứ lấn lướt người ta kiểu này, thì ai biết là bạn có thiện chí hay không?” Một anh chàng đầu tóc bù xù từ trong phòng bước ra, mặt mũi ỉu xìu. “Mình là Tạ Tốn đây!”.
              Sảnh thấy bộ dạng Tốn co ro thiểu não, cô quá thất vọng: “Anh can đảm thế này kia đấy?” “Sao trách tôi gì được? Chỉ tại Diệp Hinh thân thiết của bạn, cho nên lúc thì phòng quản lý sinh viên, lúc thì công an, lúc thì nội san và trạm phát thanh của trường… thi nhau đến tra hỏi hành hạ tôi, ấy là chưa kể đến các đồng đội ở nhà này toàn trêu chọc tôi nữa! Tôi vốn học hành chỉ tầm tầm nhưng bây giờ thì khốn khổ rồi, không dám lên lớp nữa! Nếu thi trượt vài môn, thì trường sẽ ra lệnh đuổi học tôi, đến lúc đó thì tôi không thể lên phòng 405 của các cô em mà nhảy lầu, tạo nên “đột biến” trong “vụ án mưu sát 405” – đã có nam giới chết! Cô xem, thế có thú vị không?”
              Sảnh cũng đã thấy nguôi nguôi, nghĩ thầm “cũng chẳng phải anh ta nói đều là sai cả, lại còn có vẻ hài hước nữa, vẫn có vẻ “Tạ Tốn” mà Hinh thường miêu tả.” Sảnh nhìn khắp lượt các chàng trai đứng quanh, nghiêm giọng nói: “Xem gì mà xem? Sao cứ như các ông bà già về hưu, chỉ hay rỗi hơi rách việc thế?” Chí Dương cũng khá thông minh, biết rằng lúc này mình nên “chung mối hờn căm”, Dương trợn mắt nhìn đám đông khiến họ ù té luôn. Tốn khoát tay: “Ta vào đây nói chuyện nào!”
              Hai nam sinh trong phòng biết ý, bèn rủ nhau đi ra ngoài đá bóng. Tốn và Sảnh ngồi đối diện nhau, Chí Dương cũng ngồi cạnh Tốn. Sảnh nói chẳng mấy vui vẻ: “Tại sao ở đây lại có thêm một người thứ ba? Anh có việc gì chăng?” Dương định sửng cồ, Tốn vội nói luôn: “Bất cứ chuyện gì mình cũng nói với Dương, hai chúng tôi không giấu nhau bao giờ. Yên tâm đi!”
              Sảnh thầm nghĩ: “Trên đời lại có những anh chàng như thế này kia đấy!” Cô vào đề luôn: “Được, em xin hỏi: anh có quen Diệp Hinh hay không?”
              “Hiện giờ dù muốn không quen cũng khó mất rồi! Được gọi là “người tình hạng sao” kia mà! Thực ra mình cũng chưa thực biết về Hinh, trước khi lên lớp học chung, bình luận về em này em kia, đúng là mình có để ý đến Hinh, xinh đẹp thì dễ gây chú ý! Kể cả bạn nữa, hai người cứ như một cặp tình nhân, bọn mình đã nhiều phen nói đùa với nhau… Nhưng thôi, không nói xa xôi nữa, mình có thể đảm bảo rằng mình chưa ngỏ lời với bạn ấy bao giời!”
              “Anh có đi Vô Tích, Nghi Hưng chứ?”
              “Không! Mấy hôm đó mình toàn ở trường, lúc nào cũng có thể mời một vốc người làm chứng về điều này! Vì thế mà mấy tay công an từ Nghi Hưng đến cũng phải trở về tay không!”
              “Anh biết hát không? Đàn piano thì sao?”
              “Chỉ gào suông, thì ai chẳng biết! Nhưng mình mù nhạc, lên hát sao được! Piano thì càng ngu, chưa bao giờ sờ tay vào! Mình biết bạn định hỏi về chuyện thi hát hồi nọ, oan cho mình quá! Về sau có khối người sỉ vả mình, nói là đã ghi tên rồi lại không tham gia, phí thì giờ của họ!”
              Sảnh ngồi ngây ra đó, như có trăm ngàn ý nghĩ, nhưng lại dường như trống rỗng, cô lẩm bẩm một mình: “Chẳng hiểu có nên tin anh hay không đây.” Điều này quá đủ để chứng minh Diệp Hinh đang mắc bệnh tưởng tượng. Điều đáng buồn hơn nữa là ở đây lại có tình yêu thơ ngây chân thật của Hinh.
              Chí Dương nói: “Nếu đã không tin thì bạn tại sao lại đến đây hỏi làm gì?’
              “Em hỏi một câu cuối cùng: vậy từ ngày Hinh đi viện, anh đã vào thăm bạn ấy chưa?”
              “Chưa! Tôi không dại gì mà mua dây buộc mình đâu!”
              Lời của Tốn chẳng khác gáo nước lạnh tạt vào mặt Sảnh, lạnh thấu tim gan. Cô thấy đầu óc quay cuồng. Phải chăng đây là hiện thực tàn nhẫn? Đúng là Hinh đã có ảo giác - biểu hiện điển hình của chứng tâm thần phân liệt. Ảo giác này kéo dài đến tận bây giờ, nó quyết định Hinh chưa thể mau chóng ra viện. Hinh tưởng mình đang sở hữu một tình yêu hoàn mỹ, mà thực tế chỉ vốn chưa hề quen biết Tạ Tốn, tại sao Hinh lại có ảo giác này? Hay là Hinh đang trở thành nạn nhân của “vụ án mưu sát 405”?
              Điều kỳ lạ là, Hinh miêu tả về Tạ Tốn sinh động và rất thật đến nỗi ai cũng phải tin, có phải bệnh của Hinh đã rất nặng không? Ra khỏi ký túc xá nam, Sảnh vừa đi vữa nghĩ ngợi, chẳng hiểu mình đã bước đến cửa phòng của hội sinh viên từ lúc nào.
              “Đúng thế, hôm dẫn chương trình thi bài hát tự biên tự diễn, Hinh đã có một vài dấu hiệu.” Khi nghe Sảnh hỏi về “sự kiện Tạ tốn đến sân khấu muộn giờ”, anh trưởng ban văn nghệ bỗng nhớ về Diệp Hinh và nói tiếp: “Chuyện là thế này: cuộc thi hôm đó thoạt đầu rất suôn sẻ, trước lúc số 5 ra hát, chúng tôi nhận ra rằng số 6 Tạ Tốn chưa có mặt ở hậu trường; danh sách thì có tên anh ta, chúng tôi nhận ra đó là chữ viết của Diệp Hinh. Lúc đó Hinh rất cuống, đã gọi loa vài lần để thông báo Tạ Tốn đến ngay hậu trường. Nhưng chẳng thấy anh ta đâu, chúng tôi chờ khá lâu, khán giả đã bắt đầu la ó. Anh bạn cùng dẫn chương trình với Hinh là Tiết Lập Dương nói là khỏi cần đợi nữa, sẽ mời người kế tiếp ra hát vậy. Nhưng Hinh nói cứ đợi, rồi cô ấy đứng đó lẩm bẩm một mình…khán giả càng la ó khiếp hơn, suýt nữa thì náo loạn. May mà Lập Dương nhanh trí, mời một cậu cũng là hạt nhân văn nghệ lên hát hai bài hát karaoke, đồng thời nhắc người tiếp theo chuẩn bị ra sân khấu. Thế là tạm ứng phó được việc. Cũng may cậu kia ra lấp chỗ trống đã hát rất hay, bắt chước Chu Hoa Kiên rất giống nên lại còn được vỗ tay tán thưởng nữa. tôi nhìn sang Hinh, thấy cô ấy nước mẳt lưng tròng và đã tỉnh táo trở lại, cùng Lập Dương lên sân khấu.
              Nhưng tiếp đó Hinh dẫn chương trình khá thành công nên chúng tôi hầu như đã quên hiện tượng khác lạ của Hinh vừa nãy. Đến lúc công bố trao giải thì tôi mới thấy có điều không ổn: vì Hinh hỏi tôi rằng vì sao Tạ tốn không được nhận giải? Tôi định bảo Hinh giải thích thì cô ấy chạy biến luôn. Chúng tôi mải thu dọn sân khấu nên cũng không gặp lại Hinh để hỏi thêm gì nữa. Từ sau đó, không thấy Hinh đến hội sinh viên, chúng tôi nghe nói cha Hinh ốm rồi qua đời, Hinh lại bỏ học để đi Vô Tích, hình như cô ấy gặp khá nhiều khó khăn…”
              “Thế này… tức là Tạ tốn không nói sai. Đúng là anh ta không dự thi hát gì hết.” Sảnh lại lẩm bẩm một mình.
              Anh trưởng ban văn nghệ nghĩ bụng: cô này cũng chẳng hơn gì Diệp Hinh. Nhưng rồi lại nhớ ra một điều: ‘tôi có băng ghi âm tối hôm đó, vì máy ghi âm đặt gần ở gần vị trí Hinh và Lập Dương dẫn chương trình, lại là ghi chung tất cả mọi âm thanh – chưa biết chừng có thể thu các âm thanh ở bên cạnh sân khấu. Nếu bạn muốn, thì có thể nghe, miễn là có lợi cho Hinh điều trị chóng khỏi thì tốt! Nói thật nhé, tôi còn định bảo Hinh làm phó ban để sau này kế nhiệm tôi.”
              Sảnh vội nói: “Vâng thế thì hay quá.”
              Anh trưởng ban tìm cuốn băng cát sét, thao tác “chạy tiến chạy lui”, rồi bật lên nghe. Thấy sau một tràng vỗ tay là giọng nói của Hinh: “Bây giờ xin mời Ban giám khảo cho điểm. Nhân đây chúng tôi xin thông báo khẩn: mời ca sỹ Tạ Tốn đến ngay phía sau sân khấu.” Chừng nửa phút sau, lại là giọng Hinh: “Mời ca sỹ số 6 Tạ Tốn đến ngay phía sau sân khấu.” Lập Dương và Hinh đã đọc xong điểm số của số 5, Hinh lại thông báo: “Mời ca sỹ số 6 Tạ Tốn đếng ngay hậu trường. Đây là lần gọi cuối cùng, nếu không đến anh sẽ bị loại!”
              Có rất nhiều tiếng lao xao, tiếng huýt sáo nổi dậy đó đây. Có tiếng Lập Dương nói: “Diệp Hinh ơi, không thể cứ đợi mãi thế này, ta gọi người tiếp sau ra thôi!”
              Lại nghe thấy giọng Hinh: “Cứ đợi thêm vài phút nữa!” Tiếng la ó càng nhiều hơn. Lại thấy giọng Hinh trở nên mạnh mẽ, hình như đang chất vấn ai đó: “Thì ra anh biết chơi ghi ta, tại sao lại bảo tôi đi mượn đàn piano, chẳng phải hoài công tốn sức là gì?”
              Tiếng Lập Dương ngạc nhiên: “Kìa, Hinh đang nói gì vậy? Bạn nói với ai thế?” Hình như Hinh thở dài, sốt ruột nói: ‘Đừng lắm lời nữa, mau lên hát đi!”
              Rõ ràng Lập Dương có phần sợ hãi; “Hinh đang nói ai lắm lời? bảo ai mau lên hát? Bạn không sao chứ?” Tiếp đó là tiếng Dương gọi: “Này trưởng ban ra mà xem, Diệp Hinh... hình như bạn ấy... hình như hơi có vẻ...”
              Tiếng anh trưởng ban hỏi: “Diệp Hinh ư? Diệp Hinh làm sao thế?” Rồi anh dặn dò:”Cậu Dương mau nghĩ cách để cứu sân khấu, có lẽ Diệp Hinh bận lắm việc, rồi quá mệt... Mình để bạn ấy bình tĩnh trở lại đã rồi mới lại tiếp tục thi...”
              Dương bèn gọi luôn: ‘Băng Quân lên đây chữa cháy hộ với! Cậu có sở trường về “Chu Hoa Kiện”. Tiên Vũ Hà phụ trách đệm nhạc, mình phải ra dàn xếp cho yên!”
              Tiếng la ó bớt dần, tiếng Lập Dương thông báo: “Sau đây, hội sinh viên xin gửi tới các bạn một niềum vui bẩt ngờ: một ngôi sao sáng của bầu trời ca hát đã viếng thăm cuộc thi hát của chúng ta! Mời các bạn nhắm mắt lại, nghe xem đây là giọng hát của ai?’
              Nhạc dạo giai điệu bài “Không muốn cô đơn” của Chu Hoa Kiện vang lên, Băng Quân cất tiếng hát, chất giọng y hệt Chu Hoa Kiện. Có một khán giả nữ phía dưới reo lên: “Chu Hoa Kiện”
              Tiếng đàn đệm rất vang át cả mọi tiếng nói chuyện ở hậu trường, nhưng vẫn lẳng nghe thấy tiếng anh trưởng ban: “Có lẽ Hinh quá mệt về việc chuẩn bị cho cuộc thi này, cứ nghỉ đi, nếu cần đi viện thì cứ bảo tôi!”
              Hai bài hát “Chu Hoa Kiện” đã biểu diễn xong, tiếng vỗ tay vang lên như sấm, loáng thoáng nghe thấy tiếng Lập Dương: “Để mình tôi ra thông báo tiết mục tiếp theo!” Tiếp đó là tiếng anh trưởng ban gọi :”Hinh ơi, liệu có ổn không? Đừng cố làm gì?”
              Sau đó là Hinh và Dương cùng dẫn chương trình, giọng Hinh hơi nghèn nghẹn, nhưng rồi lại lưu loát như lúc đầu.
              Nghe xong băng Sảnh ngồi đờ đẫn, cho đến lúc anh trưởng ban gọi điện cho phòng y tế thì cô mới tỉnh trở lại: “Anh đừng lo, em vẫn bình thường, chỉ đang nghĩ ngợi một chút thôi! Anh có thể cho em mượn cuộn băng này về nghe được không ạ?”




              #22
                PhongAnh 01.11.2006 03:55:22 (permalink)
                Chương 20
                Ký Sự Bắt Ma



                Bước ra khỏI phòng của HộI sinh viên, Sảnh chỉ muốn khóc to lên một hồi. Tuy bằng chứng đã rõ ràng nhưng Sảnh vẫn không thể tin Hinh thật sự có trục trặc về thần kinh.
                Bao năm nay chưa từng thấy khổ sở thế này. Hồi nọ được tin Hinh phải nằm viện, Sảnh chỉ thấy kinh ngạc và bực tức – cô cho rằng họ chârn đoán sai, Âu Dương Sảnh này “ra quân” thì chắc chắn sẽ chứng minh được Hinh là người rất tỉnh táo. Nhưng mới chỉ sau một hồi lâu, thì “cán cân công lý” của cô đã lệch sang phía lẽ ra không nên lệch. Mà lại là do chính cô khui ra nó! Thật là chua chát.
                Mới chỉ gần đây thôi, mình còn cười Du Thư Lượng trở nên đa sầu đa cảm, thì lúc này mình có gì khá hơn anh ta! Ôi, tại sao Diệp Hinh lại để cho những người xunh quanh cậu đều càng trở nên có chiều sâu hơn? Chỉ riêng cái gã Tạ Tốn đáng ghét…
                Sảnh chợt nghĩ rằng chuyện Hinh có ảo giác không phải là vấn đề bệnh lý mà là một hiện tượng kinh dị nào đó, liệu có thể là thế chăng ? Sảnh còn nhớ cái lần Hinh nói là sau khi cha Hinh bị liệt não, ông ấy đã đến trường thăm Hinh và để lại chiếc áo jăk-ket nữa. Nếu đúng là còn chiếc áo đó thật, thì chứng tỏ mọi chuyện Hinh đã gặp không hoàn toàn là ảo giác.
                Sảnh bước vào phòng 405 đúng vào lúc các bạn đều đang có mặt. Trông thấy Sảnh, mọi người đều rất ngạc nhiên. Sảnh biết Chu Mẫn và Trần Hy là “quân chủ lực” đi “bắt” Diệp Hinh, cô định nói kháy mấy câu nhưng lại nghĩ rằng việc làm đó của họ lại có tác dụng khách quan là giúp đỡ Hinh, nên Sảnh lại thôi. Sảnh đành gượng cười với họ… rồi giơ hai tay như định ôm choàng Tần Hiểu Lôi.Nhớ là Sảnh vừa bị viêm gan A, Hiểu Lôi đờ người ra rồi kêu toáng lên, vì cô sợ là sẽ bị lây bệnh! Mọi người đều cười như nắc nẻ!
                Nhưng ở đây lại vắng tiếng cười của Hinh.
                Sảnh cụt hứng, đi đến bên giường Hinh đứng ngẩn ngơ một lúc.
                Mắt cô bỗng sáng lên: một chiếc áo jắc-ket vải ni-lông gấp đặt ở đầu giường Hinh.
                Sảnh cầm lên ngắm kỹ, đúng là chiếc áo nam giới thường dùng. Tất nhiên nó không thể là của Hinh - một cô gái luôn biết cách ăn mặc
                Có nghĩa là Hinh đã nhìn thấy linh hồn của cha thậ? Nếu không, thì chiếc áo jắc-ket này ở đâu ra ?
                Chỉ có cách giải thích duy nhất: Hinh đã tiếp xúc với hiện tượng phi vật chất. Vậy thì bao năm qua mình mãi mê với các câu chuyện thần kỳ quái đản cũng không phải là không có lý, các thế lực quái đản ấy lại đang xảy ra với người bạn thân nhất của mình. Thế thì còn phải nghi ngờ gì nửa.

                Vậy tại sao mình vẫn còn bán tín bán nghi nữa chứ? Thì ra là – đúng như Hinh đã nói – mình chỉ là đứa giả vờ đam mê thôi ư?
                Chuyện này chứng tỏ một điều: Diệp Hinh không ảo giác gì hết, Hinh đã nhìn thấy linh hồn, nhưng người khác thì không.
                Không chỉ mình Hinh tiếp xúc với các nhân vật phi vật chất, trong cuốn nhật ký Hinh kể, chẳng phải anh chàng họ Tiêu đã từng cùng nghe nhạc giao hưởng với một đám linh hồn là sao?
                Nghĩ đến “Nguyệt Quang xã ”, Sảnh nhớ ngay đến nữ nhân vật chính Y Y trong cuốn nhật ký. Chị ấy giờ đây đang ở đâu? Và còn ông già gù kia nữa. Rành rành là hôm ấy Hinh đã nhìn thấy thảm cảnh bác Phùng bị xẻ thây, nhưng sau đấy lại được biết tối hôm đó bác Phùng không làm việc ở nhà giải phẩu, bác ấy bị xuất huyết não rồi nằm viện theo dõi . Sự việc này thì lại chứng tỏ Hinh bị ảo giác. Chính Hinh cũng thẳng thắn công nhận rằng, vì sau vài lần sợ hãi Hinh đã quá mệt cả thể xác lẫn tinh thần, rất có thể đã rối loạn tâm trí.
                Bác Phùng đã làm việc lâu năm ở nhà giải phẩu, không thể không nghe nói đến “Nguyệt Quang xã” , chưa biết chừng, đó là nguyên nhân khiến bác ấy nhạy cảm trước hai chữ “ánh trăng; bác ấy nên cho biết đầu mối để tìm ra mối liên hệ giữa: ”Nguyệt Quang xã” và “vụ án mưu sát 405”. Nhưng bác ấy vẫn cứ ăn nói nữa vời, tại sao thế nhỉ ?

                14 h ngày 5 tháng 6

                Cánh cửa bị gõ ầm ầm một hồi, nghe thấy bên trong có tiếng lạch cạch, rồi cửa hé ra một khe hẹp. Trông thấy Âu Dương Sảnh mặc bộ đồ trắng đứng ngoài cửa, ông Phùng ngán ngẩm kêu trời, vội đóng cửa luôn nhưng Sảnh nhanh mắt nhanh tay đã “trấn” ngay, ra sức đẩy cửa rồi lách vào luôn.

                Sảnh vào nhà, cô hết sức ngạc nhiên. Nhà ông Phùng ở trong một con hẻm cũ kỹ, ba hộ chung nhau một cái sân. Nhìn bên ngoài, thấy căn nhà cấp 4 hướng bắc thấp lè tè, tường gạch lở lói lem nhem mái hiên thì thiếu ngói… có vẻ như rất dễ bị Sở Xây dựng cho san ủi cho khuất mắt! Nhưng bên trong thì lại rất trang nhã: chỉ có rất ít đồ dùng, nhưng toàn là đồ Tây ngày xa xưa. Chiếc giường được chạm trổ sơn đen, chiếc tủ lớn bằng gổ phong màu đỏ xẫm, chiếc đồng hồ chuông kiểu cũ…Sảnh nhớ là mình hay nhìn thấy trong phim bối cảnh là những năm 30-40. Trên tường treo hai bức tranh sơn dầu, Sảnh không biết đánh giá, chỉ nhận ra rằng chúng rất “có phong cách”

                Một thứ thu hút Sảnh nhiều hơn, là chiếc máy quay đĩa kiểu cũ đặt trên một chiếc bàn nhỏ, nắp đang mở lên, thấy có một đĩa hát trong đó. Cả máy hát lẫn đĩa hát đều sạch bóng, không gợn chút bụi, rõ ràng là mới đây vừa cho máy chạy.
                “Thật không ngờ bác lại có những sở thích tao nhã thế này!”. Sảnh tấm tắc khen ngợi.
                “Kìa, nói gì thế? Ý cô là trông người tôi rất thô kệch phải không? ” Ông Phùng nói chẳng mặn nồng gì, ông đứng ở cửa, có vẻ như sẵn sàng “tiễn khách”.
                “Bác nhạy cảm quá thì phải, cháu không có ý đó a. Cháu ăn nói vụng về, mong bác bỏ quá cho.”
                ”Tại sao cô lại tìm đến tận đây?”
                “Hồi nọ bác phải đi viện, nằm ở bệnh viện trực thuộc số 2 thì phải. Rất là không đúng lúc, vì mẹ cháu là bác sĩ ở đó… Nhưng cháu biết, chẳng nên dò hỏi chuỵên riêng của người khác, cũng không nên làm phiền bác đang dưỡng bệnh, nhưng cháu bí quá, cháu rẩt cần bác giúp đỡ. Vả lại… cháu biết rằng bác có bị xuất huyết gì gì đâu, cháu đã đọc bệnh án của bác, bác cứ đòi nằm viện ít hôm, rồi xét nghiệm một lô một lốc, kết quả là chẳng có vấn đề gì, đúng không ạ?Tuy nhiên bác vẫn là có chừng mực, chỉ cần nghỉ phép vài hôm thế thôi, cháu nói không sai chứ ạ?”

                “Cô là người của công an à ? Sao cô “bao sân” lắm việc thế ? Mấy điều cô vừa nói đều nằm trong khuôn khổ của pháp luật cho phép, cô định làm gì nào?”. Nghĩ rằng cô này đến chẳng hay ho gì, ông Phùng càng có ý muốn đuổi khách.
                “Tại sao bác lại nghỉ ốm vào đúng dịp này ? Cháu không có ý nói là bác không được phép nghỉ ốm – nhưng nghỉ vào dịp này thì rất không bình thường. Cháu đã xem hồ sơ bệnh án của bác, và rất ngạc nhiên: bác đã cao tuổi thế này, nhưng gần 20 năm qua hầu như chẳng nghỉ ốm bao giờ. Tất nhiên cũng vì có thể lực tốt, và vì có nhiệt tình công tác nữa. Từ 20 năm nay, đây là lần đầu tiên bác bị ốm. Tại sao 20 năm luôn khỏe mạnh, mà nay lại “ốm” đúng vào dịp này? Và cũng thật là khéo: hôm trước bác đi viện thì hôm sau Diệp Hinh phải vào nằm viện tâm thần. Tối hôm trước thì Hinh vào phòng chuẩn bị công tác của bác, rồi có ảo giác nhìn thấy bác bị…. Thôi cháu không nói nữa, kẻo bác lại sợ!” Sảnh tưởng tượng tới cái cảnh ấy, cô cũng thấy lành lạnh sau gáy.
                “Muốn nói hay không thì tuỳ, cô nghĩ xem tôi sống bằng nghề gì?”
                “Vâng, cháu xin nói: Diệp Hinh nhìn thấy bác đang bị máy cưa xẻ thây!” Nói xong Sảnh nhìn chằm chằm vào ông Phùng, cô muốn nhận ra một dấu hiệu gì đó trên nét mặt ông. Nhưng ông Phùng vẫn thản nhiên không thể hiện một điều gì.
                “Được! Cảm ơn cô đã vất vả đi đến tận đây để cho tôi biết. Tạm biệt! ”. Ông Phùng chính thức mời Sảnh ra về!
                Cháu có một việc nghiêm túc còn chưa hỏi bác, bác có thể nói lại chuyện “Nguyệt Quang xã không?” Cháu cũng đã biết: nói chuyện về nó, và quan hệ giữa nó và “vụ án mưu sát 405” là thế nào?”
                “Tôi là kỹ thuật viên, tôi chỉ biết hành hạ xác chết, còn các chuyện khác đều không biết”
                “Không thể như vậy. Trong khoảng 10 năm, các hội viên “Nguyệt Quang xã” đều lần lượt nhảy lầu bỏ mạng. Họ đều có di chúc xin hiến xác cho phòng nghiên cứu giảng dạy giải phẩu của trường. Bác đã làm việc ở phòng giải phẩu này từ những năm 50, sao lại không biết về “Nguyệt Quang xã” cơ chứ?” Cháu còn nhớ lần đầu vào nhà giải phẩu, Diệp Hinh đang mơ hồ nhắc đến hai chử “ánh trăng”, tại sao bác lại chợt biến sắc mặt? Sau đó bác gượng gạo giải thích, lúc đó bọn cháu không để ý, nên đã nghe bác nói quấy quá như thế. Chắc chắn bác phải biết nhiều chuyện, sao bác không kể cho bọn cháu nghe với?”
                “Một là, tôi chẳng biết gì nhiều, thậm chí các cô còn biết nhiều hơn tôi. Thứ hai là, các cô cũng chẳng nên biết thêm nữa. Cô còn cần tôi nhắc hay sao? Cô thấy rồi: cô bạn cô đã biết không ít chuyện, nhưng hiện nay thế nào rồi?”
                “Nhưng nếu được bác giúp đỡ thì…”
                “Tôi có cảm giác rằng nếu tôi nói thêm gì nữa, thì sẽ là đưa cô ta vào ngõ cụt, tôi không gánh nổi cái tội lỗi này! Cô cũng đừng ép tôi, tôi không biết “Nguyệt Quang xã” và “vụ mưu sát 405” có liên quan gì.” Mà nếu biết, thì điều đầu tiên tôi làm là đi báo công an, chứ đâu phải chờ cô đến hỏi tôi vào lúc này, đâu có chuyện tôi giương mắt ra nhìn các nữ sinh ấy lần lượt ra đi!” Ông Phùng càng nói càng xúc động, ông rớm nước mắt, bùi ngùi thương cảm.
                Sảnh biết ông Phùng còn có những điều muốn dấu kín, nhưng có lẽ hôm nay thì không hòng gì ông sẽ cho biết. Nhưng cô vẫn chưa chịu thôi, nên lại hỏi: “Thế thì bác thử cho cháu biết tại sao bác lại cáo ốm trong dịp này? Bác có ý tránh né? Tránh né những câu hỏi mà bác không muốn trả lời!” Ông Phùng ngẩn người, thoáng nghỉ ngợi, rồi thở dài: “Thôi được! Cô hăm tôi khiếp quá. Tôi cho cô biết vậy: những hôm đó tôi không dám đi làm, vì tôi sợ! ”
                “Sao lại thế? Lại còn thứ gì có thể hù dọa được bác sao?”
                “Tất nhiên có chứ! Riêng cô đã khiến tôi phải sợ rồi! Chuyện là thế này: một buổi tối tôi đang chế tác tiêu bản trong phòng – cô đã biết khi làm việc tôi thường không bật đèn – tôi bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa nhè nhẹ, rồi hình như cửa bị mở ra. Tôi cho rằng có lẽ lại là các sinh viên tinh nghịch như kiểu các cô, nên hỏi luôn “ai đấy”? nhưng không có tiếng trả lời. Tôi ra cửa xem sao, thì thấy cánh cửa vẫn còn rung rung nhưng không thấy ai hết.
                Hôm sau, lúc đang làm việc lại nghe thấy tiếng gõ cửa. Lần này tôi im lặng, thì lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ vọng từ phía cửa vào toà nhà. Những tiếng kít kít lẹt xẹt nghe rất kinh! Tôi đánh bạo chạy ra, thì vẫn không nhìn thấy gì hết, cánh cửa lại cũng đang đung đưa, rõ ràng là có người vừa ra khỏi nhà. Tiếc rằng chân tôi yếu, khi lạch bạch ra được bên ngoài, thì đã chẳng thấy ma nào.”
                Từ sau đó, âm thanh kỳ quái đó còn xuất hiện nhiều lần. Nó hành hạ tôi mấy đêm, thần kinh tôi thì yếu, cả đêm cứ nơm nớp. Tôi sợ rằng mình đã làm ở nhà giải phẩu đã lâu năm nên sinh ra ảo giác, huyết áp lại hơi cao, cho nên tôi bịa ra bệnh, thực ra chỉ là vì muốn nghỉ vài hôm.”
                Sảnh nghĩ bụng: chi tiết này rẩt quan trọng, mình phải bắt tay vào từ đây mới được.
                Sao vẫn chưa thấy đến nhỉ?
                Hay là bác Phùng lòe mình?
                Sảnh núp trong bụi cây thấp, đối diện hơi chếch với nhà giải phẩu, căng mắt nhìn vào cửa khu nhà. Sảnh đã mặc quần dài, áo dài tay và phun thuốc diệt muỗi vào người, nhưng suốt một giờ qua đàn muỗi ngoan cố vẫn cứ “được” cô cho ăn no nê. Bác Phùng nói là kẻ bí hiểm ấy ra vào qua lối cửa, cô vốn định vào trong nhà để “cung kính đón” hắn, nhưng chỉ có một thân một mình nên lại sợ, bèn đứng ngoài này quan sát đã; cũng là để tránh đánh động hắn, thậm chí đề phòng bị hắn làm hại.
                Sảnh đang quá sốt ruột thì bỗng nghe thấy những tiếng ‘sột soạt’ vọng đến. Sảnh giơ tay nhìn đồng hồ dạ quang lúc này xấp xỉ 12 rưỡi đêm. Ngước mắt nhìn ra, thấy một bóng đen đang mon men từ phía nam khu nhà đi đến cửa phía bắc, bước đi rất chậm, hình như mang theo vật gì nặng. Hắn sắp đến cửa khu nhà, Sảnh đã nhìn rõ: dáng người cao gầy, mặc toàn đồ đen, đầu đội mũ liền áo, nhưng mặt thì bịt kín không sao nhìn ra. Trông cực giống các vai sứ giả thần chết thường thấy trong các phim kinh dị mà Sảnh đã xem. Có lẽ tiếng sột soạt là tiếng do quần áo cọ xát. Điều lạ lùng là hắn đang nửa vác nửa kéo một cái bao đen rất to, dài đến hai mét, hình như rất nặng.
                Sảnh bỗng nhớ lại tiếng bước chân bác Phùng vác tử thi năm ngoái mà cô nghe thấy. Người này chân bưpức nhanh nhẹn hơn nhưng vẫn là đang mang theo vật nặng. Nếu đúng là hắn vào nhà giải phẫu thì trong cái bao đen kia là thứ gì?
                Xác chết? Hay là các phần cảu xác chết? Sảnh vẫn không sao đoán ra được là thứ gì hợp lý. Liệu có phải hắn là con quỷ nghiện xác chết trong truyền thuyết?
                Quả nhiên bóng đen ấy đứng lại trước cửa nhà giải phẫu, rồi bước lên bậc thềm, đẩy cửa bước vào rồi khép cửa lại.
                Mình có nên vào theo xem ra sao không?
                Cứ với bản tính của mình thì Sảnh nhất định sẽ vào xem, nhưng cô lại thấy mọi chuyệnnày kỳ quái quá bí hiểm nên lại nghĩ ngược lại, không nên manh động mạo hiểm. Một nhà trinh thám cừ khôi phải can đảm nhưng cũng rất nên thận trọng.
                Nhưng rồi sảnh vẫn không nén nổi liền lò dò đến cửa, ghé tai nghe ngóng. Quả nhiên nghe thấy tiếng ‘kít kít’ kéo dài, đúng như bác Phùng đã miêu tả.
                Nếu mình đẩy cửa vào, chưa biết chừng sẽ biết rõ tất cả. Nhưng Sảnh lại nghĩ ra một kế hoạch hay hơn, nếu buộc phải chạm trán trong đó, thì chi bằng mình cứ chờ hắn ra rồi bám theo.

                Sảnh quay lại chỗ bụi cây chờ đợi chừng nửa giờ. Cửa đã mở ra, bóng đen ấy ra, và kéo theo cái bao to. Thấy hắn đi về phía nam khu nhà, Sảnh bèn rón rén bước theo. Vậy là cái chuyện lạ lùng khó tưởng tượng ấy đã xảy ra, bóng đen đi về phía nam khu nhà, không đi thẳng nữa mà là bước lên cầu thang lộ thiên.

