Ernest Hemingway [1899-1961]
sóng trăng 13.11.2006 11:33:16 (permalink)
.




Ernest Miller Hemingway (1899–1961)
là nhà văn Mỹ nổi tiếng,
đoạt giải Nobel văn chương năm 1954.



      Writing, at its best, is a lonely life. Organizations for writers palliate the writer's loneliness but I doubt if they improve his writing. He grows in public stature as he sheds his loneliness and often his work deteriorates. For he does his work alone and if he is a good enough writer he must face eternity, or the lack of it, each day.

      For a true writer each book should be a new beginning where he tries again for something that is beyond attainment. He should always try for something that has never been done or that others have tried and failed. Then sometimes, with great luck, he will succeed
      .




        Sinh: 21 tháng 7 năm 1899
        tại Oak Park, Illinois
        Mất: 2 tháng 7, 1961
        tại Ketchum, Idaho
        Nghề: nhà văn, nhà báo
        Trường phái: The Lost Generation
        Tác phẩm chính: Chuông nguyện hồn ai
        Ảnh hưởng tới: Gertrude Stein, Pío Baroja, Sherwood Anderson, Theodore Dreiser
        Ảnh hưởng bởi: Jack Kerouac, J.D. Salinger, Hunter S. Thompson, Bret Easton Ellis, Chuck Palahniuk, Douglas Coupland, Charles Bukowski



Ernest Miller Hemingway là một tiểu thuyết gia, nhà báo, và một nhà văn nổi tiếng về truyện ngắn của Hoa Kỳ.

Văn phong của ông nổi bật với cách viết cô đọng, nhiều ẩn dụ, và đã ảnh hướng rất lớn trong sự phát triển lối viết truyện giả tưởng của thế ký 20.

Nhân vật chính trong chuyện Hemingway thường là những anh hùng có khả năng khắc kỷ rất cao - được xem như phóng ảnh của chính ông – “đấng trượng phu” luôn cư xử đẹp trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Đa số tác phẩm của ông đều được tôn vào bậc “Kinh điển” của Văn học Hoa Kỳ.

Hemingway, biệt hiệu “Papa”, là một phần tử của những kẻ lưu vong thập niên 1920 trong cộng đồng Hoa Kỳ tại Paris, như được diễn tả trong hồi ký “A Moveable Feast” của ông, và được xem là thuộc về “the Lost Generation” (thế hệ lạc lõng), một cái tên ông ưa chuộng. Ông sống một cuộc đời sóng gió, lập gia đình bốn lần, và có nhiều chuyện tình lãng mạn.

Năm 1953, tác phẩm “Ngư Ông và Biển cả” (The Old Man and The Sea) của Hemingway được giải thưởng Pulitzer Prize .

Năm 1954, Hemingway được trao tặng giải Nobel văn học, tuy ông tuyên bố rằng ông sẽ vui hơn nếu giải này được trao cho nhà văn nữ kiều diễm Isak Dinesen, (Karen Blixen, nhà văn Đan Mạch, viết “Out of Africa”).

Năm 1961, Hemingway tự tử bằng súng, tương tự như cha ruột ông đã làm.

Thời thơ ấu và kinh nghiệm viết:

Ernest Hemingway sinh ngày 21 tháng 07 năm 1899 tại Oak Park, Illinois, Hoa Kỳ, ngoại ô Chicago. Oak Park trong thời ấy chính là Cicero, Illinois. Hemingway là con trai đầu và là con thứ hai trong sáu anh em của Bác Sĩ Clarence Edmonds và Grace Hall Hemingway. Cha ông, "bác sĩ Ed", là người đỡ đầu khi ông sinh ra, và vui mừng thổi kèn trước hiên nhà để báo cho hàng xóm biết mình vừa có một đứa con trai.

