ĐỨC CHA XERGHI V.
Cha Xerghi đã sống năm thứ sáu trong cuộc đời ẩn dật. Ông đã bốn mươi chín tuổi. Cuộc sống của ông thật gian truân. Không phải là do những khó nhọc trong việc ăn chay và cầu nguyện, đó không phải là những việc khó nhọc, mà do cuộc đấu tranh nội tâm ông không hề ngờ tới. Có hai nguyên do dẫn tới cuộc đấu tranh đó: sự hoài nghi và tình dục. Và cả hai kẻ thù này bao giờ cũng trỗi lên cùng một lúc. Ông tưởng như đó là hai kẻ thù khác nhau, trong khi chúng chỉ là một mà thôi. Hễ tiêu diệt được sự hoài nghi thì tức là đã tiêu diệt được tình dục. Nhưng ông tưởng rằng đó là hai con quỷ khác nhau và ông đã đấu tranh riêng rẽ với chúng.
“Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! – ông nghĩ. – Vì sao Người không cho con đức tin. Phải, tình dục, thánh Antôni và những người khác đã đấu tranh với nó, nhưng họ có niềm tin. Còn con có những giờ phút, có những ngày không có được đức tin. CẢ thế giới với toàn bộ vẻ mỹ miều của nó tồn tại để làm gì, nếu như nó đầy tội lỗi và cần phải từ bỏ nó? Vì sao Người đã tạo ra sự cám dỗ này? Sự cám dỗ ư? Nhưng có phải là sự cám dỗ không – cái việc ta muốn thoát ly khỏi những niềm vui trần gian và đang chuẩn bị một cái gì đó ở một nơi có lẽ chả có gì hết. – Ông tự nhủ và khiếp sợ, ghê tởm bản thân mình. - Đồ đê tiện! Đồ đê tiện! Thế mà cũng mong trở thành thánh “, - ông bắt đầu chửi rủa mình. Và quay ra cầu nguyện. Nhưng vừa bắt đầu cầu nguyện là ông đã hình dung ra một cách sinh động bản thân mình là người thế nào ở tu viện : đội mũ cao, mặc áo lễ, dáng vẻ uy nghi. Và ông lắc đầu: “Không , không phải như thế. Đó là sự dối trá. Nhưng mình lừa dối những ngưòi khác, chứ không lừa mình và lừa Chúa. Mình không phải là một con người uy nghi, mà là một kẻ thảm hại, nực cười”. Và ông gạt tà áo thụng ra, nhìn vào đôi chân thảm hại bó trong quần của mình. Rồi ông mim cười.
Sau đó ông thả tà áo xuống và bắt đầu đọc kinh cầu nguyện, làm dấu và gập mình xuống lễ. “Chả lẽ cái giường này sẽ là quan tài của mình sao?” – ông xướng lên. Và tựa hồ có một con quỉ anò đó thì thào bên tai ông ; “Cái giường đơn độc, và nó cũng là chiếc quan tài. Sự dối trá”. Và ông đã nhìn thấy trong trí tưởng tượng đôi vai của người đàn bà goá mà ông đã từng chung sống. Ông giũ bỏ hình ảnh đó và tiếp tục đọc kinh. Sau khi đọc các giáo luật ông cầm lấy quyển kinh Phúc âm, mở ra và thấy ngay đoạn mà ông thường lặp đi lặp lại và thuộc lòng :” Con kính tin, lạy Chúa, xin người hãy giúp đỡ cho sự thiếu đức tin của con”. Ông đã thu lại mọi mối hoài nghi vưùa nó ra. Giống như người ta điều chỉnh một vật không đứng vững, ông lại điều chỉnh lòng tin của mình trên một cẳng chân chao đảo avf thận trọng rời xa nó, để khỏi xô đẩy và làm nó sụp đổ. Những tấm che mắt lại được kéo lên và ông đã cảm thấy yên tâm. Ông nhắc lại lời nguyên j cầu thời thơ ấu :”Lạy Chúa, xin Người hãy đón nhận lấy con”, - và không những ông chỉ cảm thấy nhẹ nhõm mà còn thấy hân hoan xúc động. Ông làm dấu thánh giá, rồi nằm lên tấm đệm của mình trải trên chiếc ghế băng hẹp, đặt dưới đầu chiếc áo lễ mùa hè. Và ông thiếp đi. Trong giấc mơ nhẹ nhõm, ông tưởng như nghe thấy tiếng nhạc ngựa. Ông không rõ đó là thực hay mơ. Nhưng tiếng gõ cửa đã đánh thức ông. Ông nhỏm dậy, không tin ở mình. Những tiếng gõ cửa được lặp lại. Đúng rồi, đó là tiếng gõ cửa gần lắm, ở cánh cửa phòng ông, và có tiếng đàn bà.
“Lạy Chúa tôi! Chả lẽ điều mình đã đọc thấy trong chuyện đời các thánh, nói rằng con quỷ hiện hình thành đàn bà lại là thực…Đúng rồi, đây là giọng đàn bà. Một giọng nói dịu dàng, rụt rè và đáng yêu! Phỉ phui! – ông nhổ nước bọt. – Không, mình tưởng thế thôi”, - ông nói, rồi đi vào góc hầm, nơi kê một chiếc bàn cao để ảnh thánh, quỳ xuống bằng một động tác thành thạo quen thuộc và nhờ động tác đó, ông cảm thấy niềm an ủi và sự hài lòng. Ông quỳ xuống, tóc xoã xuống mặt và áp vầng trán đã trịu tóc xuống nền sàn ẩm ướit, lạnh lẽo. (Gió thổi trên sàn.)
…ông đọc thánh thi, cha Pimen già đã bảo ông rằng thánh thi giúp cho người ta thoát khỏi cảnh quỉ ám. Ông nhẹ nhàng vươn tấm thân gầy guộc nhẹ bẫng của mình trên đôi chân cứng cáp giật giật và định đọc tiếp, nhưng ông không đọc mà bất giác giỏng tai lắng nghe. Ông muốn nghe. Im lặng hoàn toàn. Vẫn những giọt nước ấy tí tách rơi từ trên mái nhà xuống chiếc thùng gỗ nhỏ đặt ở một góc. Nhoài sân, sương mù và tuyết che lấp hết mọi vật. Lặng lẽ, lặng lẽ quá. Và bỗng nhiên có tiếng sột soạt ở cạnh cửa sổ và rõ ràng có người nói - vẫn là giọng nói dịu dàng, rụt rè, chỉ ở người đàn bà hấp dẫn mới có được giọng nói như thế:
-Xin hãy mở cửa ra. Vì Chúa Ki-tô…
Tưởng như tất cả máu huyết dồn vào tim và dừng lại đó. Ông không thở được nữa. “Chúa sẽ phục sinh và lập tức ban phát…”
-Con không phải là quỷ đâu… - nghe rõ thấy cái miệng đang nói đó mỉm cười. – Con phông phải là ma quỉ, mà chỉ là người đàn bà tội lỗi, bị lạc đường, không phải theo nghĩa bóng mà theo nghĩa đen (bà ta cười vang), con đã bị lạnh cóng rồi và xin được trú nhờ…
Ông áp mặt vào cửa kính. Ngọn đèn nhỏ rọi sáng và ánh lên khắp mặt kính. Ông áp lòng bàn tay vào hai bên mặt và nhìn ra. Sương mù, thân cây, và kia rối, ở mé bên phải. Bà ta. Đúng rồi, bà ta, người đàn bà mặc áo choàng lông có lớp lông trắng dài, đội mũ lông, khuôn mạt đôn hậu, sợ hãi, rất dễ thương, bà ta đứng cách đó cách khuôn mặt ông chừng hai véc-sốc(*), nghiêng về phía ông. Mắt họ gặp nhau và họ đã nhận ra nhau. Không phải là có lúc họ đã nhìn thấy nhau : họ chưa bao giờ gặp nhau cả, nhưng trong cái nhìn mà họ trao đổi cho nhau đó, họ (đặc biệt là ông) cảm thấy rằng họ biết rõ nhau, hiểu nhau. Sau cái nhìn đó, không thể nào còn nghi ngờ rằng đây là con quỷ, chứ không phải là một người đàn bà bình thường, đôn hậu, dễ thương và rụt rè.
-Bà là ai? Bà đến đây làm gì? – ông nói.
Xin cha hãy mở cửa ra đã, - bà ta nói vẻ độc đoán, đỏng đảnh. – Con lạnh cóng cả người. Con đã nói với cha là con bị lạc đường.
- Nhưng tôi là tu sĩ, là ẩn sĩ.
