(url) Bùi Minh Quốc
sóng trăng 26.11.2006 11:34:48 (permalink)
.

 
BÙI MINH QUỐC
 
 
 
Tiểu Sử:
 
- Còn có bút hiệu là Dương Hương Ly
- Sinh ngày 3/10/1940.
- Quê tại Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.
- Nổi tiếng từ thời trung học với bài thơ "Lên Miền Tây".
Bài thơ này được đưa vào chương trình giáo khoa thời ấy.
- Vợ là nhà thơ Dương Thị Xuân Quý.
- Ông và vợ đã gửi con gái đầu lòng mới 16 tháng lại để vào Nam chiến đấu.
- Vợ ông hy sinh tại chiến trường miền Nam.
- Sau 30/4/1975, công tác tại Quảng Nam Đà Nẵng, giữ chức phó chủ tịch Hội Văn Nghệ tỉnh và Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng.
- Năm 1987, chuyển vào công tác tại Đà Lạt, làm chủ tịch Hội Văn Nghệ tỉnh Lâm Đồng và Tổng biên tập tạp chí Langbian.
- Năm 1988, cùng nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự thực hiện một chuyến đi xuyên Việt từ Đà Lạt, qua các tỉnh miền Trung, ra Hà Nội, nhằm vận động trí thức văn nghệ sĩ đấu tranh đòi tự do dân chủ. Sau vụ này cả hai ông đều bị khai trừ khỏi đảng.
- Từ năm 1997 Bùi Minh Quốc và hai người khác tại Đà Lạt là Tiêu Dao Bảo Cự và Hà Sĩ Phu bị quản chế tại gia do nghị định 31CP của ông Võ Văn Kiệt.
 
 
Tác phẩm:

Thơ Bùi Minh Quốc trên Thi Viện 

Ðao phủ ngồi thiền
Hương tường vi
Từ phút ấy
Ðừng quên em
Lại ngẫm về hạnh phúc
Tôi gởi thơ tôi vào ngọn gió cao nguyên
Ðêm nay tôi không ngủ
Lịch sử
Thơ ơi thơ!
Ðường thơ này...
Lưỡi
Thơ tặng anh Năm Hộ
Óc tim này chẳng ai cho
Mặt nạ
Thơ tặng vợ hiền
Ơi thiên thai
Mẹ đi chọn mặt gửi vàng
Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn
Bài thơ tháng Tám
Một thoáng phố phường
Thơ viết từ xó bếp
Báo động
Mừng
Về một tên đào ngũ
Cay đắng thay...
Nhưng chính phút này
Vào, ra
Câu vè chợt lượm
Oan hồn dâng trĩu cả mây trời
Vì nhân dân quên mình
Chôn
Phản chiến
Vòng hoa đao phủ
Chiến tranh và hòa bình
Quỉ dữ bảo nhau
Hí trường
Ta và chúng

Thơ Bùi Minh Quốc tại thư viện Việt Nam Thư Quán

Hoàng Khởi Phong nói chuyện với Bùi Minh Quốc

Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (2)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2006 10:09:16 bởi TTL >
#1
    sóng trăng 26.11.2006 11:47:28 (permalink)
    .
     
    Bùi Minh Quốc
    Thư ngỏ gửi các bạn trẻ Việt Nam
    và hai bạn Mỹ Fred, Rob
     
     
    Các bạn quý mến,

    Tôi đã đọc với niềm xúc động sâu xa và nhiều nghĩ ngợi nhật ký của bác sĩ liệt sĩ Đặng Thùy Trâmthư của tiến sĩ cựu chiến binh Mỹ Fred gửi các bạn trẻ Việt Nam đăng trên báo Tuổi Trẻ.

    Khi Thùy Trâm ngã xuống vì đạn Mỹ, tôi đang ở chiến trường Quảng Nam, cách Quảng Ngãi không xa. Trước đó, đêm 8.3.1969, vợ tôi, nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý ngã xuống vì một loạt đạn của lính Nam Triều Tiên khi từ dưới hầm bí mật bò lên tìm cách thoát ra khỏi vòng vây tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Sau Đặng Thùy Trâm, chiều 1.5.1971, bạn tôi, nhà báo, nhà văn Chu Cẩm Phong trút hơi thở cuối cùng trong một cuộc chiến đấu quyết liệt từ dưới hầm bí mật để đáp lại lời gọi hàng của lực lượng đối phương đông gấp bội bao vây tấn công từ bên trên cũng tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Giữa tháng 4.1975, tại Đà Nẵng, một sĩ quan quân đội Sài Gòn tìm gặp tôi và trao cho tôi cuốn nhật ký của Chu Cẩm Phong mà bạn tôi đem theo bên mình tưởng đã bị vĩnh viễn cuốn đi vô tăm tích trong bão lửa chiến tranh. Người sĩ quan cho tôi biết mới đầu anh đọc vì hiếu kỳ nhưng càng đọc anh càng cảm phục nhân cách của tác giả nên đã gìn giữ trân trọng suốt bốn năm bất chấp hiểm nguy, giống hệt trường hợp Fred đối với Đặng Thùy Trâm. (Nhật ký của Chu Cẩm Phong đã được nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2000 với nhan đề Nhật ký chiến tranh và nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản năm 2005 trong Tuyển tập Chu Cẩm Phong).

    Thùy Trâm kém tôi hai tuổi, kém Xuân Quý, Chu Cẩm Phong một tuổi. Chúng tôi cùng một lứa được giáo dục đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa tại thủ đô Hà Nội và lên đường vào Nam chiến đấu theo tiếng gọi KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO. Nhật ký của Trâm, Quý, Phong đều ghi rõ tâm nguyện của mỗi người, mà cũng là của cả thế hệ chúng tôi, sẵn sàng dâng hiến, không chút tính toán so đo, từng ngày sống và cả cuộc đời cho độc lập tự do.

    Độc lập cho dân tộc và tự do cho mỗi con người.

    Những giá trị thiêng liêng ấy đã được ghi rõ, có thể nói không phải bằng mực mà bằng máu, trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ 229 năm trước và của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 60 năm trước.

    Không phải đến 2.9.1945 trong Tuyên ngôn độc lập, mà ngay từ 1942 trong Nhật ký trong tù, tư tuởng không có gì quý hơn độc lập tự do đã được chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:


    Trên đời ngàn vạn điều cay đắng
    Cay đắng chi bằng mất tự do
    Mỗi việc mỗi lời không tự chủ
    Để cho người dắt tựa trâu bò.


    (Thiết nghĩ bốn câu thơ trên cần được treo cùng chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh tại tất cả các hội nghị, đại hội Đảng và đoàn thể ở mọi cấp.)

    Nhà văn Nguyên Ngọc, sau khi đọc nhật ký Đặng Thùy Trâm đã qua hình ảnh người con gái trí thức anh hùng này mà nghĩ về người trí thức, viết rằng người trí thức là người “vừa sống vừa luôn biết tự quan sát mình, quan sát sự sống cách sống của mình, luôn tự thẩm định mình, luôn tự đặt ra cho mình những câu hỏi về tư cách sống của chính mình”.Tôi hiểu, cái tư cách sống ấy của người trí thức, hay cái tiêu chí hàng đầu phải có để được coi là trí thức không phải là bằng cấp mà phải là bản lĩnh suy nghĩ độc lập, là cái năng lực biết gọi đúng tên sự vật, cái ý chí kiên quyết giành và giữ lấy quyền tự do nói lên công khai những hiểu biết của mình bất chấp mọi hiểm nguy. Như Galileo: “dù sao, nó (trái đất) vẫn quay”, dẫu cho Bruno bị lên giàn hỏa và Galileo bị lưu đày. Nói đến tư cách sống của người trí thức, không thể không nhắc lại ở đây lời của nhà văn quá cố rất đáng kính Nguyễn Minh Châu: “Làm thằng nhà văn Việt Nam vào lúc này mà tìm cách lẩn tránh vấn đề dân chủ là thiếu tư cách” (Trích thư gửi nhà thơ Nguyễn Trung Thu, tháng 4.1988).

    Nhiều đồng đội của Fred, Rob cầm súng sang Việt Nam, họ được nghe bảo rằng hoặc thực sự nghĩ rằng họ đi chiến đấu để giúp nguời Việt Nam bảo vệ những giá trị đã được ghi trong Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ, nhưng rồi thực tế chiến tranh cho thấy họ đã đến để gián tiếp hoặc trực tiếp bắn vào những giá trị ấy đang được ấp ủ nâng niu trong tâm hồn những con người Việt Nam như Đặng Thùy Trâm. Chính sự mẫn cảm về những giá trị ấy trong Nhật ký Đặng Thùy Trâm của thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu đã giúp Fred trở thành người gìn giữ cho văn hoá Việt Nam một báu vật. Vô cùng cám ơn anh Nguyễn Trung Hiếu và các bạn Fred, Rob. Nhân đây một lần nữa tôi xin gửi tới một ân nhân lớn, mà nhiều năm từ ngày gặp tôi không biết ở đâu, lời cám ơn chân thành, đó là anh Nguyễn Hiếu (hoặc Hoàng Đình Hiếu), người đã gìn giữ và trao cho tôi cuốn nhật ký của Chu Cẩm Phong. Nguyễn Trung Hiếu, Hoàng Đình Hiếu, Fred, Rob ơi, trong cuộc “châu về Hợp phố” này có một cái gì đó thật linh thiêng, cái linh thiêng nằm trong những giá trị tinh thần kết tinh từ bao đời được truyền toả qua hồn thiêng các chiến sĩ đã hy sinh vì độc lập tự do mà tất cả các dân tộc, cả nhân loại và mỗi con người chúng ta đều tôn thờ.

    Tôi, người may mắn sống sót sau những hy sinh của Dương Thị Xuân Quý, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Giá, Chu Cẩm Phong cùng hàng triệu đồng bào đồng chí của tôi, từ 1975 trở đi càng ngày càng thấy nhân dân tôi đã lâm vào một bi kịch thê thảm nhất, cay đắng nhất, quái gở nhất: vì độc lập tự do mà cuồng nhiệt tự nguyện dốc cả sông máu núi xương để rồi “tự do” tự nguyện choàng lên cổ mình một cái ách nô lệ “vàng son” mang tên là sự lãnh đạo của Đảng, mà thực chất chỉ là sự cai trị độc đoán của hơn một trăm Ủy viên Trung ương, thậm chí chủ yếu là mười mấy Ủy viên Bộ Chính trị.

    Nô lệ đến mức người ta bảo bỏ phiếu cho ai là ngoan ngoãn bỏ cho người ấy, chẳng biết người ấy tốt xấu thế nào.

    Nô lệ đến mức muốn nói điều mình nghĩ, mình thấy, mình biết cũng không báo nào đăng cho, cỡ như cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn mà cũng không được đăng trọn vẹn.

    Nô lệ đến mức người ta áp đặt cái đường lối sai lầm dựa trên một kiểu lý luận nói lấy được (chữ dùng của tướng Trần Độ) là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng không biết mà cãi, hoặc biết mà không dám cãi, hoặc muốn cãi thì cũng không có diễn đàn mà cãi.

    Trong dịp đại hội lần thứ 7 vừa rồi của Hội Nhà văn Việt Nam (tháng 4.2005), mấy đồng nghiệp của tôi - nhà thơ Xuân Sách, nhà thơ Trần Mạnh Hảo, nhà văn Hoàng Quốc Hải - phát biểu tại diễn đàn chỉ tha thiết xin nhà nước thành lập cơ quan kiểm duyệt chính thức, công khai, để nhà văn cứ viết hết cỡ theo lương tâm mình, còn nhà nước không vừa ý chỗ nào thì cứ cắt nhưng phải in rõ chấm chấm chấm kiểm duyệt bỏ chấm chấm chấm như thời chế độ thực dân.

    Ôi, đau đớn làm sao, nhục nhã làm sao! Hỡi hồn thiêng các liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Văn Giá, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Trần Đăng, Thôi Hữu, Nam Cao, Trần Mai Ninh… và tất cả các liệt sĩ của tất cả các thế hệ đã ngã xuống vì độc lập tự do, hãy về đây mà chứng kiến cho nỗi nhục của chúng tôi! Chẳng lẽ chiến đấu như thế, hy sinh như thế để chuốc lấy nỗi nhục này? Sau bao nhiêu năm chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do, nay chỉ xin cái mức tự do ngôn luận như thời thực dân mà cũng không được. Xưa là nô lệ cho ngoại bang, nay lại làm nô lệ cho một nhúm cầm quyền nhân danh Đảng. Nhục quá! Nhục đến nỗi đến bữa quên ăn nửa đêm vỗ gối (con cúi xin Đức Thánh Trần cho con mượn lời này để bày tỏ nỗi lòng). Trong Bộ Chính trị hiện nay có một ủy viên cùng lứa tuổi, cùng chiến đấu trên một giải chiến trường ác liệt Khu Năm-Trị Thiên với Đặng Thùy Trâm, Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong, đó là nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà câu thơ của anh từng làm rung động bao trái tim Việt Nam thời ấy qua giai điệu Trần Hoàn: “Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ… Mai sau con lớn làm người tự do”. Nhân đây tôi muốn gửi một lời nhắn hỏi: Nguyễn Khoa Điềm à, anh có chia sẻ nỗi nhục này của chúng tôi không? Và nếu chia sẻ thì anh làm gì cho khỏi nhục?

