sóng trăng
-
Số bài
:
1013
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 25.02.2006
|
RE: Bùi Diễm - Trong Gọng Kềm Lịch Sử
-
02.12.2006 07:03:45
. Chương 17 Sự Can Thiệp của Hoa Kỳ Bác sĩ Quát là một chính khách có kinh nghiệm chánh trị kỳ cựu, có chí quyết tâm, có những xét đoán sâu sắc và những suy nghĩ mẫu mực, đứng đắn. Ông đã là từng là Đổng Lý Văn Phòng Phủ Thủ Tướng trong chánh phủ Trần Trọng Kim và đã hai lần làm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Nếu Nguyễn Khánh thiếu lập trường và kinh nghiệm chính trị bao nhiêu thì bác sĩ Quát lại tháo vát và vững chắc bấy nhiêu. Bác sĩ Quát có lẽ là người có thể đảm đương được trách nhiệm khi Nguyễn Khánh bị trục xuất. Nhưng dù ông có khả năng mấy chăng nữa thì tình hình lúc đó cũng hết sức khó khăn và khả năng của ông chưa chắc đã làm thay đổi được tình hình. Dĩ nhiên chính bác sĩ Quát không hề cảm thấy điều này. Ông là một chính trị gia hết sức tự tin. Trong suốt những năm dài dằng dặc, kể cả những năm bị gạt ra khỏi chính trường, bác sĩ Quát vẫn không hề thối chí trong việc cố gắng tranh đấu để có thể phục vụ ở một cương vị nào đó trong chính quyền. Lúc này, cơ hội đã đến ông nhất định không chịu bỏ lỡ. Hơn nữa, ông tin rằng ông có thể củng cố chính phủ và tạo được cho đất nước một sự ổn định cần thiết cho việc kiến tạo dân chủ và độc lập. Bác sĩ Quát nhận định rằng: Vấn đề chính là tìm cách giải quyết hết những khó khăn quân sự, nhất là vấn đề của các tướng trẻ. Ông cho rằng ông có thể khắc phục được họ. Nhưng lần này những khó khăn đang chờ đợi bác sĩ Quát thật là khủng khiếp. Nếu vấn đề bắt đầu làm lại từ đầu là việc dễ dàng vào năm 1954 và năm 1963 thì vào năm 1965 các biến cố đã thay đổi hoàn toàn khung cảnh chính trị của đất nước. Cơ hội dung hòa những khác biệt giữa các đoàn thể tôn giáo và chính trị bằng một chánh sách đoàn kết trước đây đã hoàn toàn mất hẳn. Đất nước lúc này đang chìm đắm trong tình trạng chia rẽ và xáo trộn. Những tư lệnh cao cấp của quân đội, nguyên là những nhân viên nhận lệnh trực tiếp từ chánh phủ, giờ đây đã xem chánh trường như một vùng chiến địa đòi hỏi những nỗ lực đấu tranh chẳng khác nào những đấu tranh ngoài chiến trường. Lúc này, những tướng tá đã tự chia bè, kết phái chống đối lẫn nhau. Dù họ đồng lòng khinh miệt những nhân viên dân sự, chính bản thân các tướng tá cũng nghi kỵ lẫn nhau. Mặt khác, chính những nhân viên dân sự cũng khinh miệt các tướng tá và các nhân viên quân đội. Công giáo nghi ngờ phật giáo. Phật giáo nghi ngờ công giáo. Những người Miền Nam không còn tin tưởng những người miền Bắc đang chung sống với họ. Có lẽ tệ hơn cả là trong khoảng một năm rưỡi kể từ khi ông Diệm bị lật đổ thì ý kiến thiết lập một chánh phủ đoàn kết các tầng lớp quốc gia đã bị bôi nhọ hoàn tòan. Bác sĩ Quát bắt tay vào việc giữa bầu không khí chính trị phức tạp của năm 1965 trong một môi trường không hề có lấy một điểm sáng nào để có thể hy vọng thành công. Tuy ông là một nhà chính trị có nhiều kinh nghiệm, bác sĩ Quát vẫn không có uy quyền gì thiết thực để làm hậu thuẫn. Về điểm này, trường hợp của ông cũng giống như trường hợp của những phần tử quốc gia khác. Tất cả đều phải gánh chịu những hậu quả tai hại của một thập niên độc tài ở Việt Nam. Trong suốt thời gian ông Diệm cầm quyền, chưa có bất kỳ nhân vật quốc gia nào có được cơ hội cho phép họ đóng góp hoặc cổ động dân chúng ủng hộ cho các chương trình của họ. Thực ra, vì cố tránh việc các đảng viên quốc gia có thể vận động ủng hộ, ông Diệm đã ra lệnh cấm nhóm họp đảng phái. Còn các tướng lãnh thì dĩ nhiên chẳng bao giờ lại có mảy may suy nghĩ về những vấn đề dân chủ như vậy. Kết quả là mặc dù đã nỗ lực nhưng vì không có uy quyền thiết thực để hành động nên bác sĩ Quát vẫn không giải quyết được khó khăn. Ảnh hưởng thực sự của ông chỉ hoàn toàn nằm trong phạm vi kinh nghiệm và một số người ủng hộ ông. Trong số những người ủng hộ ông, tôi là người đã từng làm việc với ông lâu nhất. Vì mối liên hệ chặt chẽ từ lâu giữa hai chúng tôi, tôi sẵn lòng đóng góp mọi đề nghị và ý kiến riêng của tôi với bác sĩ Quát. Nhưng vào ngày 14 tháng 2, khi bác sĩ Quát ngỏ lời mời tôi cộng tác với ông trong chính phủ mà ông đang thành lập, tôi đã cảm thấy vô cùng ngần ngại. Tôi đã thấy rõ những yếu đuối thực thụ của chánh quyền ông Quát, nhưng tôi lại bị lương tâm thúc đẩy và cho rằng mình nên nỗ lực hết sức bất kể thành đạt hay không. Biết rõ những ý nghĩ của tôi về những sự khó khăn và phức tạp của tình hình lúc đó, bác sĩ Quát cố thuyết phục tôi. Ông Quát nói rằng ông đã có nhiều kinh nghiệm về việc giải quyết các vấn đề khó khăn trong quân đội vì ông đã hai lần làm Bộ Trưởng Quốc Phòng. Khi giải quyết xong các khó khăn trong quân đội, ông sẽ đứng ra đương đầu với những khó khăn đang xâu xé các đoàn thể tôn giáo và các đoàn thể chính trị. Hơn nữa, chúng tôi còn có thể soạn thảo một bản hiến pháp phản ảnh những lý tưởng mà chúng tôi đã từng ôm ấp, hoài bão từ lâu. Tuy rằng lý luận của bác sĩ Quát vô cùng hấp dẫn, những linh tính của tôi lại hoàn toàn khác hẳn. Mặc dầu vậy, khi ông Quát đã đi đến mức tận cùng, tôi biết mình chẳng còn đường chọn lựa. Ông Quát than rằng: "Vào giờ phút này mà anh còn bỏ tôi à?" Hết phương lựa chọn, tôi đành chấp nhận cộng tác với chánh phủ của bác sĩ Quát. Chiếu theo chức vụ lúc này thì tôi là Bộ Trưởng tại Phủ Thủ Tướng trong chánh phủ ông Quát. Chính quyết định tham gia chánh phủ của tôi lúc này đã khiến hàng loạt biến cố dồn dập đẩy tôi bước vào một thập niên sôi động nhất trong đời tôi. Đây là một giai đoạn mà tôi phải tiếp xúc với những nhân vật trong cả chánh trường Việt Nam lẫn chánh trường quốc tế. Đây cũng là giai đoạn tôi có dịp mục kích vấn đề bè phái ở Việt Nam, cũng như vấn đề bè phái trong những đoàn thể Hoa Kỳ phục vụ ở Việt Nam. Lúc tôi nhậm chức thì chánh phủ của bác sĩ Quát đã vô cùng bấp bênh, không chút hy vọng có thể thành công hoặc trường tồn lâu dài. Cùng những đồng nghiệp khác tôi chia xẻ một cảm giác quyết tâm "cắn răng" làm hết sức mình. Lúc này, tôi chưa hề đoán trước được rằng rồi đây tôi sẽ có dịp mục kích những biến cố lịch sử to tát và bi thảm của Việt Nam và Hoa Kỳ. Tôi chưa hề biết rằng tôi sẽ có dịp mục kích tấn thảm kịch Việt Nam-Hoa Kỳ, và mục kích gần như trọn vẹn từ buổi đầu, từ lúc hy vọng còn manh nha, cho đến tận những màn bi kịch rụng rời lúc cuối. Khi nhậm chức tôi cũng chưa biết trước được rằng quyết định mấu chốt nhất, quyết định đáng được đặt vấn đề nhất đã được đưa ra ở Hoa Thịnh Đốn rồi. Tôi lại càng không biết trước rằng sau này, vì tôi là mối dây liên lạc giữa bác sĩ Quát với người Hoa Kỳ, nên chính tôi lại được mời vào để chánh thức hóa những quyết định đã được Hoa Thịnh Đốn đưa ra từ trước. Đối với Hoa Kỳ thì vấn