ÔNG BA CANG Ở LÀNG PHÚ MỸ.
thaisan 12.11.2006 10:51:29 (permalink)
ÔNG BA CANG Ở LÀNG PHÚ MỸ.
Phan-Vinh

1.-Thời Thực-dân Phong kiến ở làng Phú-Mỹ có một gia đình địa-chủ ông bố hay chữ Hán thuôc hạng thông thái nhất trong làng thời còn trẻ làm Lý-Trưởng, hét ra lửa dân làng ai ai thấy ông cũng khiếp vía. Khi tuổi cao làm chức sắc đứng hàng tiên chỉ. Sinh ba người con, hai gái một trai, phong tục thời xưa trọng nam khinh nữ, hai chị em gái không cho đi học chữ, cho học thêu thùa may vá, công việc đồng áng, nội trợ, Cang là một cậu ấm đẹp trai, được bố mẹ nuông chiều như trứng, nhưng đầu óc quá khờ khạo, thích rong chơi, lười biếng không chịu học hành.
2.- Khi tuổi còn thơ, bố mẹ mướn thày dạy chữ Hán cho cậu tại nhà sáu năm trời, cậu học trước quên sau, chữ trả cho thày, mất công tốn cũa chẵng được tích sự gì. Sau thời Đông du phục quốc của cụ Phan-Sào-Nam chữ Quốc-ngữ có chiều hướng thịnh hành hơn, bố mẹ cậu lại cho cậu đến trường học chữ Quốc- ngữ, cậu đi học liên tục hơn mươi năm mà thi lấy mảnh bằêng yếâu lược cũng chẵng đậu, gia đình sợ mất mặt với làng xóm, ông bố phải chạy chọt lo lót mới thi đỗ được cái bằng yếu lược, cậu học hành thì dở, cái tài ve gái thì đứng số một, độ này tuổi cậu dã trưởng thành, học thua chúng kém bạn, nên mắc cở không chịu đi học nữa, ở nhà đòi bố mẹ cưới vợ, cũng dược nuông chiều cưới cho câu một cô vợ con nhà có ăn hoc đẹp gái thông minh tương xứng thông gia đôi bên gia đình cùng môn đăng hộ đối. Vợ chồng cậu vẫn chung sống với cha mẹ, tính tình thật thà theo phong tục làng quê, còn vợ cậu thì khôn ngoan lanh lẹ biết đảm đang giao tiếp, Một ngày nọ chị Kiểng vợ cậâu nghe bạn bè kể lại rằng: Con nhà giàu có ăn học, đi ra làng xã hội hè đình đám, chỉ biết ăn no rồi ra về thua kém một người nông dân chất phác không được học hành, thật là không biết xấu hổ. Nếu cứ để suốt đời như vậy thì cũng được thôi, có câu tục ngữ người xưa nói rằng :
Nói ít lỗi ít, nói nhiều lỗi nhiều, không nói gì thì không có lỗi.
Ông già cũa anh dạo này cũng yếu hay bệnh tật đau ốm làm biếng đi lại, không thích giao dịch hội hè đình đám nữa, nên anh phải thay thế.
Nhưng ở đời biển lặng cũng có ngày nổi sóng, chị vợ khuyên chồng:
_Chữ nghĩa thì anh đã được cha mẹ cho ăn học ít nhiều, anh cần phãi học ăn, học nói, học gói, học mở cho kịp chúng bạn, để nở mặt mày với gia đình vợ con, làng xã. Anh chồng hứa với vợ:
-Năm nay lể hội đình làng anh sẽ trổ tài ăn nói cho em hài lòng.
Đến ngày hội làng tế tự Thần-linh xong, khi đến lượt được phép ngồi vào bàn tiệc, bạn bè ngồi chung bàn họ ăn nói có văn hoá lễ độ thật vui vẽ. Rêng mình anh từ đầu đến gần cuối tiệc, chỉ biết chăm chú ăn uống, chẳng nghĩ ra được câu chuyện gì để giúp vui cùng bạn bè, nhớ lại lời khuyên cũa vợ anh cảm thấy xấu hổ, lặng lẽ bước ra ngoài cửa suy nghỉ kiếm dề tài để phát ngôn.