Mẹ của ông lại mong muốn có một cặp song sinh, và cố tình gọi ông là Ernestine, cũng như cho ông mặc quần áo của bé gái, với ý tưởng bà đã sinh ông cùng lúc với Marceline, người chị gái hơn Ernest 18 tháng. Sau này, trong nhiều tác phẩm của ông có mang dấu ấn của sự rối loạn giới tính và khủng hoảng quan hệ nam nữ giữa các cặp nhân tình, (như trong “Hills Like White Elephants), trong sự kết hợp của hôn nhân (“Now I Lay Me”), và trong nhiều sự kết hợp giữa nam nữ (“The Sun Also Rises”); thêm vào đó, nhiều tác phẩm xuất bản sau khi ông đã qua đời cùng cho thấy cách đổi xử không phân biệt rõ rệt giữa hai giới tính.

Tuy Mẹ ông rất thích hát và mong ông yêu âm nhạc, Hemingway đã bắt chước bố ông yêu thích thiên nhiên, săn bắn, câu cá, trong các cánh rừng và sông hồ miền Bắc Michigan. Gia đình ông có một căn nhà tại Walloon Lake và thường đi nghỉ hè tại đây. Thời thơ ấu này gieo cho Hemingway một đam mê thám hiểm thiên nhiên và sống tại các vùng hoang vu hẻo lánh.

Hemingway theo học trường Oak Park và River Forest High School từ 1913 đến 1917. Ông tỏ ra xuất sắc về cả học lực lẫn thể lực. Ông chơi đấu quyền Anh, chơi football, và tỏ ra có biệt tài về Anh văn. Kinh nghiệm viết văn đầu đời của ông là cho tờ Trapeze và Tabula, hai tờ báo học trò của nhà trường, vào năm lớp 11 (đệ nhị) và trở thành Chủ Bút vào năm lớp 12 (đệ nhất).

Hemingway không học lên đại học sau khi tốt nghiệp trung học. Thay vào đó, năm 18, ông bắt đầu hành nghề phóng viên cho tờ Kansas City Star (1917). Tuy chỉ làm việc cho tờ báo này vỏn vẹn 6 tháng (17/10/1917 – 30/4/1918), ông đã nhập tâm phong cách viết cho tờ Star và đặc điểm này trở thành văn cách của ông: “Viết câu ngắn. Viết các đoạn ngắn. Dùng chữ sinh động. Hãy tích cực, tránh tiêu cực.”

Thế Chiến I


Hemingway bỏ nghề phóng viên sau vài tháng, và trái với ý muốn của cha ông, Ernest tình nguyện gia nhập quân đội Hoa Kỳ để lao vào hành động trong Thế Chiến I . Ông bị từ chối vì vấn đề sức khỏe do mắt kém, do đó chuyển sang gia nhập Hội Hồng Thập Tự, nhóm cứu thương. Trên đường ra tiền tuyến tại Ý, ông dừng ở Paris, lúc ấy đang bị quân Đức pháo kích tơi bời. Thay vì ở yên chỗ an toàn, Hemingway luôn tìm cách lại gần các nơi có giao chiến.

Chẳng bao lâu sau khi đến mặt trận tại Ý, ông chứng kiến sự tàn nhẫn của chiến tranh: ngày đầu tiên trên chiến trường, một xưởng đạn tại Milan phát nổ. Hemingway phải nhặt từng phần xác người vương vãi, đa số là của các phụ nữ làm việc tại đây. Lần đầu tiên trực diện với cái chết tàn bạo làm Hemingway rúng động. Những người lính ông tiếp xúc sau này không làm giảm sự kinh hoàng, mà trái lại, một người – Eric Dorman Smith, đã đọc cho ông một dòng của Shakespear mà sau này Hemingway mang vào truyện ngắn của ông trong “African”: “By my troth, I care not; a man can die but once; we owe God a death … and let it go which way it will, he that dies this year is quit for the next.”

Tại mặt trận nước Ý vào ngày 8 tháng 7, 1918, Hemingway bị thương vì mảnh đạn găm vào chân ông và trúng một loạt đạn khác từ súng máy. Sau này ông được chính quyền Ý ban thưởng Huy chương Bạc vì tuy bị thương, ông vẫn cố gắng kéo một người lính gốc Ý khác đến nơi an toàn. Ông sống sót nhờ đã biết tự cầm máu bằng cách dí các mẩu thuốc lá cháy dở vào vết thương.