-Được rồi, cha cứ mở cửa ra đi, kẻo không thì hoá ra cha muốn con chết cóng ở dưới cửa sổ trong khi cha cầu kinh à.
-Ừ, nhưng sao bà…
-Con sẽ không ăn thịt cha đâu. Vì Chúa, xin cha hãy cho vào. Rốt cuộc con đã bị cóng rồi.
Bản thân bà ta bắt đầu hoảng sợ. Bà ta đã nói câu đó hầu như bằng cái giọng đẫm nước mắt.
Ông rời khỏi cửa sổ, nhìn lên ảnh Chúa Ki-tô giữa vòng hoa gai góc: “Lạy Chúa, xin người hãy giúp đỡ con, lạy Chúa, xin người hãy giúp đỡ con”, - ông thốt lên, làm dấu và cúi gập đôi người xuống, rồi bước về phía cửa ra vào, mở cửa ra buồng hiên. Ông mò mẫm tìm móc cửa trong buồng hiên và bắt đầu đẩy móc ra. Ông nghe thấy tiếng bước chân ở phía ngoài. Bà ta đi từ cửa sổ đến cửa ra vào. “Ôí!”- bỗng nhiên bà ta kêu thét lên. Ông hiểu rằng bà ta đã giẫm phải vũng nước đọng ở ngưỡng cửa. Tay ông run lên và ông không tài nào nhấc nổi cái móc bị cánh cửa ép chặt.
-Cha làm sao thế, cho con vào đi. Con ướt hết cả người rồi. Con bị lạnh cóng. Cha nghĩ tới việc cứu rỗi linh hồn, còn con thì lạnh cóng.
Ông kéo cánh cửa về phía mình, nâng chiếc móc lên và không tính tới sự va đập, ông đẩy mạnh cánh cửa ra phía ngoài, đến nỗi đập phải người bà ta.
-Ôi, xin lỗi! – ông nói, bỗng nhien chuyển hoàn toàn sang cách đối đáp quen thuộc hồi xưa với các phu nhân.
Nghe tiếng “xin lỗi” đó bà ta mỉm cười. “A, thế ra ông ta còn chưa đến nỗi đáng sợ lắm”, - bà ta nghĩ.
-Không sao, không sao ạ. Cha tha lỗi cho con, - bà ta nói, đi ngang qua trước mặt ông. - Lẽ ra con chẳng bao giờ dám làm thế này, nhưng đây là một trường hợp đặc biệt.
-Xin mời bà, - ông nói, đẻ cho bà đi ngang qua. Mùi nước hoa thanh khiết sực nức, đã từ lâu ông không ngửi thấy, xộc vào mũi ông. Bà ta đi ngang qua buồng hiên vào buồng chính. Ông đóng sập cửa ra vào bên ngoài, không cài chốt, bước qua buồng hiên, rồi đi vào buồng chính.
“Lạy Chúa Giê-su, đức Thánh con, xin Người hãy thương con là kẻ tội lỗi, lạy Chúa, xin Người hãy thương con là kẻ tội lỗi”, - ông đọc kinh không ngớt, và không chỉ đọc nhẩm mà bất giác môi cũng lập bập.
-Xin mời, - ông nói.
Bà ta đứng ở giữa phòng, nước ở trên người mình chảy ròng ròng xuống sàn và bà ta ngắm nhìn ông. Cặp mắt bà ta cười.
-Xin cha tha lỗi cho, vì con đã phá rối cảnh cô tịch của cha. Nhưng cha cũng thấy tình cảnh của con đấy. Chả là xe chúng con ra đi từ thành phố và con đã đánh cuộc là con sẽ đi một mình từ làng Vôrôbiốpca trở về thành phố, nhưng tới đây thì con bị lac đường, ấy thế là, giá con mà không lần tới được tu phòng của cha…- bà ta bắt đầu nói dối. Nhưng vẻ mặt của ông khiến bà ta bối rối, đến nỗi không thể nói tiếp được và bà đã im lặng. Bà ta hoàn toàn không ngờ ông lại như vậy. Ông không phải là một người đẹp trai như bà tưởng tượng, nhưng mắt bà ta vẫn thấy ông là đẹp. Mái đầu với những chùm tóc xoăn hoa râm và bộ râu, chiếc mũi dọc dừa thanh tú và cặp mắt rừng rực như hòn than khi ông nhìn thẳng, đã làm bà sửng sốt.
Ông thấy là bà ta nói dối.
-À, ra thế, - ông nói,ngước nhìn bà ta, rồi lại cụp mắt xuống. – Tôi sẽ vào trong kia, còn bà thì xin cứ tự nhiên.
Ông nhấc cây đèn nhỏ, châm nến và nghiêng người rất thấp chào bà, rồi bước vào căn phòng nhỏ xíu ở đằng sau vách ngăn, và bà nghe thấy ông bắt đầu xê dịch cái gì ở đó. “Chắc ông ta đang dùng cái gì đó kê ngăn lại để trốn tránh mình”, - bà nghĩ, mỉm cười, hất chiếc áo choàng ngắn không tay bằng lông chó trắng xuống, bắt đầu tháo chiếc mũ lông quấn vào tóc và chiếc khăn dan ở dưới mũ. Bà ta không hề bị ướt khi đứng dưới cửa sổ, và bà đã nói mình bị ướt chỉ cốt lấy cớ để ông cho vào nhà. Nhưng lúc ở cửa ra vào, đúng là bà đã giẫm phải vũng nước, chân trái của bà đã bị ướt đến tận mắt cá, chiếc giày cao cổ và chiếc ủng lõng bõng đầy nước. Bà ngồi lên giường của ông – đó chỉ là tấm ván có phủ thảm lót – và bắt đầu cởi giày. Bà thấy tu phòng nhỏ này thật là đáng yêu. Buồng chật hẹp, chiều rộng ba ắc-sin, chiều dài bốn ắc-sin, sạch như lau như li. Trong buồng chỉ kê chiếc giường mà bà ngồi, phía trên giường là một giá nhỏ để sách. Trong góc buồng có chiếc bàn để ảnh thánh. Ở cửa ra vào có đinh treo áo choàng lông và áo lễ. Trên bàn để ảnh thánh là ảnh Chúa Ki-tô giữa vòng mận gai và chiếc đèn nhỏ.Phảng phất mùi vị là lạ của mỡ, mồ hôi và đất. Bà vừa ý với tất cả mọi thứ. Ngay cả mùi vị này.
Đôi chân ẩm ướt, đặc biệt là bên chân giẫm phải nước khiến bà không yên tâm, bà vội vã cởi giày, miệng không ngớt mỉm cười, vui mừng vì chẳng những mình đã đạt được mục đích, mà còn vì bà thấy mình đã làm cho người đàn ông có duyên, khác thường, hấp dẫn lạ lùng như ông phải bối rối. “Chà, ông ấy mà không đáp lời, thì cũng chẳng tai vạ quái gì” – bà tự nhủ.
-Thưa cha Xerghi! Thưa cha Xerghi! Dạ, gọi tên cha thế phải không ạ?
-Bà cần gì? – ông khẽ đáp.
-Dạ, xin cha tha lỗi cho con vì đã phá rối cảnh cô tịch của cha. Nhưng quả thật con không làm thế nào khác được. Lẽ ra con ốm rồi đấy. Ngay lúc này con cũng chả biết mình ra sao. Người con ướt hết cả, chân lạnh như cục băng.
-Bà tha lỗi cho,- giọng nói khẽ khàng đáp lại, - tôi chẳng giúp gì được cả.
-Không đời nào con lại làm phiền cha. Con chỉ trú nhờ đây đến rạng sáng thôi.
Ông không đáp. Và bà nghe thấy ông thì thào gì đó, rõ ràng là ông đang cầu nguyện.
-Cha không vào đây chứ ạ? – bà ta mỉm cười hỏi. -Kẻo con còn phải cởi quần áo để hong cho khô.
Ông không đáp, tiếp tục đọc kinh bằng giọng đều đều ở sau vách.
“Đúng, đó là một con người”, - bà nghĩ, chật vật rút chiếc ủng cao cổ òm ọp nước. Bà kéo, nhưng không rút được chiếc ủng ra, và bà thấy buồn cười. Bà suýt bật lên cười thành tiếng, nhưng biết rằng ông nghe thấy tiếng cười của mình và tiếng cười đó tác động tới ông đúng như ý bà mong muốn, nên bà cười to hơn, và tiếng cười vui vẻ, tự nhiên, đôn hậu đó quả thực đã tác động đến ông đúng như ý bà mong muốn.
