Truyện Ma - Ghost Stories
silverbullet 10.10.2006 04:50:47 (permalink)
Ánh lửa ma
Tác giả: Nguyễn Đình Khánh


Ma quỉ đã có từ đời thượng cổ, và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, những câu chuyện ma thường được kể vào những buổi tối mà thính giả luôn luôn là một lũ trẻ con ngồi trên giường với những đôi chân nhỏ bé rút lên vì sợ. Mà sợ cái gì?
Sợ giữa lúc đang say sưa nghe chuyện, lỡ một bàn tay lạnh buốt nào đó từ trong gầm giường thò ra nắm chân lôi xuống thì lôi thôi... Ở Âu châu, đã có một thời, người xứ Wales tin tưởng mãnh liệt vào "ánh lửa ma" và đã có rất nhiều câu chuyện về loại lửa này được kể đi kể lại.
Ánh lửa ma có hình dạng một ngọn lửa nhỏ xuất hiện trên đường đi của đám tang. Những người có đủ can đảm tới gần ánh lửa ma sẽ có thể thấy mặt người sắp chết. Lửa xanh báo hiệu cái chết của trẻ con và lửa vàng dành cho người lớn.

oOo

Một ngày vào đầu thế kỷ trước, trong một ngôi làng nhỏ ở miền Bắc xứ Wales, có hai cậu bé bà con gần tên là Tom Llewellyn và Evan Pugh ở hai trang trại cận kề và là đôi bạn thiết.
Khi Tom 18 và Evan 16, hai người phải chia tay khi gia đình Evan dọn tới một ngôi làng khác cách ngôi làng cũ khoảng 10 cây số. Đã từ bao năm qua, đôi trẻ vẫn luôn chơi đùa bên nhau, nên bây giờ khi phải chia tay, cả hai cảm thấy như bị mất mát một cái gì rất quan trọng, họ cảm thấy rất nhớ nhau dù cả hai bà mẹ đều hết lời khuyên giải.
Một thời gian sau, hai cậu đã tìm ra một giải pháp: Cứ mỗi cuối tuần, hai cậu lại thay phiên tới thăm nhau.
Một ngày cuối tuần vào cuối mùa thu, đến lượt Evan tới thăm Tom. Sau một ngày chơi đùa thỏa thích trong hai ngày trời mát dịu, giữa vẻ đẹp hiền hòa của miền quê, trong cái nắng trong vắt như pha lê, cuối cùng đôi bạn cũng phải chia taỵ Theo tục lệ xứ Wales, chủ nhà thường tiễn khách một đoạn đường và Tom lấy một cái khăn quàng thật dầy quấn quanh cổ, đưa tiễn Evan trên con đường làng, vừa đi cả hai vừa thảo luận cho chương trình tuần sau, khi đến lượt Tom tới thăm Evan.
Đi được một đoạn thì trời nhá nhem. Evan nói với bạn:
- Cậu đã tiễn tôi hơn ba cây số rồi. Thôi cậu về đi.
Tom đáp:
- Ờ, tới chỗ nhà thờ thì tụi mình chia tay.
Trên đường tới nhà thờ, cả hai đi ngang một nghĩa trang lạnh lẽo, bao quanh bằng những hàng cây gầy guộc. Đột nhiên không hiểu tại sao, Evan bỗng rùng mình run lẩy bẩy. Thấy thế Tom bảo bạn:
- Nếu lạnh, cậu lấy cái khăn choàng này của tôi đi. Evan lắc đầu:
- Không, tôi không lạnh, nhưng hôm nay tự nhiên sao tôi cảm thấy sợ hãi lạ lùng. Có thể vì nghĩa trang này! Nhưng tụi mình đã đi ngang đây nhiều lần mà chưa bao giờ tôi có cảm giác hãi hùng này.
Tom liếc nhìn bạn với vẻ tinh nghịch:
- Ờ, có lẽ vì mấy cành cây khẳng khiu này trông giống những cánh tay ma đang vươn ra tính chụp lấy cậu đó.
Nói rồi, Tom quơ quơ hai tay trên đầu bạn, miệng giả bộ rên la như tiếng ma kêu qui? khóc. Evan bật cười đưa tay chụp lấy tay Tom, nhưng Tom đã lanh lẹ rụt lại rồi phóng mình chạy về phía hàng cây bao quanh nghĩa địa. Trong bóng tối mịt mù, bóng Tom khi ẩn khi hiện, Evan chi?
nhắm hướng và nghe tiếng chân bạn mà chạy theo. Khi vừa chạy tới thảm cỏ mịn màng bên ngoài hàng cây, chợt Evan bị một bàn tay lạnh buốt chụp lấy và nghe thấy một giọng nói thì thầm bên tai:
- Evan! Đứng thật yên. Coi kìa!
Phía bên kia nghĩa trang lạnh lẽo chập chờn một ánh lửa mạ Khi hai cậu bé chăm chú nhìn, ánh lửa như bùng lên. Evan nuốt nước miếng một cách khó khăn, thì thầm hỏi bạn:
- Cái gì đó Tom?
Giọng nói của Tom đầy khích động:
- Ánh lửa ma! Nó chỉ xuất hiện để báo tin cho người sắp chết.
Tóc gáy Evan đột nhiên dựng đứng. Cậu ráng thều thào hỏi bạn:
- Ai đang cầm ngọn lửa đó.
- Không ai hết. Nhưng ngọn lửa có hình khuôn mặt người sắp chết.
Ánh lửa chập chờn vẫn chậm chạp di chuyển giữa những ngôi mộ im lìm. Evan lập cập nói với Tom:
- Đi đi, lẹ đi Tom! Nó đang tiến về phía tụi mình.
Tom nắm chặt tay bạn:
- Không, cứ ở đây đi. Nó không làm gì được tụi mình vì nó chỉ di chuyển trên đường đi của người chết.
Yên lặng một chút, Tom nói tiếp:
- Tôi muốn biết người sắp chết là ai. Cậu có muốn đi với tôi không? Evan cảm thấy hết sức hãi hùng, toàn thân run lẩy bẩy. Cậu chỉ muốn chạy về nhà thật lẹ tìm một nơi ấm cúng giữa những người thân nên cậu ú ớ:
- Không... không... Tôi không đi đâu.
Tom hoàn toàn không có vẻ gì là sợ sệt:
- Cậu đừng sợ. Coi kìa, nó đâu có tiến tới phía tụi mình. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó dù vẫn nghe lão già Price thường xuyên nhắc nhở. Đi! Nếu mình tới trước cửa nhà thờ trước khi ánh lửa tiến vào bên trong, mình có thể thấy được khuôn mặt của người sắp chết. Cậu có đi với tôi không?
Evan không nói nổi nữa mà chỉ rên rỉ:
- Không... không... Tôi không muốn biết ai sắp chết... Tôi không muốn thấy ngọn lửa mạ.. Tôi không muốn thấy gì hết...
Tom nhún vai:
- Được rồi! Nếu cậu cứ run rẩy như con gái thế này thì tôi đi một mình.
Evan nắm tay bạn:
- Tom, đừng đi. Tôi sợ quá! Tụi mình rời khỏi nơi này ngay đi.
Tom có vẻ náo nức:
- Đừng sợ! Tôi không thể bỏ qua dịp may hiếm có này. Tôi không tin lão Price và lần này tôi sẽ có thể chứng minh được là lão ta nói láo. Tôi hỏi cậu lần chót, cậu có đi với tôi không?
Evan vẫn run lẩy bẩy:
- Không! Đó chỉ là loài ma quái mà tụi mình nên tránh xạ Không, tôi không đi và cậu cũng đừng đi.
Tom cả quyết:
- Nếu không muốn đi, cậu lên chờ tôi trên đường. Coi xong mặt xác chết tôi chạy lên với cậu ngay.
Dứt lời, Tom chạy thẳng về phía nhà thờ đứng chờ ngọn lửa ma trong khi Evan lập cập chạy ngược lại, nhẩy qua mấy bụi cây ven dường rồi ngồi run rẩy trên thảm cỏ chờ bạn mà tim đập liên hồi.
Trong nghĩa trang, Tom vừa chạy vừa theo dõi ánh lửa ma vẫn đang từ từ di chuyển giữa những tấm mộ bia lạnh lẽo. Cậu không hề sợ hãi mà chỉ cảm thấy tò mò. Khi tới gần cửa nhà thờ, cậu ngạc nhiên khi thấy hai cánh cửa mở rộng. Tom tự hỏi không biết có nên bước vào hay không, nhưng rồi cậu quyết định đứng núp sau một thân cây nhỏ bên ngoài chờ đợi, vì tuy không nhát gan, cậu cũng hơi mê tín. Biết rằng Thánh David chỉ dùng ngọn lửa để báo hiệu một cách thân thiện, giúp những ai sắp về với Chúa biết trước để dọn mình chứ Thánh David không bao giờ làm hại ai, và cũng nghĩ rằng một ánh lửa cỏn con không thể làm hại được mình, nhưng những câu chuyện truyền kỳ về ngọn lửa ma luôn luôn là những câu chuyện kinh hoàng khiến Tom cảm thấy ở bên ngoài dầu sao cũng vẫn an toàn hơn. Nếu bước vào trong, lỡ hai cánh cửa đột nhiên đóng sập lại rồi đèn nến bên trong đột nhiên tắt ngóm và ánh lửa chợt biến thành một cái gì khủng khiếp thì quả là hết thuốc chữa.
Đang suy nghĩ miên man, Tom thấy ánh lửa ma đã tới thật gần. Nó lập lòe vượt qua tấm mộ bia cuối cùng và chậm chạp tiến về phía cửa giáo đường. Tom nín thở đợi chờ và đột nhiên cậu cảm thấy toàn thân lạnh ngắt...
Ánh lửa vẫn chập chờn tiến tới... Tom nhìn trừng trừng như bị thôi miên. Khi ánh lửa tới gần hơn nữa, Tom nhận thấy thoạt tiên nó chỉ là một đốm xanh lập lòe, rồi đột nhiên biến thành khuôn mặt trắng bệch của một xác chết, khuôn mặt mà Tom biết nhưng không thể gọi tên.
Tới sát bên Tom, khuôn mặt của xác chết chợt mở bừng đôi mắt đỏ ngầu, nhìn cậu bằng một ánh mắt ma quái, hai khóe miệng đầy nhớt rãi nhếch lên thành một nụ cười khủng khiếp...
Tom la lên một tiếng hãi hùng làm vang động cả nghĩa địa im lìm như muốn đánh thức tất cả những hồn ma đang nằm yên dưới đáy mộ. Rồi cậu phóng chạy giữa những mộ bia như bị ma đuổi, té lên té xuống nhiều lần để cố tránh thật xa khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái.
Khi nghe tiếng bạn la, Evan đã đứng bật dậy lo lắng đợi chờ. Khi Tom xốc xếch chạy tới như kẻ mất hồn, Evan vội vàng hỏi bạn:
- Cái gì thế? Cậu thấy cái gì thế? Có điều gì ghê gớm đã xẩy ra phải không? Mặt tái ngắt không còn hột máu, Tom thở hổn hển:
- Không... Không có gì hết... Có điều... lão già Price chỉ là một thằng điên! Evan nắm tay bạn, mặt đầy vẻ lo âu:
- Không có gì hết? Thật không? Tại sao cậu lại la hét thất thanh như vậy?
- La hét? Tôi có la hồi nào đâu! Mà có hay không... tôi cũng... không biết nữa! Evan vẫn thắc mắc:
- Cậu nhìn thấy cái gì? Cậu thấy khuôn mặt người chết qua ánh lửa ma phải không?
Tom run lẩy bẩy:
- Không... tôi không thấy gì hết... Thôi, cậu về đi, về ngay đi kẻo trễ quá rồi.
Evan hỏi tiếp:
- Cậu thấy khuôn mặt của ai? Có quen biết với tụi mình không? Tom vẫn run lẩy bẩy, cố gắng trả lời bạn một cách khó khăn:
- Không... không có gì hết... không có ai hết... trễ quá rồi... cậu về đi.
Evan nhìn bạn lo lắng:
- Ừ, trễ thật rồi, nhưng cậu có sao không? Tôi lo quá!
Tom cố trấn an bạn:
- Không, tôi không sao đâu. Thôi cậu về đi, tuần tới tụi mình gặp lại.
Evan nói một cách miễn cưỡng:
- Thôi được! Tôi về. Tuần tới tụi mình gặp lại.
Rồi Tom và Evan chia taỵ Trong khi Evan rảo bước về ngôi làng của cậu thì Tom vẫn chưa hết vẻ kinh hoàng, vừa đi vừa run lẩy bẩy.
Khi cậu về tới nhà, mẹ cậu nhìn con hỏi bằng một giọng đầy kinh ngạc:
- Tom, con có sao không? Sao mặt con xanh mướt như vậy?
Tom như chợt tỉnh, nói với mẹ:
- Dạ không, con không sao hết. Có lẽ tại trời hơi lạnh và con hơi mệt.
Đêm hôm đó, Tom thao thức mãi. Khuôn mặt ma quái mà cậu nhìn thấy buổi chiều lúc nào cũng như đang trừng trừng nhìn cậu trong đêm tối. Cậu cố xua đuổi khuôn mặt của xác chết và nụ cười ma quái, nhưng khi chỉ vừa chợp mắt, cậu thấy mình đang đi trong nghĩa địa và khuôn mặt trắng bệch của xác chết lại xuất hiện qua ánh lửa, nhìn cậu nhếch mép cười khiến cậu la lên một tiếng hãi hùng, mở bừng mắt, mồ hôi toát ra như tắm.
Mấy ngày sau đó, mọi việc diễn ra một cách bình thường. Tom đã có vẻ phục hồi sau cơn xúc động, tuy những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa trang hoang vắng không thể nào rời khỏi đầu óc cậu. Nhiều khi trong lúc đang làm việc, Tom ngưng lại, nhìn trừng trừng về phía trước thật lâu cho tới khi cha cậu thúc cậu, cậu mới như chợt tỉnh tiếp tục làm việc.
Tới sáng thứ sáu Tom cảm thấy vô cùng mệt mỏi, chân tay cậu như rã rời. Thường thường mỗi chiều thứ sáu sau khi làm việc, Tom và Evan lại gặp nhau. Tuần này, đáng lẽ Tom chạy sang nhà Evan, nhưng tới buổi chiều, cậu bị ngất xỉu cả thẩy ba lần. Lần cuối, sau khi té xỉu trong phòng khách, Tom không còn đứng dậy được nữa. Mẹ cậu rờ trán cậu:
- Con nóng quá! Cái thời tiết quái gởn ày làm cho con tôi bị cảm lạnh rồi. Thôi, con về phòng nằm nghỉ đi.
Tom gắng gượng phản đối:
- Tuần này con phải đi thăm Evan.
Mẹ cậu lắc đầu:
- Con yếu quá đi làm sao được. Thôi, con cứ nghỉ ngơi cho khỏe đi cái đã. Tuần này con không đi thăm nó được rồi.
Tom im lặng vì biết mình không đi nổi. Cha cậu phải bồng cậu vào giường. Nằm trên giường, đôi mắt Tom mở trừng trừng như muốn nhìn xuyên qua cái trần nhà trắng xóa. Nhiều lần cậu muốn nói với mẹ về những gì cậu nhìn thấy trong nghĩa địa vào tuần trước nhưng lại thôi. Mẹ cậu đem vào cho cậu một tô cháo nóng hổi nhưng cậu không thể nào nuốt nổi. Cuối cùng, cậu thều thào nói với mẹ:
- Mẹ Ơi! Con muốn gặp Evan. Mẹ làm ơn gọi nó đến đây cho con.
Mẹ cậu lắc đầu:
- Không được đâu con. Con không được khỏe, gọi nó tới làm gì. Thôi, con chịu khó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng vài ngày cho khỏe đi đã, rồi cuối tuần tới Evan sẽ tới gặp con chứ có lâu la gì.
Tom cố năn nỉ mẹ bằng một giọng nói đứt quãng:
- Mẹ làm ơn... gọi nó tới... tới đây cho con... Con phải gặp nó... ngay tối naỵ.. Con không thể... chờ... lâu... hơn... nữa...
Mẹ Tom cương quyết:
- Con mệt quá rồi. Con cần phải nghỉ ngơi. Con đang bệnh, nếu Evan tới đây nó cũng chẳng làm gì được cho con. Thôi con cứ nghỉ cho khỏe đi đã, sáng mai mẹ sẽ nhờ người nhắn lại với nó, chắc chắn nó sẽ thông cảm. Mẹ nghĩ rằng ngày mai nó sẽ có thể tới thăm con.
Nước mắt dâng ngập đôi mi, Tom muốn gặp Evan ngay nhưng cậu không thể cãi mẹ, vì dù có muốn cãi, cậu cũng không thể nói nên lời. Cuối cùng, cậu gắng gượng thều thào:
- Mẹ... mẹ.. làm ơn...
Rồi Tom lại ngất xỉu. Mẹ cậu vội gọi chồng lấy nước lạnh lau mặt cho cậu. Đứng nhìn khuôn mặt trắng bệch và đôi mắt sâu hoắm của con, bà Llewellyn cảm thấy thương xót vô cùng. Bà nghĩ thầm, biết đâu khi gặp Evan con bà lại chả khá hơn. Bà bèn nói với Tom:
- Thôi được. Để mẹ nhờ ba sang đón Evan. Bây giờ, con phải ráng ngủ một chút nghe không.
Cha của Tom vội lấy xe ngựa sang đón Evan. Đang nóng ruột không biết tại sao trời đã tối mà Tom chưa tới, vừa thấy chiếc xe ngựa thoáng hiện bên ngoài trang trại, Evan vội vã phóng ra. Khi được cha của Tom cho hay tự sự, Evan bèn xin phép cha mẹ, lấy vài món đồ cần thiết bỏ vào cái túi nhỏ, nhảy lên xe ngựa.
Từ giã cha mẹ Evan, cha Tom đánh xe chạy về nhà thật lẹ. Chỉ độ trên dưới nửa tiếng đồng hồ, xe ngựa đã về tới nơi. Evan nhảy xuống, chạy thẳng vào phòng ngủ của bạn. Vào tới nơi, Evan vô cùng kinh ngạc vì người nằm trên giường trông không giống người bạn thân của cậu chút nào. Thân thể Tom co rúm lại như chỉ còn một nửa. Con người đầy sinh lực của Tom dược thay thế bằng một thể xác ốm yếu tong teo. Khuôn mặt tươi vui hồng hào của Tom bị thay thế bởi một khuôn mặt hốc hác, tái mét của một người lạ mặt. Evan bước tới bên giường cầm tay bạn. Cậu cố nén lòng nhưng nước mắt vẫn trào ra. Đôi mắt Tom nhắm nghiền dù mí mắt có hơi lay động. Evan bóp chặt tay bạn và bắt đầu khóc rấm rứt. Đột nhiên Tom mở mắt nhìn Evan chăm chăm. Evan hỏi:
- Tom, cậu có nhận ra tôi không? Evan
đây.
Đôi mắt Tom vẫn nhìn Evan trừng trừng. Một lát sau, Evan thấy đôi môi bạn mấp máy nhưng không thành tiếng. Evan quì xuống, ghé tai sát vào miệng bạn. Trong sự yên lặng nặng nề của căn phòng nhỏ, Evan nghe bạn thều thào: - Evan... cậu... ánh lửa... nghĩa trang...
Chỉ nói được mấy tiếng, Tom ngưng lại thở một cách mệt nhọc. Evan siết chặt tay người bệnh như muốn truyền thêm sinh lực. Cậu nói nho nhỏ:
- Tom, nếu cậu mệt thì cứ nghỉ đi. Tôi ở lại đây với cậu trong dịp cuối tuần này mà. Cậu nhắm mắt lại ngủ cho khỏe đi.
Tom vẫn nhìn bạn bằng đôi mắt vô hồn:
- Không... tôi phải nói... Evan... hãy hứa... giữ... bí mật... đừng nói... với... ai...
Nói tới đây, đôi mắt Tom như lạc thần khiến Evan hoảng hốt lắc mạnh tay bạn:
- Tom, Tom, cậu có sao không?
Tom lắc đầu thật nhẹ, cố thều thào:
- Evan... cậu hỏi tôi... thấy gì... tôi thấy... mặt... người chết...
Nói tới đây, đầu Tom hơi nghiêng sang một bên khiến Evan vội buông tay bạn, rồi dùng cả hai tay đặt đầu Tom lại trên gối cho ngay ngắn. Tom tiếp tục thều thào:
- Lúc đó... tôi không... nhận rạ.. nhưng đó là... khuôn mặt... của... tôi... Dứt lời, đầu Tom ngoẻo sang một bên. Giọng nói Tom tắt lịm. Hơi thở yếu ớt của Tom cũng tắt theo.
Evan bàng hoàng đứng dậy nhìn thẳng vào Tom. Trước mắt cậu là xác chết của một người trông hoàn toàn xa lạ, người đã nhìn thấy khuôn mặt chết chóc của chính mình qua ánh lửa ma.