    Một bạn trẻ thành đạt nào đó đã phát biểu trên báo Tuổi Trẻ: “Tài sản của tôi là nỗi nhục nghèo khổ” – ý nói từ chỗ thấy nhục vì nghèo khổ mà có chí vươn lên làm giàu. Tiến sĩ Fred, với thiện chí và thiện cảm chân thành đáng quý cũng nhắc bạn trẻ Việt Nam noi gương Đặng Thùy Trâm mà phấn đấu đưa đất nước sớm thoát khỏi nghèo khổ. Rất hoan nghênh. Nhưng tôi muốn nhắc: có một nỗi nhục còn lớn hơn nỗi nhục nghèo khổ là nỗi nhục nô lệ, nỗi nhục của kẻ “mỗi việc mỗi lời không tự chủ, để cho người dắt tựa trâu bò”, mà thậm nhục là gần ba triệu đảng viên, hơn tám mươi triệu dân lại đành nô lệ cho chỉ hơn một trăm Ủy viên Trung ương, mười mấy Ủy viên Bộ Chính trị. Đặng Thùy Trâm cũng như mọi liệt sĩ Việt Nam hy sinh cho Tổ Quốc là một Tổ Quốc trên đó mỗi con người phải được làm người tự do, như lời thơ Nguyễn Khoa Điềm họ đã hát vang thời ấy. Tình trạng không có tự do dân chủ trên Tổ Quốc Việt Nam hôm nay đang từng ngày từng giờ xúc phạm dòng máu thiêng của các liệt sĩ.

    Không cam chịu mãi tình trạng nhục nhã đau đớn ấy, tiếp nối sự dấn thân cao cả của những Đặng Thùy Trâm, Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong …, trong giới trẻ đã xuất hiện những chiến sĩ dấn thân cho tự do, họ không tiếc những vị trí làm việc ngon lành mà có lẽ không ít bạn trẻ đang mơ ước để quyết dấn thân và sẵn sàng chịu khổ nạn, như bác sĩ Phạm Hồng Sơn làm đại diện cho một công ty dược phẩm lớn của nước ngoài, nhà báo Nguyễn Vũ Bình làm biên tập viên Tạp chí Cộng sản – cơ quan lý luận của Trung ương Đảng, nhà giáo cựu chiến binh Nguyễn Khắc Toàn, các bạn ấy bị chụp những bản án vô căn cứ, bị tù đày chỉ vì đã viết và dịch các bài về dân chủ, viết đơn xin thành lập Đảng Dân chủ Tự do, viết đơn khiếu kiện giúp và viết bài bênh vực các bà mẹ Việt Nam anh hùng bị ức hiếp…

    Thủ tướng Phan Văn Khải sau khi đọc nhật ký của hai liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc, gửi thư cho toà soạn và bạn đọc báo Tuổi Trẻ nhấn mạnh: “Đưa đất nước tiến kịp thời đại với ý chí mãnh liệt như ý chí giành độc lập, thống nhất”. Tôi muốn góp thêm vào đây một ý này: đối với đất nước ta hiện nay, muốn tiến kịp thời đại, trước hết là phải gấp rút thoát ra khỏi sự tụt hậu về chính trị. Hệ thống chính trị lạc hậu hiện nay là trở lực lớn nhất cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta đã xây dựng được một thể chế chính trị dân chủ tiến bộ nhất châu Á, nhưng phải tạm gác công việc hoàn thiện nền dân chủ ấy vì hai cuộc kháng chiến. Từ đấy dân chủ là một món nợ - món nợ xương máu - mà những người cách mạng chúng ta nợ nhân dân ta. Sau một thời gian dài bị gạt ra một cách khuất tất, dân chủ lại được đưa vào ghi thành mục tiêu xây dựng xã hội trong cương lĩnh của Đảng tại đại hội 9, song tiếc thay cái dân chủ ấy mới chỉ có trên mặt giấy. Rõ ràng trong bộ phận đảng viên cầm quyền đã có một thế lực cố ý vỗ nợ dân chủ, phản bội nhân dân, lừa dối nhân dân, miệng nói dân chủ mà tay thì nắm hết quyền vơ hết lợi của dân. Bọn vỗ nợ dân chủ với bọn tham nhũng là một.

    Tôi tin rằng nếu nhân dân ta, nhất là giới trẻ, biết chuyển toàn bộ sức mạnh đã có trong công cuộc giành độc lập thống nhất sang công cuộc dân chủ hoá đất nước thì chúng ta sẽ sớm đòi được món nợ dân chủ.

    Tôi tin rằng trong giới cầm quyền vẫn còn nhiều đồng chí tốt, nhiều đồng chí thuộc lớp trẻ, muốn sớm trả món nợ dân chủ cho nhân dân, nhưng lúng túng giữa một mớ bùng nhùng các mối quan hệ quyền lực. Theo tôi, tháo gỡ cái bùng nhùng này cũng không đến nỗi khó, chỉ cần một thao tác đơn giản là lời nói đi đôi với việc làm, lời nói về dân chủ thì đã có nhiều rồi, hãy bắt tay vào làm, hàng loạt công việc cho dân chủ hoàn toàn có thể làm ngay hôm nay, ngay ngày mai, chẳng hạn hãy mở ngay một cuộc gặp mặt bàn tròn, một hội nghị Diên Hồng với nội dung “Làm thế nào để chuyển sức mạnh dân tộc trong công cuộc giành độc lập thống nhất trước kia sang công cuộc dân chủ hoá đất nước hôm nay?” Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã nói nhiều về dân chủ, đã dẫn lời chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân chủ là cái chìa khoá vạn năng giải quyết mọi khó khăn”, chẳng lẽ ở cương vị của mình lại không sớm tổ chức được một hội nghị Diên Hồng như thế? Hoặc là ngay từ ngày mai, tất cả các báo mỗi kỳ dành một trang cho diễn đàn dân chủ, đăng tất cả mọi ý kiến khác nhau để tìm kế sách, biện pháp tối ưu nhằm đưa mục tiêu dân chủ từ nghị quyết vào cuộc sống, việc này hoàn toàn có thể làm ngay, chỉ cốt có thực tâm làm dân chủ, thực tâm tôn trọng nghị quyết do chính mình biểu quyết.

    Tôi cũng tin rằng giới trẻ đầy năng động cũng sẽ chẳng thụ động ngồi chờ ai đem dân chủ tự do đến cho mình, hoàn toàn có thể ngay hôm nay ngay ngày mai, bắt đầu bằng việc tự động ngồi lại với nhau làm một cuộc Diên Hồng Trẻ với nội dung như thế.

    Đất nước ta đã hàng nghìn năm dưới ách chuyên chế, chỉ đến Cách mạng tháng Tám 1945 mới chuyển sang kỷ nguyên dân chủ nhưng rồi bị đứt đoạn, sau ngày thống nhất tưởng rằng sẽ xây dựng được một chế độ dân chủ gấp triệu lần, ai ngờ lại là một chế độ chuyên chế toàn trị độc đảng theo kiểu vừa sta-lin-nít vừa mao-ít được Việt Nam hoá. Tôi nghe thấy hồn thiêng sông núi, hồn thiêng các liệt sĩ đang thúc giục chúng ta: đây là thời điểm lịch sử, hãy cùng nhau chung sức chung lòng làm nhiệm vụ lịch sử, chuyển toàn bộ sức mạnh dân tộc trong công cuộc giành độc lập thống nhất sang công cuộc dân chủ hoá đất nước, đưa đất nước thực sự đặt bước vững chắc vào KỶ NGUYÊN DÂN CHỦ. Trong sự nghiệp lịch sử trọng đại này, vai trò của các bạn trẻ, với vô vàn sáng kiến, là rất quyết định.

    Trân trọng gửi tới các bạn trẻ niềm tin và hy vọng của tôi.

    Đà Lạt 19.8.2005

    Bùi Minh Quốc, 03 Nguyễn Thượng Hiền-Đà Lạt, điện thoại: 063-815459, 0918007842

    © 2005 talawas
     
    http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5180&rb=0307

    #2
      sóng trăng 26.11.2006 12:28:58 (permalink)
      .
       
       

      Hoàng Khởi Phong
      Nói chuyện với Bùi Minh Quốc

       
       
       

      2006.07.23
      Nhà văn Hoàng Khởi Phong
      Hơn ba chục năm trước đây trong chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam, những ngưòi lính có tên là Cao Xuân Huy, Phan Nhật Nam, Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc cùng với hàng triệu người lính có tên họ là Lý, Trần, Lê, Nguyễn mang quân phục và võ khí của hai miền Nam, Bắc hăm hở lên đường ra mặt trận.


      Tải xuống để nghe



        Nhà thơ Bùi Minh Quốc.
        Photo courtesyThongluan.org

        Do ảnh hưởng của các guồng máy tâm lý chiến của cả hai miền, chúng ta có thể tin một điều: Hầu như tòan bộ những người lính của chiến tranh Nam - Bắc khi tiến ra mặt trận, ai nấy đều vững tin vào lý tưởng của đạo quân mình.
        Các tính danh Cao Xuân Huy, Phan Nhật Nam, Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc sở dĩ được nêu lên trong bài phỏng vấn dành cho nhà thơ Bùi Minh Quốc lần này, vì bên cạnh tư cách người lính còn sống sót sau trận chiến, họ còn là những nhà văn nhà thơ lúc nào cũng suy nghĩ về tương lai của đất nước.
        Hiện nay những ngưòi này tuy không còn mặc quân phục, không còn mang ba lô, súng đạn ở quanh người, nhưng ám ảnh của cuộc chiến chắc chắn là một gánh nặng sẽ đeo theo họ cho tới cuối đời.
        Trong chiến tranh rất có thể Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy đã từng gặp gỡ Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc trong tầm đạn. Phan Nhật Nam và Cao Xuân Huy đã từng bị thương, đổ máu hơn một lần trong khi bảo vệ phần đất miền Nam của mình, thì ở miền Bắc có lẽ Bảo Ninh đã từng vuốt mắt cho nhiều đồng đội.
        Riêng Bùi Minh Quốc, ông đã phải chứng kiến người bạn đường, và là người bạn đời của mình là nhà văn Dương Thị Xuân Quý nằm xuống khi hai vợ chồng ông tình nguyện lên đường giải phóng miền Nam.
        Hơn ba chục năm đã qua đi, lý tưởng của Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy cũng như lý tưởng của Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc càng ngày càng lộ ra những điều không thật. Chỉ tiếc là hai miền Nam Bắc đã mất đi hơn hai triệu sinh linh trong cuộc nội chiến vừa qua, và hậu quả của chiến tranh thì dường như không bao giờ tẩy xóa hết được.
        Kính mời quý vị thính giả lắng nghe cuộc phỏng vấn nhà thơ Bùi Minh Quốc. Ông hiện sinh sống ở Đà Lạt, là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam và đã nhiều lần bị quản chế tại nhà do những hoạt động của ông trong lãnh vực văn chương.
        Hoàng Khởi Phong: Xin chào nhà thơ Bùi Minh Quốc. Trước tiên xin hỏi ông về nhà văn Dương Thị Xuân Quý, khi cùng tình nguyện lên đường giải phóng miền Nam, ông bà chỉ mới quen nhau, hay đã thành vợ thành chồng?
        Bùi Minh Quốc: Thưa ông khi chúng tôi lên đường vào chiến đấu ở miền Nam thì chúng tôi đã là vợ chồng được một năm ba tháng.
        Hoàng Khởi Phong: Khi tình nguyện lên đường vào giải phóng miền Nam, ông bà đã là hội viên Hội Nhà Văn chưa? Cả hai lúc đó đã có đứa con ruột thịt giữa hai vợ chồng hay đứa con tinh thần (tác phẩm) nào được ra mắt bạn đọc?
        Bùi Minh Quốc: Thời gian đó chúng tôi chưa là hội viên Hội Nhà Văn. Chúng tôi đã có với nhau một cháu gái 6 tháng tuổi. Tôi lên đường vào Nam trước vào đầu năm 1967, mãi một năm sau khi cháu Uyên Ly đựoc 16 tháng, nhà tôi gửi lại bà ngọai rồi lên đường vào Nam sau.
        Vào thời điểm đó thì bản thân tôi có một số bài thơ và truyện ngắn được đăng tải trong các tuỷên tập nhiều tác giả. Xuân Quý cũng có một số truyện ngắn đựoc đăng tải rải rác trên các báo, hay các tuyển tập.
        Về sau chúng tôi gom góp lại, đem in thành một tuyển tập riêng của hai người, được chúng tôi đặt tên là “Chỗ Đứng”, và được nhà xuất bản Hội Nhà Văn in. Nhưng khi sách in xong, gửi vào trong chiến trường miền Nam thì Xuân Quý đã hy sinh...
        Hoàng Khởi Phong: Thật tình chúng tôi không muốn nhắc tới những đau buồn cũ, nhưng xin ông cho biết bà Xuân Quý đã mất ở đâu, năm nào, mất trong khi đụng độ với quân đội miền Nam, bị bom, hay bị bệnh trên đường xâm nhập?
        Bùi Minh Quốc: Nhà tôi vào sau tôi khoảng chừng một năm, nhưng chúng tôi công tác cùng một cơ quan. Đó là tờ báo tuyên truyền được đặt ở trên núi. Tháng 12 năm 68, nhà tôi đi công tác xuống vùng đồng bằng trong vùng Quảng Đà, mà chúng tôi gọi là vùng trọng điểm. Lúc đó tôi còn đang bận làm dở tờ báo nên xuống sau nhà tôi một tháng.
        Trong một cuộc hành quân của quân đội Nam Triều Tiên ở vùng này, nhà tôi và một số đồng đội bị kẹt trong vòng vây, chui xuống hầm bí mật trốn. Đến đêm thì mọi người cố đội nắp hầm lên, định bò ra ngoài vòng vây thì bị lính Nam Triều Tiên phát giác.
        Họ nổ súng và nhà tôi chết ngay tại chỗ, tại huyện Duy Xuyên. Khi nhà tôi hy sinh thì tôi đang đứng ở huyện Thăng Bình bên cạnh...
        Hoàng Khởi Phong: Tháng Tư năm 75 ông đang ở đâu, đang làm gì và nghĩ gì về chiến tranh?
        Bùi Minh Quốc: Lúc đó tôi đang ở Đà Nẵng. Bây giờ nhớ lại tôi thật tình không biết cảm nghĩ của tôi lúc đó thật sự như thế nào. Chỉ biết là nó lâng lâng.
        Tôi cũng mừng là chiến tranh đã kết thúc, chấm dứt hàng triệu gia đình bị phân ly, mất mát người thân. Tôi cũng tiếc cho vợ tôi không còn sống để hưởng cái giây phút chiến thắng. Nhưng dù sao thì cũng vui mừng, vì từ đây sẽ không còn chết chóc.
        Trong tư cách một ngưòi cầm bút tôi còn nghĩ là rồi đây sẽ là một cuộc đại đoàn viên của anh em văn nghệ sĩ hai miền. Thật là vui, thật là đẹp và không thể tưởng tuợng nổi của những anh chị em văn nghệ là những con người đầy sáng tạo, đầy tình yêu cuộc sống...
        Từ đây anh em văn nghệ sĩ của hai miền có thể bắt tay vào việc xây dựng một nền văn hóa, một dòng văn học xứng đáng với dân tộc và thời đại.
        Hoàng Khởi Phong: Ông đựoc đưa vào Đà Lạt từ bao giờ, và lý do nào khiến cho ông cùng với một số nhà văn khác như Tiêu Dao Bảo Cự thành lập Hội Văn Nghệ Lâm Đồng – Đà Lạt?
        Bùi Minh Quốc: Mùa thu năm 1985 tôi từ Đà Nẵng vào thăm Đà Lạt lần đầu. Tôi đựoc gặp một số anh em đồng nghiệp rủ rê chèo kéo tôi ở lại làm việc. Một số anh em còn đưa tôi lên gặp Bí Thư Tỉnh Ủy, và được ông này đề nghị tôi về giúp lập Hội Văn Nghệ Lâm Đồng Đà Lạt.
        Bởi vì thời gian đó ở tỉnh nào người ta cũng có Hội Văn Nghệ, chỉ trừ Lâm Đồng Đà Lạt là chưa có mà thôi. Nhưng phải nói là tôi không bị ai thuyết phục, mà chính cái vẻ đẹp mê hồn của thành phố Đà Lạt đã khiến cho tôi có ý định đổi vùng sinh hoạt.
        Sau một hồi vận động với Đà Nẵng, tôi được cấp trên bố trí cho về Đà Lạt để lập hội Văn Nghệ cho tỉnh này. Trong kỳ đại hội thành lập hội Văn Nghệ ở đây được tổ chức, tôi đựoc bầu vào chức vụ Chủ Tịch.
        Anh Tiêu Dao Bảo Cự khi đó đang là Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc ở đây, đã từng là ngưòi hoạt động nội thành ở đây từ trước năm 75, và cũng là một nhà văn đã được bầu vào chức vụ then chốt thứ hai. Tôi đựoc quen với anh Bảo Cự vào thời gian này. Trước đó chúng tôi không hề biết nhau.
        Hoàng Khởi Phong: Tờ báo Lang Biang đựoc thành lập vào năm nào, bị đóng cửa bao giờ, vì nguyên nhân nào?
        Bùi Minh Quốc: Tôi và anh Bảo Cự đồng ý với nhau một điểm là để cho Hội Văn Nghệ Đà Lạt Lâm Đồng có thể phát triển mạnh, thì việc đầu tiên là phải làm một tờ báo cho ra hồn. Mặc dù tờ báo này xuất bản tại địa phương, nó phải thu hút được những bài viết hay nhất của anh chị em địa phương, nhưng đồng thời nó cũng phải có các bài viết của các cây bút có tầm cỡ quốc gia.
        Tờ báo đựoc chúng tôi đặt tên là Lang Biang, liên quan tới một câu chuyện thần thoại của vùng này. Nhưng để có thể mang cái tên này chúng tôi đã phải giải trình cho ông Bí Thư Tỉnh Ủy, mặc dù ông này rất thích cái tên đó, nhưng ông ấy cũng không dám quyết, mà phải mở một cuộc họp để ban Thường Vụ Tỉnh quyết định…
        Chẳng qua chỉ vì những ý nghĩ sơ cứng của các cấp lãnh đạo địa phương. Chúng tôi đã phải nhờ đến một nhà chuyên nghiên cứu văn hóa sắc tộc để thuýêt phục.
        Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc nói chuyện giữa nhà văn Hoàng Khởi Phong và nhà thơ Bùi Minh Quốc hiện đang cư trú tại Đà Lạt. Kỳ tới, nhà thơ Bùi Minh Quốc sẽ nói lý do tại sao báo Lang Biang phải ngưng xuất bản và kể lại về chuyến đi thăm các vùng đất nứơc của ông, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và nhà thơ Hữu Loan. Mong quý thính giả đón nghe.