                10H ngày 6 tháng 6
                “Gì cơ? Là Chương Vân côn? Sao lại có thể như vậy được? Nghe Sảnh kể xong đầu đuôi sự việc đem qua, Hinh lập tức nhớ lại một số lần tiếp xúc với Vân côn, nghĩ xem có gì đáng ngờ ngợ không. Kết quả thật bất ngờ, lần nào xuất hiện hình như anh ta cũng có vẻ kỳ lạ.
                Sau khi nghe Hinh kể lại việc trông thấy một tiêu bản cơ thể thần kỳ, thì hai người đi đến gian nhà nhỏ đặt tiêu bản ấy, bỗng Hinh thấy nhức đầu ghê gớm, khi tỉnh lại thì cô thấy mình nằm ở phòng y tế. Ít lâu sau, Hinh được tin cha mất, cô thấy đầu óc rối bời, bèn đi lan man trong trường, thì lại chạm trán Vân Côn. Hôm đến tìm bác Phùng thì anh ta bỗng xuất hiện sau lưng cô từ lúc nào. Sau đó là cái đêm kinh hoàng ở trạm phát thanh, sau khi Vân côn đến nơi thì âm thanh quái ác kia biến mất. Về sau, khi cô có ảo giác về cảnh tượng bác Phùng bị xé thây thì anh ta đang ở gần đó.
                Phải chăng anh ta là góc rễ của tất cả mọi chuyện? Anh ta chính là lời giải của ‘vụ án mưu sát 405’?
                “Điều quan trọng là cần điều tra rõ anh ta đang làm gì?” Sảnh thấy sự liên tưởng của Hinh rất có lý, nó càng củng cố kế hoạch tối nay của cô.
                “Nhưng mmọt mình cậu thì điều tra gì được? Lỡ bị làm hại thì sao? Có lẽ nên nói với phòng bảo vệ đã?”
                “Lúc này chúng ta chưa có một bằng chứng gì, nếu đến báo cáo thì khác nào đánh động cho đối phương biết?” Cậu yên tâm, tớ biết tự bảo vệ mình – ít ra cũng chuẩn bị đầy đủ ‘thuốc chống yêu râu xanh’. Cậu cứ chiu khó nghỉ ngơi đi, sớm muộn gì thì cũng sẽ ra viện. ‘Sảnh an ủi Hinh, nhưng cô vẫn thấy buồn, chẳng biết nên nói như thế nào với Hinh về chuyện phát hiện ra Tạ Tốn. Nên nói gì? Nói là “Hinh ạ, cái gọi là tình yêu của cậu chỉ là một ảo giác mà thôi’ hay nói là ‘hình như cậu bị tâm thần phân liệt thật rồi’?
                Nhưng nếu tất cả đều là do Chương Vân Côn dàn dựng, thì phải giải thích ảo giác của Hinh về Tạ tốn thế nào đây? Có lẽ đó chỉ là trò dối trá quái dị do Vân Côn tạo ra để nhiễu thần trí của Hinh. Có lẽ, mục đích cuối cùng của anh ta là giết người!
                Các ý nghĩ này lặp đi lặp lại mãi trong đầu Sảnh suốt gần một ngày, cho đến lúc cô đã ‘vũ trang đầy đủ’ và ngồi nấp trong ủt đựng dụng cụ của ông Phùng.
                Sảnh từng đọc rất nhiều sách ‘lạc dòng’ phân tích về ma quỷ, cô đã rút ra được khôn gít ‘trí tuệ’ trong đó. Ví dụ, ma quỷ thường sợ các ‘tàn tích’ của các con vật, cho nên người ta mới rất hay dùng máu chó để làm phép trừ tà ma. Tiếp tục suy rộng ra, tức là ma quỷ không thể xâm nhập vào da các con vật. Cho nên teong cái đêm mùa hạ này, Sảnh đã trang bị áo bludông da, quần da, mũ da, găng tay da và đi giày da. Lúc này khắp người sảnh mồ hôi nhơm nhớp. Túi áo có mấy ghi âm mini và máy ảnh, một tay cầm đèn pin, tay kia cầm thuốc chống yêu râu xag, sẵn sàng xuất kích.
                Đồng hồ dạ quang chỉ đúng 12 giờ rưỡi, quả nhiên nghe thấy tiếng mở cửa khe khẽ.
                Sảnh hơi đẩy cửa tủ ra, dỏng tai lắng nghe. Tiếng xột xoạt và kít kít đã nghe khá rõ. Mình có nên nhòm xem sao không? Sảnh ấn nút máy ghi âm, đang chuẩn bị ra khỏi tủ thì chợt nghĩ ‘gay rồi’, vì tiếng ‘kít kít’ đang phát ra ở ngay ngoài cửa phòng!
                Cô vội lui về ngồi im, rồi lại lắng nghe tiếng ‘kít kít’ hình như đang loanh quanh ngoài cửam chắc là Vân Côn đang do dự suy tính xem có nên vào hay không.
                ‘Loanh quanh’ như thế chừng một phút, nhưng với Sảnh thì tưởng như dài đến một năm. Sảnh thầm nguyền rủa – dù Vân côn là người hay ma, thì vẫn chỉ là gã nhu nhược thiếu quyết đoán. Nhưng có lẽ chỉ một gã như thế này thì mới có thể làm việc rất kín kẽ, giết người êm như ru mà không thể bị vạch trần.
                Tiếng động quái dị đã tiến vào phòng.
                Sảnh thầm nhắc đi nhắc lại mình: bình tĩnh, bình tĩnh, mình có duyên với ma, dù nó là ma lành ma dữ thì cũng sẽ không hại mình.
                Nhưng nếu hắn là người thì sao?
                Sảnh bỗng nhớ đến câu nói của bác Phùng ngày nào; “Xưa nay kẻ gây lắm tội nhất là người, chứ không phải là ma.”
                Sảnh định hé cửa tủ ra dù chỉ là một khe nhỏ để nhòm cảnh tượng trong phòng, nhưng cô không có cơ hội này, vì hình như tiếng ‘kít kít’ đang tiến đến cái tủ.
                Thì ra hắn đã biết mình đang ở trong này.
                Mồ hôi vã ra, chảy ròng ròng từ má xuống cổ, Sảnh dường như ngừng thở. Cô run run giơ hai tay, chuẩn bị thực thi chiến thuật, hễ cửa tủ bị mở thì bật đèn pin chiếu thẳng vào mặt Vân Côn, và phun ngay hộp thuốc xịt ‘chống yêu râu xanh’.
                Tiếng ‘kít kít’ đã đi đến trước tủ, rồi lại ngập ngừng tiến lui, hình như đang đắn đo có nên mở cửa tủ hay không?
                Sảnh không rõ mình còn có thể chịu đựng nổi cảnh tra tấn này bao lâu nữa, chằng lẽ đây là chiến thuật hành hạ của Vân côn?
                Nếu đúng thế thì chiến thuật này đang thành công, vì Sảnh cảm thấy bộ não mình đang cực kỳ thiếu ôxy, đã mấp mé ngưỡng tan rã.
                Có lẽ Vân côn đã bỡn cợt Sảng bị khốn đốn trong tủ như thế là đủ rồi, nên từ từ mở cửa tủ ra.
                Sảnh vội bấm đèn pin và xịt thuốc luôn.
                Ôi! Đèn pin thì không chiếu vào mặt Vân Côn, thuốc chống yêu râu xanh cũng xịt không trúng mắt Vân côn, mùi thuốc cay xè bay khắp căn phòng khiến chính Sảnh bị hắt hơi.
                Lại có ánh đèn pin sáng lên, nhưng chiếu thằng vào mặt Sảnh, Vân Côn quát to: “Cô là ai? Đang làm gì ở đây? Thật là quá đáng, quá đàng! Cô làm tôi phát hoảng lên!”
                Sảnh không thấy giọng có vẻ là ma dữ hay ác quỷ, chỉ là giọng nói của một thanh niên đang khiếp hãi mà thôi, cô thấy yên tâm ngay. Nhờ ánh đèn pin, Sảnh thấy Vân Côn đứng hơi xa, tay cầm một chiếc gậy dài, đầu gậy treo một cái mặt đồng hồ tròn, chính cái này phát ra tiếng ‘kít kít’.
                “Chính anh quá đáng thì có! Đêm nào cũng chạy đến đây làm trò ma!”
                ‘Sao cô biết tôi đêm nào cũng đến? ... Cô là ai? “ Rõ ràng Vân côn còn kinh ngạc hơn cả Sảnh.
                Lúc này, bằng cái ‘khứu giá ma quỷ’ của mình, Sảnh gần như loại trừ khả năng Vân Côn là gã quái dị. Cô đang đinh trả lời thì đèn trong phòng bỗng bật sáng, khiến cả hau đều giật mình,
                Ông Phùng đã đứng ngay ở cửa phòng.
                ‘Vẫn ổn, vẫn chưa muôn.’ Ông Phùng thở phào.
                Sảnh ngớ ra, nhưng cô hiểu ngay: “Sao lại chưa muộn? Nếu thầy Côn mà là kẻ xấu thì cháu đã đi đời rồi. Bác tính toán tài quá, bác cho cháu biết tin, tức là bảo cháu làm con chim mồi nhử thầy Côn ra! Đây là những chuyện kỳ cục gì vậy?’
                ‘Đương nhiên tôi chẳng ngại chạm trán thầy Côn, có điều là thầy Côn đã thừa biết quy luật hoạt động của tôi, tôi vẫn công khai như thế thì làm gì có đối thủ? Cho nên chỉ còn cách nhờ đến cô bé tinh quái to gan giúp cho. Tôi mong thầy Côn sẽ giải thích xem, thế này là làm sao?’
                Vân Côn nhìn chằm chằm Sảnh:’Bạn này là...”
                ‘Em là Âu Dương Sảnh, bạn thân của Diệp Hinh. Vừa rồi em bị viêm gan nên vẫn phải nghỉ ở nhà, đến nay vẫn chưa chính thức trở lại học.!’
                ‘Thì ra bạn là Âu Dương Sảnh – xin chào bạn! Thảo nào mà...’ Vân Côn như có điều gì nghĩ ngợi. ‘Vậy là bạn cũng như tôi, chúng ta cùng nghi ngờ ‘vụ án mưu sát 405’ có liên quan đến khu nhà giải phẫu này.’ Anh lại nhìn sang ông Phùng.
                Ông Phùng hừ một tiếng; ‘Thầy nhìn tôi làm gì? Tôi thực sự không hiểu hai người đang nói gì. Thầy Côn thử nói xem, đêm hôm thầy vác cái thứ đồ nghề này đến đây làm gì?
                Vân Côn thở dài, nét mặt bỗng trở nên buồn bã, anh cúi đầu im lặng một hồi, rồi ngẩng lên nói: ‘Chuyên dài lắm, chuyện dài - chẳng thể nói gọn trong mấy câu. Nhất là ... đang có mặt Sảnh.. Tôi xin nói là tôi có việc rất gấp. Thế này vậy , hai vị cùng lên phòng làm việc của tôi ngồi chơi rồi nói chuyện. Tôi nói xong, thì bác Phùng có thể bổ sung gì đo ... xin cứ nói thẳng thắn!’
                Cả ba ra khỏi khu nhà, đi về phía nam, đi cầu thang lộ thiên lên tầng hai. Vân Côn mời hai người vào phòng của anh, rồi khép cửa lại.
                Sảnh đã nhìn thấy ngay chiếc khung ảnh đặt trên bàn viết có lồng bức ảnh đen trắng của một thiếu nữ, cô ‘ơ’ lên một tiếng.
                ‘Sao thế?’ Vân Côn nhìn thấy sắc mặt sảnh cso vẻ khác thường.
                “Em có thể mở đầu nội dung mà thầy Côn định nói.” Sảnh lim dim mắt, đôi môi nhỏ xinh hình như đang lẩm bẩm... rồi cô nói ‘đúng là thế’. Sảnh mở to mắt nhìn thẳng vào Vân Côn: ‘Cô gái xinh đẹp này tên là Nghê na, là bạn gái ngày trước của thầy đúng không ạ?”
                Vân Côn kinh ngạc: “Tại sao cô lại biết được?” Anh lại thở dài: “Thật đáng tiếc, chuyện này đã rất lâu rồi...”
                Sảnh đưa mắt nhìn xuống: “Xin lỗi, em đã nhắc đến chuyện không vui của thầy, Em biết sự việc bất hạnh này xảy ra vào sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1984, chị ấy đã nhảy lầu. Thầy rất đau buồn, và đã thề sẽ tìm ra sự thật về ‘vụ án mưu sát 405’. Thầy đã rất gian khổ tìm kiếm mọi dấu vết. đau đáu hồi ức về mùa xuân năm đó xem là rốt cuộc đã có sai sót gì.”
                Vân Côn cực kỳ ngạc nhiên nhìn Sảnh, càng nghĩ càng thấy sờ sợ, anh đứng lên chỉ tay vào Sảng nhỏi: “bạn.. thực ra bạn là ai...?”
                “Cô ta là người thành tin! Từ năm ngoái tôi đã biết rồi.” Ông Phùng nói khấp khởi và khoái trá.
                ‘Không dám ạ! Chẳng qua là vì em đã điều tra rất tỷ mỉ đó thôi. Mối quan hệ giữa thầy và Nghê Na là do em suy luận ra. Em luôn rất có hứng thú với ‘vụ án mưu sát 405;, nhưng em làm gì có đủ tài để giở từng tấm ảnh cua các cô gái là nạn nhân của vụ ‘405’ này, cho nên chỉ có thể lợi dụng các tư liệu hiện có. Phòng quản lý sinh viên thường lưu trữ các bức ảnh chụp chung của các sinh viên mới, em nhờ thấy giáo ở đó cho xem bức ảnh năm 1983 và em đã nhận ra Nghê Na. Hôm nay thấy bưcs ảnh này trên bàn, thì em đoán ra mối quan hệ ngày đó của hai người. Thầy đã giữ bức ảnh này ngần ấy năm, chứng tỏ thầy đã nhớ nhung da diết. Em cũng có thể tưởng tượng được nỗi đau khô của thầy năm đó.’
                ‘Cho đến giờ tôi vẫn chẳng hề nguôi.’ Đôi mắt Vân Côn đỏ hoe. ‘Nhất là, những năm qua, năm nào cũng có một nữ sinh đi đến chỗ tuyệt vọng như thế.”




                <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.11.2006 11:07:42 bởi PhongAnh >
                #23
                  PhongAnh 02.11.2006 11:12:49 (permalink)
                  Chương 21
                  Không sao hiểu nổi



                  Sảnh cúi xuống nhìn chiếc gậy dài và chiếc mặt đồng hố đặt dưới sàn, rồi lại nhìn Vân Côn. Vân Côn hiểu ý, bèn nói: “Nói ra, tôi chẳng lo hai người sẽ cười cho: hai vị thử đoán xem cái này để làm gì? Đây là “dụng cụ bắt ma”, tôi đã mua từ nước ngoài, gửi bưu điện về đây.”
                  Sảnh bật cười: “Ôi, thật không ngờ! Thầy vốn không tin quỷ thần vớ vẩn kia mà?”
                  “Hiện nay tôi lại càng không tin. Suốt mấy năm qua tôi gần như đã lần mò khắp khu nhà giải phẫu, mà vẫn chưa phát hiện thấy một manh mối nào.Tôi nói thật: chính vì Diệp HInh xuất hiện, rồi nghe Hinh kể lại những hiện tượng không sao giải thích nổi – tôi mới nảy ra ý nghĩ “cứ thử xem sao”. Tôi thấy một tạp chí của Mỹ giới thiệu về cái “dụng cụ bắt ma” này. Theo lý luận của một số “chuyên gia bắt ma” người Mỹ thì ma quỷ cũng là một dạng vật chất, một dạng năng lượng, nó cũng sinh ra một trường, và tồn tại dưới hình thức sóng điện từ. Dụng cụ này thực chất là một thiết bị tìm kiếm và khuếch đại sóng điện từ, nếu gặp một từ trường tương đối mạnh, nó sẽ phát ra âm thanh “kít kít”. Tất nhiên là khi gặp một nguồn phát nhiệt đáng kể, ví dụ cơ thể người không được che chắn kỹ thì thiết bị này cũng có phản ứng mạnh. Cho nên, hôm nọ bác Phùng đang làm việc ở khu nhà giải phẫu, tôi vừa bước vào cửa thì nó đã phát luôn tín hiệu có người.” Tôi biết ngay là bác Phùng đang ở trong nhà. Còn việc đêm đêm tôi đều đến để “bắt ma” thì vẫn chưa có kết quả gì.”
                  “Thầy chớ nói thế! Thầy đã bắt được “con ma lanh” Âu Dương Sảnh kia mà!” Ông Phùng cười nói.
                  Sảnh hứ một tiếng: “Chẳng lẽ bác Phùng đã nhẫn tâm đẩy cháu ra làm mồi, để câu được con cá sộp là thầy Côn à? Lỡ thầy Côn là kẻ xấu, là ác quỷ thật thì sao?”
                  Ông Phùng nói: “Tôi đi lại kém nhanh nhẹn thật, nhưng những lần thầy Côn đến đều mang một lô các thứ nên cũng không thể đi nhanh, vì thế từ lâu tôi đã nhận ra thầy Côn, cảm thấy thầy Côn có vẻ rón rén làm một việc gì đó, nhưng hỏi thẳng thì không hay, tôi bèn mời cô ra khám phá. Nếu thầy Côn là kẻ xấu, đêm nào cũng bị tôi cản trở công việc, thì thầy Côn đã chặt tôi ra làm tám khúc từ lâu - giống như… ảo giác của bạn cô vậy.!’
                  Thấy Sảnh nhăn mũi, thầy Côn vội nói: “Thôi nào, bác Phùng cũng đừng nên xét đoán này nọ gì nữa. Tôi vì cảm thấy xấu hổ, nên mới rón rén bí mật như thế. Có lẽ từ nay tôi sẽ chấm dứt cái việc hão huyền này, và giữ vững lý luận của tôi trước đây.”
                  “Là lý luận gì ạ?” Sảnh tò mỏ hỏi.
                  “Điều vẫn gọi là ‘vụ án mưu sát 405’, thực chất là không hề tồn tại.” Vân Côn nói rất tự tin.
                  Sảnh lắc đầu quầy quậy: ”Em vẫn không thể tin cái gọi là ngẫu nhiên, năm nào cũng có 1 nữ sinh viên nhảy lầu từ cùng 1 căn phòng, lại cùng vào một ngày, và lại đều là tự sát?”
                  “Không phải tự sát thì là gì nữa? Nếu là bị giết thì công an đã không thể không tìm ra một manh mối nào suốt bao năm qua! Mấy năm qua tôi đã tốn nhiều công sức trong việc phân tích bệnh học thần kinh về chuỗi vụ án nhảy lầu này. Kết luận của tôi có lẽ là cô không thể tin các nữ sinh đều mắc bệnh tâm thần ở các mức độ khác nhau!’
                  Sảnh khẽ “a” một tiếng, cô cảm thấy rất kỳ cục. “Nội dung bản luận văn thạc sỹ của tôi là những phân tích bệnh học thần kinh về chín vụ tự sát xảy ra ở phòng 405. Về các nạn nhân, tôi đã thu thập rất nhiều tư liệu và tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn. Ví dụ, người thứ nhất Du Tĩnh, là bạn chí thân của người chết vào năm sau là Tưởng Dục Hồng. Mùa xuân năm 1977, Dục Hồng nằm viện tâm thần, còn Du Tĩnh – có vẻ đang rất bình thường – thì lại nhảy lầu chết ngay năm đó. Tôi đã gặp gỡ phỏng vấn các thầy các bạn và phụ huynh của cả hai cô, và nhận ra rằng sau khi Dục Hồng nằm viện thì Du Tĩnh rất buồn chán uể oải, mất cả hứng học tập và hoạt động xã hội. Xét mọi biểu hiện thì cô ấy đã mắc chứng trầm cảm rất điển hình. Hành vi tự sát là biểu hiện có tỷ lệ khá cao của các bệnh nhân mắc chứng trầm cảm.
                  Trước khi ra viện, Dục Hồng đã biết tin Du Tĩnh qua đời, nghe nói Hồng đã khóc rất đau đớn. Nhưng chứng hoang tưởng của Hồng đã không tái phát, không cần thiết phải nằm viện nữa. Nhưng nghe nói, sau khi trở lại trường học, Hồng không bận tâm gì đến các bạn xung quanh nữa, nếu có ai nhiệt tình chủ động hỏi han thì Hồng trả lời “cậu sao có thể thay thế Du Tĩnh được!” Thậm chí Hồng coi mình là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Tĩnh. Cho đến mùa xuân năm 1978, Hồng thường hay nói những câu đáng sợ, ví dụ “Du Tĩnh đang chờ tớ ở bên kia!” Cũng tức là Hồng đã chuẩn bị để đi đến cái chết. Tiếc rằng hòi đó người ta chưa hiểu sâu về bệnh thần kinh, chỉ gọi chung các bệnh nhân thần kinh là “người điên”, mà bỏ qua các vấn đề về tâm lý và tinh thần, thế là dẫn đến các bi kịch. Còn các nữ sinh nhảy lầu sau đó, nếu có thời gian tôi sẽ kể từng…”
                  Sảnh bỗng ngắt lời:”Nhưng các nữ sinh đã từng nằm viện tâm thần đều có ảo giác? Tại sao nào? Ví dụ tại sao Dục Hồng ban đầu lại có ảo giác? Tại sao mấy nữ sinh sau này cũng đều có ảo giác? Và tại sao các cuộc tự sát đều xảy ra vào lúc 0h ngày 16 tháng 6 - một thời khắc khá đặc biệt?”
                  “Có thể nói trong suốt quá trình điều tra, đây là chi tiết lý thú nhất, nhưng cũng khiến người ta không sao hiểu nổi. Tôi nghĩ, rất có thể Dục Hồng là bệnh nhân đã trực tiếp nảy ra ảo giác, rồi tác động đến thế hệ tiếp theo sống ở phòng 405. Sao khi Hồng chết, hình ảnh xuất hiện trong ảo giác của cô ấy – ví dụ, ‘ánh trăng’ kêu gọi, cô gái áo trắng và người mặt nát… lại xuất hiện trong ý thức của các nữ sinh tự sát sau này. Nghe thì có vẻ rất hão huyền phải không? Nhưng tôi đã điều tra và thấy rằng, Dục Hồng đã nhiều lần kể với các bạn về ảo giác của mình, cho nên sau liền hai năm xảy ra sự kiện ở phòng 405, ảo giác ấy cứ như có cánh bay đi khắp trường. Rất có thể, các nữ sinh nhảy lầu mấy năm tiếp đó đã bị tác động ám thị của các lời kháo nhau kia, rồi cũng nảy ra ảo giác, và càng muốn chọn cái ngày 16 tháng 6 ấy!
                  Về sau, nhà trường ý thức được rằng đó là một vấn đề nghiêm trọng, nên đã nhiều lần nhắc nhở cấm kể lại câu chuyện ấy, coi đây là một phần của công tác tư tưởng. Điều này đã có tác dụng rõ rệt để ngăn chặn tin đồn nhảm. Cho đến khi hai khoá sinh viên mới các cô vào nhập trường thì tuy còn có người nhắc đến ‘vụ án mưu sát 405’, nhưng nội dung cụ thể thì căn bản đã bị thất truyền rồi.”
                  Sảnh lắc đầu: “Thế thì lại càng kỳ lạ. Nếu những miêu tả về ảo giác đã cơ bản bị thất truyền thì sao nó lại xuất hiện trong những giấc mơ của Diệp Hinh?”
                  Vân Côn nghĩ ngợi, rồi nói: “Tôi chịu không thể giải đáp được điều này, cũng không thể giải thích tại sao lúc đầu ảo giác lại xuất hiện trong đầu Tưởng Dục Hồng. Vì thế lâu nay tôi mới cố tìm nguyên nhân ở trong nhà giải phẫu. Tuy nhiên tôi cũng không cho rằng nếu tiếp tục tìm thì sẽ có kết quả. về tình hình Diệp Hinh thì cô hiểu rõ hơn tôi, ngoài ánh trăng, cô gái áo trắng có khuôn mặt nát ra, cô Hinh còn có nhiều ảo giác khác, ví dụ; về linh hồn người cha, về cậu sinh viên Tạ Tốn…”
                  Sảnh vội ngắt lời: “hình như cha của Hinh có đến thăm bạn ấy thật. Đến vào chiều hôm trước ngày Hinh nhận được tin dữ, bác ấy còn để lại cho Hinh chiếc áo jắckét làm kỷ niệm. Lúc về phòng ký túc xá, em đã nhìn thấy chiếc áo đó.”
                  Vân Côn ngạc nhiên bóp trán suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tôi cũng nhớ rằng Hinh có nhắc đến chiếc áo jắckét, nó đã có mặt thì nhất định phải có cách giải thích – ví dụ, vì bác ấy đã biết mình mắc bệnh hiểm nghèo, sợ rằng không còn dịp gặp lại con, nên nhân một lần Hinh sắp lên đường, bác ấy đã nhét chiếc áo đó vào hành lý chăng? Hoặc là, Hinh có linh cảm rằng người cha ngày càng suy nhược, hom hem đã mắc bệnh. Nhìn lại vật cũ nhớ đến người thân, thế là Hinh đã xáo trộn thời gian xuất hiện chiếc jắckét hoà lẫn cùng nỗi nhớ cũng nên?”
                  Sảnh thở dài: “Thầy tuy có hơi lúng túng khó lý giải, nhưng thầy nói cũng hơi có lý. Tuy nhiên vẫn là tương đối xa vời.”
                  Vân Côn nói: ‘’Ca Diệp Dinh khá là đặc biệt. Đúng là cô ấy có những ảo giác kỳ lạ, nhất là ảo giác về cậu Tạ Tốn. Nhưng đồng thời, khi tiếp xúc với Hinh, tôi có thể cảm nhận ra rằng cô ấy có khả năng tư duy phân tích khá cao, rất bình tĩnh, rất biết phân tích chính mình. Điều này rất hiếm thấy trong các ca bệnh nhân tâm thần phân liệt. Sư phụ Từ Hải Đình cũng đồng ý với cảm nhận của tôi. Ngay từ đầu, bác sỹ Đình đã cho rằng Diệp Hinh không giống như các nữ sinh trước kia nằm viện, tuy có mắc chứng ảo giác nhưng không hề ảnh hưởng đến tư duy. “
                  Sảnh chợt nảy ra một ý: “Thầy Chương, thật may mắn được biết thầy giỏi về phương diện bệnh học thần kinh, em muốn xin thầy chỉ bảo cho: đến lúc này, Diệp Hinh hầu như vẫn chưa biết rằng thực sự Tạ tốn không tồn tại trong cuộc sống của mình, bạn ấy chỉ đang giao lưu với một thứ ảo ảnh mà thôi, thậm chí còn đang yêu. Em nên làm gì để cho Hinh hiểu ra điều này đây?”

                  10h ngày 7 tháng 6

                  Gặp Sảnh trong phòng tiếp người nhà bệnh nhânm Hinh tươi cười: “Mình đang lo cho cậu đây này! Sao rồi? Thầy Côn đã làm trò ma quỷ gì vậy?”
                  Sảnh thuật lại mọi sự việc đêm qua, khi kể đến chuyện toàn thân Sảnh “bọc da”, người đầm đìa mồ hôi, đã biến thành “con ma đầu tiên” bị “máy bắt ma” của Vân Côn tóm được, cả hai cùng cười phá lên.
                  “Mấy hôm nay mình cũng đang muốn tìm tung tích của Y Y. Nhưng nếu chỉ dựa vào cái tên cúng cơm Y Y thì nên bắt đầu từ đâu để tìm kiếm? Suy từ ngày tháng viết trong cuốn nhật ký mà cậu đọc được, thì chị ấy và anh chàng họ Tiêu học khoá 1963, mình đã hỏi mẹ mình có biết nữ sinh nào là Y Y học khoá 63 không, mẹ mình cố lục trí nhớ… rồi nói mẹ học khoá 65, tuy cũng có quen khoá 63 nhưng không phải là quen tất cả, và chưa bao giờ nghe nói đến cái tên này. Mình đã cố nài mẹ thăm dò hộ, chẳng rõ bà có cố giúp cho không?
                  Hinh nghĩ ngợi rồi nói: “Cậu cũng có thể hỏi thăm cái tên “máy kéo’, hình như ông ta rất nổi tiếng.”
                  “Được, mình sẽ thử xem sao.” Sảnh vơ như hỏi bâng quơ: “Đã nói đến nổi tiếng.. thì Tạ Tốn hôm nay có vào đây không?”
                  “đã vào hai lần rồi. Anh ấy vừa ra về thì cậu đến!” Ánh mắt Hinh rất trìu mến.
                  Sảnh lại thầm thở dài, cô mở ví lấy ra một bức ảnh: “Tớ cho Hinh xem ảnh một anh chàng điển trai. Thử nghĩ xem, cậu có quen người này không?”
                  Hinh nhìn kỹ, thấy trong ảnh là một chàng trai có vẻ bẽn lẽn. Cô lắc đầu: “Tớ cũng hơi ngờ ngợ, có lẽ đã nhìn thấy ở trường. Nhưng chắc chắn là không quen. Mà sao cơ? Là chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng của cậu à?”
                  Tuy đã lường trước, nhưng Sảnh vẫn thấy lòng bỗng nặng trĩu. Cô lại giở ra một bức ảnh chụp hai nam giới, đứng bên trái là người vữa nãy, đứng bên phải là một anh chàng cao lớn, lông mày ngang, mắt sáng, “rất phong độ”.
                  Hinh nhìn anh chàng đứng bên phải, cô định trêu rằng ‘thì ra đây mới là chàng hoàng tử của cậu’ nhưng cô ngẩng đầu nhìn thấy Sảnh vốn hay chớt nhả nhưng lúc này vẻ mặt lại nặng chình chịch, Hinh lại cúi xuống nhìn kỹ hai người trong ảnh, cô bỗng mơ hồ cảm thấy một điều gì đó không hay…
                  ‘Mình không quen hai người này… nhưng không hiểu tại sao, mình thấy hình như đã từng quen họ.”
                  Sảnh cúi đầu, thầm nhẩm lại một lượt những câu đã chuẩn bị sẵn, nhưng khi mở miệng thì cô lại nói hơi chệch đi: “Hinh ạ, mình… không biết nói sao đây, mình nói ra, mong cậu đừng trách mình, vì mình không thể không nói.”
                  Sảnh chỉ vào anh chàng trông hơi bẽn lẽn đứng bên trái rồi nói: “Anh ta tên là Tạ Tốn.”
                  Rồi lại chỉ vào anh chàng khôi ngô đứng bên phải: “Anh này là Lệ Chí Dương.”
                  Hinh run run, ngạc nhiên nhìn Sảnh, cô lại cúi xuống xem bức ảnh, rồi im lặng rất lâu. Trong lúc đó, Sảnh thấy như mình đã biến thành Hinh, cô đang giẫy giụa trong nỗi giằng xé của Hinh, Sảnh rớt nước mắt.
                  Nhưng Hinh thì lại bình tĩnh một cách kỳ lạ, cô không khóc, cũng không lớn tiếng căn vặn. Cô dùng đầu ngón tay trỏ khoanh các vòng tròn xung quanh khuôn mặt hai chàng trai. Sảnh hiểu rằng bộ não thông minh của Hinh đang chịu đựng những tác động mạnh, đang vận động rất nhanh, muốn gạt bỏ màn sương mù đang mỗi lúc một dày đặc hơn.
                  Đúng như Sảnh đã lường trước, ý định khóc lóc và lớn tiếng căn vặn đã tan đi như cơn phong ba đã lướt qua nhanh, hoặc là nói chúng chưa kéo đến – vì Hinh kinh hoàng đến cực độ, nhưng lại bình tĩnh trở lại ngay. Những câu hỏi đang quay cuồng trong óc cô.
                  Tại sao mình lại bị đưa vào bệnh viện tâm thần? Có phải bác sỹ Đằng Lương Tuấn vì là người đứng ngoài sẽ quan sát rõ hơn, đã chẩn đoán chính xác cho mình?
                  Tại sao Sảnh vừa mới đứng ra điều tra đã có được kết quả đáng sợ này? Sảnh có hiểu rằng nó có sức huỷ diệt mạnh đến thế nào không?
                  Tại sao phải tin Sảnh? Đây có phải là một phần của một âm mưu nhất quyết kết luận mình mắc bệnh tâm thần, buộc phải điều trị cho đến khi mình chỉ là các xác không hồn?
                  Hinh lập tức phủ nhận khả năng này, không chỉ vì Hinh dường như có niềm tin vô bờ bến đối với Sảnh mà chủ yếu là vì, các loại tin đồn nhảm nhí thường là tự biến mất, sẽ trở thành những điều nhảm nhí tồi tệ nhất trong lịch sử. Nhưng nếu điều Sảnh vừa nói là đúng, thì chẳng phải là mình đã trực tiếp đón nhận điều nhảm nhí lớn nhất này hay sao?
                  Nếu đón nhận nó, thì chẳng phải là mình đã rơi vào địa ngục đau khổ hay sao? Mình vốn nghĩ tình yêu đẹp như hoa đang nở rộ trong những ngày đầy gian khó của tuổi trẻ, rốt cuộc lại nhận ra rằng nó chỉ là bông hoa giấy! Không chịu nổi gió mưa đã đành, mà nó sẽ héo khô nhạt phai ngay cả dưới ánh nắng mặt trời.
                  Nhưng, trong trái tim Hinh, tình yêu này đã ở bên cô suốt quãng thời gian gian khó này, cô sẽ mãi mãi không bao giờ quên.
                  Phải chăng chính vì cảm giác này mà mình phải vĩnh viễn sống trong ảo ảnh về một thiên đường tuyệt mỹ được xây dựng trong trái tim mình.
                  Hinh không sao hiểu nổi nữa. Đã không biết bao nhiêu lần, hễ băn khoăn suy nghĩ thì Hinh lại thấy đầu nhức như búa bổ. Lần này cũng vậy.
                  Nước mắt rơi, rơi lã chã, rớt xuống bức ảnh. Hinh bỗng nắm lấy tay Sảnh nghẹn ngào nói: “Sảnh ơi, mình không biết.. mình thật sự không hiểu.. cậu hãy giúp mình…”
                  Chưa bao giờ thấy Hinh bất lực như lúc này, ốảnh đau xót tuôn trào nước mắt, nhưng cô lập tức lắc đầu, hình như lắc đầu có thể xua đi được nỗi bi thương. Thế rồi ôSảnh kể cho Hinh nghe phát hiện của mình mấy hôm trước về Tạ Tốn và cuộc trò chuyện với anh trưởng ban văn nghệ. Cuối cùng Sảnh nói: “Mình biết những điều này thực khó chấp nhận, có chấp nhận hay không – là ở cậu. Cậu có thể cố nhớ lại tất cả xem sao, ví dụ, anh ta vào thăm cậu nhiều lần như thế, có mua cho cậu một thứ quà gì không?”
                  Hinh ngẩn người, nhưng chẳng cần tốn mấy công sức để nói rằng Tạ tốn chưa bao giờ tặng mình một thứ gì. Thoong thường, điều này không thể gọi là yêu đương gì cả, chẳng qua vì Hinh cho rằng Tốn là một anh chàng bỗ bã và rất tự nhiên, không “vật chất hoá” tình yêu, trái lại, còn thể hiện rằng “không phàm tục” nữa. Nhưng hôm nay Sảnh đã thức tỉnh cô, thì hình như tất cả đều là rất hợp lý.
                  Nhưng Hinh lại chán ghét cái thứ hợp lý này.
                  Điều này có nghĩa là Hinh phải bắt đầu cưỡng lại nếp sống và tình yêu của mình, đặc biệt là trong những ngày gió mưa chao đảo này, Hinh thà rằng quay trở lại với cõi hư ảo còn hơn.
                  “Mình còn có cuốn băng ghi âm cuộc thi hát hồi nọ, nếu cậu có thể chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, thì mình sẽ mở để cậu nghe.”
                  Hinh lắc đầu: ‘Mình tin ở Sảnh. Chuyện này để sau hãy hay, chờ mình tĩnh tâm trở lại đã. Nhưng cậu hãy nói đi, mình nên tiếp nhận cái hiện thực này như thế nào, hãy nói xem có phải mình đã mắc bệnh tâm thần phân liệt thật không?”
                  Sảnh hơi sững người, nghĩ bụng: Hinh có thể hỏi câu này, thì đâu phải là tâm thần phân liệt gì nhỉ?
                  ‘Mình thật sự không biết… không hiểu về bệnh học thần kinh. Có lẽ, có ảo giác chưa hẳn đã gọi là tâm thần phân liệt! Mình cho rằng cậu công nhận rằng đã có ảo giác và không đắm chìm trong đó nữa, thì tức là vẫn khoẻ mạnh.”
                  “Hiện nay mình rất sợ: không chỉ vì những ngày qua mình có thể còn có những ảo giác khác, mình không thể phân biệt được thật giả ra sao. Điều đáng kể hơn là mình cảm thất bất lực, khó thoát ra khỏi các ảo giác.”
                  Sảnh lại có cảm giác rằng Hinh vẫn cần được như Sảnh - phải ra ngoài cái bệnh viện này để sống vui tươi. “Vậy là cậu đã ý thức được rằng đúng là mình có ảo giác?”
                  “Mình cần có thời gian để suy ngẫm lại về cuộc sống trong mấy tháng qua, rồi mình sẽ dứt ra được hay sẽ càng chìm đắm sâu hơn, mình cũng không biết nữa.” Tuy đang nhức đầu dữ dội, song Hinh vẫn cố gắng hồi tưởng lại những sự việc khó hiểu mà gần đây cô đã trải qua.
                  “Mình nhất định sẽ giúp cậu.” Nhìn vẻ mặt đau khổ của Hinh, Sảnh tự nhận thấy câu nói này thật là yếu ớt.