Hết
#1
    silverbullet 10.10.2006 04:54:01 (permalink)

    Một người bạn kỳ dị
    Trọng Miên



    Mỗi lần đến thư viện thì tôi lại gặp hắn, như ngồi mãi một chỗ, chăm chú vào cuốn sách để trước mặt. Vẻ lạnh lùng, tóc bơ phờ, và nhất là đôi mắt kỳ lạ của hắn, ai đã nhìn qua một lần thì không thể quên được - đôi mắt tinh anh dị thường bao giờ cũng như nhìn vào một chốn thăm thẳm.
    Một hôm nhân cùng tìm một cuốn sách cổ quái, ít ai đọc đến, chúng tôi thành quen biết. Hai tâm hồn tương ứng xô đẩy chúng tôi lại gần nhau. Thế - người bạn trong thư viện - và tôi thường chỉ có một câu chuyện độc nhất để say sưa nói với nhau là thơ. Từ địa hạt thơ tôi đã đi lần vào trong cuộc đời thân mật của Thế. Anh ở một góc lầu cao, xa thành phố, thường rất ít đi lại với ai.
    Thú say mê nhất của Thế là thơ, triết lý và thuốc lá. Thế hút píp và có hơn mười cái, đủ kiểu to nhỏ, từ cái píp đầu lâu đến cái píp đầu thi sĩ Baudelaire, và không biết anh đã tìm tòi mua được ở đâu những cái píp quý giá như thế. Anh nâng niu píp như người xưa chơi đồ cổ, hơn thế nữa, anh yêu thương chúng như những sinh vật có linh hồn. Một hôm, Thế rủ tôi đi uống rượu và nói một cách thương tiếc:
    - Tôi vừa mất một người bạn thân.
    Sau hỏi ra tôi mới hay rằng vì một cử chỉ vô ý, anh đánh rơi gãy mất một cái píp đẹp.
    Một sự ham thích khác nữa của Thế là chơi đầu lâu. Mấy cái đầu lâu trắng tinh trang hoàng ở phòng mình, Thế đã mua hai cái ở Hà Nội, thời kỳ học ở trường thuốc, một cái mua ở Huế của cụ Ngáo, đao phủ thủ tại kinh đô bán; cái đầu lâu sau này là của một tướng cướp đào lăng vua bị chết chém. Còn một cái nữa, không rõ Thế mua ở đâu, và ngoài ra, hai cái đầu lâu khỉ.
    Những cái đầu lâu ấy nổi bật hẳn trên màu đen của gian phòng, và đây đó treo những bức thư ảnh của các thi sĩ Thế yêu: Edgar Poe, Baudelaire, Byron, Mallarme, Valéry.
    Bạn khác thường của Thế còn có một con mèo đen nhung chỉ thích được vuốt ve nằm trong lòng người và một con quạ. Con quạ toàn đen này Thế đã tập cho nó nói được và chỉ nói một câu như con quạ của Poe: Không có gì nữa hết!
    Người bạn dị kỳ của tôi chỉ sống để mà làm thơ và đọc sách, đi. Nhưng con người phong vận, cốt cách thi sĩ ấy lại không hề đả động tới đàn bà, và tránh nói đến họ. Đó là sự bí mật ở Thế mà tôi vẫn kiếm dịp để tìm hiểu.
    Một buổi tối lành lạnh, tôi đến thăm Thế, vừa lúc anh ngủ dậy, sau đêm thức suốt sáng đọc sách hay viết. Thế sống khác với người thường, ban ngày ngủ và đêm làm việc. Đêm mê say anh như hương thơm tách cà phê đậm.
    Dựa ngửa ra chiếc ghế lót đệm nhung, ngậm píp phì khói tỏa mờ, Thế thì thầm ngâm thơ. Ngồi một bên, tôi yên lặng nhìn đôi mắt xanh sáng của con mèo đen, vuốt qua làn lông mịn màng như nhung. Trong không khí thân mến, tôi khêu gợi đột ngột đến chuyện tình và mơn man dò hỏi tâm sự bạn. Thế ngập ngừng rồi dịu dàng bảo tôi:
    - Tôi không muốn nhắc nhở đến dĩ vãng vì buồn lắm, nhưng anh đã gạn hỏi, tôi không giấu giếm anh nữa, và để cho anh hiểu tôi hơn.
    Thế đứng dậy thổi tắt cây bạch lạp, vì anh vẫn thích nói chuyện trong bóng tối, những lời nói sáng tỏ hơn. Rồi với một giọng nhiều hơi, buồn buồn, Thế bắt đầu nói:
    - Trước hết, tôi cần nói rõ để anh biết về việc bị chôn sống là vấn đề có liên lạc mật thiết đến câu chuyện riêng của tôi sắp kể.
    Bị chôn sống là một sự thật nguy hiểm, ghê gớm, sự nguy hiểm to tát cũng như sự mê tối của loài người. Tôi đã tra cứu, tìm tòi trong y học và đã kinh nghiệm rằng nếu để trí suy xét thì không ai có thể chối cãi được rằng trường hợp rùng rợn này vẫn xảy ra. Có người may mắn tỉnh lại trước lúc chôn để tránh khỏi sự lầm lạc tàn khốc, nhưng ta phải nghi ngại rằng đã biết bao người bị chôn sống mà không bao giờ ai biết đến.
    Cái giới hạn chia hai sự sống và chết rất mù mờ và tăm tối. Ai có thể biết rõ được rằng lúc nào là hết sống và khi bắt đầu chết ? Vì trước và sau khi chết, không có một sự phân biệt hiện ra trên người. Mạch máu hay hơi thở ngừng không thể là bằng chứng được. Không có một thời hạn bao lâu để chắc quyết là chết, và trái tim đã ngừng, có thể chịu vài ảnh hưởng trong thân thể rồi đập lại. Sự thực nghiệm ấy khoa học và y học ngày nay đã nói đến. Người chết thật rất chậm, không như ta tưởng. Trong lúc bề ngoài đã chết, kẻ bất hạnh vẫn có thể đang sống. Người chết nào cũng phải qua hai thời kỳ, liên lạc với cái chết và chết thật, nhưng y học còn chứng nghiệm rằng có khi gặp một thời kỳ khác: chết bề ngoài. Thời kỳ này là lúc những cơ quan nhận thấy rõ ở thân thể đều ngừng lại như bộ máy nghỉ chạy rồi trong một khoảng thì giờ qua, vì một nguyên nhân vô hình, người có thể trở lại với sự sống. Những cơ quan trong người đều chia ra các bộ phận riêng, tất cả dù là nương tựa vào nhau, đều có sự độc lập liên lạc. Mỗi bộ phận có thể sống biệt lập với cơ quan có dính líu đến. Cái chết không phải là một sự thay đổi hoàn toàn và chạm đến những bộ máy sống của thân thể. Bởi vậy khi người ta chết, những bộ phận trong người chưa ngưng trệ hẳn, nên rất khó khăn mà phân biệt được rằng cái chết của người này chỉ là bề ngoài, và người kia chết thật. Khoa học cũng phải công nhận rằng những trường hợp này thật khó mà biết rõ ràng được - phần nhiều người đều mặc số mệnh cho sự rủi may - và các vụ chôn sống vẫn xảy ra. Những tiếng kêu gào thảm thiết của người chưa chết hẳn mà đã bị chôn không được ai nghe đến và chúng ta cũng mặc cho số phận mình, nếu bất hạnh một ngày kia tỉnh dậy trong hòm.
    Thế ngừng lại, lấy thuốc cho thêm vào píp, đốt cháy rồi say sưa nói đến câu chuyện của lòng mình:
    - Quãng đời hai mươi tuổi của người thanh niên thường ít ra cũng có một cuộc tình ái điên cuồng mà tốt đẹp, và kỷ niệm ấy bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng: Tâm hồn giàu có tình cảm như chúng ta lại hay gây nên những tình duyên ly kỳ.
    Năm năm trước đây, tôi đang ở trong thời kỳ phát triển của tình cảm thì gặp và yêu một người con gái tên là Bích Trăng. Trăng là một tiếng sét đã làm sôi nổi tận đáy lòng tôi những tình cảm sâu sắc và bền chặt nhất về yêu thương. Trăng có một thứ nhan sắc châu ngọc mà tôi đã mường tượng trong thơ. Với tôi, Trăng là một người yêu có cả tình một người chị, một người mẹ hiền từ của phương Đông. Chúng tôi yêu nhau với tất cả say sưa, nồng nàn của tuổi hai mươi. Mặc dầu giữa Trăng và tôi có những sự cản trở của hai gia đình cổ kính vẫn không thích nhau. Thầy tôi làm quan, trên chức của thầy Trăng. Tính tình cương trực của thầy tôi đã gây nên một sự xích mích giữa hai người, và từ đó cả hai nhà không bao giờ đi lại với nhau nữa.
    Tự buổi đầu, Trăng và tôi cùng biết trước rằng cuộc hôn nhân của chúng tôi sau này khó lòng mà thực hiện được. Nhưng chúng tôi không thể không yêu nhau được và khi người ta yêu... Tôi chăm chú theo đuổi cái địa vị độc lập, chắc chắn mai sau, trở nên một bác sĩ, và khi ấy Trăng cùng tôi sẽ tự do lấy nhau, nếu hai gia đình vẫn không bỏ hiềm khích cũ.
    Thế rồi một hôm đang thời kỳ lưu học ở Hà Nội, tự nhiên tôi thấy nóng lòng, băn khoăn rồi bỗng nhận được dây thép của một người bạn ở Huế cho hay tin Trăng chết. Cái chết đột ngột, dữ dội của Trăng đã làm đảo điên cả người tôi, và tưởng như mình đang mơ.
    Tôi xin phép nghỉ học để trở về Huế ngay chiều hôm ấy. Không muốn cho ở nhà biết, bước xuống xe lửa, tôi lại ngay nhà người bạn. Về cái chết thình lình của Trăng, tôi được hay thêm rằng nàng bị cảm, đau luôn một tuần rồi chết. Và người ta đã chôn nàng sáng ngày.
    Trăng đã chết thật, không còn nghi ngờ gì nữa, không còn gì nữa hết! Tự thâm tâm tôi hét lên một tiếng ghê gớm như làm tan vỡ cả linh hồn: Trăng ơi! Tất cả người tôi vang lên một điệu u trầm, ảo não: Trăng ơi! Hình như trong hồn, trong máu, trong phổi, trong tim tôi lúc bấy giờ đều chứa đựng toàn những mạch tình trìu mến, yêu thương da diết, quấn quít lấy Trăng.
    Tối hôm ấy, tôi ngây dại ra đi trong trăng mờ lạnh. Những tư tưởng điên cuồng nung nấu, sôi nổi cả người, lý trí bị ám hoặc, một ý nghĩ ghê gớm nảy nở và cắm rễ trong hồn tôi. Và như một cơn cảm hứng mãnh liệt, ý nghĩ ấy cứ lấn át, chiếm cứ lấy linh hồn. Tôi cuồng loạn theo uy lực của tình yêu bị kích thích đến cực điểm. Qua bao la, của đêm trăng mờ, tôi mê man theo sự xúc động điên cuồng, lần tìm đến mồ Trăng. ý nghĩ dị thường vẫn bùng cháy như một ngọn lửa: tôi rồ dại muốn nhìn thấy mặt Trăng.
    Đứng trên đồi chôn Trăng, dưới trăng mơ hồ mà trước kia tôi đã cùng Trăng say ngắm, đi qua chốn này, hôn nhau lần đầu tiên, tôi đau đớn ngây ngất khi nhìn thấy gò đất mới đã che lấp Trăng bên những ngôi mả trắng. Cơn bão táp trong não cân lại nổi lên ồ ạt, như một người điên, tôi vác cuốc đem theo mờ loạn đào mồ chôn Trăng. Đất mới đắp còn mềm, dễ bới, tôi say sưa với ý tưởng nhìn lại mặt Trăng, không còn biết gì là mệt nhọc.
    Nhớ lại khi ra đi đã khuya, đến lúc đào mồ Trăng gần đụng hòm thì nghe gà gáy, tôi hoảng hốt vội vã lên vì sợ trời sáng. Gió khuya ở trên đồi nghĩa địa thổi lên từng trận đem tiếng chó sủa trăng ở làng xa với những tiếng mõ canh lốc cốc. Trăng hạ tuần gần sáng càng tỏ rõ, mây đen từng lúc bay qua.
    Tôi mải miết đào, đất bắn khắp mình, quần áo lấm đầy mồ hôi vì nóng, vì cảm động. Đất khỏa ra hai bên người như mở con đường cho tôi đi đến với Trăng. Một tiếng chạm vào gỗ làm cho tôi rung động đến ngây người. Và chẳng bao lâu là tôi cạy mở được nắp hòm. Tôi kéo tung đồ liệm lên, màu vải tang đang còn mới ủ bốc lấy hơi người. Một cảnh tượng đời đời ghi chặt trong trí tôi mỗi khi hồi tưởng lại: nằm thẳng giữa đống đồ khâm liệm màu trắng, dưới trăng lạnh, mặt nhợt nhạt của Trăng có một vẻ thiên tiên lạ lùng. Những ý nghĩ điên cuồng, sôi nổi dịu dần trong trí tôi khi nhìn thấy mặt Trăng. Tôi đưa hai tay run rẩy cầm chặt lấy hai bàn tay Trăng, hai bàn tay cứng lạnh xưa kia đã ve vuốt đầu tóc bơ phờ của tôi. Những giọt nước mắt của tôi từ từ rơi trên má, trên mắt, trên môi nàng. Tôi mê man lặng ngắm Trăng rất lâu, lòng kêu rên những cảm hoài vô tận. Tưởng chừng tôi chỉ muốn ôm xác Trăng về cùng mình, vì không chịu thấu được sự chia ly, hiu quạnh đời đời. Tôi nghẹn ngào gọi tên Trăng trong lúc gió buổi hừng sáng thổi lướt trên đồi. Mặt trăng mờ nhạt tỏa xuống bóng tôi đang gục đầu trên ngực Trăng nằm trong chiếc hòm phá vỡ.
    Trời sắp sáng rồi. Tôi còn phải đậy hòm lại, lấp đất lên. Lần cuối cùng, tôi hôn lên đôi mắt nhắm kín của nàng - than ôi, đôi mắt không bao giờ còn nhìn tôi nữa hết - rồi lấy con dao nhỏ đem theo cắt lấy mớ tóc mịn màng của Trăng. Tôi vẫn tiếc nuối không nỡ rời đi, ôm chặt lấy hai tay nàng. Giờ phút ấy, tôi chỉ muốn trời đất tan sập đi, thành hư không như người trở về với cát bụi.
    Tôi còn ngây ngất trước cảnh tan nát xé dạ, thì lạ lùng thay, tay Trăng như động đậy trên tay tôi. Và, trước sự kinh ngạc của tôi, đôi mắt nhắm cứng của Trăng bỗng từ từ mở ra nhìn tôi. Rồi tự nhiên đôi môi của Trăng hé mở để lộ những răng trắng tinh. Không phải vì tôi quá cảm xúc mà bị mê hoặc đâu! Trăng bắt đầu uốn mình như người tỉnh dậy sau giấc ngủ đầy mệt nhọc. Và đôi mắt Trăng mở trân trân, ngạc nhiên khi nhận thấy mình đang nằm trong hòm, giữa bãi tha ma, và bên nàng lại có tôi.
    Cái ý nghĩ Trăng bị chôn sống thoáng qua trí tôi đánh tan tất cả bỡ ngỡ, hãi hùng.
    Thế châm diêm đốt cái píp đã tắt rồi nói tiếp:
    - Tôi đã đến kịp để cứu Trăng ra khỏi cái trường hợp tàn khốc, ghê gớm ấy. Tôi tin rằng có một sức mạnh thiêng liêng, thần bí đã nhập vào hồn tôi.
    Khi đã gỡ Trăng ra khỏi đống đồ liệm, tôi cởi áo ra, đặt nàng nằm nghỉ cho tỉnh hẳn. Trong lúc ấy tôi nhét đồ liệm vào hòm, đậy nắp lại rồi đắp đất lên, không để lại dấu vết gì để ai có thể nghi ngờ rằng xác chết bị mất trộm hay người chết trong hòm đã sống lại.
    Trời vừa sáng thì tôi đã dìu Trăng về đến nhà người bạn. Trăng kêu khát và đói lắm vì đã ba ngày đêm ngất lịm. Uống sữa vào tỉnh hẳn người, Trăng cặn kẽ kể lại:
    - "Em đang đau bỗng mê man, nói sảng luôn mấy ngày, rồi đến lúc nguy kịch... Có buổi sáng, lý trí trở lại với em một cách thình lình, nhưng thầy thuốc chứng rằng mạch em đã yếu lắm. Em cũng tự biết đến hồi nguy ngập và hấp hối. Thời kỳ cuối cùng, em bắt đầu thấy không đau đớn nữa, mình nhẹ nhàng đi vào một thế giới mơ hồ. Từng lúc em có cảm giác rằng linh hồn được tự do bắt đầu thoát ly. Trong một cuốn sách về y học của anh cho em mượn đọc, em nhớ có nói rằng lúc gần chết, sức mạnh tinh thần của ta không bị đụng chạm gì đến, và ở những người mà tâm tính vẫn giữ được cứng cỏi thì linh hồn được thêm năng lực. Khi cơn bệnh được yên tĩnh đôi chút thì óc được tách ra làm việc như thường. Em đã nhận thấy đúng như thế sau vài lúc mê sảng, hoảng hốt như cuồng tâm.
    "Sau mấy hôm lịm đi, thình lình em bỗng tỉnh trí với tất cả sự sáng suốt. Trong giấc ngủ chết, tuy mình mẩy cứng đờ, không thể cử động được nhưng em vẫn nghe thấy lờ mờ chung quanh. Lúc ngất đi, em còn nghe tiếng đồng hồ đánh mười giờ, rồi như chớp, một sự đau đớn ghê gớm, chưa bao giờ cảm thấy, ồ ạt đến chiếm lấy người em. Cảm giác ấy tới rành rẽ và mau lẹ như một nhát dao đâm suốt qua xương thịt, mà còn khiếp đảm hơn nhiều.
    "Trong đêm đen tối, đột nhiên em nghe đồng hồ đánh năm giờ. Trước hết linh hồn em chịu tất cả những sự khó khăn để thoát khỏi chốn vô ý thức. Rồi ý nghĩ của em lần lượt theo nhau trở lại và như muốn giật lùi. Em cố cử động nhưng không một chân tay nào theo sự sai khiến của lý trí. Em còn ngờ nghệch trước cơn mê lịm của thể xác im lìm thì linh hồn bỗng sôi nổi lên, suy nghĩ một cách mau chóng lạ thường. Trong một chớp nhoáng của tâm thần sáng suốt, em thấy rõ trước sự kinh đảm của người chết. Trên hai sợi dây đưa quan tài xuống địa huyệt, xác mình đụng vào săng, còn ở trên, những người thân yêu vứt xuống nắm đất vĩnh quyết. Và trên hòm, có tiếng nện đất, rồi đắp mộ xong, mọi người xây lưng lại, trở về với cuộc đời. Em tưởng tượng ra dưới tận chỗ ở cuối cùng hết sức chắc chắn và kín đáo, sự lạnh lẽo ghê gớm của bóng tối bất diệt. Em nghĩ đến anh, anh yêu dấu của em ở xa xôi không hay biết gì hết.
    "Em tưởng rằng trường hợp của em không phải là khác thường và có lẽ lúc chết ta vẫn luôn luôn có ý thức, linh hồn còn sáng suốt trong cái thân xác cứng đờ, người chết có lẽ phải biết qua các lúc tẩm liệm. Trong cảnh ngộ hãi hùng ấy, nghĩ đến đêm lạnh đời đời dưới đáy huyệt âm u, linh hồn sẽ tiêu tán theo xác thịt hay là về đâu? Em đau đớn nghĩ đến anh bơ vơ, cô độc, đời anh không có em thì buồn khổ, hiu quạnh biết chừng nào. Thế rồi em ngất đi...."
    Thế kể tiếp:
    - Người nhà Trăng thấy tim nàng ngừng đập, da và môi nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền, thân thể cứng lạnh, mạch đứng, nên cho là chết thật. Vì cái chết bề ngoài của Trăng rõ ràng như thế, thì không ai có thể nghi ngờ và không vin vào cớ gì để nghi ngờ rằng Trăng chưa chết hẳn. Và sự chôn lầm người còn sống bởi đây mà ra. Chính lúc tôi đào mồ Trăng lên cũng thấy nàng nằm trong một dáng điệu của người chết. Sự may mắn kỳ diệu là Trăng tỉnh ra giấc ngủ chết, cái chết bề ngoài, nhằm lúc tôi phá hòm chôn đựng nàng.
    Sự sung sướng vô cùng của chúng tôi gặp lại nhau trong một trường hợp dị thường như thế, loài người không có thứ tiếng gì để tả nổi.
    Tôi phải giấu giếm việc Trăng được cứu khỏi bị chôn sống, đợi nàng thật lành mạnh rồi chúng tôi bỏ Huế vào Sài Gòn, sống xa lạ hẳn để không ai tìm biết được cuộc tình duyên lạ lùng của Trăng và tôi. Tôi viết một bức thư về nhà nói mình vì thích phiêu lưu nên đã xin làm dưới tầu đi ngoại quốc. Đối với gia đình, tôi thấy có lỗi nhưng tôi biết rõ tính tình cương quyết cực điểm của thầy tôi không bao giờ cho phép tôi lấy con một người mà thầy tôi đã khinh.
    Chúng tôi sống cùng nhau được mười ba tháng thương yêu tha thiết thì Trăng chết, và lần này chết hẳn thật. Trái tim của nàng trước kia đã yếu vì lần chôn sống càng yếu thêm, rồi mỗi ngày thêm nặng, và nàng đã nhắm mắt trong tay tôi.
    Im lặng một lúc, Thế kết luận:
    - Bây giờ anh đã rõ tại sao tôi tránh không muốn nói đến đàn bà. Người ta chỉ một lần yêu... Sau Bích Trăng, đàn bà đối với tôi không có gì nữa hết!
    Lời Thế vừa dứt, trong im lặng, đen tối, con quạ của chàng lặp lại: Không có gì nữa hết!
    Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu, và trong lắng chìm của bóng tối u huyền, vang ngâm giọng Thế đọc theo nguyên văn bài thơ của nhà thi sĩ Mỹ:
    "Một hôm giữa cảnh đêm khua rờn rợn ta đang mỏi mệt gục đầu trầm ngâm đọc lại mấy cuốn sách cổ kỳ dị không còn ai tìm đến. Trong khi ta lao đao muốn ngủ, thốt nhiên, nghe tiếng động se sẽ, như tiếng ai gõ nhẹ vào cửa phòng ta. Ta lẩm bẩm: "Chắc ai lại thăm gõ cửa phòng ta; chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết".
    "à, ta nhớ lại rõ ràng, đêm hôm ấy vào khoảng tháng chạp lạnh lùng; mớ củi tàn xơ xác nằm chơ vơ in bóng trên mặt đất. Ta thì nóng lòng chờ trời mau sáng vì u sầu tràn ngập cả hồn, ta cố khuây lãng trang sách mà không được. Ta buồn rầu tưởng nhớ đến Bích Trăng không còn nữa, nhớ đến nàng yêu kiều lộng lẫy mà thiên tiên kêu gọi là Bích Trăng, chờ dưới trần gian không còn có ai gọi đến tên nàng nữa hết.
    "Tiếng mơ hồ, dìu dịu, rầu rầu của mấy tấm màn điều lao xao thấm đượm, tràn ngập hồn ta những rùng rợn gớm ghê, mà chưa bao giờ ta đã cảm rung như thế, - đến nỗi ta phải nhắc nhở mình luôn cho lòng bớt hồi hộp: "Chắc khách qua đường muốn vào đây tạm nghỉ trọ, chắc vậy chớ không có gì nữa hết".
    "Tâm trí lần lần mạnh dạn lên, rồi tôi không ngập ngừng lâu nữa: "Ông hay bà nào ngoài đó, tôi xin thất lỗi, số là tôi đang chập chờn ngủ thì ông hay bà lại gõ cửa, nhưng tiếng gõ khẽ quá, tiếng gõ cửa phòng nhỏ quá, nên tôi cũng không rõ là có ai gõ thật hay không". Nói rồi tôi mở toang cửa ra - ở ngoài chỉ là bóng tối đen, và không có gì nữa hết!
    "Nhìn sâu vào bóng tối u huyền, tôi đứng lặng giờ lâu, vừa kinh ngạc, sợ hãi, nghi ngờ, tưởng tượng những chuyện lạ lùng mà chưa bao giờ kẻ trần gian nào dám nghĩ đến; nhưng đêm vẫn im phăng phắc, bóng tối quạnh hiu, và chỉ một tiếng lẩm bẩm: "Bích Trăng". Chính tôi đã lẩm bẩm gọi tên nàng và tiếng dội thì thầm "Bích Trăng!" - Chỉ thế thôi, và không có gì nữa hết.
    "Tôi trở vào phòng đóng cửa lại, tâm hồn nóng hực, bỗng lại nghe tiếng gõ mạnh hơn lần trước. Tôi tự bảo thầm: "Chắc có cái gì ở cửa sổ, ta phải tìm ra sự bí mật này. Hãy để cho lòng bớt hồi hộp, rồi tìm ra sự bí mật này" - chỉ là tiếng gió thổi và không có gì nữa hết.
    "Tôi mở cửa sổ ra, thì một con quạ đen lớn, một con thần ô thiên cổ, sột sạt trên cánh cửa bay vào. Nó không tỏ vẻ gì sợ hãi, cứ nghiễm nhiên mà vào với vẻ mặt ông hoàng hay bà chúa, đậu trên cánh cửa phòng tôi, ngay giữa đầu bức tượng vị nữ thần; nó đậu yên đó, và không có gì nữa hết.
    "Vẻ trịnh trọng, oai nghiêm của dáng điệu và nét mặt con chim đen nhánh làm cho tôi đang buồn cũng phải hóa cười. Tôi nói - "Này hỡi quạ, giống chim quái gở tự đời nào từ chốn Hoàng tuyền thăm thẳm đến đây, dẫu cho cái đầu ngươi đã bị cạo gọt, nhưng ta chắc ngươi không phải là một con chim nhút nhát - vậy ngươi hãy nói cho ta biết danh hiệu cao quý của ngươi ở chốn Hoàng tuyền thăm thẳm là gì? " Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!" Tôi lấy làm lạ rằng con chim xấu xa kia lại biết nói rõ ràng như thế, tuy câu trả lời của nó không được nhiều ý nghĩa và hợp thời cho lắm; nhưng thử hỏi có bao giờ ai là người đã được trông thấy một con chim trên cửa phòng mình mà xưng danh hiệu là "Không có gì nữa hết".
    "Con quạ đứng chơ vơ trên bức tượng lạnh lùng, chỉ nói một câu đó thôi, hình như trong đó ngụ hết cả tâm hồn tôi lúc bấy giờ. Nó không nói thêm gì nữa hết, nó không rung động đến mảy lông - cho đến khi tôi nghẹn ngào, se sẽ nói: "Bạn bè tâm huyết của ta biết bao người đã bỏ ta mà đi xa rồi; và đến sáng ngày người cũng sẽ bỏ ta mà đi nữa, như những lời nguyện ước cũ". Con chim lại nói: "Không có gì nữa hết!"
    "Giữa im lặng, câu trả lời đúng hợp như thế khiến tôi thất kinh tự bảo mình rằng: Tưởng chừng con chim này chỉ biết nói có thế, nhưng chắc đã học được câu này của một thi sĩ ba đào, bị thần tai họa tàn ác đánh đuổi không ngừng, khiến nên bài thơ nào cũng chỉ quay về một điệp khúc thảm sầu tuyệt vọng: "Thế là hết, không có gì nữa hết!"
    "Nhưng lòng đang buồn tê tái nghĩ đến con quạ cũng phải lấy làm lạ và buồn cười, tôi liền kéo ghế đệm đến trước mặt con chim, bức tượng và cánh cửa; rồi gục đầu trên nhung buồn, tôi ngẫm nghĩ, mơ màng xa xôi để tìm cho ra vì đâu con vật trầm triệu xấu xa, ốm yếu, con thần ô thiên cổ lại đến đây mà kêu: "Không có gì nữa hết!"
    "Trong khi tôi đang trầm ngâm thì con chim với đôi mắt sáng quắc như soi thấu tận đáy lòng; trong khi tôi cố xét đoán nghĩ đến ngàn vạn đường, gục đầu trên làn nhung óng ả dưới ánh đèn, màu nhung tím óng ả dưới ánh đèn, mà xưa kia nàng đã gối đầu nhưng ngày nay không còn nữa, than ôi, không còn gì nữa hết!
    "Đang nhiên không khí hình như bỗng dịu dàng, ngào ngạt hương thơm tỏa ra ở một đỉnh trầm do các vị thiên tiên từ trời hiện xuống nhẹ nhàng lướt qua nệm lót trong phòng. Tôi la lớn: "Hỡi nhà thi sĩ khốn khổ! Trời đã động lòng sai thiên tiên đem xuống cho ngươi ly rượu quên sầu đỡ tiếc thương nhớ đến Bích Trăng. Vậy thì ngươi hãy uống đi, uống đi ly rượu quên sầu, nhớ chi mãi đến Bích Trăng mệnh bạc!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"
    "Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, ngươi do ác thần sai đến hay là bị bão táp phiêu dạt lại đây! Nhưng ngươi đã đến chỗ trầm luân khổ ải, nơi hoang lương rùng rợn ám ảnh này, thì ta xin ngươi thành thật nói cho ta biết rằng ở miền Cực Lạc có chăng, có chăng hương vị để quên được hết u sầu? Nói đi, ta van người làm ơn nói cho ta biết với!. Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"
    "Hỡi giống tiên tri quái gở kia! Chim hay là quỷ nhưng vẫn là tiên tri, dưới bầu trời ngươi với ta cùng sống, cùng thờ một đấng Thượng đế, xin ngươi hãy nói cùng tâm hồn sầu khổ vô hạn này rằng một ngày kia ở trên Thiên đàng vời vợi, ta có còn lại được âu yếm người con gái thanh tiết mà thiên tiên đã gọi là Bích Trăng, âu yếm một người con gái yêu quý lộng lẫy mà thiên tiên gọi là Bích Trăng! Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"
    "Tôi dựng đứng người hét lên: "Thôi thôi câu nói này là dấu vĩnh quyết giữa người và ta, dầu ngươi là chim hay là quỷ! Ngươi hãy trở về trong gió bão, chốn Hoàng tuyền thăm thẳm, ngươi đừng có để lại một mảnh lông đen nào của ngươi như là ghi sự láo xược, nguyền rủa đất trời của ngươi. Hãy để mặc ta sầu thảm một mình, ngươi hãy rời khỏi bức tượng ở phòng ta ! Ngươi đừng ở lại đây mà đâm xé trái tim ta nữa! Hãy đi mau, ngươi đừng để cái bóng đen nghì nghìn thu thiên cổ in hình lên cửa phòng ta!" Con quạ nói: "Không có gì nữa hết!"
    "Nói thế rồi nó vẫn luôn luôn đứng yên trên bức tượng nhợt nhạt của vị nữ thần, ngay trên cửa phòng tôi. Hai con mắt của nó giống đôi mắt hung thần đang nghĩ ngợi; ánh đèn trôi chảy trên mình chiếu bóng nó xuống đất - và tâm hồn ta trong cái bóng là là như nằm chết đó; không biết bao giờ bay lên được nữa - không bao giờ nữa hết!"