        Theo dòng câu chuyện:

        - Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (phần 2)


        © 2006 Radio Free Asia


         

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2006 12:31:46 bởi sóng trăng >
        #3
          sóng trăng 26.11.2006 12:35:36 (permalink)
          .

          Hoàng Khởi Phong
          Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (phần 2)
           
           
           

          2006.07.29
          Nhà thơ Hoàng Khởi Phong
          Kỳ trước, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã nói về cái chết của hiền thê của ông là nhà văn Xuân Quý, rồi sự ra đời của báo Lang Biang của hội Văn nghệ Lâm Đồng Đà Lạt. Kỳ này, ông nói lý do tại sao báo Lang Biang bị đóng cửa và chuyến đi khắp nước của ông, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và nhà thơ Hữu Loan.

          Tải xuống để nghe

          Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Về chuyện đóng cửa tờ Lang Biang thì giản dị là vì anh Bảo Cự và tôi cùng muốn làm một tờ báo thật hay, do đó ngay từ nội dung của số 1, rồi kế đến số 2, số 3 liên tiếp chúng tôi đăng tải những bài viết mà các vị lãnh đạo địa phưong cũng như vĩ mô không hài lòng. Cho là chung tôi làm loạn.
          Họ đóng cửa tờ Lang Biang bằng một biện pháp hành chính. Vì Lang Biang là tờ báo không định kỳ, mỗi lần ra một số báo chỉ phải xin phép cơ quan ở địa phưong mà thôi.
          Sau ba số báo thì Bộ Thông Tin Văn Hóa ra lệnh từ nay các cơ quan Thông Tin Văn Hóa địa phưong không được cấp phép cho các tờ báo không định kỳ, mà phải xin phép ở trung ưong.
          Thế là sau ba số báo tờ Lang Biang tắc tị, đứng yên không nhúc nhích đuợc gì, trong khi ở một vài nơi khác, các tờ báo đồng dạng nhưng hiền lành hơn vẫn được phép in ấn.
          Hoàng Khởi Phong: Sau đại hội nhà văn kỳ 4, sau lời tuyên bố cởi trói cho văn nghệ của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh hồi cuối thập niên 80, dừong như ông cùng với nhà thơ Hữu Loan, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự tổ chức một chuyến đi vận động các nhà văn từ Nam ra Bắc. Mục đích của cuộc vận động này nhằm nói lên điều gì?
          Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Tôi và anh Tiêu Dao Bảo Cự làm tới hai chuyến đi vận động các văn nghệ sĩ cả nước chứ không phải một. Chuyến đầu chúng tôi đi vùng đồng bằng Cửu Long, và xẩy ra trưóc khi ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ cả nửa năm trời.
          Thời gian này nhà thơ Hữu Loan đang ở Đà Lạt. Tôi dàn xếp với anh em để ông cư ngụ ở ngay văn phòng của Hội, và đề nghị với ông chép lại tất cả những bài thơ của ông đã làm, và đồng thời viết ra tất cả những gì ông nhớ về vụ Nhân Văn. Khi đi vận động vùng đồng bằng Cửu Long, tôi và Bảo Cự rủ ông đi cùng, để bù đắp cho ông bị quản thúc suốt ba chục năm trời tại quê ông.
          Chuyến đi thứ hai từ Đà Lạt ra Bắc, chúng tôi cũng rủ nhà thơ Hữu Loan đi, để đưa ông về lại quê nhà ông. Lần này chúng tôi ghé Nha Trang, Bình Định, Kontum, Gia Rai, Đà Nẵng, Húê... trước khi ra Hà Nội, để nộp thẳng các bản kiến nghị mà chúng tôi đã thu góp được. Có tất cả 118 chữ ký của văn nghệ sĩ khắp nước.
          Điểm lý thú của nó là bên cạnh kiến nghị đòi thực thi nghị quyết 5 (tức là cởi trói), chúng tôi còn làm một bản tuyên ngôn yêu cầu được tôn trọng quỳên tự do sáng tác. Trong văn bản này, chúng tôi yêu cầu xử lý những nhân vật đi ngược lại đưòng lối đổi mới của Đảng.
          Hoàng Khởi Phong: Hiện nay ông còn là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam?
          Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Vâng, tôi vẫn là hội viên hội nhà văn Việt Nam
          Hoàng Khởi Phong: Trong đại hội nhà văn kỳ 7 vừa qua, là một hội viên ông có nhận được thư mời đi dự đại hội?
          Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Nếu ai quan tâm các đại hội nhà văn ở trong nước sẽ thấy kỳ đại hội 4 (89) và đại hội 5 (95), hai đại hội này quy tụ hầu hết toàn bộ hội viên hội nhà văn trên toàn quốc, do đó sôi nổi vô cùng. Đại hội 4 sau khi có lời tuyên bố cởi trói cho văn nghệ, thì cánh nhà văn chủ động được đại hội.
          Việc bầu bán, phát biểu diễn ra hết sức sôi nổi. Đến đại hội 5 thì việc cởi trói đã khép lại, cánh nhà văn lại bị trói lại, nhưng tất cả các hội viên vẫn được mời tham dự. Đến đại hội 6 (2000) và mới đây đại hội 7 (2005), thì Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn đưa ra ý kiến chỉ đại hội các đại biểu mà thôi. Được đi dự đại hội có nghĩa là đã được bầu đại diện trong vùng sinh hoạt của mình.
          Hoàng Khởi Phong: Dừong như ông có viết sẵn và ghi danh phát biểu trong đại hội này, xin hỏi ông có được Ban Chấp Hành cho phép lên diễn đàn và nội dung của bài phát biểu này?
          Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Trong đại hội của miền Đông Nam Bộ, nơi tôi sinh hoạt tôi là ngừoi đăng ký phát biểu đầu tiên, nhưng trong ngày đại hội này ban đầu ngừoi ta nói để bầu đại diện xong trong buổi sáng, rồi buổi chiều sẽ phát biểu. Nhưng rút cục thì việc phát biểu không xẩy ra.
          Tuy nhiên tôi đã gửi một bài viết tới vài tờ báo ở trong nưóc, và công bố trên vài tờ báo mạng, một bài viết nhân đại hội nhà văn kỳ 7. Trong đó tôi yêu cầu đại hội nhà văn lưu tâm tới 1 điểm quan trọng: Vấn đề đạo đức xã hội xuống tới mức thấp nhất, thì các nhà văn ngày nào cũng lớn tiếng về đạo đức xã hội.
          Theo tôi trước tiên các nhà văn nên xét lại vấn đề đạo đức của chính mình, đặc biệt là các nhà văn hội viên hội nhà văn lại càng cần phải xét lại vấn đề đạo đức của cá nhân mình. Rất nhìêu hội viên tham dự đại hội 7 đã được đọc bài viết này của tôi trong thời gian họ tham dự đại hội
          Hoàng Khởi Phong: Giờ đây chiến tranh đã tàn hơn ba chục năm, ông nghĩ gì về lý tưởng của ông trong thời trai trẻ?
          Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Tôi vẫn không thay đổi lý tưởng thời trai trẻ của tôi: Đó là giải phóng dân tộc và giải phóng con ngưòi. Dân tộc phải được độc lập, con ngưòi phải được tự do. Đối với nhà văn phải được tự do sáng tác. Để có thể tự do sáng tác thì phải có tự do báo chí, tự do xuất bản. Chứ còn tự do sáng tác xong rồi cất vào ngăn kéo thì tự do làm gì?
          Hoàng Khởi Phong: Xin ông đọc cho thính giả của Đài RFA nghe một đoạn thơ ứng ý của ông trong thời chiến tranh?
          (Xin theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn trong phần âm thanh bên trên)

          Theo dòng câu chuyện:

          - Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (phần 1)

           
          Nguồn:RFA
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.11.2006 12:38:54 bởi sóng trăng >
          #4
            Ngọc Lý 04.10.2007 04:19:04 (permalink)
            Bùi Minh Quốc
            Chống nội xâm, cứu nước!
             
             (Thư ngỏ kính gửi các anh Nông Đức Mạnh, Nguyễn Đức Bình, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh, nhờ báo Nhân Dân và các báo đài trong ngoài nước công bố giúp) Thưa các anh,

            Ngày 10 tháng 3 năm nay, 2007, anh Lê Hồng Hà, nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an, từ Hà Nội gọi điện vào Đà Lạt nói chuyện với tôi và anh Hà Sĩ Phu. Anh Lê Hồng Hà mong muốn tiến hành một cuộc thảo luận công khai giữa chúng tôi, cùng nhau phân tích nhận định tình hình nước ta từ năm 1975 tới nay, cùng nhau góp phần xây dựng một nền móng lý luận và tư tưởng về phát triển và dân chủ hoá của Việt Nam. Hôm ấy, qua điện thoại khoảng 30 phút, anh Lê Hồng Hà đã phát biểu phần ý kiến của mình.

            Ít ngày sau, trên ti-vi, tôi thấy và nghe anh Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư, phát biểu tại Hội đồng Lý luận Trung ương nhấn mạnh rằng cần tôn trọng các ý kiến khác biệt.