đề can thiệp vào Việt Nam có thể được xem là biến cố quan trọng nhất của họ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Đối với Việt Nam thì đây quả là một trong những biến cố quan trọng nhất cho toàn thể Việt Nam. Tuy vấn đề Hoa Kỳ can thiệp vào Việt Nam quan trọng, lớn lao là thế mà chính sách đó lại được thực thi trong một khung cảnh thật hỗn loạn và vào giữa lúc cả hai chánh phủ gần như hoàn toàn không hiểu nhau. Khoảng thời gian giữa tháng 12 năm 1964 và tháng 6 năm 1965 là một giai đoạn của những quyết định phức tạp và khó hiểu. Trong giai đoạn này, cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam đều quyết định thỏa thuận những chính sách gần như mâu thuẫn hẳn với những mục tiêu về lợi ích quốc gia và uy tín cho cả hai. Về phía Hoa Kỳ, tuy đã có những bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến tranh Đại Hàn, Hoa Kỳ vẫn quyết định lao mình vào chiến tranh lục địa ở Á Châu. Về phía Việt Nam, mặc dù việc đổ quân vào Miền Nam hoàn toàn đi ngược những suy xét của các nhà lãnh đạo Việt Nam, và mặc dù mới chỉ thoát ách 100 năm đô hộ của người ngoại quốc, mà Việt Nam vẫn chấp nhận để một quốc gia ngoại quốc đổ quân trấn đóng ngay trên lãnh thổ. Tại sao những quyết định mâu thuẫn như vậy lại có thể xảy ra? Đây là một câu hỏi phức tạp có thể được trả lời bằng nhiều cách giải thích hợp lý khác nhau. Một trong những lời giải thích minh bạch nhất từ phía Hoa Kỳ là những tài liệu chưa in của ông William Bundy. Ông Bundy nguyên là Phụ Tá Ngoại Trưởng Đặc Trách Đông Nam Á và Thái Bình Dương Sự Vụ và cũng chính là người đã tham dự vào tất cả những cuộc thảo luận đã dẫn đến những quyết định can thiệp của Hoa Kỳ vào cuối năm 1964 ở cả Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lẫn tòa Bạch Ốc. Hơn nữa, ông đã tham dự phần lớn các cuộc thảo luận được tổ chức trong giai đoạn Hoa Kỳ sắp đưa ra quyết định can thiệp. Về phía Việt Nam, kể từ khi những cuộc tấn công không lực vừa mới bắt đầu, nhân vật chính là bác sĩ Quát và tôi. Ông Quát không hề để lại bất cứ tài liệu nào nói về các biến cố can thiệp (Bác sĩ Quát chết trong nhà tù thành phố Hồ Chí Minh năm 1981.) Vào thời gian này tôi đang giữ chức bộ trưởng tại phủ thủ tướng và cũng là mối dây liên lạc chánh phủ của bác sĩ Quát với tòa đại sứ Hoa Kỳ. Những tài liệu chánh thức dùng giải thích những sự kiện sau đây phần nhiều trích ra từ những tài liệu của ông Bundy và tài liệu của riêng tôi tích trữ từ các giấy tờ điện tín, nhật ký, chú thích... cũng như từ những tài liệu riêng do chính tôi thu thập. Những tài liệu khác cũng phần nhiều được trích từ những tài liệu đã được xuất bản như Hồ Sơ Ngũ Giác Đài (Pentagon Papers), tài liệu của Gareth Porter, hồi ký của tổng thống Lyndon Johnson, của đại sứ Maxwell Taylor và Phó đại sứ Alexis Johnson và của các nhân vật khác của Hoa Kỳ. Thêm vào đó, tôi đã phỏng vấn hầu hết những người Hoa Kỳ tham gia cũng như những người Việt Nam đã ở vào những cương vị hiểu biết trong quá khứ. Những diễn biến lịch sử dẫn đến việc Hoa Kỳ quyết định can thiệp tường thuật dưới đây phản ảnh suy tư của cả những người có trách nhiệm trong chánh phủ Hoa Kỳ lẫn những nhân viên trong chánh phủ Việt Nam. Khung cảnh toàn cuộc được dựng lại bằng nhiều nguồn tin khác biệt từ nhiều khía cạnh. Khi tổng kết những khung cảnh so le và nhìn rõ được sự thiển cận của các chính sách can