(url) Bùi Minh Quốc
.
BÙI MINH QUỐC
Tiểu Sử:
- Còn có bút hiệu là Dương Hương Ly
- Sinh ngày 3/10/1940.
- Quê tại Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây.
- Nổi tiếng từ thời trung học với bài thơ "Lên Miền Tây".
Bài thơ này được đưa vào chương trình giáo khoa thời ấy.
- Vợ là nhà thơ Dương Thị Xuân Quý.
- Ông và vợ đã gửi con gái đầu lòng mới 16 tháng lại để vào Nam chiến đấu.
- Vợ ông hy sinh tại chiến trường miền Nam.
- Sau 30/4/1975, công tác tại Quảng Nam Đà Nẵng, giữ chức phó chủ tịch Hội Văn Nghệ tỉnh và Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng.
- Năm 1987, chuyển vào công tác tại Đà Lạt, làm chủ tịch Hội Văn Nghệ tỉnh Lâm Đồng và Tổng biên tập tạp chí Langbian.
- Năm 1988, cùng nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự thực hiện một chuyến đi xuyên Việt từ Đà Lạt, qua các tỉnh miền Trung, ra Hà Nội, nhằm vận động trí thức văn nghệ sĩ đấu tranh đòi tự do dân chủ. Sau vụ này cả hai ông đều bị khai trừ khỏi đảng.
- Từ năm 1997 Bùi Minh Quốc và hai người khác tại Đà Lạt là Tiêu Dao Bảo Cự và Hà Sĩ Phu bị quản chế tại gia do nghị định 31CP của ông Võ Văn Kiệt.
Tác phẩm:
Thơ Bùi Minh Quốc trên Thi Viện Ðao phủ ngồi thiền Hương tường vi Từ phút ấy Ðừng quên em Lại ngẫm về hạnh phúc Tôi gởi thơ tôi vào ngọn gió cao nguyên Ðêm nay tôi không ngủ Lịch sử Thơ ơi thơ! Ðường thơ này... Lưỡi Thơ tặng anh Năm Hộ Óc tim này chẳng ai cho Mặt nạ Thơ tặng vợ hiền Ơi thiên thai Mẹ đi chọn mặt gửi vàng Thơ vụt hiện trong phòng thẩm vấn Bài thơ tháng Tám Một thoáng phố phường Thơ viết từ xó bếp Báo động Mừng Về một tên đào ngũ Cay đắng thay... Nhưng chính phút này Vào, ra Câu vè chợt lượm Oan hồn dâng trĩu cả mây trời Vì nhân dân quên mình Chôn Phản chiến Vòng hoa đao phủ Chiến tranh và hòa bình Quỉ dữ bảo nhau Hí trường Ta và chúng Thơ Bùi Minh Quốc tại thư viện Việt Nam Thư Quán Hoàng Khởi Phong nói chuyện với Bùi Minh Quốc Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (2)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2006 10:09:16 bởi TTL >
Thư ngỏ gửi các bạn trẻ Việt Nam và hai bạn Mỹ Fred, Rob Các bạn quý mến,
Tôi đã đọc với niềm xúc động sâu xa và nhiều nghĩ ngợi
nhật ký của bác sĩ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và
thư của tiến sĩ cựu chiến binh Mỹ Fred gửi các bạn trẻ Việt Nam đăng trên báo Tuổi Trẻ.
Khi Thùy Trâm ngã xuống vì đạn Mỹ, tôi đang ở chiến trường Quảng Nam, cách Quảng Ngãi không xa. Trước đó, đêm 8.3.1969, vợ tôi, nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý ngã xuống vì một loạt đạn của lính Nam Triều Tiên khi từ dưới hầm bí mật bò lên tìm cách thoát ra khỏi vòng vây tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Sau Đặng Thùy Trâm, chiều 1.5.1971, bạn tôi, nhà báo, nhà văn Chu Cẩm Phong trút hơi thở cuối cùng trong một cuộc chiến đấu quyết liệt từ dưới hầm bí mật để đáp lại lời gọi hàng của lực lượng đối phương đông gấp bội bao vây tấn công từ bên trên cũng tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Giữa tháng 4.1975, tại Đà Nẵng, một sĩ quan quân đội Sài Gòn tìm gặp tôi và trao cho tôi cuốn nhật ký của Chu Cẩm Phong mà bạn tôi đem theo bên mình tưởng đã bị vĩnh viễn cuốn đi vô tăm tích trong bão lửa chiến tranh. Người sĩ quan cho tôi biết mới đầu anh đọc vì hiếu kỳ nhưng càng đọc anh càng cảm phục nhân cách của tác giả nên đã gìn giữ trân trọng suốt bốn năm bất chấp hiểm nguy, giống hệt trường hợp Fred đối với Đặng Thùy Trâm. (Nhật ký của Chu Cẩm Phong đã được nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2000 với nhan đề
Nhật ký chiến tranh và nhà xuất bản Đà Nẵng tái bản năm 2005 trong
Tuyển tập Chu Cẩm Phong).
