George Orwell - Chế độ toàn trị và văn chương - Phạm Minh Ngọc dịch
sóng trăng 25.10.2006 12:35:04 (permalink)
.
George Orwell
Chế độ toàn trị và văn chương
Phạm Minh Ngọc
dịch và chú thích




[1]

Ngay trong lần nói chuyện đầu tiên [2] tôi đã nói rằng thời đại chúng ta đang sống không thể gọi là thời đại của phê bình. Đây là thời đại nhập thế chứ không phải xuất thế, vì thế rất khó công nhận giá trị văn học của một cuốn sách nếu ta không đồng ý với các kết luận chứa đựng trong đó. Chính trị, trong nghĩa rộng nhất của từ này, đã xâm chiếm văn chương với một mức độ chưa từng có trong những điều kiện bình thường và đấy chính là lí do vì sao hiện nay chúng ta cảm thấy cuộc tranh chấp thường xuyên giữa cá nhân và cộng đồng lại dữ dội đến như vậy. Chỉ cần suy nghĩ về những khó khăn khi viết một bài phê bình trung thực, không thiên vị trong cái thời như thời của chúng ta là ta sẽ thấy ngay những mối đe dọa đang treo trên đầu văn chương trong một tương lai rất gần.

Thời đại chúng ta đang sống là thời đại cáo chung khái niệm cá nhân độc lập hay đúng hơn phải nói rằng thời đại mà cá nhân không còn ảo tưởng là mình độc lập nữa. Nhưng khi nói về văn chương và nhất là về phê bình thì ta mặc nhiên coi cá nhân là độc lập. Toàn bộ nền văn chương đương đại châu Âu, ý tôi muốn nói nền văn chương được hình thành trong suốt bốn trăm năm qua, được xây dựng trên nguyên tắc trung thực về tri thức, hay có thể nói theo Shakespear: "Hãy trung thực với chính mình". Việc đầu tiên ta đòi hỏi ở nhà văn là không được dối trá, chỉ nói những điều anh ta thực sự nghĩ, thực sự cảm nhận được. Điều tệ hại nhất đối với một tác phẩm nghệ thuật là khi nó bị coi là không thật (insincere). Điều này còn đúng đối với lĩnh vực phê bình hơn là lĩnh vực sáng tác, trong sáng tác thì một ít phô trương, một ít điệu bộ và ngay cả nếu có một phần giả trá thực sự thì điều đó cũng không thật sự quan trọng, miễn là nhà văn trung thực trong những điểm chính yếu. Nền văn học đương đại thực chất là sáng tạo mang tính cá nhân. Hoặc là nó chuyển tải được suy nghĩ và tình cảm của cá nhân hoặc chẳng là gì hết.

Như tôi đã nói, ta coi điều đó là đương nhiên, nhưng chỉ cần ta phát ngôn ý nghĩ đó thành lời thì ta sẽ thấy ngay mối nguy hiểm đang treo trên đầu văn chương. Đây là thời đại của nhà nước toàn trị, một nhà nước không cho, hay phải nói không thể cho cá nhân bất kì một sự tự do nào. Khi nói đến chế độ toàn trị ta thường nghĩ đến nước Đức, nước Nga, nước Ý, nhưng tôi cho rằng ta phải sẵn sàng đối mặt với hiện tượng đang có xu hướng mở rộng ra toàn thế giới này. Rõ ràng là giai đọan của chủ nghĩa tư bản tự do đang cáo chung và ngày càng có nhiều nước áp dụng nền kinh tế tập trung, có thể gọi là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản nhà nước, tùy khẩu vị từng người. Điều đó đặt dấu chấm hết cho sự tự do về kinh tế của cá nhân và cùng với nó, tự do lựa chọn công việc mình thích, tự do chọn nghề mình thích, tự do đi đến bất cứ nơi nào mình thích cũng sẽ không còn. Cho đến tận thời gian gần đây chúng ta vẫn chưa thấy được hậu quả của những biến đổi đó. Chúng ta chưa thật sự hiểu việc mất tự do về kinh tế sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tự do về tri thức. Chủ nghĩa xã hội vẫn được coi là một chế độ tự do được ông Thiện nâng đỡ. Nhà nước sẽ lo cho bạn về kinh tế, tránh cho bạn khỏi nỗi sợ nghèo, sợ mất việc và nhiều nỗi sợ hãi khác, mà sẽ không có nhu cầu can thiệp vào đời sống tinh thần của bạn. Nghệ thuật sẽ nở rộ như thời còn chủ nghĩa tư bản tự do, mà có thể hơn vì người nghệ sĩ không còn bị miếng cơm manh áo thúc bách nữa.

Nhưng sự thật nhãn tiền buộc ta phải nhận rằng đấy là những quan niệm sai. Chế độ toàn trị đã can thiệp vào lĩnh vực tự do tư tưởng ở mức độ chưa từng có trước đây. Điều quan trọng mà ta phải nhớ là nhà nước toàn trị kiểm soát tư tưởng không phải chỉ với mục đích cấm đoán mà cả với mục đích xây dựng nữa. Chế độ ấy không chỉ cấm bạn nói hay viết, thậm chí suy nghĩ, về một số ý kiến nào đó; nó còn chỉ cho bạn điều cần phải suy nghĩ, nó tạo cho bạn một hệ tư tưởng, nó tìm mọi cách kiểm soát đời sống tình cảm của bạn cũng như đặt ra những tiêu chuẩn đạo đức mà bạn phải theo. Nó tìm mọi cách để cách li bạn với thế giới bên ngoài, nó nhốt bạn vào một thế giới giả tạo để bạn không còn tiêu chuẩn nào mà so sánh nữa. Nhà nước toàn trị nhất định sẽ tìm mọi cách để kiểm soát tư tưởng và tình cảm của các thần dân cũng hữu hiệu như kiểm soát hành vi của họ.

Vấn đề quan trọng đối với chúng ta là: Văn chương có sống được trong tình hình như vậy không? Tôi nghĩ rằng ta có thể trả lời một cách ngắn gọn là: không. Nếu chế độ toàn trị trở thành hiện tượng toàn cầu và vĩnh viễn thì cái mà chúng ta vẫn gọi là văn chương sẽ cáo chung. Chẳng nên khẳng định, như ban đầu ta tưởng, rằng sẽ chỉ cáo chung một loại hình văn chương, mà cụ thể là loại do châu Âu tạo ra sau thời Phục Hưng.

Có những sự khác nhau căn bản giữa chế độ toàn trị với tất cả các chế độ chính thống trong quá khứ, cả ở châu Âu và ở phương Đông. Điều đặc biệt quan trọng là các chế độ chính thống trong quá khứ không thay đổi, hay ít nhất cũng thay đổi một cách chậm chạp. Nhà thờ ở châu Âu thời trung cổ buộc bạn vào một tín số điều, nhưng ít nhất nó cũng cho phép bạn giữ những tín điều ấy từ lúc lọt lòng cho đến lúc chết. Nó không bao giờ bảo bạn thứ hai phải tin một điều, thứ ba lại phải tin vào một điều hoàn toàn khác. Tình hình cũng tương tự như vậy đối với các tín đồ đạo Công giáo, đạo Hindu, đạo Phật, đạo Hồi ngày nay. Trong một ý nghĩa nào đó thì tư tưởng của các tín đồ bị giới hạn, nhưng họ sẽ sống suốt đời trong những giới hạn tư tưởng đó. Không ai can thiệp vào lĩnh vực tình cảm của họ.

Chế độ toàn trị hoàn toàn ngược lại. Đặc trưng của nhà nước toàn trị là tuy nó kiểm soát tư tưởng, nhưng nó lại không xác dịnh dứt khoát tư tưởng ấy là gì. Nó đưa ra một số tín điều không được tranh cãi, nhưng các tín điều ấy lại thay đổi hàng ngày. Chế độ cần tín điều vì cần các thần dân phục tùng một cách tuyệt đối, nhưng nó không thể không thay đổi theo các nhu cầu của tầng lớp nắm quyền. Khi tuyên bố là không bao giờ sai lầm, chế độ toàn trị đồng thời vất bỏ ngay chính khái niệm chân lí khách quan. Một thí dụ rõ ràng và đơn giản: cho đến tháng 9 năm 1939 [3] mọi người Đức đều phải coi nước Nga Bolsevich là một chế độ tàn ác và đáng khinh, nhưng sau tháng 9 năm 1939 lại phải coi Nga là đáng phục và đáng yêu. Nếu Nga và Đức đánh nhau, có khả năng là chuyện đó sẽ xảy ra trong một hai năm nữa, thì một sự thay đổi đột ngột ngược lại sẽ xảy ra. Đời sống tình cảm của một người Đức, tình yêu, lòng căm thù của anh ta, khi cần có thể đảo ngược lại hoàn toàn chỉ trong một đêm. Có lẽ chẳng cần phải nói điều đó có ảnh hưởng như thế nào đối với văn chương. Vì sáng tạo trước hết là cảm, mà tình cảm thì không phải lúc nào cũng có thể kiểm soát được từ bên ngoài. Dễ dàng xác định cách hành xử theo lối đãi bôi đối với hệ tư tưởng chính thống, nhưng một tác phẩm văn chương chỉ có giá trị khi người viết cảm thấy chính sự thật mà anh ta đang viết, không có cái đó thì bản năng sáng tạo cũng sẽ không còn. Kinh nghiệm lại chứng tỏ rằng việc thay đổi tình cảm một cách đột ngột, như các chế độ toàn trị đòi hỏi ở các thần dân, là bất khả thi về mặt tâm lí. Đấy chính là lí do khi tôi giả định rằng nếu chủ nghĩa toàn trị giành được thắng lợi trên toàn thế giới thì cái mà chúng ta vẫn gọi là văn chương sẽ cáo chung. Trong thực tế, cho đến nay chủ nghĩa toàn trị đã tạo ra chính hiện tượng ấy. Ở Ý văn chương đã bị vật cho đến què quặt, còn ở Đức thì gần như không còn. Ngay ở nước Nga, nơi một sự phục hưng văn chương như chúng ta từng kì vọng đã không xảy ra, và xu hướng chính ở đấy đang là: các nhà văn có tiếng hoặc là tự sát hoặc biến mất trong các nhà tù.

Như tôi đã nói, chủ nghĩa tư bản tự do đang cáo chung và như vậy cũng có thể rút ra kết luận là tự do tư tưởng chắc chắn cũng sẽ cáo chung. Nhưng tôi không tin là điều đó nhất định sẽ xảy ra, và để kết luận tôi xin nói tôi tin rằng văn chương sẽ đứng vững ở những nước mà tư tưởng tự do đã ăn sâu, bén rễ, thí dụ như ở Tây Âu, châu Mĩ, Ấn Độ, Trung Quốc. Tôi tin, có thể đấy chỉ là một niềm tin mù quáng, rằng nếu kinh tế tập thể là điều không thể tránh thì các nước đó sẽ học được cách thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa không toàn trị, nơi tự do tư tưởng vẫn còn sau khi cá nhân đã không còn được tự do về kinh tế nữa. Dù sao mặc lòng, đấy cũng là niềm tin duy nhất cho những người yêu quí văn chương có thể dựa vào. Những ai hiểu được giá trị của văn chương, những ai nhìn thấy vai trò chủ đạo của nó trong sự phát triển của lịch sử nhân loại, phải nhận thức được rằng giáng trả chủ nghĩa toàn trị, dù nó được áp đặt từ bên trong hay từ bên ngoài chính là đòi hỏi sống còn.

© 2004 talawas



-----------------------------------------
[1]Toàn trị: dịch chữ Totalitarism. Theo cuốn từ điển Anh Việt của Viện ngôn ngữ xuất bản năm 1993 thì Totalitarism là: "Chế độ cai trị chỉ có một đảng, không có đảng hoặc chính kiến đối lập, thường đòi hỏi cá nhân phải phục tùng tuyệt đối các yêu cầu của nhà nước." Còn theo một định nghĩa khác, tương đối thịnh hành ở phương Tây thì đấy là: "Một chế độ cai trị khép kín, trong đó tất cả công việc, từ nuôi dạy trẻ đến sản xuất, đều được kiểm soát từ một trung tâm."
[2]Đây là những buổi nói chuyện của G. Orwell phát trên đài BBC, bắt đàu từ ngày 19 tháng 6 năm 1941.
[3]Đây là nói thời điểm kí hiệp ước hoà bình Xô - Đức, thường gọi là hiệp ước Molotov-Ribentrov.

http://talawas.org/talaDB/showFile.php?res=438&rb=0103


Tác phẩm của George Orwell tại Việt Nam Thư Quán

George Orwell tại Thư viện ngoại văn Việt Nam Thư Quán

<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.10.2006 15:43:08 bởi sóng trăng >
#1
    sóng trăng 25.10.2006 12:53:56 (permalink)
    .

    Trần Doãn Nho
    Trở lại với George Orwell


        "Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng, nhưng một số con vật được bình đẳng hơn các con khác" (All animals are created equal, but some animals are more equal than others).

        George Orwell
        l




    Ngày 25/6/2003 vừa qua là sinh nhật lần thứ 100 của George Orwell, một nhà văn có quan điểm độc lập mà hai tác phẩm "Animal Farm" và "1984" đã để lại một dấu ấn khó phai trong thế giới văn chương. Kỷ niệm một trăm năm ngày sinh và 53 năm ngày mất, tác phẩm và cuộc đời của George Orwell đã và đang được nhiều giới khác nhau (sử gia, phê bình văn học, nhà văn, nhà báo...) tuyên dương, đánh giá lại và thậm chí tranh cãi tại nhiều nơi ở Hoa Kỳ và Anh Quốc. Tháng 5/2003, 300 học giả hội họp tại Wellesley 3 ngày liên tiếp trong một cuộc hội thảo có tiêu đề là "An Exploration of His Work and Legacy". Nhân dịp này, người ta phát hành hai cuốn tiểu sử mới viết về Orwell. Ðồng thời, để vinh danh, một tổ chức chẳng dính dáng gì đến văn chương, "The Royal Society of Chemistry" (Hiệp Hội Hóa Học Hoàng Gia), đánh dấu lễ kỷ niệm bằng cách công bố kỹ thuật chế biến trà, vốn là một trong những ám ảnh của Orwell và là chủ đề chính trong một bài tiểu luận ông viết vào năm 1946.