    (Trích từ tập truyện ngắn Trăng xanh huyền hoặc, NXB. Đông Phương, Hà Nội, 1941 )

    #2
      silverbullet 10.10.2006 05:26:56 (permalink)
      Hồn Ma Báo Oán
      Vida Derby



      Có lẽ những người ít bị gây ấn tượng nhất đôi lúc cũng cảm thấy những hiện tượng không nhìn thấy, đặc biệt là tại một thời điểm xác định, dường như có thế lực vô hình nào đấy tồn tại chung quanh.

      Phải người chết vĩnh viễn rời xa chúng ta, hay họ vẫn ám ảnh cuộc sống chúng ta? Lý giải điều này là không tưởng, nhưng hồn ma người chết có thể lởn vởn quanh ta, và còn hiện hình làm cho chúng ta cảm tưởng như bị bắt quả tang. Họ xuất hiện với mục đích rõ ràng, để phù hộ hoặc đe doạta.

      Vợ của Arthur Noakes là Edith, người hay ghen một cách ảo giác. Do chồng cô rất yếu đuối trước phụ nữ nên nàng thường ghen và phải chịu nhiều cay đắng, nhục nhã với những cơn đau tim khi còn sống.

      Trước lúc lâm chung nàng thề độc rằng nếu Arthur cứ tiếp tục tán tỉnh phụ nữ và quan hệ chăn gối với họ, nàng sẽ trở về ám ảnh để ông không còn dám nhìn mặt bất cứ một phụ nữ nào. Những gì chưa thực hiện được khi sống cô hy vọng sẽ làm được từ cõi âm.

      Arthur Noakes không quan tâm tới lời đe doạ của người vợ quá cố, ông nhanh chóng tìm kiếm một người đàn bà hấp dẫn. Arthur nghĩ rằng lúc này ông đã là người tự do và có thể hưởng thụ cuộc sống tự do đó đến khi cạn sinh lực. Có lẽ ông sẽ cưới vợ lần nữa. Vợ thì có ích, nhưng không kém những giờ phút buồn chán.

      Là chủ cửa hàng vải và đồ tạp hoá duy nhất ở thị trấn nhỏ Sussex, Arthur có điều kiện lựa chọn rộng rãi trong số phụ nữ khách hàng, thế nhưng hầu hết người đẹp đều dửng dưng đối với đàn ông. Là người goá vợ nhưng đẹp mã, ông hy vọng sẽ có ngày thành công.

      Chẳng bao lâu sau, con mắt thèm khát của ông chạm vào một quả phụ trẻ thường xuyên đến cửa hàng đăng ten và dải lụa, tuy sống cảnh sống goá bụa song nàng không làm mất nét đẹp tự nhiên và niềm tin yêu cuộc sống. Thế nhưng, khi Arthur tìm cách tán tỉnh thì nàng hơi lưỡng lự, nhưng đôi mắt xanh tuyệt đẹp lại cho thấy lời thúc giục chào mời.

      "Ông Noakes, việc ông kiếm người đàn bà khác trong khi người vợ tội nghiệp của ông mồ chưa xanh cỏ, ông thấy có vội vã quá không?"

      Arthur rùng mình lưỡng lự, nhưng sự nòng lòng chiếm hữu người đẹp đoan trang giả tạo này nhanh chóng xâm chiếm lòng ông. Arthur cũng nhận ra Mabel, nàng vốn xuất thân từ một gia đình nghèo túng điển hình, đơn giản là nàng đang đắn đo trước danh tiết của mình.

      "Thưa cô yêu quý, tôi cảm thấy đã yêu cô từ lâu lắm rồi. Tình cảm của tôi lớn đến nổi tôi phải bộc phát, nghĩa là phải nói cho cô biết được. Nếu cô ngại dạo phố bên cạnh tôi - thật ra tôi đánh giá cao sự dè dặt đó - nhưng sao chúng ta không thể hẹn gặp nhau ở một nơi nào đó ngoài thị trấn để không ai nhìn thấy?"

      Lúc này Mabel đang ngắm vẻ tao nhã của mình, đôi giày bấm khuy, chân phải đung đưa làm đỏm. Hy vọng càng tăng khiến ông càng sốt ruột khi dán chặt vào hai cổ chân mảnh mai, vào sự run rẩy của đôi gò má và sự bẽn lẽn trong nụ cười của người đàn bà goá.

      Nàng ngước mắt nhìn ông. "Thế chúng ta có thể gặp nhau ở đâu để không bị phát hiện?" Nàng giả vờ xấu hổ khi hỏi ông câu ấy.

      Arthur đã biết một nơi mà trước đây ông đã từng đến. Sống giữa cộng đồng dân cư ít ỏi này, sự bí mật đôi khi thật hữu ích để việc riêng thành công. Ông kể với Mabel về địa điểm ấy bằng giọng nói mơ màng và nàng đồng ý gặp ông tối hôm sau.

      Nơi đấy quả là địa điểm thơ mộng, lý tưởng cho những đôi tình nhân, bên cạnh một chiếc cầu bắt ngang con suối chảy yên bình. Arthur đến trước và người tình mới không để ông phải đợi lâu. Niềm vui của ông được trọn vẹn ngay khi ông nhìn thấy cô gái qua cầu. Trước nay không mấy ai đi bộ qua đây, ngay cả vào những đêm hè mát mẻ này. Họ gặp nhau nhiều lần, hôn nhau, làm tình và không ngại bị quấy rầy.

      Tối nọ Mabel đến muộn. Arthur sốt ruột, liên tục nhìn cây cầu chập chờn ánh đèn pha ô tô. Chuyện gì xảy ra nhỉ? Chẳng lẽ nàng cố tình bắt ông chờ để ông hăng hái hơn, hay nàng không đến được tối nay? Vừa lúc ông định đi về thì thấy bóng Mabel vội vã băng qua cầu.

      Chợt nghĩ hay là cho cô ta một bài học, Arthur nấp sau gốc cây chờ đến tận khi cô tới nơi hẹn quen thuộc, ông nhẹ nhàng lại gần và đột ngột ôm gọn eo lưng thon thả của người yêu.

      Arthur chợt rùng mình. Dường như Mabel tan ra hư ảo, đúng lúc đó cô quay mặt về phía ông. Kinh khủng qua - Arthur không tài nào hình dung được. Thay vì gương mặt tươi cười xinh đẹp, đôi mắt nhí nhảnh, đôi má hồng của Mabel, ông lại thấy gương mặt đã chết của vợ ông - trắng bệt như phấn, đôi mắt đờ đẫn đầy tử khí đang đe doạ ông khiến ông vô cùng sợ hãi. Arthur nhảy bật về phía sau, thét lên khiếp đảm.