                  Nên bắt đầu từ đâu đây?
                  Hinh biết mình tuy tin ở Sảnh nhưng cô vẫn từ chối những sự thật mà mình đã nói ra. Tạ Tốn đâu rồi? Anh hãy đến đây nói cho rõ xem?
                  Hinh biết, vẫn là ở mình mà thôi: hãy tháo gỡ cái mớ bòng bong kia, dù kết quả sẽ là khổ đau, sẽ là vỡ tan giấc mơ đẹp.
                  Nhưng giấc mơ dù đẹp đến mấy, cũng vẫn chỉ là giấc mơ. Hinh ngồi lặng trên giường hồi tưởng lại từng sự việc ngày trước đã làm rối loan cuộc sống của mình. Nhưng nên bắt đầu xem xét từ đâu? Không còn lựa chọn nào khác, đành bắt đầu từ Tạ Tốn vậy.
                  Bắt đầu từ sau lúc giữa trưa của ngày xuân ấy, anh lặng lẽ xuất hiện ở phòng làm việc của hội sinh viên, ghi tên dự thi bài hát tự biên tự diễn. Lúc đó trong phòng chỉ có một mình mình thiu thiu ngủ… Hình như anh không hề biết cái biệt hiệu “Kim mao Sư Vương” là từ truyện “Ỷ thiên đồ long ký” của Kim Dung mà ra, anh còn nói là cần cây đàn piano.
                  Ở cuộc thi hát, anh đã đến muộn, sắp bị loại không được dự thi nữa. Nhưng rồi anh lại vẫn đến và hát hai bài hát “Tuyệt tình cốc” và “Chờ đợi, đợi chờ”. Lúc đó anh lại như rất quen thuộc với Kim Dung – “Tuyêtị tình cốc” là từ “Thần điêu hiệp lữ” của Kim dung mà ra. Anh đã tham gia ếây hôm tập huấn về Kim Dung thì phải? Nhưng lạ thay, mình nghe các bạn nữ lớp C nói là Tốn đã sớm có biệt hiệu “Kim Mao Sư Vương”, nhưng lần đầu gặp, thì Tốn hình như chưa từng nghe nói đến cái tên này. Tại sao lại thế?
                  Vẫn trong cuộc thi đó, rõ ràng là Tốn không đến, danh sách kết quả thi không hề có tên anh, thì tại sao mình vẫn kêu oan hộ cho? Lúc đó ánh mắt anh trưởng ban cũng rất ngạc nhiên không sao hiểu nổi. Bây giờ mình mới biết rằng ngoài mình ra, chẳng có ai khác nhìn thấy Tốn!
                  Sau đó, anh xuất hiện trên tàu hoả xuôi về miền nam, khi xuống tàu anh lại khăng khăng không đi cùng về nhà mình. Nhưng trên chuyến tàu trở về, thì mình lại gặp Tạ Tốn. Hai hôm sau, Tốn lại đi với mình đến Nghi Hưng tìm Thẩm Vệ Thanh, cả hai cùng chứng kiến thảm kịch Thẩm Vệ Thanh nhảy lầu nhưng chỉ riêng mình bị công an gọi đến xét hỏi, và không thấy anh ta đâu. Khi mình ra khỏi cơ quan công an thì Tốn lại xuất hiện và cùng mình trở về trường. Tốn còn nói “vớ vẩn” khiến mình tức giận. Và trong hai chuyến đi ấy chỉ có mình mình trông thấy anh ta.
                  Khi gặp lại Tốn, thì mình đã vào nằm viện tâm thần. Đúng vào những ngày tâm trạng mình u ám nhất, Tốn đã vào thăm, đã lau nước mắt cho mình. Nếu không có anh thì chẳng rõ mình có vượt qua được những ngày gian khó ấy không.
                  Lần nào anh cũng mặc chiếc áo blu trắng để “trà trộn” vào đây, chứ không đến chính thức đến phòng dành cho bệnh nhân tiếp người nhà, càng chứng minh rằng chỉ có mình chứ không có người thứ hai nhìn thấy Tốn.
                  Không kể bà Uông Lan San.
                  Chính bà San đã nhận ra anh ở trong trái tim mình, có điều bà ta cứ chần chừ không chịu nói rõ tên ‘Tạ Tốn’, khi bị mình ép mãi, bà San mới nói: “Giả sử tôi nói tên là ‘Tạ Tốn’ thì có thể nói lên điều gì? Cũng chỉ là một cái tên gọi mà thôi!”
                  Hay là bà ấy đã nhìn ra anh nhưng không muốn gọi anh là ‘Tạ Tốn’? Thực ra anh là ai?
                  Diệp Hinh không sao hiểu nổi, và lại thoang thoảng nhức đầu. Hinh ngẫm nghĩ một lát và dần cảm thấy rằng Tạ Tốn chỉ là một con sóng lớn trong chuỗi thăng trầm của mình suốt nửa năm qua, nếu muốn hiểu cho rõ thì vẫn cứ phải lần giở lại từ đầu.
                  Tại sao vừa mới nhập học ít lâu mình đã hay ngủ mê thấy cô gái áo trắng, tiếng âm nhạc kỳ diệu và khuôn mặt nát bươm? Hình như Tưởng Dục Hồng, Thẩm Vệ Thanh cũng từng ngủ mê thấy cảnh này và kết cục của họ là cái chết. Nó dự báo mình sẽ có số phận tương tự. Những người như Dục Hồng, Vệ Thanh.. hình như cũng nghe nói về ‘ánh trăng’ – riêng Vệ Thanh còn biết được nguồn gốc của ‘ánh trăng’ – nhưng rốt cuộc họ đều phải chết, và mình lại được dự báp sẽ có số phận tương tự.
                  Về sau, mình nhìn thấy một tiêu bản rất hoàn hảo ở phòng thực nghiệm giải phẫu, nhưng ngoài mình ra thì không có ai nhìn thấy nó. Nó lại là một ví dụ chứng tỏ có ‘áo giác’, nhưng cuốn nhật ký của anh chàng họ Tiêu cũng đã xác nhận cái tiêu bản này là có thật. Tại sao lại chỉ riêng mình có thể nhìn thấy?
                  Việc mình nhìn thấy cha, cũng là chuyện không ai có thể tin. Sau bảy ngày bị liệt não, sao cha có thể đi từ nơi xa xôi đến tận đại học y Giang Kinh? Đó là ảo giác. Sau đó, tại nhà xác, thi thể của cha lại biết nói, đương nhiên cũng là ảo giác. Nhưng phải giải thích thế nào về chiếc áo jắckét của cha?
                  Mình rất mong cảnh Thẩm Vệ Thanh nhảy lầu cũng là ảo giác. Tiếc thay đó lại là sự thật! Có phải là tự sát không? Nếu đúng thế, thì phải chăng là số trời đã sắp đặt? Nếu không phải thế, thì ai đã giết Vệ Thanh? Là người, hay không phải là người?
                  Theo gợi ý của Vệ Thanh, mình đã tìm đến phòng hồ sơ của trường. Nhưng ai đã lôi kẹp hồ sơ năm cuối cùng của ‘Nguyệt Quang xã’ đặt lên bàn, và cả mấu giấy ghi số điện thoại kia nữa?
                  Khi biết tin nhà trường định đưa mình đi viện tâm thần, mình đã cố sống cố chết bỏ trốn, khi chạy ra khỏi cổng vường ươm cây, thì gần như bế tắc, nhưng một chiếc tắc xi như được ma xui quỷ khiến đã đến đỗ ngay bên cạnh. Ai đã gọi chiếc xe đó? Một phụ nữ đã gọi điện. Lẽ nào trên đời này có chuyện ‘ma dẫn lối quỷ đưa đường’ thật hay sao?
                  Sau đó lại là một đêm kinh khủng ở trạm phát thanh. Âm thanh quái dị ấy ở đâu ra? Ảo giác về báp Phùng bị xé thây cũng từ đâu đến? Tại sao lại là bác Phùng?
                  Sau khi vào nằm viện tâm thần, các sự việc không sao hiểu nổi đã xảy ra đều xoay quanh bà Uông Lan San. Bà ta biết được những gì liên quan đến ‘vụ án mưu sát 405’? Bà ta thực chất là người như thế nào? Một bệnh nhân tâm thần? một diễn viên nghiệp dư siêu hạng? Một bậc thầy về khoa phân tích thần kinh? Hay là một sát thủ?
                  Tại sao bà San lại giết bác sỹ Đằng Lương Tuấn?
                  Ngần này điều nghi hoặc, nếu tiếp tục nghĩ ngợi thì chỉ có thể là càng thêm nhức dầu dữ dội. Hinh đang muốn gạt bỏ chúng, cô đưa mắt nhìn một bệnh nhân đang nằm ở giường gần cô, không hiểu tại sao, người ấy lại khiến Hinh liên tưởng đến cái tiêu bản cơ thể bí hiểm ở khu nhà giải phẫu.
                  Nếu cuốn nhật ký kia không phải là ảo giác, nếu cái tiêu bản kia có thật, thì chứng tỏ mình đã nhìn thấy những thứ mà ngươi khác không nhìn thấy. Từ đó suy ra rằng, liệu có phải ảo giác đều là những thứ mà chỉ mình nhìn thấy, người khác không nhìn thấy không? Cũng như Uông Lan San, bà ta có thể biết được tâm lý người ta, nhưng người khác thì lại cho rằng đó cũng chỉ là ảo giác?
                  Diệp Hinh đứng dậy nhìn quanh bốn phía. Đã đến giờ hoạt động tự do rồi thì phải? Hinh sốt ruột muốn gặp bà San, biết đâu bà ta có thể giúp mình thoát ra khỏi những cảnh sa lầy không sao hiểu nổi này?



                  #24
                    PhongAnh 02.11.2006 11:15:17 (permalink)
                    Chương 22

                    Âm thanh kỳ lạ



                    15h ngày 7 tháng 6
                    Kể từ khi bà San bị chuyển sang khu bệnh nhân nặng , Hinh chỉ có thể thấy bà ta ở vườn hoa mà thôi. Những lúc đó lại thường có Tạ Tốn ngồi bên Hinh, con tim và ánh mắt cô đều dành cho Tốn, nên chẳng nói gì nhiều với bà San. Nhưng vẫn còn nhớ mọi lần ấy Hinh đều nhận ra ánh mắt của bà San nhìn sang cô đầy vẻ ái ngại bất lực và buồn bã. Lúc này nhớ lại, mặc dù đang ngồi dưới ánh mặt trời, Hinh vẫn thấy nổi da gà. Vì ánh mắt ấy ứng với một câu nói của bà ta “ Thứ đang xâm chiếm lòng cô, không phải là một cái tên, mà là một bi kịch”.
                    Thực là xác đáng, cái gọi là tình yêu của mình chỉ là một ảo giác thứ thiệt, mà mình thì đã sa lầy quá sâu, đã “cố đấm ăn xôi”, kiếm cớ để không rũ bỏ cái đẹp hư ảo ấy.
                    Đây không phải là sự lựa chọn đúng đắn của Diệp Hinh này.
                    Quả nhiên Hinh nhìn thấy bà San ở trong vườn hoa. Vẫn như mọi ngày, bà ta đang ngồi trên chiếc ghế mây, tay cầm tấm bìa kẻ giấy và bút vẽ, nhưng có lẽ ánh nắng ấm dễ đưa người ta vào giấc ngủ, bà San đang ngả đầu hình như đã ngủ.
                    Hinh đi đến nơi, ngồi xổm xuống bên cạnh ngẩng đầu nhìn bà San, rồi nghẹn ngào nói: “Bà hãy giúp cháu với”.
                    Bà San mở mắt ra, ánh mắt lộ vẻ xót thương, nhưng giọng nói thì lại lạnh lùng: “Cô thì không muốn tin, tôi cũng chẳng có tài thuyết phục, làm nhiều những việc vô ích, chỉ tổ giảm thọ thôi.”
                    “Bà nói là nhìn thấy “anh ta” trong trái tim cháu, tại sao khi cháu hỏi các cô y tá và các bệnh nhân thì họ đều không nhìn thấy anh ấy? Bà nói đi, anh ấy là người như thế nào ? Anh ấy là ai?”
                    “Cô gọi anh ta là Tạ Tốn”
                    “Nhưng nay cháu đã biết: có lẽ không phải anh ta.Bà hãy cho cháu bíêt thực ra anh ấy là ai? Trong chuyện này, chỉ mới có thể giúp được cháu”
                    Bà San cúi thấp người, nhìn Hinh. Thấy khuôn mặt cô đẫm lệ, đôi mắt già nua của bà cũng nhòa đi. Bà San bỗng nâng bức vẽ, nhanh tay vẽ luôn.
                    Chẳng rõ thời gian trôi đi bao lâu, chỉ thấy bàn tay đang vững vàng cầm bút của bà bỗng run run, Hinh lo lắng hỏi : “ Bà có sao không?”
                    Bà San có vẻ như thở rất khó khăn: “Sắp xong rồi”
                    Hinh không nén được, quay người sang nhìn bức vẽ, thấy một chàng trai đang tươi cười, mặc áo choàng trắng – chính là “Tạ Tốn” mà cô vẫn ngày đêm khắc khoải nhớ nhung. Tay bà San trở nên linh họat, chỉnh sửa những nét cuối cùng, rồi đưa bút sang phía tay trái của chàng trai – bà tỉa nét bút rất tỉ mỉ.
                    Có thể nhìn rõ trên mu bàn tay ấy có hai hàng vết răng mờ mờ!
                    Khi “Tạ Tốn” xuất hiện lần đầu trong vườn hoa, Hinh đã dồn nỗi nhớ da diết và niềm mui mãnh liệt để cắn nhẹ vào tay anh, nhưng hoàn toàn không đứt da. Nếu ở trên tay người bình thường thì chỉ sau vài giây vết đó sẽ hết dấu vết ngay, nhưng tại sao trên tay “Tạ Tốn” thì lại hằn mãi nhưng thế và tại sao bà San nhận ra rõ nét?
                    Hinh vốn nghĩ sự xuất hiện của Tạ Tốn sẽ khiến cô thoả nỗi nhớ mong và được hạnh phúc, nào ngờ đó chỉ nhưng hoa đẹp trong gương, bóng trăng đáy nước!
                    Tại sao tay bà San run run nhưng vẫn tiếp tục vẽ?
                    Không phải bà tiếp tục vẽ “Tạ Tốn”, mà đang vẽ ở một góc khác của bức họa - vẽ một khuôn mặt khác. Hinh kinh ngạc nhìn… rồi dần dần nhìn rõ, một khuôn mặt khôi ngô, cặp lông mày rậm, đôi mắt to sắc sảo, có điều dưới nó là một quầng mắt khá lớn – chính là anh sinh viên có vẻ mặt lạnh lùng.
                    Chẳng lẽ trong trái tim mình cũng có anh ta?
                    Bà San bỗng “ôi” một tiếng, bức vẽ và bút chì rơi ngay xuống đất. Toàn thân bà bất động trên chiếc ghế mây, đôi tay bất lực buông thõng, mái tóc hoa râm tơi tả, đầu ngửa ra phía sau, sùi bọt mép.
                    Trở về buồng bệnh nhân, Hinh vẫn chưa hoàn hồn sau biến cố vừa xảy ra đối với bà San. Bà ta làm sao vậy? Sau khi mình kêu cứu, các bác sĩ y tá đã chạy đến, đều nói đó là đột ngột trúng phong, hiện tượng không hiến gặp ở người cao tuổi như bà San. Nhưng dù đúng là trúng phong, thì vẫn là xảy ra vào lúc rất đáng ngờ.
                    Bà San đã chứng minh sự tồn tại của “Tạ Tốn” trong Hinh, nhưng dáng vẻ “anh ta” lại khác hẳn Tạ Tốn trong thực tế. Mình và bà San đều nhìn thấy “anh ta” - kể cả anh chàng lạnh lùng kia nữa – thì chứng tỏ rằng cái gọi là “ảo giác” thực chất không tồn tại. Có lẽ chỉ những “bệnh nhân” như mình và bà San thì mới nhìn thấy.
                    Giải thích kiểu này cho dù có ly kỳ đến mấy thì cũng đã thể hiện rằng đầu óc mình rất tỉnh táo, điều cần thiết bây giờ là phải có người tin mình.
                    Nếu ngay Sảnh cũng không tin mình thì e trên đời này không còn ai có thể tin mình được nữa.


                    9h ngày 8 tháng 6
                    “Sảnh ạ, tớ đã nghĩ rất kỹ rồi, cậu nói không sai tý nào”
                    Hinh bình tĩnh nói với Sảnh khi Sảnh vào thăm cô.
                    “Cậu nghĩ thế thật à? Tớ vẫn chưa hoàn toàn công nhận thế đâu”
                    Hinh khẽ thở dài, biết rằng Sảnh đã nhiều lần suy nghĩ từ góc độ của mình nên cho đến giờ vẫn chưa thể hoàn toàn công nhận. Hinh dịu dàng nói :”Sảnh ạ, cậu đừng buồn thay cho tớ nữa, mà cậu có thể làm giúp tớ vài việc để chứng minh cho quan điểm của tớ.”
                    Sảnh rất lo Hinh vẫn tiếp tục sa lầy trong đó, vội hỏi ngay “Cậu có quan điểm gì?”
                    “Tớ thấy mọi người đều không sai, cậu nói với tớ câu nào cũng đúng. Và những chuyện tớ đã tiếp xúc – dù kỳ dị đến mấy – cũng không hoàn toàn là ảo giác.”
                    “Tớ nghe không hiểu mấy”
                    “Cũng tức là, những thứ mà tớ đã nhìn thấy nghe thấy cảm nhận được, thì những người khác đều không nghe thấy không nhìn thấy và không cảm nhận được.”
                    “Như thế chẳng phải ảo giác là gì?”
                    “Cậu còn nhớ cái lần tớ nhìn thấy tiêu bản cơ thể đỉnh cao tuyệt vời không? Đó không hẳn là ảo giác. Về sau, ở cuốn nhật ký trong “Hồ sơ Nguyệt Quang xã” tớ đã đọc thấy ghi chép về sự tồn tại của nó. Nếu cậu có thể tìm cách mà đọc được cuốn nhật ký ấy, sẽ biết rằng tớ không nói vu vơ. Cậu lại nhìn cái này nữa.” Hinh đưa ra một bức vẽ ký họa. “Hãy nhìn anh sinh viên này, anh ta chính là “Tạ Tốn” trong “ảo giác” của tớ - do bà San vẽ. Bà Uông Lan San là người mà tớ từng kể với cậu, bà ấy có thể nhìn thấy “anh ta” thậm chí cả anh bạn lạnh lùng kia nữa. Cậu nói xem, đây là ngẫu nhiên hay sao?”
                    “Thực thất bà Uông Lan San này là người như thế nào?”
                    “Cho đến nay tớ vẫn không hiểu rõ lắm, nhưng có cảm nhận rằng bà ấy biết rất nhiều chuyện, có lẽ bà ấy có liên quan trực tiếp đến “vụ mưu sát 405”.”
                    “Vậy thì, cậu cũng như bà ta, đều có thể “gặp ma” à?”
                    Sảnh thoáng cảm nhận rằng mọi điều Hinh nói không phải là không có lý.
                    “Chưa đến nỗi là “gặp ma”, nhưng có lẽ đều là quá nhạy cảm chăng? Này, cậu có thể đến trạm phát thanh lấy hộ tớ cuốn băng ghi âm không? Tớ đã ghi sau trận kinh hãi trong trạm phát thanh tối hôm đó, cậu nghe xem có thấy những âm thanh quái dị như bắt hồn đòi mạng người ta không?”
                    “Diệp Hinh phải nằm viện, thế là mình tạm thời không sao chọn nổi ai sẽ là người kế tục mình khó có thể yên tâm mà tốt nghiệp được!” Chị trưởng trạm phát thanh đưa cho Sảnh cuốn băng cát-sét có giọng Diệp Hinh. Chị có vẻ lo lâu. “Mình đã nghe rồi, chỉ có mình Hinh độc thoại, nhưng không hề có âm thanh quái dị nào như cô ấy bảo. Đủ thấy lúc đó Hinh rất cần được giúp đỡ. Mình rất áy náy, vì mọi ngày thường rất vui vẻ với nhau trong căn phòng, ấy thế mà mình chẳng quan tâm gì đén sức khoẻ của Hinh…”
                    Sảnh cám ơn chị trưởng trạm phát thanh, rồi vội đặt ngay cuộn băng vào chiếc máy mini mang theo, tai nghe truyền rõ giọng nói nhỏ nhẹ của Hinh: “Có một nữ sinh tên là Diệp Hinh đã mất tích…” sau đó là tiếng băng trắng chạy trơn, không nghe thấy gì khác. Chừng một phút sau, thấp thoáng nghe thấy tiếng đóng cửa và tiếng bước chân. Gần như hầu hết chỉ là im lặng. Về sau thấy ghi tiếng hít thở nặng nề, rõ ràng là Hinh đã sợ hãi đến cùng cực.
                    Một tiếng “uỳnh” vang lên, hình như có vật gì rơi xuống sàn nhà, liệu có phải là Hinh Không? Hinh đã kể là Hinh có bị choáng một lát.
                    Sau đó lại thấy tiếng Hinh run run: “Tôi là Diệp Hinh, lúc này khoảng 22 giờ ngày 11 tháng 5. Cách đây ít phút, có những sóng điện kỳ lạ hiện trên màn hình máy ê-qua-li-dơ, và các âm thanh phát ra loa, thoạt đầu có quy luật và mỗi lúc một vang hơn. Sau đó đèn ở trạm phát thanh bị tắt thì sóng điện trở nên không có quy luật gì nữa và rất chói tai. Tôi rất nhức óc, rồi mê man khoảng vài giây. Bây giờ đã rất yên tĩnh nhưng tôi… tôi rất sợ, thật sự rất sợ hãi.”
                    Nghĩ đến cảnh một mình Hinh phải khiếp hãi như thế, Sảnh lại rất buồn.
                    Tiếp đó là Hinh gọi điện cho Vân Côn, rồi Vân Côn đến.
                    Hinh ghi lại đoạn lời nói, nhằm để lại một thông báo, nói lên rằng đêm đó cô đã phải vật vã ra sao, có căn cứ để điều tra. Đó là sự nguy hiểm thật sự chứ không phải là ảo giác.
                    Rõ ràng là Hinh tuy bị hành hạ dữ dội nhưng vẫn biết giải quyết mọi việc một cách bình tĩnh.
                    Nhưng trong này hoàn toàn không có những âm thanh quái dị kia, thì càng chứng tỏ đầu óc Hinh đã có ảo giác.
                    Hinh thật là đáng thương.
                    Sảnh ngẫm nghĩ lại câu nói của Hinh ở trong bệnh viện. “Tớ thấy mọi người chúng ta đều không sai, có điều, những thứ mà tớ nhìn thấy nghe thấy cảm nhận được thì những người khác đều không nghe thấy nhìn thấy và không cảm nhận được.”
                    Lúc nói mấy câu này, Hinh rất thật, ánh măt càng hiện rõ rằng Hinh rất tin mình.
                    Vì Hinh hiểu rằng chỉ có mình mới tin ở Hinh.
                    Sảnh tua cuốn băng quay lại từ đầu, nghe lại lần nữa. Nhưng càng nghe cô càn thất vọng: Hinh ơi, đừng trách mình không tin cậu, rõ ràng là mình không nghe thấy gì trong các đoạn băng im lặng này, kể cả đã vặn hết cỡ volum của máy thì mình vẫn không hề thấy thứ âm thanh quái dị như cậu kể lại.
                    Đúng trong lúc Sảnh mở to hết cỡ để nghe, thì một thứ tạp âm rất yếu vọng đến tai cô.
                    Nhưng rất có thể đây là tiếng chạy của máy hoặc tiếng rít của chính băng từ.
                    Sảnh nhớ là Hinh đã kể rằng, âm thanh lạ lùng ấy thoạt tiên có nhịp điệu - chậm hơn nhịp tim, nhanh hơn nhịp thở, rất giống tiếng nhịp bước chân. Nhưng sau đó lại như “người say” bước đi lúc mạnh lúc nhẹ, rối loạn lung tung, đôi lúc lại như là có nhịp điệu như tiếng bước chân. Nếu những tạp âm này có những đặc điểm như Hinh đã kể, thì chứng tỏ thứ âm thanh quái dị kia là có thật hay sao?
                    Lại tua về, rồi vặn hết cỡ volum, Sảnh chăm chú lắng nghe. Đúng thế: thứ tạp âm này lúc đầu nhịp nhàng, sau đó thì có phần rối loạn bất thường.
                    Nhưng tạp âm này lại quá yếu, Sảnh không dám tin chắc nó là thứ âm thanh quái dị mà Hinh đã nghe thấy. Tại sao nó không mạnh chói tai như Hinh đã kể? Hay là, vì Hinh hết sức thính tai, tựa như một cái máy khuyếch đại âm thanh, những âm thanh quá yếu không ai nghe thấy, thì Hinh lại cảm thấy rất vang? Nếu thế thì hàng ngày nghe mọi người nói, Hinh sẽ điếc tai hay sao? Và nếu vẫn suy luận kiểu này thì trong cuộc thi hát hôm nọ, cũng tương tự - Hinh đã nghe thấy “Tạ Tốn” nói chuyện và hát thật hay sao?
                    Sảnh lập tức mở túi lấy ra cuốn băng ghi âm cuộc thi hôm đó, lắp vào máy rồi bật nghe - Những cảnh tượng hôm đó luôn rât ồn ào, dù có lúc lắng xuống thì vẫn có người đang hát, và không hề nghe thấy có gì khác thường.
                    Thầy Vân Côn thì đoán rằng các nữ sinh nhẩy lầu vì đã bị ám thị, có phải tại mình quá muốn tin vào lời của Hinh, cho nên mình mới nghe thấy những tạp âm rất yếu kia?