    "Như là một trong những bậc thầy của nền văn xuôi Anh Quốc, George Orwell là một trường hợp gây bối rối, khó xử. Những người đương thời biết rằng ông có cái gì đặc biệt, nhưng lại khó giải thích tại sao. Việc mang ông ra thảo luận chẳng dễ dàng hơn chút nào theo thời gian. (The Economist, Anh, 12/6/03). "George Orwell là một nhà văn chính trị, một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ 20 (...) Một nhà văn chính trị là một nhà văn hết sức quan tâm đến từ ngữ công chính, khinh bỉ những thành quả lớn và không tự xem mình là anh hùng hay một nhà tiên tri. (Philippe Dagen, "Le monde" 3/7/03, "Orwell, au coeur de l'inhumanite"). Orwell là "một cây bút không hoàn hảo mà lại hấp dẫn" (...) "Và tên của Orwell đã trở thành tiếng tính từ tiêu chuẩn được sử dụng khi đo lường khoảng cách giữa ngôn ngữ chính trị và thực tế đạo đức" (Glenn Frankel, Washington Post, 25/6/03).

    Washington Post, trong một bài viết khác, lại tố cáo là Orwell có tinh thần bài Do Thái và là một kẻ cô đơn không bè bạn thường khoác chiếc áo giai cấp thợ thuyền nhưng lại ăn nói theo kiểu giai cấp lớp trên - là người bị xâu xé giữa một bên là xã hội chủ nghĩa và bên kia là chống báng Liên Xô của Stalin" (theo Jeremy Lovell). Và mới đây, không lâu trước ngày kỷ niệm, một tài liệu chưa hề công bố cho biết, ít tháng trước khi chết, Orwell đã giao cho Sở Ngoại Vụ Anh một bản danh sách gồm 38 người Cộng Sản và những bạn hoạt động bí mật của ông. Danh sách sau đó đã được sử gia Timothy Garton Ash tiết lộ đầy đủ. Sự kiện đó đã khiến người ta nghi ngờ xu hướng xã hội chủ nghĩa và tinh thần chống độc tài của ông, đồng thời làm hoen ố danh tiếng mà ông có được từ cả hơn nửa thế kỷ nay. Tuy nhiên, trong một cuộc trò chuyện với tờ Guardian (Anh), sử gia Norman Mackenzie - một trong số 38 người có tên trên bản danh sách, hiện còn sống - cho rằng khi bị bệnh lao, ông không còn kiểm soát được mình nữa. "Ðó là một danh sách không đáng tin cậy. Những bệnh nhân bị bệnh lao thường rất kỳ quặc vào giai đoạn cuối. Tôi là một người ngưỡng mộ Orwell, tôi đồng ý với ông về Liên Xô, nhưng tôi cho rằng ông đã phần nào trở nên lẩm cẩm rồi".

    Về phương diện văn chương, một số nhà phê bình, như D. S. Salvage chẳng hạn, cho rằng Orwell không bao giờ có thể được sắp xếp vào hàng ngũ những nhà văn hàng đầu trên thế giới vì quan điểm chính trị của ông đã tước mất đi "tính chính trực của người nghệ sĩ thuần túy". Một số người khác không đồng ý như vậy. Theo họ, chẳng có tác phẩm nào là hoàn toàn không có thiên kiến chính trị và xem Orwell như là một trong những nhà văn quan trọng hàng đầu của văn chương thế kỷ thứ 20. Có lẽ Bernard Crick - giáo sư chính trị học tại đại học Birkbeck (Anh), tác giả của cuốn tiểu sử George Orwell: A Life - là người hết lòng bênh vực cho một Orwell/nhà văn. Crick đọc khá kỹ tiểu luận Why I Write của Orwell, qua đó, quan điểm viết lách của ông hiện ra rất rõ ràng. "Trong thời kỳ hòa bình, lẽ ra tôi phải viết những tác phẩm hoa mỹ hoặc những tác phẩm có tính cách gợi tả (descriptive) và đừng quan tâm gì đến những cam kết chính trị của mình. Ấy thế mà, trong tình thế này, tôi bị buộc phải trở thành một tay viết sách chuyên đề (pamphleteer)". Theo Crick, những lời lẽ này dường như thay thế cho một lời xin lỗi. Trong bài viết, Orwell không úp mở thú nhận rằng nếu không có một quan điểm chính trị mạnh mẽ, ông sẽ không bao giờ viết lách được gì. "Nhìn lại những gì tôi đã viết ra, tôi thấy rằng lúc nào cũng vậy, hễ thiếu đi một mục tiêu chính trị là tôi viết ra những tác phẩm vô hồn và trở thành dài dòng, rườm rà, câu kéo vô nghĩa, những tính từ hoa hòe và nói chung là xảo trá, bịp bợm (humbug)". Crick quả quyết Orwell là nhà văn đã biết sử dụng tài năng của mình để biến "những bài viết về chính trị thành nghệ thuật" (turned political writing into an art).

    Thì thế, khen và chê. Cũng là chuyện thường tình. Nhưng dẫu khen hay chê, không ai có thể phủ nhận vị trí quan trọng hàng đầu của Orwell trong lịch sử văn chương thế kỷ 20.

    George Orwell là bút hiệu của Eric Arthur Blair, sinh ngày 25 tháng 6/1903 tại Bengal (Ấn Ðộ), con thứ hai của một viên chức Anh làm việc tại sở buôn thuốc phiện, Ấn Ðộ. Ít tháng sau khi sinh, ông theo mẹ về lại Anh quốc và sống ở đó cho đến khi trưởng thành. Ông học hành không lấy gì xuất sắc, do đó, không được học bổng để vào đại học. Chán nản, năm 1922, ông đăng ký làm cảnh sát thuộc địa tại Burma (Miến Ðiện). Công việc này chẳng làm ông thú vị gì, nhưng giúp ông nhìn thấy rõ bản chất của chủ nghĩa thuộc địa và hình thành xu hướng xã hội chủ nghĩa của ông sau này. Trong thời gian phục vụ, ông bắt đầu viết lách lăng nhăng, nhưng không mấy thành công. Nhiều bài sau này in trong tuyển tập "Shooting an Elephant" (1950) đề cập đến cung cách làm việc của các viên chức thuộc địa. Một trong những bài viết nổi tiếng nhất là "A Hanging" kể chuyện một người Ấn bị treo cổ chết.

    Sau năm năm làm việc, ông từ chức và trở về lại Âu Châu. Ông sống như một kẻ vô gia cư, làm những việc vặt vãnh ở cả Anh và Pháp, có lúc phải đi ăn xin. Ðể biết qua về kiếp tù đày, một lần, ông giả vờ say sưa để bị bắt nhốt. Kinh nghiệm sống đó cung cấp cho ông chất liệu độc đáo, dồi dào giúp ông hoàn tất truyện dài Down and Out in Paris and London (1933), diễn tả cuộc sống bi đát của những kẻ sống bên lề xã hội ở. Một vài nhân vật trong đó chẳng khác gì những nhân vật trong truyện của Charles Dickens. Sợ không thành công, ông không dám dùng tên thật mà lấy một tên khác làm bút hiệu: George Orwell. Trái với sự lo ngại của tác giả, tác phẩm được sự ca ngợi của giới phê bình, mặc dầu không tránh khỏi những nhược điểm tất nhiên của một tác phẩm đầu tay. Tên George Orwell, từ đó, được dùng làm tên chính thức cho tất cả các tác phẩm cũng như tiểu luận về sau của ông.

    Bốn năm sau, một tác phẩm khác ra đời: The Road to Wigan's Pier (1937). Ðó là một ký sự (non-fiction), kết quả của hai tháng đi lang thang trong các hầm mỏ, bến tàu, những khu láng giềng tồi tàn, bẩn thỉu vùng Lancashire và Yorshire (Anh). Tác phẩm chấm dứt với lời thú nhận rằng ông tin ở chủ nghĩa xã hội và rằng các phong trào cánh tả là lực lượng duy nhất đủ sức chống lại cơn triều dâng của chủ nghĩa phát-xít đang hoành hành ở Châu Âu. Nhưng đồng thời tác giả không quên cảnh báo về nguy cơ của một xã hội theo chủ nghĩa toàn trị kiểu Stalin ở Liên Xô. "Chúng ta cần có chính sách tuyên truyền thông minh. Bớt đi những là "ý thức giai cấp", "trưng thu tài sản của những kẻ bóc lột", "ý thức hệ trưởng giả", "tình liên đới vô sản"...và thêm vào đó công lý, tự do và thực cảnh của những người thất nghiệp", Orwell viết.

    Năm 1937, Orwell sang Tây Ban Nha, gia nhập tổ chức "Workers' Party of Marxist Unification" (POUM = Ðảng Công Nhân Mác-Xít), chiến đấu chống quân đội phát-xít. Sau một thời gian ông bỏ đảng, dù vẫn đứng trong hàng ngũ công nhân. Về Anh, ông lại gia nhập một đảng khác, "Independent Labour Party" (Lao Ðộng Ðộc Lập). Và rồi lại bỏ đảng vài tháng sau đó. Con người Orwell là như thế. Cam kết theo đuổi lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhưng lại không muốn lệ thuộc vào bất cứ một đảng phái chính trị nào. "Một nhà văn chỉ có thể giữ gìn sự ngay thẳng của mình nếu anh ta không chịu ảnh hưởng của bất cứ đảng phái nào", ông phát biểu. Những ngày tháng ở Tây Ban Nha, ông chứng kiến mật vụ Sô Viết đàn áp tàn bạo phong trào vô chính phủ, đồng thời dưới áp lực của Liên Xô, chính phủ Tây Ban Nha đàn áp phong trào của ông. Kết quả là sự ra đời của Homage to Calalonia (1938), phản ảnh bộ mặt của cuộc nội chiến Tây Ban Nha với tất cả những bi thương khủng khiếp của nó và là một bản tố cáo chính sách khao khát quyền thống trị của Stalin đối với các phong trào cánh tả trên toàn thế giới. Khác với hai tác phẩm trước đó, Homage to Catalonia không gây mấy tiếng vang, vì lúc đó, dư luận chung cho rằng tố cáo Stalin sẽ làm yếu đi phong trào chống phát-xít ở Châu Âu.

    Thời đệ Nhị Thế Chiến, do yếu phổi và bị thương trong cuộc chiến Tây Ban Nha, ông được miễn nhập ngũ. Ông làm việc cho đài BBC, rồi sau làm chủ bút cho tờ báo cánh tả Tribune cho đến cuối chiến tranh. Lúc này, tài năng viết lách của ông đã đến độ chín toàn diện và tên tuổi của ông cũng đã nổi tiếng khắp châu Âu. Năm 1943, ông bắt đầu viết Animal Farm, một tác phẩm mà nội dung đã được thai nghén từ năm 1937 theo như ông cho biết. Tác phẩm gặp trắc trở lúc đầu. Có đến 4 nhà xuất bản từ chối in với một trong những lý do khá thuyết phục: tác phẩm có nội dung chống Stalin trong lúc Stalin đang là đồng minh của Anh Quốc và Hoa Kỳ chống Hitler. Mãi cho đến tháng 8/1945, vài ngày sau khi khi Hoa Kỳ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, tác phẩm mới lặng lẽ xuất hiện trên những kệ sách của các tiệm sách Luân Ðôn. Lúc này, Ðức và Nhật đã hoàn toàn bại trận. Một liên minh với Stalin không còn cần thiết nữa. Ðúng thời điểm, cuốn sách mỏng có tựa đề Animal Farm, chỉ trong một thời gian ngắn, đã có tiếng vang lớn trong giới chính trị và văn chương Anh thời hậu chiến, trở thành bestseller và được giới phê bình xem là một kiệt tác. Nhờ thế, Orwell có tiền và tậu được một trang trại tại Hebrides, nơi ông hoàn thành tác phẩm kế tiếp, Nineteen Eighty-Four (sau này đổi cho gọn thành 1984), xuất bản năm 1949. Khác với Animal Farm, 1984 là một cái nhìn về tương lai. Theo các nhà phê bình, 1984 chứa đựng dấu vết của nhà viết truyện châm biếm Anh gốc Irish thế kỷ thứ 18 là Jonathan Swift và hai nhà văn đương thời: Aldous Huxley (Anh) và Yevgeni Zamyatin (Nga). Cần ghi nhận: tựa đề 1984 không chứa đựng bất cứ một tiên tri nào, mà đơn giản chỉ là cách nói ngược của năm 1948. Cùng với Animal Farm, 1984 là một kiệt tác của Orwell. Nhưng ông không sống lâu để hưởng thụ thành quả của mình. Cố gắng để hoàn tất 1984 trong ngôi nhà lộng gió và thiếu sưởi ấm đã khiến bệnh lao phổi của ông nặng thêm. Một hôm, kiệt sức, ông được đưa gấp đến viện điều dưỡng Gloucestershire. Bệnh mỗi ngày mỗi nặng. Tám tháng sau, người ta chuyển ông qua bệnh viện Luân Ðôn và ông chết tại đó vào tháng 1/1950 sau một cơn xuất huyết.