“Phải, có thể yêu một con người như thế này. Cặp mắt ấy. Và khuôn mặt giản dị, cao thượng – dù ông có lẩm bẩm cầu kinh gì đi nữa – trông say mê như thế! – bà nghĩ. – Ông không đánh lừa được bọn đàn bà chúng tôi đâu. Lúc ghé khuôn mặt vào cửa kính, ông ta đã nhìn thấy mình, đã hiểu, và đã nhận ra. Cặp mắt ông rực sáng và gây ấn tượng mạnh. Ông ta yêu thích và thèm muốn mình. Phải rồi, ông ta đã thèm muốn”, - bà nói, rốt cuộc bà cũng đã tháo được ủng, giày cao cổ và đang loay hoay tháo bít tất. Muốn tháo được những đôi bít-tất dài bằng láng đó phải vén váy lên. Bà ta cảm thấy xấu hổ và lên tiếng :
-Cha đừng vào nhé!
Nhưng không có tiếng nào đáp lại ở bên kia bức vách. Vẫn thấy tiếng lẩm bẩm đều đều kéo dài và tiếng xê dịch lịch kịch. “Chắc ông ấy lại quỳ xuống sát đất để lễ, bà nghĩ. – Nhưng ông ấy sẽ không lẩn tránh mình đâu, bà ta thốt lên. – Ông ấy đang nghĩ tới mình. Cũng như mình đang nghĩ tới ông ấy. Ông ấy đang nghĩ tới những cái chân này với cũng cùng một tình cảm đó”,- bà nói, tháo đôi bít- tất ẩm ướt ra và thu cặp chân trần lên giường, rồi ngồi gấp chân lại. Bà ta ngồi như thế một lát, vòng tay ôm lấy đầu gối và trầm ngâm nhìn về phía trước mặt “ Phải, nơi hoang vắng này, cảnh yên tĩnh. Và có lẽ sẽ chẳng bao giờ có ai biết được…”
Bà đứng dậy, mang đôi bít-tất lại chỗ lò sưởi, treo tất lên ống thông hơi. Cái ống thông hơi mới đặc biệt làm sao. Bà xoay nó lại, rồi sau đó nhẹ nhàng đi chân đất quay về giường và lại thu chân ngồi lên giường. Bên kia vách hoàn toàn im ắng. Bà nhìn chiếc đồng hồ nhỏ đeo ở cổ bà. Đã hai giờ sáng. “Cánh cùng đi với mình hẳn sẽ tới đây lúc gần ba giờ”. Còn không tới một giờ đồng hồ nữa.
“Ô hay, mình sẽ ngồi một mình ở đây như thế này à. Vớ vẩn thật! Mình không muốn thế. Mình sẽ gọi ông ta ngay lập tức”.
-Thưa cha Xerghi! Thưa cha Xerghi! Xergây Đmi-tơriêvích, công tước Kaxátxki!
Sau cánh cửa im phăng phắc.
-Cha hãy nghe đây, thật là tàn nhẫn. Lẽ ra con đã không gọi cha, nếu như con không thấy cần. Con ốm. Con không biết mình ra sao, - bà ta lên tiếng bằng giọng đau khổ: - Ôi, ôi! – bà ta rên lên và lăn đùng xuống giường. Và điều kỳ lạ là bà ta cảm thấy y như mình kiệt sức, mệt lả, đau nhừ khắp người và run lên bần bật vì cơn sốt.
-Cha hãy nghe đây, xin cha giúp đỡ con. Con không biết mình bị làm sao ấy. Ôi! ôi! – bà ta cởi khuy áo dài, phơi bộ ngực ra và vén cánh tay áo để trần tới tận khuỷu: -Ôi! ôi!
Trong lúc đó, ông vẫn đứng trong buồng xép chật hẹp của mình và cầu kinh. Đọc hết kinh nguyện buổi tối, giờ đây ông đứng bất động, mắt chăm chăm nhìn vào chót mũi và thầm lặp đi lặp lại lời nguyện cầu khôn ngoan: “Lạy Chúa Ki-tô, đức thánh con, xin Người hãy xá tội cho con”.
Nhưng ông đã nghe thấy hết cả. Ông đã nghe thấy tiếng lụa sột soạt khi bà cởi áo, tiếng bước chân trần của bà bước trên sàn, ông đã nghe thấy bà dùng tay xoa chân. Ông cảm thấy rằng ông yếu đuối và bất cứ giây phút nào cũng có thể bị sa ngã và bởi vậy ông không ngớt cầu kinh. Ông cảm thấy một cái gì giống như cảm giác của một nhân vật trong truyện cổ tích, nhân vật này phải bước đi, không được ngoái nhìn trở lại. Cũng giống như vậy, Xerghi nghe thấy, cảm thấy nguy cơ và sự sa ngã ở đây đang vây bọc lấy ông, lơ lửng trên đầu ông và ông chỉ có thể thoát ra được bằng cách không ngoái nhìn bà ta một giây phút nào cả. Nhưng bỗng nhiên, ý muốn được nhìn xem thử xâm chiếm lấy ông. Đúng lúc ấy, bà ta nói:
-Cha hãy nghe đây, quả thật là vô nhân đạo. Con có thể chết.
“Phải, mình sẽ sang, nhưng mình sẽ làm như đức cha lấy một tay đặt lên mình con chiên lầm lạc, còn tay kia đặt lên lò lửa. Nhưng làm gì có lò lửa”. Ông ngoái nhìn. Cây đèn. Ông thò ngón tay lên ngọn lửa và nhăn mặt, sẵn sàng chịu đựng và ông tưởng như tuy kéo dài đã khá lâu, ông vẫn không cảm thấy gì, nhưng bỗng nhiên – ông còn chưa biết dứt khoát mình có đau đớn không và đau đớn đến mức nào, ông chau mày, rụt tay lại huơ huơ tay lên: “không, mình không thể chịu được điều đó”.
-Vì Chúa! Ôi, Cha sang với con đi! Con sắp chết, ôi!
-“Thế ra mình sẽ sa ngã ư? Không thể thế được”.
-Tôi đến chỗ bà ngay đây, - ông thốt lên, rồi mở cửa buồng mình, không nhìn bà, đi ngang qua bà tới chỗ cửa mở ra buồng hiên, nơi ông bổ củi, ông mò mẫm tìm chiếc thớt gỗ mà ông dùng để bổ củi và chiếc rìu để dựa vào tường.
-Tôi sang ngay bây giờ, - ông nói, rồi đưa tay phải nắm lấy chiếc rìu, đặt ngón tay trỏ của bàn tay trái lên chiếc thớt gỗ, vung rìu lên và chém phập xuống dưới đốt ngón tay thứ hai. Ngón tay văng ra, nhẹ nhàng hơn là những mảnh gỗ cùng độ dày như thế, bật ngược, rồi rơi xuống mép thớt, sau đó lăn xuống sàn nhà.
Ông nghe thấy tiếng đầu ngón tay rơi xuống trước khi cảm thấy đau. Nhưng ông chưa kịp ngạc nhiên, vì thấy không đau, thì đã cảm thấy cơn đau buốt bỏng rát và máu nóng trào ra. Ông vội vã dùng tà áo bọc lấy ngón tay bị chặt đứt, ép sát nó vào hông, rồi quay lại, bước qua cửa vào phòng, dừng lại trước mặt người đàn bà, cụp mắt xuống khẽ hỏi :
-Bà cần gì?
Bà ta ngước nhìn khuôn mặt nhợt nhạt với má trái giần giật của ông và bỗng nhiên bà ta cảm thấy xấu hổ. Bà ta đứng bật dậy, chộp lấy chiếc áo choàng lông, choàng vào mình.
-Vâng, con đau lắm…con bị cảm lạnh…con…Thưa cha Xerghi…con…
Ông ngước mắt nhìn bà ta,cặp mắt loé lên niềm vui lặng lẽ và nói:
-Cô em đáng yêu ơi, vì sao cô muốn huỷ hoại linh hồn bất tử của mình? Những sự cám dỗ phải đi vào thế gian, nhưng khổ thay cho kẻ nào bị sự cám dỗ xâm nhập…Cô hãy cầu kinh đi, xin Chúa tha thứ cho chúng ta.
Bà ta lắng nghe ông nói và nhìn ông. Bỗng nhiên bà ta nghe thấy có tiếng chất lỏng nhỏ giọt xuống. Bà ta nhìn và trông thấy máu chảy từ tay lên chiếc áo thụng của ông.