                    12h ngày 8 tháng 6
                    Chương Vân Côn nghe cuốn băng ghi âm Diệp Hinh ở trạm phát thanh đến hơn chục lần, rốt cuộc anh gỡ tai nghe xuống, xua tay nói: “Lý luận của tôi vẫn đúng, chính xác là bạn đã bị ám thị bởi niềm tin mãnh liệt của Diệp Hinh. Chứ tôi thì không nghe thấy gì hết, chứ đừng nói chi đến nhịp bước chân hoặc là sự thay đổi lúc chậm lúc nhanh!”
                    Sảnh thấy thầy Côn nói thẳng băng, cô hứ một tiếng rồi ngắt lời: “Liệu có phải thầy rất cố chấp không muốn tin Hinh, và cũng bị ám thị bởi quan niệm ngoan cố của mình nên mới không nghe thấy gì khác không?”
                    Vân Côn ngớ ra, anh sờ lên mái tóc đen nhánh phẳng phiu, không biết đối đáp ra sao. Nghĩ ngợi một lúc, anh gật đầu “Lời bạn nói không phải là không có lý. Thế này vậy: có hay không có âm thanh lạ, chúng ta đi nhờ chuyên gia thực thụ giám định xem sao?”
                    Vân Côn dẫn Sảnh đến phòng nghiên cứu vật lý của đại hoc kỹ thuật Giang Kinh đóng gần trường y. Hồi làm nghiên cứu sinh bệnh học thần kinh, anh đã chọn học môn tâm lý học thực nghiệm, nhiều thí nghiệm của chương trình – trong đó có thí nghiệm về thính giác - đều được hoàn tất ở bên này. Trong thời kỳ học nghiên cứu sinh, Vân Côn đã thoải mái bộc lộ mọi hứng thú của anh. Anh đã từng thiết kế một đề tài ghi lại các đọan lời nói của các bệnh nhân tâm thần, hy vọng sẽ tìm ra những điểm chung về mặt ngữ âm của các nhóm bệnh nhân, cùng loại hình, tìm tòi tiềm năng của ngữ âm học để trợ giúp cho công tác chẩn đoán. Một vị nghiên cứu sinh của đại học kỹ thuật Giang Kinh tên là Nghiêm Viêm đã giúp Vân Côn tiến hành phân tích âm học, và hai người đã trở thành đôi bạn thân. Chính Nghiêm Viên đã cho Vân Côn biết thông tin về chiếc “máy bắt ma”- vốn chỉ là để đùa cho vui, nào ngờ Vân Côn lại “rất nghiêm chỉnh” bỏ món tiền lớn ra đặt mua nó về. Việc này đã khiến Nghiêm Viêm cứ cười anh mãi.
                    Nghiêm Viêm mới ngoài ba mươi tuổi nhưng tóc đã lưa thưa, đang trở thành hói đầu. Ngồi trong phòng làm việc nghe hai người cứ khăng khăng mỗi người một phách, anh cười: “Thế thì, để tôi cho nghe bằng thiết bị âm học “hàng xịn” xem sao!”
                    Sảnh thúc giục: “Thế thì sang luôn. Phòng thí nghiệm của thầy ở đâu ạ?”
                    “Kìa, tôi nói rồi mà: ta nghe bằng thiết bị âm học loại xịn, chưa vội sang phòng thí nghiệm làm gì.” Thấy Sảnh vẫn cứ ngớ ra, Nghiêm Viêm cười và chỉ tay vào tai mình.
                    Vân Côn và Sảnh cùng bật cười. Nghiêm Viêm bật máy ghi âm mini mà Sảnh mang theo, nghe kỹ vài lần, cuối cùng lắc đầu nói: “Cái máy xịn này của tôi hơi khó vận hành, hình như có nghe thấy văng vẳng tiếng lẹt xẹt gì đó nhưng hoàn toàn không có quy luật, cũng không rõ có phải là tiếng cơ của máy mini này không. Nghe lại thì không thấy gì nữa. Càng nghe lại càng mơ hồ.”
                    “Vậy có phải là chứng tỏ rằng dù có âm thanh, thì cũng ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người?” Vân Côn hỏi.
                    “Vẫn nên để cho máy móc phát biểu ý kiến vậy” Nghiêm Viêm đứng dậy mời hai vị khách sang phòng thí nghiệm. “Đây cũng là dịp để tôi được khoe với các vị một thiết bị đáng để mơ ước. Nó là một máy thuộc loại đẳng cấp cao để đo âm thanh, rất giàu tính năng, có thể đo được tần số, cường độ và âm phổ, khảo sát các âm siêu trầm hoặc siêu âm, có thể đo dải tần và thang cường độ rất rộng, cũng có thể tách các nguồn âm thanh riêng biệt, tất cả đều được vi tính hóa, và in ra ảnh rất nét. Nếu sự việc giống như ta nhận định – âm thanh ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người – thì dùng thiết bị này khác nào dùng dao mổ trâu để giết gà? Đối với nó chỉ là trò trẻ con thôi!”
                    Tiếng của Diệp Hinh trong băng cát-set vang lên, trên màn hình của máy “giấc mơ” hiện ra sóng âm rất nét. Câu nói : “Có một nữ sinh tên là Diệp Hinh đã mất tích” vừa dứt thì trên màn hình chỉ còn dấu chữ thập định vị, chứ không có sóng âm nào khác.
                    Vân Côn thở “phù” một cái, rồi ung dung nói “Thôi nào, bạn Sảnh, nếu bạn còn nhớ lời hứa của mình thì bữa cơm trưa nay tôi khỏi phải nhai băng cát-set! Tuy nhiên, là thầy giáo mà lại để cho học sinh chiêu đãi thì cũng không mấy phải đạo cho lắm!” Trước đó hai thầy trò đã “cá” điều này.
                    Sảnh thì đang buồn bã, Nghiêm Viêm chỉ tay lên góc màn hình có dòng chữ tiếng Anh nhắc nhở, anh nói hạ giọng: “Chớ vội sớm kết luận, vấn đề không đơn giản thế đâu!” Nghiêm Viêm nhấn vào các lệnh tiếp theo, chuyển đổi cách hiển thị trên màn hình, và trước mắt ba người đã xuất hiện hay dấu cộng định vị, một ở trên một ở dưới, trên moãoi dấu có một đường sóng âm.
                    Nghiêm Viêm nói rất tự tin: “Quả nhiênlà thế thật!”
                    Sảnh vội vàng hỏi ngay: “Quả nhiên là gì ạ? Thầy hãy giải thích cho mọi người cùng nghe với”
                    “Nghĩa là thế này: ở phía trên, là sóng âm thuộc âm vực siêu âm, phía dưới là sóng âm siêu trầm. Nói cách khác, đúng là trong băng này có âm thanh nhưng ở ngoài ngưỡng thính giác của tai người”
                    Vân Côn kinh ngạc: “Nghĩa là thế nào? Anh nói là Diệp Hinh đã nghe thấy những âm thanh mà người bình thường không nghe thấy ư?”
                    Nghiêm Viêm không trả lời, anh chỉ tay vào hai vùng dấu định vị và nói: “Anh hãy nhìn hai sóng âm này: tuy tần số chênh nhau rất lớn nhưng những thay đổi về cường độ đều có chung một quy luật như nhau, nói cách khác, hai loại âm thanh này đều có chung một quy luật như nhau, nói cách khác, hai loại âm thanh này đều có chung một nhịp điệu. Giả sử tai người nghe thấy, thì sẽ giống như nhịp tim đập hoặc giống như nhịp chân đi với tốc độ đều.”
                    Sảnh kinh ngạc kêu lên: “Nó hệt như Hinh đã miêu tả”
                    Vân Côn nói: “Anh Viêm hãy nói cho rõ đã: ý anh là trong lúc im lặng ấy đúng là đã có một nhóm âm trầm và một nhóm âm cao cùng xuất hiện? Chúng có cùng nhịp điệu đúng như Diệp Hinh đã miêu tả - giống như tiếng bước chân à?”
                    “Đúng thế! Có nhịp, và dường như mỗi lúc một mạnh hơm.. chậm dần, chậm dần rồi lại biến đổi nên không có quy luật nữa. Nhưng cường độ thì lại mạnh lên..”
                    “ÔI, giống hệt như Hinh đã miêu tả! Thế là đã giải mã được vấn đề” Sảnh phấn chấn kêu lên.
                    Nhưng không ngờ Nghiêm Viêm lại dùng chuột khoanh vào một đoạn sóng âm, phóng to lên, rồi bình thản nói: “Cô cũng đừng đắc chí quá sớm. Tôi còn có hai điểm nghi vấn rất lớn: một là, xét dạng thức của hình sin, thì hai sóng âm này không hoàn toàn là được truyền qua không khí, theo kinh nghiệm đọc âm phổ của tôi, thì hình như chúng đi qua một môi trường chất dẻo hoặc môi trường chất rắn mật độ cao, rất khó phán đoán. Mà hai vị thì nói rằng lúc đó chỉ có mình Diệp Hinh trong trạm phát thanh, thì tai sẽ nhận tín hiệu âm thanh truyền qua không khí, dù nguồn âm thanh phát ra từ ngoài cửa thì cũng chỉ là cách một tầng cửa – nó sẽ không có dạng hình sin lạ lùng kiểu này.”
                    “Anh nói là nguồn âm thanh ấy rất kỳ quái à?”
                    “ Đúng thế, và còn điều lại lùng thứ hai nữa. Tôi tuy không chuyên nhưng cũng biết nguyên lý của việc ghi âm trên băng từ, là thông qua dòng điện âm tần để biến đổi từ trường trên đầu từ của máy ghi âm, sau đó tác động vào các từ tính riêng biệt và sự phân bố của các phân tử bột từ bám trên băng, để ghi lại âm thanh. Cách ghi âm này rất thô, ngay các âm thanh bình thường còn có thể bị mất tín hiệu, thì ghi sao nổi các âm siêu cao và siêu trầm? Có lẽ tôi cũng chưa được hiểu biết nhiều, nhưng tôi đã có lần được nghe nói như thế.”
                    “Nhưng có điều gần như có thể khẳng định: đúng là Diệp Hinh đã nghe thấy những âm thanh mà những người phàm tục như chúng ta không nghe thấy, phải không ạ?”
                    Nghiêm Viêm chỉ tay vào Vân Côn “Điều này cô hãy nói với anh Côn! Tôi có “cá” bữa cơm trưa nay với cô đâu”
                    Vân Côn lắc lắc đầu: “Thật không thể tưởng tượng, không thể tưởng tượng nổi”
                    Sảnh nói: “Có gì mà không thể tưởng tượng nổi? Em thấy thầy quá máy móc bảo thủ thì có! Cần phải làm gì nữa thì thầy mới chịu tin hẳn?” Sảnh chợt nảy ra một ý, cô lấy ra cuốn băng ghi âm cuộc thi hát đưa cho Nghiêm Viêm: “ Phiền thầy phân tích cuốn băng này nữa vậy, nhất là hai bài hát của Chu Hoa Kiên.”
                    Khi mở đến đoạn Băng Quân hát hai bài hát karaoke của Chu Hoa Kiện, vì dưới sân khấu khá im ắng, nên màn hình vi tính rất ít hiện ra tạp âm, chỉ nổi lên rõ nhât là sóng âm của tiếng hát Băng Quân. Bỗng Nghiêm Viêm kêu lên: “Đúng là có chuyện đó!” Anh nhấp chuột ngắt ra một đoạn sóng âm rồi phóng to ra, thấy rằng ngoài tiếng nhạc đệm và tiếng hát “Không muốn cô đơn” ra, thì lại xuất hiện một sóng âm khác – cũng lên xuống rõ ràng. Nghiêm Viêm lại dùng máy “giấc mơ” này khảo sát đoạn song âm này bằng âm phổ, anh chăm chú nhìn bản in vừa được in ra, không ngớt trầm trồ: “ Thật là thú vị, quan sát bước đầu của tôi là âm phổ này thể hiện mọi đặc trưng trầm bổng ngừng ngắt của âm phát ra, có thể cơ bản coi là giọng hát nhưng hầu như lại không có cường độ. Nói cách khác, băng cát-set này đồng thời ghi hai bài hát, một giọng là giọng Chu Hoa Kiện, ai cũng nghe thấy còn một bài nữa thì không rõ tên là bài gì, không ai có thể nghe thấy.”
                    “ Ngoài Diệp Hinh! Hinh nghe thấy nó!” Sảnh hào hứng kêu lên.
                    Hai bài hát “nhại Chu Hoa Kiện” đã hát xong. Nghiêm Viêm nói: “Có hai bài không thể nghe thấy. Có cảm giác là “gặp ma” thật rồi!”
                    Sảnh thấy trong lòng lâng lâng, đầu cô thoáng hiện vô số ý nghĩ: xem chừng Diệp Hinh không nhầm, Hinh có thể cảm nhận được những sự vật mà người káhc không thể cảm nhận, thì ra, điều gọi là “ảo giác” lại chínhlà cảm giác thật sự. Không có lý gì để Hinh cần phải “điều trị”, Hinh lại có thể trở về sống giữa mọi người.
                    Nhưng Sảnh vẫn không quên một việc quan trọng, cô cười nhìn Vân Côn đang ngồi ngây ra: “Thầy Côn ạ, đã đến trưa rồi, thầy Viêm và em đều đã đói rồi, sao thầy còn đứng mãi đây làm gì?”
                    “Anh lại cho em mượn chiếc chìa khóa ấy được không?”
                    “Chìa khóa nào?” Thấy Sảnh bất chợt đến, Du Thư Lượng biết ngay là có việc lên quan đến Hinh.
                    “Còn chìa khóa nào nữa? Đương nhiên là chìa khóa phòng hồ sơ. Hồi nọ Hinh đã mượn anh mà!”
                    “Cái đầu em nghĩ những gì gì thế? Phòng bảo vệ đã khám túi Hinh và lấy mất cái thứ đồ cổ ấy, nó bị coi là công cụ để gây án, đời nào họ lại trả lại tôi! May mà Hinh rât có nghĩa, đã không cung khai tôi ra, mà chỉ nói là tìm thấy nó ở hội sinh viên. Cho nên chỗ tôi không thể có nó được nữa!”
                    “Tất nhiên là em biết rồi, em chỉ hỏi gọi là cầu may vậy thôi.” Sảnh tinh quái nhìn Lượng.
                    “Em định làm gì nói xem nào?”
                    Sảnh bỗng xị mặt: “Anh cứ như là thẩm vấn em! Em đang muốn thẩm vấn anh thì có! Tại sao mấy hôm nay anh toàn đến phòng bảo vệ? Đến đó để nói xấu Diệp Hinh à? Có phải lần trước anh đã tố nó ra không đấy?”
                    “Gì thế? Em theo dõi anh à?” Lượng đứng bật dậy khỏi ghế, suýt nữa thì rơi cả cặp kính.
                    “Ai hơi đâu mà theo dõi anh!” Sảnh lại nói với giọng ma mãnh. “Thôi nào, anh đừng ngại! Chuyện là thế này: mấy hôm nay em hay đi loanh quanh gần phòng bảo vệ, nghĩ cách lẻn vào trong đó nhìn xem có hồ sơ “Nguyệt Quang xã” hay không. Nhưng ở đó hoặc là luôn có người hoặc là khóa cửa, nên em hết cách! Nhưng em lại thấy anh ra vào đó mấy lần, có phải anh đã mắc sai phạm gì không? Đánh mạt chược ăn tiền, hoặc là trêu ghẹo nữ sinh gì gì đó…”
                    “Hồ sơ Nguyệt Quang xã là cái gì?”
                    “Tức là tập hồ sơ mà cái đêm hôm nọ Diệp Hinh đã đọc trong phòng hồ sơ. Tiếc rằng Hinh vẫn chưa đọc xong. Kìa, sao anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của em?”
                    Lượng gật gù: “Thì ra là thế. Tôi xin nói, tôi đến phòng bảo vệ, đúng là có việc liên quan đến Diệp Hinh. Hôm đó Hinh bị tóm cổ ở phòng hồ sơ, bị phòng bảo vệ tịch thu chìa khóa cửa và cuộn phim. Họ biết Hinh đã vào đó, thì cũng chỉ là chụp các nội dung của hồ sơ mà thôi, nhưng muốn chứng minh thì phải rửa phim in ảnh xem rõ là chụp cái gì. Thầy giáo Kim phụ trách công tác học tập cũng thm gia với phòng bảo vệ, thầy Kim nói “Đưa ra hiệu ảnh thì tốn thì giờ, tốn tiền, chi bằng hãy để cho hội nhiếp ảnh giải quyết. Nhà trường vẫn tài trợ một phần kinh phí cho họ kia mà.” Thế là việc đó rơi vào tay tôi. ”
                    Sảnh thích quá nhẩy cẫng lên: “Thì ra là anh đã nhìn thấy ảnh rồi! Sao anh không nói ra cho sớm? Chắc anh đã giữ lại một tập, đúng không?”
                    Lượng bình thản nói: “Coi như em đã đóan đúng. Tôi có giữ lại một tập.” Lượng lại lặng lẽ mở ngăn kéo tủ bàn làm việc lấy ra một xấp ảnh đưa cho Sảnh.
                    Sảnh không nén nổi hào hứng, cúi đầu xem, nhưng cô chợt biến sắc: “Cái gì thế này? Toàn là mờ ảo cả lũ.”
                    “Trước khi in tráng mấy tấm ảnh này, tôi đã đoán được kết quả này rồi. Nguyên nhân rất đơn giản, máy ảnh của Hinh chưa phải là cấp độ tinh xảo, khả năng bắt ánh sáng cũng chỉ có hạn, kỹ thuật chụp thì chưa cao, muốn chụp ảnh đẹp trong bóng tối thì đâu có dễ.”
                    “Thế thì phải làm sao đây? Đúng là của trời cho mà vẫn không ăn đựơc!” Sảnh ngán ngẩm thở dài, chiếm ngay cái ghế của Lượng ngồi luôn.
                    “Nhưng vẫn còn chuyện đáng ngán hơn thế nữa kia. Khi tôi bàn giao kết quả cho phòng bảo vệ thì họ chẳng mấy bận tâm, mà họ còn bám riết tôi, bảo tôi phải rửa ảnh cho họ mấy lần, thế là tôi biến thành đầy tớ của họ. Sảnh nhìn thấy tôi đến, là vì tôi phải giao ảnh cho họ.”
                    Sảnh nghe Lượng nói thế, cô lập tức nảy ra một ý tưởng: “Em có một cách này: lần sau còn đến giao ảnh cho họ, anh cố ngồi nán lại một lúc, nhìn xem có thấy “Hồ sơ Nguyệng Quang xã” cất ở phòng bảo vệ không. Tuy vụ việc Diệp Hinh “bị bắt” đã trôi qua một quãng thời gian thật, nhưng nếu họ sơ suất, thì rât có thể vẫn chưa chuyển tập hồ sơ ấy trở lại phòng hồ sơ cũng nên.”
                    “Nếu vẫn thấy nó ở phòng bảo vệ thì sao?”
                    “Em xin trả lại anh câu nói lúc nẫy: thật không biết cái đầu anh nghĩ những gì! nếu cẫn còn, thì tất nhiên sẽ tìm cách để lấy trộm nó! Nếu không, em cần anh đến trinh sát làm gì?” Sảnh đã thấy trong lòng dễ chịu hơn.
                    Lượng lắc đầu như cái máy rung trong phòng thí nghiệm vật lý: “Lấy trộm? Làm thế sao được? Tôi là một thanh nên biết tôn trọng luật pháp”
                    “Thế thì không gọi là “trộm” nữa. Đổi cách nói khác. Khổng Ất Kỷ đã nói: “thó sách không bị coi là trộm cắp”.”
                    “Cô em này thật to gan! Diệp Hinh đã lây thói xấu của em rồi”
                    Sảnh lại thở dài, hơi ngẩn người: “Đúng thế còn gì! Hình như mọi người cũng đều nói thế. Thôi vậy, xem ra, anh Lượng cứ như là A Đẩu, khó mà vực lên được, em cũng không muốn phí sức nữa. Em để lại số máy nhắn tin, nếu nhìn thấy tập hồ sơ ấy thì anh báo ngay cho em, được không ạ?”

                    (Hết chương 22)









                    #25
                      PhongAnh 07.11.2006 14:27:11 (permalink)

                      Chương 23

                      SỰ PHẢN BỘI DỊU DÀNG



                      NGÀY 9 THÁNG 6

                      Hôm sau Lượng đến phòng bảo vệ giao cho phó phòng Vu Tự Dũng bức ảnh "Hiên ngang trong đêm tuần tra" đã in xong. Vừa bước vào gian chính của phòng bảo vệ, Lượng đã đảo mắt tìm khắp một lượt. Nhưng ở đây sổ sách bề bộn, anh không sao nhận ra đâu là "hồ sơ Nguyệt Quang xã".

                      "Chú Dũng ạ, các bức ảnh chụp hồ sơ lần trước đã in, không nhìn thấy gì hết, vậy các chú đã xử lý ra sao?" Vì đã thân quen nên Lượng bắt chuyện với ông Dũng rất tự nhiên.

                      "Còn biết làm gì nữa? Kẹp vào hồ sơ, chờ 10 năm sau rồi huỷ." Ông Dũng vừa ngắm ảnh "Hiên ngang trong đêm tuần tra" vừa trả lời không mấy bận tâm.

                      "Thế thì chịu Diệp Hinh rồi! Kiến thức nhiếp ảnh phổ thông cũng không nắm được!"

                      Vừa nghe nhắc đến "Diệp Hinh", ông Dũng ngẩng đầu:" Cậu không nhắc đến thì tôi không thể nhớ ra. Diệp Hinh thế nào rồi? Vẫn nằm viện tâm thần à? Sinh viên các cậu có biết tin tức gì không?"

                      Lượng thở dài:" Hinh là đồng hương của cháu, cô ấy rất giỏi giang, chẳng biết đã bị trúng tà gì. Gần đây bọn cháu đi kiến tập ở viện tâm thần, mấy hôm trước có gặp Hinh, cô ấy thực đáng thương. Người vốn đã mảnh khảnh, nay còn gầy thêm. Nghe nói ông bác sĩ rất có uy tín chuyên môn phụ trách điều trị cho Hinh bỗng dưng tự sát, thật quá lạ lùng!"

                      Ông Dũng ngạc nhiên:" Tôi nghe nói vị bác sĩ ấy tự sát cũng lại là nhảy lầu? Mà ông ta lại đang điều trị cho cô Hinh. Thật là kỳ dị!"

                      "Cháu không rõ chuyện về Diệp Hinh là thế nào, tập hồ sơ hôm đó có ý nghĩa gì? Có tác dụng hỗ trợ điều trị cho Hinh hay không?"

                      Ông Dũng lắc đầu:" Toàn là những thứ cũ rích mốc meo, sao lại có tác dụng hỗ trợ điều trị gì được? Cách đây ít hôm chúng tôi đã đem trả cho phòng hồ sơ rồi."

                      Nghe nói thế Lượng cảm thấy vừa thất vọng lại vừa nhẹ nhõm, vì sẽ không phải có một động cơ "gây án" gì nữa. Anh chào rồi ra về, định tìm đến trạm điện thoại công cộng để nhắn tin cho Sảnh, bảo cô ta đừng nghĩ đến hồ sơ gì gì nữa. Khi đến chỗ ngoặt cầu thang, bỗng nghe có người gọi phía sau:" Anh khoan hãy đi, tôi muốn biết một số tình hình về Diệp Hinh."

                      Lượng quay lại, thấy một thanh niên đứng đó. Anh ta nhìn quanh bốn phía như muốn xác định rằng không có ai ở xung quanh, rồi nói:" Tôi quen Diệp Hinh, tôi có một việc quan trọng muốn hỏi anh."

                      Lượng nửa tin nửa ngờ, hỏi lại:" Anh là..."

                      "Tôi họ Bành, là một lái xe của trường ta, mời anh vào phòng làm việc của tôi, tôi muốn tìm hiểu vài điều về cô Hinh."

                      Lượng hơi do dự, rồi gật đầu đi theo anh Bành vào phòng trực ban của lái xe.

                      "Vì ở gần kề phòng bảo vệ nên tôi khá quen họ, vừa nãy tôi nghe thấy anh nói chuyện với họ trong đó, anh và phó phòng Vu Tự Dũng có nhắc đến Diệp Hinh, nên tôi rất muốn hỏi anh, Diệp Hinh hiện nay thế nào rồi? Vẫn nằm viện tâm thần phải không? Cô ấy đã bình phục chưa, hoặc nói là, cô ấy có vấn đề thật hay không?"

                      Lượng nghĩ bụng: Anh là ai mà tôi phải cho anh biết tình hình cụ thể nhi? Nhưng thấy vẻ mặt anh Bành bộc lộ sự quan tâm trân thành, và có lẽ anh ta quen Hinh thật cũng nên.

                      "Hiện giờ Hinh vẫn đang nằm viện, tôi là đồng hương của cô ấy và cũng là bạn thân. Tôi cho rằng có lẽ cô ấy hơi có phần không bình thường, tôi vẫn đang muốn tìm hiểu thêm xem đã xảy ra chuyện gì. Tôi rất muốn giúp đỡ Hinh." Lượng tặc lưỡi nói thật luôn.

                      "Quê anh ở vùng Giang Triết thì phải?"
                      "Vâng."
                      "Nghe giọng nói, nên tôi đoán là thế. Hồi nọ Hinh và tôi nói chuyện, cô ấy nói tiếng phổ thông rất chuẩn nên tôi không đoán ra cô ấy quê ở Giang Nam. Hiện giờ thì gay rồi: nằm viện tâm thần thì đúng là bi kịch lại tái diễn." Anh Bành băn khoăn đi đi lại lại.

                      "Anh nói gì? Sao lại nói là bi kịch? Đừng nên nói thế nghe sợ chết khiếp! Anh là ai mà lại...?"

                      "Tôi vừa nói rồi mà: tôi là lái xe, nhưng tôi rất quan tâm đến ''vụ án mưu sát 405''. Hồi nọ Hinh đến phỏng vấn phó phòng Vu Tự Dũng, muốn tìm hiểu thêm về vụ kỳ án này, tôi đã kín đáo nói chuyện riêng với Hinh. Chính vì nghe thông tin của tôi, nên Hinh mới đi Nghi Hưng. Và ngay trong chuyến đi ấy, nhân vật duy nhất may mắn sống sót trong ''vụ án mưu sát 405'' là Thẩm Vệ Thanh đã nhảy lầu một cách bí hiểm. Sau khi Hinh trở về chẳng được mấy hôm đã bị đưa đi viện tâm thần. Sự việc ấy khiến tôi rất bức bối, cảm thấy mình đã có một quyết định sai lầm, khiến Vệ Thanh phải chết, đồng thời tôi phải chứng kiến Hinh đi vào ngõ cụt." Anh Bành lại nói một lượt về nguyên nhân khiến anh quan tâm đến '' vụ án mưu sát405'' như vậy.

                      Nghe mãi nghe mãi, đôi mắt Lượng mỗi lúc một tròn xoe. Lượng bắt đầu hiểu ra tại sao Hinh cứ mải mê đi điều tra tìm hiểu về ''vụ 405'', rõ ràng không phải chỉ vì những thứ "ảo giác" kia. Thấy anh Bành đầy vẻ rầu rĩ, Lượng vội nói:" Anh đừng nên nghĩ ngợi quá xa như vậy, Hinh chưa chắc đã đi vào ngõ vụt gì đâu, nghe có vẻ quá thiên về thuyết định mệnh".

                      "Chẳng phải tôi định đề cao thuyết định mệnh gì cả, nhưng thật là không may, nó lại trở thành một quy luật: 405- các cô gái từ miền Giang Nam - bệnh viện tâm thần - nhảy lầu..."

                      Mỗi từ mà anh Bành nói đến đều khiến Lượng thót tim. Lượng trầm ngâm:" Tôi tuy chưa hoàn toàn tán thành cách quy nạp của anh, nhưng nhìn vào tình hình của Hinh hiện giờ thì đúng là chúng ta rất nên giúp đỡ cô ấy!"

                      "Đúng thế! Lúc nãy thấy anh nhắc tới ''hồ sơ'', tôi nghĩ ngay là anh đang muốn điều tra một cái gì đó. Có phải tôi đã có phần lan man sa đà quá không?"

                      Lượng vội nói:" Đâu phải thế! Đúng là tôi đang điều tra nghĩ cách giúp đỡ Hinh, nhưng chẳng biết nên bắt đầu từ đâu. Tập hồ sơ ấy là một đầu mối gợi mở, Hinh đã đọc được một phần trong đó. Cho nên tôi muốn tìm đọc xem nó có liên quan gì đến ''vụ án mưu sát 405'' hay không?"

                      Anh Bành dừng bước, trầm ngâm trong giây lát, rồi dường như phải hạ quyết tâm, cuối cùng anh nói:" Tôi đã xem qua rồi, có vẻ như chẳng liên quan gì cả."

                      Trong căn nhà lợp tôn - nơi hội nhiếp ảnh hoạt động, Lượng và Sảnh đang sốt ruột đợi anh Bành đến. Sự việc khá là vòng vo. Anh Bành nói với Lượng là sau khi Diệp Hinh bị phòng bảo vệ "tóm được", anh nghe nói cô gái Diệp Hinh - từng nói chuyện với anh - đã đột nhập vào phòng hồ sơ của trường để đọc rất lâu một tập hồ sơ cũ kỹ. Anh Bành có thế ra vào phòng bảo vệ rất tự nhiên như vào phòng làm việc của mình, phần lớn anh em bảo vệ lại không phải là công an đã được huấn luyện có bài bản, ý thức cảnh giác chưa cao, nên anh Bành đã có thời cơ để "ẵm " tập ''hồ sơ Nguyệt Quang xã'' ra ngoài. Thấy nó quá dày, anh biết khó mà đọc hết trong một lúc, bèn tặc lưỡi bỏ tiền ra hiệu phô-tô tất cả, rồi nhanh chóng đem trả về chỗ cũ. Anh bưng chúng về nhà để đọc.

                      Hoàng hôn đang buông xuống, anh Bành cắp một bọc giấy tờ xuất hiện ở cửa.

                      Ba người không nói gì nhiều, vội giở ra luôn. Vì đã đọc hết từ lâu, nên anh Bành chỉ dặn dò vài câu, rồi bước ra ngoài hút thuốc.

                      Vì Hinh đã nhiều lần kể về cuốn nhật ký, nên trước tiên Sảnh và Lượng tìm bản phô -tô cuốn nhật ký, giở đọc từ đầu.

                      Khi Sảnh đọc đến đoạn miêu tả lễ cưới của Lăng Hoành Tố và Lạc Vĩnh Phong, có nhẵc đến cái tiêu bản cơ thể thần kỳ sắp hoàn thiện, cô kêu lên:" Điều này lại chứng minh rằng đúng là Hinh đã nhìn thấy những thứ mà người thường không nhìn thấy, Hinh không thể bị nằm viện tâm thần gì hết mới đúng. Chúng ta phải mau tìm cách đưa Hinh ra viện."

                      Lượng nói:" Nếu Hinh ra viện, rồi vẫn không tránh thoát cái ngày 16 tháng 6 thì sao?"

                      "Anh khỏi phải lo. Sẽ có cách thôi. Đêm hôm trước Hinh phải về ở nhà em, mẹ em đã nói rồi: hôm đó sẽ lấy xích xích chặt Hinh lại, đã đủ an toàn chưa nào?"

                      Lượng nhíu mày:" Nghe sao mà đáng sợ! Chẳng kém nằm bệnh viện tâm thần là mấy!"

                      Sảnh lầu bầu:" Nhà anh là viện tâm thần thì có!" Rồi lại tiếp tục đọc. Sảnh đã nghe Hinh ở trong bệnh viện tâm thần kể về phần đầu của cuốn nhật ký, tuy nửa tin nửa ngờ nhưng Sảnh vẫn còn nhớ được. Khi nhìn thấy phần nhật ký viết từ ngày 23 tháng 5 năm 1967 trở đi, Sảnh hiểu rằng phần này Hinh chưa kịp đọc đến. Sảnh chăm chú đọc.


                      23/5/1967

                      Hôm nay tôi bị đưa ra Khu xét xử công khai, ở trường này, có tôi và hai sinh viên cùng trường đều có vấn đề " xuất thân" nghiêm trọng, bị đưa ra "phê đấu"; ngoài ra còn có một số sinh viên của các trường khác cũng na ná như vậy, cả thảy là 18 người. Chúng tôi bị quần chúng phê đấu gọi đùa là Thập bát La hán. Giữa chừng cuộc xét xử, một sinh viên trong số này nhảy xuống dưới sàn, tuy không chết nhưng vỡ đầu chảy máu, và gãy chân.

                      Khi trở về, cặp kính của tôi bị vỡ, khắp người là nước bọt, đầu gối sưng vù vì bị quỳ quá lâu.

                      Có lẽ đời người ta bị làm nhục đến thế này là cùng cực chăng?

                      Lúc này tôi bỗng hiểu ra, tại sao lại có nhiều hội viên ''Nguyệt Quang xã'' đã không hẹn mà cùng quyết làm "ngọc nát". Trước hết là vì họ đều quá duy mỹ, có phải đây là căn bệnh chung của những người đam mê âm nhạc cổ điển hay không? Có phải những người theo đuổi cái đẹp thường có ít khả năng chịu đựng vấp váp hoặc những đối xử bất công không? Hay là họ căn bản chưa hề thử chịu đựng xem sao? Tôi liên tưởng đến một chút kiến thức tâm lí học trước kia được học, những con người ấy - hoàn toàn giống hệt nhau - cùng chọn cách tự sát là nhảy lầu, điều này có phải là sự ám thị tập thể, là sự theo đuổi một định hướng đồng nhất không?

                      Tại sao lại có cái ý nghĩ này? Tôi thấy lo sơ, chẳng lẽ mình cũng nảy ra ý nghĩ giống như vậy hay sao?

                      Không. Tôi vẫn còn rất nâng niu cuộc sống và yêu mến những người mến yêu tôi. Từ nhỏ tôi đã thiếu tình thương của cha mẹ, cho nên tôi rất trân trọng bất cứ ai yêu mến tôi, thậm chí có thế nói -tôi sống là vì họ.

                      Nhưng những người như thế lại không nhiều, bác trai của tôi chưa rõ sống chết ra sao, bác gái thì đã qua đời, Y Y, Kình Tùng và.. có thể còn ai nữa?

                      1/6/1967

                      Có lẽ đây là lần viết nhật ký cuối cùng của tôi.

                      Một trong những nguyên nhân khiến tôi nghĩ thế, là vì kể từ ngày mai tôi bị cách ly để thẩm tra. Thực ra gần đây tôi đã bị theo dõi rất chặt cho nên lần này tôi phải ngồi trong nhà vệ sinh để viết. Tôi thường cất cuốn nhật ký này trong một gian nhỏ thường dùng để chất các dụng cụ vệ sinh, mãi trên tầng 5 của ký túc xá, ở đó có vài cái tủ cũ nát chứa các thứ lặt vặt, cùng đủ thứ vớ vẩn - từ các tờ áp-phích cho đến cái ghế gấp -những thứ chẳng bao giờ có ai đụng đến chúng.

                      Một nguyên nhân nữa là, tôi cảm thấy tổ điều tra đã quyết ý phải dò cho ra cái nguồn gốc của tôi và "Nguyệt Quang xã", tôi chẳng rõ mình còn có thể chống đỡ được bao lâu nữa. Có lúc tôi nghĩ: vì sao lại thế? Vì nhà trường đã lâu không bắt được một vụ "trọng án" nào chăng? Có lẽ không phải vậy. Vì muốn tìm được một lý do để phê đấu tôi chăng? Họ không cần bất cứ lý do nào. Chỉ biết rằng tôi đã bị xét xử công khai 6 lần, phải chịu đựng vô số cú đấm đá và nước bọt.

                      Cách giải thích duy nhất là, có kẻ muốn bắt tôi chính thức trở thành kẻ phạm tội, rồi bỏ tù, thậm chí đem bắn. Nếu có chứng cứ rành rành, thì tôi sẽ bị xoá tên khỏi lịch sử một cách suôn sẻ.

                      Tôi nghĩ, mình là một thằng điên thì phải, đến giờ mà vẫn muốn lưu lại cuốn nhật ký này. Nếu là một người bình thường, thì ngay từ khi bắt đầu bị điều tra, nên đốt ngay cuốn nhật ký này đi mới đúng.

                      Nhưng tôi biết rõ ý định của mình là muốn ghi chép lại những ngày tháng này, muốn ghi chép lại sự trong sáng và nỗi gian nan vật vã của "Nguyệt Quang xã"; biết đâu có ngày nó được đưa ra ánh sáng, nó sẽ nhắc nhở thế hệ sau chớ mắc lại sai lầm tương tự như thế nữa.

                      Tôi tuy bị áp lực rất lớn, nhưng may thay vẫn có Kình Tùng thường đến thăm tôi, cùng ăn cơm với tôi ở nhà ăn, động viên tôi hãy tiếp tục gắng sức. Không thể phủ nhận rằng cho đến nay Kình Tùng vẫn là một trong những nguồn động lực mạnh mẽ đối với tôi. Tùng tốt với tôi như thế, tôi không cần phải giữ bí mật với anh về bất cứ điều gì. Và thế là tôi đã kể với Tùng về "Nguyệt Quang xã".

                      Còn một người nữa biết tôi là người duy nhất còn sót lại của "Nguyệt Quang xã", là Y Y. Nhưng đã lâu không thấy nàng xuất hiện.

                      Tôi có thể hiểu được, vì xuất thân của nàng cũng không hay mấy, lại bị Máy Kéo giám sát, bất cứ một hành động nào tiếp tục tiếp cận tôi, sẽ chẳng khác nào thiêu thân lao vào lửa. Tôi có thể cảm nhận rằng nàng vẫn đang nhớ đến tôi, đang đợi chờ ngày tái ngộ. Vì chờ đợi cái ngày ấy, tôi sẽ âm thầm chịu đựng, dù phải xa cách bao lâu, thậm chí dù bị đi tù, tôi vẫn sẽ kiên trì bám trụ như các liệt sĩ cách mạng trước kia.

                      Hôm nay là ngày Quốc tế thiếu nhi, khi rời chỗ tổ điều tra trở về tôi nhìn thấy các cháu ở nhà trẻ của trường đang vui chơi ca hát trên bãi cỏ xanh trước toà nhà hành chính. Chúng đều hồn nhiên vô tư lự, lòng tôi bỗng thấy xót xa. Bọn trẻ ngây thơ kia đâu phải nghĩ ngợi đến những biến đổi ghê gớm đang xảy ra với mình. Tôi cũng nhớ về những năm tháng tôi và Kình Tùng cũng vui đùa hồn nhiên vô tư như thế này.


                      15/6/1967

                      Tôi đã nuốt lời hứa với mình, tôi lại lấy cuốn nhật ký này ra. Nó vẫn được cất ở chỗ cũ, rõ ràng là không bị ai đụng đến.

                      Nuốt lời, không phải là có tội. Nhưng phản bội thì sao?

                      Hôm qua tổ điều tra bỗng nói với tôi rằng đã kết thúc điều tra, tôi có thể ra về.

                      Gần nửa tháng trời bị cách li thẩm tra, hàng ngày tôi phải đối mặt với các điều tra viên, ngoài ra thì chỉ còn có những bức tường. Nếu tôi nói, đến lúc này tinh thần tôi vẫn còn lành lặn thì chắc chắn đó chỉ là tự an ủi mà thôi.