    Orwell là một người khá bất thường. Giọng nói thì the thé, khó nghe, ăn mặc lúc nào cũng xoàng xĩnh, y như một tay nghèo túng kinh niên, nghiện thuốc nhưng chuyên môn hút thuốc tự mình vấn lấy. Người đầy cá tính, không mấy tin cậy người lạ mặt, và do đó, ít bạn bè. Có lẽ vì thế mà các nhân vật hư cấu của ông thường khô khan, cứng nhắc, thiếu tính thuyết phục. Các nhân vật nữ được phác họa sơ sài, thiếu nét hấp dẫn và thiện cảm khiến người ta ngờ rằng ông có tâm lý ghét phụ nữ (misogyny). Phải chăng vì ông là người ưa săn đuổi phụ nữ, nhưng không mấy thành công? Một đặc điểm khác: không thích ai đọc trước bài viết của mình và góp ý. "Tôi không cần ai (góp ý) cả. Bài viết luôn luôn toàn hảo. Kể cả những dấu chấm phết", ông khẳng định (Glenn Frankel, Washingtonpost 25/6/03). Lại mặc cảm tự ti. "Ngay từ lúc mới đầu, tham vọng văn chương của tôi thường lẫn lộn với cảm giác bị cô lập và bị coi thường", ông thú nhận về sau này. Ông xem cuộc đời riêng của ông là một phấn đấu không ngừng nghỉ để thoát ra khói cảm giác bị coi thường đó và nhiệt tình với chuyện viết lách. Trong một bài viết năm 1947, ông nhận xét: "Tất cả mọi nhà văn đều hão huyền, ích kỷ và lười biếng và ngay trong tận cùng động cơ viết lách của họ, vẫn tồn tại một điều bí ẩn. Viết một tác phẩm là một cuộc tranh đấu khủng khiếp, kiệt sức giống như trải qua một cơn bệnh đau đớn kéo dài. Người ta sẽ không bao giờ làm được một công việc như thế nếu không bị lôi kéo bởi loại quỷ quái nào đó mà người ta không cưỡng chống được mà cũng chẳng hiểu rõ" (All writers are vain, selfish, lazy, and at the very bottom of their motives there lies a mystery. Writing a book is a horrible, exhausting struggle, like a long bout of some painful illness. One would never undertake such a thing if one were not driven on by some demon whom one can neither resist nor understand). Một nhận xét độc đáo và khá chính xác!


    *

    Như đã nói ở trên, Animal Farm và 1984 là hai kiệt tác của Orwell.

    Animal Farm là một câu chuyện hài hước cay đắng mô tả cuộc nổi loạn của một nhóm súc vật chống lại ông chủ người của chúng. Trước hết, đám súc vật đói khổ trong nông trại của ông Jones được con heo "lý thuyết gia" Old Major truyền bá tư tưởng: tất cả mọi đau khổ của kiếp súc vật là do sự thống trị của Con Người, một tạo vật lười biếng và độc đoán, bắt súc vật làm việc tối đa để phục vụ cho quyền lợi của họ. Ðể chấm dứt đau khổ, loài vật phải lật đổ ách thống trị của con người và xây dựng một xã hội, trong đó mọi con vật đều được bình đẳng. Sau khi Old Major chết, hai con heo Snowball và Napoleon, đứng ra lãnh đạo cuộc cách mạng với sự phụ tá của Squealer, một con heo khác có tài về tuyên truyền thuyết phục quần chúng. Lợi dụng lúc ông chủ say sưa, không quan tâm gì đến các con vật đang bị đói, đám súc vật nổi loạn, đuổi ông Jones đi. Cách mạng thành công, ba con heo thiết lập một hệ thống chính quyền mới dựa trên "Animalism" (thú vật chủ nghĩa) với 7 điều cam kết (the seven Commandments), đại loại như: "bất kỳ con vật nào đi bằng hai chân đều là kẻ thù", "không con vật nào giết con vật nào", vân vân. Ðiều cuối cùng là "Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng" (all animals are created equal). Cuộc cách mạng phát triển nhanh chóng tới các trại súc vật khác. Nông trại được đặt tên mới, mọi con vật hăng hái, phấn khởi làm việc trong niềm hy vọng ở một cuộc sống mới tự do, no ấm và bình đẳng. Nhưng một thời gian ngắn sau, mọi việc dần dà biến đổi. Hai con heo cầm quyền tranh chấp, kết quả là Snowball phải ra đi. Quyền hành thu tóm trong tay Napoleon. Với quyền hành đó, Napoleon bắt đầu dùng chính sách đàn áp và bỏ đói để cai trị. Hắn ta bắt đầu sống trong xa hoa, sa đọa. Bảy điều cam kết từ lúc bắt đầu cách mạng lần lượt được sửa đổi cho phù hợp với ý muốn của Napoleon. Quan trọng nhất là điều cuối cùng: "Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng" được đổi thành "Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng, nhưng một số con vật được bình đẳng hơn các con khác" (All animals are created equal, but some animals are more equal than others). Hình ảnh cuối cùng thật chua chát: Napoleon và đám đàn em cùng nhậu nhẹt say sưa với con người, kẻ thù cũ của chúng trong lúc tất cả đám súc vật đều đang thiếu đói.

    Tác phẩm cho thấy tiến hóa của một cuộc cách mạng, khởi đầu từ một nhóm người ưu tú đi đến chỗ một cá nhân thâu tóm mọi quyền hành, độc quyền lãnh đạo, qua đó, ta có thể tìm thấy đầy đủ các khuôn mặt cũng như những biến cố chính đã xảy ra ở Liên Xô: từ Lenin, Stalin, Trosky đến cuộc nổi loạn Kronstadt, chính sách tuyên truyền chính trị, kiểm duyệt, thiếu đói, kế hoạch ngũ niên, tập thể hóa cưỡng bức, nạn đói năm 1932 ở Ukraina, đồng minh tiền chiến tranh Hitler-Stalin, hiệp định Molotov-Ribbentrop, vân vân. Trong Why I Write, Orwell cho biết kinh nghiệm trong thời nội chiến Tây Ban Nha đã có ảnh hưởng lớn lên tư tưởng chính trị của ông và tác phẩm. "Mỗi một giòng trong tác phẩm nghiêm túc mà tôi đã viết, dù gián tiếp hay trực tiếp, đều nhằm chống lại chế độ độc tài toàn trị và hỗ trợ cho một chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ. (...) Trại Súc Vật là tác phẩm đầu tiên trong đó tôi cố gắng với đầy đủ ý thức về những gì tôi đã làm, kết hợp mục đích chính trị và cùng đích nghệ thuật vào trong một toàn thể".

    Orwell không dấu giếm tư tưởng chính là nhằm phê phán cuộc cách mạng năm 1917 ở Nga, nhưng trong một lá thư viết cho Dwight MacDonald, chủ bút tạp chí Politics (New York), ông cho biết Animal Farm còn nhắm lên án "những cuộc cách mạng bạo động có tính cách âm mưu" (violent conspirational revolutions) được lãnh đạo bởi những kẻ khao khát quyền hành một cách vô ý thức". Ðiều đó, theo Orwell, chỉ "dẫn đến sự thay ngôi đổi chủ" chứ không thay đổi số phận của xã hội. Nhà viết tiểu sử Barnard Crick cho rằng Animal Farm là "lời than khóc cho một cuộc cách mạng bị thất bại, than khóc cho sự phá hủy tự do diễn đạt nghệ thuật và tất cả những hy vọng gắn liền với thời kỳ đầu của cuộc cách mạng. Tóm lại, đó là lời than khóc cay đắng về sự hư hỏng của lý tưởng do quyền lực gây nên".

    1984 mô tả một thế giới bị chi phối bởi ba siêu cường quốc: Eurasia, Eastasia và Oceania. Oceania luôn luôn sống trong tình trạng chiến tranh với hai siêu cường kia, đẩy toàn thế giới ở trong một tình trạng thù hận, cô lập và sợ hãi. Winston Smith, 39 tuổi, là một nhân viên làm việc cho Bộ Sự Thật, trú sở tại London, thuộc siêu cường Oceania. Xứ sở được cai trị bởi Ðảng và nhà lãnh tụ nắm giữ quyền hành tuyệt đối có tên là Big Brother, mà khuôn mặt của ông ta hiện diện khắp nơi trên các tấm biển với giòng chữ "Big Brother Is Watching You" (Big Brother đang theo dõi bạn). Nhà độc tài kiểm soát đất nước bằng 4 bộ: Hoà Bình, Tình Yêu, Thịnh Vượng và Sự Thật. Chức năng của 4 bộ này là một nghịch lý: bộ Hoà Bình thì đảm nhiệm chiến tranh, bộ Tình Yêu thì phụ trách chuyện hành hạ, bộ Thịnh Vượng thì chuyên lo về bỏ đói và bộ Sự Thật thì đảm trách chuyện nói láo. Ðảng lo tất cả mọi sinh hoạt hàng ngày của cuộc sống cá nhân, từ ăn, mặc cho đến các sinh hoạt khác. Chiến tranh và thù hận bao trùm đất nước. Ðảng theo dõi sát từng cử chỉ và tư tưởng của mỗi một cá nhân bằng những màn ảnh viễn vọng, những máy ghi âm dấu kín và gián điệp ở khắp mọi nơi. Cảnh Sát Tư Tưởng, bộ phận bí mật của Big Brother, có nhiệm vụ phát hiện bất kỳ một âm mưu nổi loạn chống nhà nước nào.

    Winston không chịu đựng được không khí ngột ngạt đó, nuôi ý đồ chống lại Big Brother. Anh bí mật mua cuốn sổ nhật ký và ghi vào đó câu "Hạ bệ Big Brother". Ðồng thời anh âm thầm tìm hiểu các bí mật của xã hội, nhất là thời kỳ trước cách mạng mà nhà nước tìm cách xóa bỏ. Anh cũng tìm cách nhớ lại những biến cố và người vào thời tuổi trẻ của anh. Quan điểm anh được vài người chia xẻ, trong đó có Julia, người yêu vụng trộm của anh, ông Charrington, người bán cho anh cuốn nhật ký và O'Brien, người làm cùng sở với anh. Họ gặp nhau và thảo luận về việc gia nhập tổ chức bí mật "Brotherhood" có mục đích lật đổ nhà độc tài. O'Brien cho Winston biết anh ta là người của nhóm bí mật và tuyển anh và Julia vào nhóm.

    Nhưng hóa ra, Charrington là cảnh sát tư tưởng còn O'brien thành viên cao cấp của Ðảng. Winston và Julia bị bắt và cả hai trải qua một quá trình tẩy não. Lúc đầu Winston tỏ ra kiên cường, không chịu khuất phục. Nhưng dần dà, do hành hạ, tra tấn, anh đành chịu thua, phản bội cả người tình và tất nhiên cả lý tưởng của anh. Khi được tạm thả sau khi bị tẩy não, anh chạy đi tìm Julia. Nàng thú nhận rằng nàng cũng đã phản bội anh. Anh cảm thấy không còn ham muốn nàng nữa và thay vì ở với nàng, anh đi kiếm một chỗ trong quán cà phê. Lúc đó, màn ảnh viễn vọng loan báo tin về chiến thắng cuối cùng của Big Brother trong cuộc chiến tranh, anh khóc lên vì sung sướng: Ðảng đã hoàn toàn kiểm soát được anh. Cuối cùng "Anh đã yêu Big Brother" (He Loved Big Brother).

    Câu chuyện của 1984 tương đối giản dị, ít biến cố và không đầy kịch tính như trong Animal Farm. Nhưng trong lúc Animal Farm chỉ mô tả lại những gì vốn đã diễn ra trong thực tế bằng cách dựng lại một khung cảnh khác, 1984 đẩy cuộc cách mạng và nhà nước độc tài tiến xa hơn, đưa ta đi sâu vào bản chất của sự toàn trị, bản chất con người và đặc biệt ảnh hưởng của ngôn ngữ và ý niệm chính trị lên cuộc sống cá nhân. Orwell đã sáng tạo ra nhiều từ mới, mà một số đã trở thành ngôn ngữ chính thức được ghi vào tự điển Anh như: Big Brother, Hate Week, Thought Police, doublethink...Một trong những phương cách thống trị quần chúng của Ðảng là sáng tạo ra một hệ thống ngôn ngữ mới gọi là "Newspeak" và bắt buộc tất cả mọi người đều phải sử dụng. Newspeak được cấu thành bởi các chữ viết tắt (abbreviations) và từ tập hợp các chữ cái đầu tiên của một nhóm chữ (acronyms). Mục đích của việc tạo ra thứ chữ mới là giới hạn "tầm tư tưởng" (range of thought) của con người và đồng thời còn nhằm mục đích xóa bỏ tất cả các ký ức về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Nhân vật Syme, một tay ngôn ngữ học, giải thích với Winston "Tôi dám quả quyết rằng anh nghĩ công việc chính của chúng ta là tạo ra chữ mới. Không phải đâu. Chúng ta đang phá hủy chữ...Anh không hiểu thấu cái đẹp khi ta phá hủy chữ đâu" (...) "Anh không thấy rằng toàn thể mục đích của Newspeak là thu hẹp tầm tư tưởng đó sao? Cuối cùng, chúng ta sẽ khiến cho người ta không còn có thể phạm tội tư tưởng được nữa, bởi vì người ta chẳng còn chữ để diễn tả chúng".