Anh nhìn quanh khuôn viên đình làng hồi lâu, trông thấy một khóm tre “trúc” to tướng, anh chợt nghĩ ra câu nói động trời và chết người như sau : Anh trở lại bàn tiệc, làm bạo nói lớn xin làng cho tôi có ý kiến. Làng cho phép, anh nói:
-Tôi nhận thấy bụi tre của làng này to quá, nếu đốn xuống gông cả làng cũng vẫn còn thừa.
Anh vừa dứt lời, cả làng la lên cái anh nầy nói chuyện xui xẻo, làng ta có tội gì mà anh đòi đốn tre gông cả làng chứ?
Các vị bô lão ra lệnh cho trai tráng bắt trói lại đánh một trăm hèo cảnh cáo, phạt vạ một mâm trầu rượu và năm đồng bạc. Nếu không nộp phạt nhanh chóng, sẽ dẫn độ lên cai tổng bỏ tù. Anh nhắn tin về nhà vợ anh lo đủ lể vật đem đến nộp phạt, rồi xin lỗi làng mới cho lãnh chồng về.
Đến nhà vợ la chồng:
-Anh thật là ngớ ngẩn, hết chi chuyện nói mà anh đi nói cái câu động trời như vậy, chị ta la to:
-Chồng ơi là chồng, ngu ơi là ngu. Anh ta nói lại:
-Cũng tại em đó thôi.
Ông bố đang uống rượu nhà trên, nghe hai vợ chồng cãi nhau , đi xuống hỏi cho ra lẽ, nghe con dâu kể lại, ông tức bực chửi môt trận, rồi ứng khẩu thành thơ dạy anh tám câu lục bát:
-Biết thì ăn nói đàng hoàng
Không thì dựa cột đình làng mà nghe
Chớ nên nhìn thấy khóm tre
Nghĩ ra câu chuyện đốn tre gông làng
Vợ con cha mẹ bàng hoàng
Xùm xì to nhỏ xóm làng cười chê

Im lặng ăn uống ra về
Bày trò ăn nói kẻ chê người cười.

Từ đây về sau anh ta bị mất thể diện và uy tín với bà con xóm làng.
                                       oOo
Thời gian lặng lẽ trôi qua đến năm 1945-1946 tình thế thay đổi , kinh tế xuống cấp cửa nhà sa sút, cha mẹ anh đã già yếu đến lúc suy sụp anh chẵng có cái nghề nghiệp gì, con cái nhà nông mà không biết cầm cày cầm cuốc thì làm sao mà sống được. Ở nhà ăn bám cha mẹ vợ con, ra xã hội ăn bám bạn bè, anh đánh hơi nghe tiếng bà con, bạn bè làng xóm, có ai đụng dao đụng thớt làm thịt cầy hoặc thịt trâu già mất sức kéo, mò đến xía vào làm một bụng. Lúc túng quẩn anh trổ tài chôm chỉa sống qua ngày. Có khi xui xẻo bị bà con phác giác bắt quả tang, nhận thấy hoàn cảnh của anh quá khốn đốn nên cũng thông cảm tha cho. Vợ con thì đau ốm liên tục, không có tiền thang thuốc, vợ phải lìa đời khi tuổi còn đang trẻ, mới sinh ba mặt con, sau ngày vợ anh mất, bố mẹ anh hết người nương tựa, buồn rầu đau ốm rồi cũng qua đời hết, bỏ lại một mình anh gà trống nuôi ba đứa con dại, hai đứa bé đói khát bịnh tật cũng theo mẹ về âm phủ, còn lại được đứa con gái đầu lòng sống với anh.
                                     oOo
Sau ngày đình chiến năm 1954 được yên ổn dân chúng hồi cư về làng làm ăn phục hồi kinh tế. Con gái anh cũng lớn lên nhờ được. Dạo này tuổi của anh cũng gần năm mươi. Ông đi theo mụ Hồng góa chồng, mụ nầy rất khỏe mạnh siêng năng, rước về ăn ở với nhau, thế là vợ và con gái đi làm nuôi ông, ông là con người lười biếng có hạng, tuổi trẻ sống nhờ cha mẹ, khi lớn tuổi sống nhờ vợ con.” Câu tục ngữ dân gian thường nói :
-Khi làm chẳng thấy lão đâu,
Khi ăn thì lão đứng đầu tiên khai.