                      Tôi có thể ra về nhưng không có nghĩa là đã được tự do. Người của tổ điều tra nói rằng: hãy nghiêm chỉnh ở lại ký túc xá để chờ sự sắp đặt tiếp theo. Tôi ko hiểu nổi thế nghĩa là gì, bèn gặng hỏi mãi. Họ vì ngán quá nên cuối cùng họ bảo tôi rằng: đã có người cung cấp chứng cứ, chắc chắn anh là dư đảng của “Nguyệt quang xã”. Sẽ xử lý tôi thế nào, thì tổ điều tra không quyết định được. Kể ra thì họ vẫn còn có chút tình người, họ thả tôi về, là để tôi liệu mà thu xếp, báo tin cho người nhà, bạn hữu… để rồi lên đường “ra đi không hẹn ngày trở lại”. Cho nên, về trường không phải là được tự do, tự khắc sẽ có các đồng chí cách mạng giám sát tôi. Đồng thời, họ báo lên thành phố, chờ xem sẽ quyết định bỏ tù là còn nhẹ - có lẽ sẽ còn tồi tệ hơn.
                      Tôi đờ đẫn đứng trong phòng làm việc của tổ điều tra, đầu tôi trống rỗng, không biết mình nên có tâm trạng gì đây. Đứng ngoài nhìn vào, dường như tôi còn quyến luyến không nỡ rời cái địa ngục đã thẩm tra tôi mấy tháng nay.
                      Tôi đi về ký túc xá, thất thểu như người mất hồn, hầu như suốt dọc đường đã nghĩ rất nhiều nhưng đầu óc chẳng sáng ra được điều gì. Chỉ có Kinh Tùng và Y Y biết tôi từng tham gia “Nguyệt quang xã” , nếu đúng là có người làm chứng thì chỉ có thể là một trong hai ngừơi. Tôi đã hỏi tổ điều tra “nhân chứng đó là ai” thì họ quyết không hé lộ, nói là cần phải bảo vệ các đồng chí cách mạng, nhưng lần sau phỏng vấn sẽ cho đối chất với tôi từng câu.
                      Liệu có phải họ chuẩn bị để vu cáo hãm hại tôi không?
                      Khi sắp ra khỏi tổ điều tra, thấy họ nói đến vài chi tiết về việc tôi tham gia “Nguyệt quang xã”, thấy đều đúng cả.
                      Vậy tức là một trong hai người Kinh Tùng – Y Y đã khai tôi ra.
                      Về đến ký túc xá, Kinh Tùng biết tin vội đến ngay. Khi nhìn thấy tôi, Tùng đứng ngây người, đôi mắt Tùng đỏ hoe. Lần đầu tiên tôi trông thấy Kinh Tùng vốn cứng rắn như thép gang lại buồn như thế này. Có lẽ tại tôi nửa tháng qua chẳng buồn tắm gội, trông nhếch nhác như một kẻ lang thang. Nhưng khi Tùng bắt đầu nói thì tôi hiểu ngay tại sao Tùng lại buồn.
                      Tùng đã nghe nói về việc tôi đã bị khép tội.
                      “Cậu đã biết rồi, sao cậu còn đến gặp tôi nữa? Không sợ bị mang tiếng là “thông đồng với địch” ư? Tôi rất xúc động bởi Tùng đã đến với tôi nhanh như thế này.
                      “Cậu nói gì lạ thế? Tôi đã sợ cái gì bao giờ chưa?” Kinh Tùng vẫn giữ cái tác phong hùng dũng vốn có. “Cậu có biết ai đã khai ra cậu không? Tôi thấy mấy tay ở tổ điều tra nói vanh vách đâu ra đấy, nói là có chứng cứ rành rành”
                      Tôi thở dài “Chỉ có hai người biết về chuyện này”
                      Tùng kinh ngạc nhìn tôi. Anh đương nhiên biết mình là một trong hai người.
                      Tùng đứng im nhìn tôi, rồi chợt nói “Tôi sẽ đến bệnh viện Tuyên truyền gọi Y Y lại đây, hỏi tại sao cô ta lại làm cái việc như vậy.” Rõ ràng là Kinh Tùng không phải là người đã tố giác tôi.
                      Chẳng lẽ là Y Y thật hay sao? Người tôi căng âm ỉ, nhói đau.
                      Đã rất lâu nàng không đến thăm tôi, có lẽ đã nói lên một điều gì đó.
                      Nhưng tôi đang nghĩ, với tính cách nóng như lửa của Tùng, chưa biết chừng cậu ấy sẽ có hành động quá mức đối với Y Y. Y Y lại đang ở dưới tầm ngắm của Máy Kéo, nhất định hắn sẽ đùng đùng chạy đến ngay.
                      Tôi nghiêm giọng can ngăn Tùng đừng đến bệnh viện tiền tuyến, và nói rằng tôi sẽ gọi điện để hỏi Y Y cho rõ. Tôi cảm ơn Tùng đã không tố giác tôi. Đến lúc này, Tùng trào nước mắt, ôm lấy vai tôi: “Người anh em ạ! Nếu tôi đã làm thế thật, thì thà tôi chết đi còn hơn!”.
                      Một câu nói đầy xúc động, đời người ta có được một người bạn như thế này, đã đủ để thấy mình sống thật không uổng phí. Nhưng điều này cũng không thay thế nổi nỗi buồn trong lòng tôi.
                      Kể ra thì nếu đúng là Y Y đã khai tôi ra, thì tôi cũng có thể hiểu được. Vì không đời nào tổ điều tra lại buông tha Y Y, cũng như không buông tha Kinh Tùng bấy lâu nay. Đòi hỏi một cô gái mảnh mai yếu ớt phải chịu đựng những áp lực lớn như thế, thì rất không công bằng, đúng không? Nhưng hễ nghĩ đến cái hiện thực tàn khốc này: một người con gái có chỗ đứng quan trọng nhất trong đời tôi đã giao số phận tôi vào tay tổ điều tra.
                      Cái gì đang chờ đợi tôi? Nỗi nhục nhã khi bị xét xử công khai, kết án tù đày thật khó lường (kể cả khả năng bị đem ra bắn bỏ), và vĩnh viễn mất Y Y.
                      Tôi bỗng thấy cuộc sống không còn lạc thú gì nữa. Tôi chợt thấy mình có thể hiểu về sự lựa chọn của các bạn hội viên “Nguyệt quang xã”. Lựa chọn chấm dứt cuộc đời, vì không còn nhìn thấy hy vọng. Hoặc nói là, vì không còn niềm tin và sự nhẫn nại để chờ thấy được hy vọng. Đó cũng là tôi hôm nay. Tôi thậm chí đã bắt đầu tin rằng, có lẽ cái lời tiên đoán đáng sợ kia – cái lời tiên đoán đáng sợ mà tôi vẫn bĩu môi coi thường – đã bắt đầu ứng nghiệm vào ngay số phận tôi. Điều đáng sợ hơn nữa là, dường như tôi đang bước vào con đường của thuyết định mệnh.
                      Liệu có phải Y Y không hề khai tôi ra, mà là do có điều oái oăm gì khác chăng? Tôi phải hỏi Y Y xem sao, dù chỉ nghe giọng nàng nói thôi, tôi cũng áng chừng có thể cảm nhận được đã xảy ra chuyện gì. Tổ điều tra sẽ không cho tôi quá nhiều thời gian “tự do”, nếu định gặp Y Y thì tôi phải nhanh lên mới được.
                      Nghĩ ngợi cả đêm không sao chợp mắt được, trời vừa sáng tôi đã xuống dưới nhà, chuẩn bị đi xe buýt đến bệnh viện tiền tuyến để gặp Y Y. Nào ngờ vừa ra khỏi cổng trường thì có ngay hai người tiến lại “mời” tôi quay về. Rõ ràng là họ sợ tôi bỏ trốn. Tôi không cưỡng lại được, đành vào phòng điện thoại để gọi đến bệnh viện tiền tuyến.
                      Phải vòng vo mãi, phải chuyển tiếp qua qua vài phòng ban, rồi mới nghe thấy tiếng Y Y ở đầu dây bên kia. Thoạt đầu tôi không dám tin đó là giọng của Y Y, vì đầy vẻ nơm nớp, ngập ngừng định nói rồi lại thôi, và lại như nấc lên nghẹn ngào. Trực giác mách bảo tôi, có lẽ, cái điều tôi không muốn tin, đã xảy ra thật. Nhưng khi nghe thấy giọng nói Y Y đang run run, tôi đã nén lại cái câu định hỏi, rồi tôi không biết nên nói gì nữa. Để rồi Y Y lại phải hỏi tôi rất khẽ gần như không thể nghe thấy: “Anh… có khỏe không?”
                      Tôi biết, nam nhi chẳng nên khóc than thút thít trong cuộc điện thoại, bèn cố tỏ ra bình thản nói: “Anh vẫn khỏe”
                      Đầu dây bên kia lại lặng im một hồi lâu, bỗng Y Y nói: “Em sợ…”. Nàng sợ cái gì thế? Chắc chắn lúc này Y Y đang phải chịu áp lực rất lớn, chưa biết chừng “Máy Kéo” đang đứng áp bên cạnh như muốn nuốt chửng! Tôi càng hiểu nàng hơn nữa, dù nàng đã khai tôi ra thật, thì cũng không đáng trách. Con người ta ai cũng cần phải sinh tồn, được sống sót thì mới còn có hy vọng. Không kể những người như tôi – đối với tôi, sinh tồn chỉ còn là một gánh nặng.
                      “Em đừng sợ. Em hãy làm chủ bản thân, anh vẫn mãi yêu em”. Tôi cảm thấy mình đã nói năng rối loạn chẳng đâu vào đâu.
                      Lại im lặng một lúc rất lâu. Rồi Y Y lại nói: “Chúng ta… không thể gắn bó với nhau nữa, mong anh đừng trách em”
                      Điều này là thật ư? Tại sao thế? Tôi vẫn còn chưa nói gì kia mà.
                      “Anh biết hiện nay là lúc rất khó khăn đối với em, nhưng em biết không, lúc này cũng là lúc anh đang rất khó khăn”. Tôi có thể cảm nhận được tâm trạng nặng nề của Y Y, nhưng tôi vẫn không thể tin nàng muốn bỏ tôi, sau khi đã tố giác tôi. Tôi cũng có thể thông cảm, nhưng khó mà chấp nhận.

                      Tôi lại nói rất bình thản: “Y Y, em đừng buồn. Anh có thể thông cảm và cũng có thể chấp nhận. Em hãy hứa với anh một điều em phải đến đây với anh một lúc. Anh có việc rất cần nói chuyện với em, hãy coi như chúng ta gặp nhau lần cuối! Sau lần này chúng ta sẽ không còn dính dáng gì nữa, được không?”
                      Đắn đo rất lâu, Y Y mới nói: “không thể ạ…”
                      “Tại sao thế?”
                      “Em sợ…”
                      “Yêu cầu của anh không có gì gọi là quá đáng, anh chỉ muốn gặp em một lần. Em coi như vào thăm tù nhân để an ủi hoặc thậm chí là để đấu tranh – gọi là gì cũng được. Chỉ một lần này thôi. Hoặc, em bảo một đồng chí cách mạng đang đứng bên cạnh em đi kèm cũng được. Chỉ một lần này thôi”. Tôi muốn gặp, để nhìn vào mắt nàng và hỏi có phải nàng đã tố giác tôi không? Sau đó sẽ nói: bất kể là thế nào tôi vẫn yêu nàng. Mọi việc nàng đã làm, tôi tuy khó mà chấp nhận nhưng đều có thể thông cảm.
                      Thực ra tôi có thể không cần phải hỏi một câu nào, bởi lẽ đã không còn mấy ý nghĩa nữa rồi. Tôi chỉ muốn gặp nàng trước khi tôi ra đi, dù sao nàng cũng là người tôi yêu nhất trong đời.
                      “Hãy để em nghĩ xem đã…” Giọng chần chừ của nàng như xé nát cõi lòng tôi. Đây đâu phải là Y Y thân quen của tôi.
                      Tôi nài nỉ: “Tối nay dù thế nào em cũng phải đến, anh sẽ đợi em đến tận nửa đêm”
                      Lại im lặng rất lâu. Văng vẳng thấy tiếng khóc thút thít của Y Y. Rồi bỗng nhiên dập máy. Liệu Y Y có đến không?
                      Câu trả lời do dự của nàng trong điện thoại như đã đập tan hoàn toàn mảnh vỡ còn sót của giấc mộng đẹp của tôi. Trong vở ôpêra “Rigoretto” của Véc đi có bài hát “Đàn bà hay tráo trở” vốn bị coi là thành kiến đối với phái nữ, nhưng biết đâu lại hàm chứa châm ngôn trong đó?
                      Tôi không tin. Tôi chỉ biết rằng, nếu Y Y có thể đến với tôi đêm nay, chứng tỏ trong trái tim nàng vẫn có tôi. Ngắm khuôn mặt sáng trong của nàng, tôi sẽ có can đảm để vững vàng tiếp tục sống. Nhưng nếu nàng không đến thì sao?
                      Tôi cũng đã sắp xếp xong cả rồi.


                      Đến đây, cuốn nhật ký bỗng nhiên dừng lại. Sảnh nhìn lại dòng chữ ghi mở đầu đoạn cuối cùng, chính là ngày 15 tháng 6. Sảnh lim dim mắt suy nghĩ, rồi bỗng nhảy bật dậy kêu lên: “Anh Bành, anh Lượng ơi! Hai an hãy cùng em đi tìm một người. Tối nay nhất định chúng ta sẽ tìm ra được một đáp án”.
                      Sau một hồi gõ cửa gấp gáp, cánh cửa hơi hé ra. Ánh đèn ngoài sân giúp ông Phùng nhìn rõ Âu Dương Sảnh mặc bộ váy áo màu trắng đang đứng một mình ngoài cổng. Ông thầm kêu trời, rồi nói: “Lại là cô? Tối thế này lại còn đến đây, cô không nghĩ gì đến an toàn hay sao?” Ông vừa nói vừa mở cửa, lúc này ông mới nhận ra bên cạnh Sảnh còn có hai người nữa.
                      Sảnh không phân bua gì nữa, lách ngay vào căn nhà nhỏ của chủ nhân, bước thẳng đến chiếc bàn nhỏ kê bên cửa sổ, chỉ vào chiếc máy quay đĩa, hỏi: “Cháu muốn phiền bác Phùng cho chúng cháu biết: chiếc máy hát này ở đâu ra?”
                      Ông Phùng chợt sững người: “Cô… hỏi để làm gì?”
                      Sảnh cười nhạt: “Bác kín miệng ghê thật đấy! Bác cứ muốn cháu nói thẳng ra à?”. Sảnh bỗng xoay chiếc máy hát 180 độ. Lượng và anh Bành bước lại gần ngó nhìn. Thấy trên vỏ gỗ của chiếc máy hát có khắc một chữ “Tiêu”
                      Ông Phùng thở dài, bước lùi lại, ngồi trên ghế sô pha: “Thì ra các vị đều đã biết cả rồi!”

                      (hết chương 23)




                      #26
                        PhongAnh 07.11.2006 14:29:43 (permalink)
                        Chương 24

                        Định mệnh khó thoát



                        9H NGÀY 11 THÁNG 6

                        “Diệp Hinh, em nhìn xem ai đến đây này!” cô y tá tươi tỉnh gọi Hinh
                        “Mẹ, Sảnh ơi! Cả hai cùng đến, sao lại khéo thế này?” Hinh rất vui vì cùng một lúc được gặp hai người thân nhất của mình. Cô ngắm kỹ khuôn mặt của mẹ còn vương lớp bụi đường, chắc là vừa mới đến Giang Kinh, nhưng trông bà rất tươi tắn. Cô lại nhìn Sảnh, Sảnh rất điềm tĩnh.
                        “Thử đoán xem ai đã nhắn mẹ tới đây?” Bà Kiều Doanh cười hỏi.
                        Hinh nhìn Sảnh, Sảnh lắc đầu: “Đừng nhìn tớ! Cô ơi, cô đừng dứ nó nữa, cô báo tin vui cho Hinh đi”
                        “Con ạ, bác sĩ Đình gọi điện cho mẹ, ông ấy đã quyết định cho con ra viện”
                        Hinh ngây người, nét mặt lộ rõ niềm vui vô hạn, nhưng cô vẫn trào lệ, hồi lâu không nói nên lời. Sảnh lặng lẽ nhìn Hinh, cô hiểu rằng không phải Hinh khóc vì quá vui, trong làn nước mắt ấy chứa đựng bao nỗi chua cay, những áp lực về tinh thần cùng bao ảo tưởng về một tình yêu. Mùi vị của chúng ra sao chỉ có mình Hinh âm thầm chịu đựng.
                        Đã làm xong các thủ tục ra viện, Sảnh nói với hai mẹ con Diệp Hinh: “Cháu đã nói chuyện với cha mẹ cháu, từ nay tạm để Hinh ở cùng gia đình cháu ít lâu. Nhà trường cũng đã đồng ý cho chúng cháu tự học là chính, đồng thời cử giảng viên dạy bù cho để chúng cháu khỏi bị lưu ban. Chúng cháu có thể cùng học và cùng giúp đỡ nhau trong sinh hoạt”.
                        Bà Kiều Doanh vốn định đón Hinh về Giang Nam nghỉ ngơi ít lâu, nhưng nghe Sảnh nói thế bà bèn hỏi ý con gái xem sao. Phải nghỉ học đã lâu, và cũng không muốn bị lưu ban nên Hinh đồng ý ngay, cô sẽ ở lại Giang Kinh để học bù.
                        Sau khi cùng ăn bữa trưa, cả ba người về nhà Sảnh. Cha mẹ Sảnh đều đang đi làm, bà Kiều Doanh trò chuyện tâm tình với con gái rồi rời khỏi nhà Sảnh đi tìm khách sạn, tiện thể mua ít quả cảm tạ gia đình Sảnh.
                        Bà Kiều Doanh vừa đi, Sảnh bèn nói ngay với Diệp Hinh: “Điều mà lần trước Hinh đề xuất, tớ đã hỏi cha mẹ tớ xem có nghe nói về nhân vật “Máy kéo” ấy không? Cậu đoán xem, cha mẹ tớ đồng thanh nói là “có biết”. Người ấy tên là Sầm Thiết Trung, một nhân vật nổi tiếng oai hùng ở Đại học Y Giang Kinh thuộc phái “tạo phản” hồi đó. Cha tớ khi còn ở trong trường thường chơi bóng rổ với ông ta, về sau cũng không có liên lạc gì nữa. Ông ta luôn rất sôi nổi, vẫn liên lạc với các bạn học cũ, nghe nói mấy năm trước đã đi khỏi bệnh viện Thâm Quyến mở công ty dược và dụng cụ y tế. Tớ đã nài nỉ mẹ tớ khẩn trương tìm số điện thoại của nhân vật này để chúng ta có thể đến hỏi thăm về các chuyện cũ”.
                        Sảnh ngừng một lát, cô lại quan sát vẻ mặt và ánh mắt của Hinh, rồi nghiêm túc nói: “Hinh ạ, cậu vừa mới ra viện thật, nhưng mình vẫn muốn đưa cậu đến ngay một nơi, cậu hãy hứa với mình là cậu nhất định sẽ kiên cường”
                        Hinh hơi ngạc nhiên, không rõ Sảnh lại bày trò kỳ quái gì đây. Cô cũng nghiêm túc nói: “Cứ yên tâm, nếu hỏi mình đã có thu hoạch gì sau những ngày nằm viện, thì nên nói là mình ngày càng can đảm hơn, mình chỉ e cậu còn phải phục mình ý chứ”. Nói đến câu cuối cùng, Hinh không nhịn được cười.
                        Sảnh thoáng buồn, rồi cùng Hinh ra khỏi nhà

                        Bước đến gần bậu cửa cao cao trước tòa nhà giải phẫu, Hinh hơi sững người, ngẩng đầu nhìn lên bầu trời bao la không một gợn mây, tâm trạng cô cũng rất thoải mái. Trước kia thường cảm thấy hình như luôn có một nỗi sợ hãi bao trùm lên căn phòng thực nghiệm giải phẫu, nhưng bây giờ thì ánh sáng chan hòa, nào có gì đáng sợ chứ? Nhưng khi nghĩ rằng còn vô số điều bí hiểm khó hiểu vẫn đang tồn tại quanh mình thì cô vẫn thấy hơi rờn rợn. Nhưng cô hiểu rằng phải can đảm tìm tòi khám phá thì mới có thể tìm thấy sự yên ổn thật sự cho tâm hồn và thể xác, cho dù phía trước còn có nhiều nỗi sợ hãi mà ta chưa biết. Thế rồi cô tiến lên trước, bước qua bậu cửa, bước lên thềm, đẩy cửa tiến vào.
                        Cả hai đi thẳng đến cuối hành lang, Sảnh gọi to: “Bác Phùng, chúng cháu đây mà”
                        Tiếng bước chân lệt sệt trong phòng chuẩn bị. Thấy Diệp Hinh, nét mặt ông Phùng tỏ ra thiếu tự nhiên, ông chỉ nói một câu: “Cô đã ra viện à? Tốt, rất tốt”. Rồi ông dẫn hai cô vào căn phòng nhỏ đối diện với phòng chuẩn bị. Hinh vẫn còn nhớ, chính trong căn phòng nhỏ này cô đã từng nhìn thấy cái tiêu bản cơ thể cực kỳ tinh xảo.
                        Ngoài dãy tủ kê áp tường ra, căn phòng nhỏ này không có thứ gì khác. Hinh đang ngạc nhiên thì ông Phùng đã khom người xuống. Dưới sàn có một cái vòng tròn để làm tay kéo, nó nằm ngang mặt sàn, rất ít gây chú ý. Ông Phùng mạnh tay nhấc lên “kẹt, kẹt”. Mặt sàn được mở ra, phía dưới là một bể chứa rộng đến hai chục mét vuông. Mùi thuốc bốc lên nồng nặc, khi ông Phùng dùng móc sắt móc lên một thi thể rữa nát, Hinh mới nhận ra rằng căn phòng này chính là một nhà kho chứa tử thi.
                        Lại một thi thể nữa được móc lên, rồi được xếp song song với thi thể kia trên một tấm cao su màu trắng. Ông Phùng thoáng nhìn Hinh, rồi lấy chìa khóa mở một cánh cửa tủ, lấy ra một túi đựng giấy tờ kiểu dáng như một chiếc phong bì. Ông lại nhìn Hinh, rồi nhìn Sảnh. Hình như ông đang có phần do dự. Thấy Sảnh khẽ gật đầu, ông Phùng mới mở túi lấy ra hai cuốn sổ nhỏ bìa đỏ, mở chúng ra rồi đưa đến trước mặt Hinh: “ Đây là thẻ sinh viên của hai người chết, cô nhìn hai tấm ảnh này xem”.
                        Hinh nhìn hai tấm ảnh, rồi bỗng thấy chóng mặt dữ dội. Cô đau khổ nhắm mắt lại. Một trong hai người chính là Tạ Tốn, nét mặt lộ rõ vẻ ngang tàng, bấy lâu nay vẫn bầu bạn sớm tối cùng cô, quyến luyến không rời. Còn người kia thì trầm tĩnh rắn rỏi, chính là anh chàng thư sinh Lệ Chí Dương lạnh lùng vẫn hay cặp kè bên Tạ Tốn.
                        Hai tấm thẻ lại ghi rõ họ tên: Tiêu Nhiên, Trịnh Kinh Tùng.
                        Hinh lại thoáng thấy nhức đầu, ông Phùng nói oang oang bên tai cô, hình như đang giải thích cho cô về những cơn ác mộng bấy lâu vẫn đeo bám cô.
                        “Hai cái xác này được đưa đến khu nhà giải phẫu sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1967. Sở công an giao việc khám nghiệm tử thi cho phòng nghiên cứu giảng dạy pháp y của trường ta. Thực ra cũng chẳng phải khám nghiệm gì nhiều vì cả hai đều là nhảy lầu, ở hiện trường cũng không có dấu vết vật lộn. Công an đã kết luận là tự sát. Điều chắc chắn là sau khi nhảy lầu, hai thi thể đã được chuyển ngay đến phòng nghiên cứu giảng dạy giải phẫu, vì trước đó cả hai đều ghi tên đăng ký tự nguyện hiến xác. Phòng chúng tôi luôn có ghi chép về từng thi thể loại này. Nhưng thường chỉ là một vài tư liệu liên quan, nhiều nhất là ghi họ tên. Có một số người nhà còn chọn giải pháp nặc danh. Nhưng hai người này thì không hề có người nhà đến tổ chức lễ tang, cho nên chỗ tôi đây trở thành nơi dừng chân cuối cùng của hai người và lưu giữ giấy tờ của họ. Thật là hết sức thê thảm!”
                        “Tại sao bác vẫn giữ nguyên xác của họ?” Hinh đau khổ ôm đầu mỗi lúc một nhức hơn, cô hỏi một cách khó khăn
                        “Hồi đầu tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ có người nhà đến nhìn mặt họ lần cuối. Và cũng vì việc giảng dạy năm đó không được bình thường, chưa thật cần đến tiêu bản của hai thi thể này. Về sau nghe nói Trịnh Kinh Tùng vốn là trẻ mồ côi, không có họ hàng thân thích. Tiêu Nhiên cũng không có người thân ruột thịt, chỉ có vợ chồng người bác thì một người đang ở tù, người kia đã qua đời hai năm trước đó. Thế rồi tôi quyết định xử lý hai thi thể này làm tiêu bản giải phẫu. Nhưng đã xảy ra một chuyện kỳ lạ.
                        Tôi vẫn quen xử lý tiêu bản vào ban đêm, nhưng trước kia thường bật đèn để làm. Giữa đêm hôm đó tôi chuẩn bị cưa xác của Tiêu Nhiên, lúc chuẩn bị cầm dao thì cả năm bóng đèn tuýt và một ngọn đèn rọi của phòng chuẩn bị bỗng tắt ngấm. Cùng lúc đó, một điệu nhạc tuyệt diệu vang lên, sau này tôi mới biết đó là “bản giao hưởng ánh trăng” của Bét-tô-ven. Tôi nhìn về hướng phát ra tiếng nhạc: chẳng biết từ lúc nào, trên sàn căn phòng chuẩn bị có một máy hát đang chầm chậm quay, bên cạnh còn có một chồng đĩa hát nữa. Tôi thận trọng bước đến, thấy một mảnh giấy chèn dưới máy hát, tôi cầm lên. Nhờ có ánh đèn ngoài hành lang, tôi nhìn thấy rất rõ chữ viết: “Rực rỡ dễ tan, thân lạnh dễ nát, hồng nhan dễ tàn, xương cứng dễ gãy. Trên thế gian chỉ có âm nhạc là vĩnh cửu. Xin người hữu duyên hãy nhận kỷ vật vĩnh hằng này”.
                        Tính tôi không nhút nhát, nếu không đã chẳng làm cái nghề này lâu như vậy. Nhưng đêm đó tôi đã sợ mất vía. Kể từ đó tôi không dám xử lý hai cái xác này nữa, song cũng từ đó tôi thay đổi thói quen – tôi chỉ xử lý các tiêu bản trong bóng tối, hoặc cùng lắm là nhờ ánh trăng hắt vào. Đương nhiên tôi không mê tín, nhưng sự việc đêm hôm đó khiến tôi nhớ đến các lời đồn đại rằng phần lớn các tiêu bản của phòng thực nghiệm giải phẫu là của các thành viên “tổ chức đặc vụ” có tên là “Nguyệt Quang Xã” – đều bị chết oan uổng cho nên họ biến thành ma quậy phá, dẫn đến việc ông Tang – sư phụ tôi phải xây một cái bậu cửa cao. Nói là để phòng các chất thuốc ướp tràn ra ngoài, nhưng thực ra là để trấn ma. Về sau nghe nói Tiêu Nhiên chính là thành viên cuối cùng của “Nguyệt Quang Xã”.
                        Cũng vì vậy mà tôi giữ chiếc máy hát đó – thấy mặt ngoài của chiếc máy có khắc chữ Tiêu – tôi đoán có lẽ nó là của anh sinh viên Tiêu Nhiên. Sau thời gian nghe hết chồng đĩa hát ấy, tôi cũng trở thành một người mê nhạc cổ điển, cho nên sau khi cô Sảnh nói với tôi rằng thực ra các thành viên của “Nguyệt quang xã” chỉ là những người thích nghe nhạc cổ điển, thì tôi không rõ là mình có cảm giác gì nữa.
                        Nhớ lại những năm trước kia, tôi luôn cảm thấy bầu không khí ở phòng giải phẫu luôn thấp thoáng một cái gì đó không bình thường, cụ thể là gì thì tôi không diễn tả ra được, nhưng nó là một cảm giác mơ hồ luôn khiến tôi phải nơm nớp lo sợ, nhất là sau 12h đêm thì thường có những âm thanh lạ lùng. Tôi tuy hơi thấy sợ nhưng vốn tính tò mò nên tôi vẫn chờ đến sau nửa đêm để biết rõ sự thật. Cứ thế mãi, rồi đâm quen. Nhưng cũng từ sau khi chiếc máy hát xuất hiện thì không có hiện tượng gì khác nữa, hai cái xác vẫn ngâm ở đây, tôi cũng không có ý định xử lý chúng nữa.
                        Cách đây bảy năm, cô sinh viên Thẩm Vệ Thanh đã đến phòng giải phẫu này vài lần vào lúc nửa đêm, trông cô ta cứ như người mất hồn. Tôi hỏi cô đến đây làm gì, thì cô ấy lại hỏi tôi các câu hỏi kỳ lạ: tôi có từng nghe nói về “Nguyệt quang xã” không? Có phải các thi thể của thành viên “Nguyệt quang xã” đều hiến cho phòng giải phẫu không? Bọn họ có còn hay không?.... khiến tôi nhớ ngay đến chiếc máy hát ấy. Tôi cân nhắc mất vài hôm, xem có nên kể với Vệ Thanh những điều tôi đã trải qua không. Tôi lo nhất là nếu tôi nói ra rồi, cô ấy sẽ hoảng hồn, rồi sẽ kể lại lung tung khiến tôi bị mang tiếng là reo rắc mê tín nhảm nhí. Tôi do dự mãi, nhưng rồi vẫn kể cho cô ấy biết câu chuyện về chiếc máy hát. Nào ngờ chỉ sau ít lâu, tôi nghe nói cô ấy đã đi viện tâm thần, rồi về sau lại nhảy lầu. Có người bảo cô ấy đã chết, người thì nói cô ấy vẫn còn sống.
                        Cho nên hôm cô Hinh gặng hỏi tôi về “Nguyệt quang xã”, thì trong lòng tôi rất không yên. Tôi chỉ sợ cô ấy lại đi vào con đường cũ của Thẩm Vệ Thanh. Nhưng tôi cũng nghĩ là không nên giấu điều gì, mặc dù tôi không muốn tùy tiện reo rắc những chuyện mê tín gì. Hôm đó coi như tôi đã hạ quyết tâm, nếu hai cô lại đến hỏi thì tôi sẽ kể với cô Hinh mọi chuyện mà tôi đã biết”
                        Sảnh bỗng kinh ngạc kêu lên: “Hinh ơi, cậu sao thế?”
                        Chỉ thấy Diệp Hinh người mềm oặt rũ xuống, may mà Sảnh đã kịp đến đỡ cô khỏi bị ngã. Hinh thấy đầu nhức như búa bổ, choáng váng, hình như đang bị quay trong một vùng xoáy nước, chìm nổi vật vã, và hình như hai chữ “ánh trăng” trầm trầm rót vào tai cô như muốn chọc thủng màng nhĩ. Mắt Hinh mờ dần đi, một màn tối đen thẫm bao phủ lên cái kho chứa xác nho nhỏ. Từ màn tối đen ấy, một cô gái áo trắng hiện lên trong làn ánh sáng trắng, và dần bước tới gần, cho tới khi Hinh nhìn rõ mồn một: một khuôn mặt nát đầm đìa máu tươi.
                        “Để mình đưa Hinh đi viện” Sảnh dìu Hinh ra ngoài
                        “Không cần đâu, mình chỉ hơi chóng mặt… có lẽ vì quá ngột ngạt… ngồi nghỉ một lát rồi sẽ ổn mà” Hinh biết phòng y tế chẳng phải là nơi cô có thể giải quyết được vấn đề.
                        Sảnh dìu Hinh đi đến một phòng học, bảo Hinh ngồi xuống rồi khẽ nói: “Hinh hãy ngồi nghỉ một lát, mình sẽ sang hỏi xin bác Phùng mấy viên nhân đan hoặc lọ dầu gió gì đó để giúp cậu đỡ khổ sở đã!”
                        Khi Sảnh và bác Phùng quay trở lại, thì không thấy bóng Hinh đâu nữa.