            Kể ra điều này không có gì mới, vì chủ trương tôn trọng các ý kiến, chính kiến khác biệt, đã được công khai khẳng định nhiều lần ở cấp cao nhất, nhưng lần này được nhắc lại, hẳn không phải chỉ để nói mà để làm. Tôi rất mong những người lãnh đạo ở cấp cao nhất sớm tự vượt mình ra khỏi cái căn bệnh kinh niên nói một đằng làm một nẻo, trước hết trong việc tôn trọng những ý kiến khác biệt, cần thể hiện sự tôn trọng ấy ngay hôm nay, chậm nhất ngay ngày mai: hãy dành ngay một trang mục thường xuyên trên báo Nhân Dân, đài Tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam công bố những ý kiến khác biệt về các vấn đề quốc sự được nghiền ngẫm bấy lâu từ những trí tuệ hàng đầu của đất nước cả trong lẫn ngoài Đảng.

            Mấy tháng qua, tôi đã đọc đi đọc lại những ý kiến gần đây luận bàn đầy tâm huyết và trách nhiệm của các anh Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu, Lữ Phương, Phan Đình Diệu, Lê Đăng Doanh, Mai Thái Lĩnh, tuy không được đăng tải trên báo đài chính thức của Đảng và Nhà nước nhưng được công bố trên mạng internet và được photo truyền nhau khá rộng rãi trong các lão thành cách mạng, các cựu chiến binh, các nhà giáo và cả các sinh viên.

            Tạm lược kê:

            Điều rất đặc biệt là từ những suy nghĩ riêng nhưng ý kiến chung của các anh đều hướng đến con đường xã hội dân chủ như một lối ra phù hợp hơn cả, có tính khả thi hơn cả cho Việt Nam.

            Qua bức tâm thư gửi các đại biểu Đại hội lần thứ 10 của Đảng, tôi đã bày tỏ sự tán thành của mình đối với ý hướng đó của các anh.

            Gần đây tôi được đọc bài “Tiếp tục một cách kiên định và sáng tạo con đường xã hội chủ nghĩa” của anh Nguyễn Đức Bình đăng hai kỳ trên báo Nhân Dân. Xin có mấy nhận xét sơ bộ như sau:

            Những cái mà anh Nguyễn Đức Bình kiên định thì rất lạc hậu, đã bị thực tiễn lạnh lùng vượt qua một cách hiển nhiên, đáng kể nhất là sự kiên định một quan điểm căn cốt cố hữu được khẳng định lại tại Đại hội Đảng lần thứ 7 năm 1991; đó là định nghĩa về thời đại (quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới), còn những cái mà anh gọi là sáng tạo thì khó ai thấy được có gì là sáng tạo. Xin dẫn chứng:

            “Có thể hình dung thế nào mô hình về sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta? Cương lĩnh năm 1991 của Ðảng đã vạch rõ những điểm căn cốt nhất trong bức tranh tổng thể, rồi đây sẽ được nghiên cứu bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm. Tôi nghĩ những ý sau đây nên làm đậm nét hơn trong Cương lĩnh: đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và Ðảng Cộng sản Việt Nam; dân chủ hoá đời sống trong Ðảng và trong xã hội đi đôi với kỷ cương, phép nước chặt chẽ, với chuyên chính đối với những kẻ thù chống lại lợi ích Tổ quốc và nhân dân; tăng trưởng kinh tế gắn chặt với công bằng xã hội và chính sách xã hội; phát triển rất mạnh giáo dục, văn hoá, khoa học, xây dựng con người mới, đào tạo nhân tài, tạo dựng cho được nền tảng tinh thần xã hội cao đẹp; kiên quyết lành mạnh hoá đạo đức xã hội và lối sống con người…, bài trừ cho được các tệ nạn xã hội, sự tha hoá xuống cấp trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức.”

            Cái cần kiên định trước tiên là chủ trương làm nức lòng người từ đại hội Đảng lần thứ 6: NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT, NÓI RÕ SỰ THẬT, thì anh Nguyễn Đức Bình không được kiên định cho lắm nên bài viết thiếu tính thuyết phục, không hề đáp ứng được khát khao “nhìn thẳng vào sự thật” của người đọc.

            Xin mạn phép thưa lại với anh Nguyễn Đức Bình: tôi đố anh chứng minh được một cách khoa học cho chúng tôi thấy cái giai cấp công nhân Việt Nam trong đoạn văn trên của anh (cùng là trong các văn kiện Đảng) chính là cái giai cấp công nhân đại công nghiệp đủ tố chất để gánh vác sứ mệnh lãnh đạo xã hội trong văn bản của Mác, hay nó chỉ là sản phẩm hoang tưởng được vẽ vời trên mặt giấy trong các văn kiện và trong các công trình tiêu phí tiền dân hàng trăm tỷ đồng của các nhà “lý luận nói lấy được” (chữ dùng của cố trung tướng Trần Độ), chứ nó chưa hề tồn tại trong hiện thực? Theo nhận xét của riêng tôi, bằng cặp mắt thường của một chiến sĩ cả đời làm thơ (nay đã 67 tuổi) nhìn từ quán cóc vỉa hè thì giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian qua (và còn tiếp tục trong thời gian tới nữa) chỉ là đối tượng để lợi dụng mồ hôi xương máu và danh nghĩa bởi một thực thể chính trị đậm chất nông dân mang tên là Đảng Cộng sản Việt Nam mà một bộ phận quan trọng trong giới cầm quyền đã trở thành tư bản (hoang dã), chứ giai cấp công nhân đang tồn tại bằng xương bằng thịt trên khắp đất nước này chẳng có vai trò/ liên đới gì trong cái gọi là “sự lãnh đạo/ cầm quyền” ấy cả.

            Nói đến giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam thì không thể không nói đến điều 4 Hiếp pháp mà tôi đã đề nghị cần phải bỏ (trong một thư ngỏ viết tháng 10.1993 gửi Quốc hội).

            Vì sao tôi lại đề nghị bỏ điều 4?

            Xin thưa vì những lý do sau đây:

            Như vậy, rõ ràng điều 4 chỉ cần thiết cho một bộ phận đã tha hoá, cố thủ sau bình phong Đảng lãnh đạo để giữ đặc quyền đặc lợi, chứ hoàn toàn không cần thiết cho Đảng mà lại làm hại Đảng.

            Điều 4 ghi rằng Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân, theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội…, toàn bộ nội dung này bất ổn cả về lý luận lẫn thực tiễn.

            Hãy dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật:

            - Đảng không phải là đội tiền phong của giai cấp công nhân, ngay cả những công nhân hầm mỏ Quảng Ninh vừa cởi chiếc áo nâu lấm bùn để khoác vào chiếc áo xanh thợ, chứ chưa nói là giai cấp công nhân đại công nghiệp như Mác xác định. Những sai lầm chết người như cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, đường lối phiêu lưu duy ý chí của Đại hội 4 đưa đất nước đến bờ vực thẳm chẳng phải là biểu hiện tày đình của một thứ chủ nghĩa nông dân mo cơm quả cà tệ hại nhất đó sao? Còn nhớ, năm 1978 Đảng có nghị quyết chống tập đoàn cầm quyền bành trướng Bắc Kinh, trong đó đã đặt vấn đề phê phán tư tưởng nông dân. Sau cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, Tổng Cục chính trị Quân đội Nhân dân triển khai cuộc học tập lý luận chống chủ nghĩa Mao, phân tích phê phán tư tưởng nông dân - cơ sở xã hội của chủ nghĩa Mao - dịp ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu có một ý phân tích ngắn gọn mà cực kỳ sắc sảo: anh nông dân nào cũng thích làm vua, cốt lõi tư tưởng nông dân là thích làm vua. Nhưng thật lạ, cuộc học tập phê phán đang tiến hành sôi nổi hào hứng thì bị ngừng lại đột ngột theo lệnh trên. Mọi người bảo nhau: các ông trên các ông ấy sợ, bắt ngừng lại là phải thôi, bởi vì mới phân tích sơ sơ đã thấy lòi ra đặc sệt cái chất nông dân của Đảng mình.

            - Đảng tuyên bố theo chủ nghĩa Mác Lê-nin, nhưng trong Đảng may lắm cũng chưa chắc có được 1% đảng viên nắm vững chủ nghĩa ấy, còn trong cán bộ từ Bí thư Tỉnh uỷ trở lên thì liệu có được 0,001%? Tiện thể xin hỏi: anh Nông Đức Mạnh có dám tự khẳng định trước các nhà lý luận rằng anh nắm vững chủ nghĩa Mác Lê-nin? Tuyên bố theo một chủ nghĩa (với giả định là chủ nghĩa ấy đúng hoàn toàn) mà chỉ có được chừng đó người nắm vững chủ nghĩa thì chẳng ai tin, người đời bảo thế là “treo đầu dê bán thịt chó”. Một thực tế sừng sững như dãy Trường Sơn cho thấy chủ nghĩa Mác Lê-nin đã phá sản ngay tại nơi mà nó ra đời, một bộ phận trong giới lãnh đạo mấy Đảng cầm quyền ở Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào sở dĩ còn cố níu giữ không phải vì giá trị khoa học mà vì muốn sử dụng chủ nghĩa như một công cụ cai trị tiện lợi nhất: có chủ nghĩa Mác Lê-nin thì mới có độc quyền cai trị của Đảng Cộng sản (thực chất là độc quyền của thiểu số đặc quyền đặc lợi trong Đảng), có vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, có sở hữu toàn dân về đất đai - những miếng mồi béo bở nhất cho tham nhũng, có chuyên chính vô sản mà nòng cốt là công an, quân đội và hệ thống truyền thông đại chúng độc quyền (trong các văn kiện chính thức không dùng cụm từ “chuyên chính vô sản” nữa, nhưng bản chất hệ thống chính trị vẫn y như cũ) để dễ bề “dùng chuyên chính vô sản để tích luỹ tư bản” (phát hiện năm 1988 của Hà Sĩ Phu).

            Hơn nữa, đưa chủ nghĩa Mác Lê-nin vào điều 4 là một hành vi quốc giáo hoá chủ nghĩa ấy, là chăng lưới thép trên bầu trời tư duy của toàn dân tộc, ngăn chặn mọi cánh chim trí tuệ Việt Nam vút lên, rồi đặt thành một môn học bắt buộc đối với học sinh, sinh viên, công chức, người dạy không tin vào điều mình dạy, người học cũng chẳng tin vào điều mình học; đó rành rành là hành vi ngu dân (trước hết là ngu Đảng) đại qui mô giống hệt các giáo quyền trung cổ. Nếu vậy thì đó là một tội lớn về tư tưởng và văn hoá đối với đại đa số đảng viên, với dân tộc và nhân loại.

            - “Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội…”, mệnh đề thứ ba của đều 4 ghi như thế. Vậy thế nào là lãnh đạo? Hai chữ lãnh đạo đã được xác định từ lâu rất rõ ràng, giản dị như sau: lãnh đạo là vận động, giáo dục, thuyết phục bằng tư tưởng đúng, đường lối đúng, bằng sự gương mẫu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ. Vậy thì cần gì một hệ thống biên chế từ xã đến huyện, tỉnh, trung ương đông đúc cồng kềnh đến thế với lớp lớp trụ sở xe cộ nghênh ngang sang trọng tốn kém đến thế mà nội dung công việc phần lớn trùng lặp chồng chéo với cơ quan nhà nước, tất cả đều chi xài bằng tiền thuế của dân, quyền hành thì nắm toàn diện triệt để tuyệt đối mà trách nhiệm thì hết sức chung chung, hết sức mù mờ.

            Cũng cần nhắc lại, năm 1993 khi đề nghị bỏ điều 4, tôi đã đồng thời nêu rõ: chừng nào chưa bỏ điều 4 thì phải có ngay một bộ luật về sự lãnh đạo của Đảng để xác định rạch ròi quyền hạn và trách nhiệm, ngăn và chống tình trạng lạm quyền lộng quyền nhân danh sự lãnh đạo của Đảng; lãnh đạo đúng thì được ghi nhận, lãnh đạo sai gây hại cho dân cho nước thì phải ra toà.

            Điều 4 được thông qua bằng một Quốc hội không đại diện cho dân bởi các đại biểu đều do Đảng (thực chất là một vài cá nhân nắm giữ công việc nhân sự của Đảng) sắp đặt, hoạt động một cách hình thức. Việc đó nói thẳng ra thì đích thị là một xảo thuật pháp lý nhằm đưa Đảng (thực chất chỉ là một vài người ở cấp tối cao của Đảng) lên ngôi vua. Nhiều nhà trí thức trong và ngoài Đảng cùng nhiều lão thành cách mạng gọi chế độ chính trị hiện hành là chế độ phong kiến trá hình hay chế độ toàn trị (đang biến chủng thành hậu toàn trị) là đã gọi rất đúng tên sự vật.

            Tóm lại, điều 4 là một bằng chứng hiển nhiên về sự đối chọi giữa danh và thực, một xảo thuật cầm quyền hết sức thiếu dân chủ, nói thẳng ra là sự dối trá, một sự dối trá bao trùm lên toàn bộ đời sống xã hội.

            Bỏ điều 4 là Đảng trút bỏ được một gánh nặng, thoát khỏi thế kẹt để trở về chỗ đứng vững chắc trong lòng dân, từ đó tiến hành đổi mới bản thân Đảng bằng nguồn sức mạnh từ nhân dân.

            Còn nhiều vấn đề rất căn bản trong bài của anh Nguyễn Đức Bình cần được thảo luận đến nơi đến chốn, tôi chỉ nêu sơ bộ vấn đề giai cấp công nhân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam như trên.

            Nhưng vấn đề hệ trọng hơn hết, vấn đề bao trùm lên mọi vấn đề là dân chủ hoá, là đổi mới hệ thống chính trị, là chuyển hệ thống chính trị toàn trị (đang biến chủng sang hậu toàn trị) hiện hành thành một hệ thống chính trị dân chủ (theo tôi ban đầu hãy cứ cố được như Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân thực hiện năm 1946 là mừng lắm rồi) bằng những bước đi thích hợp nhất, những biện pháp ít gây xáo trộn nhất với vai trò chủ động của Đảng, trong đó sự thức tỉnh về ý thức, ý chí và hành động của từng đảng viên, từng người dân về quyền làm chủ - đảng viên làm chủ Đảng, công dân làm chủ các hội đoàn mà họ tham gia – là sức mạnh quyết định.

