Thơ Việt Nam
Viet duong nhan 26.11.2006 21:32:38 (permalink)
việt dương nhân Sưu tầm
 

THƠ VIỆT NAM

Thơ Việt Nam khác với Thơ của Tàu (Trung Hoa) ở điểm:
- Thơ Việt Nam vừa có cước vận vừa có yêu vận.
- Thơ của Tàu chỉ có cước vận mà không có yêu vận.

Thơ Việt Nam chính tông có 2 thể:
- Thơ Lục Bát.
- Thơ Song Thất Lục Bát.


1. THƠ LỤC BÁT

Lục là 6, Bát là 8.
Thơ lục bát là thể thơ khởi đầu bằng một câu 6 chữ rồi câu kế tiếp là 8 chữ. Và cứ liên tục như vậy hoài cho đến hết bài thơ.
Bài thơ lục bát muốn dài ngắn bao nhiêu câu cũng được, không hạn định số câu. Nhưng khởi đầu phải là câu 6 chữ và cuối cùng phải là câu 8 chữ.

Luật của thơ Lục Bát được định như sau:

b - B - t - T - b - B
b - B - t - T - b - B - t - B


Bằng viết tắt là b - B
Trắc viết tắt là t - T
b và t nhỏ (không viết hoa) thì Bằng hay Trắc gì cũng được.
B và T lớn (viết hoa) bắt buộc phải giữ đúng luật Bằng Trắc như đã định.

Chúng ta có thể nhớ luật bằng trắc của thơ lục bát như sau:

Tiếng thứ 1, 3, 5, 7 của câu Lục và câu Bát không cần giữ đúng luật Bằng, Trắc.
Tiếng thứ 2, 6, 8 của câu Lục và câu Bát bắt buộc phải giữ đúng luật Bằng.
Tiếng thứ 4 của câu Lục và câu Bát bắt buộc phải giữ đúng luật Trắc.
Vần: Trong thơ lục bát, tiếng thứ 6 của câu 6 phải vần với tiếng thứ 6 của câu 8, rồi tiếng thứ 8 của câu 8 phải vần với tiếng thứ 6 của câu 6 kế tiếp theo sau. Và cứ tiếp tục tuần tự như vậy hoài cho tới hết bài thơ.

Thí dụ như 4 câu thơ sau đây:

Ta cùng uống nước sông Tương
Trông nhau chẳng thấy nhớ thương dạt dào
Chập chờn trong giấc chiêm bao
Đôi nơi cách trở kiếp nào mới nguôi



GHI CHÚ QUAN TRỌNG:
Trong thơ lục bát, nếu tiếng thứ 6 của câu bát là KHÔNG DẤU thì tiếng thứ 8 (cũng của câu bát) phải là DẤU HUYỀN.
Ngược lại, nếu tiếng thứ 6 của câu bát là DẤU HUYỀN thì tiếng thứ 8 (cũng của câu bát) phải là KHÔNG DẤU.

(ÐÓ LÀ LUẬT BẮT BUỘC)



Hoàng Thứ Lang
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.11.2006 08:12:52 bởi Huyền Băng >
#1
    Viet duong nhan 26.11.2006 21:44:21 (permalink)
    Thanh
    Thanh là những tiếng phát ra nghe được khi chúng ta nói hoặc đọc.
    Thanh có 2 loại:
    - Thanh Bằng.
    - Thanh Trắc.

    Thanh bằng là những tiếng không dấu và những tiếng có dấu huyền. Thí dụ: ăn, đi, nằm, ngồi ...

    Thanh trắc là những tiếng có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng. Thí dụ: nói, đứng, đỏ, lửa, diễm, nhuyễn, lạnh, nguội ...

    Vần
    Vần là những tiếng khi phát âm nghe cùng âm hưởng với nhau. Vần được tính từ nguyên âm đầu tiên của một từ (bỏ phụ âm đầu ra không tính).
    Chúng ta có thể khái niệm vần là những từ same sound và same spelling.
    Thí dụ:
    Thương, trường, sương, đường, vương ...