Thùy Trâm kém tôi hai tuổi, kém Xuân Quý, Chu Cẩm Phong một tuổi. Chúng tôi cùng một lứa được giáo dục đào tạo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa tại thủ đô Hà Nội và lên đường vào Nam chiến đấu theo tiếng gọi KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO. Nhật ký của Trâm, Quý, Phong đều ghi rõ tâm nguyện của mỗi người, mà cũng là của cả thế hệ chúng tôi, sẵn sàng dâng hiến, không chút tính toán so đo, từng ngày sống và cả cuộc đời cho độc lập tự do.
Độc lập cho dân tộc và tự do cho mỗi con người.
Những giá trị thiêng liêng ấy đã được ghi rõ, có thể nói không phải bằng mực mà bằng máu, trong
Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ từ 229 năm trước và của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 60 năm trước.
Không phải đến 2.9.1945 trong
Tuyên ngôn độc lập, mà ngay từ 1942 trong
Nhật ký trong tù, tư tuởng không có gì quý hơn độc lập tự do đã được chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
. Hoàng Khởi Phong
Nói chuyện với Bùi Minh Quốc
2006.07.23
Nhà văn Hoàng Khởi Phong Hơn ba chục năm trước đây trong chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam, những ngưòi lính có tên là Cao Xuân Huy, Phan Nhật Nam, Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc cùng với hàng triệu người lính có tên họ là Lý, Trần, Lê, Nguyễn mang quân phục và võ khí của hai miền Nam, Bắc hăm hở lên đường ra mặt trận.
Tải xuống để nghe
Nhà thơ Bùi Minh Quốc.
Photo courtesyThongluan.org
Do ảnh hưởng của các guồng máy tâm lý chiến của cả hai miền, chúng ta có thể tin một điều: Hầu như tòan bộ những người lính của chiến tranh Nam - Bắc khi tiến ra mặt trận, ai nấy đều vững tin vào lý tưởng của đạo quân mình.
Các tính danh Cao Xuân Huy, Phan Nhật Nam, Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc sở dĩ được nêu lên trong bài phỏng vấn dành cho nhà thơ Bùi Minh Quốc lần này, vì bên cạnh tư cách người lính còn sống sót sau trận chiến, họ còn là những nhà văn nhà thơ lúc nào cũng suy nghĩ về tương lai của đất nước.
Hiện nay những ngưòi này tuy không còn mặc quân phục, không còn mang ba lô, súng đạn ở quanh người, nhưng ám ảnh của cuộc chiến chắc chắn là một gánh nặng sẽ đeo theo họ cho tới cuối đời.
Trong chiến tranh rất có thể Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy đã từng gặp gỡ Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc trong tầm đạn. Phan Nhật Nam và Cao Xuân Huy đã từng bị thương, đổ máu hơn một lần trong khi bảo vệ phần đất miền Nam của mình, thì ở miền Bắc có lẽ Bảo Ninh đã từng vuốt mắt cho nhiều đồng đội.
Riêng Bùi Minh Quốc, ông đã phải chứng kiến người bạn đường, và là người bạn đời của mình là nhà văn Dương Thị Xuân Quý nằm xuống khi hai vợ chồng ông tình nguyện lên đường giải phóng miền Nam.