Sau kinh nghiệm sống chết này, Hemingway tĩnh dưỡng tại nhà thương Milan của Hội Hồng Thập Tự, nơi ông gặp Agnes von Kurowsky đến từ Hoa Thịnh Đốn, một trong 18 nữ y tá chăm sóc bệnh nhân tại đây. Hemingway yêu Agnes, tuy Cô lớn hơn ông 6 tuổi, nhưng tình cảm giữa hai người bị cắt đứt khi ông trở về Hoa Kỳ, và Cô lại yêu một sĩ quan người Ý, điều này đã tạo ra một vết thương sâu đậm trong lòng ông. Kinh nghiệm sống trong giai đoạn này tạo hứng cho tác phẩm “A Farewell to Arms” của Hemingway.

Ảnh hưởng của Thế Chiến I lên văn chương Hemingway


Những tác phẩm đầu tay:

Sau thế chiến, Hemingway trở về Oak Park. Vì gặp nhiều sự cấm đoán tại Hoa Kỳ, năm 1920 ông nhận lời làm việt cho tờ Toronto Star, tại Toronto Ontaria. Ông làm biên tập viên, phóng viên ngoại quốc, và cũng viết tự do. Tại Toronto Hemingway quen với Morley Callaghan, phóng viên của tờ Star. Callaghan đã bắt đầu viết truyện ngắn và cho Hemingway xem. Heminway khen là truyện viết khá. Callaghan và Hemingway say này gặp lại nhau tại Paris.

Trong thời gian ngắn từ 1920 đến 1921, Ernest làm việc cho một tờ báo nhỏ và sống gần phía Bắc Chicago. Năm 1921, Hemingway lấy người vợ đầu tiên, Hadley Richardson. Tháng chín, ông dọn nhà vào một khu chung cư chật chội ở 1239 North Dearborn trong khu tồi tàn của Chicago. Ngày nay khu nhà này vẫn còn với tấm bảng gắn phía trước “Căn hộ của Hemingway.” Hadley cho là nhà tối ám và buồn thảm quá, do đó, gia đình Hemingway lại xuất ngoại lần nữa. Tháng 12 năm 1921, Hemingway rời Chicago và Oak Park vĩnh viễn.

Theo lời khuyên của Sherwood Anderson, họ định cư tại Paris, nơi Hemingway nhận theo dõi và viết về chiến tranh Greco – Turkish cho tờ Star. Tại Paris, Anderson giới thiệu Hemingway với Gertrude Stein (một văn sĩ Hoa Kỳ sống tại Pháp, góp công trong việc phát triển một hướng mới cho Văn học nghệ thuật) . Bà trớ thành người hướng dẫn ông và giới thiệu ông với “Phong Trào Đổi Mới của Người Ba Lê”, rồi tiếp đến là sự tiếp cập với Khu vực Montparnasse Quarter, bắt đầu cho nhóm người Mỹ hải ngoại với tên “The Lost Generation”, một cái tên trở thành thông dụng vì được Hemingway dùng trong lời tựa cho tác phẩm “The Sun Also Rises” và hồi ký “A Moveable Feast của ông.

Một người hướng dẫn khác của Hemingway là Ezra Pound, người sáng lập “Imagism” (chủ nghĩa tượng hình ?) Sau này, khi nhắc đến nhóm trí thức có tư tưởng rất khai phóng này, Hemingway nói, “Ezra thường đúng phân nửa, và khi anh ta sai, thì anh ta sai ghê gớm đến nỗi không ai còn nghi ngờ gì nữa. Gertrude thì luôn luôn đúng.” Cả nhóm thường hội họp tại tiệm sách Sylvia Beach, Shakespeare & Co, số 12 Rue de l’Odéon. Sau việc xuất bản năm 1922 và khi Hoa Kỳ cấm sách của James Joyce, tác phẩm Ulysses, Hemingway nhờ các bạn ở Toronto chuyển lén sách vào Hoa Kỳ. Tác phẩm đầu tay của Hemingway, “Three Stories and Ten Poems” (1923) do Robert McAlmon xuất bản tại Paris. Cùng năm ấy, trong chuyến về Toronto ngắn ngủi, con trai đầu lòng của Hemingway ra đời. Hemingway xin Gertrude Stein làm Mẹ Đỡ Đầu cho con trai John của ông. Bận bịu gia đình, ông đâm chán làm việc cho tờ Toronto Star và từ chứa vào ngày 01 tháng giêng, 1924.