      Bóng ma chỉ một ngón tay cảnh cáo về phía ông rồi biến mất ngay trước mắt ông. Arthur bỗng nhớ lại lời nguyền trước phút lâm chung của vợ và ông vội vã bỏ chạy khỏi chỗ hẹn bằng đôi chân run rẩy.

      Lên đến chân cầu, chạy được quãng ngắn, ông thấy Mabel đang đi về phía mình. Nhưng đó có phải cô gái goá trẻ đẹp hay hồn ma kinh dị giả dạng Mabel? Ông đợi trong nỗi sợ hãi, run lẩy bẩy, thở hổn hển sau cơn vận động quá sức vừa qua. Trong đời chưa bao giờ Arthur chạy nhanh như thế, và giữa bóng tối nhập nhoà ông không dám chắc thật giả cho đến khi cô gái đến gần.

      "Anh sốt ruột quá phải không anh yêu?" Mabel cười nhẹ nhàng, hai tay ôm choàng lấy cổ ông, hôn nồng nàn.

      Arthur thở phào nhẹ cả người vì thân thể cô gái có ấm ấp và ông ngửi thấy mùi nước hoa huệ quen thuộc của Mabel. Arthur run rẩy gỡ tay cô gái ra, ông chợt nhớ đến mùi mộ người chết và ngón tay cảnh cáo của hồn ma.

      "Có chuyện gì thế anh Arthur? Người anh run quá. Anh giận em đến muộn phải không? Hay cái gì đó chụp vồ anh từ sau bụi rậm?"

      Arthur cố lùi người ra xa, tránh né câu hỏi bằng cách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ của người yêu. Ông hỏi việc gì đã khiến cô đến muộn.

      "Em xin lỗi, Arthur ạ. Bà mẹ nuôi tới thăm nên em không thể nào bỏ bà một mình. Nhưng có gì đâu, giờ em đang ở đây. Chúng ta đến chỗ cũ ngồi đi rồi em sẽ kể cho."

      Cử chỉ của người đẹp đầy quyến rũ. Nàng âu yếm ông đến nỗi nếu là ngày thường máu trong người ông sôi lên rồi. Nhưng tối nay ông run rẩy sợ hãi vì phải trở lại nơi đã gặp hồn ma của người vợ quá cố vừa hiện về đe doạ. Arthur đề nghị tối nay họ nên đi nghe hoà nhạc. Ông thích nơi vui vẻ, giải trí và nhất là vài giọt Scotch giúp ông quên đi cơn ác mộng vừa qua.

      Nhưng Mabel nhất quyết từ chối đến bất cứ nơi công cộng nào với ông và khi ông không muốn thay đổi ý kiến thì cô nói rằng ông không còn yêu cô nữa. "Nếu anh tới nơi đó anh sẽ gặp bọn đàn bà cũng chỉ lăm le tới đó để tìm bạn tình, Arthur ạ."

      Arthur giải thích rằng ông vẫn yêu cô nhưng Mabel mặc cảm và cố chấp, cảnh cáo nếu ông bỏ cô để đến lúc này thì cô sẽ không còn gặp ông nữa, điều này có nghĩa là tình yêu và sự âu yếm của cô không giữ nỗi khát khao và sự cần thiết đối với ông. Thế thì họ nên chấm dứt từ đây.

      Nhưng Arthur vẫn sợ hãi, ông không tin là cô sẽ từ chối gặp lại nếu có lời đề nghị. Một việc mà ông chắc chắn nhất - ông sẽ không bao giờ dùng địa điểm trữ tình cạnh bờ sông để làm nơi hẹn hò nữa.

      Arthur đến phòng hoà nhạc một mình và sau vài cốc rượu, trong không khí sôi động của âm nhạc, ông chỉ còn nghĩ chuyện vừa qua chỉ là tưởng tượng. Làm sao một người chết có thể hiện về như thế?

      Sáng hôm sau Arthur thấy Mabel đến cửa hàng, nhưng lần này bên cạnh nàng là một chàng trai mới và nàng phớt lờ ông. Ồ, thưa bà quả phụ trẻ, nếu bà làm như thế thì tôi cũng sớm tìm người khác, một người hấp dẫn hơn và không sợ bị nhìn thấy ở nơi công cộng như bà.

      Sau đó Arthur chọn một cô chồng còn sống nhưng ở trong hải quân, phải xa nhà quanh năm. Tên cô ấy là Alice. Nàng không đẹp nhưng dễ nhìn, có trái tim nồng cháy và thân thể rất khêu gợi. Alice thường mời ông đến nhà chơi.

      Alice nấu một bữa ăn ngon, có cả bia và rượu gin. Nàng còn mời ông hút xì gà, có lẽ của chồng nàng, Arthur nghĩ thầm. Alice tự tay châm cho ông hút rất ân cần. Arthur ngã người xuống ghế, cảm thấy rất dễ chịu, khoan khoái. Alice ngồi bên ông, họ vuốt ve, âu yếm và hôn nhau. Lát sau nàng đứng dậy.

      "Anh hút nốt điếu xì gà đi, còn em đi thay quần áo đây, Arthur." Mắt nàng nhìn ông khêu gợi, mời mọc. "Lúc nào xong em gọi anh lên nhé. Em biết là anh nóng lòng mà," ông đáp lại, "đừng lâu quá nhé em yêu."

      Vài phút sau, Alice quay xuống, quần áo vẫn mặc trên người, nhưng là bộ quần áo khác, xung quanh nàng nhuốm bầu không khí lành lạnh, ghê rợn. Arthur đứng chồm dậy, điếu xì gà rơi xuống thảm, không còn tâm trí đâu để thấy nó đã bắt lửa cháy âm ỉ.

      Một nỗi sợ hãi ập đến, không phải Alice đang đứng trước mặt ông, mà là hồn ma của Edith, gương mặt người chết nhợt nhạt nhìn ông. Mới vài phút trước Arthur còn đứng đây lòng tràn ngập hạnh phúc và thèm khát, còn giờ đây hai chân ông chôn chặt xuống sàn, cứng người vì sợ. Chợt hai cánh tay khô khốc, xương xẩu và lạnh lẽo ôm lấy cổ ông, hai con mắt nguyền rủa ông, từ hai vành môi xám xịt phun ra luồng hơi thối của cơ thể người chết đang phân huỷ.

      Đúng lúc đó giọng nói nhẹ nhàng từ trên gác vọng xuống: "Anh lên được rồi đấy, Arthur yêu dấu." Bóng ma lại biến mất. Nhưng cảm giác hai cánh tay toàn xương vẫn đè trên cổ Arthur, mùi xì gà không át nổi mùi mộ và cơ thể người chết.

      Arthur bị kích động. Ông chạy thoát ra ngoài mặc bóng người mời gọi ông đã xuất hiện trên cầu thang. Alice hốt hoảng thấy ông lao vụt ra, không kịp đóng cửa lại. Arthur chạy như bị ma đuổi sau lưng.

      Cuộc tình ngắn ngủi với Alice chấm dứt ở đấy. Suốt cả tuần sau đó Arthur nằm nhà và tự an ủi bằng rượu Scotch. Cửa hàng gặp khó khăn vì ông bỏ bê công việc. Arthur nhận thấy không thể tiếp tục sống ở nơi này được nữa. Ông quyết định đóng cửa hàng và chuyển tới London. Ở thành phố lớn ấy, bóng ma Edith không còn ám ảnh ông và ông có thể bắt đầu cuộc sống mới. Công việc tiến hành thuận lợi khiến Arthur cảm thấy hạnh phúc và thoải mái hơn.

      Arthur có hai cô trợ lý và cô nàng Mary Thompson đã nhanh chóng cuốn hút ông. Không bao lâu sau quan hệ của họ đi xa hơn quan hệ bè bạn.

      Đôi khi nỗi ám ảnh cũ trở về đe doạ ông. Như cái hôm ông cùng Mary đi xem vở Vụ án mạng ở kho thóc màu đỏ. Đến cảnh người đàn ông rủ bạn gái vào kho thóc rồi giết cô khiến ông giật nảy người; quyển sách đang cầm trên tay tuột rơi xuống nền nhà. Mary đứng cạnh thấy người ông run rẩy. Arthur sợ hãi quay sang nhìn cô. Người bên cạnh có phải là Mary thật không? Hay Edith giả dạng để quấy phá ông?

      Arthur nắm chặt bàn tay đang chìa ra, nó ấm và mềm mại. Ông cố gắng trấn tĩnh và an ủi Mary rằng tâm trạng ông đã ổn, có lẽ vừa rồi là do nhiễm lạnh và hơi mệt. Nhưng từ lúc đó ông luôn bị ám ảnh rằng hồn ma đáng ghét vợ ông đã theo ông lên London.

      Vở kịch kết thúc, Mary đề nghị đưa Arthur về nhà, trên đường nàng ghé tiệm rượu mua thêm chai whishky.

      "Anh cần một cốc rượu nóng và sữa," cô nói. Chừng nào anh uống hết em mới về.

      Ngày thường Arthur sẽ vui vẻ chấp nhận, nhưng hôm nay ông sợ và tìm mọi cách xua đuổi nàng.

      "Anh hứa là sẽ uống sữa nóng và whishky. Em không cần bận tâm quá, em rất tốt với anh, Mary thân yêu ạ."

      Nói thế nhưng Arthur không từ chối mãi được. Ông mở cửa cho Mary vào, không quên quay lại sau lưng nhìn xem có bóng nào không. Ông bật bếp ga đun sữa. Mary thầm cười khi thấy ông hôm nay làm gì cũng vội vã, thậm chí ông quên cả việc hôn nàng từ khi họ vào nhà đến giờ; hiếm khi ông bỏ lỡ chuyện này lúc chỉ có hai người với nhau.

      Đang hôn Mary thì Arthur giật mình khi nghe tiếng đập cửa dưới gác. Mary cũng nghe và nói có lẽ ông quên đóng cửa lúc vào nhà.

      "Anh xuống khoá cửa lại đi," nàng nói. Arthur lưỡng lự.

      Ông thấy ớn lạnh, nổi cả da gà. Chắc chắn ông đã khoá cửa cẩn thận lúc họ vào nhà nhưng làm sao có thể nói với Mary rằng ông sợ bóng tối và sẽ ngất đi nếu ông gặp hồn ma dưới tầng một.

      Arthur vội vàng chạy xuống, nhanh chóng cho xong việc. Cửa vẫn đóng, ông run run cài thêm chiếc then cửa.

      Bất chợt Arthur ngửi thấy mùi xác chết, ông hoảng hốt quay lại, khiếp sợ vì biết trước sẽ nhìn thấy gì. Vợ ông đứng ngay giữa đường đi, chặn đường lên gác của ông. Mặt nàng chuyển sang màu lục, hai gò má chảy nước nhờn kinh tởm, môi bị gặm gần hết khiến hai hàm răng nhô cả ra ngoài. Lúc hai cánh tay xương xẩu đưa lên cổ ông buộc ông phải nhìn thẳng vào hai hốc mắt sâu hoắm không còn con ngươi, sức chịu đựng của ông đã cạn.

      Đúng lúc đó Mary gọi ông trên gác, bóng ma biến mất còn Arthur thì run rẩy đến mức làm cho các cơ thịt méo xệch đi, buồn mửa vì mùi xác thối vừa hít phải. Khi Mary thấy ông thì nàng cũng chết khiếp: thân thể Arthur trắng bệch, run run liên tục.

      Việc duy nhất mà Arthur muốn lúc này là rời xa tình nhân ngay lập tức. Nhưng Mary quá sốt sắng, bắt ông phải đến ngồi bên lò sưởi và đưa cho ông sữa nóng cùng rượu whishky. "Chắc anh vừa trải qua một cơn sợ hãi kinh khủng, Arthur thân yêu, vì thế em nghĩ anh nên nằm tịnh dưỡng cả ngày mai cho khoẻ. Tụi em có thể quản lý cửa hàng được, lúc nào rảnh em sẽ đến thăm anh ngay."

      Lời đề nghị chân tình của Mary lại khiến Arthur cảnh giác. Edith đời nào chấp nhận chuyện đó! Hồn ma đó trở về doạ ông lần nữa thì ông chết mất. Vậy thì chẳng còn cách nào khác hơn là Mary phải ra đi, nhưng ông chưa biết nói với nàng thế nào.

      Cuối cùng Mary cũng ra về, Arthur lên giường nhưng giấc ngủ mệt nhọc đôi khi bị ngắt quãng bởi những cơn ác mộng hãi hùng. Người vợ quá cố cùng ngủ trên giường với ông, mùi xác chết không tan khỏi khứu giác ông. Hai cánh tay xương xẩu nặng nề vắt ngang ngực ông khiến ông thở nặng nhọc. Arthur không thể ngồi dậy dù cố bao nhiêu đi nữa. Một sức nặng vô hình đè chặt không cho ông thoát. Arthur vật lộn mãi với nó, cuối cùng rồi cũng thức dậy, nhưng lúc nào không biết.

      Sáng hôm sau Mary khóc sướt mướt khi ông viện đủ lý do để chấm dứt mối quan hệ nửa vời của họ. Arthur thương hại tình nhân nhưng ông không làm khác được. Edith là người thắng cuộc. Lời nguyền của cô ấy trước lúc chết đã trở thành sự thật. Arthur không tránh được hồn ma.

      Dạo này ông thường bỏ bê công việc ở cửa hàng, và đến quán rượu liên tục. Arthur hay về muộn, say mèm. Mary cảm thấy ái ngại. Cô gái tốt bụng thuê về một nhân viên trẻ, nhưng hắn tỏ ra không thích hợp. Arthur cũng không quan tâm. Hồn ma Edith cũng không còn về doạ ông nữa nhưng sức khoẻ Arthur yếu đi thấy rõ. Ông ăn ít, uống nhiều.

      Một buổi sáng chủ nhật, Arthur đi lang thang rồi lạc bước vào nhà thờ. Nơi đây vắng lặng chỉ có... bóng ma Edith. Một Edith trẻ tuổi như hồi họ mới cưới. Nàng đề nghị ông đi theo ra nghĩa địa. Arthur sốt sắng cất bước xiêu vẹo đến bên mộ Edith.

      Đứng cạnh mộ đá ẩm ướt, Edith giang rộng hai tay và Arthur lao vào vòng tay ấy như đứa trẻ sà vào lòng mẹ. Hai cánh tay vừa khép lại thì bộ mặt Edith ông nhìn thấy lần cuối cùng hiện về - vẫn hai gò má chảy rửa, hốc mắt rỗng sâu hoắm. Tim ông co thắt dữ dội, cổ họng bị nghẽn không thở được. Giống như cơn ác mộng ông phải chịu đựng bấy lâu nay, nhưng không phải giấc mơ, vì ông cảm thấy rõ ràng những giọt nước mưa - hay nước mắt - ướt nhoà mặt ông.

      Sáng hôm sau, người ta tìm thấy xác Arthur nằm ngang mộ vợ. Họ không nhận ra ông nếu không tìm thấy chiếc ví ở trong túi. Arthur được chôn cất cẩn thận ngay cạnh ngôi mộ của vợ. Bạn bè đều nghĩ ông muốn gần vợ ở thế giới bên kia.

      Về sau, nhiều người đồn rằng Arthur hiện về và tổ chức họp mặt, trình bày rõ nguyên nhân cái chết năm xưa. Không ai dám chắc điều đó là sự thật...
      #3
        mssthuan 10.10.2006 12:27:37 (permalink)
        Tiếng cười trong đêm khuya
        Tác giả: Không rõ


        Ha... hạ.hạ.ha! há..há..a..ha! Hú... hu... hụ.hu... u!


        Thiệt là hãi hùng, khi không sao lại có tiếng cười ai đó văng vẳng trong đêm làm cho bất cứ ai nghe được cũng cảm thấy rợn người... Sáng hôm sau đâu đâu người ta cũng nghe lời bàn tán về tiếng cười đêm trước - người thì cho đó là tiếng rên rĩ của muột người con gái còn rất trẻ, người thì bảo đó là tiếng hú của một chàng thanh niên trong tuổi đôI mươi, còn có người thì cho rằng đó là tiếng la hét của hai người... mà là hai người đã chết v.v. Thiệt ra thì đó là tiếng cười, hay tiếng rên rỉ, hoặc là tiếng la hét. Nhưng những tiếng đó phát xuất từ đâu? Phải chăng là ở bãi tha ma vắng vẻ trên ngọn đồi phía bắc làng, hay là những tiếng đó phát ra từ ngôi nhà hoang ở phía nam?...

        Rồi thì sự sinh hoạt trong làng cũng trở lại bình thường và đêm lại một lần nữa trở lại với vạn vật như mọi khị Nhưng đêm nay thì khác, hầu như mọi người trong làng đều cảm thấy lành lạnh. Lạnh mà họ cảm được đây không phải là do thời tiết mà là lạnh do tiếng cười đêm qua ám ảnh. Mới có 10 giờ tối mà cả xóm làng đều im phăng phắc; không biết là đã có ai ngủ vô chưa nhưng vạn vật hình như đã bị lắng đọng lại - cả đến những tiếng động do súc vật gây ra cũng không có. Không lẽ chó, gà, heo, vịt cũng đều kiếm chỗ ẫn nấp hết rồi sao? Tại sao tiếng cười lại có ma lực ghê gớm như thế? Không lẽ thật là tiếng ma kêu quỉ hú?...

        Chuyện gì tới rồi cũng sẽ tới... Trong lúc mọi người trong làng đều trùm mền kín đầu thì tiếng cười đêm trước lại lanh lãnh vang dội... Hảhảha! ?Hủhủhu! Và cứ như thế 5, 10 phút một lần. Người Công Giáo thì thì thầm đọc kinh, người Phật Giáo thì Nam-Mô-AĐi, còn trẻ con thì ôm cứng lấy cha mẹ anh chị chúng. Thật là khinh khủng sợ hãi... Nhưng rồi một đêm kinh sợ cũng qua đi và mặt trời lại ló dạng. Mọi người lại một lần nữa xôn xao bàn tán - "Làng mình chắc là có ma quỉ xuất hiện, phải nhờ cụ Tám ra giúp giải quết vấn đề!" một người xướng. "Đồng ý! Đồng ý!" mọi người khác đều hưởng ứng.

        Cụ Tám là người nổi tiếng không sợ trời, không sợ đất. Cụ là người duy nhất luôn luôn tắm xác cho người chết trước khi bỏ vô hòm. Người ta khẩu truyền rằng cụ đã gặp rất là nhiều ma quỉ nhưng chưa một lần tỏ ra khiếp sợ... Tuy rằng không muốn liều mình, nhưng vì xóm làng cụ Tám cũng đành phải miễn cưỡng tuân theo để tìm hiểu nguyên do tiếng cười bí mật kia.

        Cụ Tám sửa soạn con dao cặt củi mà cụ cho là một vũ khí lợi hại nhất của cụ. Trời vừa chập tối là cụ đã ra khỏi nhà. "MớI có 9 giờ mà mọi nhà đã đóng cử tắt đèn rồi," cụ lẩm bẩm và từ từ tiến tới ngôi nhà hoang ở phía nam khu xóm, nơi mà cụ nghĩ rằng sẽ tìm được nguyên do tiếng ma gào quỉ khóc kia.... Đã hai tiếng trôi qua mà không có gì xãy ra, cụ cảm thấy người cụ hơi mỏi mệt vì nấp trong bụi cỏ trước căn nhà hoang... Nhưng, bất chợt, cụ cảm thấy rờn rợn lạnh trong người. Linh tính báo cho cụ biết là có gì không ổn đâu đây. Cụ cố lấy bình tĩnh để chờ đợi thêm.