Hơn ba chục năm đã qua đi, lý tưởng của Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy cũng như lý tưởng của Bảo Ninh, Bùi Minh Quốc càng ngày càng lộ ra những điều không thật. Chỉ tiếc là hai miền Nam Bắc đã mất đi hơn hai triệu sinh linh trong cuộc nội chiến vừa qua, và hậu quả của chiến tranh thì dường như không bao giờ tẩy xóa hết được.
Kính mời quý vị thính giả lắng nghe cuộc phỏng vấn nhà thơ Bùi Minh Quốc. Ông hiện sinh sống ở Đà Lạt, là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam và đã nhiều lần bị quản chế tại nhà do những hoạt động của ông trong lãnh vực văn chương.
Hoàng Khởi Phong: Xin chào nhà thơ Bùi Minh Quốc. Trước tiên xin hỏi ông về nhà văn Dương Thị Xuân Quý, khi cùng tình nguyện lên đường giải phóng miền Nam, ông bà chỉ mới quen nhau, hay đã thành vợ thành chồng? Bùi Minh Quốc: Thưa ông khi chúng tôi lên đường vào chiến đấu ở miền Nam thì chúng tôi đã là vợ chồng được một năm ba tháng.
Hoàng Khởi Phong: Khi tình nguyện lên đường vào giải phóng miền Nam, ông bà đã là hội viên Hội Nhà Văn chưa? Cả hai lúc đó đã có đứa con ruột thịt giữa hai vợ chồng hay đứa con tinh thần (tác phẩm) nào được ra mắt bạn đọc? Bùi Minh Quốc: Thời gian đó chúng tôi chưa là hội viên Hội Nhà Văn. Chúng tôi đã có với nhau một cháu gái 6 tháng tuổi. Tôi lên đường vào Nam trước vào đầu năm 1967, mãi một năm sau khi cháu Uyên Ly đựoc 16 tháng, nhà tôi gửi lại bà ngọai rồi lên đường vào Nam sau.
Vào thời điểm đó thì bản thân tôi có một số bài thơ và truyện ngắn được đăng tải trong các tuỷên tập nhiều tác giả. Xuân Quý cũng có một số truyện ngắn đựoc đăng tải rải rác trên các báo, hay các tuyển tập.
Về sau chúng tôi gom góp lại, đem in thành một tuyển tập riêng của hai người, được chúng tôi đặt tên là “Chỗ Đứng”, và được nhà xuất bản Hội Nhà Văn in. Nhưng khi sách in xong, gửi vào trong chiến trường miền Nam thì Xuân Quý đã hy sinh...
Hoàng Khởi Phong: Thật tình chúng tôi không muốn nhắc tới những đau buồn cũ, nhưng xin ông cho biết bà Xuân Quý đã mất ở đâu, năm nào, mất trong khi đụng độ với quân đội miền Nam, bị bom, hay bị bệnh trên đường xâm nhập? Bùi Minh Quốc: Nhà tôi vào sau tôi khoảng chừng một năm, nhưng chúng tôi công tác cùng một cơ quan. Đó là tờ báo tuyên truyền được đặt ở trên núi. Tháng 12 năm 68, nhà tôi đi công tác xuống vùng đồng bằng trong vùng Quảng Đà, mà chúng tôi gọi là vùng trọng điểm. Lúc đó tôi còn đang bận làm dở tờ báo nên xuống sau nhà tôi một tháng.
Trong một cuộc hành quân của quân đội Nam Triều Tiên ở vùng này, nhà tôi và một số đồng đội bị kẹt trong vòng vây, chui xuống hầm bí mật trốn. Đến đêm thì mọi người cố đội nắp hầm lên, định bò ra ngoài vòng vây thì bị lính Nam Triều Tiên phát giác.
Họ nổ súng và nhà tôi chết ngay tại chỗ, tại huyện Duy Xuyên. Khi nhà tôi hy sinh thì tôi đang đứng ở huyện Thăng Bình bên cạnh...
Hoàng Khởi Phong: Tháng Tư năm 75 ông đang ở đâu, đang làm gì và nghĩ gì về chiến tranh? Bùi Minh Quốc: Lúc đó tôi đang ở Đà Nẵng. Bây giờ nhớ lại tôi thật tình không biết cảm nghĩ của tôi lúc đó thật sự như thế nào. Chỉ biết là nó lâng lâng.