Heminway ra mắt giới văn học Hoa Kỳ với sự xuất bản tập truyện ngắn “In Our Time” (1925). Đây là một tác phẩm quan trọng cho Hemingway, xác định với ông rằng phong cách viết rất cô đọng của ông được chấp nhận bởi giới văn học. “Big Two-Hearted River” là truyện nổi tiếng nhất trong tập tác phẩm này.

Tháng 4, 1925, hai tuần sau khi xuất bản “The Great Gatsby”, Hemingway gặp F. Scott Fitzgerald tại Quán Dingo Bar. Fitzgerald và Hemingway vốn là bạn thân, vẫn chè chén tâm tình cùng nhau. Họ thường xuyên trao đổi bản thảo, và Fitzgerald rất cố gắng giúp Hemingway trong nghiệp văn chương, xuất bản tuyển tập truyện ngắn đầu tay, tuy sau này mối quan hệ nguội dần và trở thành sự ganh đua. Vợ Fitzgerald, Zelda, lại rất ghét Hemingway ngay từ phút đầu. Bà ra mặt gọi ông là “đồ rởm”, “dỏm như tấm ngân phiếu giả”, và cho rằng nét đàn ông tính của ông chỉ là bề mặt, bà rất khó chịu vì tin chắc Hemingway bị chứng đồng tình luyến ái, và kết án chồng bà có dan díu với Hemingway.

Cho dù chuyện Zelda Fitzgerald’s nghĩ về liên hệ giữa hai người có thật đúng hay không, thiên hạ vẫn đồn rằng Hemingway có những vấn đề giới tính và cách ông thường xuyên công kích những cá nhân đồng tính luyến ái như Jean Cocteau, là để che đậy cho bản năng đồng tính luyến ái sâu thẳm trong chính con người ông.

Những quan hệ này cùng nhiều đêm dài say sưa đã đem lại hứng khởi cho tiểu thuyết thành công đầu tiên của Hemingway, “The Sun Also Rises” (1926). Ông viết vỏn vẹn trong 6 tuần lễ tại một nhà hàng khu Montparnasse, La Closerie des Lilas. Tập tiểu thuyết, một nửa là tự truyện vì kể lại một nhóm người Mỹ lưu vong tại Âu Châu, thành công và được nhiều phê bình gia tán thưởng. Trong khi Hemingway cho rằng tác phẩm không có giá trị văn chương, hiển nhiên sự thành công đã cho ông hứng khởi viết một tác phẩm khác sau khi đọc bản thảo của Fitzgerald, The Great Gatsby.

Năm 1927, Hemingway ly dị Hadley Richardson và lập gia đình với Pauline Pfeiffer, một người Công Giáo ngoan đạo từ Piggott, Arkansas. Hemingway cũng rửa tội và theo Công giáo trong giai đoạn này. Năm 1927, Hemingway cũng xuất bản “Men Without Women”, tuyển tập truyện ngắn có truyện “The Killers”, một trong những truyện nổi tiếng của Hemingway.

Năm 1928, cha của ông, Clarence, xuống tinh thần vì bịnh tiểu đường và thất bại tài chánh, đã tự tử với khẩu súng cũ từ thời nội chiến. Việc này làm Hemingway rất đau lòng, ông lập tức đi Oak Park để lo liệu việc tang ma, và gây nhiều xung khắc vì lớn tiếng cho rằng theo quan niệm Công Giáo, kẻ tự tử phải xuống địa ngục. Cùng lúc ấy, Harry Crosby, sáng lập viên tờ Black Sun Press, bạn của Hemingway những ngày ở Paris, cũng tự sát. Cũng trong cùng năm, con trai thứ hai của ông, Patrick, ra đời tại Kansas City, với nhiều khó khăn và phải mổ (Caesarean birth), chi tiết được ông mang vào trong chương cuối của tiểu thuyết“A Farewell to Arms”.