Ông sống vô tích sự, làm ô uế xã hội.
Sau tết Mậu-Thân năm 1968, chiến tranh leo thang ác liệt, con gái ông đã có chồng, cô thoát ly theo chồng vào mật khu chống Mỹ bị bom đạn hy sinh cả chồng lẫn vợ.
Mụ Hồng vợ chắp nối của ông dạo nầy già yếu bệnh hoạn, cửa nhà cũng tan nát vì chiến tranh, không làm ăn gì được, chồng thi chiêu, buồn rầu đau ốm cũng qua đời. Bỏ lại cho ông hai người con khôn lớn nhờ được, năm 1975 miền nam được giải phóng, thống nhất đất nước. Người con trai lấy vợ ra riêng, còn lại cô con gái lỡ thời ở với ông. Hồi cư về làng che một cái chòi tranh cha con trú ngụ.
Những ngày mới giải phóng, kinh tế nói chung rất khó khăn. Ruộng đất của ông già để lại xung vào làm ăn tập đoàn, tập thể. Ông Ba Cang lúc này đã già yếu, một mình cô con gái đi làm nghề nông ăn công tính điểm làm sao nuôi đủ hai khẩu, cái khó khăn trước mắt, con gái ông còn đèo bồng, không chồng mà chửa, rồi sinh con, ôm con dại.
                                      oOo
Thì thử hỏi lấy gì mà sống. Bà con làng xóm trông thấy gia đình ông thật là thê thảm, lúc này cha con ông sống nhờ vào cứu trợ của bà con đoàn thể bữa cơm, bữa cháo qua ngày.
Thời gian mười năm, tính từ ngày giải phóng, đất nước được đổi mới dân làng ăn nên làm ra, già trẻ gia đình nào cũng sửa sang nhà cửa, kẻ có tiền nhiều xây dựng khang trang, người còn khó khăn họ cũng sửa chữa tương đối, quê hương miền Trung thường mưa bão khắc nghiệt quý vị độc giả cũng thường nghe. Cha con ông chỉ ở túp lều xiêu vẹo dột nát đến mùa mưa bão trông thật là thảm thương. Thuộc vào diện xóa đói giảm nghèo ăn bữa hôm, thiếu bữa mai, công đâu, tiền đâu mà có vật liệu sửa lại nhà cửa.
Khi có chính sách nhà nước Xã-Hội Chủ-Nghĩa tặng nhà tình thương đợt đầu tiên cho hộ xóa đói giảm nghèo không có khả năng làm nhà.
Xã cấp cho ông mấy chục tấm tôn và một số xi măng, ông đi nhờ anh em bà con đúc cho ông một nếp cột xi măng cốt sắt, ông cũng đi nhờ anh em lối xóm xúm lại dựng giúp ông cái nhà mới, cọt xi măng kèo đòn tay bằng gỗ, trên lợp tôn, vây chung quanh vách bằng tranh lá kín đáo được hơn vài chục mét vuông, cha con ông có một cái nhà ở khỏi bị mưa dột, tạm ổn cho cha con, ông cháu sống qua ngày.
Năm 2003, đất nước trên đà phát triển nhà nước mở mang đường xá giao thông, dùng máy móc hiện đại, ông Ba Cang năm nay đã quá già, mắt mờ tai điếc nhưng bản chất còn hiếu kỳ, thấy chiếc xe hủ lô đang làm đường quốc lộ 1A đậu nghỉ giải lao tài xế vẫn ngồi trên xe uống nước, ông bước vào bánh xe sau để sờ mó, anh tài xế chẳng nhìn thấy, de xe lui đằng đường, đằng nhằm ông dẹp lép như chiếc bánh tráng, thế là kết liễu cuọâc đời ông Ba Cang.
Ông sống thượng thọ 82 tuổi.
Tai nạn này công bằng mà nói, bác tài xế xe hủ lô chẵng có lỗi, mà lỗi là do người sờ xe gây ra.
Nhưng vì lòng nhân dạo, thương ông cụ già chết thê thảm không toàn thây.
Chủ thầu cũng thương lượng với gia đình nạn nhân giúp đỡ một cỗ quan tài, một số ngân khoản, để hiếu chủ lo ma chay tống táng.