Tôi cũng mừng là chiến tranh đã kết thúc, chấm dứt hàng triệu gia đình bị phân ly, mất mát người thân. Tôi cũng tiếc cho vợ tôi không còn sống để hưởng cái giây phút chiến thắng. Nhưng dù sao thì cũng vui mừng, vì từ đây sẽ không còn chết chóc.
Trong tư cách một ngưòi cầm bút tôi còn nghĩ là rồi đây sẽ là một cuộc đại đoàn viên của anh em văn nghệ sĩ hai miền. Thật là vui, thật là đẹp và không thể tưởng tuợng nổi của những anh chị em văn nghệ là những con người đầy sáng tạo, đầy tình yêu cuộc sống...
Từ đây anh em văn nghệ sĩ của hai miền có thể bắt tay vào việc xây dựng một nền văn hóa, một dòng văn học xứng đáng với dân tộc và thời đại.
Hoàng Khởi Phong: Ông đựoc đưa vào Đà Lạt từ bao giờ, và lý do nào khiến cho ông cùng với một số nhà văn khác như Tiêu Dao Bảo Cự thành lập Hội Văn Nghệ Lâm Đồng – Đà Lạt? Bùi Minh Quốc: Mùa thu năm 1985 tôi từ Đà Nẵng vào thăm Đà Lạt lần đầu. Tôi đựoc gặp một số anh em đồng nghiệp rủ rê chèo kéo tôi ở lại làm việc. Một số anh em còn đưa tôi lên gặp Bí Thư Tỉnh Ủy, và được ông này đề nghị tôi về giúp lập Hội Văn Nghệ Lâm Đồng Đà Lạt.
Bởi vì thời gian đó ở tỉnh nào người ta cũng có Hội Văn Nghệ, chỉ trừ Lâm Đồng Đà Lạt là chưa có mà thôi. Nhưng phải nói là tôi không bị ai thuyết phục, mà chính cái vẻ đẹp mê hồn của thành phố Đà Lạt đã khiến cho tôi có ý định đổi vùng sinh hoạt.
Sau một hồi vận động với Đà Nẵng, tôi được cấp trên bố trí cho về Đà Lạt để lập hội Văn Nghệ cho tỉnh này. Trong kỳ đại hội thành lập hội Văn Nghệ ở đây được tổ chức, tôi đựoc bầu vào chức vụ Chủ Tịch.
Anh Tiêu Dao Bảo Cự khi đó đang là Chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc ở đây, đã từng là ngưòi hoạt động nội thành ở đây từ trước năm 75, và cũng là một nhà văn đã được bầu vào chức vụ then chốt thứ hai. Tôi đựoc quen với anh Bảo Cự vào thời gian này. Trước đó chúng tôi không hề biết nhau.
Hoàng Khởi Phong: Tờ báo Lang Biang đựoc thành lập vào năm nào, bị đóng cửa bao giờ, vì nguyên nhân nào? Bùi Minh Quốc: Tôi và anh Bảo Cự đồng ý với nhau một điểm là để cho Hội Văn Nghệ Đà Lạt Lâm Đồng có thể phát triển mạnh, thì việc đầu tiên là phải làm một tờ báo cho ra hồn. Mặc dù tờ báo này xuất bản tại địa phương, nó phải thu hút được những bài viết hay nhất của anh chị em địa phương, nhưng đồng thời nó cũng phải có các bài viết của các cây bút có tầm cỡ quốc gia.
Tờ báo đựoc chúng tôi đặt tên là Lang Biang, liên quan tới một câu chuyện thần thoại của vùng này. Nhưng để có thể mang cái tên này chúng tôi đã phải giải trình cho ông Bí Thư Tỉnh Ủy, mặc dù ông này rất thích cái tên đó, nhưng ông ấy cũng không dám quyết, mà phải mở một cuộc họp để ban Thường Vụ Tỉnh quyết định…
Chẳng qua chỉ vì những ý nghĩ sơ cứng của các cấp lãnh đạo địa phương. Chúng tôi đã phải nhờ đến một nhà chuyên nghiên cứu văn hóa sắc tộc để thuýêt phục.
Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc nói chuyện giữa nhà văn Hoàng Khởi Phong và nhà thơ Bùi Minh Quốc hiện đang cư trú tại Đà Lạt. Kỳ tới, nhà thơ Bùi Minh Quốc sẽ nói lý do tại sao báo Lang Biang phải ngưng xuất bản và kể lại về chuyến đi thăm các vùng đất nứơc của ông, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và nhà thơ Hữu Loan. Mong quý thính giả đón nghe. Theo dòng câu chuyện:
-
Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (phần 2) © 2006 Radio Free Asia
. Hoàng Khởi Phong Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (phần 2) 2006.07.29
Nhà thơ Hoàng Khởi Phong Kỳ trước, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã nói về cái chết của hiền thê của ông là nhà văn Xuân Quý, rồi sự ra đời của báo Lang Biang của hội Văn nghệ Lâm Đồng Đà Lạt. Kỳ này, ông nói lý do tại sao báo Lang Biang bị đóng cửa và chuyến đi khắp nước của ông, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và nhà thơ Hữu Loan.
Tải xuống để nghe Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Về chuyện đóng cửa tờ Lang Biang thì giản dị là vì anh Bảo Cự và tôi cùng muốn làm một tờ báo thật hay, do đó ngay từ nội dung của số 1, rồi kế đến số 2, số 3 liên tiếp chúng tôi đăng tải những bài viết mà các vị lãnh đạo địa phưong cũng như vĩ mô không hài lòng. Cho là chung tôi làm loạn.
Họ đóng cửa tờ Lang Biang bằng một biện pháp hành chính. Vì Lang Biang là tờ báo không định kỳ, mỗi lần ra một số báo chỉ phải xin phép cơ quan ở địa phưong mà thôi.
Sau ba số báo thì Bộ Thông Tin Văn Hóa ra lệnh từ nay các cơ quan Thông Tin Văn Hóa địa phưong không được cấp phép cho các tờ báo không định kỳ, mà phải xin phép ở trung ưong.
Thế là sau ba số báo tờ Lang Biang tắc tị, đứng yên không nhúc nhích đuợc gì, trong khi ở một vài nơi khác, các tờ báo đồng dạng nhưng hiền lành hơn vẫn được phép in ấn.
Hoàng Khởi Phong: Sau đại hội nhà văn kỳ 4, sau lời tuyên bố cởi trói cho văn nghệ của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh hồi cuối thập niên 80, dừong như ông cùng với nhà thơ Hữu Loan, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự tổ chức một chuyến đi vận động các nhà văn từ Nam ra Bắc. Mục đích của cuộc vận động này nhằm nói lên điều gì? Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Tôi và anh Tiêu Dao Bảo Cự làm tới hai chuyến đi vận động các văn nghệ sĩ cả nước chứ không phải một. Chuyến đầu chúng tôi đi vùng đồng bằng Cửu Long, và xẩy ra trưóc khi ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ cả nửa năm trời.
Thời gian này nhà thơ Hữu Loan đang ở Đà Lạt. Tôi dàn xếp với anh em để ông cư ngụ ở ngay văn phòng của Hội, và đề nghị với ông chép lại tất cả những bài thơ của ông đã làm, và đồng thời viết ra tất cả những gì ông nhớ về vụ Nhân Văn. Khi đi vận động vùng đồng bằng Cửu Long, tôi và Bảo Cự rủ ông đi cùng, để bù đắp cho ông bị quản thúc suốt ba chục năm trời tại quê ông.
Chuyến đi thứ hai từ Đà Lạt ra Bắc, chúng tôi cũng rủ nhà thơ Hữu Loan đi, để đưa ông về lại quê nhà ông. Lần này chúng tôi ghé Nha Trang, Bình Định, Kontum, Gia Rai, Đà Nẵng, Húê... trước khi ra Hà Nội, để nộp thẳng các bản kiến nghị mà chúng tôi đã thu góp được. Có tất cả 118 chữ ký của văn nghệ sĩ khắp nước.
Điểm lý thú của nó là bên cạnh kiến nghị đòi thực thi nghị quyết 5 (tức là cởi trói), chúng tôi còn làm một bản tuyên ngôn yêu cầu được tôn trọng quỳên tự do sáng tác. Trong văn bản này, chúng tôi yêu cầu xử lý những nhân vật đi ngược lại đưòng lối đổi mới của Đảng.