                        Sau hôm bị trúng gió, bà Uông Lan San được đưa đi điều trị tại khoa tim mạch bệnh viện số 2 trực thuộc đại học Giang Kinh. Bệnh viện này ở cách trường năm bến đỗ xe buýt. Hinh ngồi xe đi đến đó, xin tấm thẻ vào thăm bệnh nhân San. Cô đi thẳng đến khoa tim mạch ở khu nhà 8 tầng, bước vào buồng bà San đang nằm. Bà ta đang nhắm mắt, chẳng rõ đang dưỡng thần hay đang ngủ.
                        Hinh ngồi lên chiếc ghế kê bên giường, hồi lâu cô vẫn chưa bình tâm lại được. Rõ ràng là có vô số hiện tượng chứng tỏ mình đã nhìn thấy những sự vật mà người khác không thể cảm nhận được. Đó là hình bóng hai con người đã chết. Họ muốn làm điều gì? Và điều khiến Hinh càng không thể tin, là mình và một linh hồn đã yêu nhau, hơn nữa còn yêu nhau rất sâu nặng. Dù đã biết đây là sự thật rất hão huyền thì cô vẫn không đủ sức để bứt ra. Thực hết sức đáng buồn. Nước mắt cô lặng lẽ tuôn trào.
                        Và cũng thật nực cười. Ngu xuẩn và ấu trĩ nữa. Khỏi cần nghĩ nhiều, Hinh cũng có thể hình dung cuộc sống bốn năm đại học tới đây sẽ có bao nhiêu lời đàm tiếu chê cười sau lưng cô.
                        Bốn năm, liệu có bốn năm nữa không đây?
                        Ngày 16 tháng 6 ngày càng đến gần, và càng thấy rõ ràng mình là nạn nhân được “lựa chọn” cho năm nay. Những nữ sinh bị lựa chọn trong suốt 16 năm qua, không một ai thoát. Mình nào có năng lực đặc biệt gì để mà tránh được cái nạn này đây?
                        Hy vọng đã mỏng manh như thế, tại sao mình còn dềnh dàng ngồi đây thở dốc, bấm đốt ngón tay xem còn mấy ngày nữa? Sao không tìm cách phá tan điều mê tín này, để sớm từ giã cái vận mệnh bất đắc dĩ này?
                        Trời dần sẫm lại. Hinh bất giác ngẩng nhìn cánh cửa sổ lớn của buồng bệnh nhân. Hinh bỗng thấy mình có thể hiểu được cái quyết định cuối cùng của Tiêu Nhiên: khi con người ta không thể làm chủ số phận, khi muôn vàn cái tốt đẹp đã tiêu tan, thì tội gì lại không phủi tay để ra đi?
                        Hinh bước lại gần cửa sổ, dưới kia là cái sân nhỏ để cho bệnh nhân đi dạo. Thấy vài bệnh nhân, người thì chống nạng, người thì ngồi xe lăn, người thì chân đất… dường như sự sống đang dần rời xa họ.
                        Sự sống cũng đang rời xa mình.
                        Hinh mở cửa sổ, đứng lên thềm cửa.
                        “Cô có cảm thấy rằng càng hiểu biết nhiều thì càng tiến gần đến cái chết không?” Tiếng bà Uông Lan San bỗng từ phía sau vọng đến. Câu nói này bỗng thức tỉnh Diệp Hinh. Cô thấy mình đang đứng trên bậu cửa sổ tầng 8, chơi vơi trước gió, có thể hụt chân rơi xuống bất cứ lúc nào. Toàn thân cô bỗng râm ran sởn da gà, cô vội nhảy ngay xuống, chạy vào căn buồng bệnh nhân, rảo bước đến trước giường bà San hỏi gay gắt: “Vừa rồi bà làm cái trò gì thế?”
                        Bà San vẫn nằm trên giường, vì đang phải truyền dung dịch thuốc nên không thể thoải mái cử động. Hinh bỗng mủi lòng, vì thấy bà ta già yếu như thế này không nỡ trách móc. Vẻ mặt bà San hiện rõ nét vừa như vô tội vừa như đang thương hại: “Tôi có làm gì đâu? Tôi chỉ nhắc cô, cô không thoát được đâu!”.
                        “Bà càng nói cái luận điệu về định mệnh thì cháu càng không tin”. Giọng Hinh lại trở nên gay gắt: “Cháu đến để hỏi bà, có phải bà đã đến tầng dưới của tòa nhà giải phẫu hay không?”
                        “Đó là một trong những thánh địa của các thế lực thần thánh quái đản, sao lại có thể chưa từng đến? Nhưng tôi thực sự chẳng mấy hứng thú với cái nơi đó, tôi chỉ đến có một lần, vào mùa thu năm 1981 thì phải”
                        “Bà hãy nói cho cháu biết, tại sao chỉ có cháu và bà nhìn thấy Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng?”
                        Bà San nghển người dậy, nhìn thẳng vào đôi mắt vừa bi thương vừa giận dữ của Diệp Hinh, lắc đầu: “Tôi không biết, tôi có thể nhìn thấy rất nhiều thứ mà người khác không nhìn thấy, nhiều bác sĩ đã nói đó là ảo giác, tôi nghĩ, chắc chắn đó là ảo giác. Những thứ cô nhìn thấy cũng là ảo giác. Cho nên, không phải tôi và cô có thể nhìn thấy họ, mà là tôi và cô tự cho rằng mình có thể nhìn thấy họ”
                        “Cháu không hiểu”
                        “Cô rất thông minh kia mà, sao lại không hiểu chứ? Cái mà chúng ta nhìn thấy là hình ảo ảnh. Cô nói xem, hình ảnh ảo - ấy từ đâu ra?” Bà San khéo léo dẫn dắt.
                        Hinh ngây người, rồi giơ ngón trỏ chỉ vào trán mình.
                        “Đúng, họ ở trong đầu cô hay có thể nói là trong lòng cô, tôi không dám khẳng định. Tôi chỉ suy luận lôgic mà thôi”. Bà San lại nằm xuống “Bây giờ đến lượt cô cho tôi biết anh ta tên là gì?”
                        “Cháu vẫn chưa dám khẳng định, có lẽ tên là Tiêu Nhiên”. Hinh thấy mũi cay cay. Anh ta đã trở thành một nỗi ám ảnh trong cô.
                        “Không sao, tên chỉ là một thứ tín hiệu”
                        “Nhưng tại sao cháu lại nhìn anh ta thành Tạ Tốn chứ không phải ai khác?”
                        “Cô nghĩ kỹ xem, trước khi Tiêu Nhiên xuất hiện thì cô có ấn tượng về Tạ Tốn thật không?”
                        Hinh cố tập trung nghĩ ngợi. Nếu theo lý luận của bà San thì nên giải thích ra sao? Cùng học chung với lớp C, thường xuyên nhìn thấy hai anh chàng ấy thân nhau cứ như Giả bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc thì đám nữ sinh không xì xào bình phẩm sao được? Quan sát mãi đôi “tình nhân” ấy, tiềm thức của mình sẽ lưu giữ ấn tượng về Tạ Tốn và Lệ Chí Dương. Thậm chí chỉ nghe người khác nhắc đến, dù mình đã quên tên họ rồi, thì các thông tin ấy vẫn lưu lại trong đầu.
                        “Những hình ảnh ảo trong đầu cô cùng tồn tại với cái ấn tượng này, thế là nó tận dụng luôn hai cái tên Tạ Tốn và Lệ Chí Dương. Quan hệ của hai người này song đôi và trùng khít với tình cảm giữa Tiêu Nhiên và Kinh Tùng”. Bà San tiếp tục phân tích. “Vì những hình ảnh ảo ấy tồn tại, nên cô mới liên hệ chúng với Tạ Tốn và Lệ Chí Dương, nên cô mới nghe thấy tiếng hát của Tiêu Nhiên, nên cô mới nghe thấy những âm thanh rùng rợn ở trạm phát thanh, rồi cô lại nhìn thấy ông kỹ thuật viên ở phòng giải phẫu bị cưa thây làm tám khúc, và cô cùng hò hẹn với Tiêu Nhiên cùng đi dạo ở vườn hoa bệnh viện tâm thần”
                        Tuy thế, Hinh vẫn phải cố giữ cho tỉnh táo để suy nghĩ.
                        “Theo như bà nói, thì tại sao hai người kia lại xuất hiện trong đầu hoặc là trong lòng cháu? Bà cũng từng đến nhà giải phẫu của trường cháu, xác của họ cất trong đó, vậy cháu có thể suy luận rằng linh hồn của họ đang ở trong nhà giải phẫu, bà và cháu đến đó, họ đã chui vào trong lòng chúng ta – nhưng tại sao lại là cháu?”
                        “Vì cô là một tín đồ. Cũng như tôi. Cho nên chúng ta mới gán ghép cho những linh hồn này”
                        “Không đúng, xưa nay cháu chưa từng tin điều này. Rõ ràng là những điều kỳ dị xảy ra quanh mình đã thôi thúc cháu đi tìm hiểu”
                        “Nhưng cô luôn tin rằng mình có liên quan đến “vụ án mưu sát 405”, đúng không? Cho nên cô là một tín đồ, niềm say mê với các vụ án nhảy lầu đã khiến cô mở rộng lối vào não bộ để cho các điều dị thường thoải mái xâm nhập”
                        Hinh trầm ngâm nghĩ ngợi, soi xét kỹ các câu nói của bà San: “Bà nói cũng hơi có lý, vậy bà cũng là một tín đồ, cho nên bà có thể nhìn thấy họ, họ cũng cư trú trong lòng bà, đúng không? Nhưng chẳng lẽ họ đã nói gì với bà à? Tại sao bà nói cháu không thể tránh thoát? Lúc nãy cháu đứng lên bậu cửa sổ, chẳng lẽ cũng là do họ bày trò hay sao?”
                        “Cô hỏi nhiều quá, cũng oái oăm nữa. Tôi chẳng biết trả lời ra sao. Nhưng cô không thể thoát, mỗi bước đi của cô đều phải theo kế hoạch của họ” Bà San bỗng lên cơn ho dữ dội.
                        Hinh sửng sốt: “Tại sao lại nói thế? Chẳng lẽ bà biết cả những ý nghĩ của họ? Kế hoạch của họ là gì? Là bắt cháu trở thành nạn nhân thứ 13 hay sao? Để cháu nghĩ xem nào… Phải chăng chính họ đã tạo ra những hình ảnh ảo, khiến mọi người đều coi cháu là bệnh nhân tâm thần phân liệt? Chính họ đã tạo cho cháu hy vọng bỏ trốn khỏi trường, rồi lại cho cháu nghe nhiều thứ âm thanh khủng khiếp, để cháu phát điên thực sự? Phải chăng chính họ đã để cho bà nhiều lần nói với cháu những lời đe dọa, khiến cháu phải đi viện tâm thần làm một bệnh nhân thực sự? Và ngày 16 tháng 6 sắp đến gần, phải chăng họ… Trời đất ạ, phải chăng họ đã thông qua bà, để trừ bỏ bác sĩ Đằng Lương Tuấn – người đang cản trở cháu ra viện? Và, khi bà đột ngột trúng phong cũng là vì bà đang vẽ ra hình hài của họ, họ trừng phạt bà đã tiết lộ nhiều bí mật về họ?”
                        Bà San gật đầu, nhưng lại lắc đầu lia lịa, và thở gấp gáp: “Sao cứ phải hỏi lắm thế? Đã biết là có nhiếu sự việc không thể cưỡng lại, thì sao cô không tranh thủ hưởng thụ những ngày ít ỏi còn lại?”
                        Hinh lại sửng sốt. Đúng thế, bà San hầu như thừa nhận những điều suy đoán này, xem ra mình nằm trong “kế hoạch” của họ thật.
                        Lẽ nào đây là số phận thật ư?
                        “Đúng, cô không thể thoát được” Bà San khẽ nói
                        Có lẽ, cách phá vỡ kế hoạch ngày 16 tháng 6 chính là: Mình phải kết liễu vào giờ phút này.
                        Hinh gần như vội vã trèo lên bậu cửa sổ, phía dưới kia vẫn là những bệnh nhân không có mấy sức sống, thêm một người nữa thì đã sao?
                        Hinh xác định rõ ràng trong đầu, cô sắp nhảy xuống thì phía dưới sân bỗng xuất hiện một bóng người thân quen với bộ váy trắng, cô nhận ra chính là Âu Dương Sảnh.
                        Hình như đã biết Hinh đang đứng ở bậu cửa sổ, Sảnh nhìn lên, lắc đầu.
                        “Diệp Hinh, cậu mau xuống ngay” Bỗng có tiếng Sảnh gọi từ phía buồng bệnh nhân.
                        Hinh kinh hãi, cúi nhìn xuống dưới: bóng Âu Dương Sảnh đã biến mất. Cũng như ý định nhảy lầu của cô đã vụt tan biến.

                        Trên đường trở về trường, Sảnh ai oán: “Hinh ạ, suýt nữa thì bà già ấy đã hại cậu. Theo mình thì việc này phải báo công an, tại sao cậu lại tha cho bà ta?”
                        Hinh nói chầm chậm: “Báo công an thì có ích gì? Đúng là bà San hành động hết sức quái dị lạ lùng, nhưng mình quan sát thấy rằng những khả năng khác thường của bà San không phải của chính bà ấy. Nói cách khác, chính bà ấy không thể kiểm soát được bản thân”
                        “Ý cậu là, có kẻ đang điều khiển bà San? Hoặc là có ma nhập vào người bà ấy? Cũng hơi có lý đấy” Sảnh có vẻ phấn chấn
                        “Gì mà ma nhập? Tớ chẳng tin những chuyện như thế! Nếu có thì là do ở đây” Hinh chỉ tay vào trán. “Cậu còn chưa cho tớ biết tại sao cậu lại đến đây? Nếu cậu không đến đúng lúc ấy thì có lẽ tớ đã thành tiên rồi. Từ nay tớ mắc nợ cậu một mạng sống rồi đấy”
                        “Đừng nói thế, nghe sợ chết khiếp. Tớ yêu cầu cậu đừng chạy lung tung nữa, kẻo mẹ cậu sẽ không đồng ý cho cậu ở nhà tớ nữa. Thực ra là, bỗng nhiên không thấy cậu đâu, tớ ngẫm nghĩ thì biết ngay là cậu đi tìm bà San, vì cậu từng nói là bà ấy có thể nhìn thấy hai bóng người trong đầu cậu, cũng có thể nói là Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng. Cậu chưa từng liên hệ hai bóng người ấy với các nhân vật trong cuốn nhật ký kia, cho nên khi nhìn thấy hai thi thể ấy cậu sẽ nghĩ đến. Hai “người” này định làm gì? Họ có liên quan đến “vụ án mưu sát 405” hay không? Có lẽ chỉ bà San mới có thể giải đáp được các vấn đề này cho cậu.
                        Tớ đoán rằng việc bà San bỗng nhiên bị trúng phong khá nặng ở bệnh viện tâm thần, thì sẽ được điều trị tại bệnh viện trực thuộc số 1 hoặc số 2. Tớ bèn gọi điện cho mẹ tớ đang làm ở bệnh viện số 2, mẹ tớ tra ngay ra bà San đang nằm ở buồng nào”. Sảnh nói hơi có phần đắc ý.
                        “Kể cũng kỳ lạ, lúc tớ đứng trên bậu cửa sổ thì thấy cậu đang ở dưới sân, và còn lắc đầu với tớ. Nhưng – gần như là đồng thời – tiếng cậu lại vang lên ở trong buồng bệnh. Tình huống này giống như cảnh tớ đã gặp trong một giấc mơ. Có lẽ tớ lại có ảo giác mất rồi! Sảnh hãy mau đưa tớ vào viện tâm thần đi thôi!”. Nói đến câu cuối, Hinh tủm tỉm cười, rõ ràng là cô đang đùa
                        “Tớ không làm! Mà dù có đưa cậu vào, thì họ cũng phải cần cậu đã chứ. Tớ cho rằng đúng là có một số chuyện kỳ lạ không dễ mà giải thích bằng các lý lẽ thông thường đã xảy ra với cậu, có lẽ đều do Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng gây ra cũng nên. Tớ còn chưa kịp cho cậu biết: hồi cách mạng văn hóa, ký túc xá số 13 dành cho sinh viên nam ở. Mẹ tớ bảo thế.”
                        Hinh bỗng dừng bước: “Thật à? Vậy thì có thể Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng đã ở phòng 405. Xem ra nếu chúng ta tin rằng những chuyện lạ không dễ giải thích bằng các lý lẽ thông thường ấy là có thật, thì có lẽ hai người này thấy mình bị chết oan nên mới không ngớt quậy phá trêu ngươi. Cách chết của các nữ sinh trong bao năm qua cũng trùng với họ, đều là nhảy lầu”
                        “Dù sao nó cũng không cho phép tớ không tin. Trước tiên hãy nói về các chuyện khó mà giải thích nổi ấy có tồn tại hay không? Thầy Chương Vân Côn vốn nhất định không tin, nhưng sau khi tìm hiểu cuốn băng ghi âm ở trạm phát thanh, đã tin đến tám phần rồi. Chính thầy Côn và sư phụ Từ Hải Đình đã nói chuyện với nhau rất lâu, rồi mới chính thức quyết định cho cậu ra viện. Tớ thấy giả thiết vừa rồi của cậu là quá hợp lý, nếu không làm gì có chuyện trùng hợp đến thế? Thầy Côn đã nghiên cứu thấy rằng các nữ sinh ngày trước nhảy lầu, trước đó đều đã từng đến khu nhà giải phẫu lúc nửa đêm. Cuốn nhật ký của Tiêu Nhiên cho thấy đã từng có chuyện oan hồn của “Nguyệt quang xã” gây rối. Tiếp tục suy luận, thấy rằng anh ta là đệ tử cuối cùng của “Nguyệt quang xã” , sau khi chết gây rối cũng không có gì là lạ!”
                        “Nói như thế, kết hợp với các lý luận kỳ cục của bà San, thì cách gây rối của anh ta là thâm nhập lòng người, thao túng họ, khiến cho họ nảy sinh ảo giác rồi có các hành vi trái lẽ thông thường. Cách trực tiếp nhất, có hiệu quả nhất là để cho các nữ sinh phải đối mặt với hàng loạt ảo giác, cảm thấy mình là nạn nhân đã được “lựa chọn”, thực ra chỉ là bị ám thị hoặc thôi miên. Giống như vừa nãy tớ ở trong buồng bệnh của bà San, tớ đã mất tự chủ để đi đến chỗ tự hủy diệt”. Hinh thấy rùng mình ớn lạnh.
                        “Này, luận điệu của cậu hơi giống với thầy Côn, tớ thấy hơi có lý đấy”
                        “Muốn lần ra gốc rễ, có lẽ vẫn phải tìm hiểu xem sáng sớm ngày 16 tháng 6 năm 1967 đã xảy ra những chuyện gì?”
                        “Suy đoán từ đoạn nhật ký ghi ngày cuối cùng, thì Tiêu Nhiên muốn gặp Y Y, nếu chị ta đến, hai bên thành thực giãi bày, thì anh ta sẽ có ý chí mạnh mẽ để tiếp tục sống. Chúng ta đã biết anh ta lựa chọn cái chết, thì rõ ràng là Y Y không đến”
                        Hinh thở dài, ánh mắt cô hơi thẫn thờ “Thực ra tớ cũng đoán là thế. Rành rành là cái bài hát “Chờ đợi, chờ đợi” đã ghi lại câu chuyện đó. Tại sao tớ lại có thể nghe thấy bài hát này? Và nếu đúng là anh ta ngầm thể hiện rằng sẽ giết người thì thực ra anh ta muốn đạt được cái gì? Nếu giết người để trả thù, thì các nữ sinh kia và cả tớ nữa, nào có oán thù gì với anh ta? Anh ta làm thế sẽ là không hợp tình hợp lý” Hinh không muốn đánh đồng Tạ Tốn trong tâm trí cô và cái linh hồn có dã tâm sát nhân kia.
                        “Có lẽ anh ta bụng dạ dẹp hòi, cho rằng chị Y Y kia bán đứng mình, cho nên anh ta mới tạo ra thêm các oan hồn để truyền thông tin phẫn nộ”
                        “Nếu đúng là thế thì hành vi ấy cực kỳ xấu xa. Giờ đây điều mình suy nghĩ nhiều hơn cả là phải hóa giải cái vận hạn khó tránh này như thế nào?”
                        Sảnh ngẫm nghĩ, rồi nói: “Muốn tháo chuông, hãy tìm người treo chuông. Theo mình thì phải tìm ra nhân vật Y Y, có thể sẽ được việc cũng nên. Lúc nãy mẹ mình gọi điện, nói là đã hỏi được số điện thoại của nhân vật Máy Kéo. Chúng mình sẽ gọi cho ông ta”
                        #27
                          PhongAnh 07.11.2006 15:35:12 (permalink)
                          Chương 25

                          Y Y



                          “Xin mạo muội làm phiền bác Sầm, cháu là Âu Dương Sảnh. Bố mẹ cháu là Âu Dương Diên Khánh và Lương Chí Quân. Cháu đang học ở Đại học Y Giang Kinh”. Vừa về đến nhà Sảnh đã gọi điện cho “Máy kéo” Sầm Thiết Trung. Sảnh cầm một ống nghe khác để hai người nói chuyện.
                          Có vẻ như ông Trung hơi ngạc nhiên “Chào cháu. Cháu có việc gì không? ”

                          “Cháu muốn hỏi thăm bác về một người”.
                          Giọng ông Trung xởi lởi: “Đừng ngại gì, nếu biết thì bác sẽ nói với cháu”.
                          Theo miêu tả của cha mẹ, Sảnh có thể hình dung ra một vị trung niên cao lớn đĩnh đạc.
                          “Y Y đang ở đâu? ”
                          Ông Trung “Ơ” một tiếng, rồi nói ngay “Có lẽ cháu đã nhầm chăng? Bác không quen ai là Y Y cả”. Ông ta quả là người đã lăn lộn trên thương trường. “Bác đúng là nhân vật quan trọng hay quên chuyện cũ! Năm xưa khi bác thực tập ở bệnh viện tiền tuyến, trong tổ có một cô gái mà bác say mê, cô ấy tên là Y Y.”
                          Đầu dây bên kia im lặng một hồi, cuối cùng ông Trung nghèn nghẹn hỏi: “Các cô được hỏi thẳng cái tên Y Y hay sao? Không, không phải, ý bác là các cháu nghe được chuyện này ở đâu thế?”
                          Âu Dương Sảnh lạnh lùng đáp: “Là bác Tiểu Nhiên nói cho cháu biết.”
                          Lại im lặng một hồi lâu, ông Trung gần như tự lẩm bẩm một mình: “Không… không thể. Anh ấy đã đi từ lâu rồi.”
                          Sảnh lạnh lùng nói: “Hình như bác có phần xúc động. Có phải trước kia bác từng làm những việc không phải với ông Tiêu Nhiên không?”. “Cô có biết mình đang nói gì không?”
                          “Nguyệt Quang. Bác có nghe nói gì về Nguyệt Quang không?”
                          “Lẽ nào... cô biết thật ư? Rốt cuộc Tiêu Nhiên có chết thật hay không?”
                          “Quả đúng là bác. Ngày ấy ở bệnh viện tiền tuyến bác đã o ép Y Y phải hợp tác với tổ điều tra rồi khai ra Tiêu Nhiên là thành viên của Nguyệt Quang xã, và ép chị ấy tránh xa Tiêu Nhiên, đúng không? Vì Y Y lần lữa không đến, Tiêu Nhiên đã hoàn toàn thất vọng, rồi nhảy lầu tự sát vào sáng sớm ngày 16/6. Vật cản lớn nhất ngăn cản bác theo đuổi Y Y đã biến mất, và từ đó bác có thể rất đắc ý chứ gì?”
                          Sảnh thấy mình phân tích rất hợp tình hợp lý, lòng cô dâng lên nỗi căm giận “Máy Kéo” đang ở đầu dây bên kia.
                          “Gì thế? Cô đang nói linh tinh gì vậy?” Ông Trung cũng điên tiết, nhưng rồi lại nghĩ ra là đang đối thoại với một cô gái mới lớn, giọng ông bình tĩnh trở lại. “Những điều cháu Sảnh nói, đều khác xa với sự thật. Năm xưa bác còn trẻ dại, đúng là đã làm thủ lĩnh của một nhóm trong phái “tạo phản” ở đại học Y Giang Kinh, cũng từng khao khát Y Y nhưng vẫn rất tôn trọng cô ấy. Cô ấy vẫn luôn giữ một khoảng cách với bác, tuy bác tồi thật nhưng cũng không hề làm điều gì quá đáng. Bác cũng không hề tham dự các hoạt động của tổ điều tra. Cháu nghĩ mà xem: Y Y ghét bác, đời nào cô ấy lại nghe theo bác để rồi khai ra việc Tiêu Nhiên đã tham gia “Nguyệt Quang xã”. Bác đâu có sức mạnh để ngăn cản Y Y và Tiêu Nhiên gặp nhau. Bác biết đúng là tổ điều tra đã gây sức ép rất dữ đối với Y Y, nhưng bác tin rằng mình hiểu Y Y là người rất tốt, cô ấy yêu Tiêu Nhiên sâu nặng, dù bị o ép không cho tiếp tục quan hệ với Tiêu Nhiên thì Y Y cũng quyết không bán đứng anh ấy. Đương nhiên... lúc đó hình như cô ấy cũng rất mâu thuẫn, luôn thấy hoang mang, rất có thể sẽ bị tổ điều tra lợi dụng. Có thể đã xảy ra những chuyện gì thì bác không có quyền phát biểu”.
                          “Cháu sao có thể tin lời bác nói”. Sảnh thấy ông Trung nói không phải là không có lý.
                          Cháu có thể đi mà hỏi Y Y. Ông Trung không nghĩ ngợi nói luôn. Nói rồi ông mới nghĩ ra rằng hình như đây mới là mục đích gọi điện thoại của Sảnh. Ông im lặng một hồi lâu. Sảnh chờ đợi, cô không nén được nữa: “Chắc chắn bác phải biết tình hình cô Y Y hiện nay, đúng không ạ?”
                          Rốt cuộc ông Trung cũng trả lời: “Lần này thì cháu đã nói đúng rồi. Nhưng đây là chuyện đời tư, có lẽ bác không thể cho cháu biết. Và tại sao bác phải cho cháu biết chứ?”. “Vì vụ mưu sát 405. Bác vẫn có liên lạc với các bạn học cũ, chắc bác có nghe nói. Phòng ký túc xá 405 là nơi Tiêu Nhiên đã từng ở, bác ấy đã nhảy lầu từ nơi ấy, bác không thể không biết. Lẽ nào trải qua bao năm bác không có chút nghi ngờ về những điều kỳ lạ ẩn chứa trong đó? Y Y nghĩ sao? Chắc cô ấy sẽ không cho rằng chỉ là một sự trùng hợp?
                          Ông Trung “a” lên một tiếng rồi nói: “Bác có nghe nói về vụ 405, nhưng vẫn tin rằng đó là những sự trùng hợp. Theo bác được biết, Y Y không hay biết những chuyện này.
                          Y Y tên thật là Khổng Phồn Di, tuy cùng là sinh viên khóa 63 nhưng không cùng lớp với Tiêu Nhiên mà lại cùng lớp với Sầm Thiết Trung. Sảnh đã nói gần như cặn kẽ với ông Trung về những suy đoán của của cô với “vụ án mưu sát 405” và “Nguyệt Quang xã”, và cả mọi phân tích về tình trạng của Diệp Hinh mới khiến ông Trung rất kín đáo này phải mở máy nói.
                          Ông Trung nói: “Năm 1967 Khổng Phồn Di bị điều tra o ép dữ dội kéo dài đã có dấu hiệu suy sụp tinh thần từ trước khi Tiêu Nhiên tự sát. Dưới sự giúp đỡ của tổ điều tra và phái tạo phản, Y Y buộc phải tuyên bố vạch rõ ranh giới với Tiêu Nhiên. Sau khi biết tin Tiêu Nhiên tự sát, Y Y đã mắc chứng trầm cảm nghiêm trọng, phải ngừng thực tập ít lâu. Về sau cô cùng nhiều sinh viên đi lao động ở nông trường của bộ đội sau đó đi làm bác sĩ ở một thị trấn nhỏ tại Hoán Nam. Đầu những năm 70 do cô có trình độ cao, cô được điều lên bệnh viện cấp thành phố tại vùng Bang Phu. Năm 1980 cô học nghiên cứu sinh tại bệnh viện Hiệp Hòa, Bắc Kinh, sau khi tốt nghiệp đã công tác ở Bắc Kinh hai năm rồi sang Mỹ học nghiên cứu sinh tại một trung tâm y học, đề tài chính là thực nghiệm lâm sàng về khối u não. Từ đó Y Y đi khắp các nước Âu Mĩ để nghiên cứu khoa học, có nhiều thành tích trong lĩnh vực u não.
                          Thực ra, tôi biết Y Y xa quê hương đi khắp bốn phương, hầu như không quan hệ với các bạn học cũ thậm chí - sống xa chồng trong khoảng thời gian dài như Ngưu Lang Chức Nữ là vì sự nghiệp đang lên phơi phới, nhưng đúng ra là vì né tránh - cô ấy vẫn không thể đối mặt với những chuyện xưa bi thảm”. Ông Trung đang thổ lộ những điều dồn nén trong lòng bấy lâu, trước khi cảnh cáo Sảnh không được xốc nổi tùy tiện hành động.
                          Phồn Di không bắt tay hòa giải với Thiết Trung để trở thành bạn bè thân thiết. Trên thực tế hầu như chị đã đoạn tuyệt quan hệ với tất cả các bạn học cũ. Nhưng vì chị là cô gái duy nhất mà Thiết Trung thầm yêu trong đời, nên ông vẫn mang trong lòng một niềm say mê, ông vẫn cố gắng dò hỏi tình hình của Phồn Di và biết rằng chị đã kết hôn với một bác sĩ tốt nghiệp đại học Y Giang Kinh cũng được phân công đến Hoán Nam công tác. Tuy chị phiêu bạt khắp nơi nhưng nhà vẫn ở Giang Kinh. Có điều ông không biết làm thế nào mới có thể liên lạc được với chị. Cuối cùng, ông cho biết một thông tin cách đây không lâu, trong một lần tìm kiếm tư liệu y học ông biết có một bài nghiên cứu của Khổng Phồn Di xuất phát từ một viện nghiên cứu của Thụy điển.
                          Đặt ống nghe xuống, Sảnh và Hinh lập tức đến ngay thư viện trường để dò tìm tài liệu ghi chép. Lần theo hướng ông Trung nói, hai cô tìm ra tên tiếng Anh của Phồn Di là Faye Ro. Ông Trung đã nói đúng: Phồn Di đang ở Thụy điển.
                          Ngày 16/6 đã cận kề ngay trước mắt, cơ hội gặp Phồn Di hết sức mong manh. Và dù cso gặp thì liệu Phồn Di có thể giúp gì được không? Nói là “muốn tháo chuông, phải tìm người treo chuông” nhưng sẽ tháo cái chuông ấy ra sao? Tuy nhiên cả hai vẫn gọi điện ra nước ngoài theo số điện thoại của tác giả đã ghi rõ trong bài viết. Nữ thư ký phòng thí nghiệm của Phồn Di đang ở đầu dây bên kia, trả lời rằng gần đây tiến sĩ Di đã về Trung Quốc.
                          “Làm thế nào để liên lạc được với cô ấy?”
                          “Chị ấy có để lại số điện thoại nhà riêng để gọi khi cần thiết. Nhưng đây là thông tin cá nhân, tôi không tiện cho các vị biết. Nếu cần các vị cứ fax cho tôi, tôi sẽ fax lại cho chị ấy”.Người trợ lý của Phồn Di ở Thụy Điển trả lời.
                          Hinh và Sảnh cũng soạn một bức thư viết bằng tiếng Anh, nói rằng Diệp Hinh là một sinh viên y khoa, rất thích các bài nghiên cứu của tiến sĩ Di, mong có dịp được bà giúp đỡ để sau này quyết chí phấn đấu phụng sự cho nghiên cứu khoa học. Trong thư nói rõ mình đang học ở đại học Y khoa số một Giang Kinh nêu thuận tiện có thể gặp mặt ở một địa điểm nào đó. Hai cô cố ý giấu rằng mình học ở đại học Y số hai Giang Kinh vì sợ bà nhạy cảm phải nghĩ ngợi. Gửi fax đi rồi cả hai vẫn cảm thấy khả năng gặp bà Di gần như là con số không. Không ngờ Phồn Di lại trả lời ngay nói rằng bà rất vui khi biết có sinh viên trẻ tự nguyện lao vào sự nghiệp nghiên cứu y học và ngạc nhiên vì Hinh biết nhiều về các nghiên cứu của bà. Bà nói mình không có văn phòng tại Giang Kinh nên chỉ có thể gặp gỡ ở bên ngoài.
                          14h NGÀY 13 THÁNG 6.
                          Sau khi tân trang sáng sủa, hiệu sách Tân Hoa ở Giang Kinh đã mở cửa trở lại. Không chỉ cửa kính bàn ghế bóng lộn khắp lượt mà các loại sách và văn hóa phẩm cũng rất hào nhoáng bắt mắt. Tầng trên cùng còn bố trí bàn trà để độc giả mê sách có thể ngồi uống, đồng thời nhẩn nha xem sách. Hai bên hẹn gặp nhau vào lúc 3h chiều, nhưng chỉ ít phút sau buổi trưa, Sảnh và Hinh đã lên phòng trà, ngồi xuống chiếc bàn nhỏ, khắc khoải chờ đợi.
                          Chắc Y Y bí hiểm này sẽ không thất hẹn chứ nhỉ? Thử đoán xem, chữ R tên tiếng Anh của cô ấy (Faye Ro) có ý nghĩa gì không?. Lúc không có người lạ đứng bên, Sảnh hỏi Hinh: “Tớ biết cậu lại đang động não rồi đây. Chắc cậu định nói rằng đó là chữ cái đầu tiên phiên âm chữ Nhiên, đúng không? Tớ đã tra cứu một bài nghiên cứu khác của cô ấy, chữa R trong tên tác giả bài viết là viết tắt của tên đầy đủ là chữ Rem. Kể cũng lạ, vì đây không phải là tên người, khi đọc lên hơi giống Ran nhưng rõ ràng không phải. Nếu không sử dụng Ran thì càng chuẩn sai mà. Tớ đoán Rem là 3 chữ cái đầu tiên của từ Remember (nhớ) và có hai ý đan xen vừa là nhớ nhung vừa ngầm chỉ người mà cô nhớ nhung là Ran.
                          Sảnh không ngớt tâm đắc tán thành: “Diệp Hinh siêu thật. Cậu đã không uổng công đọc truyện trinh thám của Agstha mà tớ cho mượn. Nói có lý lắm”.
                          Hinh tập trung suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: “Nhưng nếu thế thì tại sao cô ấy lại bán đứng Tiêu Nhiên? Cô ấy có tình cảm sâu nặng với Tiêu Nhiên như vậy, cho đến tận bây giờ vẫn nhung nhớ không nguôi, và lại về nước trong dịp này, liệu có phải ý tưởng niệm Tiêu Nhiên không?”
                          Sảnh bỗng ngồi thẳng người lên, nhìn về phía sau Diệp Hinh nói: “Có lẽ là cô ấy?”
                          Phòng trà không quá đông người, Hinh ngoảnh lại nhìn thấy một phụ nữ trung niên đeo kính râm, mặc bộ váy màu trắng ngà có dải đeo vai, đang tiến đến.
                          “Có bạn nào là Diệp Hinh ở đây không?”
                          Làn da, đôi tay người này vẫn rất mịn màng, mái tóc dài vấn lên và được cài bằng chiếc cặp tóc có phần lưng khá rộng, làm nổi bật khuôn mặt trái xoan gần như hoàn mỹ, trông đâu có giống một người đã gần 50. Hinh và Sảnh ngẩn người nhìn.
                          “Là cháu ạ! Cháu là Diệp Hinh, đây là Âu Dương Sảnh bạn cháu. Cô là tiến sĩ Di phải không ạ? Chúng cháu đều rất ngưỡng mộ cô, cho nên đã cùng đến: Chúng cháu xin cảm ơn cô đã bớt chút thời gian đến gặp chúng cháu”. Hinh đứng lên chào hỏi.
                          Người phụ nữ gật đầu, mỉm cười: “Tôi là Khổng Phồn Di. Hai cô cũng chịu khó thật, đã tìm được tôi trong kỳ nghỉ này. Nói thật nhé, chúng ta trò chuyện về công tác của tôi, tôi rất vui. Mấy khi đã có người muốn nghe lời nói về những điều khô khan này. Mấy hôm nay phải xa phòng thí nghiệm và bệnh viện, tôi thấy hơi lạ lẫm, nhưng năm nào cũng cần có một khoảng thời gian để thích nghi...”
                          Sảnh bỗng thản nhiên hỏi: “Vậy là, tuy tiến sĩ Phồn Di du học ở bốn phương, nhưng năm nào cũng về nước một lần, và có phải đều vào dịp tháng 6 này không ạ?”
                          Hinh hơi hoảng, tặc lưỡi khẽ trách “Kìa Sảnh! ”, rồi lại nhìn vẻ mặt Phồn Di hơi khang khác.
                          “Mời cô giáo ngồi ạ!Chúng cháu mong được cô chỉ bảo cho”. Hinh rất sợ Sảnh làm cho Phồn Di lo ngại, cô tươi cười để giải tỏa bầu không khí. Người phục vụ tới rót trà, Phồn Di hơi do dự, rồi ngồi xuống, nghiêm túc hỏi: “Hai cô muốn gặp tôi để nói những gì?”
                          Hinh nhìn Sảnh, thấy ánh mắt vẫn sắc lạnh như thế thì thầm kinh ngạc và nghĩ ngay rằng Sảnh - vốn cực ghét cái ác - chắc vì nghĩ rằng Phồn Di đã bán đứng Tiêu Nhiên cho nên Sảnh rất căm hận. Nhưng sao mình lại không hề thấy căm giận? Nhưng có lẽ khỏi cần vòng vo, nên sớm làm rõ sự thật rồi tính sau, Hinh định nói thì Sảnh đã lên tiếng trước: “Xin nói thật với cô Phồn Di, chúng cháu không phải là sinh viên đại học Y số một mà là sinh viên đại học Y số hai Giang Kinh - vẫn gọi vắn tắt là Giang Y. Nói cách khác chúng cháu là sinh viên cùng trường với cô”. “A ra thế...” Phồn Di bỏ kính râm xuống, cặp lông mày dài và mảnh nhíu lại vẻ mặt càng thêm nặng nề. “Đã tốt nghiệp được hơn 20 năm, mà cô lại không liên lạc với bất cứ người bạn học cũ nào. Cô có thể cho chúng cháu biết tại sao không ạ?” Sảnh hỏi dồn dập. Hinh ngầm đá nhẹ vào chân bạn, nhưng Sảnh vẫn cứ thản nhiên.
                          Phồn Di hít thở sâu vài lần, rõ ràng là đang gắng kìm nén tâm trạng không vui của mình. Bà ngắm kỹ Hinh và Sảnh rồi trả lời vừa lich sự cũng lạnh nhạt: “Mỗi người đều được tự do lựa chọn lối sống của mình, đúng không?”.
                          “Nhưng, đồng thời với việc hưởng thụ quyền tự do này thì không thể làm tổn thương đến người khác, nhất là đối với người mà mình yêu sâu sắc, có đúng không ạ?” .Sảnh vẫn không chịu buông tha. Hinh lại kêu lên: “Kìa Sảnh?”
                          Toàn thân Phồn Di hơi rung rung, ánh mắt đượm buồn: “Cô đang nói gì vậy?Cô là ai? Tại sao lại nói với tôi như thế?”. “Có phải cháu đã đưa ra câu hỏi mà chú ấy muốn hỏi nhưng không bao giờ có cơ hội để hỏi nữa? Đúng không ạ? Và bao năm trôi qua cô cũng luôn tự hỏi mình câu hỏi này, đúng không ạ? Cô rời xa Giang Kinh, bao năm qua cô buồn bã không vui, thực chất là vì cô bị cắn rứt dày vò, đúng không? Có lẽ năm xưa cô không thể ngờ rằng chỉ vì một phút yếu đuối, sai lầm sẽ dẫn đến nỗi đau khổ trải mãi nhiều năm sau”. Sảnh nói đoàng hoàng, rành rọt cứ như là đọc thuộc lòng một nội dung cô đã ngầm soạn sẵn từ lâu.
                          Thoạt đầu bà Di nhìn Sảnh bằng ánh mắt khó hiểu và nghi hoặc. Dần dần, đôi mắt bà dỏ hoe, đôi môi mấp máy nhưng không nói thành lời. Hinh nhìn Sảnh với ánh mắt bất bình, oán trách Sảnh đã quá sỗ sàng dẫn đến tình huống bẽ bàng. Hinh dịu giọng: “Thưa cô Di, bạn Sảnh muốn nói đến một vài chuyện cũ hồi cách mạng văn hóa, liệu cô có thể giúp chúng cháu làm rõ được không?”
                          Phồn Di bỗng ngẩng lên, đưa tay nắm lấy tay Hinh và Sảnh hỏi: “Hai cô đã biết những gì? Tại sao lại muốn dồn ép tôi?”. Ánh mắt Phồn Di rối loạn, hai hàng lệ tuôn trào loang trên lớp phấn son thoang thoảng, các nếp nhăn nơi khóe mắt hiện lên rất rõ, khác hẳn với hình ảnh người phụ nữ trung niên xinh đẹp với vẻ mặt thư thái điềm tĩnh khi nãy. Hinh chợt mủi lòng, cô nhớ rằng ông Sầm Thiết Trung đã nói bà Di từng mắc bệnh về tâm lý và thần kinh. Hinh càng thêm oán trách Sảnh đã quá bỗ bã như thế, cô dịu giọng: “Chuyện là thế này ạ, Sảnh và cháu đang cùng ở phòng 405 khu nhà13 đại học Y Giang Kinh”.
                          Hinh cố ý ngừng lời. Quả nhiên nét mặt Phồn Di lộ vẻ rất kinh ngạc. “Không rõ cô có nghe nói rằng: kể từ năm 1977 đến nay, gần như năm nào cũng có một nữ sinh viên nhảy lầu từ phòng 405 rồi chết - chuyện này từ nhiều năm qua được gọi bằng cái tên: Vụ án mưu sát 405”.
                          “Ôi”, Phồn Di kêu lên một tiếng, rồi lẩm bẩm: “Tại sao, tại sao tôi lại không biết gì cả?”
                          Hinh vội nói: Cũng không thể trách gì cô. Bao năm qua cô không liên lạc với các bạn học cũ thì đương nhiên nhiều chuyện cô sẽ không biết”.
                          Phồn Di lắc đầu: “Không thể coi đó là một cái cớ. Lẽ ra tôi phải biết mới đúng!” Phồn Di như đã ra khỏi những ý nghĩ bề bộn, bà hỏi: “Xin lỗi đã ngắt lời cô, cô nói tiếp đi”.
                          “Phần lớn trong hơn một chục nữ sinh đã nhảy lầu lần ấy, trước đó đều mắc bệnh tâm thần ở mức độ nặng nhẹ khác nhau. Một số người nghe thấy từ “ánh trăng” và nhìn thấy một cô gái có khuôn mặt nát bươm, nghe thấy những điệu nhạc du dương. Mọi hiện tượng đó có lẽ nên gọi là ảo giác. Và những ảo giác hệt như thế xuất hiện trong đầu cháu”. Hinh lại ngừng nói, cô nhìn thẳng vào Phồn Di.
                          “Ánh trăng, ánh trăng là gì?”. Phồn Di nhắc đi nhắc lại từ này
                          “Một cơ hội ngẫu nhiên khiến cháu được đọc một tập hồ sơ cũ về “Nguyệt Quang Xã” và nhìn thấy một số đoạn nhật ký của chú Tiêu Nhiên. Trong đó có ghi tường tận về chú ấy và nguồn gốc sâu xa của Nguyệt Quang Xã. Trong cuốn nhật ký cũng có nhắc đến cô, chú ấy đã yêu cô vô cùng sâu nặng... Nhưng rồi chú ấy đã lựa chọn cái chết, cũng như các thành viên khác của Nguyệt Quang Xã - chú ấy đã hiến xác cho phòng ngiên cứu giảng dạy giải phẫu của trường ta.
                          Trong số các nữ sinh đã nhảy lầu, nhiều nữ sinh trước đó đã có ảo giác về ánh trăng và nhạc cổ điển, việc nhảy lầu từ phòng 405 đều xảy ra vào sáng sớm ngày 16/6 hàng năm. Vì thế không thể khiến chúng cháu không đem các vụ nhảy lầu và chú Tiêu Nhiên liên hệ lại với nhau. Đương nhiên cũng không loại trừ yếu tố trùng hợp ngẫu nhiên nhưng nếu chỉ là trùng hợp thì rất khó giải thích được mọi điều. Cho nên mong cô lượng thứ cho chúng cháu đã liều lĩnh dám nghi ngờ rằng vì chú Tiêu Nhiên chết oan không thể nhắm mắt chú ấy muốn thông qua các vụ nhảy lầu này để thông báo cho ngưoiừ đời về các vụ oan khuất của mình”