Ông là con trai độc nhất được sinh ra trong gia đinh địa chủ giàu có, cường hào, thời thực dân phong kiến, được cha mẹ nuông chiều, muốn gì dược nấy, thuở còn bé chẳng chịu học hành, rong chơi lêu lỏng, đến tuổi mới lớn, thì đam mê mèo chuột, gái trai, biết yêu đương quá sớm, bị chi phối đầu óc làm sao mà tiếp thu chữ nghĩa được nữa.
Cuộc đời ông được sung sướng nhất từ lúc mẹ ông sinh ra, cho đến ngày được cha mẹ cưới vợ cho ông, thời gian này khoảng 18 hay là 19 năm mà thôi.
Đén lúc hết thời hưng thịnh của ông bố. Từ đó về sau, Ông ta toàn gặp những điều bất hạnh như tác giả đã tường thuật trong thân bài trên đây.
3.-Con người khi có tiếng khóc chào dời còn tệ hơn con vật, loài vật khi được sinh ra đã có tất cả môi trường để sống.
Ví dụ : Con cá có nước đầy vi khuẩn, con chim có rừng đầy côn trùng sâu bọ, con trâu con bò thì có đồng cỏ để ăn v.v.
Con người chào đời chẳng có cái gì ? Chỉ hai bàn tay trắng mà thôi.
Khi còn thơ ấu nhờ cha mẹ nuôi dưỡng cho ăn, cho bú, lên ba, lên bốn tuổi dạy dỗ, đưa vào trường lớp cho học hành, ước mong sau này con của mình được thành đạt. Vào đời có chút vốn liếng làm ăn, khôn ngoan biết ăn ở, đối nhân xử thế, làm người cho ra người.
Có bằng cấp văn hóa, nghề nghiệp cao cấp, thì làm sao mà nghèo đói nổi. Từ ngàn xưa cho đến nay, những người quyền cao chức trọng, giàu sang phú quý lâu bền, lưu truyền nhiều thế hệ cho con cháu, nhờ chịu khó học tập lao động rèn luyện thân thể trau dồi đạo đức, có kiến thức văn hóa cao siêu và uy tín với gia đình xã hội mới được như vây.
Thế hệ bây giờ đang sống trong thế kỷ 21, đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất 31 năm nay, đang trên đà phát triển mọi mặt, để hội nhập vào thương mại thế giới, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Con người ước muốn giàu sang danh vọng, được vui tươi, sống hạnh phúc.
Thế hệ trẻ bây giờ nên cố gắng chăm chỉ học hành đỗ đạt thành tài, sau này mới mong sung sướng được. Ở trên đời nầy mọi cái đều phải trả giá bằng mồ hôi nước mắt, nếu cần phải hy sinh xương máu, mới có giá trị tồn tại lâu bền.
Nếu ai đó vô ý thức, quen lối sống ăn bám gia đình xã hội, làm những việc bất lương bất chính, phải mau mau hối cải, làm lại cuộc đời cũng không muộn, con người đủ sức khỏe có thể sống tới trăm năm.
Sống đời thừa vô tích sự, một thứ cặn bã gánh nặng cho gia đình, xã hội, như Ba Cang, khi sống cũng như lúc chết, thì chẳng nên sống làm gì cho đến thượng thọ.
Người ta sinh một lần rồi chết cũng một lần. Có câu tục ngữ nói rằng :
-Hổ chết dể da, người ta chết để tiếng”. Những kẻ dốt nát tiểu nhân, sống hành động bất chính, khi chết rồi còn để lại tiếng xấu xa.
Người có chí học hành cao siêu, khôn ngoan đúng mực, sống cứu nhân độ thế, khi đến thời kỳ cõi Tiên ghi tên vào sổ, được thăng Thiên, hoặc tiêu diêu nơi miền Cực-Lạc, hay là về với Ông Bà, đều được ân đền lập lăng miếu để thờ, rạng danh cho gia tộc, tiếng thơm lưu truyền đến nghìn năm muôn thuở.
Thế hệ con cháu sau này nên lấy đó làm gương.

                             HẾT
(Viết xong bản thảo ngày 05 tháng 11 năm 2006.)