Hoàng Khởi Phong: Hiện nay ông còn là hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam? Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Vâng, tôi vẫn là hội viên hội nhà văn Việt Nam
Hoàng Khởi Phong: Trong đại hội nhà văn kỳ 7 vừa qua, là một hội viên ông có nhận được thư mời đi dự đại hội? Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Nếu ai quan tâm các đại hội nhà văn ở trong nước sẽ thấy kỳ đại hội 4 (89) và đại hội 5 (95), hai đại hội này quy tụ hầu hết toàn bộ hội viên hội nhà văn trên toàn quốc, do đó sôi nổi vô cùng. Đại hội 4 sau khi có lời tuyên bố cởi trói cho văn nghệ, thì cánh nhà văn chủ động được đại hội.
Việc bầu bán, phát biểu diễn ra hết sức sôi nổi. Đến đại hội 5 thì việc cởi trói đã khép lại, cánh nhà văn lại bị trói lại, nhưng tất cả các hội viên vẫn được mời tham dự. Đến đại hội 6 (2000) và mới đây đại hội 7 (2005), thì Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn đưa ra ý kiến chỉ đại hội các đại biểu mà thôi. Được đi dự đại hội có nghĩa là đã được bầu đại diện trong vùng sinh hoạt của mình.
Hoàng Khởi Phong: Dừong như ông có viết sẵn và ghi danh phát biểu trong đại hội này, xin hỏi ông có được Ban Chấp Hành cho phép lên diễn đàn và nội dung của bài phát biểu này? Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Trong đại hội của miền Đông Nam Bộ, nơi tôi sinh hoạt tôi là ngừoi đăng ký phát biểu đầu tiên, nhưng trong ngày đại hội này ban đầu ngừoi ta nói để bầu đại diện xong trong buổi sáng, rồi buổi chiều sẽ phát biểu. Nhưng rút cục thì việc phát biểu không xẩy ra.
Tuy nhiên tôi đã gửi một bài viết tới vài tờ báo ở trong nưóc, và công bố trên vài tờ báo mạng, một bài viết nhân đại hội nhà văn kỳ 7. Trong đó tôi yêu cầu đại hội nhà văn lưu tâm tới 1 điểm quan trọng: Vấn đề đạo đức xã hội xuống tới mức thấp nhất, thì các nhà văn ngày nào cũng lớn tiếng về đạo đức xã hội.
Theo tôi trước tiên các nhà văn nên xét lại vấn đề đạo đức của chính mình, đặc biệt là các nhà văn hội viên hội nhà văn lại càng cần phải xét lại vấn đề đạo đức của cá nhân mình. Rất nhìêu hội viên tham dự đại hội 7 đã được đọc bài viết này của tôi trong thời gian họ tham dự đại hội
Hoàng Khởi Phong: Giờ đây chiến tranh đã tàn hơn ba chục năm, ông nghĩ gì về lý tưởng của ông trong thời trai trẻ? Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Tôi vẫn không thay đổi lý tưởng thời trai trẻ của tôi: Đó là giải phóng dân tộc và giải phóng con ngưòi. Dân tộc phải được độc lập, con ngưòi phải được tự do. Đối với nhà văn phải được tự do sáng tác. Để có thể tự do sáng tác thì phải có tự do báo chí, tự do xuất bản. Chứ còn tự do sáng tác xong rồi cất vào ngăn kéo thì tự do làm gì?
Hoàng Khởi Phong: Xin ông đọc cho thính giả của Đài RFA nghe một đoạn thơ ứng ý của ông trong thời chiến tranh? (Xin theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn trong phần âm thanh bên trên)
Theo dòng câu chuyện:
-
Nói chuyện với Bùi Minh Quốc (phần 1) Nguồn:RFA
Nhà thơ Bùi Minh Quốc kêu gọi giới văn nghệ sĩ lên tiếng về vụ Trường Sa-Hoàng Sa
2007.12.15 Việt Hùng, thông tín viên đài RFA "Đã đến lúc văn nghệ sĩ tại Việt Nam cần phải có thái độ", thưa quí thính giả đó là lời tuyên bố của nhà thơ Bùi Minh Quốc trong cuộc nói chuyện với Việt Hùng của Đài Á Châu Tự Do chúng tôi liên quan đến lá thư mới đây của ông Bùi Minh Quốc gửi Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam yêu cầu Hội nhà văn phải có tiếng nói chính thức về vấn đề hiện gây tranh chấp trong vùng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc. Mời anh Việt Hùng trong cuộc trao đổi.