    Quy luật của Ðảng là giữ tất cả vào trong một lý tưởng chung. Ðảng viên không có quyền phạm một sai lệch nào, dù nhỏ nhặt nhất. Tất cả mọi biến cố, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải diễn ra theo cách mà Ðảng muốn. Do đó, phải sắp xếp lại quá khứ, hay nếu cần, xóa sạch quá khứ. Ðó là cách mà Ðảng khống chế hiện thực (reality control). Trong Newspeak, từ ngữ để chỉ ý niệm này là doublethink. Doublethink có nghĩa là năng lực giữ hai niềm tin mâu thuẫn nhau trong tinh thần của một ai đó đồng thời và thừa nhận cả hai. Với biện pháp này, Ðảng có thể bác bỏ hay chấp nhận bất cứ hiện thực nào hay lối lý luận nào mà Ðảng thấy có lợi cho mình. Nói khác đi, nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng xong. Hôm nay Ðảng gọi cái này là con bò, nhưng ngày mai Ðảng có thể gọi nó là con ngựa hay bất cứ một con gì khác cũng không sao. Tóm lại, Ðảng phá vỡ tính nhất quán của ngôn ngữ và tư tưởng, tiến đến phá vỡ luôn sự suy tưởng. Tên của các bộ trong chính phủ là một nghịch lý: bộ Hòa Bình chuyên lo về chiến tranh hay bộ Tình Yêu đảm trách công tác hành hạ. Nghịch lý và phi lý trở thành ý thức hệ của nhà cầm quyền: 2 + 2 = 5/ War = Peace/ Freedom = Slavery, vân vân và vân vân. Ðó là phương pháp mà người phụ trách tẩy não của Ðảng, O'Brien, thực hiện để thay đổi bản chất con người của Winston. Bằng thuyết phục và bằng hành hạ, Winston đi từ chỗ chỉ chấp nhận khái niệm 2 + 2 = 4 đến chỗ phải chấp nhận 2 + 2 = 5 một cách tự nguyện.

    Từ doublethink đi đến doublespeak. Hãy nghe Winston diễn tả doublespeak: "Biết hoặc là không biết, ý thức rõ sự thật một cách hoàn toàn trong lúc vẫn nói những điều bịa đặt một cách cẩn thận, giữ đồng thời hai ý kiến trái ngược hẳn nhau, biết chúng là mâu thuẫn và vẫn tin tưởng ở cả hai, dùng luận lý để chống luận lý" (To know and not to know, to be conscious of complete truthfulness while telling carefully constructed lies, to hold simultaneously two opinions which cancelled out, knowing them to be contradictory and believing in both of them, to use logic against logic)

    Từ khái niệm căn bản đó, Newspeak khai sinh ra một số từ mới khác như:

    unperson: một người bị xóa hoàn toàn ra khỏi lịch sử, nghĩa là không còn hiện hữu nữa vì tất cả hồ sơ cá nhân bị tiêu hủy

    duckspeak: nói mà không suy nghĩ; nói như con vịt kêu quạc quạc; nói như vẹt

    blackwhite: khả năng thừa nhận bất cứ những gì mà Ðảng nói với anh. Khái niệm này được Orwell diễn tả "tự ý nói đen là trắng khi kỷ luật đảng đòi hỏi như thế. Nó cũng có nghĩa là khả năng tin rằng đen là trắng, và hơn thế nữa, biết đen là trắng, và quên đi rằng người ta đã từng có lần tin ở cái ngược lại (nghĩa là đen là đen, trắng là trắng) "
    vân vân.

    Cũng như Animal Farm, 1984 là một cuộc tấn công toàn diện vào hệ thống chính quyền kiểu Sô Viết. O'Brien giải thích cho Winston: "Ðảng tìm quyền hành hoàn toàn chỉ vì chính mình. Chúng ta không cần phải quan tâm đến phúc lợi của người khác, chúng ta chỉ quan tâm đến chuyện nắm quyền. Nước Ðức Quốc Xã và nước Nga Cộng Sản rất gần gũi với chúng ta trong phương pháp, nhưng họ không bao giờ can đảm thừa nhận những động cơ riêng của họ. Ðối tượng của khủng bố là khủng bố. Ðối tượng của hành hạ là hành hạ. Ðối tượng của quyền hành là quyền hành". Tuy vậy trước sau, Orwell cho rằng Animal Farm hay 1984 không là một phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Cho đến trước khi chết, ông vẫn khẳng định lòng trung thành của mình đối với chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm không chỉ nhằm chống lại chính quyền Cộng Sản mà tấn công vào sự đe dọa của chủ nghĩa toàn trị ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Theo ông, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát-xít là hai hình thức nhà nước đã làm hư hỏng hình ảnh đẹp đẽ của chủ nghĩa xã hội chân chính. Bernard Crick nhận định "Trong 1984, cách mạng xảy ra nhưng trở thành hoàn toàn chua chát. Ðảng nắm được chính quyền để rồi hoàn toàn bị hư hỏng vì quyền lực". Cũng theo Crick, 1984 không phải là một tác phẩm tiên tri. Mà là "một pha trộn giữa châm biếm và cảnh báo (...) Ðó là một thành quả nghệ thuật của chủ nghĩa bi quan, và rất giống với Gulliver's Travels của Jonathan Swift, là hình ảnh của một nhân loại xuống cấp".


    *

    Tuy không cho rằng những gì Orwell nói là tiên tri, nhưng những lời cảnh báo của ông đã hoàn toàn lỗi thời chưa?

    "Ngày nay, thông điệp của ông (Orwell) vẫn còn thích hợp cho một quốc gia đang tranh đấu để tìm ra sự cân bằng hợp lý giữa việc bảo vệ công dân Hoa Kỳ chống lại chủ nghĩa khủng bố và bảo đảm quyền tự do cá nhân" ("Big Brother 2003", USA Today, 22/6/03). Theo tờ báo, nhiều nhà hoạt động cho quyền tự do dân sự, những học giả chuyên môn về hiến pháp sợ rằng nhà nước (Mỹ) đang lấy đi những tự do nền tảng của công dân. Sau đây là một vài "lo âu kiểu Orwell" (Orwellian concerns): chương trình "Total Information Awareness Program" của Ngũ Giác Ðài cho phép nhà cầm quyền dùng máy vi tính để kiểm tra các hồ sơ tài chánh, điện thoại và các thứ khác để tìm ra âm mưu khủng bố; hệ thống dò xét "Transportation Security Administration" cho phép nhà cầm quyền bí mật kiểm tra hành lý của hành khách; đạo luật "Patriot Act" cho phép FBI bí mật kiểm tra hồ sơ thư viện và tiệm sách để theo dõi người đọa sách và mua sách.

    Trong một bài phóng sự nhan đề Orwell's 1984 stirs debate in 2003 (25/6/2003), thông tín viên hãng CNN cho biết một nhóm hoạt động nhân quyền ở Anh lên tiếng báo động về việc "Quyền riêng tư đang bị tiêu diệt một cách có hệ thống". Ông Simon Davies, giám đốc tổ chức "Privacy International" cho biết "Sự theo dõi đang trở thành một dịch bệnh" (Surveillance has become an epidemic). Ðược lãnh đạo bởi Hoa Kỳ và Anh Quốc, các nước vừa được khích lệ vừa bị dọa dẫm để chấp nhận thiết lập một số lớn những biện pháp nghiêm ngặt nhằm tăng cường tối đa tất cả các mức độ theo dõi". Ông cho biết hiện nay ở Anh, hàng năm chính phủ tiêu hơn 450 triệu đô la vào kỹ nghệ theo dõi với việc thiết trí chừng 300 ngàn ống kính thu hình tại các chợ búa, nhà ở, công viên, bãi đậu xe và các tiện nghi công cộng khác. Theo đề nghị mới đây của Sở Nội Chính Anh (UK Home Office), những viên chức nhà nước còn có thể theo dõi khi người ta vào Internet, gửi email hay tìm biết người ta hay vào những "website" nào. Ngoài ra, cơ quan "UK Transport Secretary Alistair Darling" còn đề nghị mỗi một chiếc xe hơi phải được gắn một thiết bị gọi là "Global Positioning System" (GPS = hệ thống định vị toàn cầu) nhằm xác định vị trí của một chiếc xe trong vòng 5 hay 10 mét. Mỗi một chiếc xe sẽ chuyển thông tin vị trí của nó về một máy vi tính trung ương, xuyên qua hệ thống điện thoại di động.

    Cornelius Thomas, qua bài viết How to own people (The Natal Witness Features, 25/6/03, South Africa) nhận xét rằng khẩu hiệu "Big Brother Is Watching You" trong 1984 vẫn còn đó. Ở Trung Quốc, hình ảnh Mao vẫn còn đe dọa nghiêm trọng khắp nơi. Hình ảnh của Castro ở Cuba, của Kim Jong Il ở Bắc Triều Tiên y chang như "Big Brother Is Watching You" trong 1984. Ở Saudi Arabia, các bức chân dung cao bằng tòa nhà 3 tầng của vua Fahd vẫn chằm chằm giám sát người dân. Cho đến gần đây, hình ảnh của Saddam Hussein soi mói nhìn người Iraq ban ngày và lính của ông ta giết họ vào ban đêm. Rồi còn có một "Big Brother" lớn hơn nữa: George Bush. Chỉ có điều là "Brother" Bush này không cau mày nhìn từ các tấm biển quảng cáo. Thay vào đó, các đài truyền hình truyền đi những lời đe dọa của ông 24 giờ một ngày. Và "Big Brother" lớn nhất chính là các tổ hợp toàn cầu, những tổ hợp đang điều khiển cả thế giới". Theo Thomas, trong 1984, Orwell đã sáng chế ra ý niệm về Newspeak, sử dụng ngôn ngữ và câu kéo để đạt những mục tiêu chính trị. "Ngày nay, một thứ ngôn ngữ mới đã phát triển ở xứ sở này (Nam Phi) trong thập niên vừa qua và ta không biết thứ ngôn ngữ đó nhằm làm cho mọi việc được sáng tỏ thêm hay làm mơ hồ thêm".

    Cornelius Thomas kết luận: "Giống như những nhân vật khác, vị lãnh tụ văn chương Orwell chết sớm, lúc mới có 46 tuổi đời. Nhưng những lời tiên báo của ông vẫn còn tác dụng ngày nay. Cái nhìn thấu suốt của ông vào bản chất của quyền hành, do đó, nên được nhắc nhở lại để kích thích chúng ta cạo sạch cái vỏ bên ngoài của ngôn ngữ nhằm tìm ra thực chất và hiệu quả của chúng".

    7/2003

    Nguồn: Tạp chí Văn Học, California, số tháng Tám 2003

    Tác phẩm của George Orwell tại Việt Nam Thư Quán

    George Orwell tại Thư viện ngoại văn Việt Nam Thư Quán

    Thomas Pynchon, Đường tới 1984

    Margret Atwood, Orwell và tôi
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.10.2006 14:47:48 bởi sóng trăng >
    #2
      sóng trăng 25.10.2006 13:00:52 (permalink)
      .

      Thomas Pynchon
      Ðường tới 1984

      Dương Tường dịch và chú thích




      Cuốn sách cuối cùng của George Orwell, 1984, cách nào đó, là một nạn nhân của thành công của Trại Súc Vật, mà phần đông ưng đọc như là một truyện ngụ ngôn thẳng thắn về số phận buồn thảm của cách mạng Nga. Ngay khi bộ ria của Anh Cả xuất hiện ở tiết đoạn thứ hai của 1984, nhiều độc giả, do nghĩ ngay đến Stalin, đã có xu hướng bệ luôn sang đây cái thói quen tương suy từng điểm một vốn tập nhiễm từ tác phẩm trước. Mặc dù mặt của Anh Cả chắc chắn là mặt Stalin, cũng như mặt của tên tà đảng Emmanuel Goldstein là mặt Trotsky, cả hai đều không hoàn toàn rập theo mẫu một cách sát sao như Napoléon và Bông Tuyết trong Trại Súc Vật. Ðiều đó không ngăn cuốn sách được tiếp thị ở Mỹ như là một thứ truyền đơn chống cộng. Xuất bản năm 1949, nó rơi vào thời McCarthy, khi mà "chủ nghĩa cộng sản" bị chính thức lên án như là một mối đe doạ thống nhất toàn cầu, và thật hoài công mà đi phân biệt Stalin với Trotsky, khác nào người chăn cừu dạy cừu những sắc thái tinh vi để nhận ra sói vậy.

      Chẳng bao lâu sau, cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-53) cũng làm nổi bật cái lề lối cưỡng chế tư tưởng được cho là của cộng sản qua "tẩy não," nghe nói kỹ thuật này dựa trên công trình của I. P. Pavlov, người đã từng luyện cho chó nhỏ nước miếng đúng lúc có tín hiệu. Việc một cái gì đó rất giống tẩy não xảy ra trong 1984 với nhân vật chính Winston Smith, được mô tả dài dòng với những chi tiết kinh dị, không làm ngạc nhiên những độc giả vốn đã quyết tâm coi cuốn tiểu thuyết này đơn giản là một cáo trạng lên án sự tàn bạo của chế độ Stalin.

      Ðó không phải đích xác ý đồ của Orwell. Mặc dầu 1984 đã mang lại trợ giúp và an ủi cho nhiều thế hệ các nhà tư tưởng chống cộng cũng có những vấn đề về phản ứng Pavlov của chính họ, quan điểm chính trị của Orwell không phải chỉ là cánh tả, mà là ở phía tả của cánh tả. Ông đã sang Tây Ban Nha năm 1937 để chiến đấu chống Franco và bè lũ phát-xít được bọn Nazi ủng hộ của y, và ở đó ông đã mau chóng hiểu ra sự khác nhau giữa chủ nghĩa chống phát-xít chân chính và giả mạo. "Cuộc chiến Tây Ban Nha và những sự kiện khác trong thời kỳ 1036-37," mười năm sau ông viết, "có ảnh hưởng quyết định và sau đó tôi biết mình đứng ở chỗ nào. Mỗi một dòng của những tác phẩm nghiêm túc tôi đã viết kể từ năm 1936, đều nhằm trực tiếp hay gián tiếp chống chủ nghĩa cực quyền và vì chủ nghĩa xã hội dân chủ theo quan niệm của tôi."