Xuất bản năm 1929, A Farewell to Arms kể lại chuyện tình giữa Frederic Henry, một người lính Mỹ, và Catherine Barkley, một cô y tá Anh. Tác phẩm phần lớn là tự truyện: cốt truyện lấy hứng từ kinh nghiệm của ông với Agnes Von Kurowsky tại Milan, cơn đau đẻ dữ dội của Pauline, người vợ thứ hai của ông được ghi lại qua cơn chuyển bụng của Catherine trong tiểu thuyết, con người thực Kitty Cannell tạo nét cho Helen Ferguson, vị linh mục trong truyện tả theo Don Giuseppe Bianchi, linh mục của trung đoàn 69th, 70th tại Brigata Ancona. Tiểu thuyết “A Farewell to Arms” xuất bản vào đúng lúc những tác phẩm về Thế Chiến I đang thịnh hành, như “Her Privates We” của Frederic Manning, “All Quiet on the Western Front” của Erich Maria Remarque, “Death of a Hero” của Richard Aldington, “Goodbye to All That” của Robert Graves. Sự thành công của “A Farewell to Arms” giúp Hemingway sống thoải mái hơn về tiền bạc.

Bốn mươi chín tác phẩm đầu

Nhiều truyện ngắn nổi tiếng của Hemingway được viết trong thời hậu chiến, năm 1938, cùng với kịch bản duy nhất của ông, tên “The Fifth Column” – 49 truyện ngắn này được xuất bản trong tuyển tập “The Fifth Column and The First Forty - Nine Stories.” Hemingway dự định, như ông đã nói ro ở lời tựa tuyển tập, sẽ viết thêm. Nhiều truyện ngắn trong tuyển tập này có thể được thấy trong nhưng tuyển tập khác, như In Our Time, Men Without Women, Winner Take Nothing, và The Snows of Kilimanjaro.

Vài truyện đáng chú ý trong tuyển tập là “Old Man at the Bridge”, “On The Quai at Smyma”, “Hills Like While Elephants,” “One Reader Writes,” “The Killers”, và có lẽ nổi tiếng nhất là truyện “A Clean, Well-Lighted Place.” Trong khi những truyện này khá ngắn, tuyển tập cũng có những truyện dài hơn. Như “The Snows of Kilimanjaro” và “The Short Happy Life of Francis Macomber”.

Chỉ một tuyển tập khác của Hemingway được xuất bản trong khi ông còn sống, tên “Four Stories Of The Spanish Civil War,” “The Denunciation,” là truyện hay nhất trong tuyển tập này. Năm 1972, tuyển tập “The Nick Adams Stories” xuất bản sau khi ông đã qua đời. Ngày nay, tất cả các truyện ngắn đáng kể nhất của Hemingway được xuất bản trong tập “The Complete Short Stories of Ernest Hemingway,” lần đầu tiên được tuyển chọn và ra mắt năm 1987.


For Whom the Bell Tolls ( Chuông Nguyện Hồn Ai)

Năm 1939, cuộc nội chiến Tây Ban Nha chấm dứt khi phe Quốc Gia của Đại tướng Francisco Franco thắng phe Cộng Hòa. Hemingway bị mất một mảnh đất tạm dung, và sau đó, lại mất luôn căn nhà tại Key West, Florida khi ly dị năm 1940. Vài tuần sau khi ly dị, Hemingway lập gia đình lần thứ ba với Martha Gellhorn, người bạn đường đã sống chung với ông suốt bốn năm tại Tây Ban Nha. Tiểu thuyết “Chuông Nguyện Hồn Ai” của ông ra đời năm 1940. Tác phẩm được viết năm 1939 tại Cuba và Key West, dựa trên nhiều chuyện thực (xem The Spanish Civil War, 1961, của Hugh Thomas) và kể về một người Mỹ tên Robert Jordan trong cuộc chiến với dân du kích Tay Ban Nha. Phần lớn cốt truyện lấy từ kinh nghiệm sống của Hemingway trong thời gian sống tại Tây Ban Nha và làm phóng sự về cuộc nội chiến. Đây là một trong những thành công đáng kể của Hemingway trên phương diện văn học. Tựa tác phẩm lấy từ Meditation XVII của John Donne.