-Cha đã làm gì tay cha thế? – Bà ta sực nhớ tới cái âm thanh mà bà ta đã nghe thấy, chộp lấy ngọn đèn, bà ta chạy ra buồng hiên và trông thấy ngón tay đẫm máu ở trên sàn. Mặt tái nhợt hơn cả ông, bà ta quay lại và định nói với ông, nhưng ông lặng lẽ bước sang buồng xép và đóng chặt cửa lại.
-Cha hãy tha lỗi cho con. Con lấy gì chuộc lỗi của mình bây giờ?
-Cô hãy đi đi.
-Cha để con băng bó vết thương cho.
-Cô hãy đi khỏi đây.
Bà ta vội vã và lặng lẽ mặc quần áo. Rồi khi đã mặc áo lông sẵn sàng, bà ta ngồi chờ đợi. Tiếng lục lạc vang lên ở trước sân.
-Thưa cha Xerghi, cha hãy tha thứ cho con.
-Cô hãy đi đi. Chúa sẽ tha thứ.
-Thưa cha Xerghi, con sẽ cải đổi đời mình. Cha đừng bỏ mặc con.
-Cô hãy đi đi.
-Cha hãy tha thứ và ban phước cho con.
-Nhân danh Cha và con và thánh thần, - nghe có tiếng nói sau bức vách. – Cô hãy đi đi.
Bà ta oà khóc và bước ra khỏi tu phòng. Viên luật sư tiến lại phía bà ta.
-Thế nào, mình thua rồi hả, chả làm gì được đâu. Bà đi đâu nào?
-Đi đâu cũng được.
Bà ta lên xe và cho tới lúc về tới nhà không nói một lời nào.
Một năm sau, bà ta cắt tóc ngắn và sống cuộc đời khổ hạnh trong tu viện dưới sự dìu dắt của ẩn sĩ Ácxêni, người hoạ hoằn mới viết thư cho bà ta.
VI.
Cha Xerghi còn trải qua cảnh tu hành ẩn dật thêm bảy năm nữa. Thoạt đầu, cha Xerghi đã nhận nhiều thứ mà người ta đem tới cho ông : nào chè, đường, bánh mì trắng, nào sữa, áo quần và củi. Nhưng càng về sau ông càng qui định cuộc sống của mình môt cách khắt khe hơn, từ chối mọi thứ không cần thiết và rốt cuộc ông đã đi tới chỗ không nhận cái gì ngoài bánh mì đen, mỗi tuần một lần. Mọi thứ người ta đem đến cho ông, ông đem phân phát cho những người nghèo đến với ông.
Cha Xerghi đã dùng tất cả thì giờ của mình tại tu phòng để cầu kinh hoặc chuyện trò với các khách thăm viếng đến ngày càng đông. Mỗi năm, cha Xerghi chỉ ra nhà thờ có vài ba lần, cha cũng đi lấy nước hoặc lấy củi khi cần thiết.
Ông sống như vậy được năm năm thì câu chuyện với Makốpkina nhanh chóng lan rộng khắp nơi : chuyến viếng thăm ban đêm của bà ta, sự chuyển biến của bà ta sau chuyện đó và việc bà ta vào tu viện. Từ đó danh tiếng của cha Xerghi bắt đầu lừng lẫy. Khách viếng thăm tới ngày càng nhiều, các tu sĩ đến trú ngụ cạnh tu phòng của ông, nhà thờ và nhà khách được xây dựng gần đó. Danh tiếng của cha Xerghi, như thường lệ, ngày càng lừng lẫy, làm tăng thêm các công tích của ông. Từ phương xa, người ta bắt đầu lũ lượt kéo về chỗ ông và bắt đầu đưa người ốm tới chỗ ông, quả quyết rằng ông sẽ chữa khỏi cho họ.
Việc chữa lành bệnh lần đầu tiên xảy ra vào năm thứ tám trong cuộc đời ẩn dật của ông. Đó là việc chữa khỏi bệnh cho một chú bé mười bốn tuổi do bà mẹ đưa tới chỗ cha Xerghi với lời cầu xin ông đặt tay lên đầu nó và ban phước. Cha Xerghi cũng không hề nghĩ là mình có thể chữa khỏi bệnh cho những người ốm. Có lẽ ông coi ý nghĩ như thế là tội lỗi lớn của thói kiêu hãnh; nhưng người mẹ dẫn đứa trẻ tới cứ nằng nặc cầu xin ông, nằm lăn xuống chân ông, nói : vì sao ông chữa lành bệnh cho những người khác, mà lại không muốn giúp đỡ con trai bà ta, bà cầu xin ông hãy vì Chúa mà cứu giúp. Khi nghe cha Xerghi quả quyết rằng chỉ có Chúa mới chữa khỏi bệnh, bà ta nói rằng bà ta chỉ xin ông đặt tay lên đầu đứa trẻ và cầu kinh. Cha Xerghi từ chối và đi vào tu phòng của mình. Nhưng hôm sau (hồi đó là mùa thu và đêm đã lạnh) khi bước ra khỏi tu phòng lấy nước, ông lại trông thấy người mẹ với đứa con trai của mình, chú bé mươì bốn tuổi nhợt nhạt, hốc hác, và ông lại nghe thấy vẫn những lời cầu xin đó. Cha Xerghi sực nhớ tới câu chuyện ngụ ngôn nói về vị quan toà không công minh, và trước đây vốn tin chắc rằng mình phải từ chối, bây giờ ông cảm thấy hoài nghi và một khi cảm thấy hoài nghi, ông bắt đầu cầu nguyện và ông đã cầu nguyện cho tới khi nảy ra quyết định trong lòng mình. Quyết định đó là : ông phải thực hiện yêu cầu của người đàn bà, niềm tin của bà ta có thể cứu được đứa con trai, bản thân cha Xerghi, trong trường hợp này chỉ là một công cụ nhỏ mọn do Chúa lựa chọn.
Thế là ông bước lại gần phía bà mẹ, thực hiện mong ước của bà ta, đặt tay lên đầu chú bé và bắt đầu cầu nguyện.
Bà mẹ đem con trai ra về và một tháng sau chú bé khỏi bênh, danh tiếng của vị cha cả Xerghi có sức mạnh thần thánh chữa khỏi bệnh vang khắp vùng. Từ đó không có tuần nào là những người ốm không đi bộ, đi xe tới chỗ cha Xerghi. Và một khi đã không từ chối những người này, ông cũng không thể từ chối những người khác và ông đã đặt tay lên đầu người bệnh, cầu nguyện, nhiều người đã khỏi bệnh, danh tiếng của cha Xerghi càng ngày càng lan rộng.
Chín năm trong tu viện và mười ba năm trong cảnh cô tịch đã trôi qua như vậy. Cha Xerghi đã có dáng vẻ của một vị cha cố: chòm râu của ông dài và bạc trắng như cước, riêng mái tóc ông tuy thưa, nhưng vẫn còn đen nhánh và loăn xoăn.
VII.
Đã mấy tuần nay, cha Xerghi sống với một ý nghĩ ám ảnh : liệu ông có làm được điều tốt không khi ông vâng theo cái hoàn cảnh do cha bề trên và tu viện trưởng đặt ông vào nhiều hơn là do tự ý ông muốn. Điều đó bắt đầu sau khi chú bé mười bốn tuổi khỏi bệnh, từ đó tháng nào, tuần nào , ngày nào Xerghi cũng cảm thấy cuộc sống nội tâm của mình bị thủ tiêu và thay thế bằng cuộc sống bề ngoài. Y như thể người ta đã lộn trái ông ra vậy.
Xerghi thấy ông đã trở thành công cụ lôi cuốn khách viếng thăm và dâng cúng cho tu viện, và vì thế những người cai quản tu viện đã tạo cho ông những điều kiện để ông có thể có ích nhiều nhất. Chẳng hạn như người ta hoàn toàn không để cho ông phải lao động. Người ta cung cấp cho ông tất cả những thứ gì ông có thể cần tới và chỉ yêu cầu ông không từ chối ban phước cho các khách tới viếng thăm ông. Để thuận tiện cho ông, người ta đã quy định ngày tiếp khách của ông. Người ta đã xếp đặt phòng tiếp đón các khách nam và một nơi có các gióng ngăn cách để cho các khách nữ khỏi xô ngã ông, khi họ lao tới với ông, - một nơi để ông có thể ban phước cho các khách viếng thăm. Nếu như người ta nói rằng ông cần thiết cho mọi người, rằng để thực hiện luật lệ tình thương của Chúa Ki-tô, ông không thể từ chối yêu cầu của mọi người muốn được gặp ông, rằng việc xa lánh những người đó có lẽ là tàn nhẫn, ông không thể không đồng ý như thế, nhưng càng dấn mình vào cuộc sống đó ông càng cảm thấy cuộc sống nội tâm của mình đã chuyển thành cuộc sống bề ngoài, nguồn nước thần khô cạn ở trong ông, những gì ông đã làm là làm vì con người nhiều hơn, chứ không phải vì Chúa.