        Khoảng đúng 12 giờ đêm, thì Hủ.hủ.hủ.hu! Tiếng hú làm cho cụ giật bắn người giậy; tay cụ nắm chặt con dao để chờ đợi. Tiếng Hụ.hụ.hủhảhảha! mỗi lúc một tiến gần nơi cụ nấp là cho cụ toát mồ hôi lạnh và tự nhủ, "Trong suốt cuộc đời, đây là lần ta cảm thấy rợn nhất, không biết tại ta đã già nua hay là tại con quỉ này ghê gớm đến vậy."... Một lần nữa tiếng Hủhu lại nổi lên bên cạnh cụ và một bóng trắng xuất hiện trước mặt cụ. Hai tay nắm chặt con dao, cụ định tung ra một nhát vào bóng trắng kia nhưng bóng trắng đã bay xa hơn và dùng tay để vẫy cụ như là muốn thách thức cụ Tám. Cụ cứ tiến gần thì bóng trắng đó lại bay xa thêm... Cứ như thế mà đã đến gần bờ biển. Bất chợt, lại thêm một bóng trắng xuất hiện. Lần này thì cả hai bóng trắng đều quay lại như muốn nói với cụ Tám điều gì đó và cả hai chợt biến mất trước mặt cụ Tám. Cụ mĩm cười ra điều hãnh diện vì con ma ác ôn đó mà cũng sợ cụ. Sau đó cụ quay người trở lại để ra về thì chân cụ vấp phải vật gì đó. Bật chiết đèn lên cụ chợt hốt hoảng vì dưới chân cụ là hai xác chết của một đôi nam nữ độ đôi mươi. Lúc này thì cụ đã đoán ra được 9 phần 10 của câu truyện. Cụ khéo hai cái xác lui vô trong để nước khỏi cuốn đi, rồi ra về... Sáng hôm sau dân làng mang hai cái xác đi chôn và lập một bàn thờ cho đôi trai gái xấu số; và từ đó người ta không còn bị ám ảnh bởi tiếng gào thét kinh sợ giữa đêm khuya nữa.

        (Theo vietsun)

        #4
          mssthuan 10.10.2006 12:33:35 (permalink)
          Nhà Ma
          Tác giả: Không Biết


          Gia đình bác Tám được nhà nước tặng cho một căn nhà ở đầu xóm đá đó là một điều mà bác Tám không bao giờ mơ tới Bác Tám chỉ cần một căn nhà lá là đủ cho cha con bác sống tạm trong những ngày đầu dọn ra từ miền bắc cực khổ để kiếm việc làm Căn nhà này thật là rộng rãi và khang trang, bác Tám thích lắm
          Ngày gia đình bác dọn vào căn nhà mới bác thấy bà con hàng xóm bàn tán gì đó nhưng mắc mớ gì chớ nhà nước đã tặng cho bác thì bác cứ tự nhiên ai muốn nói sao thì nói

          Ddêm đầu tiên vì quá vui mừng, bác Tám đã uống hết một xị rượu đế và sau đó bác tiến vào phòng ngủ của bác Lờ mờ vì men rượu bác nhìn thấy có một cái bóng người lướt qua bác bác cảm thấy toàn thân lạnh cóng, nhưng rồi bác dụi dụi mắt lắc lắc đầu và tiếp tục bước về chiếc giường. Ddặt mình lên giường là bác Tám gáy khò luôn Ddang trong giấc mộng đẹp bác Tám chợt giật mình dậy vì bác nghe có tiếng gì như là bát điã đổ vỡ ở gian sau. Khệnh khạng bước xuống gian sau khám xét bác không kiếm ra được manh mối gì cả Bác trở vào phòng và ngủ tiếp nhưng chưa đầy mấy phút thì bác lại nghe có tiếng động ở gian sau. Kần này thì như là tiếng chân người bước cùng với tiếng xích khua leng keng rất rùng rợn Toàn thân bác Tám nổi da gà bác chợt nghĩ tới điều mà bác không bao giờ muốn nghĩ tới: "có ma!" Bác trùm chăn lên đầu và cố gắng xua đuổi những ý nghĩ sợ sệt đó nhưng bác không thể nào bình tĩnh được khi tiếng động kia cứ như đang tiến về phiá cửa phòng của bác Bác muốn lấy lại hết bình tĩng để bước xuống giường, nhưng toàn thân bác run cầm cập và chân tay như không còn xương để di chuyển Bác Tám chỉ còn cách xuôi mình cho số mạng an bài Tiếng bước chân mỗi lúc một gần phòng bác bác Tám hồi hộp lo sợ rồi bác nghe tiếng kẽo kẹt của cánh cửa nhè nhẹ Tuy trùm chăn cả người nhưng bác Tám có thể cảm giác được là cánh cửa phòng bác đang từ từ hé mở và bước chân kia từ từ tiến về phiá chiếc giường của bác Lúc này thì bác sợ đến cực điểm chân tay bác rã rời hai hàm răng bác cũng khua theo tiếng chân kia, tiếng chân càng gần thì hai hàm răng càng đập mạnh. Bác Tám cảm thấy có bàn tay lạnh lẽo đang động tới cái chăn tiếng thở nhè nhẹ nơi tai bác và ánh mắt đỏ hoét đang nhìn vào mặt bác bác Tám hét to lên nhưng bác bác chảng nghe được tiếng la của bác Lúc này thì bác nghĩ là bác sẽ chẳng còn có thể sống được nữa Bác cảm thấy chiếc chăn được tung lên và một bàn tay to tướng chộp vào người bác bác giật bắn người dậy và nhìn thấy người ngồi bên cạnh bác là đứa con của bác

          - Cha nằm ác mộng ha? đứa con hỏi

          Người bác Tám ướt như chuột lột bác nhìn quanh quẩn một hồi và chợt thở phào nhẹ nhõm

          Tuy là chẳng có chuyện gì không may xảy đến nơi bác bác Tám cũng không thể nào phân biệt được là bác thật sự đã nằm mộng hay là bác đã gặp ma. Dầu sao đi nữa thì bác cũng bị chuyện đó ám ảnh suốt cả ngày Rồi chiều lại về bác Tám nhất định là không uống một giọt rượu nào để giữ đầu óc tỉnh táo cho đến tối
          Mười giờ mười một giờ rồi mười hai giờ đã 3 tiếng đồng hồ nằm trên giường mà bác Tám không thể nào ru mình vào giấc ngủ được bác cứ trằn trọc không yên trong khi thằng con của bác đã yên giấc điệp từ lâu Bác Tám bắt đầu đếm số 1 2 3 với hy vọng là sẽ làm cho giấc ngủ mau đến Khi bác Tám vừa đếm tới 100 thì bác nghe: "Keng keng keng," tiếng kêu phát ra từ nhà sau. Bác Tám nhảy xuống giường, chạy đến cánh cửa và ép tai vào cửa để nghe ngóng; nhưng đã 5 phút qua đi mà mọi sự vẫn im lìm bác Tám trở lại giường; và trong khi bác sửa soạn đặt mình xuống thì bác lại nghe: "Xịch xịch xịch." Bác Tám rùng mình một cái và bắt đầu hồi hộp vì đúng là những tiếng kêu mà bác đã nghe được hồi đêm qua.

          Nhắc lại là sau khi chuyện xảy ra đêm qua, bác Tám lúc nào cũng hy vọng là mình đã nằm mơ nhưng giờ nghe những tiếng động này bác Tám khẳng định chuyện đêm qua là sự thật để chắc ăn bác Tám nhéo vào má một cái thật mạnh, "Ouch!" Bác Tám la thầm Tim bác Tám bắt đầu đập mạnh và mồ hôi bắt đầu toát ra. Bác Tám cầm cây gậy lên lấy hết bình tĩnh bước tới cánh cửa phòng. Tiếng "xịch xịch xịch" đột nhiên lặng bẵng đi bác Tám từ từ mở cánh cửa bước ra ngoài rồi từ từ bước xuống gian nhà sau. Trong lúc bác đang hồi hộp thì "vù" một vật gì bay về phía bác Bác Tám giơ cây gậy lên và lấy hết sức đập mạnh vào vật đó "Meo! meo! meo!" bác Tám nhảy về phiá saụ "Thì ra là con mèo " bác Tám thở hắt ra, bỏ cây gậy xuống và lấy hai tay xoa xoa ngự

          Quan sát một hồi không thấy có gì lạ bác Tám quay trở lại phòng ngủ Vừa chân trước chân sau bước vào bác Tám giật bắn người và lùi lại vì chiếc giường của bác đã được dựng đứng lên Trong lúc bác Tám còn đang hốt hoảng thì chiếc giường kia bắt đầu xoai xoai vòng vòng. Bác Tám sợ quá cắm đầu chạy qua phòng thằng con trai của bác

          Mở cửa phòng đứa con trai, bác Tám vội vã chạy đến chiếc giường để đánh thức thằng con trai dậy Nhưng khi bác Tám chạy đến chiếc giường thì một khuân mặt xanh lè với những nốt rẽ đỏ hoét xoai lại ngó bác Bác Tám vì quá hoảng đã xoai mình chạy thẳng xuống nhà dưới Sau khi lấy lại bình tĩnh, bác quết định vào cứu thằng con trai. Bác nhặt cây gậy lên và từ từ bước lên nhà trên Lấy hết sức bác bước tới gần chiếc giường thằng con trai. Bác từ từ giơ chiếc gậy lên nhưng bác chợt ngưng lại vì giờ trên giường chỉ còn thằng con trai của bác đang say mê trong giấc ngủ Bác đánh thức thằng con và kéo nó chạy ra khỏi nhà

          Đêm nay hai cha bác Tám nằm ngủ trên vỉa hè của một người hàng xóm Tuy khí trời lạnh lẽo nhưng bác Tám thấy người bác còn ấm hơn ngủ trong căn nhà của bác

          (Theo vietsun)
          #5
            mssthuan 10.10.2006 12:38:25 (permalink)
            Ngủ với Ma
            Không rõ


            Ðêm hôm đó, tôi và ba người bạn ngồi làm bài ở phòng khách đến thật khuya, chúng nói với nhau rằng đêm nay tất cả sẽ ngủ ở phòng khách. Vào khoảng một giờ rưỡi khuya, tất cả bạn của tôi đều đi ngủ chỉ còn lại mình tôi ngồi đó ráng làm cho xong bài essaỵ
            Khoảng hai giờ, tôi liếc nhìn đám bạn đang ngủ khò. Hai đứa nằm bên trái còn một đứa thì nằm bên phải, tôi thì ngồi xếp bằng ở ngay chính giữạ Trời đã khuya lắm rồi, buồn ngủ mở mắt không nổi, tôi đành đứng dậy tắt đèn đi ngủ.

            Tôi lẩm bẩm trong miệng: "Có ánh sáng đèn đường chiếu vào cho dù tắt đèn cũng không có tối lắm", rồi tôi kéo cái chăn đắp lên người và nằm xuống. Tôi xoay đầu qua bên phải giáp mặt với Dung (Dung nằm xoay mặt vào tường). Dung có mái tóc dài chấm lưng thật là đẹp. Tôi nhìn mái tóc của bạn ấy rồi nói: "Tóc đẹp quá."

            Rồi rất là lạ, như có cái gì đó bảo tôi sờ vào mái tóc của Dung. Tôi lấy bàn tay trái vuốt mái tóc của bạn ấỵ Khi làm như vậy tôi cảm thấy có cái mặt sau làn tóc đó. Tôi có thể rờ được mũi, miệng... cái mặt thì không được láng... hình như là có rất nhiều mụn. Sau đó tôi rờ đến đôi mắt. Tôi cảm nhận được đôi mắt ấy đang mở và nhìn chòng chọc vào tôi, nhưng thật kỳ lạ tôi không thấy khuôn mặt đâu hết mà chỉ thấy tóc mà thôi, vì tôi có thể rờ và cảm thấy được khuôn mặt dưới làn tóc đó...

            Bỗng dưng tôi chợt nhớ ra bạn tôi nằm xoay vào tường mà, và ... tôi nghĩ rằng khuôn mặt mà tôi rờ được ... là... là... là... một người khác.... Rồi tôi la thật lớn. Linh là người thức dậy đầu tiên mở đèn lên. Tôi biết chắc chắn rằng không phải Dung đang nằm bên cạnh tôi, bởi vì khi Linh mở đèn lên tôi thấy Dung đã thức nhưng vẫn còn nằm xoay mặt vào tường. Khi bạn ấy xoay qua tôi và hỏi: "Có chuyện gì vậỷ" Tôi nhìn mặt bạn ấy thấy rất là láng, không có mụn gì hết!



            (Theo vietsun)
            #6
              mssthuan 10.10.2006 12:46:41 (permalink)
              Ma Nhập
              Không rõ


              Jessica Tâm Giao đang cùng gia đình ăn sáng, bỗng chuông điện thoại trong nhà nàng reo vang. Cuộc điện đàm ngắn ngủi chưa đầy một phút, nàng đã hoảng hốt buông máy xuống bằng một dáng điệu thẫn thờ lẫn kinh ngạc tột độ.

              Bỏ ngang bữa ăn sáng, Jessica Tâm Giao hối hả đi vào trong phòng riêng. Chưa đầy ba phút sau, Tâm Giao trở ra với xâu chìa khóa xe trên tay như sắp sửa phải đi đến nơi nào một cách vội vã khiến cho thân mẫu của nàng phải lên tiếng:

              - Chuyện gì vậy con?

              Vừa bước tới thềm cửa, nàng trả lời mẹ bằng một giọng nói đứt quãng trong khi bàn tay run run đặt lên cái nắm cửa:

              - Nhỏ Julianne Tuyết Phương đã chết! Xác của nó đã đưa về nhà quàn hồi sáng sớm naỵ Con phải đến đó ngay lập tức! Tội nghiệp quá mẹ Ơi!

              Nghe tin chẳng lành, mẹ nàng sửng sốt đến muốn sụm cả đôi chân, không kịp hỏi thêm con điều gì, đưa nhanh tay vịn lấy cái tựa ghế gần đó cho khỏi ngã, trong khi Tâm Giao đi như bay như biến ra chiếc xe của nàng đậu trên drive-way ở sân nhà. Những người còn lại, không ai giữ được bình tĩnh để tiếp tục bữa ăn sáng thường lệ cuối tuần.

              Nắng đã lên cao, bầu trời xanh trong vắt, đó đây điểm lưa thưa dăm ba cụm mây trắng xóa của những ngày bắt đầu một mùa hè hứa hẹn nhiều oi ức.

              Chưa đầy nửa tiếng đồng hồ sau, Tâm Giao đã có mặt tại nhà quàn giữa bầu không khí tĩnh lặng u buồn, đèn nến khói nhang nghi ngút trước một cỗ quan tài nằm lặng lẽ chơ vơ dọc theo sát vách tường với những tràng hoa phúng điếu đầy màu sắc, trong khi hầu hết mọi người thuộc gia đình thân tộc của Julianne Tuyết Phương đã có mặt đầy đủ. Đôi mắt mọi người đỏ hoe còn đọng đầy ngấn lệ. Kể cả Đoàn Hùng, vị hôn phu của Tuyết Phương cũng đã được cấp báo, phải bỏ ngang việc trong sở làm. Nhìn dáng điệu thiểu não khổ sở, quần áo xốc xếch với cái nút thắt cà vạt trên cổ áo sơ mi có những lằn sọc đen thưa của Đoàn Hùng trễ xuống, Tâm Giao cũng đoán biết được nội tâm của người thanh niên đang ấp yêu nhiều mộng đẹp tương lai này sầu khổ đến độ nào trước di ảnh của người tình vừa quá cố.


              (Theo Vietsun)
              #7
                mssthuan 10.10.2006 12:50:31 (permalink)
                Hóa Thân Hiện Hồn
                Không rõ


                Vợ chồng anh chị Khảm là người hiền lành hiểu theo ý nghĩa bình thường. Họ làm ăn chăm chỉ chí cốt. Dạo còn ở trong nước, cả hai anh chị đã quyết chí tìm đủ mọi cách để mong sao thoát ly đời nhọc nhằn gian lao nghèo khó. Vợ chồng anh chị xuất thân từ hai gia đình vừa đủ ăn đủ mặc. Tuy không đến nỗi nghèo khó lắm, nhưng so với những hàng phú gia địch quốc mà anh chị có khi chỉ được nghe đồn mà chưa bao giờ được chính mắt trông thấy, xem ra anh chị rất nôn nã với giấc mộng giàu sang và chưa bao giờ có được một ngày sống trong cảnh phú quí, rạng rỡ vinh hiển như những kẻ lắm bạc nhiều tiền cho nên niềm mơ ước làm cho anh chị luôn luôn nuôi nấng ấp ủ trong tâm tư, bảo nhau quyết thực hiện cho bằng được, bất chấp định luật .đại phú do thiên, tiểu phú do cần..

                Họ lấy nhau vào đúng thời kỳ cả nước đang chìm ngập trong tình trạng kinh tế kiệm ước, việc làm ăn khó khăn, người khôn của khó, không dễ gì kiếm ra được nhiều tiền để cho đời sống anh chị với hai đứa con có được những ngày tháng mát mày nở mặt, khỏi phải thiếu trước hụt sau, làm việc gì cũng không thoát được cảnh giật gấu vá vai, đắp đổi qua ngày đoạn tháng, chật vật quá sức.

                Anh Khảm lại kẹt cứng với đời sống của một quân nhân sĩ quan cấp nhỏ, rày đây mai đó, trên búa dưới đẹ Lúc nào cũng phải lo thủ phận và chu toàn những nghĩa vụ của một thuộc cấp khôn khéo biết an phận thủ thường để khỏi phải ra chiến trường có thể mất chỗ đội nón như chơi, tuy rằng anh không phải ngày đêm tham dự những cuộc hành quân gian khổ chết chóc, nhưng anh vẫn phải chu toàn một lúc hai nhiệm vụ bắt buộc của người quân nhân, một là tiếp tế quân trang quân dụng cho các đơn vị hành quân trực thuộc, hai là phải tự biết cách để thù tạc đãi đằng những cấp chỉ huy quyền thế không chỉ bằng tiền bạc quà cáp hậu hĩnh, có khi còn đi lùng sục tìm những cô gái non dại, con cái của những người nghèo, anh tung tiền ra khuyến dụ mua chuộc để lén lút hưởng thụ hoặc đem dâng hiến cho thượng cấp, hòng giữ cho được vị trí yên ổn, ngồi mát ăn bát vàng ở hậu cứ, và điều này thì chị Khảm là người biết rõ ràng hơn ai hết, nhưng chị vẫn làm ngơ, để mặc cho chồng tung hoành, tự tung tự tác và tiếp tục ra tay làm hại các cô gái son trẻ con cái nhà nghèo. Chị có những ý nghĩa riêng của chị mà mãi đến sau này, ý đồ riêng tư đó của chị mới bị vỡ lở sau khi chị bị ám sát chết một cách oan trái.

                Vì sống buông thả lả lướt ngấm ngầm như vậy, sau này anh Khảm có nhiều con rơi con rớt bởi kết quả của những cuộc đàn đúm ăn chơi với quan niệm hưởng thụ chẳng bao giờ anh cần lưu ý tới. Đàng khác, để thực hiện được như vậy, anh Khảm chỉ còn cách cắt xén gian lận, hoặc ăn cắp bớt số lượng quân trang quân dụng, những nguồn tiếp liệu then chốt dành cho những đơn vị tác chiến ở trong kho để đem về nhà giao cho chị Khảm tìm manh mối bán tháo ra ngoài, chị mới mong nở mày nở mặt với những người đồng trang lứa và có được một đời sống tàm tạm xa hoa tươm tất và anh cũng được yên ổn vui sống bên vợ con với các cô đào non lúc nào cũng hăm hở sẵn sàng, nhòm ngó túi tiền chi xộp của anh mà tìm đến bán thân, trao đổi.