Thế Chiến Thứ Hai và Hậu Quả

Hoa Kỳ nhập trận Đệ Nhị Thế Chiến vào ngày 8 tháng 12, 1941, và đây là lần đầu tiên, Hemingway tìm cách tham dự cuộc chiến bằng đường thủy.

Trên con tàu Pilar, đoàn thủy thủ của Hemingway bị kết án là làm đắm tàu ngầm của Đức, đe dọa sự chuyển hàng từ Cuba và Hoa Kỳ. Khi FBI nghi ngờ Hemingway là gián điệp, Ernest bỏ sang Âu Châu, làm phóng viên chiến trường cho báo Collier.

Hemingway, khi làm phóng viên chiến trường cho tờ Collier’s Weekly, chứng kiến sự đổ bộ của Hàng Không Mẫu Hạm trong ngày D- Day, tuy ông không được phép lên bờ. Sau này ông rất giận dữ vì cho rằng vợ ông, Martha Gellhorn – lúc ấy hành xử như một phóng viên đang cạnh tranh nghề nghiệp với Hemingway – lén tìm cách lên bờ vài giờ trước đó bằng cách giả trang thành y tá, sau khi vượt Đại Tây Dương đến Anh trong một thuyền chở đầy thuốc nổ . Sau đó, tại Villedieu-les-Poeles, ông đã liệng ba trái lựu đạn vào một phòng trú của sĩ quan Phát xít Đức. Hemingway đóng vai một sĩ quan liên lạc không chính thức tại Chateau de Rambouillet, và sau đó lập đảng riêng, mà theo lời kể của ông, trực tiếp tham dự vào việc giải phóng Paris. Điều này bị nhiều sử gia đặt câu hỏi, cho rằng Hemingway chỉ thực sự giải phóng quầy rượu tại Ritz Hotal Bar. Dù sao đi nữa, chắc chắn Hemingway đã có mặt tại chỗ trong thời gian này.

Sau chiến tranh, Hemingway bắt đầu viết “The Garden of Eden”, tác phẩm không bao giờ hoàn tất và chỉ xuất bản sau khi ông qua đời năm 1986. Có thời kỳ, ông dự định viết một Trường thiên tiểu thuyết gồm ba tác phẩm “The Sea When Young,” “The Sea When Absent”, và “The Sea in Being”, quyến cuối cùng sau này xuất bản năm 1952, dưới tên “The Old Man and the Sea”.) Ông bỏ nhiều thời giờ trong một tỉnh nhỏ tại Ý tên Acciaroli (khoảng 136km phía Nam của Naples), nơi người ta thường thấy ông đi dạo quanh phố, chai rượu trong tay. Acciaroli là một làng chài lưới, và chính tại đây, Hemingway nẩy ra ý tưởng để viết “The Old Man and the Sea.” Hemingway bị lôi cuốn bởi một ông lão đánh cá người Ý, tên Antonio Masarone, hiệu “Mastraccho”, dịch ra là “Old Man”. Ông cũng viết truyện “Sea-Chase” trong thời gian này, và cả ba đoạn được bỉnh bút, xuất bản sau khi ông đã qua đời trong tập “Islands in the Stream” (1970).

Năm 1944, Hemingway lập gia đình với phóng viên chiến trường Mary Welsh, một người ông gặp từ hải ngoại.