                          “Gì cơ?” Khổng Phồn Di kinh ngạc đứng lên, thiếu chút nữa gạt phăng cả bộ đồ trà trên bàn: “Thiếu nữ các cô có tư tưởng thật quá tự do, sao lại đưa ra cả ma quỷ hồn phách gì ra thế này? Lẽ nào các cô lại tin những chuyện hoang đường như thế?”
                          Sảnh cũng đứng lên: “Thế thì xin tiến sĩ Phồn Di hãy cho chúng cháu một lời giải thích hợp logic, tại sao lại là “ánh trăng”? Tại sao lại là 405? Tại sao lại là ngày 16/6? Chú Tiêu Nhiên đã cho cô biết nguồn gốc của Nguyệt Quang Xã, có phải ở đó cũng có ma quỷ hồn phách không ạ? Thế thì phải giải thích sao đây?”
                          Hinh vội nói: “Cô Di và Sảnh nữa, xin hãy ngồi xuống nói chuyện nhẹ nhàng. Cô ạ, có rất nhiều chuyện trong quá khứ đã trở thành lịch sử, thì chẳng nên can thiệp vào cuộc sống hiện tại nữa. Chúng cháu nhắc đến chuyện cũ không phải vì muốn khiến cô phải đau đớn, mà là vì mong được cô giúp đỡ. Cháu đã trải qua không chỉ là các hiện tượng kỳ quái ấy mà điều đáng sợ hơn là cháu cho rằng cháu... Có lẽ, cô sẽ càng nói rằng cháu quá ư hoang đường vô lý... cháu cho rằng cháu đã nhìn thấy chú Tiêu Nhiên, thậm chí cả chú Trịnh Kinh Tùng nữa.”
                          Phồn Di vừa tạm bình tĩnh ngồi xuống, lúc này lại đứng phắt dậy: “Rõ ràng là hoang đường quá thể! Cô nhìn thấy họ thế nào được?”

                          “Cô Di ạ, chác chắn trí nhớ của cô vẫn rất tốt. Chú Tiêu Nhiên tuy xuất thân trong cảnh giàu sang nhưng vẫn không mấy chau chuốt trang phục, có đúng không ạ? Mái tóc đen, dầy luôn không chịu chải, có đúng không ạ? Có phải khuôn mặt chú ấy luôn nở nụ cười tươi như trẻ con, hình như không bao giờ bận tâm đến cái gì nhưng lại là một con người rất đa sầu, đa cảm? Có phải chú ấy thường hay trêu ngươi, đeo bám dai như đỉa, khiến người ta vừa tức vừa buồn cười - nhất là khi chú ấy yêu một cô gái”. Hinh nói rất sôi nổi, từng cảnh từng cảnh ngày trước gắn bó với Tạ Tốn trỗi dậy từ trong đáy lòng và lướt trôi trước mặt Hinh.
                          Hinh đã mất đi cái tình cảm rất khó diễn tả ấy. Khuôn mặt Hinh đầm đìa nước mắt. Phồn Di đứng run rẩy hồi lâu rồi thẫn thờ ngồi xuống. Di hồi tưởng lại những tháng ngày dập dìu gắn bó cùng Tiêu Nhiên năm xưa, khuôn mặt Di đẫm lệ, cô vô cùng đau xót, đầu rũ xuống, nghẹn ngào nức nở. Sau một lúc im lặng Di lắc đầu tỏ ý không thể tin được: “Sao lại có thể như thế? Nhưng cô đã nói không sai chút nào, người mà cô miêu tả đúng là Tiêu Nhiên”. “Kinh Tùng là anh chàng thư sinh lạnh lùng, rất lạnh lùng, có khuôn mặt trắng nhợt, ánh mắt cũng rất lạnh, phía dưới mắt có quầng. Kinh Tùng luôn cặp kè bên Tiêu Nhiên, khi Tiêu Nhiên nói chuyện với cháu thì Kinh Tùng thường đứng từ xa, lạnh lùng nhìn lại”. Hinh nhìn Phồn Di, thấy nét mặt PhồnDi càng hiện rõ sự kinh ngạc không sao hiểu nổi. “Cô nói đúng cả, rất đúng, anh ấy có sắc mặt trắng nhợt, có quầng mắt khá to. Ngày ấy mỗi khi tôi và Tiêu Nhiên bên nhau, anh ấy thường đứng xa xa lạnh lùng nhìn chúng tôi, có lúc khiến tôi thấy sờ sợ”. Phồn Di bắt đầu để ý quan sát Diệp Hinh, và đã tin rằng không phải hai cô gái này tìm đến để gây sự vô lối với mình, và thấy sự việc thực sự nghiêm trọng.
                          “Cháu không rõ tại sao họ lại tìm đến cháu... Trên thực tế, cháu đã suy nghĩ kỹ và không cho rằng họ thật sự đang tồn tại trong thế giới khách quan, có thể coi mọi điều cháu đã nhìn thấy là những “ảo giác” trong bệnh tâm thần phân liệt. Vì hai người ấy không tồn tại như một thực thể mà chỉ tồn tại trong đầu cháu. Bộ não của người ta, nếu chứa đựng những thứ không tồn tại thì chẳng phải là có vấn đề thần kinh là gì? Cho nên cháu đã được khuyên vào nằm bệnh tâm thần một thời gian, rồi cháu rất kinh ngạc nhận ra rằng không chỉ có mình cháu biết về sự tồn tại của họ. Cô Di thử nhớ lại xem cô có biết một phụ nữ tên là Uông Lan San không?”. Hinh cảm thấy bà San là một khâu trong chuỗi các điều bí hiểm nên thuận miệng hỏi thế, chứ cô không hi vọng có câu trả lời nào.
                          Nào ngờ Phồn Di hơi sững người, gật đầu: “Tôi nhớ ra rồi, bà ấy là bệnh nhân lâu năm của bệnh viện tâm thần, đúng không? ”
                          Hinh và Sảnh đều ngạc nhiên, cùng hỏi: “Sao cô lại biết ạ? ”
                          Phồn Di nghĩ ngợi, khẽ kêu lên “trời ạ”, rồi nói: “Hình như là, khi chúng tôi học năm thứ ba - ngay trước thời kỳ cách mạng văn hóa, khi ấy việc dạy và học vẫn rất bình thường -lớp của Tiêu Nhiên đi kiến tập ở bệnh viện tâm thần, tôi cũng đang không có bài vở nên đã đi theo cho vui. Hôm đó, thầy giáo đưa ra một ca bệnh nhân đa nhân cách điển hình. Đó là một phụ nữ trung niên khoảng trên 40 tuổi. Trước mặt đông đảo chúng tôi, người ấy chuẩn bị nghe thầy giáo hỏi. Nào ngờ bà ta xông lên phía trước túm ngay lấy Tiêu Nhiên rồi quan sát anh từ đầu đến chân hết sức tỉ mỉ, đến nỗi các bạn anh ngồi bên cạnh đều sởn gai ốc, còn Tiêu Nhiên thì rất khó chịu. Mọi người lôi bà ta ra, bà ta bỗng òa khóc rồi kêu lên: “Chẳng lẽ đây đều là sự thật?”Chẳng lẽ đây đều là sự thật?”. Rồi đột nhiên lại đổi giọng hết sức dịu dàng: “Anh hãy ở lại bên em và đừng đi đâu hết, được không? Có thế anh mới được an toàn”
                          Bấy giờ tôi thấy rất tò mò, cũng khó tránh khỏi có phần không vui, tôi nhìn Tiêu Nhiên hồn nhiên “vô tội “ nói là chưa từng quen biết. Về sau chúng tôi hỏi thăm mới biết đó là bệnh nhân mắc bệnh nhân cách phân liệt rất nặng tên là Uông Lan San, đã vào nằm viện 20 năm trời. Chính vì có cái chuyện ồn ào ấy nên tôi mới nhớ được cái tên này. Xưa nay tôi chưa từng liên hệ câu nói ấy của bà San với các sự việc xảy ra sau này. Nay nghĩ lại thì hình như bà ta đã tiên tri một điều gì đó.
                          Hinh nói: “Chính bà San này đã nói trong đầu cháu có “hai người “,cháu hỏi hai người đó là ai, thì bà vẽ luôn hai bức “ký họa “đại thể về Tiêu Nhiên và Trịnh Kinh Tùng”.
                          Phồn Di vẫn cảm thấy chuyện này quá ư kì dị, bèn hỏi: “Nếu đúng là hai người ấy ở trong đầu cô thật, thì họ vào bằng cách nào?”. Phồn Di “à” một tiếng, và bất giác đưa mắt nhìn về hướng đại học Y khoa Giang Kinh, trong lòng bộn bề xáo động, một lát sau mới nói: “Cô ngầm có ý cho rằng, Tiêu Nhiên đã nhập vào bộ não các nữ sinh kia, điều khiển họ nhảy lầu vào ngày 16/6? Nhưng tại sao anh ấy phải làm thế? Lẽ nào là nhằm gây sự chú ý cho người đời - như lúc nãy cô nhận định?”
                          Sảnh lạnh lùng “hừ “ một tiếng: “Còn có khả năng chỉ đơn thuần là trả thù các nữ sinh đến từ Giang Nam”.
                          “Trả thù? Trả thù về cái gì?”
                          Sảnh hậm hực: “Cô đã tự biết rất rõ. Nếu cần cháu phải nói toạc ra thì cháu cũng sẵn lòng để làm một kẻ độc ác! Chú ấy đương nhiên có lý do để trả thù cô gái Giang Nam mà chú ấy nặng lòng yêu thương - không chỉ ruồng bỏ mà còn bán đứng chú ấy! Ngay khi chú ấy muốn gặp mặt lần cuối, cô ấy cũng phớt lờ! Vì sự phản bội và cạn tình cạn nghĩa của cô nên chú ấy mới mất hết hi vọng vào cuộc sống, thế rồi đi vào ngõ cụt”.
                          “Cô nhầm rồi”. Phồn Di gay gắt ngắt lời Sảnh. “Đúng là tôi đã không chịu nổi sức ép, đã vạch rõ ranh giới với anh ấy, đã hoảng hốt hoang mang, đã không đến gặp anh ấy lần cuối cùng... vì lúc đó tôi đã mắc bệnh trầm cảm rất nặng, cuộc sống đã hỗn loạn tơi bời. Nhưng tôi không hề bán đứng anh ấy, không hề tố giác anh ấy là thành viên của “Nguyệt Quang Xã’, tôi vẫn giữ được chuẩn mực làm người.
                          “Không phải cô, thì có thể là ai? Theo cuốn nhật ký của chú Tiêu Nhiên thì chỉ có hai người - cô và chú Trịnh Kinh Tùng - biết chú ấy là thành viên “Nguyệt Quang Xã”; nếu không phải cô thì chẳng lẽ là chú Kinh Tùng? Nhưng, đến giờ phút cuối cùng của chú Tiêu Nhiên, chú Kinh Tùng vẫn còn đến an ủi động viên chú ấy, và rành rành sau đó cùng tự sát với chú ấy. Một con người rất có tình nghĩa như vậy sao có thể bán đứng người bạn chí thân của mình?.
                          “Các cô nói đến cuốn nhật ký....”
                          Sảnh mở cặp sách lấy ra một tập giấy tờ, đẩy đến trước mặt Phồn Di: “Đã đoán là cô sẽ không thừa nhận, nên cháu đã phô-tô một bản cho cô, chỉ e cô không có can đảm để đọc thôi”
                          “Kìa Sảnh!” Hinh thấy Sảnh đã lại quá khích
                          Phồn Di đờ đẫn, ngồi ngây ra một lúc, hơi đưa người ra trước, tay run run nhẹ lên mặt giấy. Phồn Di đang cảm nhận gì đây?
                          Rồi Phồn Di ngước mắt lên: “Cô nói đúng, tôi cũng không biết mình có can đảm để đọc hay không. Hai cô cũng có thể không tin tôi, nhưng hãy thử nghĩ xem, nếu đúng là tôi đã bán đứng Tiêu Nhiên, anh ấy thì chết rồi, sao tôi cứ phải chối cãi? Tôi có thể nói thẳng thắn, nhưng chuyện kỳ lạ mà bạn Diệp Hinh đã cảm thấy, tôi tin nhưng tôi không đồng ý với những suy đoán của các bạn. Tôi rất hiểu Tiêu Nhiên, anh ấy có trái tim rất tinh tế và rất thiện, dù phải ôm hận mà ra đi thì anh ấy cũng không quậy phá như thế sau khi đã khuất. Trong chuyện này chác phải có những điều lạ lùng chi đây”. Nghe đến mấy chữ những điều lạ lùng, Hinh lại hỏi: “Cô giáo Phồn Di có nghe nói đến một người tên là Trang Ái Vân không? ”
                          Phồn Di ngẩn người, lắc lắc đầu.
                          Hinh mạnh mẽ đứng dậy, nhanh nhẹn nói: “Cháu xin cảm ơn cô Phồn Di. Cháu cũng tin tưởng ở cô, mong rằng cô cháu mình sẽ giữ vững liên lạc”. Hinh vừa nói vừa chạy ra khỏi phòng trà.
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.11.2006 01:14:56 bởi PhongAnh >
                          #28
                            PhongAnh 07.11.2006 15:39:17 (permalink)
                            Chương 26

                            BÍ MẬT BỊ PHƠI BÀY



                            16H NGÀY 13 THÁNG 6

                            Sảnh phải chạy một mạch mới đuổi kịp Hinh. Chạy dưới trời nắng tháng sáu nóng như thiêu như đốt, mồ hôi vã ra như tắm.
                            “Tớ đoán xem nào, chắc cậu đang định sang bệnh viện số 2 tìm bà San, đúng không?” Hai cô đứng ở bến xe buýt, sốt ruột chờ xe đến. Sảnh cho rằng lần này mình không thể đoán nhầm.
                            Lòng Hinh đang rối bời, cô im lặng gật đầu.
                            “Này Hinh, sao cậu không hỏi tại sao tớ lại đoán đúng?”
                            Hinh thở dài, trách bạn: “Tớ đang tức cậu đây! Đồ quỷ sứ ma mãnh, sao cậu chẳng hiểu cách đối nhân xử thế gì cả? Cô Phồn Di về nước nghỉ ngơi, đã nhiệt tình đến với chúng ta như thế. Cuộc đời cô ấy cũng rất gian nan, từng mắc bệnh trầm cảm… sao cậu lại cư xử với cô ấy thô bạo thế?”
                            Sảnh dẩu môi: “Tớ biết thế nào cậu cũng mắng tớ! Nghĩ lại, tớ cũng hơi hối hận. Nhưng kể cũng lạ, lúc đó tớ không sao nhịn được, có lẽ tại tớ vốn đã chủ động, đã nhận định rằng cô ấy tố giác Tiêu Nhiên; lại nhìn thấy dáng vẻ sung sướng, nhàn nhã của cô ấy… còn Tiêu Nhiên thì đã ở nơi chín suối, cho nên vừa thấy mặt, tớ đã lộn ruột rồi!”
                            “Nhưng mình cũng không nên nói oan cho người ta. Cô ấy nói có lý; nếu đúng là cô ấy đã sai, thì thời gian đã trôi bao năm rồi, cô ấy chẳng cần phải cứ chối cãi. Tớ nghe nói thời đó đã có rất nhiều người mắc sai lầm kiểu ấy, nếu cô ấy đã làm thế thật thì cũng chỉ là chuyện vặt trong muôn vàn sự việc, chối cãi thì có ý nghĩa gì đâu?”
                            Sảnh “ừ” và nói: “Tớ cũng đã rất buồn rồi, cậu đừng nói nữa có được không? Lúc sắp chia tay tớ đã rất thân thiện với cô ấy, đã để lại số máy nhắn tin nữa. Cô ấy hỏi có thể đọc được nhật ký Tiêu Nhiên và ‘hồ sơ Nguyệt Quang xã’ ở đâu, tớ bèn quyết định đưa luôn cho cô ấy bản phôtô ‘hồ sơ Nguyệt Quang xã’ đang để trong cặp. Chúng mình đi gặp bà San để hỏi về gì?”
                            “Khi đang nói chuyện với cô Phồn Di, tớ đã nghĩ rất nhiều, và cũng đồng ý với cô Phồn Di rằng trong câu chuyện này còn ẩn chứa những điều kỳ lạ. Cho nên tớ nghĩ đến bà San. Bà ta có thể nhìn thấy Tiêu Nhiên và Trịnh Kình Tùng trong đầu tớ, thì có lẽ bà ta còn biết hiều chuyện ly kỳ hơn. Và, vấn đề nhân cách Trang Ái Vân, tiếng hát, khuôn mặt dập nát… rõ ràng đều có liên quan đến chuyện này. Tiếc rằng bà lão ấy không ‘thoáng’ tý nào, hỏi điều gì, bà lão toàn nói vòng vo, cố làm ra vẻ huyền bí. Hôm nay tớ đã nghĩ rồi, nhất định sẽ bám bà lão đến cùng để hỏi cho rõ xem bà còn biết những gì nữa.”
                            Sảnh nói: “Lần này nhất định tớ sẽ hộ vệ cậu, lần trước sợ ơi là sợ. Hôm qua tớ đã gặp thầy Côn, nhờ thầy phân tích bệnh án của bà San, chưa biết chừng sẽ có ích cho chúng ta.”
                            Hinh ngạc nhiên, rồi cười: “Tớ nhận ra rằng thầy giáo trẻ Vân Côn hay cậy mình có tài – đã bắt đầu nghe lệnh của cậu rồi đấy! Thật đáng chúc mừng!”

                            Lúc đến buồng của bà San, thấy giường bỏ trống, cô y ta nói là bà San đã xuống sân đi bách bộ. Hinh và Sảnh ra cửa sổ nhìn xuống, thấy bà lão đang ngồi trên ghế đá, tay đang cầm một chiếc bình đựng dung dịch muối vẫn dùng để truyền. Cả hai đang định đi xuống thì Sảnh – thật tinh mắt – kêu lên: “Bà lão vẫn còn ham đọc sách kia”
                            Trên cái bàn kê bên đầu giường, là một chồng sách. Hinh cười: “Tớ đã biết đó là những sách gì rồi. Toàn là sách về nghệ thuật biểu diễn, để diễn cứ y như thật, không hiểu bà ta còn ham học những thứ gì nữa, đã luyện được đến đỉnh cao rồi!”
                            Sảnh bước lại xem, rồi nói: “Đúng, toàn là sách lý luận về biểu diễn. Cuốn này thì hơi lạ: “Tân Kim Lăng Thập Nhị Thoa – nữ minh tinh màn bạc Trung Quốc thập kỷ 40”, là sách đọc chơi để giết thì giờ. Nhưng, lạ nhỉ, cuốn này còn kẹp vài tờ giấy. Ch8ảng lẽ đọc sách lại còn phải ghi chép nữa kia?” Sảnh mở cuốn sách lấy mấy tờ giấy đó ra, cúi xuống lần giở xem. Cô bỗng “à” một tiếng, ngẩng đầu lên ngạc nhiên nhìn Hinh.
                            Hinh vội bước đến xem, trong tay Sảnh là mấy tờ giấy cũ đã ố vàng, có các chữ Hán phồn thể được in dọc, có vẻ như được cắt ra từ một cuốn tạp chí. Có mấy tiêu đề phí bên trái khiến Hinh hơi run run: “Phụ trương đặc sắc của bản báo: hoàng hậu màn bạc Thượng Hải năm xưa giờ đây đã mất vía nơi sâu thẳm” . Một tiêu đề phụ là “Hé lộ bí mật Trang Điệp (Ái Vân) đã mắc bệnh tâm thần rất nặng, bóng ma dập dìu chốn phong lưu”.
                            “Cậu xem cái này.” Sảnh bỏ tờ thứ nhất xuống, thấy tờ thứ hai – rõ ràng là cùng xuất xứ với tờ thứ nhất – là một tấm ảnh đen trắng choán già nửa trang tạp chí, chụp một cô gái áo trắng, dáng cao cao, mảnh dẻ đang đứng nhìn ra cửa sổ với tư thế tuyệt đẹp, mái tóc dài rủ xuống quá vai, trang nhã sống động như muốn bước ra khỏi nền giấy khiến Hinh phải tấm tắc trầm trồ. Hinh lập tức nhớ ra: đêm nọ trong bệnh viện tâm thần, bà San đã mô phỏng cái vai này!
                            Tờ thứ ba vẫn là cắt từ cuốn tạp chí cũ ấy, phần quảng cáo của ngân hàng Hoa Kỳ choán một nửa, phía dưới là một bài viết kèm theo hai bức ảnh nhỏ. Một bức là chân dung một cô gái tuyệt đẹp, chú thích là “Trang Điệp thuở xưa”, bức kia – thực đáng kinh ngạc – là một khuôn mặt giập nát chằng chịt các vết ngang dọc, máu tươi đầm đìa.
                            “Khuôn mặt nát bươm!” Cả hai cùng kêu lên. Sảnh lại giở cuốn “Tân Kim Lăng Thập Nhị Thoa – nữ minh tinh màn bạc Trung Quốc thập kỷ 40”, thấy trang có kẹp mảnh bìa đánh dấu chính là bài kỵ có tiêu đề: “Nay nàng là hoa bị chôn, cười ngây dại – “Tiêu Tượng phi tử” Trang Điệp bệnh tật và mộng mị quái đản”.
                            Sảnh hỏi: “Mau nghĩ đi, nên đọc bài nào trước?”
                            Hinh nói: “Tạp chí khổ nhỏ.”
                            Sảnh nói: “Rất hợp với ý tớ”. Hai người bắt đầu xem từ “phụ trương đặc sắc”.

                            Phụ trương đặc sắc của bản báo: hoàng hậu màn bạc Thượng Hải năm xưa giờ đây đã mất vía nơi sâu thẳm
                            Hé lộ bí mật Trang Điệp (Ái Vân) đã mắc bệnh tâm thần rất nặng, bóng ma dập dìu chốn phong lưu


                            Trần Vân Cảnh – Tuần san Thân Giang

                            Một thời gian sau khi quốc nạn đã đi qua, hoàng hậu màn bạc Trang Điệp sắm vai trong “Ánh trăng lạnh” và “Giấc mộng hồ điệp” nổi danh Thượng Hải một thời, hai năm nay bỗng vắng bóng trên phim trường, “nhún mình” lấy chồng họ Tiêu – đại gia ngành tiền tệ, rồi về Giang Kinh ở ẩn, tin này đã từng gây xôn xao. Bản báo đã nhận được tin của một số vị là “người nội bộ”, được biết tình trạng thần trí của Trang Điệp ngày càng xấu đi, luôn luôn có những cử chỉ kỳ quặc, không ngờ, khắp nhà họ Tiêu đều đang kinh hãi.
                            Cuối tháng trước, chúng tôi đã liên tiếp nhận được ba bức điện báo nặc danh, người gửi nói mình là “người nội bộ” thấy lo lắng cho sự an nguy của nhà họ Tiêu, muốn công bố việc nữ chủ nhân Trang Ái Vân đã gây nên bầu không khí đáng sợ ở nhà họ Tiêu. Trang Ái Vân tức Trang Điệp, từng được gọi là “Hoàng hậu màn bạc” “Tiên nữ ca nhạc”, cách đây 3 năm đã kết mối lương duyên với Tiêu Thừa Khiên – nhị công tử nhà họ Tiêu – nhân vật cự phách của ngành tiền tệ. Thực ra con đường gnhệ thuật của Trang Điệp đang rực rỡ như mặt trời lên cao, có tài năng bẩm sinh và kinh nghiệm lâu năm, tiền đồ nghệ thuật thênh thang, khác với các minh tinh có sắc hương nhưng chỉ sớm nở tối tàn. Vì vậy giới nghệ sĩ nhận định nàng vẫn có thể đứng ngôi hàng đầu nghệ thuật trong nhiều năm. Nhưng chỉ một năm sau khi kết hôn, Trang Điệp lại bất ngờ tuyên bố giã từ màn bạc, tuy nàng có viện lý do đang mang thai và sau này sẽ một lòng thờ chồng nuôi con, nhưng vẫn khiến công chúng bàn tán xôn xao, cuối cùng trở thành một câu đố rất khó giải. Chúng tôi đến Giang Kinh với một niềm hy vọng xa vời là thực hiện một phóng sự chân thực về tình hình nhà họ Tiêu, và cũng mong sẽ làm rõ sự thật về việc Trang Điệp giã từ màn bạc.
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.11.2006 15:43:07 bởi PhongAnh >
                            #29
                              PhongAnh 07.11.2006 15:46:02 (permalink)
                              Chương 27

                              NHỮNG CƠN MỘNG DU KINH HỒN



                              "Chiều nay em đi đâu? Anh gọi điện về không thấy em ở nhà?"
                              Phồn Di đang mở cuốn " Tạp chí hội y học Mỹ "nhưng tâm trí đang vẩn vơ mãi ở đâu. Lòng chị đang ngổn ngang trăm mối đến nỗi không biết chồng vừa hỏi gì: " Anh bảo sao cơ?"
                              Người chồng hỏi lại câu vừa nãy, Phồn Di đáp: " Em đến hiệu sách Tân Hoa - Giang Kinh vừa mở cửa trở lại, rất bề thế!"
                              "Có mua được cuốn gì hay hay không?"
                              Phồn Di nghĩ ngợi rồi nhìn thẳng vào đôi mắt người chồng: " Em đứng bên quầy sách y học thì gặp mấy sinh viên đại học y Giang Kinh đang mua sách học thêm, vô tình nghe thấy họ nói về " vụ án ám sát phòng 405" gì đó, hơn chục năm qua dường như mỗi năm có một nữ sinh nhảy lầu tự tử ở phòng 405 khu nhà 13. Anh Thành, sao anh chưa từng kẻ với em chuyện ấy?"
                              Ánh mắt Lục Bình Thành không tỏ ra ngạc nhiên, anh chỉ thở dài, vẻ mặt rầu rầu: " Phồn Di, chắc em hiểu tại sao anh không nói với em."
                              "Vâng em hiểu, anh không muốn em biết chuyện rồi lại nghĩ ngợi lan man, anh đang giữ gìn cho em, xưa nay anh luôn bảo vệ em để em có thể tĩnh tâm, có thể sống bình thản, yên ổn." Phồn Di gật đầu cảm kích nhìn Bình Thành. "Anh gọi điện cho em có việc gì không?"
                              "Không có việc gì đáng kể, anh chỉ mong nhân dịp này em hãy gắng nghỉ ngơi ít hôm, tiện thể nói với em là, anh đã đặt bàn ăn ở hiệu "Thường tất Tiên", tối nay chúng ta đi ăn hiệu."
                              Phồn Di thấy ấm lòng, chị cảm thấy mình có phần không phải với chồng. Đã lấy nhau bao năm, khi xưa chị đi du học nước ngoài và tuổi sinh nở đã trôi qua. Bình Thành trước đây vẫn có ý định sinh con, nhưng thấy Phồn Di không mặn mà thì anh cũng không ép. Anh luôn chiều vợ mọi bề, đặc biệt rất ủng hộ chị tiến bước trên con đường sự nghiệp. Phồn Di hiểu Bình Thành cũng cần sự âu yếm và cần được giúp đỡ.
                              "Gần đây anh có ngủ được không? Hình như đêm qua anh hơi trằn trọc?"
                              "Vẫn tạm được! Dùng mãi thuốc an thần, sắp lờn thuốc mất rồi! Lâu nay anh bận quá nhiều việc. Sắp đến cuối học kỳ rồi mà mọi chyuện vẫn bề bộn, sau đợt này đến kì nghỉ hè thì sẽ thoải mái thôi! Anh tính là, nếu em không quá bận thì đến kỳ nghỉ hè anh sẽ cùng em sang châu Âu một chuyến." Bỉnh Thành ngồi xuống bên Phồn Di.
                              "Thế thì quá hay. Sẽ như trước đây, hễ anh nghỉ hè là em sẽ đi với anh luôn!" Phồn Di tươi cười. Bình Thành ngắm nhìn khuôn mặt nhẹ nhõm, trong sáng và trang nhã của vợ, anh thấy vừa đáng yêu cũng vừa ái ngại.
                              Phồn Di chợt nói sang chyuện khác: "Nhưng anh còn phải ứng phó cho qua cái ngày 16 tháng 6 đã, đúng không? Liệu sự việc căng đến mức nào?"
                              Bình Thành đứng lên: "Sinh viên phải chịu áp lực bài vở tương đối nặng, năm nào cũng có người không chịu đựng nổi nên đã tự sát. Điều này cũng hay gặp trong các trường đại học, dặc biệt là đại học y. Nhà trường rất coi trọng chuyện này, tuy vậy chúng ta không thể coi các tin đồn nhảm nhí là một vấn đề gì đó.
                              "Nhưng hàng năm đều có chuyện xảy ra ở phòng số 405 khu nhà 13, là ngẫu nhiên quá mức thì phải? Các anh làm công tác sinh viên, tất nhiên sẽ không tin vào những chuyện đồn đại kháo nhau, nhưng cũng không thể tốn sức ứng phó với nó chỉ vì chưa tìm ra nguyên nhân!"
                              "Về những chuyện này em đã biết được đến đâu? Đội trưởng trinh sát giỏi nhất của công an thành phố đã từng phân tích sự việc, anh ta biết những sự việc lịch sử của căn phòng ấy, nhưng cũng không co s bất kỳ bằng chứng nào để liên hệ hai nhóm sự việc với nhau vì chính cách nghĩ đó đã là quá hão huyền!" Bình Thành đi đi lại lại trong phòng
                              "Nhưng, những thứ xuất hiện trong ảo giác của các sinh viên kia thì sao? "Ánh trăng" có liên quan đến "Nguyệt Quang xã" ngày trước không?"
                              Bình Thành bỗng dừng bước: " Mấy sinh viên đã bàn tán về việc đó, là nam hay nữ? Là người như thế nào?"
                              Phồn Di thấy vẻ mặt của chồng trở nên rất căng thẳng, chị thầm kinh ngạc và nói: " Là mấy cậu sinh viên, họ đang tìm thêm sách đọc thêm về môn Chẩn đoán và Nội khoa, chắc là sinh viên năm thứ hai thứ ba..."
                              Bình Thành thở phào rồi nói: "Em ạ, thời đại đã khác rồi, em cũng không nên quá nhạy cảm về các sự việc trong quá khứ nữa. Các vụ nhảy lầu ở phòng 405 những năm gần đây, đã cách xa những năm tháng ấy, không thể dính dáng gì đến nhau! Đúng là cá biệt có sinh viên đang đắm đuối nghiên cứu những sự việc này, đến nỗi "tẩu hoả nhập ma", ảnh hưởng đến học tập và sinh hoạt, thật là đáng buồn! Em phải tin rằng nhà trường sẽ giải quyết tốt việc này. Năm nay phòng bảo vệ sẽ bố trí phòng đặc biệt, trước hết sơ tán các nữ sinh viên ở đó, rồi cử 6 nhân viên canh gác căn phòng 405, chia nhóm 3 người, cứ 15 phút lại đổi ca túc trực. Bố trí chặt chẽ như thế, anh không thể tưởng tượng lại còn có thể xảy ra sự kiên bất trắc gì ở phòng 405."
                              Phồn Di gật đầu: "Có lẽ tại em quá nhạy cảm. Anh cũng nên hiểu cho em, sự việc Tiêu Nhiên vẫn nặng trĩu trong em."
                              Bình Thành đặt hai bàn tay ấm áp và mạnh mẽ lên đôi vai Phồn Di: "Đương nhiên là anh rất hiểu, vì thế, anh luôn thận trọng, không đụng chạm đến nỗi lòng ấy của em. Và mong em cũng hiểu cho anh!"