Phan-Vinh

1.-Thời Thực-dân Phong kiến ở làng Phú-Mỹ có một gia đình địa-chủ ông bố hay chữ Hán thuôc hạng thông thái nhất trong làng thời còn trẻ làm Lý-Trưởng, hét ra lửa dân làng ai ai thấy ông cũng khiếp vía. Khi tuổi cao làm chức sắc đứng hàng tiên chỉ. Sinh ba người con, hai gái một trai, phong tục thời xưa trọng nam khinh nữ, hai chị em gái không cho đi học chữ, cho học thêu thùa may vá, công việc đồng áng, nội trợ, Cang là một cậu ấm đẹp trai, được bố mẹ nuông chiều như trứng, nhưng đầu óc quá khờ khạo, thích rong chơi, lười biếng không chịu học hành.
2.- Khi tuổi còn thơ, bố mẹ mướn thày dạy chữ Hán cho cậu tại nhà sáu năm trời, cậu học trước quên sau, chữ trả cho thày, mất công tốn cũa chẵng được tích sự gì. Sau thời Đông du phục quốc của cụ Phan-Sào-Nam chữ Quốc-ngữ có chiều hướng thịnh hành hơn, bố mẹ cậu lại cho cậu đến trường học chữ Quốc- ngữ, cậu đi học liên tục hơn mươi năm mà thi lấy mảnh bằêng yếâu lược cũng chẵng đậu, gia đình sợ mất mặt với làng xóm, ông bố phải chạy chọt lo lót mới thi đỗ được cái bằng yếu lược, cậu học hành thì dở, cái tài ve gái thì đứng số một, độ này tuổi cậu dã trưởng thành, học thua chúng kém bạn, nên mắc cở không chịu đi học nữa, ở nhà đòi bố mẹ cưới vợ, cũng dược nuông chiều cưới cho câu một cô vợ con nhà có ăn hoc đẹp gái thông minh tương xứng thông gia đôi bên gia đình cùng môn đăng hộ đối. Vợ chồng cậu vẫn chung sống với cha mẹ, tính tình thật thà theo phong tục làng quê, còn vợ cậu thì khôn ngoan lanh lẹ biết đảm đang giao tiếp, Một ngày nọ chị Kiểng vợ cậâu nghe bạn bè kể lại rằng: Con nhà giàu có ăn học, đi ra làng xã hội hè đình đám, chỉ biết ăn no rồi ra về thua kém một người nông dân chất phác không được học hành, thật là không biết xấu hổ. Nếu cứ để suốt đời như vậy thì cũng được thôi, có câu tục ngữ người xưa nói rằng :
Nói ít lỗi ít, nói nhiều lỗi nhiều, không nói gì thì không có lỗi.
Ông già cũa anh dạo này cũng yếu hay bệnh tật đau ốm làm biếng đi lại, không thích giao dịch hộâi hè đình đám nữa, nên anh phải thay thế.
Nhưng ở đời biển lặng cũng có ngày nổi sóng, chị vợ khuyên chồng:
_Chữ nghĩa thì anh đã được cha mẹ cho ăn học ít nhiều, anh cần phãi học ăn, học nói, học gói, học mở cho kịp chúng bạn, để nở mặt mày với gia đình vợ con, làng xã. Anh chồng hứa với vợ:
-Năm nay lể hội đình làng anh sẽ trổ tài ăn nói cho em hài lòng.
Đến ngày hội làng tế tự Thần-linh xong, khi đến lượt được phép ngồi vào bàn tiệc, bạn bè ngồi chung bàn họ ăn nói có văn hoá lễ độ thật vui vẽ. Rêng mình anh từ đầu đến gần cuối tiệc, chỉ biết chăm chú ăn uống, chẳng nghĩ ra được câu chuyện gì để giúp vui cùng bạn bè, nhớ lại lời khuyên cũa vợ anh cảm thấy xấu hổ, lặng lẽ bước ra ngoài cửa suy nghỉ kiếm dề tài để phát ngôn.
Anh nhìn quanh khuôn viên đình làng hồi lâu, trông thấy một khóm tre “trúc” to tướng, anh chợt nghĩ ra câu nói động trời và chết người như sau : Anh trở lại bàn tiệc, làm bạo nói lớn xin làng cho tôi có ý kiến. Làng cho phép, anh nói:
-Tôi nhận thấy bụi tre của làng này to quá, nếu đốn xuống gông cả làng cũng vẫn còn thừa.