Dù ông lên tiếng dạy bảo mọi người hay chỉ ban phước một cách đơn giản bằng việc cầu nguyện cho những người ốm, dù ông khuyên bảo mọi người về cách sống của họ hay ông lắng nghe lời cảm ơn của những con người đã được ông hoặc là chữa giúp cho lành bệnh, như người ta nói với ông, hoặc ban cho lời dạy bảo, ông đều không thể lấy đó làm vui, không thể không quan tâm tới những hiệu quả hoạt động của mình, tới ảnh hưởng của hoạt động đó đối với mọi người. Ông tưởng như mình là một ngọn đèn đang cháy, và càng nghĩ như thế ông càng cảm thấy ánh sáng thần của chân lý yếu ớt đi, lụi tắt ở trong ông. “Mình làm bao nhiêu vì Chúa và bao nhiêu vì con người?” – đó là câu hỏi thường xuyên giày vò ông và chẳng những ông không bao giờ có thể trả lời được câu hỏi đó, mà ông còn không dám quyết định trả lời mình. Trong thâm tâm, ông cảm thấy rằng con quỷ đã đem hoạt động vì con người đánh tráo lấy toàn bộ hoat động vì Chúa của ông. Ông cảm thấy thế bởi lẽ, cũng như trước đấy ông thấy khó chịu khi người ta dứt ông ra khỏi cảnh cô tịch, thì bây giờ cảnh cô tịch của ông khiến ông khó chịu. Ông thấy nặng nề vì khách khứa viếng thăm, ông mỏi mệt vì họ, nhưng trong thâm tâm ông thấy vui sướng vì họ, vui sướng vì những lời ca tụng vây bọc lấy ông.
Thậm chí, đã có lúc ông quyết định bỏ đi trốn. Ông đã nghiền ngẫm mọi nhẽ xem nên trốn đi như thế nào. Ông chuẩn bị cho mình chiếc áo cánh của nông dân, những mảnh vải quấn chân, áo choàng dài káp-tan và chiếc mũ lông. Ông giải thích rằng ông cần tới những thứ đó để cho những người cầu xin. Và ông đã giữ những áo quần đó ở cạnh mình, nghĩ xem nên mặc như thế nào,cắt tóc và bỏ đi ra sao. Thoạt đầu ông sẽ đi xe lửa, đi được độ ba trăm véc-xta thì xuống tàu, đi đến các làng. Ông đã hỏi một người lính già xem nên đi như thế nào,người ta cho phép đi và bố thí ra sao. Người lính đã kể cho ông biết những nơi nào người ta cho đi dễ dàng và bố thí hậu hĩnh và thế là cha Xerghi mong muốn làm theo lời chỉ dẫn đó. Thậm chí có lần vào ban đêm ông đã mặc quần áo và định ra đi, nhưng ông không biết : ở lại hay bỏ đi, đằng nào hay hơn. Thoạt đầu ông do dự, sau đó sự do dự qua đi, ông đã quen dần và khuất phục con quỷ, và chiếc áo nông dân chỉ còn gợi nhắc cho ông nhớ tới những cảm nghĩ của mình.
Khách viếng thăm tới với ông mỗi ngày một nhiều và càng ngày ông càng ít có thì giờ để củng cố tinh thần và cầu nguyện. Đôi khi, trong những phút giây trong sáng, ông nghĩ rằng mình giống như cái nơi trước đây có ngọn nguồn của một con suối. “Đã từng có nguồn nước thần mảnh mai lặng lẽ chảy ra từ mình ta, qua mình ta. Đó là cuộc sống thật sự, khi “bà ta” (ông luôn luôn thấy hứng thú mỗi lần nhớ tới đêm hôm đấy, và nhớ tới bà ta, giờ đây là nữ tu sĩ Agơnia) cám dỗ ta. Bà ta đã hớp thứ nước thần ấy. Nhưng từ đó nước còn chưa kịp dồn đọng lại, thì những người khát nước đã tới, chen chúc nhau, xô lấn nhau. Và họ đã xéo nát tất cả, chỉ còn bùn trơ lại” Trong những giây phút trong sáng hiếm hoi, ông đã nghĩ như vậy, nhưng trạng thái bình thường nhất của ông là : mệt mỏi và thương xót mình vì sự mệt mỏi đó.
Ấy là vào mùa xuân đêm trước ngày lễ Prê-pô-lôlvê-ni-ê(*). Cha Xerghi làm lễ ban đêm tại nhà thờ đặt trong hang núi của mình. Mọi người chen vào kỳ cho bằng hết chỗ, khoảng độ hai chục người. Tất thảy đều là các quí ông và thương gia, nghĩa là những người giàu có. Cha Xerghi để cho tất cả mọi người vào dự lễ, nhưng sự lựa chọn này là do một tu sĩ được sắp xếp ở cạnh ông, và người trực nhật do tu viện hằng ngày cử tới chỗ ông, quyết định. Đám đông dân chúng, khoảng độ tám chục người hành hương, đặc biệt là đàn bà, tụ tập ở phía ngoài, chờ cha Xerghi ra và ban phước.Cha Xerghi đã làm lễ xong và khi bước ra, ông lại gần quan tài vị tiền bối của mình để cầu kinh ca ngợi…ông lảo đảo và suýt ngã. nếu như người lái buôn và vị tu sĩ làm trợ tế đứng sau ông không đỡ lấy ông.
-Cha làm sao thế, thưa Cha? Cha Xerghi! Cha thân yêu! Lạy Chúa! - nhiều giọng phụ nữ vang lên. - Người rũ ra như tàu lá kìa.
Nhưng cha Xerghi đã hồi sức ngay và tuy nét mặt rất nhợt nhạt, cha gạt người lái buôn và viên trợ tế ra, rồi tiếp tục hát lễ. Cha Xêrapiôn, viên trợ tế, những người hát lễ và bà quý tộc Xôphia Ivanốpna – bà này luôn sống trong cảnh ẩn dật và chăm sóc cha Xerghi – bèn yêu cầu ông ngừng làm lễ.
-Không sao, không sao, - cha Xerghi thốt ra, thoáng mỉm cười sau hàng ria mép, - các vị đừng làm đứt quãng buổi lễ.
“Phải, các vị thánh vẫn thường làm như thế”, - ông nghĩ.
-Vị thánh! Thiên thần! -giọng nói của Xôphia Ivanốpna lập tức vang lên sau lưng ông và thêm cả giọng nói của người lái buôn đã đỡ ông. Ông không nghe lời khuyên nhủ của họ và tiếp tục làm lễ. Mọi người lại chen chúc nhau,tất cả kéo thành hàng daì quay trở về nhà thờ nhỏ, tại đó, cha Xerghi đã làm hết lễ nguyện ban đêm, tuy có hơi rút ngắn lại.
Sau khi làm lễ, cha Xerghi ban phước cho những người có mặt ở đó, rồi bước ra chiếc ghế dài đặt dưới cây du ở cửa hang. Ông muốn nghỉ ngơi, hít thở không khí trong lành, cảm thấy điều đó là cần thiết đối với mình, nhưng ông vừa bước ra cửa hang, đám đông dân chúng đã lao tới ông, xin ban phước và xin ông khuyên bảo, giúp đỡ. Trong số này có những người đàn bà hành hương, luôn luôn đi từ đất thánh này tới đất thánh kia, từ vị cha cả này tới vị cha cả khác và bao giờ cũng mủi lòng trước bất kỳ vật thiêng nào và bất kỳ vị cha cả nào. Cha Xerghi biết rõ hạng người bình thường, lạnh lùng, ước lệ, chẳng có tính chất tôn giáo tí nào này; ở đây có những người đàn ông hành hương, phần lớn là lính đã xuất ngũ, bị bật ra khỏi cuộc sống định cư, rơi vào cảnh túng quẫn và phần lớn là những ông già say bét nhè, lang thang từ tu viện này đến tu viện khác chỉ cốt để no bụng; ở đây cũng có cả những nam nữ nông dân quen cùng với những đòi hỏi ích kỷ muốn chữa khỏi bệnh của mình là muốn giải quyết những mối nghi ngờ trong những công việc thực tiễn nhất : về việc gả chồng cho con gái, về việc thuê cửa hiệu, về việc chuộc ruộng đất, hay về việc gạt bỏ cho mình tội vô ý ngủ đè chết con, hoặc sinh ra đứa con hoang. Cha Xerghi từ lâu đã quen thuộc và không thích thú tất cả những chuyện đó. Ông biết rằng ông sẽ chẳng hiểu thêm điều gì mới từ những nhân vật đó, họ không gợi trong ông một tình cảm tôn giáo nào, nhưng ông thích nhìn thấy họ như là nhìn một đám đông coi lời ban phước của ông, những lời lẽ của ông, là cần thiết và quí giá, bởi vậy tuy vất vả vì đám đông này, ông đồng thời vẫn thấy thú vị với nó. Cha Xêrapiôn đã toan xua đuổi họ, nói rằng cha Xerghi mệt, nhưng về phần ông, khi nhớ tới những lời trong kinh Phúc âm: “Đừng ngăn cản chúng( trẻ con) đến với ta”, ông thấy xúc động và đã bảo để người ta cho họ vào.