                Anh Khảm vẫn biết làm như vậy là không đúng, là những nguyên nhân gián tiếp đem đến những thất bại ê chề cho những người bạn đồng ngũ ở ngoài tiền tuyến với những cái chết oan khiên tức tưởi của bao nhiêu người ngày đêm phải trực diện trước quân thù vì những nguồn tiếp liệu từ hậu cứ do anh nắm quyền cung ứng đã không được cung ứng đầy đủ. Nhưng anh Khảm không biết và càng cố tình không cần biết đến điều này. Anh thường nhủ để tự trấn an:

                - Việc thắng bại chết chóc ngoài trận tuyến đâu phải lỗi tại mình, tại .số mạng. mà ra. Tụi việc cộng không hề có nguồn tiếp liệu binh đoàn dồi dào như mình, sao chúng vẫn chiến đấu được. Chẳng qua chỉ tại những chiến hữu đòi hỏi quá đáng chứ việc thắng bại nào có ăn thua gì đến tạ Đối với các cô gái nhẹ da, anh đâu có ép buộc các cô phải bán rẻ tấm thân trong trắng. Chẳng qua đó chỉ là sự trao đổi công bằng, ăn cơm trả gạo, ăn cháo trả tiền, sau đó nếu có hậu quả gì, các cô phải tự lo liệu lấy, anh đã giao hẹn trước cả rồi, trách cứ anh sao được.

                Tự bào chữa như thế cho nên anh Khảm cảm thấy yên lòng tiếp tục cùng các cô gái son trẻ trao đổi mua bán và a tay vơ vét, ăn cắp ăn xén tất cả mọi thứ có thể lấy được để chu toàn nhiệm vụ của người sĩ quan tiếp liệu và nhờ đó, anh trở thành một quân nhân khá gương mẫu. Đời binh nghiệp của anh thăng tiến như diều gặp gió với những bằng tưởng lục, ban khen đều đặn và thăng cấp đúng nhiệm kỳ chẳng khác chi mọi người mà trong suốt mười hai năm quân vụ, anh chưa bao giờ phải bắn một viên đạn nào cho đến ngày tan rã hàng ngũ, giống như bao nhiêu người, gia đình của anh chị phải bỏ của chạy lấy người, nhờ có sự giao du rộng rãi, lại thường lo lót từ bấy lâu nay cho nên gia đình vợ chồng con cái của anh chị được ưu đãi cho lên tàu di tản trước tất cả mọi người, tránh được bao nhiêu là sự chà đạp hỗn loạn tranh dành trong lúc tranh tối tranh sáng, thập tử nhất sinh, mọi người hối hả đạp lẫn nhau lên xác chết của nhau để đi tìm đường lánh nạn.

                Chuyến hải trình chạy giặc cập bến an toàn, anh chị thở phào ra nhẹ nhõm, mỗi khi nghĩ đến những ưu đãi lúc nào anh chị cũng được hơn người nhờ vào sự lanh lợi khôn khéo. Ra được đến nước ngoài với hai bàn tay trắng sau bao nhiêu năm tận tình vơ vét khi xưa với dụng ý làm giàu, giờ đây, cả gia đình anh chị cũng chẳng đem theo được chút gì để làm lại cuộc đời, còn phải đối diện với một đời sống mới hoàn toàn xa lạ từ ngôn ngữ cho đến những sinh hoạt khác lạ hàng ngày, nhưng nhờ có khả năng khôn ngoan hoạt bát với ý chí phấn đấu hơn người, lại có sẵn quyết tâm làm giàu được nuôi nấng dài lâu trong tâm khảm, nên khi đến được vùng đất được mệnh danh là cơ hội này, chẳng bao lâu đã trở thành những người tỵ nạn giàu có với những mối làm ăn vĩ đại, bất kể công việc chánh tà với những người dị chủng, công việc doanh thương buôn bán lúc đầu còn từ từ hạn chế, sau mỗi lúc một thêm phát triển mạnh mẽ bền vững lạ thường, tiền bạc lợi tức như dòng suối chảy xiết đến với anh chị chẳng có khi nào ngừng nghỉ.

                Với gia sản tiền rừng bạc biển, nhà cửa xe pháo tiện nghi văn minh cơ khí, hệ thống làm ăn qui mô đầy đủ, nhân viên thầy thợ phụ tá giúp việc có tới hàng mấy chục người anh chị đều nắm đủ trong taỵ Anh chị tỏ ra tự mãn hơn người và lúc nào trong lòng cũng đầy hãnh diện về tài năng thao lược kinh bang tế thế của mình...

                ... Hôm nay, với bề thế cơ ngơi tài sản làm ăn sung túc, chắc chắn sẽ chẳng bao giờ anh chị còn sa sút khánh kiệt được, chắc chắc sẽ chẳng bao giờ anh chị phải sống lại những ngày tháng thanh bần đạm bạc như xưa. Anh chị với hai người con nay đã khôn lớn, nay đã trở thành những người Mỹ mũu tẹt da vàng, đã hóa thân từ mọi cung cách nói năng cư xử, đã thoát xác hoàn toàn, đã biến đổi và tách biệt khá xa với dòng sinh mệnh truân chuyên của nguồn gốc cũ với mọi sinh hoạt cung cách rập theo những tập quán mới mẽ văn minh, gia đình anh chị rất biết tôn trọng và đề cao tinh thần tự do tuyệt đối cùng những chủ nghĩ phục vụ cá nhân. Riêng về anh Khảm, anh đã trở thành một ông chủ lớn, anh có những thú vui cao cấp cầu kỳ hơn của một người có nhiề tiền của, chị Khảm thì cũng vậy... Chị cũng có nhân tình để thực hành việc .ông ăn chả bà ăn nem.. Anh Khảm ăn chơi mèo chuột từ trong nước ra đến xứ người thì tại sao, chị không thể như vậy. Nhân tình của chị chính là anh tài xế lâu năm vai u thịt bắp, ít ăn ít nói, lái xe vận tải giao hàng, anh ta cũng có gia đình vợ con đàng hoàng tử tế và chỉ quan hệ với chị Khảm vào những lúc anh Khảm phải đi vắng nhà hoặc là những khi chị Khảm nổi hứng bất chợt, hai người mới lén lút hò hẹn gặp nhau. Sau đó, ai nấy trở về với vai trò cố hữu của mình. Có nhiều lúc anh tài xế cũng nổi chứng ghen tuông này nọ. Nhưng anh ta biết rõ, ngậm miện chịu đựng là giải pháp thích hợp nhất để cho anh và chị Khảm còn có cơ hội gặp nhau, để cho mối dây gian díu còn tồn tại được đến bây giờ.

                Danh lợi bạc tiền con người tạo dựng nên ở xứ này là một công thức biểu thị sự thành công, nó được thừa nhận một cách hùng hồn và trở thành cây kim chỉ nam bất di bất dịch, nó như một chất men say khó lòng làm cho con người thức tỉnh, khó lòng mà dứt nó ra một cách dễ dàng. Anh chị Khảm giờ đây có muốn cưỡng chống lại những nguồn lợi tức khổng lồ, có không muốn tiếp tục vui quén tài sản mỗi ngày cứ phát mãi lên trong lúc đã quá dư thừa cũng khó mà thi hành được.

                Chính vì vậy, đời sống cá nhân của anh chị trở nên bận rộn và sống rất rời rạc với nhau. Hai người con của anh chị bây giờ đã lớn, họ đã nằm hẳn trong cơn lốc xoáy đến tối tăm mặt mày, không mấy khi có được một ngày giờ an nhàn rảnh rỗi, không mấy khi cả nhà họ có được một bữa cơm xum họp quây quần với những bữa cơm canh rau đạm bạc ngon lành xưa cũ, cũng không mấy đêm họ đi vào giấc ngủ thanh thản nhẹ nhành yên ổn thường bị chi phối bở những sự toan tính làm ăn, hẹn hò thương vụ đình đám xã giao, nói chi đến những vấn đề giải trí giản dị thanh tao, nói chi đến việc vun bồi cho đời sống nội tâm cùng những liên hệ tình cảm trong gia đình hoặc ngày cả với những con người đồng hương thân sơ khác.

                Của cải thì mỗi ngày càng trở nên dồi dào phong phú, biến dần thành một thông lệ trói buộc, một thói quen không thể nào gián đoạn hoặc ngưng nghỉ, và thời gian để sống riêng cho nhau cũng theo tỷ lệ thuận mà càng ngày càng trở nên eo hẹp hạn chế hơn, anh sống theo anh, chị sống theo chị chẳng ai bận tâm đến ai cả...

                Việc doanh thương đã được hương thịnh vững bền, chuyện hưởng thụ đã quá nhàm chán đến độ dư thừa trên đất Mỹ, có lần anh chị Khảm rủ nhau trở về thăm lại quê cũ phố cũ phố xưa. Chị Khảm chỉ chờ đợi có được cơ hội này. Chị lấy cớ phải ở lại Hoa Kỳ để thay anh điều hành công việc làm ăn trong khi anh đi vắng. Anh Khảm chẳng chút nghi ngờ. Anh đồng ý nhanh chóng để chị Ở lại Hoa Kỳ, một mình anh trở về thăm lại cố hương không có điều gì cần thắc mắc với dự tính về nước để nghiên cứu phát triển chuyện làm ăn nhưng bên cạnh đó, anh cũng háo hức rạo rực trong lòng khi nghe những người đã đi VN trở về đây kể lại những chuyện du dương cụp lạc bên những cô gái son trẻ ở quê nhà với một số tiền chi ra rất ít.

                Quả như lời đồn đại của những người đã từng về Việt Nam du lịch, khi anh về đến quê nhà nghèo nàn rách rưới, cư trú trong một khách sạn đắt tiền chỉ dành cho những du khách có thế lực, anh đã được người môi giới cho xem hình ảnh những cô gái trẻ đẹp sẵn sàng trao đổi rao bán thân xác và anh Khảm chọn ngay một bức hình của một cô gái khá đẹp trông vẫn còn thơ ngây trong trắng, anh đã bỏ một số tiền nhỏ chẳng đáng là bao ra mua.

                Bạn tình hờ của anh là một cô gái đôi mươi, còn nhỏ hơn cả tuổi của hai người con anh đang ở Hoa Kỳ. Cô ta bình thản nhận tiền xong rồi nhờ người trung gian trao ngay lại cho người mẹ của cô đang gặp cơn bệnh hoạn rồi hiến trọn thân xác con gái cho anh. Thời hạn bán thân đã hết, cô gái đáng thương được mẹ của cô lên đến khách sạn chờ để đưa cô về nhà tại văn phòng quản lý. Anh Khảm kể ra cũng là con người nhân ái, anh đích thân đưa cô ta xuống tận nấc than cuối cùng. Nhưng anh thật không thể ngờ khi anh nhìn thấy diện mạo của người mẹ cô gái. Làm sao anh có thể quên đi khuôn mặt người đàn bà đang chờ đợi đứa con gái, vốn là một trong số những người đã có quan hệ tình cảm mật thiết với anh khi trước, anh từng đã chiếm đoạt, xong rồi dâng hiến cho cấp trên và sau cùng, tàn nhẫn bỏ rơi trong lúc cô ta đã mang trong thân xác giọt máu của anh, anh không một lần ngó ngàng thăm hỏi. Người thiếu phụ này chính là mẹ ruột của cô gái anh mới vừa chiếm đoạt tiết trinh. Chính là người hơn hai mươi năm trước đây đã từng cùng anh chắp nối ân tình để rồi sau cùng, vì sự ràng buộc của người đã có vợ có con, anh phải truyền tay cô ta cho người khác để dễ dàng nói tiếng chia tay người thiếu phụ này với một số tiền nhỏ để bà ta tự tìm đường sanh nở.

                Như vậy, đứa con gái vừa cùng anh trao đổi xác thịt chính là đứa con gái ruột thịt mang chính giọt máu của anh năm nào. Sự việc oan khuất đã diễn ra trong hoàn cảnh hết sức bất ngờ như một định mệnh vừ kinh hoàng vừa oan trái, khiến hai người lớn trong cuộc chỉ còn biết nhìn nhau mà nghe trong lòng quặn đau chua xót, chẳng nói được lời gì.

                Người con gái nhỏ tuổi đáng thương vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng của một định mệnh an bài ngang trái, cô cảm thấy quá xấu hổ và đau khổ đến cùng cực, cô vùng khỏi tay người mẹ, thảng thốt phóng thẳng ra đường lộ giữa lúc một chiếc xe vô tình từ đâu chạy tới kết liễu mạng sống của cộ Phần anh Khảm cũng kinh dị không kém, anh ngẩn ngơ đến độ bàng hoàng, cố giữ cho lòng bình tĩnh, nhanh chóng anh bỏ lại cho người tình thiếu phụ lucùc xưa một nắm bạc khá lớn để tự lo ma chay cho đứa con gái xấu số rồi anh gấp rút lấy vé máy bay trở về Mỹ sớm hơ dự tính đến cả nửa tháng trời.

                Anh về đến nhà trong một đêm hôm khuya khoắt với tâm trí còn chưa vợi đi những cơn xúc cảm bàng hoàng sau chuyến du lịch Việt Nam để rồi bất ngờ anh phải chứng kiến thêm một hình ảnh không kém đau lòng khác nữa khi người vợ của anh đang công khai âu yếm nằm trong vòng tay của người tài xế giao hàng trong lúc hai người tin chắc anh còn đi vắng chưa về kịp.

                Đúng là .họa vô đơn chí, phước bất trùng lai.. Anh Khảm lầm lũi rút êm ra khỏi nhà để mặc cho đôi gian tình mặc tình tự tung tự tác. Một lần nữa anh lại trốn chạy một thực tế quá đỗi đắng caỵ Anh âm thầm bước ra khỏi nhà, đi tìm một khách sạn để lưu ngụ tạm trong một thời gian với dụng tâm đợi chờ cho tất cả những xao động kinh hoàng vừa xảy ra, lắng xuống rồi anh mới lần lượt giải quyết từ từ, nào ngờ băt đầu từ giây phút ấy, tâm trí anh như kẻ lạc thần, lúc mê lúc tỉnh, lúc giận lúc yên. Tự nhiên trong anh như có một mãnh lực vô hình đốc thúc anh phải thi hành những công việc rồ dại của một gã điên. Biết bao nhiêu ý tưởng oán hận chập chùng cứ dâng lên ngập đầy trong tâm trí rối bời của anh, bất cứ lúc nào những ý nghĩ này cũng khiến xui anh phải mau trở lại căn nhà của anh để tận diệt đôi gian phu dâm phụ. Anh cố gắng trấn tỉnh để khỏi vướng vào những công việc điên rồ tai hại rồi anh đã thiếp đi từ lúc nào.

                Đứa con gái bán trinh cho anh ở Sài Gòn hiện ngay ra trong tâm tưởng của anh trong cơn mệt nhoài đồng thiếp. Tấm thân mảnh mai của nó có lúc được che phủ bởi những làn khói sương khi mờ mờ ảo ảo, có lúc hiện ra trần truồng. Anh cố nhắm mắt lại để xua đuổi hình ảnh đó đi, nhưng bên tai anh đã có tiếng nói của nó lanh lảnh cất lên:

                - Ông không thể trốn chạy được! Những lầm lạc tội lỗi của ông gây ra từ bao lâu nay thấu động tới tận cõi trời, ông tưởng ngoài ông ra không còn ai hay biết? Bây giờ là lúc bắt đầu ông phải trả những món nợ đời.

                - Tôi... Ba... xin... hãy tha tội chết cho tôi. Tôi vướng mắc chuyện đó với cô bằng tất cả sự vô tình. Tôi không cố ý...

                Vong linh người con gái bán thân bị xe cán chết bất đắc kỳ tử ở Sài Gòn cười rít lên nghe ghê rợn:

                - Phải! Ông đã vô tình. Ông đã bao nhiêu lần dùng đến mãnh lực đồng tiền để chiếm đoạt niềm an lành và sự trắng trong của bao nhiêu người đàn bà con gái, vậy mà ông vẫn chưa yên, ông vẫn mải miết thi hành. Tội lỗi của ông không có đất trời nào có thể dung thứ, ông đã tự tạo nên bao nhiêu nghiệp hcướng cho mình, nghiệp báo này đã vận ngay tức thời để ông trở về hãm hại tôi, hãm hại chính đứa con mang máu thịt tội lỗi của ông hơn hai mươi năm về trước. Bây giờ đến lượt chính ông phải đền trả những nghiệp báo đớn đau này. Người vợ của ông giờ đã ra sao thì lúc nãy ông trở về nhà chắc ông đã biết. Chắc chắn ông phải giết chết bà ta để rửa hận cho mối đau phản trắc này, vậy ông hãy mau làm điều này trước rồi sau đó mới tới những điều kế tiếp...

                Nói xong bóng ma mất hút trong căn phòng khách sạn vắng tanh. Anh Khảm chợt tỉnh táo được đôi chút, trời không mấy nóng nực mà mồ hôi của anh vã ra dầm dề. Anh dáo dác nhìn quanh, mọi vật trong phòng vẫn lặng lẽ tứ bề. Hai bên tai anh bỗng nhiên như có những cơn gió cực kỳ thổi mạnh, anh chỉ nghe thấy những tiếng rít gào và chừng như anh đang lạc vào một thế giới hỗn độn nào khác ngoài cõi trần gian, rồi như có một sự thúc đẩy vô hình, anh bật đứng lên khỏi chiếc ghế bành. Anh lái chiếc xe mướn tạm chạy như bay trở về căn nhà, nơi có hai kẻ gian tình đang ngang nhiên tình tự. Anh không còn đủ bình tĩnh đứng chứng kiến hai kẻ gian dâm, từng nhát dao uất hận, anh chém loạn đả trên thân thể của hai người cho đến khi họ không còn động đậy, anh mới lách mình khóa trái cánh cửa để đi ra.

                Ngay bữa sau, báo chí cùng các cơ quan thông tin đã đồng loạt loan tải nguồn tin thiếu phụ chủ nhân một công ty xuất nhập cảng người Aẽ Châu đã bị giết chết bên cạnh tình nhân cũng bị thương tích trầm trọng nhưng thoát chết trong lúc chồng bà ta vắng nhà với lời bình luận: không tìm ra dấu vết hoặc tông tích của kẻ sát nhân, sự việc còn đang được tiếp tục điều tra.

                Đợi cho việc mai táng nạn nhân xấu số lắng dịu đôi chút anh Khảm mới thực sự quay trở về nhà với thái độ im lìm khó hiểu trong lúc người tài xế tình nhân còn đang bị câu lưu để nhà chức trách tìm ra manh mối. Dần dà, sự việc cũng chìm dần vào quên lãng của thời gian, không ai còn dịp để nhắc nhở tới.

                Phần anh Khảm thì rất đỗi buồn phiền đến bỏ ăn bỏ ngủ, anh như kẻ mất hồn, không còn chút nghị lực tâm trí nào để dòm ngó đến những công việc kinh doanh thường lệ. Người ta lầm tưởng anh buồn đau u uất bởi cái chết thảm khốc của người vợ ngoại tình. Nhưng không ai biết đích xác được rằng anh đau buồn và tỏ ra dở điên dở dại, bỏ bê tất cả mọi công việc điều hành làm ăn chỉ vì nỗi niềm ăn năn sám hối chính anh đã hãm hại và đưa đến cái chết oan nghiệt của người con gái ruột của anh đã bị bỏ rơi, rồi ma đưa lối quỉ dẫn đường tìm đến đổi chác ăn nằm với cha ruột của mình cùng với những hiện tượng huyền bí sau này diễn ra bởi vong hồn oan khuất đớn nhục của người con gái không bao giờ có thể siêu thoát.