Anh vừa dứt lời, cả làng la lên cái anh nầy nói chuyện xui xẻo, làng ta có tội gì mà anh đòi đốn tre gông cả làng chứ?
Các vị bô lão ra lệnh cho trai tráng bắt trói lại đánh mộât trăm hèo cảnh cáo, phạt vạ một mâm trầu rượu và năm đồng bạc. Nếu không nộâp phạt nhanh chóng, sẽ dẫn độ lên cai tổng bỏ tù. Anh nhắn tin về nhà vợ anh lo đủ lể vật đem đến nộp phạt, rồi xin lỗi làng mới cho lãnh chồng về.
Đến nhà vợ la chồng:
-Anh thật là ngớ ngẩn, hết chi chuyện nói mà anh đi nói cái câu động trời như vậy, chị ta la to:
-Chồng ơi là chồng, ngu ơi là ngu. Anh ta nói lại:
-Cũng tại em đó thôi.
Ông bố đang uống rượu nhà trên, nghe hai vợ chồng cãi nhau , đi xuống hỏi cho ra lẽ, nghe con dâu kể lại, ông tức bực chửi môt trận, rồi ứng khẩu thành thơ dạy anh tám câu lục bát:
-Biết thì ăn nói đàng hoàng
Không thì dựa cột đình làng mà nghe
Chớ nên nhìn thấy khóm tre
Nghĩ ra câu chuyện đốn tre gông làng
Vợ con cha mẹ bàng hoàng
Xùm xì to nhỏ xóm làng cười chê
Im lặng ăn uống ra về
Bày trò ăn nói kẻ chê người cười.
Từ đây về sau anh ta bị mất thể diện và uy tín với bà con xóm làng.
                                  oOo
Thời gian lặng lẽ trôi qua đến năm 1945-1946 tình thế thay đổi , kinh tế xuống cấp cửa nhà sa sút, cha mẹ anh đã già yếu đến lúc suy sụp anh chẵng có cái nghề nghiệp gì, con cái nhà nông mà không biết cầm cày cầm cuốc thì làm sao mà sống được. Ở nhà ăn bám cha mẹ vợ con, ra xã hội ăn bám bạn bè, anh đánh hơi nghe tiếng bà con, bạn bè làng xóm, có ai đụng dao đụng thớt làm thịt cầy hoặc thịt trâu già mất sức kéo, mò đến xía vào làm một bụng. Lúc túng quẩn anh trổ tài chôm chỉa sống qua ngày. Có khi xui xẻo bị bà con phác giác bắt quả tang, nhận thấy hoàn cảnh của anh quá khốn đốn nên cũng thông cảm tha cho. Vợ con thì đau ốm liên tục, không có tiền thang thuốc, vợ phải lìa đời khi tuổi còn đang trẻ, mới sinh ba mặt con, sau ngày vợ anh mất, bố mẹ anh hết người nương tựa, buồn rầu đau ốm rồi cũng qua đời hết, bỏ lại một mình anh gà trống nuôi ba đứa con dại, hai đứa bé đói khát bịnh tật cũng theo mẹ về âm phủ, còn lại được đứa con gái đầu lòng sống với anh.
                                     oOo
Sau ngày đình chiến năm 1954 được yên ổn dân chúng hồi cư về làng làm ăn phục hồi kinh tế. Con gái anh cũng lớn lên nhờ được. Dạo này tuổi của anh cũng gần năm mươi. Ông đi theo mụ Hồng góa chồng, mụ nầy rất khỏe mạnh siêng năng, rước về ăn ở với nhau, thế là vợ và con gái đi làm nuôi ông, ông là con người lười biếng có hạng, tuổi trẻ sống nhờ cha mẹ, khi lớn tuổi sống nhờ vợ con.” Câu tục ngữ dân gian thường nói :
-Khi làm chẳng thấy lão đâu,
Khi ăn thì lão đứng đầu tiên khai.
Ông sống vô tích sự, làm ô uế xã hội.