Ông đứng dậy, bước lại gần các gióng chắn - họ tụ tập ở cạnh đó – và bắt đầu ban phước cho họ và trả lời những câu hỏi của họ bằng giọng nói yếu ớt khiến chính ông cũng tự mủi lòng. Nhưng tuy có ý muốn tiếp tất cả mọi người, ông đã không thể làm được : mắt ông lại hoa lên, ông lảo đảo và bám lấy gióng chắn. Ông lại cảm thấy máu dồn lên đầu, rồi thoạt tiên mặt ông tái nhợt, sau đó ông thấy người bỗng nhiên bừng bừng.
-Thôi, có lẽ mai nhé. Lúc này tôi không thể tiếp tục được, - ông nói và sau khi ban phước chung cho tất cả mọi người, ông đi tới chiếc ghế dài. Người lái buôn lại đỡ lấy ông, dìu ông đi và đặt ông ngồi xuống.
-Thưa cha! – có tiếng nói vang lên trong đám đông. – Thưa cha! Xin cha đừng bỏ rơi chúng con. Không có cha chúng con sẽ tiêu ma!
Sau khi đặt cha Xerghi ngồi lên chiếc ghế dài dưới cây du, người lái buôn lãnh lấy trách nhiệm cảnh sát và xua đuổi mọi người một cách rất kiên quyết. Qủa thật ông ta nói khẽ đến nỗi cha Xerghi không thể nghe thấy được, nhưng ông ta đã nói một cách kiên quyết và tức giận :
-Giải tán đi, giải tán đi. Cha đã ban phước rồi, các người còn cần gì nữa nào? Bước cả đi, không tôi sẽ vặn cổ, thật đấy. Này, này! Cái nhà mụ quấn xà cạp đen kia, đi đi, đi đi. Mụ len đi đâu thế hả? Đã bảo đủ rồi mà lại. Đã bảo đến mai Chúa sẽ ban phước, còn bây giờ thì đi cả đi.
-Thưa ông tôi chỉ muốn được liếc mắt nhìn mặt Người một tí thôi ạ, - một bà lão nói.
-Tôi sẽ chú ý, mụ len đi đâu thế hả?
Cha Xerghi nhận thấy người lái buôn hành động có phần nghiêm khắc, ông cất giọng yếu ớt bảo người giúp việc của tu phòng ngăn bác lái buôn đừng xua đuổi mọi người nữa. Cha Xerghi biết rằng dẫu sao người lái buôn cũng sẽ xua đuổi và ông cũng rất muốn được ngồi một mình nghỉ ngơi, nhưng ông vẫn phái người giúp việc tu phòng ra bảo vơí người lái buôn như thế để gây ấn tượng.
-Được, được. Tôi không xua đuổi, tôi khuyên can họ đấy chứ, - người lái buôn đáp, - bởi vì họ chỉ cốt làm cho người ta chết mệt. Họ có thương xót gì ai đâu, họ chỉ nghĩ đến mình thôi. Không được đâu, tôi đã bảo mà. Đi đi. Đến mai.
Và người lái buôn đã xua đuổi tất cả.
Người lái buôn sốt sắng như thế, bởi vì ông ta thích trật tự, thích xua đuổi dân chúng, ngược đãi họ, và chủ yếu vì ông ta cần tới cha Xerghi. Ông ta goá vợ, có một đứa con gái độc nhất, ốm đau, chưa lấy chồng và ông ta đã dẫn nó đi một nghìn bốn trăm véc-xta đường tới chỗ cha Xerghi để cha chữa bệnh cho. Trong hai năm, ông ta đã chạy chữa cho con gái ở nhiều nơi. Thoạt đầu tại bệnh viện của trường đại học tổng hợp ở tỉnh lỵ - không ăn thua; sau đó ông ta đem con đến chỗ một người mu-gích ở Xamara – hơi đỡ, sau đó ông ta đưa con tới một vị bác sĩ ở Mátxcơva, trả nhiều tiền, - không ăn thua gì. Bây giờ người ta nói với ông rằng cha Xerghi chữa lành bệnh, và thế là ông ta dẫn con tới. Bởi vậy, khi đã xua hết dân chúng đi, người lái buôn bước lại gần cha Xerghi và không rào đón gì, quỳ sụp xuống, cất giọng oang oang nói:
-Thưa Đức cha chí thánh, xin Người hãy ban phước cho đứa con gái đau ốm của tôi, chữa cho nó khỏi đớn đau bệnh hoạn. Tôi đánh bạo quỳ sụp dưới chân thánh thiện của Người. - Rồi ông ta khum lòng bàn tay nọ lên bàn tay kia. Ông ta nói và làm những điều đó tựa hồ như làm một việc gì đó đã được phong tục và luật lệ xác định rõ ràng chắc chắn, tựa hồ như cần phải cầu xin chữa bệnh cho con gái bằng chính cách thức đó, chứ không phải cách nào khác. Ông ta làm như thế với niềm tin vững chắc, đến nỗi ngay như cha Xerghi cũng tưởng cần phải nói và làm đúng như thế. Tuy vậy cha đã bảo ông ta đứng dậy và kể cho rõ sự tình. Người lái buôn kể rằng con gái ông ta, cô gái hai mươi hai tuổi, bị bệnh hai năm trước đây, sau khi mẹ chết đột ngột, nó kêu “ối” lên một tiếng, ông ta nói thế, và từ đó lâm bệnh. Và thế là ông ta đã đưa nó đi suốt một nghìn bốn trăm véc-xta tới đây, hiện nay nó đang ở ngoài nhà khách chờ cha Xerghi cho phép đưa nó vào. Ban ngày, nó không đi lại vì sợ ánh sáng, nó chỉ có thể ra ngoài sau lúc hoàng hôn.
-Thế ra nó yếu lắm à? – cha Xerghi nói.
-Không, cháu người to vóc và không yếu ớt gì đặc biệt, chỉ phải cái nó bị suy nhược thần kinh, như lời bác sĩ nói. Thưa cha, nếu bây giờ Cha cho phép đưa nó tới, chắc con sẽ vô cùng phấn khởi. Thưa Đức cha chí thánh, xin Người hãy làm cho trái tim của kẻ làm cha khỏi héo hắt, Người hãy phục hồi dòng giống cho nó, dùng lời cầu nguyện của mình cứu lấy đứa con đau ốm của nó.
Và người lái buôn lại quì sụp xuống và nghiêng đầu trên hai bàn tay khum lại, lặng người đi. Cha Xerghi lại bảo ông ta đứng dậy. Ông nghĩ bụng công việc của ông thật nặng nề xiết bao, và mặc dầu như vậy ông vẫn nhẫn nhục gánh lấy công việc đó, ông thở dài nặng trĩu, im lặng giây lâu, rồi nói :
-Thôi được, chiều tối ông hãy dẫn nó tới đây. Tôi sẽ cầu nguyện cho nó, còn bây giờ tôi mệt rồi. - Rồi ông nhắm mắt lại. – Lúc ấy tôi sẽ phái người ra.
Người lái buôn nhón chân đi trên cát, vì thế tiếng giày của ông ta nghe lạo xạo mạnh, ông ta đi ra và cha Xerghi ở lại một mình.