      Orwell tự cho mình là một thành viên của "cánh tả bất đồng" để phân biệt với "cánh tả chính thức," về cơ bản nhằm chỉ Công Ðảng Anh, mà đại bộ phận của nó, ngay từ trước Thế Chiến II, ông đã coi là có khả năng trở thành, nếu không muốn nói là đã trở thành, phát-xít. Một cách ít nhiều có ý thức, ông thấy một sự tương đồng giữa Công Ðảng Anh và Ðảng Cộng Sản do Stalin cầm đầu - ông cảm thấy cả hai đều nói là đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản vì các giai cấp lao động, nhưng trên thực tế, chỉ quan tâm thiết lập và duy trì vĩnh viễn quyền lực của mình. Quần chúng chỉ hiện diện để bị lợi dụng vì đầu óc lý tưởng chủ nghĩa của họ, vì mối hận thù giai cấp của họ, vì họ sẵn sàng làm việc với đồng lương rẻ mạt, sẵn sàng để bị bán đi bán lại.

      Những người có khuynh hướng phát-xít - hay chỉ đơn thuần là những người trong chúng ta vẫn rất sẵn sàng biện minh cho mọi hành động của chính phủ - sẽ lập tức chỉ ra rằng đó là lối tư duy trước chiến tranh, rằng khi mà bom địch bắt đầu dội xuống đất nước anh, làm phong cảnh biến đổi và gây thương vong trong bạn bè, xóm giềng của anh, thì cái kiểu nghĩ ấy quả thật trở nên không phù hợp, nếu không muốn nói là có tính chất phá hoại. Khi đất nước lâm nguy, sự lãnh đạo kiên cường và những biện pháp hữu hiệu trở nên thiết yếu, và nếu anh muốn gọi đó là phát-xít thì được lắm, thích gọi thế nào xin cứ việc, chắc chả ai nghe đâu, trừ phi là để các cuộc oanh kích kết thúc và còi báo yên vang lên. Nhưng sự không thích hợp của một lập luận - huống hồ một lời tiên tri - trong sự gay go của một tình trạng khẩn cấp, không nhất thiết khiến nó thành sai. Chắc chắn người ta có thể lập luận rằng Nội các chiến tranh của Churchill đôi khi đã ứng xử chẳng khác gì một chế độ phát-xít, kiểm duyệt tin tức, khống chế tiền lương và giá cả, hạn chế du lịch, xem các quyền tự do dân sự là thứ yếu so với nhu cầu tự đề ra của thời chiến.

      Từ những thư và bài của Orwell vào thời kỳ ông viết 1984, có thể thấy rõ một điều: nỗi tuyệt vọng của ông về tình trạng hậu chiến của "chủ nghĩa xã hội." Ðiều mà vào thời Keir Hardie là một cuộc đấu tranh đáng kính trọng chống lại cách ứng xử rành rành là tội ác của chủ nghĩa tư bản đối với những người mà nó sử dụng để kiếm lợi nhuận, thì đến thời Orwell, đã trở nên mang tính thiết chế đáng xấu hổ, được đem ra mua, bán và trong quá nhiều trường hợp chỉ nhằm duy trì địa vị cầm quyền của nó.

      Xem ra Orwell đặc biệt khó chịu với thái độ phục tùng chủ nghĩa Stalin có thể thấy phổ biến khắp cánh Tả, bất chấp những bằng chứng không thể chối cãi về bản chất xấu xa của chế độ. "Vì những lý do có phần phức tạp," ông viết hồi tháng 3 năm 1948 khi bắt tay vào sửa bản thảo đầu tiên của 1984, "gần như toàn bộ cánh Tả của Anh đã bị dồn đến chỗ phải chấp nhận chế độ của Nga là "xã hội chủ nghĩa" trong khi âm thầm công nhận rằng về mặt tinh thần cũng như thực hành, nó hoàn toàn xa lạ với bất kỳ ý nghĩa nào của "chủ nghĩa xã hội" ở nước đó. Do đó, nảy ra một cách tư duy theo dạng thần kinh phân lập, trong đó những từ như "dân chủ" có thể mang hai nghĩa không thể dung hoà, và những cái như trại tập trung hay lưu đầy hàng loạt có thể cùng một lúc vừa đúng vừa sai."

      Chúng ta công nhận cái "cách tư duy theo dạng thần kinh phân lập" ấy là một nguồn gốc tạo nên một trong những thành tựu lớn của cuốn tiểu thuyết này, một thành tựu đã đi vào ngôn ngữ thường nhật của diễn từ chính trị - nhận dạng và phân tích lối tư-duy-nước-đôi. Như được mô tả trong " Lý Thuyết và Thực Hành của Chủ Nghĩa Tập Thể của Chính Thể Ðầu Sỏ" của Emmanuel Goldstein, một văn bản có tính chất phá hoại nguy hiểm bị cấm ở Oceania và chỉ được gọi là cuốn sách, tư-duy-nước-đôi là một hình thức kỷ luật tinh thần mà mục đích của nó, mọi đảng viên đều tối cần và mong muốn, đó là có thể đồng thời tin ở hai chân lý mâu thuẫn nhau. Ðiều này, dĩ nhiên chẳng có gì mới. Tất cả chúng ta đều làm thế. Trong tâm lý học xã hội, từ lâu điều đó đã được biết đến dưới tên gọi "nghịch nhĩ nhận thức." Có những người khác lại thích gọi là "phân khoảnh." Một số, trong đó có F. Scott Fitzgerald[1] trứ danh, coi đó là bằng chứng của thiên tài. Ðối với Walt Whitman[2] ("Tôi có tự mâu thuẫn không? Tốt lắm, tôi tự mâu thuẫn với mình"), đó nghĩa là rộng lớn và chứa đựng vô vàn, đối với nhà cách ngôn Mỹ Yogi Berra, đó là tới một ngã ba đường và chấp nhận nó, đối với con mèo của Schrödinger[3], đó là nghịch lý lượng tử của trạng thái cùng một lúc vừa sống vừa chết.

      Ý tưởng đó dường như đã mang lại cho Orwell song đề của chính mình, một thứ siêu tư-duy-nước-đôi -nó làm ông kinh tởm với tiềm năng tác hại vô hạn độ của nó, đồng thời lại hấp dẫn ông vì nó hứa hẹn một cách vượt lên những đối nghịch - như thể một dạng kỳ dị nào đó của Phật giáo Thiền mà những công án cơ bản là ba khẩu hiệu của đảng "Chiến tranh là Hoà bình," "Tự do là Nô lệ," và "Ngu dốt là Sức mạnh", đang được áp dụng vào những mục đích xấu xa.

      Hiện thân mỹ mãn của tư-duy-nuớc-đôi trong cuốn tiểu thuyết là O'Brien, cán bộ của Ðảng Nội Bộ, kẻ cám dỗ và phản bội Winston, người che chở và tiêu diệt ông ta. Y cực kỳ chân thành tin tưởng ở chế độ mà y phục vụ, song lại có thể nhập vai một cách hoàn hảo một người cách mạng nhiệt thành dốc lòng dốc sức lật đổ nó. Y tự hình dung mình chỉ đơn thuần là một tế bào của cơ thể lớn Nhà Nước, nhưng chúng ta rất nhớ cá tính tự mâu thuẫn và đầy sức hấp dẫn của y. Mặc dù là một phát ngôn nhân hùng hồn mà bình tĩnh cho tương lai của chính thể cực quyền, O'Brien dần dần bộc lộ một khía cạnh mất cân bằng, một sự tách khỏi thực tế, mà về sau thể hiện đầy đủ tính chất khó chịu của nó trong thời gian cải tạo Winston Smith, thay thế nỗi đau và tuyệt vọng được gọi là Bộ Tình Yêu

      Tư-duy-nước-đôi còn ẩn đằng sau tên gọi cuả các siêu bộ điều hành mọi sự ở Oceania - Bộ Hoà Bình thì tiến hành chiến tranh, Bộ Chân lý chuyên nói dối, Bộ Tình Yêu chuyên tra tấn và, cuối cùng, hạ sát bất kỳ ai nó coi là một mối đe doạ. Nếu điều đó có vẻ quá đáng đến mức phi lý, thì xin nhớ rằng ở nước Mỹ hiện tại, ít ai bị mắc mớ gì với một bộ máy làm chiến tranh được đặt tên là "Bộ Quốc Phòng", chẳng mắc mớ gì hơn khi chúng ta nín cười mà nói "Bộ Công Lý," bất chấp nhiều bằng chứng về những hành động vi phạm của FBI, cánh tay khủng khiếp nhất của nó, đối với những quyền con người và quyền do hiến pháp quy định. Các phương tiện truyền thông, được tiếng là tự do, của chúng ta được yêu cầu đưa tin cho "cân bằng", nghĩa là mọi "sự thật" đều lập tức được trung hoà bởi một "sự thật" ngang bằng và đối nghịch. Hằng ngày, dư luận thành mục tiêu của lịch sử tân biên, của bệnh mất trí nhớ của chính quyền và của sự nói dối trắng trợn, tất cả đều được gọi bằng "spin[4]" như thể nó chẳng tác hại gì hơn một vòng đu quay vậy. Chúng ta biết rõ hơn những gì họ nói với chúng ta, tuy nhiên lại hy vọng điều ngược lại. Cùng một lúc, chúng ta vừa tin vừa ngờ - thường xuyên phân vân giữa ít nhất là hai ý kiến trên hầu hết các vấn đề, đó hình như là một trạng thái của tư duy chính trị trong một siêu quốc gia hiện đại. Khỏi phải nói, điều này có công dụng vô giá đối với những kẻ cầm quyền muốn mãi mãi nguyên vị.

      Bên cạnh sự hỗn trộn tình cảm trái ngược trong cánh tả đối với thực tế Xô-viết, những cơ hội khác cho tư-duy-nước-đôi phát triển đã xuất hiện sau Thế Chiến II. Trong lúc hân hoan, phe thắng trận đã, theo quan điểm của Orwell, phạm những sai lầm cũng tai hại như Hiệp ước Versailles sau Thế Chiến I. Mặc dầu ý đồ là rất đáng trân trọng, trong thực hành việc chia chiến lợi phẩm giữa các nước đồng minh lại mang tiềm năng gây bất hoà tai hại. Thực tế, nỗi băn khoăn lo lắng của Orwell đối với "hoà bình" là một chủ đề tiềm ẩn của 1984.

      "Ðiều nó thực sự nhằm tới," Orwell viết cho chủ nhà xuất bản vào hồi cuối năm 1948 - gần kề giai đoạn đầu duyệt lại cuốn tiểu thuyết - "là bàn về những hệ quả của việc chia thế giới thành những 'vùng ảnh hưởng' (năm 1944, tôi nghĩ đó là do kết quả Hội nghị Teheran)..."

      Tất nhiên, cũng không nên tuyệt đối tin các tiểu thuyết gia về nguồn cảm hứng của họ. Song phương thức tưởng tượng thì đáng xem xét. Hội nghị Teheran là cuộc gặp gỡ thượng đỉnh đầu tiên của phe Ðồng Minh trong Thế Chiến II, diễn ra vào cuối năm 1943, với sự tham dự của Roosevelt, Churchill và Stalin. Trong số những điều được đem ra bàn, có vấn đề là: sau khi đánh bại Ðức Quốc xã, Ðồng Minh sẽ chia nước này thành những vùng chiếm đóng như thế nào. Một vấn đề khác là: ai sẽ được bao nhiêu phần lãnh thổ Ba Lan. Khi tưởng tượng ra Oceania, Eurasia và Eastasia, Orwell dường như đã làm một bước nhảy về quy mô từ cuộc thương nghị Teheran, phóng chiếu việc chiếm đóng một nước thất trận sang việc chiếm đóng một thế giới thất trận.

      Việc gộp Anh và Mỹ thành một khối duy nhất, xem như lời tiên tri, hoá ra là việc nước Anh chuẩn xác, nhìn xa trông rộng chống lại việc hội nhập với vùng đất rộng lớn Eurasia cũng như tiếp tục quỵ luỵ đối với lợi ích của người Yanki - chẳng hạn, đô-la là đơn vị tiền tệ của Oceania. Có thể nhận ra London vẫn là London của thời khắc khổ hậu chiến. Ngay từ đầu, với cách lạnh lùng nhảy tùm vào thẳng cái ngày tháng Tư ảm đạm đánh dấu bởi hành động bất phục tùng có tính chất quyết định của Winston Smith, những kết cấu của cuộc nhân sinh khốn khổ không ngớt phô ra - hệ thống ống nuớc không thông, những điếu thuốc lá cứ rụng sợi hoài, đồ ăn thức uống khủng khiếp - mặc dù đối với ai đã trải những thiếu thốn trong thời chiến, điều này có lẽ khỏi cần phải ráng sức tưởng tượng.

      Tiên tri và tiên đoán không hẳn là một và sẽ thiệt thòi cho cả nhà văn lẫn độc giả nếu lẫn lộn chúng trong trường hợp của Orwell. Có một trò mà một số nhà phê bình thích chơi: liệt kê những gì Orwell "đoán đúng" và không đúng. Hãy nhìn quanh ta vào lúc này ở nước Mỹ, chẳng hạn, ta nhận thấy máy bay trực thăng được ưa chuộng như một phương cách "thi hành luật pháp" quen thuộc với chúng ta qua vô số "kịch hình sự" truyền hình, bản thân chúng cũng là những hình thức kiểm soát xã hội - và cũng như vậy, hãy nhìn xem sự có mặt khắp nơi của vô tuyến truyền hình. Màn ảnh tivi hai chiều khá giống với màn ảnh plasma phẳng gắn với hệ thống cáp "tương tác", vào khoảng năm 2003. Tin tức là những gì chính phủ bảo là thế, việc giám sát thường dân đã đi vào dòng chủ lưu của hoạt động cảnh sát, việc lục soát và bắt giữ ở mức vừa phải là trò đùa. Vân vân. "Chà, chính phủ đã biến thành Anh Cả, đúng như Orwell tiên đoán! Ra gì đấy chứ, hử?" "Theo kiểu Orwell, cha nội!"