                Hai người con của anh chị Khảm tuy đã khôn lớn nhưng chỉ biết tiêu xài, chưa đủ kinh nghiệm để thay thế người cha đột nhiên dở điên dở dại chẳng còn tha thiết đến bất cứ sự việc gì. Họ không cáng đáng nổi những cơ sở kinh doanh phức tạp đó cho nên chẳng bao lâu trở nên suy sụp và phải lo gấp rút sang nhượng tất cả lại cho những doanh nhân khác cho đến khi cơ ngơi đồ sộ của anh chị Khảm chẳng còn lại được gì. Người ta phải đem anh Khảm ký thác vào trong một y viện tâm thần để mong anh được chữa trị khi bệnh điên đã thực sự hoành hành tâm não của anh.

                Hoàn cảnh thương tâm của anh chị Khảm, một người tỵ nạn thành công tột bực trên đất Mỹ bỗng nhiên sụp đổ tan tành khiến cho nhiều người không hiểu rõ ngọn nguồn câu chuyện chỉ biết chép miệng thở dài tiếc nuối. Mấy ai hiểu ra rằng ông trời là người cực kỳ tinh tai sáng mắt và rất mực nhân ái công bằng. Thượng Đế đã ban cho gia đình anh chị Khảm có một cuộc đời giàu sang thịnh vượng, một mệnh số hanh thông may mắn. Nhưng khi đã đạt được mọi thứ một cách khá dễ dàng, con người ta trở nên hợm mình kiêu ngạo, không biết chế ngự lấy những tham vọng vô độ của chính mình, tự nhiên cho rằng mọi sự thành công và những điều khôn ngoan lanh lợi là do chính mình có được hơn người chứ hoàn toàn không phải là những sự may mắn, những cơ hội thành công, những ưu ái của một đời sống phú quý sang giàu được bắt nguồn từ những phước báu còn lưu lại, còn tích tụ bởi rất nhiều tiền kiếp xa xôi để rồi không còn quan tâm đến phần đạo đức tâm linh, để rồi khinh khi miệt thị tất cả mọi người kém may mắn, mọi điều thuộc về tâm linh huyền nhiệm, để rồi nhắm mắt bước càn, lộ ra cái tâm địa đầy dục vọng tham lam, đầy thói hư tật xấu khinh mạn ngất trời để tự mình rước lấy những hậu quả vô cùng đáng tiếc. Co ù khi hiểu được ra thì mọi sự đã rồi, không bao giờ có cơ cứu vãn, uổng phí cả một kiếp người đáng lẽ là một phần thưởng vô cùng cao quí mà Thượng Đế đã ban cho sau hằng bao nhiêu kiếp tu tập mới được diễm phúc làm người, nhất là làm người của một dân tộc thanh cao như dân tộc Việt Nam đang được khắp năm châu ngưỡng phục.

                (Theo Vietsun)
                #8
                  mssthuan 10.10.2006 12:55:00 (permalink)
                  Hồn sống
                  Không rõ


                  Lúc nhỏ, tôi từng nghe mẹ kể rằng khoảng giữa năm 1948, một lần đi bán rong nước mắm lại làng Mỹ Đức, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình bỗng thấy bà con dân làng xôn xao, nháo nhác vì có một đám tang gặp sự cố “xưa nay hiếm”. Đó là khi con cháu, người thân sắp hạ quan tài xuống huyệt thì bỗng nghe tiếng “lộp cộp, lộp cộp” từ trong quan tài phát ra.

                  Linh cảm điều lạ, người ta liền mở nắp quan tài thì ông cụ, người đã chết 3 ngày sắp sửa bị chôn ấy thản nhiên ngồi dậy. Câu đầu tiên “người chết” nói là: “Bây nhốt tao đến chết khát đây này!”.

                  Người làng Trung Bính, xã Bảo Ninh, thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình quê tôi cho đến nay cũng biết chuyện người chết sống lại đã từng xảy ra. Nhân vật là bà Nguyễn Thị Kỳ (tên thường gọi là bà Táy - tên con gái đầu). Bà sinh năm 1898, lấy chồng từ năm 16 tuổi. Bà sinh được 10 người con 6 trai, 4 gái, trong đó có anh Nguyễn Văn Bảy, con trai thứ hai, nguyên là Đồn trưởng Đồn Công an thị xã Đồng Hới giai đoạn 1964-1970. Chồng qua đời năm bà 42 tuổi. Năm 1950, sau hai tuần ốm nặng, không ăn uống gì, tim bà ngừng đập. Cả nhà khóc nức nở bên thi thể bà đã nằm bất động.

                  Ông Nguyễn Ty, một người trong họ của bà Kỳ được phân công khâm liệm. Phải đợi cô con gái đầu là chị Nguyễn Thị Táy lấy chồng xa về gặp mẹ lần cuối nên ông Nguyễn Ty chỉ làm các thủ tục cần thiết trước khi nhập quan.

                  Nhưng khoảng 2 tiếng đồng hồ sau khi bà chết, ông Nguyễn Ty ngồi bên bỗng nghe thấy bà Kỳ kêu “ú ớ, ú ớ” và tờ giấy điều đắp trên mặt bà động đậy rồi hai tay vung mạnh. Ông Nguyễn Ty tiến lại gần, giở tờ giấy điều thì thấy bà Kỳ mở mắt. Bà thều thào: “Cho tao chén nước, khát quá!”. Mọi người xúm vào đỡ bà dậy. Sau khi uống cạn cốc nước, bà Kỳ chớp mắt và hỏi:

                  - Làm gì mà tụ đập đông đến thế? Hôm nay cúng ai mà có hương đèn?

                  Sau đó, biết hết những gì đã xảy ra với mình, bà Kỳ kể rằng, bà đói, khát, phải đi xin ăn nhưng đều bị từ chối. Cuối cùng là một ông già khỏe mạnh từ trong nhà chạy ra, vác cái dùi to tướng đuổi đánh bà tới tấp. Sợ quá bà vừa chạy vừa hét. Tiếng hét làm bà tỉnh lại...

                  Sau khi "chết" một lần, bà Kỳ đã sống tiếp 31 năm nữa, tức vào năm 1981 bà mới quy tiên. Tôi đã đến gặp chị Nguyễn Thị Bơ, vợ anh Đào Tiến Trung tại tiểu khu 3, phường Đồng Sơn, thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Biết tôi có ý định viết bài báo về người chết sống lại, chị vui vẻ dẫn vào chuyện ngay:

                  Mẹ tôi là bà Phạm Thị Cháu, người làng Đồng Hải, thị xã Đồng Hới. Mẹ tôi không có con trai nên lúc ở với con này, khi ở với con khác trong ba chị em chúng tôi. Năm 1992, mẹ tôi bước vào tuổi 79 nhưng vẫn còn mạnh khỏe, minh mẫn. Một buổi chiều đi chơi nhà hàng xóm về bà bảo mệt. Mặc dù chúng tôi xức dầu, xoa bóp, nhưng độ một giờ sau thì bà bất động, chân tay lạnh toát, hai mắt nhắm nghiền và tim ngừng đập.

                  Tin mẹ tôi chết nhanh chóng lan truyền trong tiểu khu. Một số người trong Hội Người cao tuổi đã đến cùng gia đình bàn soạn cho việc tang lễ. Mọi việc chuẩn bị chu đáo chờ tới giờ nhập quan thì bất ngờ mẹ tôi cựa mình sống lại. Sau đó, bà thuật lại chuyện vào chợ mua gì ai cũng không bán, xin ăn không ai cho, lại bị một người to khỏe bắt nhốt vào một cái chum rồi đậy kín lại. Ngạt thở, bà vung tay ưỡn người, giãy giụa, và thế là mở mắt... Chị Nguyễn Thị Bơ còn cho biết, bà Phạm Thị Cháu sống khỏe mạnh thêm 11 năm, hưởng thọ 90 tuổi. Theo tác giả Quang Long trong bài Một xã có 2 người chết sống lại in trong Tri thức trẻ, phụ trang của báo Tiền Phong số 110 (tháng 9-2003) thì tại thôn 2, xã Xuân Lam, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh có cụ Trần Thị Ban, 83 tuổi. Năm 40 tuổi cụ lâm bệnh nặng và “qua đời”. Người ta đắp chiếu từ đầu hôm đến mờ sáng. Bà mẹ lại gần, đột nhiên thấy con cử động rồi kêu toáng lên: “Bay ơi, con Ban sống lại rồi đây này”. Quả nhiên, lật chiếu thì bà Ban ngồi dậy. Hiện nay cụ Ban đang sống cùng người con gái của cụ trong ngôi nhà nhỏ ở thôn 2. Cũng tại địa phương trên, nhưng ở thôn 3 có cụ Trần Cảnh... Năm nay cụ 95 tuổi. Ngày 17-6-2002, cụ đau nặng. Đến 17 giờ cùng ngày thì tim ngừng đập, chân tay lạnh toát. Anh Trần Việt Tăng, trưởng nam đã cùng gia quyến cáo phó. Thầy cúng làng bên lục tục xách chiêng trống sang. Bà con nội ngoại lại gần. Cụ đi thật rồi! …Mọi việc chuẩn bị chu đáo, ban tang lễ được lập ra, bỗng nhiên khoảng 5 giờ sáng, cụ Trần Cảnh cựa quậy. Mọi người xôn xao. Chả ai tin, phải để đến vài giờ sau, cụ Trần Cảnh mới tỉnh hẳn. Anh Tăng đỡ cụ ngồi dậy, câu đầu tiên cụ nói:

                  “Bây mần cái chi chi mà ầm ĩ lên rứa?”.

                  Đến nay cụ Trần Cảnh vẫn khỏe mạnh. Chỉ có điều sau lần chết đi sống lại ấy, tai cụ có phần nghễnh ngãng và mắt nhìn không được chuẩn cho lắm. Báo ANTG số 150 ra ngày 3-6-2004 tại trang 32 có đăng mẩu chuyện lạ, nhan đề Đặt chuông trong quan tài để cứu người chết sống lại.

                  Theo bài báo, do các công ty chuyên về bốc mồ mả thường xuyên phát hiện có các vết cào cấu bên trong quan tài, chứng tỏ không ít người chết chôn xuống đất đã sống lại nên trong mỗi quan tài họ bán đều có gắn một loại chuông báo động. Theo đó, nếu người chết khi chôn, sau đó nếu có sống lại thì có thể bấm để mọi người tới đào lên kịp thời.

                  Khi đem tất cả các chuyện này trao đổi với anh Hồ Văn Chấn, bác sĩ Bệnh viện Việt Nam - Cuba Đồng Hới, được giải thích như sau: Những người chết kiểu ấy chỉ là chết lâm sàng, nhưng bộ não của họ vẫn còn hoạt động. Trong quá trình hoạt động đó, nếu bộ não gặp một hiện tượng chấn hưng, lập tức kích thích các bộ phận trong cơ thể làm việc trở lại. Bác sĩ Hồ Văn Chấn còn cho biết, những trường hợp hy hữu ấy thường thuộc những người có một quá trình sống lành mạnh, không đau ốm, ăn uống điều độ, không sử dụng các chất kích thích, thường xuyên lao động hoặc năng tập thể dục thể thao.


                  (Theo Vietsun)
                  #9
                    silverbullet 11.10.2006 16:37:50 (permalink)
                    Chào Mssthuan,
                    Cám ơn Bạn đã đăng thêm truyện.
                    Chúc vui vẻ
                    SB


                    ***********


                    Người Con Gái Tỉnh Bắc
                    Tác giả: Phạm Cao Cũng



                    Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đã ba tháng rồi. Nhà chật chội, mái lợp tôn, nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà, cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.

                    Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về, nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của mình.

                    Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở, nên chẳng ai dại gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thị Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.

                    Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy, Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấy. Một chiều chủ nhật, Vũ mượn được thang, dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có nhiều bụi cát, cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.

                    Tường cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượi. Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa, mỗi buổi tối, trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.

                    Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:

                    - Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà oan giả.

                    Ngay buổi chiều, Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào mát rợi. Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ: Nghênh Phong Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu, đó là tất cả đồ đạc trần thiết trong căn gác "đón gió" này.

                    Tối đến, Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng, Xã rượu say rồi lên phá quấy.

                    Thật là tĩnh-mịch. Tiếng huyên áo trong hàng cơm vẳng xa hẳn; bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.

                    Nhưng chưa ôn bài được mấy lần, Vũ đã thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả, Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.

                    Vũ bực mình quá, vì thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậy.

                    Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ làm cho người ta chợp mắt.

                    Đêm hôm sau, Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong, Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữa. Gió lùa mát rợi. Tiếng cười nói văng vẳng xa...

                    Dưới ánh nến, chập chờn theo gió, Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ, Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội, để bao lên chồng sách.

                    Nhưng chỉ một lát sau, Vũ đã ngủ gục, cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến hao quá nửa. Vũ giận mình vô cùng.

                    Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữa. Có lẽ khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lùi ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.

                    Vũ dụi con mắt, kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại, và đinh ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môi. Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.

                    Vũ hoảng hốt nhìn lại. Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17, có vẻ như một nữ học sinh.

                    Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm yên chỗ chân tường.

                    Nữ lang mỉm cười và nhắc:

                    - Anh châm thuốc.

                    Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thụ Vũ ngập ngừng mãi mới thốt ra lời:

                    - Cô, cô đến đây ? Đêm khuya...

                    Nữ lang ngắt lời:

                    - Nhà em ở gần đây. Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng, nên vào dựng lại. Vừa toan quay về, thì anh chợt tỉnh...

                    Vũ nhìn lại, quả nhiên thấy trên mặt chiếu, có vết sáp nến loang. Nếu vậy, không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chồng sách! Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:

                    - Xin cảm ơn cô. Nhưng cô là...

                    Nữ lang mỉm cười:

                    - Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây... Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ được, thấy gian gác này trước bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên tò mò nhìn vào... anh tha lỗi cho em nhé!

                    Vũ hỏi tiếp:

                    - Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?

                    Nàng mỉm cười:

                    - Anh không nên hỏi nhiều. Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ, nên đột ngột đến đây, thực quá ư trơ trẽn... Chính vì vậy mà em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chi. Ngừng một lát, nàng lại tiếp:

                    - Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra sao. Vậy tốt hơn hết là chúng ta cứ vui khi cùng nhau gần gũi.

                    Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu, sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn, Vũ nghiêm sắc mặt nói:

                    - Trai gái gặp gỡ đêm khuya, là một sự chẳng hay. Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vã lại, tôi đang cần yên tĩnh để học vì kỳ thi đã tới nơi... Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai, tôi có thì giờ rỗi rãnh, tôi sẽ tiếp chuyện với cô.

                    Nữ lang làm ra bộ hờn dỗi. Nàng đứng dậy, liếc nhìn chồng sách trên chiếu cười nhạt:

                    - Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những hình học không gian, những phân tích hóa học kia của anh là ghê gớm lắm rồi sao? Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!

                    Vũ sốt ruột:

                    - Cô muốn tranh luận gì, xin cũng hãy để đến trưa mai!

                    Nữ lang không nói gì hơn nữa, quay đi. Vũ rất ngạc nhiên, khi thấy nàng không xuống lối cầu thang, mà lại vượt qua cửa sổ.

                    Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽo. Vũ bất chợt thấy rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữa. Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.

                    Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm, Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nào. Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.

                    Buổi tối hôm ấy, Vũ lại lên căn gác của mình ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ, khi gió mát lùa vào. Tuy vậy, chàng đã biết trước việc xảy ra, nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợi.

                    Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào, nhẹ nhàng như một cái bóng.

                    Ra chiều thân mật, Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ. Rồi lã lơi trách:

                    - Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?

                    Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:

                    - Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm thì phải?

                    Vũ thẳng lời cự:

                    - Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa, muốn nói năng gì, sao cô không lại?

                    Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:

                    - Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay sao? Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em thì không ngại, nhưng lo cho anh bị người chế riễu.

                    Vũ lắc đầu:

                    - Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng, chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực, nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồi. Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngày.

                    Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:

                    - Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột, chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng hơn gì người khác...

                    Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở.

                    Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:

                    - Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!

                    Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh mình.

                    Ngọc Bích vùng đứng dậy. Nàng biến sắc, nói:

                    - Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứu. Lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.

                    Nói rồi, bước ra cửa sổ biến mất.

                    Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quái chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết, chẳng phải là những thứ có thể tìm, hoặc tránh được dễ dàng...

                    Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học, thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm, nhưng không thấy. Gió như lạnh hơn lúc trước, làm cho Vũ chợ rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ...

                    Giữa khung cửa sổ, Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa, chập chờn đi lại.

                    Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực hiện. Đã suy nghĩ từ trước, nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào, tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.

                    Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.

                    Thoáng cái, bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:

                    - Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổi?

                    Chưa dứt lời, một thanh xương tay bỗng từ trên trần nhà rơi xuống, ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó, là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn... Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều, lù lù trước mặt... sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm luôn ném vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.

                    Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng, nghiêm giọng trách:

                    - Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh Tây Âu, sao không biết quý người phái yếu?

                    Vũ thẳng lời, cự lại:

                    - Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự! Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xử của hạng người có giáo dục hay không?

                    Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dài. Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm, cũng động lòng, hỏi:

                    - Cô là ai, xin nói thật: Nếu còn giấu diếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.

                    Ngọc Bách hỏi lại:

                    - Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?

                    Vũ cười:

                    - Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhát thì ngay từ đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữa.

                    Nữ lang gật đầu:

                    - Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người, chính là ma.

                    Vũ thản nhiên:

                    - Tôi cũng đã đoán biết ngay.

                    Rồi Vũ lại nói:

                    - Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn, song chưa tin là thực; hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?

                    Ngọc Bách rơm rướm nước mắt, thưa:

                    - Sự đời man mác những nỗi oan khiên nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi, dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu, chôn chặt, thế mà em thì bộc lộ, gián nhấm, chuột gậm, thê thảm vô cùng...

                    Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình, chớ không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:

                    - Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đây. Theo luân lý Khổng Mạnh, trai gái "bất tương thân", nhưng thiển nghĩ: đã là âm dương cách biệt, thì hai thế giới khác nhau, chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!

                    Nữ lang bùi ngùi nói:

                    - Nghe lời anh, em chợ nhớ đến ba em ngày xưa, tuy là người Tây học, mà vẫn giữ được nền nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậy. Càng nhớ lại trong mấy hôm nay, có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng sã, thẹn chết đi một lần nữa được.

                    Vũ gật gù, tán thưởng:

                    - Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu diếm, xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầu.

                    Ngọc Bách lau nước mắt thưa:

                    - Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn, vốn quên ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi...

                    Mĩm cười chua chát, Ngọc Bách lại tiếp:

                    - Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy, nghĩa là: khi chết thì em mới 18 tuổi, nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn thì hiện nay em đã ngoài 20... già mất rồi.

                    Vũ nghĩa thầm trong bụng:

                    - Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo lắng đến sắc đẹp tàn phai.

                    Nữ lang lại kể tiếp:

                    - Trong gia đình, tuy em là lớn nhất, nhưng vì em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy, sau khi đỗ bằng cơ-thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nội. Cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà này.

                    Nhừng lại giây phút, Ngọc Bách lại kể:

                    - Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lại. Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người u già, cũng như con trai bà Phán, đều bị chết vùi trong đống gạch ngói. Riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm ran, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm, tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không, vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc thang, treo ẩn lên trên trần căn gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất.

                    Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uống đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà, và rút thang lên theo. Em có ngờ đâu, chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam gọn trên trần gác, với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngày. Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẩn trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một bóng người nào... Vừa đói và khát, em đành phải chịu cực hình, giống hệt như người bị lạc lõng giữa nơi sa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.