Năm 1950, ông xuất bản Across the River and Into the Trees, dựa trên cảnh tại Venice sau Đệ Nhị Thế Chiến. Tựa tiểu thuyết này lấy từ những lời cuối của Tướng Stonewall Jackson trong trận nội chiến Hoa Kỳ. Khi viết tiểu thuyết này, Hemingway đang yêu một cô gái Ý trẻ (Adriana Ivancich), và tả lại chuyện tình giữa một Đại uý phong sương Cantwell (dựa theo bạn ông, Major General Charles T. Lanham) và cô gái trẻ Renata chính là hình ảnh của Adriana. Tiểu thuyết này bị các nhà phê bình chê dữ dội, và cho thấy Hemingway đang già đi, đang xuống dốc.

Những năm cuối

Năm 1952, tác phẩm “The Old Man and the Sea” ra đời là một thành công lớn cho Hemingway. Nó mang lại cho ông giải thưởng Pulitzer năm 1953, và năm 1954 ông được vinh danh với Giải Nobel Văn Chương.

Nhưng ngay sau đó, sự bất hạnh lại đến với ông . Ông bị rớt máy bay liên tiếp hai lần, và bị thương trầm trọng. Ông bị chấn thương não nặng nề, mất thị giác và thính giác bên trái trong một thời gian, bị rách gan, tụy tạng, và thận, gãy xương sống, và cháy xém mặt mũi, tay chân. Vài tờ báo Hoa Kỳ đã đăng phân ưu vì tưởng ông bị chết trong tai nạn.

Tuy thế vẫn chưa đủ, sau đó một tháng, ông lại bị tai nạn làm phỏng nặng chân, tay, ngực phía bên trái. Sự đau đớn thể xác làm ông xuống tinh thần trong một thời gian dài, và ông không thể đi Stockholm để nhận giải thưởng Nobel.

Một chút hy vọng nhỏ nhoi lóe lên khi người ta tìm được tập bản thảo của ông viết từ 1928 tại phòng chứa rượu của Ritz hotel. Tập bản thảo này được sửa lại dưới tên “A Moveable Feast.” Điều này mang lại cho Hemingway chút năng lực, nhưng nạn nghiện rượu không ngừng kéo ông xuống vực. Ông bị cao máu, cao cholesterol, sưng động mạch chủ, và bện trầm cảm của ông càng nặng thêm vì ảnh hưởng của rượu.

Ông cũng bị mất biệt thự Finca Vigia tại Havana, Cuba, và buộc phải dọn về Ketchum, Idaho, khi sự xung đột giữa Cuba và Hoa Kỳ leo thang. Và chương cuối mở ra: Hemingway bị chính quyền Hoa Kỳ kiểm soát vì ông đã sống và sinh hoạt tại Cuba trong một thời gian dài.

Ngày 26 tháng 02, 1960, Hemingway không thể chuyển tác phẩm “The Dangerous Summer” của ông đến nhà xuất bản. Ông thoả thuận cho bản thảo được đăng trên báo Life, bắt đầu từ ngày 5 tháng 9, 1960, với nhiều kỳ kế tiếp.Tuy vậy, ông rất giận dữ khi nhìn thấy các hình ảnh đăng của tác phẩm “The Dangerous Summer” đăng trên báo Life. Ông đang chịu chạy điện (ECT – electroconvulsive therapy) cho bệnh trầm cảm, bị cao máu, đau gan, mất trí nhớ, xuống cân nhanh chóng, và có thể tất cả các điều này đưa đến sự ông tự tử năm 1961.

Tự tử


Hemingway tự tử lần đầu vào mùa xuân 1961, nhưng không chết, và tiếp tục được chữa bằng phương pháp chạy điện cho bệnh trầm cảm của ông.

Sáng ngày 2 tháng 7, 1961, ông tự nổ súng vào đầu tại nhà riêng ở Ketchum, Idaho.