      Phải, đúng và không. Xét cho cùng, những tiên đoán cụ thể chỉ là chi tiết. Có lẽ điều quan trọng hơn, thực ra là cần thiết, đối với một nhà tiên tri tích cực, là khả năng nhìn sâu hơn phần lớn chúng ta vào tâm hồn người. Orwell, trong 1984, hiểu rằng mặc dầu phe Trục thất bại, ý chí thiết lập chủ nghĩa phát-xít chưa mất, rằng chẳng những nó chưa đến lúc tận số, mà có lẽ thậm chí còn chưa thành hình nữa kia: việc hủ hoá tinh thần, máu mê quyền lực khôn cưỡng nổi ở con người đã đâu vào đó từ lâu, tất cả những dáng vẻ ai nấy đều biết của Ðệ Tam Quốc Xã Ðức và Liên Xô của Stalin, thậm chí cả Công Ðảng Anh - giống như những phác thảo đầu tiên của một tương lai khủng khiếp. Ðiều gì có thể ngăn sự tình như vậy khỏi xẩy ra ở Anh và Mỹ? Sự ưu việt về đạo đức? Thiện ý? Sống trong sạch?

      Cái mà từ đó đến nay vẫn ngày một cải tiến đều đặn, ngấm ngầm - cố nhiên là làm cho các cuộc tranh cãi có tính nhân văn trở nên gần như lạc lõng - là ngành kỹ thuật ứng dụng. Chúng ta không nên quá lãng đi bởi sự thô vụng của các phương tiện giám sát thông dụng vào thời Winston Smith. Xét cho cùng, vào năm 1984 "của chúng ta", con chip IC chưa đầy mười năm tuổi và gần như là nguyên thuỷ bên cạnh những điều kỳ diệu của kỹ thuật vi tính vào khoảng năm 2003, đặc biệt là Internet, một bước phát triển có thể cho phép kiểm soát xã hội trên một quy mô mà những bạo chúa của thế kỷ 20 với những bộ ria dị hợm chỉ có thể mơ tưởng mà thôi.

      Mặt khác, Orwell không thấy trước những biến chuyển lạ thường như các cuộc chiến tranh tôn giáo mà chúng ta đã trở nên quá quen, dính líu đến cả một số thuyết chính thống khác nhau. Kể cũng lạ, trên thực tế, sự cuồng tín tôn giáo không hề có ở Oceania, ngoại trừ dưới hình thức tận trung với đảng. Chính thể của Anh Cả phô bày tất cả những yếu tố của chủ nghĩa phát-xít - duy nhất tên độc tài với ma lực thu hút quần chúng, mọi hành vi, ứng xử đều bị kiểm soát, cá nhân tuyệt đối phục tùng tập thể - trừ sự thù địch chủng tộc, đặc biệt là chủ nghĩa chống Do Thái, vốn là nét nổi bật của chủ nghĩa phát-xít như Orwell biết rõ. Ðiều này ắt làm cho độc giả hiện đại bối rối. Nhân vật Do Thái duy nhất trong tiểu thuyết là Emmanuel Goldstein và có lẽ chỉ vì nguyên mẫu của y, Leon Trotsky, cũng là Do Thái. Và y vẫn chỉ là một sự hiện diện hậu trường mà chức năng thực sự là đem đến một tiếng nói giải thích, với tư cách là tác giả của "Lý Thuyết và Thực Hành của Chủ Nghĩa Tập Thể của Chính Thể Ðầu Sỏ."

      Gần đây, người ta bàn nhiều về thái độ của bản thân Orwell đối với người Do Thái, một số nhà bình luận thậm chí còn gọi đó là chống Do Thái. Nếu nhìn vào trước tác của ông thời kỳ ấy để làm chuẩn tham chiếu cho chủ đề này, ta sẽ chẳng tìm được mấy tí. Những vấn đề của người Do Thái dường như không thu hút sự chú ý của ông lắm. Những gì là bằng chứng được công bố chỉ rõ hoặc một nỗi bàng hoàng đến tê dại trước sự tàn khốc của những gì đã xẩy ra, hoặc phần nào không đánh giá được đầy đủ ý nghĩa của nó. Người ta cảm thấy có chút dè dặt như thể, do đang bận tâm về bao vấn đề sâu xa khác, Orwell những muốn thế giới không bị thêm nỗi phiền toái phải nghĩ nhiều đến cuộc Tàn Sát Do Thái. Cuốn tiểu thuyết thậm chí có thể là cách ông tái xác định một thế giới trong đó cuộc Tàn Sát Do Thái không xẩy ra.

      Ðoạn 1984 tiến gần tới chỗ chống Do Thái là lúc cử hành nghi thức Hai Phút Căm Thù, đưa ra từ rất sớm, gần như một thủ pháp để giới thiệu hai nhân vật Julia và O'Brien. Nhưng sự phô bày lập trường chống Goldstein được mô tả ở đây một cách trực diện độc địa, không hề được khái quát hoá thành một cái gì mang màu sắc chủng tộc. "Cũng không hề có sự phân biệt chủng tộc," như chính Emmanuel Goldstein khẳng định trong cuốn sách - "người Do Thái, người da đen, người Nam Mỹ mang dòng máu Anhđiêng thuần chủng đều có thể ở những cấp cao nhất của Ðảng..." Có thể nói Orwell coi chủ nghĩa chống Do Thái là "một dị bản của cái căn bệnh lớn hiện đại là chủ nghĩa dân tộc" và riêng chủ nghĩa chống Do Thái của Anh là một dạng khác của sự ngu xuẩn Anh. Có thể ông tin rằng đến cái thời liên kết ba phái của thế giới mà ông mường tượng cho 1984, những thứ chủ nghĩa dân tộc của châu Âu quen thuộc với ông, cách nào đó sẽ không tồn tại nữa, có lẽ vì các quốc gia và do đó các dân tộc sẽ triệt tiêu và hội nhập vào những thực thể có tính tập thể hơn. Giữa cái bi quan chung bao trùm cuốn tiểu thuyết, điều này có thể khiến chúng ta (vốn đã biết những gì ngày nay trở nên tỏ tường với chúng ta) thấy như là một phân tích hoan hỉ vô căn cứ. Những hận thù mà Orwell cùng lắm chỉ thấy là lố bịch, đã quyết định lịch sử quá nhiều từ 1945 đến nay, nên đâu dễ bỏ qua đến thế.

      Trong một bài điểm sách trên báo New Stateman từ năm 1938 về một cuốn tiểu thuyết của John Galsworthy, Orwell bình luận, gần như phớt qua: "Galsworthy là một nhà văn tồi và một nỗi giày vò nội tâm mài sắc tính nhạy cảm đã suýt biến ông thành một nhà văn hay; thế rồi nỗi bất bình của ông tự chữa lành và ông trở lại như cũ. Thật đáng dừng lại để tự hỏi xem điều đó xảy đến với bản thân mình dưới hình thức nào."

      Orwell buồn cười thấy một số đồng nghiệp của mình thuộc cánh tả sống trong nỗi khiếp sợ bị gọi là đồ tư sản. Nhưng đâu đó trong những khiếp sợ của chính ông, có thể cũng lẩn quất cái khả năng là biết đâu một ngày kia, giống như Galsworthy, ông cũng đánh mất nỗi phẫn nộ chính trị của mình để, cuối cùng, trở thành một kẻ biện hộ nữa cho Thế Sự Là Thế. Sự phẫn nộ của ông - ta hãy mạnh dạn nói thẳng - là quý giá đối với ông. Ông đã sống theo cách của mình để thành người phẫn nộ - ở Miến Ðiện và Paris và Luân Ðôn và trên đường tới trụ cầu Wigan và ở Tây Ban Nha, bị bọn phát-xít nhằm bắn và cuối cùng, bị thương - ông đã đầu tư máu, khổ đau và lao động khổ sai để có được nỗi phẫn nộ đó và trở nên gắn bó với nó như bất kỳ nhà tư bản nào gắn bó với tư bản của mình. Có thể đó là một nỗi đau đặc trưng cho nhà văn hơn là cho những người làm nghề khác, cái nỗi sợ "bị" quá tiện nghi, bị mua chuộc. Khi người ta viết để kiếm sống, đó chắc chắn là một trong những nguy cơ, mặc dù không phải là một nguy cơ mà mọi nhà văn đều phản đối. Cái khả năng của kẻ cầm quyền có thể thu phục những kẻ bất đồng bao giờ cũng hiện diện như một mối hoạ - thực tế, chẳng khác cái quá trình mà qua đó, Ðảng trong 1984 bao giờ cũng có thể tự đối mới từ dưới lên trên.

      Từng sống giữa những người lao động nghèo và thất nghiệp của thời kỳ suy thoái thập kỷ 1930 và trong quá trình đó, biết được giá trị bất diệt thực sự của họ, Orwell gán cho Winston Smith một niềm tin tương tự vào những người cùng vị thế với họ là lớp vô sản trong 1984, xem như là hy vọng duy nhất để giải thoát khỏi cái địa ngục lầm than của Oceania. Vào thời điểm đẹp nhất của cuốn tiểu thuyết - đẹp theo định nghĩa của Rilke,[5] dù khủng bố ập tới cũng chịu đựng được - Winston Smith và Julia, tưởng rằng mình an toàn, đứng bên cửa sổ nhìn người đàn bà đang hát ngoài sân và Winston ngắm trời xanh mà thấy một hình ảnh hầu như huyền bí, hình ảnh triệu triệu người sống dưới bầu trời, "những con người chưa bao giờ học suy nghĩ nhưng đang trữ trong tim, trong bụng, trong cơ bắp cái cường lực mà một ngày kia sẽ lật nhào thế giới. Nếu hy vọng là có thật thì nó nằm trong lớp người vô sản!" Ðó là thời điểm ngay trước khi ông và Julia bị bắt và cao trào ghê gớm, lạnh lùng của cuốn tiểu thuyết bắt đầu.

      Trước chiến tranh, Orwell có những lúc khinh thường việc mô tả tỉ mỉ từng chi tiết những cảnh bạo lực trong thể loại hư cấu, đặc biệt những truyện hình sự dữ dằn của Mỹ trên các hoạ báo lá cải. Năm 1936, trong một bài điểm một cuốn tiểu thuyết trinh thám, ông trích một đoạn tả một cuộc tra tấn tàn bạo rất có phương pháp; kỳ lạ sao nó lại như báo trước những kinh qua của Winston Smith trong Bộ Tình Yêu. Ðiều gì đã xẩy ra? Có vẻ đó là Tây Ban Nha và Thế Chiến II. Những gì từng là "rác rưởi tởm lợm" vào một thời kỳ biệt lập hơn, đến thời hậu chiến đã trở thành bộ phận cấu thành thứ đặc ngữ của giáo dục chính trị và được thiết chế hoá ở Oceania vào năm 1984. Tuy nhiên Orwell không thể, như các nhà văn tầm trung bình viết báo lá cải, hưởng cái thú xa xỉ là lăng nhục một cách vô tư bất kỳ nhân vật nào về cả thể xác lẫn tinh thần. Ở một số chỗ, lời văn đâm khó chịu, như thể bản thân Orwell đang cảm thấy từng giây phút bước đoạn trường của Winston vậy.

      Lợi ích của chế độ ở Oceania nằm ở việc thực hành quyền lực vì chính bản thân nó, trong cuộc chiến không ngơi nghỉ của nó với ký ức, dục vọng và ngôn ngữ với tính cách là phương tiện chuyển tải tư tưởng. Ký ức thì tương đối dễ đối phó, từ quan điểm cực quyền. Bao giờ cũng có một cơ quan nào đó như Bộ Chân Lý để chối bỏ những hồi ức của những người khác, để viết lại quá khứ. Vào khoảng năm 2003, đã trở thành cơm bữa việc các viên chức chính phủ được trả lương nhiều hơn đa số chúng ta để hằng ngày xuyên tạc lịch sử, dung tục hoá chân lý và xóa bỏ quá khứ. Những ai không học được gì về lịch sử thường phải sống lại nó, nhưng chỉ đến lúc những kẻ cầm quyền tìm ra được một cách thuyết phục tất cả mọi người, kể cả bản thân họ, rằng lịch sử chưa bao giờ xẩy ra hoặc chỉ xẩy ra theo một cách phục vụ tốt nhất cho những mục đích của họ - hoặc tốt hơn hết là dù thế nào nó cũng chẳng quan trọng gì, ngoại trừ dưới hình thức một bộ phim tài liệu ngu xuẩn làm vội làm vàng cho một giờ giải trí truyền hình.

      Ðến lúc họ rời khỏi Bộ Tình Yêu, thì Winston và Julia đã mãi mãi lâm vào tình trạng tư-duy-nước-đôi, phòng chờ của huỷ diệt, không còn yêu nữa mà có thể cùng một lúc vừa căm thù vừa yêu Anh Cả. Một kết thúc đen tối hết mức có thể tưởng tượng. Nhưng lạ thay, đó không hẳn đã kết thúc. Chúng ta giở qua trang để thấy một phụ lục tựa như một thứ tiểu luận phê bình "Nguyên Lý của Ngôn Ngữ Mới." Nên nhớ rằng ngay từ đầu, đã có một chú thích nhắc chúng ta có thể tuỳ thích lật xuống cuối sách để đọc phụ lục đó trước. Một số độc giả đã làm thế, một số khác thì không - giờ đây, ta có thể coi đó như là một thí dụ sớm sủa của siêu văn bản. Vào năm 1948, cái phần cuối ấy xem ra đã làm khó Câu Lạc Bộ Sách Trong Tháng của Mỹ đến mức họ yêu cầu cắt bỏ nó cùng với những chương trích từ cuốn sách của Emmanuel Goldstein, xem như điều kiện chấp nhận của CLB. Mặc dù có thể mất ít nhất 40.000 bảng Anh tiền bán sách ở Mỹ, Orwell vẫn từ chối không chịu thay đổi và nói với người đại diện của mình: "Một cuốn sách được xây dựng như một cấu trúc cân bằng, ta không thể bỏ đi những mảng lớn ở chỗ này chỗ nọ trừ phi ta sẵn sàng cấu tạo lại toàn bộ... Tôi thực sự không thể cho phép người ta khuấy lộn tác phẩm của tôi quá một mức nhất định, và tôi không chắc rằng về lâu về dài, điều đó có lợi hay không." Ba tuần sau, CLBSTT nhượng bộ, song câu hỏi vẫn bảo lưu: tại sao lại đi kết thúc một cuốn tiểu thuyết cuồng nhiệt, dữ dội và âm u như thế bằng một cái phụ lục kinh viện?