                              Nhấm nháp các món sơn hoà hải vị của tiệm "Thường Tất Tiên", Phồn Di thấy như đang nhai rơm, bởi tâm trạng của chị vẫn đang ngổn ngang trăm mối.
                              Lúc này đêm đã về khuya, Phồn Di nằm trên giường, bao kí ức ngày xưa tìm về với chị, dù chị không muốn thế. Chị càng thấy khó ngủ.
                              Phồn Di nhớ về năm ấy, những tháng ngày u ám trong cuộc đời chị. Đầu tiên là bị thế lực của "Máy kéo" lôi chị ra khỏi Tiêu Nhiên, đến thực tập tại bệnh viên tiền tuyến ở ngoại thành phía Đông. Mùa xuân mới về được ít hôm, thì nghe nói Tiêu Nhiên bị cách ly để thẩm vấn - bởi vì anh ấy bị nghi là thành viên của tổ chức đặc vụ có tên "Nguyệt Quang xã". Ngay sau đó chị cũng bị điều tra luôn.
                              Tổ điều tra đã nhiều lần hỏi chuyện, và đưa ra nhiều tuyên bố cảnh cáo ghê rợn. Thoạt đầu chị không để ý, và tin chắc ở sự trong sáng và nhân cách của Tiêu Nhiên, nhưng khi anh công nhận có quan hệ với "Nguyệt Quang xã" thì chị trở nên khủng hoảng.
                              Khi tổ điều tra tiếp tục căn vặn, Phồn Di thấy thấp thỏm, tuy chị nhiều lần tự nhắc mình phải kiên quyết không phụ lòng tin cậy của Tiêu Nhiên, nhưng hình như tổ điều tra đánh hơi thấy điều gì đó... họ càng o ép chị dữ dội hơn. Thoạt đầu chị hoang mang mất tự chủ, sau đó rơi vào trạng thái trầm cảm nặng nề.
                              Chính vào lúc này, một thực tập sinh lớp trên đã đến với chị, đó là Luc Bình Thành.
                              Bình Thành đang là thực tập sinh năm cuối, cùng làm với Phồn Di ở khoa nội. Khi biết anh là sinh viên của đại học y số 1 Giang Kinh, Phồn Di rất ngạc nhiên. Vì bệnh viện tiền tuyến vốn là nơi thực tập cho sinh viên đại hoc y số 2 Giang Kinh. Bình Thành giải thích rằng bệnh viện tiền tuyến chủ yếu phục vụ công nhân của vài nhà máy lớn ở ngoại thành phía đông Giang Kinh. Những công nhân này sống thì gian khổ, hưởng thụ thì ít, rất cần được ưu tiên chăm sóc tốt, cho nên anh đã từ bỏ cơ hội thực tập ở bệnh viên Nhân dân của thành phố, và được nhà trường nỗ lực đưa anh sang làm "con nuôi" của đại học y số 2 Giang Kinh, "đi xuống cơ sở" là bệnh viện tiền tuyến tương đối gian khổ thực tập. Những lời này khiến Phồn Di hết sức xúc động. Về sau, khi tổ điều tra và phái "tạo phản" càng ráo riết theo dõi chị, chị hết cách để tiếp xúc với Tiêu Nhiên, thì Bình Thành trở thành bến cảng giúp chị tránh cơn bão tố.
                              Đồng thời với việc tổ điều tra bám riết Phồn Di, thì phái "tạo phản" cũng một mực dồn ép chị phải "tỏ rõ lập trường". Cho đến một hôm, quá mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần và muốn chấm dứt sự hành hạ tâm thần bất tận ấy, Phồn Di đã nói với tổ diều tra rằng mình không còn là bạn gái của Tiêu Nhiên nữa. Tiêu Nhiên biết tin này, anh vô cùng đau xót , gọi điện đến yêu cầu gặp chị một lần cuối. Phồn Di không còn can đảm để đi gặp anh. Tối hôm đó chị ngồi nép mình bên Bình Thành cho đến tận khuya.
                              Tin Tiêu Nhiên nhảy lầu tự sát bay đến, và Phồn Di thực sự suy sụp tinh thần. Thoạt đầu mất ngủ liền mấy đêm, ban ngày cũng không thể đến bệnh viện để làm việc, suốt ngày đêm chỉ ngồi ngây dại bên cửa sổ, thậm chỉ từng muốn giã biệt thế gian để đi theo Tiêu Nhiên - Phồn Di vẫn yêu anh tha thiết, ý nghĩ chết theo người yêu vẫn thấp thoáng hiện lên. Ngay Trịnh Kim Tùng còn có can đảm ấy nữa là! Tuy nhiên Phồn Di vẫn nuôi hy vọng, vẫn ngóng chờ ngày ánh dương lại đến.
                              May sao Bình Thành luôn ở bên chị, anh động viên chị cố chịu đựng vượt qua được những ngày này. Thấy Phồn Di phờ phạc như người mất hồn, nhà trường đã để cho chị được nghỉ tĩnh dưỡng ít lâu. Khi trở lại trường, Phồn Di được biết các sinh viên từ khoá này trở lên đều phải ngừng học tập, đi đến các nông trường của bộ đội miền biên cương để "giáo dục lại". Phồn Di cùng một số bạn được bố trí vào một đại đội ở vùng Hoán Nam. Sau đó ít lâu, một đợt sinh viên khác cũng được cử đến, Phồn Di nhận ra khuôn mặt thân quen: Lục Bình Thành.
                              Hồi tưởng lại bao chuyện xưa, Phồn Di bất giác lệ rơi lã chã.
                              Bình Thành nằm bên, anh giở mình, và chợt thở dài trong giấc ngủ mơ màng.
                              Phồn Di chợt thấy lòng mình trùng xuống, chỉ có chị mới biết Bình Thành trông có vẻ khoẻ mạnh song đã từ lâu anh mắc chứng mất ngủ. Đáng lo hơn nữa là anh có tiền sử mắc bệnh mộng du, tuy hiếm khi phát bệnh, nhưng cũng đủ khiến Phồn Di phải đi cùng anh cầu cứu các chuyên gia. Thuốc của họ rất có hiệu quả, chứng mất ngủ của Bình Thành đã được khống chế một thời gian rất dài.
                              Nhưng đêm nay chị có một linh cảm chẳng lành. Quả nhiên, chỉ một lát sau khi chị nghĩ đến điều này thì Bình Thành từ từ ngồi dậy. Phồn Di khẽ gọi: "Anh Thành!" Bình Thành hoàn toàn không hay biết, Phồn Di hiểu rằng anh đã lại bắt đầu mộng du.
                              Anh xuống giưòng, bước lên vài bước, rồi ra đứng trước cửa sổ phòng ngủ nhìn bầu trời đêm đen kịt, đôi môi mấp máy như định nói điều gì đó. Phồn Di nhớ đến lời dặn của bác sĩ hãy tìm cách ghi lai lời của Bình Thành nói trong lúc mộng du để giúp cho việc phân tích sau này. Chị vội lần tìm chiếc máy cát-sét mi-ni và ấn nút ghi.
                              Quả nhiên Bình Thành đã nói mấy câu ngắn, tiếc rằng ngữ điệu lại rất kỳ quái - cũng như các câu nói lúc ngủ mê, không sao nghe rõ được. Bình Thành đứng im một lát, rồi quay người rời xa cửa sổ.
                              Phồn Di vừa thở phào, thì lại thấy chồng mình đi chân không ra khỏi phòng ngủ. Chị đi theo và nghĩ sẽ lựa lúc để gọi anh tỉnh lại. Đây là một cách điều trị mà chuyên gia từng điều trị cho Bình Thành đã nói với chị, trái ngược với cách của dân gian vẫn bảo nhau là "tuyệt đối không được đánh thức người đang mộng du". Đánh thức người mộng du, thực tế là "liệu pháp chán ghét" - để cho bệnh nhân hiểu rằng mình đã bị mộng du, họ sẽ kiểm điểm lại hành vi bệnh trạng của mình, để ức chế sự phát sinh lần sau.

                              Phồn Di đi theo ra phòng khách, Bình Thành đi thẳng ra cửa, bước ra ban công.
                              Mọi lần mộng du trước kia anh chưa từng làm thế này!
                              Bác sĩ từng dặn dò Phồn Di: người mộng du không hề biết mình đang mộng du, khả năng gây tác hại cho bản thân tuy nhỏ nhưng không phải là không có. Bước ra ban công tầng thứ 12, đúng là một tình huống rất nguy hiểm.
                              Chị đang định gọi lại thì thấy anh đang dờ đẫn nhìn xuống phía duới, giọng nghèn nghẹn lẩm bẩm mấy tiếng, anh bỗng giơ hai tay đưa mạnh lên, rồi quay người lại ngay. Tuy bất chợt đối mặt với vợ nhưng hình như anh không nhìn thấy gì, anh đi qua, bước đi rất nhanh, trong chớp mắt đã đến ngay cửa chính và mở rộng cửa.
                              "Anh Thành!" Phồn Di gọi to. Bình Thành sững người, quay lại nhìn, vẫn không nhìn thấy vợ, anh quay người bước ra khỏi nhà. Phồn Di chạy ào ra, nhưng đôi chân mạnh mẽ của Bình Thành lướt đi như bay, rồi anh chạy xuống cầu thang, Phồn Di không dám gọi nữa sợ hàng xóm thức giấc, chị đành chạy xuốn cầu thang bám theo Bình Thành.
                              Có lẽ chỉ một lát sau cả hai đã xuống hết mười hai tầng cầu thang. May mà sau khi ra khỏi khu nhà, Bình Thành bỗng đi chậm lại, lững thững đi vài bước rồi dừng, mắt anh nhìn xuống đất rồi lại ngửng đầu nhìn lên. Phồn Di nhìn theo hướng Bình Thành đang nhìn, hướng đó là ban công tầng 12 nhà mình.
                              Chị ôm chặt Bình Thành, gọi vào tai anh: "Anh Thành, tỉnh lại đi! Đã hết ngủ mê rồi, mình quay về đi nghỉ thôi!"

                              Rồi Bình thành cũng đã ngủ say, nhưng Phồn Di thì không sao ngủ được nữa.
                              Chị đứng đậy, bước ra khỏi phòng ngủ, sang phòn đọc sách, đeo tai nghe lai những câu nói mê vừa nãy ghi âm. Câu đầu tiên nói ở trước cửa sổ, hình như có 8 chữ nhưng âm thanh quá kém. Tua lại, sau khi nghe lại đến vài lần, chị chợt thấy âm điệu này quen quen. Chị cố nhớ lại... thì ra đây là tiếng địa phương Tấn Nam - quê của Bình Thành. Bình thường anh nói tiếng phổ thông rất chuẩn, khi trò chuyện với cha mẹ, anh cũng không nói tiếng địa phương. Có một lần đi cùng anh về Sơn Tây thăm mẹ chồng bị ốm nặng, Phồn Di lần đầu tiên nghe Bình Thành dùng tiếng địa phương nói chuyện với bà con họ hàng.
                              Tuy nhiên chị cũng không lạ gì tiếng Sơn Tây. Khi công tác ở trong nước, chị từng tiếp xúc với không ít bà con với Bình Thành ra đây chữa bệnh. Chị cố gắng tìm lại cảm giác về tiếng địa phương này, nghe lại vài ba lần nữa, cuối cùng đã ang áng nghe ra, hình như bình Thành nói là: "đốm lửa tuy nhỏ, đốt cháy đồng cỏ".
                              Nếu mình nghe đúng là thế, thì câu này có hàm ý gì?
                              Chị lai nghe tiếp hai chữ Bình Thành nói ở ban công, cũng là tiếng địa phương Tấn Nam, nhưng kì lạ thật, hình như anh cố nén giọng, nói như nghèn nghẹn.
                              Hai chữ này không nói nhanh, Phồn Di nghe vài lần, rồi hầu như có thể khẳng định đó là hai chữ "ánh trăng".
                              Theo như hai cô gái gặp lúc ban ngày đã nói, thì "ánh trăng" đã từng tồn tại trong bộ não của các cô sinh viên đã nhảy lầu, và họ đoán rằng "vụ án mưu sát 405" và "ánh trăng" có liên quan chặt chẽ đến nhau.

                              Tại sao hai chữ này lại xuất hiện trong đầu Bình Thành?
                              Và ngày 16 tháng 6 đã gần kề, anh ấy phải chịu áp lực quá lớn chăng?
                              Hay là anh ấy có điều gì đó đang giấu mình?
                              Anh ấy chưa bao giờ nói với mình là ở đại học y Giang Kinh bao năm qua liên tiếp nhảy ra các vụ nhảy lầu? Vì sợ sẽ đụng đến nỗi đau của mình, thật không?
                              Nếu sớm biết chuyện, chắc mình sẽ lập tức liên hệ ngay đến cái chết của Tiêu Nhiên.
                              Tại sao lại xảy ra các vụ nhảy lầu? Lẽ nào lại quái đản như hai cô sinh viên kia đã nói?
                              Phồn Di thấy hướng suy nghĩ của mình có phần rối loạn, chị đứng lên pha tách trà rồi lại ngồi xuống bình thản ngẫm nghĩ: tại sao hễ nghe đến "vụ 405" mình lại bứt rứt không yên? Hình như không chỉ vì căn phòng 405 là phòng ký túc xá định mệnh của Tiêu Nhiên. Thế thì còn vì cái gì khác nữa? Có lẽ, hồi tưởng rành rọt quá khứ sẽ khiến cho những điểm nghi vấn đã nhạt nhoà lại được hiện lên rõ nét.
                              Trước tiên là việc Bình Thành chuyển trường học, có thể nói điều này chưa từng nghe nói đến trong các trường đại học ở thời kì ấy. Cái gì đã khiến anh có thể chuyển trường một cách thuận lợi? chẳng lẽ vì nhiệt tình muốn phục vụ giai cấp công nhân? Chính Bình Thành nói, anh đã học hết phần đại cương ở đại học y số 1 Giang Kinh, ở Giang Kinh rộng lớn có hàng chục bệnh viện lớn nhỏ, anh ấy lại chẳng tìm được một người bạn cũ để nhờ? Tại sao mình vừa đến bệnh viện Hoán Nam thì anh ấy lò dò đến, và ngẫu nhiên làm cùng với mình luôn? Quyền phát ngôn lựa chọn nông trường bộ đội, thường nằm trong tay phái "tạo phản" đang "nắm" nhà trường, nhưng Bình Thành thì không có cái vai trò ấy. Ở nông trường, tại sao chỉ ít lâu sau khi mình và anh ấy đã chính thức yêu nhau, thì cả hai cùng nhận được lệnh khẩn "vì thiếu cán bộ y tế" nên điều động về bệnh viện thị trấn, ít lâu sau lại lên huyện, rồi về thành phố Bang Phụ? Tất cả đều như bước lên một con đường đã được sắp đặt "phẳng phiu". Cho đến thập kỉ 70, Bình Thành được điều về bệnh viện Giang Kinh, còn mình - vì vẫn còn dư âm của chuyện xưa tan nát cõi lòng, nên vẫn khăng khăng ở lại An Huy.
                              Có quá nhiều vấn đề. Phồn Di buồn bã đứng lên đi đi lại lại mấy bước. Chị biết đêm nay mình sẽ mất ngủ. Từ lúc chiều đến giờ, chị cứ do dự chẳng biết có nên đọc bản phô-tô “Hồ sơ Nguyệt Quang xã” mà Âu Dương Sảnh đưa cho không? Chị không tin rằng, chỉ qua một thời gian ngắn, chị sẽ có can đảm đọc nó - chứng trầm cảm nghiêm trọng tuy đã được khống chế, nhưng bác sĩ vẫn dặn dò phải gắng tối đa không để cho tâm trạng bị xáo trộn. Đọc nhật ký của Tiêu Nhiên, chắc chắn tâm trạng của mình sẽ biến động dữ dội, vậy nên hãy tránh thì hơn. Trên đường trở về nhà, Phồn Di đã mấy lần định đứng lại mở ra xem nhưng rồi lý trí của chị vẫn kiểm soát được. Lúc này đêm dài đằng đẵng, chị không muốn lại mệt óc để cân nhắc nữa, quyết định sẽ mở cuốn nhật ký của Tiêu Nhiên ra đọc, coi như để thư giãn vậy.
                              Chị mở va-li du lịch lấy tập phô-tô hồ sơ đó ra, thoáng nhìn đã biết ngay là chữ của Tiêu Nhiên, nét chữ thân quen này đã trôi đi xa lắm, chị thấy đau xót, và hiểu rằng mình đã quyết định sai lầm, chỉ e không có can đảm để đọc nó nữa.
                              Phồn Di không đọc nội dung nhật ký, mà chỉ giở rất nhanh lướt nhìn các trang hồ sơ.
                              Sau phần nhật ký là một số trang ghi chép với nhiều dạng chữ viết khác nhau, chắc là tổ điều tra ghi các nội dung thẩm vấn Tiêu Nhiên.
                              Bỗng Phồn Di nhìn thấy một kiểu chữ viết quen quen.
                              Trên một tờ giấy viết thư có in hàng chữ “Ủy ban cách mạng đại học y số 2 Giang Kinh”, thấy viết rõ ràng “Báo cáo nội bộ về hoạt động của “Nguyệt Quang xã” trong thời gian gần đây”, thấy tất cả thảy có 5 tờ, ghi chú ở phần cuối cùng là hai chữ: “Tinh hoả”
                              Đốm lửa tuy nhỏ, đốt cháy đồng cỏ.
                              Đây chính là bút tích của Lục Bỉnh Thành.
                              Phồn Di cảm thấy hơi chóng mặt, cố gượng để đọc bản báo cáo này. Càng đọc chị càng thấy kinh hoàng.
                              Nửa đầu của báo cáo, nói về tình hình từ 1966 Ủy ban cách mạng đại học y Giang Kinh - dưới sự giúp đỡ của Uỷ ban cách mạng các trường đại học toàn thành phố - đã tóm được một loạt thành viên “Nguyệt Quang xã” vẫn đang bí mật hoạt động. Từ bản báo cáo này, nhận ra rằng chính đồng chí “Tinh Hỏa” đã dùng bí danh “Liễu Tinh” để thâm nhập nội bộ tổ chức “đặc vụ” này, nắm được quy luật hoạt động của “Nguyệt Quang xã”, từ đó giăng lưới vét sạch cả bọn phản cách mạng.
                              Nửa sau của báo cáo, chủ yếu ghi chép quá trình triển khai điều tra thẩm vấn chu đáo tỷ mỉ ra sao, cuối cùng làm rõ Tiêu Nhiên là thành viên cuối cùng của "Nguyệt Quang xã", đánh dấu chấm hết tuyệt đẹp cho quá trình phá "vụ trọng án Nguyệt Quang xã" trải suốt 10 năm. Và, người tổ trưởng luôn đứng sau họat động của tổ điều tra, chính là đồng chí “Tinh Hỏa”- người viết bản báo cáo này. Tuy “Tinh Hỏa” không trực tiếp tham gia thẩm vấn Tiêu Nhiên nhưng anh đã rất thành công trong việc phân hóa, làm tan vỡ “những thế lực thông cảm” với Tiêu Nhiên, dùng áp lực mạnh buộc người yêu của Tiêu Nhiên phải tuyên bố “vạch rõ gianh giới” với Tiêu Nhiên, đồng thời thu được chứng cứ quan trọng chứng minh anh ta đã tham gia hoạt động của "Nguyệt Quang xã".
                              Đáng tiếc, bản báo cáo này không viết rõ “chứng cứ quan trọng” cụ thể là thứ gì, có lẽ nó chỉ là cuốn nhật ký này. Cũng không viết ai đã cung cấp chứng cứ, nhưng hình như ngầm chỉ ra rằng chính Khổng Phồn Di đã “trở về với chính nghĩa”, khai ra Tiêu Nhiên.
                              Thảo nào Âu Dương Sảnh nhìn mình hằn học như thế.
                              Điều này mới khiến Phồn Di phải rùng mình: thì ra Lục Bỉnh Thành là một con người như thế!
                              Tay Phồn Di run run, nhưng chị lập tức an ủi: ở cái thời đại ấy, thì hành động của Lục Bỉnh Thành là biểu hiện của cách mạng - thậm chí là cao thượng, là vinh quang. Có vô số người đã mắc những sai lầm kiểu này. Trong thời kỳ mới, họ sửa chữa sai lầm, đổi mới vươn lên không làm hại ai nữa, là tốt rồi. Thậm chí chị nghĩ rằng trong báo cáo này Bỉnh Thành đã cố ý miêu tả chị là “đã nâng cao giác ngộ cách mạng”, ngụ ý rằng chị khai ra Tiêu Nhiên – là sự bảo vệ cho chị.
                              Lúc này đã có thể hiểu, tại sao trong khi các sinh viên khác vẫn đang phải “rèn luyện” thì mình đã trở thành một bác sĩ.
                              Có một điều đáng sợ là, xưa nay Bỉnh Thành vẫn luôn giấu chị.
                              Chuyện này, anh ấy có thể giấu chị lâu như thế, ổn thoả như thế, liệu còn có những chuyện gì khác vẫn đang chôn giấu trong lòng anh ấy không?
                              Phồn Di không còn tâm trí nào để đọc nhật ký của Tiêu Nhiên nữa, vì chị đã cảm giác được rằng tất cả đều bắt đầu từ một sai lầm rất lớn, không thể khắc phục, và ngoài cả sự tưởng tượng của chị. Chị cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ, bèn vội vã cất ngay đám giấy tờ vào xắc du lịch, chị rất sợ Bỉnh Thành phát hiện thấy. Hôm nay chị mới nhận ra rằng, người đàn ông đã chung sống với mình bao năm qua xa lạ biết chừng nào!
                              “Em đang làm gì thế?”
                              Phồn Di suýt kêu lên, quay đầu lại, chị chưa kịp hòan hồn nhìn Bỉnh Thành đang đứng sau lưng chị.
                              “Bỉnh Thành! Thì ra là anh làm em giật cả mình…. Em… không ngủ được, nên ra đây thu dọn các thứ.”
                              Dưới ánh đèn sáng choang, sắc mặt anh có phần uể oải và khô cứng: “Em đừng vội, để sau hãy thu dọn, có gì mà không thu dọn được chứ.”

                              8h ngày 14 tháng 6
                              Sáng ra, Bỉnh Thành lại hăm hở cưỡi xe đạp đi làm. Anh vừa đi khỏi, Phồn Di cũng dậy ngay, bắt đầu từ phòng đọc sách, chị tìm kiếm khắp nhà. Chị cũng không biết mình đang tìm kiếm cái gì, hoàn toàn không có mục đích. Có lẽ chị nhằm loại trừ mối nghi ngờ của người chồng.
                              Trên bàn là một vài cuốn sách giáo dục học và mấy sổ “Bản tin tham khảo mà gần đây anh chưa kịp đọc trong giờ đi làm. Có một tập “Hóa đơn / Ghi chép chi tiêu “ cũng đặt trên bàn. Chị biết anh là một nòng cốt của Đảng uỷ Viện y học lâm sàng, một số tín hiệu gần đây cho thấy có thể anh sẽ được đề bạt làm hiệu phó, cho nên anh liên tục đi công tác, anh tập hợp các hóa đơn, đủ mọi hạng mục, đúng là thượng sách. Đang định lướt qua cái bàn thì chị chợt nghĩ: nên tìm hiểu Bỉnh Thành hay đi đâu, thì cũng không có gì là dở cả, ít ra cũng có thể chứng minh anh đi đâu, có giấu mình hay không ?
                              Đọc hóa đơn, phiếu chi … là chuyện cực kỳ đáng ngán, Phồn Di giở vài tờ phiếu chi gần đây, thấy các địa chỉ anh đi đến đều khớp với các điều anh đã nói với chị trước đó. Khi nhìn thấy một phiếu ghi chi tiêu ghi ngày đầu tháng 5, chị bỗng chững lại. Chị nhớ rằng, anh đã nói lần ấy là đi Nam Kinh dự hội nghị bàn về giáo trình y khoa do Bộ y tế và Ủy ban giáo dục cùng triệu tập. Nam Kinh khá gắn bó với Vô Tích quê chị, mấy năm trước cha mẹ chị lần lượt qua đời nhưng chị vẫn còn nhiều người thân ở quê, chị vẫn rất nhớ thương họ.
                              Tờ khai chi tiêu này bao gồm vé tàu hoả khứ hồi, phí nghỉ khách sạn, và hóa đơn đi taxi. Nhiều năm làm công tác nghiên cứu khoa học đã tôi luyện cho chị có đôi mắt sắc sảo, chị vừa thoáng nhìn đã nhận ra ngay có điều bất thường. Lại nhìn kỹ từng tờ vẽ, chị thấy nổi cộm một điều nghi vấn lớn.
                              Chị phát hiện ra rằng, tấm vé tàu từ Nam Kinh trở về Giang Kinh ghi 10 giờ ngày 7 tháng 5 tàu chạy. Vì là tàu tốc hành, nên khoảng trưa ngày 8 sẽ về đến Giang Kinh. Nhưng, tám “Vé thống nhất của taxi thành phố Giang Kinh” cùng tên trong tập phiếu khai này, thì lái xe ghi là ngày 9 tháng 5. Tại sao lại chênh nhau một ngày?
                              Phồn Di nhìn kỹ hai tấm vé tàu hỏa bằng bìa cứng, rõ ràng là có dấu hiệu của kiểm soát vé – là vết “bấm” riếng của nhân viên trên tàu làm, thường là lưu lại bên mép tấm vé bằng bìa cứng ahi cái “răng” nhỏ. Có lẽ mình đã đa nghi, rõ ràng là anh ấy lên tàu hỏa trở về Giang Kinh, chắc là anh lái xe taxi đã ghi nhầm ngày trên vé xe, chỉ là viết nhầm thôi, khi viết ngoáy, số 8 và số 9 cũng dễ lẫn lộn kia mà!
                              Nhưng chị lại nhìn tấm vé chuyến đi khỏi Giang Kinh, thì chị lại nghĩ khác. Vết soát vé để lại trên tấm vé tàu đi khỏi Giang Kinh, là hai “răng” có quy tắc, cái răng nhỏ có hình chữ nhật. Nhưng tấm vé trở về Giang Kinh tuy có 2 cái răng nhỏ ấy, nhưng lại không phải hình chữ nhật. So sánh tiếp hai tấm vé, còn thấy khoảng cách giữa hai răng lại cũng khác nhau.
                              Nó nói lên điều gì ? Bỉnh Thành đã không dùng tấm vé này, nhưng tự anh đã “bấm” thành hai cái răng để làm bằng chứng báo cáo tài vụ thanh toán? Tại sao anh phải làm thế?
                              Phồn Di nghĩ mãi nghĩ mãi rất lâu, đưa ra nhiều giả thiết…cho đến lúc chính mình cũng thấy thật vô lý: chẳng lẽ một con người từng có một đoạn đời đen tối, thì không thể có hiện tại và tương lai trong sáng đàng hoàng nữa? Liệu có phải mình đã quá đa nghi không nhỉ?
                              Nhưng Phồn Di vẫn muốn loại trừ một giả thiết táo tợn và đáng sợ nhất.

                              Sau khi Phồn Di nhấn vào máy nhắn tin của Âu Dương Sảnh, rất nhanh chóng chị đã nhận được điện thoại trả lời: “ Cô Phồn Di, cháu và Hinh đang ở đây, mỗi người cầm một ống nghe.”
                              Nên bắt đầu nói từ đâu nhỉ? Phồn Di hơi ngập ngừng, rồi hỏi: “ Tôi nhớ là Hinh nói rằng đã chứng kiến một sự kiện nhảy lầu ở Nghi Hưng, người ấy trước kia cũng ở phòng 405, cũng từng nhảy lầu, nhưng đã may mắn sống sót. Cháu còn nhớ mình đi Nghi Hưng, hôm nào không?”
                              “Cháu còn nhớ, là ngày 8 tháng 5.” Hinh khẳng định. Một chuỗi các cảnh ngộ hôm đó, đến nay cô vẫn còn nhớ như in.
                              “Trời ơi” Phồn Di kinh hãi kêu lên. Chị lại càng do dự, có nên nói cho hai cô gái này biết bí mật về Lục Bỉnh Thành hay không? Phồn Di vốn luôn rất có ý thức giữ kín bí mật đời tư, nhưng lúc này chị thoáng cảm thấy mình càng biết nhiều thì nguy hiểm sẽ càng tiến đến gần.
                              “ Để tôi kể từ đầu nhé. Tối qua tôi đã mở đọc hồ sơ "Nguyệt Quang xã" mà hai cháu đưa cho, thấy rằng rất có thể chồng tôi cũng liên quan đến "Nguyệt Quang xã". “
                              “Ôi!” Hinh và Sảnh cùng kêu lên: “Chú ấy là ai ạ?”
                              “Anh ấy là phó bí thư Đảng uỷ Viện y học lâm sàng của các cô, tên là Lục Bỉnh Thành !”
                              Sau khi nghe Phồn Di kể xong phát hiện của mình qua tập hồ sơ, Diệp Hinh nói: “Thật không ngờ chú ấy lại là Liễu Tinh! Một loạt các thành viên của "Nguyệt Quang xã" đã bị chú ấy tố giác, tuy không trực tiếp bị chết bởi bàn tay chú ấy, nhưng chú ấy không thể thoái thác trách nhiệm!”
                              Hinh lập tức nhớ ra ngay rằng dù sao Lục Bỉnh Thành cũng là chồng Phồn Di. “Cô ạ, có lẽ cháu không nên nói về chồng cô như thế!”
                              “Không sao. Tôi cũng vừa mới biết anh ấy là tổ trưởng “tổ điều tra chuyên án "Nguyệt Quang xã" năm xưa, tôi và Tiêu Nhiên bị gây sức ép nặng nề, đều là ý của anh ấy đưa ra.” Phồn Di không dám nghĩ thêm về cái năm ấy nữa, tất cả - đều ngầm nói rằng kể từ năm ấy, cuộc đời chị đã đi chệch hướng.
                              “Vậy thì chú ấy nhất định phải biết ai đã bán đứng chú Tiêu Nhiên!” Sảnh nói.
                              Hinh nói: “Khỏi cần hỏi nữa, đã không phải là cô Phồn Di thì rõ là Trịnh Kình Tùng rồi!”
                              ”Điều này càng chứng tỏ Kình Tùng không thể là cùng chết với chú Tiêu Nhiên. Liệu có phải là tự sát hay không, đó là một câu hỏi lớn!”
                              “Cháu nghĩ là, chắc chắn Thẩm Vệ Thanh không muốn tự sát, nhưng rồi chị ấy cũng rơi xuống lầu, liệu có ai đứng sau đẩy xuống không?” Hinh nhớ lại căn hộ của Vệ Thanh, nếu cánh cửa thông ra ban công mở ra, thì một ai đó sẽ rất dễ đẩy chiếc xe lăn ra sát lan can của ban công rồi xô xuống, Vệ Thanh cũng không còn cơ hội để chống lại.
                              Phồn Di đang định nói mối nghi ngờ của chị về chuyến đi Nam Kinh của Bình Thành, nhưng chị lại kìm lại. Biết nói thế nào đây? Nghi ngờ chồng là hung thủ giết người? Chỉ một tấm vé tàu hỏa, thì có thể nói lên điều gì?
                              Chị và Sảnh giao hẹn sẽ tiếp tục liên lạc, đặt máy xuống rồi chị vội vã ra khỏi nhà.
                              Chị muốn được nghe thêm các ý kiến khách quan về người chồng của mình.
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.11.2006 03:28:58 bởi PhongAnh >
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 34 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9