            Như tôi vừa nêu trên, một số nhà trí thức trong và ngoài Đảng đã đề xuất một lối ra cho Đảng, cũng là lối ra cho toàn dân tộc, là con đường xã hội dân chủ.

            Bên Trung Quốc, các nhà nghiên cứu, đồng thời là cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản như Tân Tử Lăng, Tạ Thao cũng đã nêu ra con đường xã hội dân chủ.

            Thế đấy, một sự tương hợp thật lý thú, sau bao nhiêu dồi dập hỗn mang (nhân danh Mác) diễn ra trên một vùng đất thuộc phương Đông xa xôi và bí ẩn (đối với Mác), sau bao nhiêu khổ nạn khổ công tìm kiếm, nhiều trí thức từ những nguồn cội khác nhau nhưng có chung cuộc đời theo Mác đã cùng gặp nhau ở con đường xã hội dân chủ.

            Các học giả Trung Quốc đều là những đảng viên cao cấp “canh cánh một lòng cứu Đảng”, như Tạ Thao bày tỏ. Các trí thức nước ta mà tôi dẫn tên trên đây cũng đều một lòng một chí tìm kiếm khoa học và đề xuất với Đảng cầm quyền một con đường phát triển và dân chủ hoá tối ưu cho dân tộc, con đường xã hội dân chủ.

            Thực ra, qua nghiên cứu của anh Mai Thái Lĩnh, cuộc tìm kiếm và gặp gỡ con đường xã hội dân chủ ở ta đã khởi từ cụ Phan Châu Trinh. Và Phan Châu Trinh, một nhà Nho hâm mộ những tư tưởng tiến bộ của Âu Tây nhưng với một bản lĩnh tư duy độc lập cực kỳ vững vàng và nhạy bén, cụ sớm lên án bệnh hủ Nho và cảnh báo bệnh hủ Âu, ngay từ 1925 đã nhấn mạnh vấn đề tiếp thu tư tưởng xã hội dân chủ Âu Tây phải gắn với việc phát huy những yếu tố tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực trong con người và văn hoá Nho giáo Việt Nam. Nếu biết đánh giá đúng tầm quan trọng của phát hiện này và quảng bá rộng rãi, sẽ càng khiến Đảng ta dân ta thêm tự tin.

            Anh Nguyễn Đức Bình hẳn cũng canh cánh một lòng cứu Đảng, nhưng anh cứu bằng cái bài thuốc bấy lâu Đảng vẫn dùng mà càng dùng càng suy yếu. Còn với bài thuốc Tân Tử Lăng, Tạ Thao bốc cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, đảng ấy chưa có ý kiến gì chính thức, thì anh Bình quá lo cho giới cầm quyền bên ấy, vội can “chớ ảo tưởng về con đường xã hội dân chủ”, thậm chí còn lên án vô căn cứ người ta “xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ Mác, Ăng-ghen và chủ nghĩa Mác”. Phải chăng anh Bình đang thực hiện việc hợp tác về công tác lý luận giữa Đảng ta với Đảng Cộng sản Trung Quốc, dùng ngòi bút của mình để ngăn trở xu thế đổi mới tư duy ở cả hai nước? Đảng ta đang bế tắc về lý luận (ngấm ngầm phản bội chủ trương của Đại hội 6, không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám nói rõ sự thật thì sao khỏi bế tắc?), anh Bình muốn cứu Đảng, nhưng tôi ngờ rằng anh cứu Đảng từ một lập trường lệ thuộc, tức lập trường vong bản. Nhân đây, tôi lưu ý các anh, cũng là lưu ý toàn Đảng toàn dân một việc như sau: trong buổi trả lời phỏng vấn của đài RFI phát 10g đêm 15.9.2007, nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng thông báo với mọi người rằng ông đã soạn một cuốn sách với rất nhiều bằng chứng giá trị chứng minh chủ quyền của nước ta trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, với sự nhất trí và giới thiệu của nguyên trưởng ban biên giới của chính phủ là Lê Minh Nghĩa, nhưng gửi đến nhà xuất bản nhiều năm nay vẫn không được in, trong khi đó một cuốn từ điển của Trung Quốc mới xuất bản, ở mục về Hoàng Sa và Trường Sa họ ghi rõ chủ quyền của họ thì lại được ngang nhiên bày bán tại hội chợ sách TP HCM. Thế là thế nào? Nếu người dân bảo đó là lập trường vong bản, bán nước thì ta cãi sao đây? Theo tôi, anh Nông Đức Mạnh và bộ chính trị phải có trách nhiệm đảm bảo cho cuốn sách nói trên của nhà nghiên cứu Nguyễn Q. Thắng được xuất bản ngay.

            Trong một bài viết, anh Nguyễn Đức Bình đã yêu cầu “phải đặt tất cả mọi bất đồng lên bàn tranh luận công khai”. Thật là một đề xuất đáng khích lệ, làm nức lòng các nhà lý luận từ mọi phía, bởi được nêu ra dưới ngòi bút của một nhà lý luận hàng đầu của Đảng ta, từng nhiều năm giữ những cương vị quan trọng: Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách văn hoá tư tưởng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Anh Nông Đức Mạnh đã nhiều lần tuyên bố “tôn trọng các ý kiến khác biệt”, đương nhiên không thể không sớm đáp ứng yêu cầu rất chính đáng ấy của anh Nguyễn Đức Bình, cũng là của tất cả những ai làm lý luận và quan tâm đến lý luận.

            Vậy tôi mong báo Nhân Dân sau khi đã đăng bài anh Nguyễn Đức Bình thì cần phải đăng bức thư ngỏ này của tôi, đăng bài “Tư tưởng và dân trí là nền móng xã hội” của anh Hà Sĩ Phu là bài liên quan trực tiếp đến bài lý luận của anh Nguyễn Đức Bình, đồng thời mời các anh Lê Hồng Hà, Lê Đăng Doanh, Hà Sĩ Phu, Phan Đình Diệu, Lữ Phương, Mai Thái Lĩnh viết bài tranh luận với anh Nguyễn Đức Bình. Tôi cũng đề nghị nên mời tác giả Tạ Thao của Trung Quốc viết bài trả lời anh Nguyễn Đức Bình. Thêm nữa, nên mời các nhà lý luận và các nhà chính trị của các đảng xã hội dân chủ Bắc Âu, Tây Âu viết bài cho báo Nhân Dân giới thiệu cả về lý luận lẫn kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chế độ xã hội dân chủ của họ.

            Thưa các anh,

            Thư tuy đã hơi dài, nhưng trước khi dừng bút tôi muốn bày tỏ thêm đôi điều tâm sự.

            Chúng ta đều đã quá cái tuổi “tri thiên mệnh” từ lâu, có anh đã quá bát thập rồi, bàn chân đã mấp mé ngưỡng cửa hư vô rồi. Ở cái tuổi này, mỗi lời nói, mỗi trang viết, mỗi việc làm đều là chắt lọc sự nghĩ và sự trải của cả một đời, là biểu hiện một lẽ sống đã được xác quyết, trong thâm tâm không thể không tự biết cuối cùng ta đã sống một cuộc đời có ý nghĩa hay vô nghĩa, ta đã góp được gì có ích cho đời để đời thương kính hay làm hại đời để chuốc lấy lời nguyền rủa muôn đời trút lên đầu con cháu.

            Chắc chắn là anh Nguyễn Đức Bình không thể không đọc các bài viết mấy năm gần đây của anh Hoàng Tùng - một bậc đàn anh của anh về lý luận Mác Lê-nin, và anh Bình không thể không hiểu vì sao anh Tùng lại phải cầm bút thổ lộ cho mọi người biết những suy nghĩ đã rất khác trước của mình về cái chủ nghĩa mà mình gần hết cả đời tôn thờ, truyền giảng.

            Đọc đi đọc lại bài của anh Nguyễn Đức Bình, tôi cứ muốn hỏi anh: này anh Bình, xin hãy nói thật lòng, anh có tin vào những điều mình viết không? Và anh Nông Đức Mạnh, anh có thực sự cho rằng bài viết của anh Nguyễn Đức Bình là lý luận khoa học? Và xin hỏi anh Mạnh anh Bình, hai anh có thật sự nghĩ rằng giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo xã hội Việt Nam? Hai anh trong thâm tâm có dám tự nhận mình là người đầy tớ của nhân dân (mấy năm gần đây không thấy nhắc lại cụm từ này trong các văn kiện và các phát biểu, hẳn vì không còn đủ can đảm để thốt ra một danh xưng đã trở thành hài hước)? Từ khi vào Trung ương rồi vào Bộ Chính trị, hai anh có thực tâm coi vị trí công tác của mình là vị trí chiến đấu vì dân vì nước, vì lẽ phải và công lý (như các anh thường xuyên lên bục rao giảng cho cán bộ, đảng viên) hay đó chỉ là “chiến đấu” nhằm giữ ngai, giữ ghế vua quan cách mạng? Tôi biết hai anh sẽ không chính thức trả lời tôi, nhưng vào những đêm mất ngủ của tuổi già, các anh không thể không trả lời cho chính lương tâm mình, lương tri mình.

            Tôi tin ở sức mạnh của lương tâm, lương tri. Đó là một sức mạnh vô địch, trường cửu. Sức mạnh ấy tồn tại và truyền nối trong hồn thiêng của tổ tiên ta, của tất cả những người con bao đời nay đã hiến dâng mồ hôi xương máu cho đất Mẹ Việt Nam yêu dấu ngàn năm của chúng ta. Sức mạnh ấy sống mãi trong mỗi con người Việt Nam, trong trời đất cỏ cây sông núi Việt Nam, sức mạnh ấy là nguồn sống nguồn sáng vĩnh hằng đang ngày đêm rọi chiếu cõi lòng tất cả những ai đã nguyện thề làm người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Sức mạnh ấy cũng đang ngày đêm rọi chiếu vào tận ngóc ngách đen tối nhất trong cõi lòng những kẻ thẻ-đỏ-tim-đen, những kẻ đang nắm giữ chức quyền nhưng lòng đã tha hoá mà ta vẫn lên án, dù cho chúng có rúc kín đến đâu trong những lâu đài nghênh ngang kiên cố giữa năm bảy lớp rào được dựng nên bằng quyền lực bất lương.

            Bởi tin thế nên tôi mới có bức thư ngỏ này.

            Trong đoạn văn của anh Nguyễn Đức Bình tôi dẫn bên trên có chỗ nêu rõ: “…chuyên chính đối với những kẻ thù chống lại lợi ích Tổ quốc và nhân dân”.

            Những kẻ thù nào vậy?

            Sau khi đuổi xong giặc ngoại xâm, thì trong “những kẻ thù chống lại lợi ích Tổ quốc và nhân dân”, nguy hiểm nhất là giặc nội xâm, Hồ Chủ tịch đã vạch rõ như thế, ngay từ khi ta mới giành được chính quyền, điều này thì hai anh thuộc bài hơn tôi, và không mấy ngày không lặp đi lặp lại trên báo đài.

            Mọi người đều biết giặc nội xâm nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm vì nó sinh ra từ chủ nghĩa cá nhân của những cán bộ có chức quyền. Hồ Chủ tịch đã nhiều lần nhấn mạnh: “chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm nhất”. Và là siêu nguy hiểm khi chủ nghĩa cá nhân nằm ngay trong một số cán bộ giữ trọng trách ở cơ quan quyền lực tối cao, nhất là ở người nắm giữ công tác tổ chức, công tác cán bộ. Bao nhiêu năm ròng, công tác cán bộ, nhất là việc chọn cán bộ vào Trung ương, vào Bộ Chính trị lại thâu tóm trong tay một vài cá nhân ở cấp tối cao. Các cuộc bỏ phiểu ở mỗi kỳ đại hội chỉ là hình thức để hợp thức hoá sự sắp đặt rất cá nhân chủ nghĩa, rất bè phái của mấy người ấy. Thế là đẻ ra một tình trạng bè phái tham nhũng quyền lực có hệ thống, một Đảng Đen đã xuất hiện và lộng hành trong lòng Đảng Đỏ. Cái Đảng Đen này chỉ gồm một số ít những phần tử thẻ-đỏ-tim-đen lợi dụng tình trạng mất dân chủ và sinh hoạt khép kín trong Đảng để cố kết với nhau nắm giữ nhiều vị trí quyền lực trọng yếu, thao túng công tác nhân sự của Đảng. Vị trí công tác, chức vụ, cấp bậc của mỗi cán bộ không còn tuỳ thuộc vào năng lực phẩm chất của họ với sự tín nhiệm đích thực của nhân dân mà tuỳ thuộc vào sự sắp đặt bí mật từ bên trên, và thế tất không thể tránh khỏi đẻ ra một cái chợ đen âm thầm mua bán chức quyền. Nhiều năm ròng, nhất là từ sau 1975, trong Đảng đã diễn ra một hoạt động rất nham hiểm, rất xảo quyệt là hoạt động vu tội cướp công, cướp quyền. Biết bao đồng chí tài năng và đức độ, một đời tận tuỵ dày công vì dân vì nước đã là nạn nhân rất thảm khốc của thủ đoạn đó. Một bi kịch lớn trong lòng Đảng đang ngày đêm huỷ hoại những gì lành mạnh nhất, tốt đẹp nhất, quí giá nhất của Đảng kết tinh từ sự hy sinh xương máu của hàng triệu nhân dân và đảng viên: công thần thì bị vu tội cướp công còn gian nịnh thì leo lên vùn vụt dùng xảo thuật pháp lý tạo ra cả những tổ chức siêu Đảng siêu Nhà nước tiến hành hoạt động phá hoại kéo dài có hệ thống, như đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ rõ, kèm theo quá trình đó là sự tê liệt sức chiến đấu ở hầu hết tổ chức Đảng. Đại đa số đảng viên đã tự buông mất quyền làm chủ của mình trong Đảng, sinh hoạt Đảng trở nên hình thức, ở các Đảng bộ hưu trí thì nội dung vụn vặt, vô hồn, ở các Đảng bộ cơ quan thì cũng vô hồn không kém hoặc chỉ “có hồn” theo những cuộc đấu đá sặc mùi xôi thịt. Ở cơ sở là thế mà huyện tỉnh trung ương cũng thế.