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này Tải xuống để nghe
Nhà thơ Bùi Minh Quốc. Việt Hùng: Thưa ông Bùi Minh Quốc, lên tiếng bày tỏ ý kiến là chuyện không mấy khó hiểu, nhưng lên tiếng kêu gọi sự ủng hộ bày tỏ quan điểm trong một vấn đề khá nhạy cảm đối với các nhà lãnh đạo tại Việt Nam liên quan đến vấn đề biên giới lãnh hải với Trung Quốc, ông có cho rằng ông đang kêu gọi dư luận, chí ít thì cũng là những người bạn văn nghệ sĩ của ông, ông nghĩ sao về điều này?
Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Vâng, tôi thấy đây là một nhu cầu tự thân của mình, lòng mình và trách nhiệm của mình, của người yêu nước bình thường và của một người cầm bút trước một vấn đề lớn của đất nước, lãnh thổ lãnh hải bị xâm phạm, đó là nỗi đau bao nhiêu năm nay của đất nước và của cả bản thân tôi nữa thế thành khi Quốc hội Trung Quốc quyết định thành lập huyện Tam Sa để quản lý vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc của Việt Nam, điều đó với tôi rất đau lòng.
Ngay sau khi Trung Quốc có quyết định như thế tôi thấy trên các báo ở Việt Nam tôi thấy những đồng nghiệp của tôi những người cầm bút như tiến sĩ Nguyễn Nhã, nhà báo Bùi Thanh, các nhà văn Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Viện, Lynh Bacardi, Thận Nhiên, Trần Tiến Dũng, nhạc sĩ Tuấn Khanh, họa sĩ Trịnh Cung, các anh các chị đó đã bày tỏ thái độ.
Không những chỉ văn nghệ sĩ mà nhân dân ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhất là các bạn trẻ, ngay cả những bậc cao tuổi cũng có mặt trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội và trước Lãnh sự quán Trung Quốc ở thành phố Hồ Chí Minh để bày tỏ thái độ, bày tỏ sự bất bình của mình và khẳng định Hoàng Sa và Trường sa là của Việt Nam, khẳng định cho những người cầm quyền Trung Quốc biết như vậy.
Việt Hùng: Nhưng thưa nhà thơ Bùi Minh Quốc lá thư ông gửi đề ngày 10-12 vừa qua tới Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam là nhằm mục đích gì?
Nhà thơ Bùi Minh Quốc: Trước hết là tôi thông tin đến Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam và những đồng nghiệp của tôi hiện đang sinh hoạt trong Hội nhà văn về những điều tôi vừa nói. Kế đó tôi muốn bày tỏ mong muốn của tôi tới Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam cần có ngày tuyên bố chính thức nói lên quan điểm chung của Hội nhà văn, giới nhà văn về vấn đề này.
Điều mong muốn thư hai là tất cả những đồng nghiệp của tôi trong Hội nhà văn sớm có tiếng nói độc lập của mỗi người. Điều thứ ba tôi yê cầu Hội nhà văn Việt Nam liên hệ ngay với nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Thắng để xuất bản ngay cuốn Hoàng Sa, Trường Sa với công pháp quốc tế của anh Nguyễn Quốc Thắng anh ấy đã soạn thảo từ lâu rồi.
Hàng trăm người Việt Nam biểu tình trước Tòa đại sứ Trung ở Hà Nội hôm 9-12-2007, để phản đối việc TQ xâm phạm chủ quyền lãnh hải VN. AFP PHOTO.
Cuốn này theo ông Lê Minh Nghĩa, Trưởng ban Biên giới trước kia ông ấy đã đọc thì ông ấy cho rằng đấy là một cuốn sách rất có giá trị về mọi mặt nhất là về sử liệu rất có giá trị để chứng minh chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo ấy.