                    Vũ nói tiếp:

                    - Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho nghe!

                    Ngọc Bách thở dài:

                    - Rồi ngày tháng trôi qua. Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưa. Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này, làm mồi cho gián, chuột.

                    Vũ ngắt lời:

                    - Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây, cô lại hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa...

                    Ngọc Bách rơm rớm nước mắt:

                    - Anh quở trách như vậy, em xin nhận lỗi, nhưng chỉ vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này, em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó, định hiện nguyên hình người con gái đẹp, để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh... nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái để cho anh sợ hãi... nhưng kết cục cũng bị thất bại... Em thực đã đắc tội với anh nhiều lắm.

                    Vũ ngắt lời hỏi:

                    - Bây giờ cô muốn gì?

                    Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:

                    - Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận, ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôi. Như vậy, em không còn phải oán hận gì nữa...

                    Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lại tạ ơn, nhưng Vũ giục nàng hãy ra đi, vì âm dương cách biệt, lần lửa lâu lại, cũng e hại cho cả đôi bên.

                    Ngay sáng hôm sau, Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy, họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học, nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành ... Vũ lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện giăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn cất, cho đúng lời hẹn với hồn ai!


                    #10
                      silverbullet 21.10.2006 04:53:46 (permalink)
                      Ma Trên Đất Mỹ
                      Tác giả: Nam Huỳnh (PHT).
                      Cựu SQ QLVNCH, sang Mỹ trong diện H.O:12, từng làm việc ở tiểu bang IDAHO, hiện cư trú tại GARDEN GROVE.


                      Tác giả Nam Huỳnh, viết "Đây là những chuyện hoàn toàn thật, nên xin được phép không nêu rõ địa danh và vị trí, để không phạm pháp quy và không làm phiền cho gia chủ".

                      oOo


                      Năm 1994 là năm mà nền kinh tế Orange County bị bế tắc trầm trọng, nạn thất nghiệp gia tăng ... đó là nguyên nhân đã khiến cho hàng loạt người đã rời bỏ nơi đây để tìm sinh kế nơi các tiểu bang khác. Trong dòng người ra đi tìm sự sống có ba anh em tôi!

                      Chúng tôi lái xe đến Fort Smith thuộc miền Bắc tiểu bang Arkansas vào đúng nửa đêm... sau 3 ngày đêm vượt hơn 2000 miles. Tất cả chúng tôi đều quá mệt mỏi, nên đã quyết định đậu xe trong khuôn viên của một "Gas Station" để ngủ, chờ sáng...

                      Sáng hôm sau, chúng tôi đi tìm thuê apartment ở khu downtown của thành phố. Đang dọ hỏi đường đi, chúng tôi lại gặp một nhóm gồm 4 người, cũng từ Orange County ra đi như chúng tôi, họ gồm có đôi vợ chồng trẻ, và hai thanh niên, bạn của đôi vợ chồng này...

                      Cùng chung cảnh ngộ, nên dễ cảm thông nhau, và đồng kết bạn và cùng thuê nhà ở chung.

                      Chúng tôi thuê được 1 phòng của Fourplex có 1 phòng tắm , 1 phòng khách và 1 phòng ngủ. Trong phòng ngủ để cho 3 thanh niên, ở phòng khách thì có cặp vợ chồng trẻ, tôi và cô em gái tôi. Chúng tôi cùng nộp đon xin việc tại công ty OK Food.

                      Ca 1 (shift 1) 5 người trong đó có tôi.

                      Ca 2 (shift 2) chỉ có một mình Hùng (do Hùng xin vì hắn ta không thức sớm nổi).

                      Hằng ngày từ 3:00 am, chúng tôi phải thức dậy lo chuẩn bị đi làm (theo xe ủi tuyết, đến parking của hãng ngủ tiếp trên xe, chờ đến 5:30 am vào ca). Riêng Hùng, hắn ta ngủ đến 2:00 pm mới vào ca.

                      2. Phần cô em gái tôi, vì dị ứng với thời tiết mùa Đông nên bi cảm cúm luôn nên phải ở nhà lo cơm nước cho mọi người.

                      Ba ngày nơi căn nhà trọ trôi qua thật yên lành. Sáng ngày thứ tư, khoảng 8:30 am Duyên (em gái tôi) đang chuẩn bị lo thức ăn nơi nhà bếp, cô giật mình vì nghe tiếng la ú ớ của Hùng trong phòng ngủ...

                      Cô chạy đến đập cửa phòng gọi Hùng khoảng 10 phút sau mới có tiếng trả lời và Hùng mở vội cửa chạy ra, nhớn nhác và có vẻ hồi hộp chạy thẳng ra phòng khách ngồi xuống nền thảm, nói với Duyên rằng:

                      -Anh ta bị "Ma" đánh, đuổi anh ta...

                      Duyên cũng có phần lo lắng, nhưng cô cố trấn tĩnh và khuyên Hùng ráng bình tĩnh để mà họp tất cả anh em lại để hội ý cùng quyết đinh. Hùng quyết định, ngay hôm nay Hùng nghỉ việc, ở nhà chờ 5 anh em chúng tôi đi làm về để bàn bạc.

                      Mọi người tắm rửa xong là vào ngồi tại living room để nghe Hùng kể:

                      - Từ đêm đầu tiên vào nhà này, liên tiếp cho đến hôm nay là ngày thứ tư, mỗi đêm Hùng đều mơ thấy một người đàn ông Việt Nam, mặt tròn, đầu hói, luôn luôn với nét mặt nhăn nhó, cau có đến nói với Hùng rằng: đây là phòng của ông ta và ông ta yêu cầu Hùng phải rời khỏi nơi đây!

                      - Chuyện trong mơ, theo Hùng nghĩ: đó chỉ là dị mộng... nhưng đêm nào cũng xảy ra như thế, cho đến sáng nay là lần thứ tư, Hùng thấy ông "ma" này nổi giận, mắng chửi Hùng và xô anh ta té từ trên giường xuống sàn nhà...

                      Hùng la ú ớ, khi nghe tiếng đập cửa của Duyên, Hùng mới tỉnh giấc và thấy mình đang nằm dưới sàn nhà cách xa giường ngủ khoảng 1 yard! Và khắp thân thể đều bị ê ẩm! Nhưng cố bò lại mở cửa chạy ra ngoài ... !

                      Câu chuyện của Hùng vừa kể xong, thì tiếp đến Lê và Thư, hai thanh niên cùng phòng với Hùng cũng nói. Đêm nào hai em cũng nghe có tiếng động như có người đi. Có tiếng nước chảy trong bathroom, có tiếng soong, nồi, chén, dĩa va chạm nhau ở nhà bếp...

                      Còn Lê nói:

                      -Có đêm thức giấc đi tiểu, thì dường như có bàn tay nào đó sờ vào lưng Lê, còn Thư thì kể:

                      - Lúc đang tắm thì nghe có tiếng gõ cửa và có tiếng người hối Thư tắm nhanh cho anh ta vào tắm... Thư lật đật tắm lẹ để nhường phòng tắm... nhưng khi xong trở ra, Thư hỏi mọi người thì ai cũng tắm rồi cả.

                      Thư và Lê còn cho biết, có lúc nằm còn xem Tivi nhưng họ cảm thấy có ai đó khiêng cái giường họ lên... khi họ ngồi dậy thì cái giường rớt xuống nền nhà nghe thành tiếng "cụp". Mọi sự việc đã xảy ra trong suốt 4 ngày qua... tất cả 3 thanh niên đều nghĩ : "không phải là ảo tưởng mà là sự thật" nên họ đều sợ...

                      Do đó đêm nay tất cả đều ra nằm ngủ chung ngoài living room. Một đêm an toàn ngủ tại living room đã làm mọi người an tâm trở lại.

                      Đến đêm thứ bảy, weekend đầu tiên, chúng tôi quây quần bên nhau tại living room người xem tivi, người đọc báo, hai cô gái thì trò chuyện về cuộc sống hôm nay. Chờ xem bản tin 9:00 pm của đài ABC băng tần số 4 xong, thì mới tắt đèn đi ngủ...

                      Bỗng tất cả chúng tôi đều giật mình khi nghe tiếng xã nước trong bathroom, như có người đang tắm.

                      Mọi người, nhất là 2 cô gái rất sợ hãi...

                      Tôi quyết định lấy cây đèn pin bảo Hùng và Thư theo tôi, còn Lê ở lại living room với 2 cô gái... bathroom hoàn toàn khô ráo.

                      Không còn nghe tiếng nước chảy. Đêm đó, hầu như mọi người đều mất ngủ, chỉ riêng tôi còn ngủ được một chút ít. Cứ mỗi lần có ai cần đi tiểu, thì lại đánh thức tôi dậy để đưa đi giùm... khiến tôi cũng chỉ ngủ được rất ít...!

                      Sáng chủ nhật, tôi quyết định cùng nhau đi chợ mua ít thực phẩm, về nấu mấy món ăn cúng người khuất mặt!

                      Tôi khấn người khuất mặt nhận phần cúng này, chúng tôi dâng cúng với lòng chân thành, cầu xin người tha thứ và độ trì cho chúng tôi: những người tỵ nạn đầy khó khăn nơi xứ lạ và vì cuộc sống, vì việc làm nên phải tha phương cầu thực và lưu lạc như thế này. Cầu mong "người" thông cảm cho hoàn cảnh và đừng làm cho chúng tôi sợ nữa, tôi cũng khấn hứa rằng: đi tìm thuê nhà khác với sự phò trợ của "người".

                      Cúng xong, chúng tôi dọn ra ăn thật vui vẻ, bỗng cô em gái tôi nói với mọi người:

                      - Ông ta bảo rằng: ông là người Việt Nam di tản sang Mỹ hồi 30 tháng 4 năm 75, ông cũng là công nhân của hãng thực phẩm này, ông làm shift 1, vợ con ông làm shift 2. Khi ông đi làm về nhà, thì vợ con ông đã đi làm, ông tắm rửa xong, ông bị chóng mặt quá, ông cố lết vào phòng thì té cạnh giường chết vì đứt mạch máu não... đến ngày hôm sau vợ con ông mới phát giác ...

                      Nghe xong câu chuyện, ai cũng bùi ngùi cho ông, gia đình ông và ngay cả thân phận chúng tôi (có điều xin ghi chú: Cô Duyên, được hồng ân Thiên Chúa cho nên Duyên nghe được tiếng người chết nói).

                      Ngay chiều hôm đó, Hùng xuống phố downtown chơi, gặp một người Việt Nam cùng làm chung hãng chỉ cho chúng tôi thuê được một townhome cách căn nhà "Ma" khoảng nửa mile.

                      Trưa thứ hai từ hãng ra về chúng tôi dọn nhà ngay. Chúng tôi báo cho bà chủ nhà về việc chúng tôi "move" không có ý định xin lại bớt tiền nhà, thế nhưng bà chủ đã sẵn sàng bớt lại cho chúng tôi 20 ngày và chỉ yêu cầu chúng tôi đừng bao giờ tiết lộ về tin tức "căn nhà ma" của bà ...

                      Chúng tôi làm việc cho OK Food được 6 tháng, thì hãng bắt đầu suy sụp, vì ảnh hưởng chung của nền kinh tế Mỹ. Mỗi tuần chỉ làm có 3 ngày, do đó cuộc sống chúng tôi lại bị khó khăn, nên chúng tôi bắt buộc phải rời thành phố đầy băng tuyết này để đi tìm sinh kế nơi khác.

                      Cuối năm 1995, chúng tôi được người bạn ở San Francisco gọi lên và giới thiệu cho 3 anh em chúng tôi làm quản gia một "tòa lâu đài" và quản lý nhà hàng. Được bà chủ nhà (tòa lâu đài và nhà hàng) đã vui vẻ, lịch thiệp ân cần đón tiếp chúng tôi với lòng tha thiết, bà cũng ưu ái trả lương rất là vừa phải, bao ăn, ở tại tòa lâu đài.

                      Sau khi mời chúng tôi ăn lunch tại nhà hàng, bà đích thân đưa chúng tôi về tòa lâu đài lúc 1:00 PM để chúng tôi nghỉ ngơi ít hôm, trước khi bắt tay vào việc.

                      "Tòa lâu đài" sừng sững trên một ngọn đồi, nhìn xuống trước mặt là một hồ nước khá to, chung quanh "lâu đài" là một dãy apartment khá sang trọng, bên trong bức tường bao quanh tòa lâu đài là những "vườn hoa muôn sắc" thật là rực rỡ thanh tao... !

                      Tòa lâu đài có diện tích khá rộng, trên 25,000 sqft nằm trong một khu vườn rộng trên 60,000 sqft và được xếp hạng là tòa lâu đài thứ 12 trên đất Mỹ. Tòa nhà có 3 tầng, khá rộng mà hệ thống đèn quá cũ kỹ nên không đủ ánh sáng, do đó các phòng hơi tối và lạnh lẽo... !

                      Đêm đầu tiên 3 anh em chúng tôi ngủ tại living room nhỏ bên trái, lúc 9:00 pm, tôi và cậu em trai còn xem tin tức trên tivi, cô em thì nằm trên sofa... Đột nhiên có một làn gió mạnh,... thổi ngang làm cho tất cả chúng tôi đều rùng mình ớn lạnh... mặc dù quanh chúng tôi chẳng có một cửa sổ nào mở cả, tôi vội đứng lên đi xem tất cả các cửa sổ, nhưng tất cả đều đóng kín! Khoảng 15 phút sau, chúng tôi lại nghe nhiều tiếng động phát ra từ trong các phòng ngủ ở tầng trệt và trên lầu, có tiếng đóng và mở cửa... rồi liên tục hướng nhà bếp có tiếng cọt kẹt, tiếng nồi, niêu, xoong, chảo va chạm nhau ... tiếng chân người chạy trên tầng 2... !

                      Tôi cũng giật mình chới với, nhưng cố trấn tĩnh lại để không làm hai đứa em sợ. Tôi bảo: có lẽ bên ngoài gió to nên gây ồn như vậy thôi, ... tivi vẫn để cho mọi người xem, cho đến lúc cả ba chúng tôi đều ngủ quên luôn...

                      Đến khoảng nữa đêm, cô em gái giật mình thức giấc ngồi bật dậy, gọi tôi và cậu em... cô nói:

                      -Em sợ quá anh ạ, em vừa mơ thấy một ông Mỹ già, cao và ốm, đầu bạc trắng, đến đuổi anh em mình ra khỏi nơi đây ngay tức khắc! ông hỏi tại sao dám vào nhà ông ta ngủ?

                      Tôi cố trấn tĩnh cô em:

                      -Chỉ là giấc mộng thôi em à! Chẳng có gì mà phải lo sợ. Nói xong tôi lại âm thầm cầu nguyện Chúa và Đức Mẹ độ trì, đồng thời tôi cũng khấn xin "ông chủ Mỹ" cho chúng tôi được tạm trú chờ thuê apartment xong chúng tôi sẽ dọn ra.

                      Chúng tôi muốn kéo dài thời gian lưu ngụ với hy vọng là "hồn ma chủ nhà" sẽ thông cảm, nhưng chúng tôi chỉ ngủ yên được đêm thứ hai, qua đêm thứ ba thì tình trạng xảy ra y như đêm hôm đầu tiên ...

                      Sự việc xảy ra đã làm chúng tôi bắt đầu "lo sợ" nên đến sáng ngày thứ tư, tôi phải báo với bà chủ lâu đài:

                      -Chúng tôi từ chối việc làm mà bà có nhã ý giúp đỡ, vì chúng tôi không thể ở "tòa lâu đài" này được lâu hơn vì có "Ma".

                      Bà gật đầu, suy nghĩ một lúc, bà bão:

                      -"Tôi đề nghị anh đem tượng Chúa về thờ, phần bà thì có thờ Phật trên lầu rồi. Bà còn bảo chúng tôi ráng cầu nguyện thì sẽ yên thôi".

                      Thật ra, anh em chúng tôi đã làm tất cả những gì bà đã nghĩ, nhưng vô hiệu! Tôi chỉ còn một hy vọng cuối cùng, sáng hôm sau, tôi đến tiệm Mc Donald mua một phần hamburger đem về cúng, tôi vừa khấn cúng xong, thì cô em la to lên:

                      -No, I don't care, go out ! go out !

                      Tiếp theo là hệ thống alarm trong nhà rú lên ầm ỉ, tôi cố trấn tĩnh nhưng tay run cầm cập, gọi cậu em theo tôi, đến tắt alarm nơi cửa chính, còn cô em thì bỏ chạy ra sân trước mặt mày tái mét!

                      Tắt alarm xong, tôi và cậu em trai bật đèn tất cả để tìm xem có ai lọt vào nhà không? Dù giữa ban ngày nhưng lòng tôi cũng cảm thấy hồi hộp khi bước lên lầu 1, 2 rồi tầng thứ ba... nhưng chẳng có gì!

                      Cho tới giai đoạn này, tôi mới bắt đầu cảm thấy lo sơ... nên quyết định lại quay về Orange County mà không báo với bà chủ tốt bụng, sau đó tôi gởi trả chìa khóa "Lâu đài" qua đường bưu điện, với lời cám ơn bà, và xin thứ lỗi vì đã phụ lòng bà! Trở lại vùng đất gọi là "thủ đô tị nạn" để sống thì rất là tốt, nhưng chỉ có việc làm là quá khó khăn thôi.

                      Sáng chủ nhật chúng tôi đi lễ sớm lúc 6 giờ sáng, chúng tôi chỉ cầu xin Chúa - Đức Mẹ cho anh em chúng tôi có việc làm.

                      Lễ xong, ra bãi đậu xe, em gái tôi gặp nhiều người quen trong đó có cô bạn thân từ hồi còn ở Việt Nam, đôi bên tâm sự và cô bạn cho biết ở Riverside có một linh mục chết bởi tai nạn nhưng rất thiêng liêng, vì ông hay đẩy xe... có người gọi là "ma đẩy xe". Tin đồn nhiều, nên nhiều người đã thực hành theo tin này và cho biết kết quả là có thật...

                      Vì tính hiếu kỳ, và sẵn có niềm tin, nên anh em tôi cùng vợ chồng một bạn thân, quyết định đến nơi "linh mục hiển linh" để cầu nguyện và thực hiện theo tin đồn, ngay vào trưa chủ nhật tháng 7 năm 1996, chúng tôi hoàn toàn toại nguyện với ý định của mình. Chúng tôi xuống xe cùng cầu nguyện và cám ơn "Vị linh mục Việt Nam thiêng liêng" đã làm phép lạ tại nơi đây, mà ngài đã vĩnh viễn nằm xuống để về nước Chúa, nhưng vẫn hướng dẫn mọi người củng cố niềm tin qua việc đẩy xe của Ngài ...

                      Ai cần đến với Ngài, xin đi freeway 91 East quẹo sang freeway 60 East chạy khoảng 4 miles ra Exit Nason, quẹo trái lên cầu, xuống dốc cầu quẹo chữ U trở lại đậu dưới dốc cầu khoảng 100m tắt máy xe, trả số về N(neutral) mọi người ngồi yên và tập trung cầu nguyện, trong vòng từ 10 phút đến 30 phút, xe sẽ được đẩy... di chuyển từ từ ...

                      "Ma" là những mẩu chuyện huyền thoại, ít ai tin. Nhưng đối với cá nhân tôi và 2 đứa em là những "chứng nhân" thực sự và cũng đã từng là "nạn nhân" bị "Ma" đuổi, ngay trên đất Mỹ này. Xin ghi lại nơi đây để mọi người suy gẫm.
                      #11
                        Chuyển nhanh đến:

                        Thống kê hiện tại

                        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                        Kiểu:
                        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9