            Đại hội Đảng lần thứ 6 đã vạch rõ công tác tổ chức là nguyên nhân của mọi nguyên nhân những thành tích và những sai lầm của Đảng. Nhưng từ Đại hội 6 đến nay, chưa hề có một cuộc tổng kiểm điểm đến nơi đến chốn về công tác tổ chức, công tác cán bộ, đặc biệt là công tác chuẩn bị nhân sự cho Trung ương và Bộ Chính trị các khoá. Tại sao lại như vậy? Rất dễ hiểu, vì giặc nội xâm ẩn náu trong Đảng luôn ra sức ngăn trở cuộc kiểm điểm ấy, bởi nếu kiểm điểm đến nơi đến chốn thì Đảng Đen cùng cả một bè mảng thẻ-đỏ-tim-đen sẽ bị lôi ra ánh sáng.

            Nhớ năm nào, nhà văn Sơn Tùng nói chuyện với cán bộ ở Chí Linh đã nói thẳng rằng trong Bộ Chính trị chỉ có số ít đồng chí không tham nhũng. Anh Sơn Tùng bị làm khó dễ một thời gian nhưng cuối cùng cũng chẳng làm gì được anh vì anh phát biểu có căn cứ, có trách nhiệm. Các lão thành cách mạng hỏi nhau: có phải báo Nhân Dân đưa tin Tổng Bí thư Đỗ Mười nhận quà biếu 1 triệu đô? Anh Lê Khả Phiêu trả lời phỏng vấn của báo Tuổi Trẻ phơi bày một sự thật: có những phong bì hàng chục ngàn đô gài trong lẵng hoa đem đến đặt ở phòng Tổng Bí thư, hẳn nhiên anh Phiêu không để cho mình bị cuốn vào vòng ăn của đút nên mới dám công khai chuyện này? Anh Đỗ Quang Thắng, lúc đương nhiệm Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, nói trực tiếp với tôi, trong cuộc tôi gặp anh ngày 19 tháng 3 năm 1995: “Anh có biết không, mỗi chữ ký của người ta hàng trăm triệu đồng”.

            Thời chống ngoại xâm, đạo đức cách mạng của cán bộ đảng viên là một sức mạnh lớn, từ đó dấy lên sức mạnh không gì dập nổi của nhân dân. Nhưng đến thời chống nội xâm, sức mạnh ấy bị mòn mỏi, bị huỷ hoại từng ngày, và đồng thời bạo phát một thứ sức mạnh phản đạo đức, giả đạo đức của giặc nội xâm. Các anh có nghe thấy ngày ngày vang lên khắp chốn bài ca bia ôm hát theo nhạc Trịnh Công Sơn (“Một cõi đi về”):


            Nhân dân chi tiền thì cứ bia ôm
            Lâu lâu bia ôm cho đời trẻ lại
            Ai không bia ôm một đời khờ dại
            Kệ bố nhân dân dù đói hay nghèo…

            KỆ BỐ NHÂN DÂN - đó là tuyên ngôn của giặc nội xâm đấy.

            Các anh có nghe thấy không?

            Toàn Đảng toàn Dân có nghe thấy không?

            Tôi thường ngồi với các đảng viên lão thành, các cựu chiến binh, cứ bàn đến chuyện chỉnh đốn xây dựng Đảng là mọi người lại hỏi nhau: “Này, trong Bộ Chính trị hiện nay có ai là có đủ tầm trí tuệ chiến lược và phẩm chất đáng tin cậy?”

            Mọi người nhìn nhau lắc đầu.

            Lịch sử Đảng ghi rõ, vào giờ phút hiểm nghèo nhất khi chèo lái con thuyền đất nước, để cho dân tin, Hồ Chủ tịch đã phải tuyên bố trước quốc dân: “Hồ Chí Minh không bán nước”. Đó là lời thốt lên, giản dị và chắc nịch, từ đáy lòng một con người hoàn toàn tự tin vào sự liêm khiết tận trung với nước của mình, lời ấy đi thẳng vào lòng dân và dân tin ngay.

            Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh hiện nay không mấy ngày không nhắc nhở đôn đốc việc học và hành theo tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Tôi mong anh Nông Đức Mạnh ngay ngày mai hãy lên đài tuyên bố: “Nông Đức Mạnh này không tham nhũng”. Nếu lời ấy phát ra từ đáy lòng một con người hoàn toàn tự tin vào sự liêm khiết tận trung với nước của mình, thì tự nhiên nó cũng đi thẳng vào lòng người dân, tạo nên ngọn trào toàn dân chống tham nhũng, cuốn phăng mọi rác rưởi trong Đảng. Hiệu ứng ấy sẽ là minh chứng, là thước đo cho bản lãnh, cho sự trong sáng trong tâm hồn người thủ lĩnh. Và Bộ Chính trị hãy mời ngay đạo diễn nghệ sĩ nhân dân Trần Văn Thuỷ, tác giả bộ phim nổi tiếng Chuyện tử tế, thực hiện gấp bộ phim Chuyện nhà đất, phần 1 quay cảnh và phỏng vấn các quan chức từ Tổng Bí thư đến bí thư xã xem nhà cửa đất đai của từng vị thế nào, phần 2 quay cảnh và phỏng vấn những người dân bị mất nhà mất đất phải đi khiếu kiện ròng rã.

            Giặc nội xâm vừa là bọn tham nhũng đồng thời cũng là bọn chống dân chủ (vì dân chủ chính là khắc tinh số một của tham nhũng), chúng vừa móc túi dân, cướp đất dân vừa bóp cổ bịt miệng dân.

            Giặc nội xâm nguy hiểm hơn ngoại xâm vì nó tác oai tác quái trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập, người dân bị mất nước mà vẫn lơ mơ huyễn tưởng tự hào mình là dân một nước độc lập.

            Rõ ràng công việc hệ trọng hơn hết, một công việc có tầm chiến lược, tầm quốc sách là phải tiến hành ngay:

            MỘT CUỘC VẬN ĐỘNG TOÀN ĐẢNG TOÀN DÂN CHUYỂN TOÀN BỘ SỨC MẠNH DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC CHỐNG NGOẠI XÂM TRƯỚC KIA VÀO CÔNG CUỘC CHỐNG NỘI XÂM, XÂY DỰNG DÂN CHỦ CỨU NƯỚC CỨU NHÀ NGÀY NAY.

            Cuộc vận động này nói chữ là DÂN CHỦ HOÁ, nói nôm na là một CUỘC ĐÒI NỢ. Đây là món nợ xương máu mà những người cách mạng Việt nam nợ nhân dân Việt nam. Ngay từ năm 1957, với tất cả nhạy cảm của một thi sĩ-chiến sĩ cộng sản, nhà thơ Trần Dần (Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật) đã sớm phát hiện những dấu hiệu giặc nội xâm ẩn náu trong bộ máy Đảng và nhà nước mưu toan vỗ nợ, và lên tiếng cảnh báo:


            Dù có thể quen tay vỗ nợ
            Chớ bao giờ vỗ nợ nhân dân

            Khi toàn dân tự xác lập được thế đứng của người đi dẹp giặc nội xâm, người chủ nợ đi đòi nợ, thì sức mạnh ghê gớm của cả một dân tộc chiến thắng ngoại xâm sẽ dần hồi phục trong từng người dân Việt, và đương nhiên cái tập quán xin–cho rất nguy hại ngự trị bao năm ròng sẽ dần bị loại khỏi đời sống xã hội.

            Đây là cuộc vận động hướng vào thực chất của chuyển động xã hội, tiến hành bằng một phương pháp dễ làm nhất, đảng viên nào, công dân nào cũng làm được, mà bước đi ban đầu có thể tóm gọn trong mấy việc sau:


            Khi đã thức tỉnh thì mỗi đảng viên, mỗi người dân sẽ làm những việc trên như là tự tạo niềm vui sống hàng ngày của mình, như là tự bồi đắp một tố chất mới hàng ngàn năm nay chưa hề có trong con người Việt Nam mình, và chính con người mới này là chủ thể quyết định của tiến trình dân chủ hoá đất nước Việt Nam. Làm được như thế cũng chính là nâng cao Đảng trí, Dân trí, cũng chính là xây dựng một xã hội dân sự, xã hội công dân lành mạnh, văn minh mà thế giới không thể không đồng tình, ca ngợi.

            Làm được như thế thì cuộc CHỐNG NỘI XÂM, XÂY DỰNG DÂN CHỦ sẽ được toàn dân nô nức tham gia như ngày hội - ngày hội NGÀN NĂM CÓ MỘT!

            Kính thư

            Đà Lạt ngày 03 tháng 10.2007

            BÙI MINH QUỐC
            03 Nguyễn Thượng Hiền - Đà Lạt
            ĐT: 063 – 815459 * 0918007842

            © 2007 talawas





            [1]Ý kiến phát biểu trong “Chương trình khoa học KX.10” do Ban tổ chức Trung ương chủ trì năm 2004 (nhằm phục vụ cho Đại hội X của ĐSCVN).
            [2]Bản ghi lại theo băng ghi âm
            [3]Trả lời phỏng vấn của Đoàn Giao Thuỷ, Diễn Đàn, 28.7.2007.
            [4]Diễn Đàn, 9.8.2007.
             
             
            http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=11093&rb=0401

            #5
              Ngọc Lý 12.11.2007 06:49:27 (permalink)
              .
               
               
              Chôn
              (Bùi Minh Quốc, Việt Nam)
               

              Từng chữ
              từng chữ
              bút mài lên núi thét sông gầm
              nhọn sắc đến từng dấu phẩy
              đêm đêm đào huyệt giấy
              ngày ngày chôn lũ phản dân.



              (Đà Lạt, 4 giờ sáng 5-10-2004) 
               

              Chú thích: đêm đêm đào huyệt giấy
              Thơ Nguyễn Bính: "Bút đào huyệt giấy mà chôn hồn mình"

               
              http://annonymous.online.fr/Thivien/viewpoem.php?ID=4297



              <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.11.2007 06:51:04 bởi Ngọc Lý >
              #6
                Ngọc Lý 16.12.2007 12:59:35 (permalink)
                Nhà thơ Bùi Minh Quốc kêu gọi giới văn nghệ sĩ lên tiếng về vụ Trường Sa-Hoàng Sa
                2007.12.15
                Việt Hùng, thông tín viên đài RFA
                 
                "Đã đến lúc văn nghệ sĩ tại Việt Nam cần phải có thái độ", thưa quí thính giả đó là lời tuyên bố của nhà thơ Bùi Minh Quốc trong cuộc nói chuyện với Việt Hùng của Đài Á Châu Tự Do chúng tôi liên quan đến lá thư mới đây của ông Bùi Minh Quốc gửi Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam yêu cầu Hội nhà văn phải có tiếng nói chính thức về vấn đề hiện gây tranh chấp trong vùng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc. Mời anh Việt Hùng trong cuộc trao đổi.


                Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
                Tải xuống để nghe


                  Nhà thơ Bùi Minh Quốc.
                   
                  Việt Hùng: Thưa ông Bùi Minh Quốc, lên tiếng bày tỏ ý kiến là chuyện không mấy khó hiểu, nhưng lên tiếng kêu gọi sự ủng hộ bày tỏ quan điểm trong một vấn đề khá nhạy cảm đối với các nhà lãnh đạo tại Việt Nam liên quan đến vấn đề biên giới lãnh hải với Trung Quốc, ông có cho rằng ông đang kêu gọi dư luận, chí ít thì cũng là những người bạn văn nghệ sĩ của ông, ông nghĩ sao về điều này?

                  Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Vâng, tôi thấy đây là một nhu cầu tự thân của mình, lòng mình và trách nhiệm của mình, của người yêu nước bình thường và của một người cầm bút trước một vấn đề lớn của đất nước, lãnh thổ lãnh hải bị xâm phạm, đó là nỗi đau bao nhiêu năm nay của đất nước và của cả bản thân tôi nữa thế thành khi Quốc hội Trung Quốc quyết định thành lập huyện Tam Sa để quản lý vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc của Việt Nam, điều đó với tôi rất đau lòng.

                  Ngay sau khi Trung Quốc có quyết định như thế tôi thấy trên các báo ở Việt Nam tôi thấy những đồng nghiệp của tôi những người cầm bút như tiến sĩ Nguyễn Nhã, nhà báo Bùi Thanh, các nhà văn Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Viện, Lynh Bacardi, Thận Nhiên, Trần Tiến Dũng, nhạc sĩ Tuấn Khanh, họa sĩ Trịnh Cung, các anh các chị đó đã bày tỏ thái độ.

                  Không những chỉ văn nghệ sĩ mà nhân dân ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhất là các bạn trẻ, ngay cả những bậc cao tuổi cũng có mặt trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và trước Lãnh sự quán Trung Quốc ở thành phố Hồ Chí Minh để bày tỏ thái độ, bày tỏ sự bất bình của mình và khẳng định Hoàng Sa và Trường sa là của Việt Nam, khẳng định cho những người cầm quyền Trung Quốc biết như vậy.

                  Việt Hùng: Nhưng thưa nhà thơ Bùi Minh Quốc lá thư ông gửi đề ngày 10-12 vừa qua tới Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam là nhằm mục đích gì?

                  Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Trước hết là tôi thông tin đến Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam và những đồng nghiệp của tôi hiện đang sinh hoạt trong Hội nhà văn về những điều tôi vừa nói. Kế đó tôi muốn bày tỏ mong muốn của tôi tới Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam cần có ngày tuyên bố chính thức nói lên quan điểm chung của Hội nhà văn, giới nhà văn về vấn đề này.