      Câu trả lời có thể nằm trong ngữ pháp đơn giản. Ngay từ câu đầu, "Nguyên Lý của Ngôn Ngữ Mới" đã được viết một cách nhất quán ở thì quá khứ, như để gợi tới một đoạn lịch sử sau này, hậu-1984, khi mà Ngôn Ngữ Mới đã thực sự trở thành chuyện quá khứ - như thể, cách nào đó, tác giả vô danh của phụ lục này ngay bây giờ đã có thể tự do phê phán một cách khách quan cái hệ thống chính trị lấy Ngôn Ngữ Mới, vào thời của nó, làm cốt tuỷ. Gia dĩ, chính thứ tiếng Anh "tiền-Ngôn Ngữ Mới" của chúng ta đã được dùng để viết tiểu luận này. Ngôn Ngữ Mới được giả định là sẽ trở nên phổ quát vào năm 2050, tuy nhiên xem ra nó không đậu được lâu đến thế, nói chi đến thống ngự và xem ra những cách tư duy nhân văn cổ vốn gắn bó cố hữu với tiếng Anh tiêu chuẩn vẫn bền bỉ tồn tại, vẫn sống vượt lên và cuối cùng đã thắng thế và thậm chí có lẽ cái trật tự xã hội và đạo đức mà nó phát ngôn, cách nào đó đã được phục hồi.

      Năm 1946, trong một bài về cuốn Cách Mạng Quản Lý, một phân tích của tác giả Mỹ James Burham, xưa từng là Trốtxkít, Orwell viết: "Cái đế chế nô lệ đồ sộ, vô địch, trường tồn mà Burnham dường như mơ tưởng sẽ không được thiết lập, hoặc nếu có, cũng sẽ chẳng bền lâu bởi lẽ chế độ nô lệ không còn là một cơ sở ổn định cho xã hội người." Với những ám chỉ đến triển vọng phục hưng và cứu chuộc, có lẽ "Nguyên Lý của Ngôn Ngữ Mới" là một cách thắp sáng lên một cái kết mà nếu không nhờ vậy sẽ bi quan đến độ ảm đạm - đưa chúng ta trở về những đường phố lầm than của chính mình để huýt gió một điệu chút đỉnh vui tươi hơn là nếu chỉ có độc đoạn kết kia.

      Có một tấm ảnh của Orwell và con trai nuôi, Richard Horatio Blair chụp ở Islington vào khoảng năm 1946. Ðứa bé, hồi ấy độ hai tuổi, coi bộ hớn hở, vui sướng một cách hồn nhiên. Orwell bế nó bằng cả hai tay, cũng mỉm cười, hài lòng nhưng không tự mãn - sự thể phức tạp hơn thế, như thể ông đã phát hiện ra điều gì đó đáng phản ứng mạnh mẽ hơn cả mức phẫn nộ - đầu hơi nghiêng, đôi mắt có một vẻ thận trọng khiến những người sành phim có thể nghĩ đến một nhân vật của Robert Duvall. Winston "chắc là mình sinh năm 1944 hay 1945..." Richard Blair sinh ngày 14 tháng 5 năm 1944. Chẳng khó gì để đoán ra rằng Orwell, trong 1984, đã hình dung một tương lai cho thế hệ của con trai ông, một thế giới mà ông muốn cảnh báo chúng hơn là cầu ước cho chúng. Ông nôn nóng với những tiên đoán về cái không-thể-tránh-khỏi, ông vẫn tin tưởng ở khả năng của những con người bình thường có thể thay đổi mọi sự nếu họ muốn. Dù sao đi nữa, ta hãy trở lại với nụ cười của đứa bé, trực tiếp và rạng rỡ, xuất phát từ một niềm tin không chút do dự rằng thế giới, đến cuối ngày, là tốt đẹp, rằng thuần phong mỹ tục của con người, như tình cha tình mẹ, bao giờ cũng có thể coi là đương nhiên - một niềm tin đáng trân trọng đến mức chúng ta hầu như có thể hình dung Orwell- và có lẽ cả chúng ta nữa - thề sẽ làm bất kỳ điều gì cần làm để giữ sao cho niềm tin đó không bao giờ bị phản bội.


      ----------------------------------
      Thomas Pynchon (1937), một trong những tác giả đặc biệt nhất của văn học Mỹ đương đại, nổi tiếng và ảnh hưởng lớn ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay, V. (1963), rồi lập tức mai danh ẩn tích. Ông cho xuất bản rất ít: The Crying of Lot 49 (1966), Gravity´s Rainbow (1973), Slow Learner (1984), và Vineland (1990), Mason & Dixon. Bản dịch trên đây trích từ lời giới thiệu cho tác phẩm 1984 của George Orwell do NXB Penguin US tái bản và vừa phát hành trong những ngày này, là tín hiệu duy nhất từ nhiều năm nay của Thomas Pynchon với thế giới ngoài vòng ẩn dật của ông.

      (c) 2003 talawas


      ------------------------------------------------
      [1] Francis Scott Fitzgerald (1898-1940), nhà văn Mỹ nổi tiếng, tác giả các tiểu thuyết Mặt Trái Thiên Ðường, Gatsby Tuyệt Vời...
      [2] Walt Whitman (1819-1892), thi hào Mỹ, tác giả tập thơ Lá Cỏ.
      [3] Erwin Schrödinger (1887-1961), nhà vật lý học người Áo được giải Nobel vật lý (cùng với P. Dirac) năm 1933, tác giả của phương trình nổi tiếng mang tên ông về sau là công cụ cơ sở cho toàn bộ ngành vật lý lượng tử.
      [4] Từ lóng báo chí chỉ một ẩn ý hàm chứa một quan điểm; còn có nghĩa một cuộc đi dạo bằng xe hơi.
      [5] Rainer Maria Rilke (1875-1926), nhà thơ lớn của Áo,.

      Nguồn: http://books.guardian.co.uk/review/story/0,12084,948203,00.html

      Tác phẩm của George Orwell tại Việt Nam Thư Quán

      George Orwell tại Thư viện ngoại văn Việt Nam Thư Quán
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.10.2006 15:26:54 bởi sóng trăng >
      #3
        sóng trăng 25.10.2006 13:09:06 (permalink)
        #4
          sóng trăng 25.10.2006 13:14:26 (permalink)
          #5
            sóng trăng 25.10.2006 15:07:20 (permalink)
            .


            Margret Atwood
            Orwell và tôi
            Vũ Ngọc Thăng dịch





            Margret Atwood [1] khóc thảm thiết khi bà đọc Animal Farm [2] ở tuổi lên chín. Sau đó, tác giả quyển truyện đã trở thành nguồn ảnh hưởng lớn với bà. Nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell sắp đến (25-6-1903) bà nói, ông hẳn có nhiều điều để nói về cái thế giới hậu-11/9.



            Tôi lớn lên với George Orwell. Tôi sinh ra năm 1939, và Animal Farm xuất bản năm 1945. Cho nên, tôi có thể đọc nó ở tuổi lên 9. Ðó là những giây phút lăn ra quanh nhà, và tôi đã nhầm nó với một truyện thú vật nói, đại loại như Wind in the Willows. Tôi chẳng biết gì về khía cạnh chính trị của quyển sách - thế rồi, lối nhìn chính trị của một đứa trẻ, ngay sau chiến tranh, là dựa trên một ý niệm giản dị, Hitler thì xấu nhưng đã chết.

            Thế là, tôi ngấu nghiến những cuộc mạo hiểm của Napoleon và Snowball - những con heo láu cá, hám ăn, cơ động trong việc leo trên ngồi trốc, của Squealer kẻ điềm chỉ - tay tổ thêu dệt, của Boxer - con ngựa cao thượng nhưng trí khôn thì đặc sệt, của những con cừu dễ xỏ mũi, luôn réo hò khẩu hiệu, mà không liên tưởng đến bất cứ một sự kiện lịch sử nào.

            Cho rằng tôi bị quyển sách làm kinh sợ chỉ là một khẳng định nhẹ. Số phận những con vật trong trại quá là nhẫn tâm, những con heo hết sức ác ý, xuyên tạc và tráo trở, những con cừu thì quả là đần độn. Trẻ con có một chiều hướng công lí bén nhạy, và đây là điều làm tôi tức khí nhất: sự bất công của những con heo. Tôi đã khóc thảm thiết khi con ngựa Boxer gặp tai nạn và bị hất xuống xe làm thức ăn cho chó, thay vì được đem đến một góc đồng cỏ yên bình như đã hứa.

            Ðối với tôi, toàn bộ kinh nghiệm là một nỗi xáo động sâu sắc, nhưng tôi biết ơn Orwell đã sớm cảnh báo tôi những ngọn cờ nguy hiểm để từ đó tôi tìm cách tránh xa. Trong thế giới của Animal Farm, hầu hết các cuộc diễn thuyết và ba hoa chích chòe nơi công chúng là những thứ vứt đi và là những âm mưu láo khoét, dù nhiều nhân vật có tâm địa tốt và tử tế, nhưng chúng có thể sợ hãi mà nhắm mắt làm ngơ trước những gì đang thực sự xẩy ra.

            Những con heo nạt nộ những con khác với hệ ý thức, rồi vặn vẹo nó cho khớp với mục tiêu của chúng: nhưng các trò chơi ngôn ngữ của những con heo đối với tôi rõ là hiển nhiên, cả ở cái tuổi ấy. Như Orwell đã chỉ ra, không phải những nhãn hiệu - Thiên Chúa Giáo, Chủ Nghĩa Xã Hội, Hồi Giáo, Dân Chủ, Hai-Chân-Là-Tốt Bốn-Chân-Là-Xấu, những Công Cuộc - là có tính cách xác định, mà là những hành vi làm dưới những danh nghĩa ấy.

            Tôi cũng vậy, có thể thấy là bằng cách nào mà những kẻ đã lật đổ một quyền lực áp bức lại dễ dàng sa vào cạm bẫy và thói quen của nó. Jean-Jacques Rousseau đã đúng khi cảnh cáo chúng ta rằng dân chủ là một hình thái cai trị khó duy trì nhất; Orwell thấm điều này đến xương tủy, bởi ông đã thấy nó vận hành.

            Quả là nhanh để lời giáo huấn "Tất Cả Các Loài Thú Ðều Bình Ðẳng" chuyển thành "Tất Cả Các Loài Thú Ðều Bình Ðẳng, nhưng Có Những Loài Bình Ðẳng Hơn Những Loài Kia". Cái mà những con heo ngọt xớt quan tâm đến phúc lợi của những con khác lại chính là mối quan tâm nhằm che đậy sự rẻ rúng những kẻ chúng đang lợi dụng.

            Biết bao sốt sắng chúng đã mặc vào người những bộ đồng phục, từng bị khinh rẻ, của những kẻ bạo chúa mà chúng đã lật đổ, và học cách sử dụng những cái roi của họ. Biết bao biện hộ cho những hành động mà chúng cho là đúng, hỗ trợ bởi những mạng lời lẽ thêu dệt của Squealer, viên chức báo chí có cái lưỡi dẻo quẹo của chúng, đến khi mọi quyền lực đều nắm gọn trong tay, thì cứ cho rằng các thứ ấy sẽ chẳng còn cần đến, và thế là chúng cai trị với sự cưỡng bức chẳng cần che đậy.

            Một cuộc cách mạng thường chỉ mang nghĩa này: một cuộc xoay vần, một vòng quay của cái bánh xe may mắn, để từ đó những kẻ dưới đáy trở lên đỉnh, đảm nhận những cương vị chọn lựa, đạp xuống dưới những kẻ nắm quyền khi trước. Chúng ta cần ý thức về tất cả những kẻ đắp bồi phong cảnh bằng những chân dung to lớn của chính họ, như con heo hiểm ác, Napoleon.

            Animal Farm là một trong những quyển truyện Hoàng-Ðế-Cởi-Truồng ngoạn mục nhất của thế kỉ 20, và nó khiến George Orwell chịu nhiều phiền phức. Những kẻ lội ngược dòng sự khôn ngoan phổ cập đương thời, vốn là những kẻ chỉ ra những sự thực lù lù chẳng chút thoải mái, hẳn phải ráng sức chịu đựng tiếng be be đồng thanh của bày cừu giận dữ dành cho họ. Tôi đã không hình dung ra tất cả những điều ấy ở tuổi lên 9, dĩ nhiên - nếu có chút nào thì cũng chẳng một cách có ý thức. Nhưng chúng ta học những mô thức chuyện kể trước khi học những hàm nghĩa của chúng, và Animal Farm mang một mô thức rất rõ ràng.

            Tiếp đến là cuốn Nineteen Eighty-Four [3] , xuất bản năm 1949. Thế rồi, tôi đọc nó ở dạng sách bìa mềm vài ba năm sau đó, lúc đang học phổ thông. Sau đó, tôi đọc lần nữa, rồi lại lần nữa: nó được xếp ngay giữa những cuốn tôi ưa thích nhất, cùng với Wuthering Heights [4] .

            Cùng lúc, tôi miệt mài với hai bạn đồng hành của nó, Darkness At Noon của Arthur Koestler và Brave New World của Aldous Huxley. Tôi thiết tha với cả ba, nhưng tôi hiểu Darkness At Noon là một bi kịch về những sự kiện đã xảy ra và Brave New World là một hài kịch châm biếm, với những sự kiện dường như không diễn ra đúng như thế. (Truy-Hoan-Cá-Mùi, đúng hơn).