Trong lịch sử gia đình Hemingway thì cha ông, Clarence Hemingway, hai chị em ông, Ursula và Leicester, và sau này, cháu gái ông Margauz Hemingway đều đã chọn tự kết thúc đời mình. Nhiều người cho rằng gia đình Hemingway có một căn bệnh di truyền gọi là “haemochromatosis”, đưa đến hỏng tụy tạng và bị bệnh trầm cảm. Nhiều người cho rằng Hemingway bị bệnh phân cực (Bi-polar disorder) . Trong suốt cuộc đời ông, Hemingway luôn uống rất nhiều rượu và những năm cuối thì bị bệnh nghiền rượu rất nặng.

Di sản của Hemingway:

Hemingway ảnh hưởng rất nhiều trên văn học Hoa Kỳ và văn học thế giới. Rất nhiều nhà văn đã cố gắng bắt chước phong cách của ông. Hemingway ảnh hưởng đến các văn sĩ “mới” trong thời ông sống. James Joyce thán phục truyện “A Clean, Well Lighted Place” và cho rằng đây là “một trong những truyện ngắn hay nhất.” J.D. Salinger từng nói muốn trở thành một nhà văn chuyên viết truyện ngắn như Hemingway. Trong văn học Nam Mỹ, phong cách Hemingway có dấu ấn rõ ràng ở những tác phẩm của Gabriel Garcia Marquez, nhà văn Nam Mỹ được giải Nobel văn chương.

Giải thưởng và huân chương:

• Silver Medal of Military Valor (medaglia d'argento) in World War I
• Bronze Star (War Correspondent-Military Irregular in World War II) in 1947
• Pulitzer Prize in 1953 (for The Old Man and the Sea)
• Nobel Prize in Literature in 1954 (The Old Man and the Sea cited as a reason for the award)

Tác phẩm:

Tiểu thuyết

(1924) The Torrents of Spring
(1926) The Sun Also Rises
(1927) Fiesta (Fiesta is the Spanish title for The Sun Also Rises)
(1929) A Farewell to Arms
(1937) To Have and Have Not
(1940) For Whom the Bell Tolls
(1950) Across the River and Into the Trees
(1952) The Old Man and the Sea
(1970) Islands in the Stream
(1986) The Garden of Eden
(1999) True At First Light
(2005) Under Kilimanjaro

Nonfiction

(1932) Death in the Afternoon
(1935) Green Hills of Africa
(1962) Hemingway, The Wild Years
(1964) A Moveable Feast
(1967) By-Line: Ernest Hemingway
(1970) Ernest Hemingway: Cub Reporter
(1981) Ernest Hemingway Selected Letters 1917-1961
(1985) The Dangerous Summer
(1985) Dateline: Toronto
[edit] Short story collections
(1923) Three Stories and Ten Poems
(1925) Cat in the Rain
(1925) In Our Time
(1927) Men Without Women
(1932) The Snows of Kilimanjaro
(1933) Winner Take Nothing
(1938) The Fifth Column and the First Forty-Nine Stories
(1969) The Fifth Column and Four Stories of the Spanish Civil War
(1972) The Nick Adams Stories
(1987) The Complete Short Stories of Ernest Hemingway
(1995) Everyman's Library: The Collected Stories

Phim làm theo tác phẩm của Hemingway:

(1932) A Farewell to Arms (starring Gary Cooper)
(1943) For Whom the Bell Tolls (starring Gary Cooper and Ingrid Bergman)
(1944) To Have and Have Not (starring Humphrey Bogart and Lauren Bacall)
(1946) The Killers (starring Burt Lancaster)
(1952) The Snows of Kilimanjaro (starring Gregory Peck)
(1957) A Farewell to Arms (starring Rock Hudson)
(1957) The Sun Also Rises (starring Tyrone Power)
(1958) The Old Man and the Sea (starring Spencer Tracy)
(1962) Adventures of a Young Man
(1964) The Killers (starring Lee Marvin)
(1965) For Whom the Bell Tolls
(1977) Islands in the Stream (starring George C. Scott)
(1984) The Sun Also Rises
(1990) The Old Man and the Sea (starring Anthony Quinn)
(1996) In Love and War (starring Chris O'Donnnell)

_____________

Tác phẩm của Hemingway tại Việt Nam Thư Quán
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2006 12:19:00 bởi sóng trăng >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9