                  Điều mong muốn thư hai là tất cả những đồng nghiệp của tôi trong Hội nhà văn sớm có tiếng nói độc lập của mỗi người. Điều thứ ba tôi yê cầu Hội nhà văn Việt Nam liên hệ ngay với nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Thắng để xuất bản ngay cuốn Hoàng Sa, Trường Sa với công pháp quốc tế của anh Nguyễn Quốc Thắng anh ấy đã soạn thảo từ lâu rồi.


                  Hàng trăm người Việt Nam biểu tình trước Tòa đại sứ Trung ở Hà Nội hôm 9-12-2007, để phản đối việc TQ xâm phạm chủ quyền lãnh hải VN. AFP PHOTO.

                  Cuốn này theo ông Lê Minh Nghĩa, Trưởng ban Biên giới trước kia ông ấy đã đọc thì ông ấy cho rằng đấy là một cuốn sách rất có giá trị về mọi mặt nhất là về sử liệu rất có giá trị để chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo ấy.

                  Việt Hùng: Ông có cho rằng Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam sẽ trả lời thư của ông?

                  Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Cái gọi là tính tích cực chủ động của Ban chấp hành Hội nhà văn là rất yếu. Thường là cứ chờ nghe ngóng lệnh của cấp trên, thành ra đối với vấn đề này thì tôi chưa hiểu được cái tập quán xấu đó có đỡ đi được không vì trước một vấn đề hết sức nóng bỏng, bức xúc trước một vấn đề có thể nói đất nước đang bị xâm lược, lãnh thổ đang bị xâm lấn, thế bây giờ sẽ phải như thế nào đây? tất cả những người Việt Nam yêu nước phải có trách nhiệm và tiếng nói của mình.

                  Việt Hùng: Văn nghệ sĩ thường nhạy cảm trước thời cuộc, phải chăng trong trường hợp này ông cảm được điều gì?

                  Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Bằng chứng rất rõ như nhà văn đồng nghiệp của tôi là anh Nguyễn Khắc Phục, chị Lynh Bacardi, anh Nguyễn Viện, rồi anh Trịnh Cung, Trịnh Cung, Trần Tiến Dũng... đã có tiếng nói rất sớm. Đặc biệt là nhà báo Bùi Thanh đã có bài viết rất sắc sảo đăng trên tờ Tuổi Trẻ ngay trong ngày 4 hay 5-12 vừa qua, rồi anh Nguyễn Nhã..., điều đó chứng tỏ sự nhạy cảm của giới văn nghệ sĩ trí thức rất nhạy cảm.

                  Lâu nay người ta vẫn coi văn nghệ sĩ trí thức là những người nói lên tiếng nói của lương tri dân tộc, của tình cảm dân tộc thì kỳ này tôi thấy các anh các chị đó đã nêu một tấm gương rất là quí cho nên tôi phải viết ngay thư cho Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam để bày tỏ sự hoan nghênh của tôi đối với các anh các chị đó.

                  Việt Hùng: Liên quan đến cuộc biểu tình của thanh niên sinh viên vào hôm mùng 9-12 vừa qua, thưa ông Bùi Minh Quốc, nhìn qua kinh nghiệm tại một số quốc gia Đông Âu cũ, những cuộc xuống đường của giới sinh viên thường luôn được sự hậu thuẫn của giới văn nghệ sĩ nhất là trong những trường hợp liên quan đến vận mệnh quốc gia. Trong trường hợp này ông cảm như thế nào, liệu văn nghệ sĩ tại Việt Nam có nhập cuộc hay không?



                  Bạn nghĩ gì về vụ tranh chấp này? Xin gửi email về Vietweb@rfa.org, hoặc vào Diễn đàn RFA



                  Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Ở Việt Nam thì tình hình cũng khác tức là những nhân tố tích cực trong giới trí thức văn nghệ sĩ cũng chưa có nhiều lắm, tức là qua tiếp xúc với nhau qua giới bạn bè đồng nghiệp của tôi thì tôi thấy phần lớn các anh các chị đó tâm huyết với dân với nước đều có những ưu tư. Thế nhưng từ những tâm huyết ấy, những âm trạng ấy, những suy nghĩ ấy để đi đến hành động thì đối với không ít người khoảng cách vẫn còn hơi xa...

                  Theo tôi mỗi người phải vượt lên tự chính mình và quá trình tự vượt này tôi nghĩ cũng không được nhanh đâu, nhưng tôi nghĩ rằng trước sau gì thì đông đảo anh chị em văn nghệ sĩ không thể nào cứ "co" mãi trong cái thế giới riêng của mình được.

                  Thói quen ngồi "xó", quán nước ở vỉa hè thì nói rất ghê, rất bạo miệng, thế nhưng khi cần có một thái độ chính thức công khai thì nó cứ lùng nhùng làm sao ấy. Chứ lâu nay tình trạng là như thế, tôi hi vọng lần này trước hành động ngang ngược như thế này của Trung Quốc thì tôi tin chắc là anh chị em không thể cứ ngồi "xó" nói với nhau như thế mãi được nữa.

                  Việt Hùng: Tâm trạng của một nhà thơ trước thời cuộc ông sẽ nói gì trước khi chấm dứt của trao đổi liên quan đến vấn đề biên giới lãnh hải Việt Nam - Trung Quốc?

                  Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Vâng, để kết thúc buổi trò chuyện hôm nay thì tôi xin đọc bài thơ tôi viết cách đây 6 năm vào tháng 11 năm 2001 khi tôi thực hiện chuyến đi thăm 10 tỉnh Việt Bắc, thăm mấy tỉnh biên giới phía Bắc. Nhân dịp đó tôi có là một chùm 4 bài thơ, tôi xin đọc để mời quí vị nghe bài thơ chỉ có 4 câu đó là bài Tiếng Máu Biên Cương

                  Tổ quốc còn đau món nợ Tân Trào
                  Con nghe buốt dọc biên cương tiếng máu
                  Tiếng người xưa truyền muôn đời con cháu
                  Một tấc giang sơn không được để hao mòn.


                  Việt Hùng: Và chúng tôi cũng xin đóng lại phần nói chuyện với nhà thơ Bùi Minh Quốc từ Đà Lạt, một lần nữa xin cám ơn nhà thơ Bùi Minh Quốc.

                   
                  © 2007 Radio Free Asia
                   
                  http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2007/12/15/HoangSaTruongSaIslandsOverviewByBuiMinhQuoc_VHung/
                   
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 16.12.2007 13:02:00 bởi Ngọc Lý >
                  #7
                    saigonthangtu 07.05.2008 09:01:49 (permalink)
                    Bùi Minh Quốc
                    Hội Nhập song hành với chiến đấu cho Tự Do Ngôn Luận 
                     
                     
                    Lời mở của Tác giả:
                    Một số đồng nghiệp văn chương trong và ngoài nước gần đây đã thực hiện một sáng kiến rất hay: lập một diễn đàn trên mạng mang tên HỘI LUẬN VĂN HỌC VIỆT NAM (HLVHVN) để cùng nhau thảo luận nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề hội nhập của văn học Việt Nam. Tôi trân trọng gửi bài viết này cùng lúc đến hai địa chỉ là Ban biên tập HLVHVN và Ban biên tập TALAWAS với mong muốn rủ rê các đồng nghiệp thường đọc TALAWAS (tôi tin là rất đông) mà chưa biết HLVHVN thì cùng tham gia bàn luận cho rôm rả. Tôi cũng chưa có điều kiện đọc hết ý kiến của các đồng nghiệp về đề tài chúng ta đang bàn, nên lỡ ý nào của tôi vô tình giống với ý tác giả khác thì xin lượng thứ.
                     
                    Tôi luôn nghĩ văn học Việt Nam, dù được tạo ra ở Hà Nội, Sài Gòn, Pa-ri, Oa-sinh-tơn, Ca-li-phooc-ni-a, Béc-lin hay một buôn/bản làng hẻo lánh nào đó ở Cà Mau, Tây Nguyên, Tây Bắc, Việt Bắc thì đều là một; là nền văn học Việt Nam nằm trong văn hóa văn hiến Việt Nam, trước kia là thế mà nay vẫn thế. Nhưng lịch sử éo le và bi thảm đã không cho nó được là một. Chiến tranh, đấu tranh giai cấp, ly tán, chia cắt, di tản, vượt biên, du học và xuất khẩu lao động rồi cư trú mưu sinh ở xứ người… đã khiến văn học Việt Nam phải phát triển trong những không gian tự nhiên khác nhau, không gian chính trị khác/xung khắc nhau, do đó được nhìn nhận tiếp nhận, theo những nhãn quan cảm quan khác nhau.
                     
                    Thế nên giờ đây chúng ta mới phải cùng nhau thảo luận để tìm cách mở đường cho văn học Việt Nam hội nhập không những với mặt bằng đời sống văn hóa toàn cầu, mà còn có chuyện phải hội nhập trong nội bộ dân tộc như hội nhập Bắc Nam (trước kia và di lụy đến nay), hội nhập trong ngoài - trong nước và hải ngoại.
                     
                    Theo thiển nghĩ của riêng tôi, chúng ta cần phải gắn quá trình hội nhập với cuộc chiến đấu cho tự do ngôn luận trên đất nước ta hiện nay, mà sát sườn nhất hệ trọng nhất đối với giới cầm bút là tự do báo chí và tự do xuất bản.
                     
                    Hãy hình dung, vui sướng biết bao, đến một ngày nào đó - tôi mong là sẽ không còn quá xa nữa nhờ sự nỗ lực chung - sách của đông đảo các nhà văn Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài (cùng các tác phẩm xuất bản ở miền Nam trước năm 1975) sẽ được xuất bản lưu hành bình thường ở trong nước, người thưởng thức cần bao nhiêu in bấy nhiêu, in nhiều bán hết thì tác giả và nhà xuất bản hưởng lộc lớn (từ độc giả), bán ế thua lỗ thì tác giả và nhà xuất bản chịu, nghĩa là nhà văn Việt Nam chúng ta được pháp luật Việt Nam đảm bảo thực hiện cái quyền (mà hiến pháp Việt Nam đã ghi từ lâu) bình thường như mọi nhà văn ở những nước có tự do báo chí và tự do xuất bản: Nhà văn được quyền tự in và bán sách của mình; như người nông dân Việt Nam hiện nay được quyền mang cân lúa của mình ra chợ bán.
                     
                    Để đi tới được một ngày bình thường muôn vàn sung sướng như thế, những người cầm bút trung thực không thể ngồi chờ ai ban phát cho mà phải chiến đấu để giành lấy. Như Phùng Quán đã chiến đấu.
                     
                          Yêu ai cứ bảo là yêu
                          Ghét ai cứ bảo là ghét
                          Dù ai cầm dao dọa giết
                          Cũng không nói ghét thành yêu
                          Dù ai ngon ngọt nuông chiều
                          Cũng không nói yêu thành ghét
                          
                          Bút giấy tôi ai cướp giật đi
                          Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá
                     
                          (Trích bài “Lời mẹ dặn” – Thơ Phùng Quán )
                     
                    Phùng Quán đã dõng dạc cất lên tuyên ngôn thơ đanh thép về cái lẽ sinh tử đối với người cầm bút, “yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét”, dù cho cái đáng ghét khu trú ngay ở những chốn đầy quyền uy mà suốt bao năm ròng được cả một dàn đồng ca liên tục dâng lên những lời yêu kính, hoặc ngược lại, cái đáng yêu lại nằm trong những vùng vẫn bị nhìn với con mắt cảnh giác, kỳ thị một cách bất công. Bất chấp mọi khổ nạn gây ra bởi những thế lực sợ sự thật, Phùng Quán đã sống và viết trọn đời đúng như lời thơ tuyên ngôn từ thời trẻ ấy, thật là “nhất quán tận can trường” - như một vế trong đôi câu đối mà tiến sĩ Hà Sĩ Phu tiễn ông khi ông lên đường về cõi vĩnh hằng.
                     
                    Phùng Quán tiêu biểu cho sự lựa chọn sống và viết của một bộ phận văn nghệ sĩ trí thức Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua, song hành với một sự lựa chọn khác: lựa chọn của Nguyễn Đình Thi.
                     
                    Phùng Quán của “Lời mẹ dặn” vẫn luôn là Phùng Quán sống và viết theo lời mẹ dặn “làm nhà văn chân thật suốt đời”, còn Nguyễn Đình Thi của “Diệt Phát-xít”, của “Người Hà Nội” thì không phải như thế. Lúc gần cuối đời, Nguyễn Đình Thi đã gửi lại hậu thế những lời này:
                     
                    Người tôi còn nhiều bùn tanh  
                    Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ  
                    Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ  
                    Nhiều dây nhợ tự buộc mình  

                    Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm  
                    Quên cho những dối lừa khoác lác  
                    Tôi biết tôi đã nhiều lần ác  
                    Và ngu dại còn nhiều lần hơn


                    (Trích bài
                    Gió bay” - Thơ Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, 2001)
                     
                    Cùng chung một sự lựa chọn như nhà văn Nguyễn Đinh Thi là nhà văn Nguyễn Khải, cũng đã gửi lại hậu thế những lời gan ruột này 8 tháng trước khi mất:
                     
                    Chúng tôi biết nhau trong một thời kỳ hoà bình, là những viên chức nhà nước của một thời thanh bình. Anh (Nguyễn Đình) Thi là viên chức cấp cao, tôi là viên chức cấp thấp, cả cao lẫn thấp đều là thành viên của cái thế giới viên chức. Cái thế giới ấy có sống trong nó, sống với nó mới thấy hết cái tầm thường, cái nhỏ nhen, khó có ai tôn trọng được ai trong cuộc ganh đua vừa vô nghĩa vừa buồn cười. Trong cuộc ganh đua ấy không có người thắng, cả mọi người đều thua vì đã tự hạ mình trong nhiều chuyện nghĩ lại cũng là nhảm. Lại thêm nhiều chục năm chúng tôi luôn luôn bận rộn bởi nhiều cuộc tranh cãi về lập trường quan điểm giai cấp trong văn nghệ. Các cuộc tranh luận ấy lại diễn ra trong bầu không khí chính trị thường xuyên căng thẳng của một thế giới chia đôi, một đất nước chia đôi và một xã hội cũng bị chia ra bởi các cuộc đấu tranh giai cấp.”
                     