    Sinh, đình, minh, tình, chinh ...
    #2
      Viet duong nhan 26.11.2006 21:47:25 (permalink)
      2. THƠ SONG THẤT LỤC BÁT

      Song thất lục bát:
      Song = 2, thất = 7, lục = 6, bát = 8.
      Song thất lục bát là thể thơ mà hai câu đầu 7 chữ, gọi là Song thất.
      Liền theo là một câu 6 chữ và một câu 8 chữ, gọi là lục bát.

      Thơ song thất lục bát là bài thơ khởi đầu bằng hai câu 7 chữ, rồi tới câu 6 chữ kế tiếp là câu 8 chữ. Rồi trở lại hai câu 7 chữ tiếp theo câu 6 chữ cuối cùng là câu 8 chữ. Cứ luân phiên như vậy hoài cho tới khi chấm dứt bài thơ.
      Cũng như thơ lục bát, thơ song thất lục bát dài ngắn bao nhiêu cũng được, không hạn định số câu, nhưng bắt buộc phải khởi đầu bằng hai câu 7 chữ rồi liền theo hai câu lục bát cuối cùng.

      BẢNG LUẬT:

      b - t - T - b - B - t - T
      t - b - B - t - T - b - B
      b - B - t - T - b - B
      b - B - t - T - b - B - t - B


      Ghi chú:
      - Chữ B và T (lớn) bắt buộc phải giữ đúng luật bằng trắc.
      - Chữ b và t (nhỏ) muốn bằng hay trắc gì cũng được (không cần phải giữ đúng luật).

      Cách gieo vần:
      - Tiếng cuối của câu thất đầu là thanh trắc phải vần với tiếng thứ 5 câu thất kế cũng là thanh trắc
      - Tiếng cuối của câu thất kế thanh bằng phải vần với tiếng cuối của câu lục cũng là thanh bằng.
      - Tiếng cuối của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát (đều là thanh bằng).
      - Tiếng cuối của câu bát vần với tiếng thứ 5 của câu thất tiếp theo (đều là thanh bằng), và cứ như vậy mà tiếp tục làm hoài dài bao nhiêu cũng được.

      Bài thơ thí dụ để minh hoạ:

      Sầu chia cách nụ cười tắt lịm
      Hoa lục bình nở tím ven sông
      Thuyền ai lơ lửng xuôi dòng
      Hoàng hôn buông xuống cõi lòng quạnh hiu

      Con sông vắng bóng chiều hiu hắt
      Nhịp cầu tre ai bắc đong đưa
      Quê nghèo nắng nhạt mưa thưa
      Hàng cau thương nhớ bóng dừa vấn vương

       
      Hoàng Thứ Lang
      #3
        Viet duong nhan 01.06.2008 11:02:35 (permalink)
          Thẩm định về thơ 
        của Cố Thi-Hào Vũ Hoàng Chương

        Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình,
        để hồn trí phản ứng theo thất tình của con người mà vận dụng
         thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ.
        Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm,
         thơ càng có giá trị cao .
        ...................................................................................................
         
        Nhưng thơ không phải chỉ có thể xuất thần khẩu chiếm thuộc
        phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế
        thì thơ chỉ khéo mà thôi, chưa gọi là đạt.Tức chưa phải là hay.
        Thơ hay vừa phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng
        nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà
        không thực, lời thơ thành gượng ép ..........................................
         
        Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ
        xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ
        hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là
        thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng
        quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi cho
        một tuyên truyền nào đó .
        .....................................................................................................
         
        Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng
        mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận những tình tự
        hư hoang .Có  khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng, nói
        thơ là nói đến thế giới huyền tưởng, huyền tưởng trên sự thực
        để thăng hoa sự thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải
        thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người
        yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống.
        Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy .
         
        Vũ Hoàng Chương
         
        ST

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2008 08:22:37 bởi Huyền Băng >
        #4
          Huyền Băng 07.06.2008 08:40:15 (permalink)
          Để tìm hiểu về các hình thức văn thơ trước đây, các bạn có thể tham khảo link sau:

          VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU
           
           
          Chúc vui,
          HB
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2008 08:42:20 bởi Huyền Băng >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9