Suố đời cha Xerghi bận bịu với các buổi lễ và khách khứa viếng thăm, nhưng hôm nay là một ngày đặc biệt vất vả. Buổi sáng, một quan chức quan trọng đã tới thăm và trò chuyện lâu với ông; sau đó là bà quí tộc cùng với con trai. Người con trai ấy là một giáo sư trẻ tuổi, không tín ngưỡng, mà bà mẹ - một người sùng đạo nồng nhiệt và trung thành với cha Xerghi – đã dẫn tới đây và cầu xin cha Xerghi trò chuyện với anh ta. Cuộc trò chuyện rất nặng nề. Chàng thanh niên rõ ràng là không muốn tranh luận với vị tu sĩ, đã đồng ý với ông về tất cả mọi điều, như với một con người kém cỏi, nhưng cha Xerghi thấy rằng anh ta không tin, tuy anh ta cũng cảm thấy thú vị, nhẹ nhõm và thanh thản. Giờ đây cha Xerghi bực mình nhớ lại cuộc trò chuyện đó.
-Xin rước cha dùng bữa, - người giúp việc tu phòng nói.
-Được, anh đem cái gì tới đây.
Người giúp việc đi vào tu phòng xây cách cửa hang chừng một chục bước, còn cha Xerghi ngồi lại một mình.
Đã qua lâu rồi cái thời cha Xerghi sống một mình, tự mình làm lấy mọi việc và nuôi thân bằng độc có bánh lễ và bánh mì. Đã từ lâu người ta chứng minh với ông rằng ông không có quyền coi thường sức khoẻ của mình và người ta đã nuôi ông bằng những món ăn chay, nhưng bổ béo. Ông ăn ít, nhưng nhiều hơn trước đây, và thường ăn với sự hài lòng đặc biệt, chứ không ăn với vẻ kinh tởm và ý thức về tội lỗi như trước đây. Lúc này cũng vậy. Ông ăn món cháo đặc,uống một cốc nước chè và dùng nửa chiếc bánh mì trắng.
Người giúp việc tu phòng đi ra ngoài và ông ngồi lại một mình trên chiếc ghế dài dưới gốc cây du.
Đó là một buổi tối tháng Năm kì diệu, tán lá cây chỉ vừa mới xoà rộng ra trên những cây bạch dương, hoàn diệp liễu, dã anh, những cây du và cây sồi. Những bụi dã anh ở đằng sau cây du đã nở rộ hoa và chưa bị tàn lụi. Đàn chim hoạ mi, một con đậu rất gần và hai hay ba con khác ở ngay phía dưới bụi cây ven sông, hót ríu rít và lảnh lót. Từ mặt sông xa xa vang lên tiếng hát, chắc là của những công nhân đi làm về, mặt trời đã khuất sau rừng cây, loé những tia sáng xuyên qua đám lá cây xanh. Toàn bộ phía ấy đều xanh rờn, sáng rực, còn phía có cây du sẫm tối. Những con bọ dừa bay lên, đập cánh và rơi xuống.
Sau bữa ăn tối, cha Xerghi bắt đầu đọc thầm kinh nguyện: “Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, đức thánh con, xin Người hãy xá tội cho chúng con”, sau đó ông đọc thánh ca và bỗng nhiên, giữa lúc ông đang đọc, một con chim sẻ không biết từ đâu tới, bay từ bụi cây xuống đất, kêu lích chích và nhảy lách chách lao về phía ông, nó sợ sệt cái gì đó và vội bay đi. Ông đọc kinh nguyện trong đó nói về việc mình từ bỏ thế gian, và vội vã đọc nhanh cho hết để còn phái người ra gặp người lái buôn với đứa con gái đau ốm: ông quan tâm đến đứa con gái đó. Nó làm cho ông quan tâm vì đây là một sự giải trí, một nhân vật mới, bố nó và nó xem ông như một vị thánh mà lời nguyện cầu hằng được thực hiện. Ông đã phủ nhận điều đó, nhưng trong thâm tâm ông tự coi mình là một vị thánh như vậy.
Ông thường ngạc nhiên không hiểu vì sao điều đó đã xảy ra, vì sao ông, Xtêpan Kaxátxki, đã trở thành một vị thánh phi thường như vậy và có thể nói là một người có phép lạ như vậy, nhưng việc ông trở thành thánh như vậy thì chả còn có gì phải hoài nghi nữa cả: ông không thể không tin vào những phép lạ mà chính ông đã nhìn thấy, bắt đầu từ chú bé ốm đau cho tới một bà lão mù gần đây đã nhìn được do lời cầu nguyện của ông.
Dù điều đó kỳ quặc đến thế nào đi nữa, thì sự thật vẫn là như vậy. Bởi thế cô con gái người lái buôn khiến ông quan tâm, vì cô ta là một nhân vật mới, cô ta tin tưởng ở ông và cũng còn vì qua cô ta tài chữa bệnh và danh tiếng của ông lại được khẳng định. “Người ta đã đi hàng nghìn véc-xta tới, họ viết trên báo, hoàng đế biết, mọi người ở châu Âu, ở cái châu Âu không tín ngưỡng biết”, - ông nghĩ. Và bỗng nhiên ông thấy hổ thẹn vì thói háo danh của mình, ông lại bắt đầu cầu Chúa. “Lạy Chúa, vua ở trên trời, người an ủi, linh hồn của chân lý, xin Người hãy tới và nhập vào chúng con, tẩy rửa cho chúng con khỏi mọi điều xấu và cứu rỗi cho linh hồn chúng con. Người hãy tẩy rửa cho chúng con khỏi hư danh xấu xa của người đời đang xâm chiếm con”, - ông lặp lại và sực nhớ ông đã cầu nguyện biết bao lần như thế và cho đến nay những lời cầu nguyện của ông về phương diện này vẫn vô hiệu quả: những lời cầu nguyện của ông đã tạo nên phép lạ cho những người khác, nhưng ông đã không thể cầu xin Chúa giải thoát cho mình khỏi cái dục vọng nhỏ nhen này.
Ông sực nhớ tới những lời cầu nguyện của mình trong thời gian đầu tu hành ẩn dật, khi ông cầu nguyện Chúa ban cho ông sự trong sạch, nhẫn nhục và tình thương, và lúc đó ông tưởng như Chúa đã nghe thấy lời nguyện cầu của ông, ông đã trở lên trong sạch, đã chặt đứt một ngón tay của mình, và đã nhặt mẩu ngón tay nhăn nheo đó lên, hôn nó, ông tưởng như ông cũng đã trở lên nhẫn nhục vào lúc ông luôn luôn xấu xa vì tội lỗi của mình, và ông tuởng như ông đã có được tình thương, khi ông sực nhớ tới hồi ấy ông đã cảm động xiết bao khi đón tiếp người lính già say rượu tới gặp ông xin tiền và khi đón tiếp bà ta. Nhưng bây giờ? Và ông tự hỏi mình: ông có yêu ai không, có yêu Xôphia Ivanốpna không, có yêu cha Xêrapiôn không, có yêu thương tất cả mọi người tới với ông ngày hôm nay không, có yêu chàng trẻ tuổi uyên bác mà ông đã trò chuyện để răn bảo, chỉ cốt phô trương trí tuệ của mình với anh ta và tỏ ra không lạc hậu về học vấn so với anh ta không? Ông thấy thú vị và cần đến tình yêu của họ, nhưng ông đã không cảm thấy tình yêu thương đối với họ. Giờ đây trong ông chẳng có tình thương yêu, chẳng có sự nhẫn nhục, cũng như chẳng có sự trong sạch.
Ông thú vị khi được biết rằng con gái người lái buôn hai mươi hai tuổi, và ông muốn biết cô ta có đẹp hay không. Và khi hỏi về sự ngẩn ngơ của cô ta, chính là ông muốn biết cô ta có cái vẻ hấp dẫn của phụ nữ hay không.
“Chả lẽ mình đã sa đoạ đến thế? – ông nghĩ. - Lạy Chúa, xin Người hãy phục hồi con, vị chúa tể và Đức chúa của chúng con”. Rồi ông chắp tay lại và bắt đầu cầu nguyện. Bầy chim hoạ mi hót lảnh lót. Một con bọ dừa bay lên người ông và bò lên gáy. Ông gạt nó đi. “Có Chúa hay không nhỉ?Sự thể sẽ ra sao, khi ta gõ cửa một ngôi nhà khoá chặt ở ngoài...Khoá ở trên cửa ra vào và có lẽ ta đã nhìn thấy cái khoá ấy. Cái khoá đó là bầy chim hoạ mi, những con bọ dừa, thiên nhiên. Có lẽ anh chàng thanh niên ấy nói đúng”. Ông bắt đầu lớn tiếng cầu nguyện và cầu nguyện mãi tới khi những ý nghĩ đó biến mất và ông cảm thấy mình trở lại thật bình tĩnh, tin tưởng. Ông kéo chuông và bảo người giúp việc tu phòng là lúc này hãy để cho người lái buôn dẫn con gái vào.