            Nineteen Eighty-Four gây ấn tượng mạnh cho tôi do tính cách hiện thực hơn của nó, có lẽ do Winston Smith giống tôi hơn - một người gầy gò, hay mệt, đối tượng cho việc luyện tập thể dục dưới những điều kiện buốt giá (đây là một đặc tính của trường tôi) - và là nguời mang sự xung đột thầm lặng với những ý tưởng và những cách sống đề xuất cho anh ta. (Ðiều này có thể là một trong những lí do khiến Nineteen Eighty-Four tốt nhất nên được đọc khi bạn ở tuổi đang lớn: phần lớn các bạn trẻ đang lớn cảm thấy thế).

            Tôi có thiện cảm đặc biệt với ước vọng của Winston nhằm viết ra những suy tư trái cấm của mình, trong một phong thái cám dỗ ngọt ngào, trên một quyển sách trống thầm kín: tôi vẫn chưa bắt đầu viết, nhưng tôi có thể thấy sự hấp dẫn của nó. Tôi cũng thấy sự nguy hiểm của nó, bởi đây là những gì viết xoàng xĩnh và vội vã - cùng với tính dục trái phép, một tiết mục khác có sức thu hút lớn cho một đứa trẻ đang tuổi dậy thì ở những năm 50 - đã đưa Winston vào một thứ rối rắm hầm bà lằng.

            Animal Farm vẽ ra biểu đồ sự tiến triển của một phong trào giải phóng lí tưởng hướng về một nền chuyên chế toàn trị do một bạo chúa cầm đầu; Nineteen Eighty-Four diễn tả thế nào là một cuộc sống trọn vẹn bên trong một hệ thống như thế. Nhân vật chính, Winston, chỉ có những kí ức rời rạc về cuộc sống trước khi cái thể chế hiện hành quái ác này ngự trị: anh ta là một kẻ mồ côi, một đứa con của tính tập thể. Cha anh ta chết trong chiến tranh, cuộc chiến dẫn đến sự đàn áp, và mẹ anh ta đã biến mất, chỉ để lại cho anh ta một cái nhìn oán trách khi anh ta phản bội bà cho một thỏi sô cô la - một sự phản bội thấp kém, vừa tác động như cái chìa khóa đi vào tính cách nhân vật Winston, vừa là một điềm báo trước cho nhiều sự phản bội khác trong quyển sách.

            Chính quyền của Airstrip One, "xứ sở" của Winston, thì hung ác. Sự giám sát liên tục, việc không thể nói thẳng với bất cứ người nào, hình bóng Big Brother đáng sợ khắp nơi, nhu cầu của chế độ phải có những kẻ thù và những cuộc chiến tranh - dù cả hai đều có thể do tưởng tượng - làm khiếp đảm mọi người và thống nhất họ trong chán ghét. Những khẩu hiệu của những bộ óc trơ lì, những bóp méo ngôn ngữ, sự phá hủy những gì vốn đã thực sự xảy ra bằng cách nhồi nhét bất cứ một trữ liệu nào xuống cái Lỗ-Kí-Ức. Những điều ấy đã gây ấn tượng sâu trong tôi. Hãy để tôi khẳng định lại rằng: chúng khiến những nhồi nhét kinh hoàng bật ra khỏi tôi. Orwell viết một quyển sách châm biếm Liên Bang Xô Viết của Stalin, nơi tôi biết rất ít ở tuổi 14, nhưng ông đã thể hiện tốt đến mức tôi hình dung ra rằng những điều ấy có thể xảy ra ở bất cứ nơi nào.

            Không có quan tâm nào về tình yêu trong Animal Farm, nhưng trong Nineteen Eighty-Four thì có. Winston tìm được một quan hệ tâm đầu ý hợp ở Julia, bề ngoài là một kẻ tận tụy cuồng nhiệt vì Tổ-Chức, bề thầm kín lại là một cô gái ưa thích tính dục, sự hóa trang, và những thèm muốn suy đồi khác. Nhưng đôi tình nhân bị lộ, rồi Winston bị tra tấn về tội-tâm-tưởng, thái độ bất trung nội tâm đối với chế độ.

            Anh ta cảm thấy rằng chỉ cần giữ được trong tim sự trung thành đối với Julia, thì tâm hồn anh ta sẽ được cứu vớt - một ý niệm lãng mạn, dù rằng đó là cái mà chúng ta có khuynh hướng tán thành. Nhưng, cũng như mọi chính thể chuyên chế và mọi tôn giáo, Tổ-Chức đòi hỏi bất cứ một sự trung thành nào có tính cách riêng tư đều phải hi sinh, để thế chỗ cho một sự trung thành tuyệt đối trước Big Brother.

            Ðối diện trước nỗi khiếp sợ tồi tệ nhất trong Căn Buồng 101 chết chóc, nơi một công cụ quái ác mắc với một cái chuồng đầy chuột đói sẵn sàng ùa vào hốc mắt, Winston thổn thức: "Ðừng làm điều đó với tôi," anh van nài, "hãy làm điều đó với Julia." (Câu này đã trở nên câu tốc kí cửa miệng của chúng ta để thoái thác những trách nhiệm khó nhọc. Khổ thân Julia - nếu cô hiện hữu thực, hẳn chúng ta đã tạo cho đời cô biết bao khốn đốn. Cô phải có mặt trong rất nhiều buổi thuyết trình / thảo luận, chẳng hạn).

            Sau sự phản bội Julia, Winston thuộc nhúm những kẻ ỉu mềm dễ bảo. Anh ta tin rằng hai cộng hai là năm, rằng anh ta yêu Big Brother. Nhận diện cuối cùng thoáng qua về anh ta của chúng ta chính là lúc anh ta đang u mê ngồi ở một quán cà phê ngoài trời, biết rằng mình là một kẻ có xác không hồn và biết rằng Julia cũng đã phản bội mình, trong khi lắng nghe một điệp khúc phổ cập: "Dưới tàng cây dẻ tỏa rộng / Tôi bán em và em bán tôi..."

            Orwell từng bị buộc tội là cay đắng và bi quan - khi để lại cho chúng ta một cái nhìn về tương lai trong đó mỗi cá thể không có một cơ may nào, nơi mà gót giày tàn nhẫn, toàn trị của cái Tổ-Chức kiểm-soát-tất-cả đay nghiến mặt người, mãi mãi.

            Nhưng cái nhìn này của Orwell lại mâu thuẫn với chương cuối của quyển sách, một tiểu luận trên cái Newspeak - thứ ngôn ngữ tư-duy-nước-đôi được chế độ bào chế. Bằng cách sàng lọc tất cả những từ có thể gây nhiễu loạn - "xấu" không còn được cho phép, nhưng trở thành "không tốt-cộng-gấp đôi" - và bằng cách làm những từ khác mang nghĩa ngược lại với cái chúng từng mang - nơi con người bị tra tấn là Bộ Tình Yêu, tòa nhà chỗ quá khứ bị tiêu hủy là Bộ Thông Tin - những kẻ cai quản Airstrip One ước muốn thực hiện đúng y cái việc khiến mọi người không thể suy nghĩ thẳng thắn. Tuy nhiên, tiểu luận về cái Newspeak được viết dưới một thứ tiếng Anh tiêu chuẩn, ở ngôi thứ ba, thì quá khứ, chỉ có nghĩa là chế độ đã sụp đổ, ngôn ngữ và tính cá thể còn tồn tại. Ðối với bất cứ ai đã viết tiểu luận về cái Newspeak, thế giới của Nineteen Eighty-Four là cái đã qua. Cho nên, tôi cho rằng Orwell đã đặt tin tưởng vào sự vững chãi của tâm hồn con người nhiều hơn là cái mà người ta thường phó cho ông.

            Orwell trở nên một kiểu mẫu trực tiếp vào giai đoạn sau đó của đời tôi - ở năm 1984 thực thụ, năm mà tôi bắt đầu viết một kiểu truyện dystopia (xứ kinh hãi) khác, The Handmaid's Tale. Lúc này tôi được 44 tuổi, và tôi đã đủ hiểu về những thể chế độc tài thực sự - qua việc đọc lịch sử, qua những chuyến du hành, và dưới tư cách một thành viên của Amnesty International - cho nên tôi đã không chỉ dựa vào Orwell.

            Phần lớn các dystopia - gồm cả cái của Orwell - là do đàn ông viết, và mang cái nhìn của nam giới. Ở chúng, khi phụ nữ xuất hiện, thì hoặc họ là những cỗ máy tự động phi tính dục, hoặc họ là những kẻ nổi loạn đã thách thức những qui tắc tính dục của chế độ. Họ tác động như những người đàn bà khêu gợi các nhân vật đàn ông, dù rằng sự cám dỗ này có được bản thân quí vị đàn ông chào đón với cung cách nào chăng nữa.

            Thế là Julia; thế là kẻ quyến rũ truy-hoan-cá-mùi mặc bộ đồ lót liền mảnh của niềm Hoang Dại trong Brave New World; thế là những người đàn bà gây mê đắm chết người trong tác phẩm cổ điển năm 1924 đầy ảnh hưởng của Yevgeny Zamyatin, Chúng Tôi. Tôi muốn thử một dystopia từ điểm nhìn phụ nữ - thế giới theo Julia, như nó là. Thế nhưng, điều này không làm The Handmaid's Tale trở thành một "feminist dystopia", trừ cái sự thể là cho đến lúc người ta còn giao phó một tiếng nói và một đời sống nội tâm cho một người đàn bà thì điều đó sẽ luôn luôn được xem là có tính cách "nữ quyền" bởi những kẻ nghĩ rằng phụ nữ không cần phải có những thứ ấy.

            Thế kỉ 20 có thể được xem như một cuộc đua giữa hai kịch bản khác nhau về một nỗi đọa-đày-nhân-tạo: chủ nghĩa nhà nước chuyên chế giày ủng Nineteen Eighty-Four của Orwell, và cái thiên đàng-thế-phẩm-khoái-lạc Brave New World, nơi tuyệt đối mọi sự là một món hàng tiêu thụ và con người được công-kĩ-hóa để có hạnh phúc. Với sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh năm 1989, trong một khoảng thời gian, dường như cái Brave New World đã thắng thế - từ giờ trở đi, sự kiểm soát nhà nước sẽ tối thiểu, và tất cả những gì chúng ta cần làm là đi mua sắm và mỉm cười thật nhiều, rồi đắm mình trong dục lạc, rồi nuốt ực một hoặc hai viên thuốc mỗi khi nỗi khắc khoải chán chường kéo đến.

            Nhưng với 11/9, tất cả thay đổi. Giờ đây, chúng ta hình như đang đối diện với viễn cảnh của hai cái dystopia cùng lúc - thị-trường-mở, đầu-óc-đóng - bởi vì sự giám sát nhà nước lại trở lại lần nữa với một ý chí báo thù dữ dội. Căn Buồng 101 hãi hùng của kẻ tra tấn từng hiện hữu cùng chúng ta suốt thiên niên kỉ. Những Ngục Tối Thành Rome, Tòa Án Tôn Giáo, Hội Ðồng Cơ Mật, nhà tù Bastille, những cách tiến hành xử quyết của Tướng Pinochet và Hội Ðồng Tướng Lãnh ở Argentina - tất cả tùy thuộc vào sự bí hiểm và sự lạm dụng quyền lực. Nhiều nước có những ấn bản của mình - những phương cách riêng để làm bặt tiếng li khai phiền toái.

            Những nền dân chủ truyền thống tự khẳng định chúng qua một số tính cách - như tính công khai và tính nguyên tắc pháp lí. Nhưng hiện nay, dường như ở Phương Tây, chúng ta đang im hơi lặng tiếng, hợp thức hóa những phương pháp dùng trong các thời kì quá khứ đen tối của con người, nâng cấp chúng về kĩ thuật và thần thánh hóa chúng cho những mục tiêu riêng của chúng ta, đương nhiên. Vì lợi ích của tự do, tự do phải được từ bỏ. Ðể tiến đến một thế giới tốt hơn - về cái utopia (xứ không tưởng) mà chúng ta được hứa hẹn - dystopia trước hết phải giữ chặt sự thống trị.

            Ðây là một khái niệm xứng với tính tư-duy-nước-đôi. Trong cái trật tự của các sự kiện của nó, lạ thay nó cũng mang tính Mác-xít. Trước hết, nền chuyên chính của giai cấp vô sản, trong đó nhiều cái đầu phải lăn lóc; rồi một xã hội không giai cấp ngọt-ngào-tận-trời-xanh, đủ kì quặc để không bao giờ thực tế hóa được. Thay vào đó, chúng ta chỉ được những con heo và roi vọt.

            Tôi thường tự hỏi: George Orwell hẳn có gì để nói về điều này nhỉ?

            Rất nhiều điều.

            (Trích biên từ tham luận của Margaret Atwood cho chương trình Twenty Minutes của đài BBC 3 trong sê-ri những tiểu luận về Orwell)


            The Guardian, 16/06/2003


            © 2003 talawas



            --------------------------------
            [1]Margret Atwood (1939) đuợc coi là nhà văn nữ quan trọng nhất tại Canada đương đại. Bên cạnh sự nghiệp văn chương đồ sộ, bà còn là người tích cực tham gia các phong trào phụ nữ và nhân quyền.
            [2]Tác phẩm nổi tiếng của George Orwell
            [3]Xem thêm Thomas Pynchon, Đường tới 1984, talawas 02.6.2003
            [4]Tác phẩm của Emily Bronte, bản dịch tiếng Việt của Dương Tường mang tên Đỉnh gió hú


            Nguồn: The Guardian, 16/06/2003

            Tác phẩm của George Orwell tại Việt Nam Thư Quán

            George Orwell tại Thư viện ngoại văn Việt Nam Thư Quán
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.10.2006 15:29:29 bởi sóng trăng >
            #6
              Chuyển nhanh đến:

              Thống kê hiện tại

              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
              Kiểu:
              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9