Sau tết Mậu-Thân năm 1968, chiến tranh leo thang ác liệt, con gái ông đã có chồng, cô thoát ly theo chồng vào mật khu chống Mỹ bị bom đạn hy sinh cả chồng lẫn vợ.
Mụ Hồng vợ chắp nối của ông dạo nầy già yếu bệnh hoạn, cửa nhà cũng tan nát vì chiến tranh, không làm ăn gì được, chồng thi chiêu, buồn rầu đau ốm cũng qua đời. Bỏ lại cho ông hai người con khôn lớn nhờ được, năm 1975 miền nam được giải phóng, thống nhất đất nước. Người con trai lấy vợ ra riêng, còn lại cô con gái lỡ thời ở với ông. Hồi cư về làng che một cái chòi tranh cha con trú ngụ.
Những ngày mới giải phóng, kinh tế nói chung rất khó khăn. Ruộng đất của ông già để lại xung vào làm ăn tập đoàn, tập thể. Ông Ba Cang lúc này đã già yếu, một mình cô con gái đi làm nghề nông ăn công tính điểm làm sao nuôi đủ hai khẩu, cái khó khăn trước mắt, con gái ông còn đèo bồng, không chồâng mà chửa, rồi sinh con, ôm con dại.
                                            oOo
Thì thử hỏi lấy gì mà sống. Bà con làng xóm trông thấy gia đình ông thật là thê thảm, lúc này cha con ông sống nhờ vào cứu trợ của bà con đoàn thể bữa cơm, bữa cháo qua ngày.
Thời gian mười năm, tính từ ngày giải phóng, đất nước được đổi mới dân làng ăn nên làm ra, già trẻ gia đình nào cũng sửa sang nhà cửa, kẻ có tiền nhiều xây dựng khang trang, người còn khó khăn họ cũng sửa chữa tương đối, quê hương miền Trung thường mưa bão khắc nghiệt quý vị độc giả cũng thường nghe. Cha con ông chỉ ở túp lều xiêu vẹo dột nát đến mùa mưa bão trông thật là thảm thương. Thuộc vào diện xóa dói giảm nghèo ăn bữa hôm, thiếu bữa mai, công đâu, tiền đâu mà có vật liệu sửa lại nhà cửa.
Khi có chính sách nhà nước Xã-Hội Chủ-Nghĩa tặng nhà tình thương đợt đầu tiên cho hộ xóa đói giảm nghèo không có khả năng làm nhà.
Xã cấp cho ông mấy chục tấm tôn và một số xi măng, ông đi nhờ anh em bà con đúc cho ông một nếp cột xi măng cốt sắt, ông cũng đi nhờ anh em lối xóm xúm lại dựng giúp ông cái nhà mới, cọât xi măng kèo đòn tay bằng gỗ, trên lợp tôn, vây chung quanh vách bằng tranh lá kín đáo được hơn vài chục mét vuông, cha con ông có một cái nhà ở khỏi bị mưa dột, tạm ổn cho cha con, ông cháu sốâng qua ngày.
Năm 2003, đất nước trên đà phát triển nhà nước mở mang đường xá giao thông, dùng máy móc hiện đại, ông Ba Cang năm nay dã quá già, mắt mờ tai điếc nhưng bản chất còn hiếu kỳ, thấy chiếc xe hủ lô đang làm đường quốâc lộ 1A đậu nghỉ giải lao tài xế vẫn ngồi trên xe uống nước, ông bước vào bánh xe sau đêû sờ mó, anh tài xế chẳng nhìn thấy, de xe lui đằêng đường, đằng nhằm ông dẹp lép như chiếc bánh tráng, thế là kết liễu cuộc đời ông Ba Cang.
Ông sống thượng thọ 82 tuổi.
Tai nạn này công bằng mà nói, bác tài xế xe hủ lô chẵêng có lỗi, mà lỗi là do người sờ xe gây ra.
Nhưng vì lòng nhân dạo, thương ông cụ già chết thê thảm không toàn thây.
Chủ thầu cũng thương lượng với gia đình nạn nhân giúp đỡ một cỗ quan tài, một số ngân khoản, để hiếu chủ lo ma chay tống táng.