Người lái buôn khoác tay con gái, dẫn nó vào tu phòng, rồi lập tức đi ra ngay.
Đó là một cô gái tóc vàng, trắng nõn, tái nhợt, phốp pháp, cực kỳ hiền lành với vẻ mặt trẻ thơ sợ sệt và với thân hình phụ nữ rất phát triển. Cha Xerghi ngồi lại trên ghế dài ở cửa ra vào. Khi cô gái đi ngang qua và dừng lại gần ông, ông đã ban phước cho cô, và ông thấy khiếp sợ bản thân mình, khi ông ngắm nghía cơ thể cô ta. Cô ta đã đi qua, còn ông cảm thấy mình như bị ong đốt. Qua nét mặt cô ta, ông thấy cô ta là người ham tình dục và ngẩn ngơ. Ông đứng dậy và đi vào tu phòng. Cô ta ngồi trên chiếc ghế đẩu và chờ ông.
Khi ông vào phòng, cô ta đứng dậy .
-Con muốn đến với ba con cơ, - cô nói.
-Con đừng sợ, - ông nói. – Con đau thế nào?
-Conđau khắp cả, - cô nói và bỗng nhiên khuôn mặt cô ta ánh lên nụ cười.
-Con sẽ khoẻ mạnh, - ông nói. – Con hãy cầu nguyện đi.
-Cầu nguyện làm gì, con đã cầu nguyện rồi, chẳng ăn thua gì. – Và cô ta vẫn cứ mỉm cười. – Cha hãy cầu nguyện và đặt tay lên mình con đi. Con đã nằm mơ thấy cha.
-Con đã thấy như thế nào?
-Con thấy cha dã đặt tay lên ngực con như thế này này. – Cô cầm lấy tay ông và áp lên ngực của mình. – Đây, chỗ này.
Ông chìa tay phải cho cô.
-Tên con là gì? – ông hỏi, toàn thân run bắn lên và cảm thấy mình đã chiến bại, tình dục đã vượt ra khỏi sự kiềm chế.
-Maria. Sao cơ ạ?
Cô ta cầm lấy tay ông và hôn, sau đó dùng một tay ôm lấy ngang lưng ông và ép sát vào mình.
-Con làm gì thế? – ông nói. – Maria. Con là ma quỉ.
Chà, có lẽ chả sao đâu.
Và cô ta ôm lấy ông, ngồi cùng với ông ở trên giường.
Lúc rạng sáng ông bước ra ngoài thềm.
“Chả lẽ mọi nguyện đó đã xảy ra? Ông bố sẽ tới. Cô ta sẽ kể chuyện lại. Cô ta là ma quỷ. Mình sẽ làm gì nhỉ? Đây kia, chiếc rìu mình đã dùng để chặt đứt ngón tay”. Ông vớ lấy chiếc rìu và đi vào tu phòng.
Người giúp việc tu phòng gặp ông.
-Cha sai bổ củi ạ? Cha cứ để rìu đấy cho con.
Ông trao chiếc rìu. Ông bước vào tu phòng. Cô ta nằm ngủ. Ông khiếp sợ nhìn cô ta. Ông đi vào cuối phòng, lấy chiếc áo nông dân mặc vào, lấy kéo cắt tóc, rồi bước ra lần theo con đường nhỏ ở sườn đồi dẫn xuống sông, nơi đã bốn năm nay ông không đặt chân đến.
Con đường lớn chạy dọc ven sông; ông đi theo con đường đó đến tận giờ ăn trưa. Tới giờ ăn trưa ông bước vào ruộng lúa mạch và nằm trong đó. Chiều tối ông đi tới một làng ở ven sông. Ông không đi vào trong làng, mà đi tới chỗ bờ dốc đứng ở ven sông.
Đó là buổi sáng sớm, trước lúc mặt trời mọc độnửa tiếng đồng hồ. Mọi vật đều mờ xám và ảm đạm, ngọn gió lạnh lẽo lúc ban mai thổi tù phía tây tới. “Phải rồi, cần phải kết thúc. Không có Chúa. Kết thúc thế nào nhỉ? Lao mình xuống sông à? Mình biết bơi, nên sẽ không chết đuối. Tự treo cổ chăng? Ừ, dây lưng đây, treo mình lên cành cây kia”. Điều đó tưởng như có thể và gần gũi quá, đến nỗi ông thấy khiếp sợ. Ông muốn cầu kinh như thường lệ, vào những giây phút tuyệt vọng, nhưng chẳng có ai để mà cầu nguyện. Có Chúa đâu. Ông nằm, chống khuỷu tay. Và bỗng nhiên ông cảm thấy buồn ngủ đến mức không thể dùng tay đỡ đầu lâu hơn nữa, ông duỗi tay ra, kê dưới đầu và lập tức thiếp đi ngay. NHưng giấc ngủ đó chỉ kéo dài trong khoảnh khắc, ông lập tức bừng tỉnh dậy và bắt đầu nhìn thấy nửa như trong giấc mơ, nửa như trong hồi tưởng.
Và thế là ông nhìn thấy mình hầu như hãy còn là một chú bé ở trong nhà mẹ tại làng quê. Một chiếc xe ngựa đi tới gần nhà và từ trên xe bước xuống là: bác Nhikôlai Xergâyêvích với chòm râu đen rậm, xoè ra như cái quạt, cùng với cô bé Pasenka gầy gò với cặp mắt to hiền lành và bộ mặt bẽn lẽn tội nghiệp. Thế là họ đưa cô bé Pasenka này tới nhập bọn với lũ trẻ con trai. Phải chơi đùa với cô bé, nhưng chán ngắt. Cô ta ngốc nghếch. Rốt cuộc lũ trẻ trêu chọc cô bé, bắt cô ta phải chứng rỏ là cô biết bơi. Cô ta nằm trên sàn và làm động tác trên cạn. Lũ trẻ cười khanh khách và biến cô thành con bé lố bịch. Cô ta thấy rõ như vậy, nên đỏ bừng mặt và trở nên đáng thương, đáng thương đến mức xấu hổ, và không bao giờ có thể quên được nụ cười nhăn nhó hiền lành, nhẫn nhục ấy của cô ta. Và Xerghi nhớ lại lúc gặp cô ta sau đó. Ông đã gặp cô ta rất lâu về sau, trước khi ông trở thành tu sĩ. Cô ta đã lấy một điền chủ nào đó, người này phá tán hết tài sản của cô và đánh đập cô. Cô có hai đứa con: một trai và một gái. Đứa con trai chết lúc còn nhỏ.
Xerghi nhớ lại ông đã trông thấy người đàn bà bất hạnh đó như thế nào. Sau đó ông gặp bà ta ở tu viện, lúc này bà đã goá chồng. Bà vẫn như thế - không thể nói là ngốc ngếch, nhưng vô duyên, tầm thường và đáng thương. Bà đã cùng với con gái và chồng chưa cưới của nó tới thăm tu viện. Họ đã nghèo túng rồi. Sau đó ông nghe nói bà sống đâu như ở một huyện lỵ và bà rất nghèo túng. “Mà tại sao mình nghĩ tới bà ta nhỉ? – ông tự hỏi. Nhưng ông không thể thôi không nghĩ tới bà. – Bà ta ở đâu? Tình cảnh bà ta ra sao? Bà ta vẫn bất hạnh như khi phải nhoai mình trên sàn nhà làm động tác bơi lội chăng? Vì sao mình lại nghĩ tới bà ta? Mình làm sao thế? Phải kết thúc thôi”.
Ông lại cảm thấy khiếp sợ và để thoát ra khỏi ý nghĩ đó, ông lại xoay ra nghĩ về Pasenka.
Ông nằm như thế hồi lâu, suy nghĩ khi thì về cái kết cục không thể tránh được của mình, khi thì về Pasenka. Ông hình dung Pasenla như là một sự cứu rỗi. Sau cùng ông ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ ông thấy một vị thần bay tới với ông và nói: “Con hãy tới chỗ Pasenka và hỏi bà ta xem con cần phải làm gì, tội lỗi của con do đâu và đâu là sự cứu rỗi của con”.
Ông bừng tỉnh dậy và sau khi quyết định rằng đây là sự báo mộng của Chúa, ông cảm thấy vui mừng và quyết tâm làm theo những điều Chúa phán bảo ông trong giấc mơ. Ông biết cái huyện lỵ, nơi bà sinh sống, - huỵên đó ở cách đây khoảng ba trăm véc-xta, - và ông đi tới đó.