                    (Nguyễn Khải – “Chiến sĩ-nghệ sĩ” – báo Văn Nghệ số 17,18 ngày 29.4/5.5.2007)
                     
                    Đau quá, xót quá.
                    Mà thương quá.
                    Mà cũng cảm phục quá.
                     
                    Phải có một nội lực tinh thần thế nào mới viểt ra nổi những lời như thế về chính bản thân mình. (Tôi chưa đọc thấy ở đâu những lời tương tự của ông Tố Hữu, người mà tôi tự cho rằng mình đã chịu ảnh hưởng nhiều bởi thơ và đời ông giai đọan “Từ ấy”. Tôi mong các ủy viên bộ chính trị trước kia và hiện nay nên noi gương hai nhà văn Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khải mỗi khi nhắc nhở đảng viên đẩy mạnh phê bình và tự phê bình).
                     
                    Hai nhà văn Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khải đều là những tài năng thuộc cỡ hàng đầu của đất nước, những gương mặt tiêu biểu của văn học cách mạng, trong nhiều năm đã là cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Hội Nhà văn Việt Nam, cái sống cái viết cái lãnh đạo chỉ đạo của các ông có tầm ảnh hưởng dẫn dắt tới hàng trăm cây bút khác, nhất là lớp trẻ. Cũng xin nói luôn, tôi dẫn trên đây những điều chiêm nghiệm của các ông cũng là để tự mình chiêm nghiệm và chia sẻ với các thế hệ kế tiếp, chứ vào thời ấy, trong hoàn cảnh ấy khó có ai nói giỏi được, mấy ai cưỡng nổi những o ép đe dọa và cám dỗ, giả dụ tôi cùng thời với các ông, chắc gì tôi đã đủ can đảm để lựa chọn sống và viết được như Phùng Quán. Vì thế, tôi hiểu chữ “nhất quán” của tiến sĩ Hà Sĩ Phu có chứa thêm một nghĩa nữa là nhất (ông) Quán (hoặc chỉ có một ông Quán mà thôi).
                     
                    Thấy hiện ra rõ mồn một cái sự đời đơn giản này: nếu chế độ chính trị là chế độ dân chủ, có tự do báo chí và tự do xuất bản, thì ông Thi, ông Khải chẳng tội gì phải đeo bám lấy cái chức tổng thư ký, phó tổng thư ký Hội để phải xông ra viết bài đánh các ông Nhân văn – Giai phẩm, mà lập tức vứt béng ngay chức tước đi để mở báo tư, nhà xuất bản tư, đăng bài in sách của mình và đồng nghiệp; ông Phùng Quán cũng thế, mở ngay một tờ báo tư để đăng bài phản bác lại những ai đánh mình, báo ông văn ông được nhiều người đọc thì ông thừa sức sống sung túc bằng ngòi bút chân thật của mình chứ đâu đến nỗi phải mấy chục năm ròng sống cảnh câu cá trộm, uống rượu chịu, viết văn chui (nhờ người khác đứng tên trên tác phẩm của mình để được in, để kiếm chút nhuận bút còm rất phập phù khi có khi không).
                     
                    Thế nhưng cái “nếu” đơn giản ấy, bình thường ấy đã không có.
                     
                    Đến bây giờ vẫn chưa có, dù đã có đủ thứ tư”, doanh nghiệp , bệnh viện , trường … Đảng viên đảng cộng sản vốn theo lý thuyết chống tư hữu, xóa bỏ thị trường tư bản nay cũng được làm kinh tế , chỉ riêng tư tưởng văn hóa thì không được tư. Thật là phi lý quá quắt, trong khi mục tiêu dân chủ, công bằng đã được ghi rành rõ trong cương lĩnh của Đảng từ 7 năm nay (Đại hội lần thứ 9, năm 2001).
                     
                    Tập “Trần Dần – Thơ”, nếu có nhà xuất bản tư thì đã được công bố ngay từ khi tác giả còn sống chứ đâu phải cất ngăn kéo lâu đến thế. Gia đình nhà thơ và các bạn hữu, đồng nghiệp thuộc mọi lứa tuổi nhiệt thành trân trọng những giá trị chân thiện mỹ trong cái văn nghiệp bị vùi dập mà tầm cỡ chưa ai lượng hết của ông đã kiên nhẫn chờ cả 10 năm sau ngày ông tạ thế. Đưa bản thảo đến nhà xuất bản Hội Nhà văn, nơi mọi người đinh ninh là bà đỡ đáng tin cậy nhất cho các giá trị văn chương, thì bị từ chối. Phải đưa vào một nhà xuất bản địa phương tít trong miền Trung. May thay, hồn thơ linh thiêng và bất tử của Trần Dần đã gặp được ở đây những con mắt xanh, những tấm lòng vàng, mà tiêu biểu là nhà văn Đà Linh (Nguyễn Đức Hùng), phó giám đốc-tổng biên tập, bí thư đảng ủy nhà xuất bản Đà Nẵng. Tập thơ ra đời, hình như bằng nguồn tài chính của Công ty văn hóa Nhã Nam thông qua phương thức liên kết xuất bản, đã có mặt trên các quầy sách, nhưng đưa đến Văn Miếu để giới thiệu trong Ngày thơ Việt Nam thì bị ách lại ngay đêm trước bởi một cú điện thoại. Rồi là một đoàn thanh tra liên ngành đến Công ty Nhã Nam để tịch thu 19 cuốn sách tồn kho và phạt 15 triệu đồng vì tội “vi phạm qui trình xuất bản”. Muốn biết đầu đuôi sự thể cái gọi là “vi phạm qui trình xuất bản” ra sao, xin đọc đoạn tường thuật trên trang 9 báo Tiền Phong ra ngày chủ nhật 9.3.2008. (Mời coi phần Phụ lục)
                     
                    Rất hoan nghênh ba nhà báo nêu trên và BBT báo Tiền Phong đã kịp thời cung cấp cho bạn đọc những thông tin cụ thể về vụ việc đầy những thao tác lắt léo (mà cũng khá vụng về) của một thế lực chống đổi mới; không kiếm được cớ gì ở nội dung tác phẩm thì cố dùng cái vỏ “vi phạm qui trình xuất bản” để quyết tiếp tục đẩy Trần Dần vào bóng tối.
                     
                    Nhưng hành vi của họ không che nổi cặp mắt tinh tường con tim nhạy cảm của các văn nghệ sĩ trí thức tha thiết với đổi mới, quyết tâm chiến đấu cho đổi mới. Ngày 1.3.2008, bảy anh chị em gồm giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nhà thơ dịch giả Dương Tường, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên phó chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, nhà thơ Hoàng Hưng, nhà thơ nhà báo Nguyễn Thị Giáng Vân, nhà văn dịch giả Châu Diên (Phạm Toàn), dịch giả và nhà nghiên cứu văn học Cao Việt Dũng đã dũng cảm và tháo vát cùng nhau viết và ký chung một bức thư ngỏ lên tiếng bảo vệ Trần Dần đồng thời thông tin rộng rãi đến các đồng nghiệp xa gần. Lập tức chỉ trong vài ngày đã có 134 văn nghệ sĩ trí thức cùng tham gia ký tên, bảy ngày sau thì số người đã lên tới 218 và chỉ tạm dừng khi có thông báo của nhóm bảy người khởi xướng.
                     
                    Mừng quá! Vui quá!
                     
                    Lâu lắm mới lại có một cuộc như thế này. Như có một luồng gió lành dậy lên xua bớt cái không khí xìu xìu ển ển đùng đục lởn vởn những giọng triết lý yềm thế ngụy biện cho một kiểu lựa chọn bạc nhược mà nhà văn Nguyễn Đình Chính, con trai nhà văn Nguyễn Đình Thi gọi là “ngậm miệng ăn tiền, quay mặt vào tường để viết tác phẩm lớn”(?)
                     
                    Nhìn vào danh sách ký tên, thấy hiện ra một cuộc “hội nhập” rất tự nhiên và ngoạn mục. Những người Việt Nam hoạt động sáng tạo và những người quan tâm đến văn hóa văn học, từ mọi miền đất nước, từ bao chân trời góc biển trên toàn cầu, có cả các bạn người nước ngoài, rất khác nhau về nhiều mặt, với việc lên tiếng bảo vệ Trần Dần, trong chớp mắt đã cùng tập hợp trên con đường Chân Thiện Mỹ, con đường chiến đấu giành lấy một trong những quyền thiêng liêng nhất của con người: quyền được công bố công trình sáng tạo của mình.
                     
                    Xin nhắc lại một chủ trương có tính nền móng, tính nguyên tắc:
                    NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT, NÓI RÕ SỰ THẬT
                    Tôi thấy hồn thơ Phùng Quán hiển thị trong chủ trương ấy.
                     
                     
                    Đà Lạt, 27.3.2008
                    Bùi Minh Quốc
                      
                    Phụ lục:
                    “Ngày 10.8.2007, ông Nguyễn Đức Hùng (tức nhà văn Đà Linh) – phó giám đốc kiêm tổng biên tập NXB Đà Nẵng ký quyết định xuất bản “Trần Dần – Thơ”, kèm theo một hợp đồng kinh tế với đối tác là Cty Nhã Nam (Hà Nội). Hợp đồng nêu rõ: Nhã Nam chỉ được triển khai in ấn sau khi bản thảo đã thẩm định xong và sau khi nhận được bản thảo chính thức từ phía NXB có đóng dấu giáp lai vào từng trang… Việc thẩm định bản thảo bắt đầu từ văn bản thẩm định ngày 25.7.2007, do nhà văn Đà Linh – thường trực chi hội Nhà văn VN tại Đà Nẵng, kiêm chủ tịch hội đồng nghệ thuật Hội nhà văn TP Đà Nẵng thực hiện. Sau đó là các thẩm định bằng văn bản của nhà thơ Bằng Việt – chủ tịch Hội LHVHNT Hà Nội, nguyên chủ tịch Hội đồng thơ Hội nhà văn VN (2 khóa); và giáo sư Hoàng Ngọc Hiến. Các ý kiến thẩm định đều khẳng định giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của thơ Trần Dần được nhìn nhận dưới ánh sáng của Đổi Mới, và tuyển tập là một chân dung khá đầy đủ mà lâu nay vẫn còn ẩn kín của thi tài độc đáo bậc nhất Việt Nam này. GS Hoàng Ngọc Hiến khẳng định: ”Trần Dần đã được truy tặng Giải thưởng nhà nước. Trần Dần đã được chiêu tuyết. Tuy nhiên chiêu tuyết bằng sự truy tặng giải thưởng vẫn là một sự chiêu tuyết bằng biện pháp hành chính (tôi vẫn nhìn nhận cách chiêu tuyết này là hết sức cần thiết). Nhà văn trước hết phải được chiêu tuyết bằng tác phẩm. Tôi xem việc xuất bản tập “Trần Dần – Thơ” mới thực sự là chiêu tuyết cho Trần Dần, là sự bổ sung cơ bản cho sự chiêu tuyết bằng truy tặng giải thưởng…”.
                    Tính pháp lý cao nhất cho việc xuất bản cuốn sách, theo ông Hùng, đó là bản thảo này đã được đưa vào kế hoạch, đăng ký đề tài xuất bản từ năm 2006, đã được chủ quản là UBND TP Đà Nẵng thông qua, sau đó được Cục Xuất bản chấp nhận bằng văn bản số 816-2006/CXB/05/79/DaN ngày 2/11/2006. Do không chuẩn bị kịp, sang năm 2007, bản thảo này được đăng ký lại, UBND TP Đà Nẵng một lần nữa thông qua, sau đó lại được Cục xuất bản chuẩn y theo kế hoạch xuất bản hàng năm bằng văn bản số 279-2007/CXB/33-27/DaN ngày 17/4/2007. Đáng ngạc nhiên, ngay sau khi ông Nguyễn Đức Hùng ký quyết định xuất bản, thì ngày 11/8/2007, giám đốc NXB Đà Nẵng-ông Nguyễn Hữu Chiến (mới về NXB được 10 ngày) lại ký quyết định khác thu hồi quyết định cho xuất bản trước đó 1 ngày, mà như ông Hùng khẳng định, bản thân ông cũng như các bên liên quan cũng không hề được trao đổi, và cũng không hề nhận được quyết định mới này. “Suốt 23 năm qua – ông Hùng nói – tại NXB Đà Nẵng tôi đã từng ký xuất bản hàng trăm cuốn sách nhưng chưa khi nào xảy ra sự việc như thế này… Là phó giám đốc trực-tổng biên tập kiêm bí thư đảng ủy, từ trước tới nay giữa các đời giám đốc và tôi cùng chịu trách nhiệm như nhau trong mọi quyết định của NXB, điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của luật xuất bản…”. Một điều nữa, dù quyết định ngưng việc xuất bản “Trần Dần – Thơ” do ông Nguyễn Hữu Chiến ký từ ngày11/8/2007, nhưng mãi đến 25/2/2008, tức là hơn 6 tháng sau, Cục Xuất bản mới nhận được (?), trong khi việc in ấn, nộp lưu chiểu đã tiến hành đầy đủ theo luật định, và sách chính thức phát hành sau khi nộp lưu chiểu 15 ngày.
                     
                    (Trích tường thuật của Trần Tuấn - Dương Thị - Trần Thanh; báo Tiền Phong 9.3.2008)
                     
                    http://hoiluan.vanhocvietnam.org/?p=149
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.05.2008 09:03:32 bởi saigonthangtu >
                    #8
                      Chuyển nhanh đến:

                      Thống kê hiện tại

                      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                      Kiểu:
                      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9