Ông là con trai độc nhất được sinh ra trong gia đinh địa chủ giàu có, cường hào, thời thực dân phong kiến, được cha mẹ nuông chiều, muốn gì dược nấy, thuở còn bé chẳng chịu học hành, rong chơi lêu lỏng, đến tuổi mới lớn, thì đam mê mèo chuột, gái trai, biếât yêu đương quá sớm, bị chi phối đầu óc làm sao mà tiếp thu chữ nghĩa được nữa.
Cuộc đời ông được sung sướng nhất từ lúc mẹ ông sinh ra, cho đến ngày được cha mẹ cưới vợ cho ông, thời gian này khoảng 18 hay là 19 năm mà thôi.
Đén lúc hết thời hưng thịnh của ông bố. Từ đó về sau, Ông ta toàn gặp những điều bất hạnh như tác giả đã tường thuật trong thân bài trên đây.
3.-Con người khi có tiếng khóc chào dời còn tệ hơn con vật, loài vật khi được sinh ra đã có tất cả môi trường để sống.
Ví dụ : Con cá có nước đầy vi khuẩn, con chim có rừng đầy côn trùng sâu bọ, con trâu con bò thì có đồng cỏ để ăn v.v.
Con người chào đời chẳng có cái gì ? Chỉ hai bàn tay trắêng mà thôi.
Khi còn thơ ấu nhờ cha mẹ nuôi dưỡng cho ăn, cho bú, lên ba, lên bốn tuổi dạy dỗ, đưa vào trường lớp cho học hành, ước mong sau này con của mình được thành dạt. Vào đời có chút vốn liếng làm ăn, khôn ngoan biết ăn ở, đối nhân xử thế, làm người cho ra người.
Có bằng cấp văn hóa, nghề nghiệp cao cấp, thì làm sao mà nghèo đói nổi. Từ ngàn xưa cho đến nay, những người quyền cao chức trọng, giàu sang phú quý lâu bền, lưu truyền nhiềâu thế hệ cho con cháu, nhờ chịu khó học tậâp lao động rèn luyện thân thể trau dồi đạo đúc, có kiếân thưc văn hóa cao siêu và uy tín với gia đình xã hội mới được như vây.
Thế hệ bây giờ đang sốâng trong thế kỷ 21, đất nước được hòa bình, đôïc lập, thống nhất 31 năm nay, đang trên đà phát triển mọi mặt, để hội nhạâp vào thương mại thế giới, tiếân lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Con người ước muốn giàu sang danh vọng, được vui tươi, sống hạnh phúc.
Thế hệ trẻ bây giờ nên cố gắng chăm chỉ học hành đỗ đạt thành tài, sau này mới mong sung sướng được. Ở trên đời nầy mọi cái đều phải trả giá bằêng mồ hôi nước mắt, nếu cầân phải hy sinh xương máu, mới có giá trị tồn tại lâu bền.
Nếu ai đó vô ý thức, quen lối sốâng ăn bám gia đình xã hội, làm những việc bất lương bất chính, phải mau mau hối cải, làm lại cuộc đời cũng không muộn, con người đủù sức khỏe có thể sống tới trăm năm.
Sống đời thừa vô tích sự, một thứ cặn bã gánh nặêng cho gia đình, xã hội, như Ba Cang, khi sống cũng như lúc chết, thì chẳng nên sống làm gì cho đếân thượng thọ.
Người ta sinh một lần rồi chếât cũng một lần. Có câu tục ngữ nói rằng :
-Hổ chết dể da, người ta chết để tiếng”. Những kẻ dốt nát tiểu nhân, sống hành động bất chính, khi chết rồi còn để lại tiếng xấu xa.
Người có chí học hành cao siêu, khôn ngoan đúng mực, sống cứu nhân độ thế, khi đến thời kỳ cõi Tiên ghi tên vào sổ, được thăng Thiên, hoặc tiêu diêu nơi miền Cực-Lạc, hay là về với Ông Bà, đều được ân đền lập lăng miếu để thờ, rạng danh cho gia tộc, tiếâng thơm lưu truyền đến nghìn năm muôn thuở.
Thế hệ con cháu sau này nên lấy đó làm gương.

HẾT
(Viết xong bản thảo ngày 05 tháng 11 năm 2006.)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.12.2006 19:39:24 bởi Ct.Ly >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9