thiệp, chẳng hạn như thái độ quá tự tin của Hoa Kỳ, như tình trạng hiểu lầm giữa hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam, hoặc tình cảnh bất lực của chánh phủ Việt Nam, khung cảnh có lẽ khó thể khiến người quan sát tránh khỏi sững sờ. Nếu đem so sánh tầm mức quan trọng của quyết định can thiệp và cách thức Hoa Kỳ can thiệp thì khung cảnh quả là một tấn thảm kịch hãi hùng. Biến cố đánh dấu sự can thiệp của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu khi các cố vấn Hoa Kỳ được gửi sang để giúp đỡ quân đội mới thành hình của ông Diệm vào năm 1954. Giữa năm 1961 và năm 1964, số lượng nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã nhảy vọt từ 900 lên đến 23,000. Nhưng mặc dầu sự giúp đỡ có phần đáng kể, các huấn luyện viên và các cố vấn Hoa Kỳ chỉ đóng một vai trò giảng dạy nhỏ hẹp trong các hoạt động quân sự của Miền Nam. Vì Hoa Kỳ chỉ đóng vai cố vấn nên bất kỳ lúc nào con số nhân viên của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng có thể tăng hoặc giảm. Sự hiện diện của các nhân viên Hoa Kỳ chỉ đáp ứng đơn thuần những đòi hỏi "cố vấn và giúp đỡ," hoàn toàn khác hẳn với những can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ về sau. Nếu không kể những cuộc oanh tạc trả đủa của Hoa Kỳ đối với Hà Nội sau biến cố vịnh Bắc Việt thì hành động can thiệp trực tiếp bằng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam bắt đầu vào tháng 2 năm 1965. Nếu chỉ nói riêng về các kế hoạch quân sự của Hoa Kỳ thì ngay cả từ trước năm 1964 Hoa Kỳ đã có sẵn những kế hoạch để đối phó với trường hợp leo thang chiến tranh ở Việt Nam. Tuy thế, những kế hoạch của Hoa Kỳ lại chỉ là những kế hoạch soạn sẵn để đề phòng những trường hợp bất trắc khẩn cấp chứ không phải là những kế hoạch được soạn thảo để áp dụng ngay trong thực tế nếu chiến cuộc kéo dài. Trong khi Hoa Kỳ vẫn chưa có lập trường rõ rệt về vấn đề liệu có nên can thiệp bằng quân sự hay không thì Bắc Việt lại gia tăng những cuộc khủng bố ở Miền Nam Việt Nam nhằm thẳng vào các nhân viên và quân đội của Hoa Kỳ. Trong một cuộc khủng bố ở khách sạn Brink trong Lễ Giáng Sinh năm 1964, Việt Cộng đã đặt chất nổ khiến hai nhân viên của Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 58 nhân viên khác bị thương. Rồi vào tháng 2, năm 1965 Việt Cộng lại đặt chất nổ ở một trại lính Hoa Kỳ là trại Holloway khiến 8 binh sĩ Hoa Kỳ bị thiệt mạng và 100 binh sĩ khác bị thương. Cuộc khủng bố xảy ra ngay giữa lúc cố vấn an ninh của Hoa Kỳ là ông McGeorge Bundy đang ở Việt Nam quan sát tình hình. Để trả đủa lại những sự khiêu khích trắng trợn của Việt Cộng, Hoa Kỳ bắt đầu phát động chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder . Chiến dịch này chánh thức mở màn sự can thiệp bằng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Lúc bác sĩ Quát bước vào nhậm chức thì chiến dịch Rolling Thunder đang trên đà phát động. Máy bay của Hoa Kỳ đang dội bom vào những mục tiêu của Bắc Việt ở những đường mòn Hồ Chí Minh chạy dọc theo biên giới Lào và Cam Bốt từ Bắc vào Nam. Hoa Kỳ bắt đầu phát động chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder vào khoảng tháng 12-1965, khi chánh quyền Nguyễn Khánh đang đi vào giai đoạn khủng hoảng cuối cùng. Mục tiêu chính của chiến dịch oanh tạc là cắt đứt những đường giao thông của cộng sản và tiêu diệt những căn cứ Bắc Việt đã thiết lập khi chuyển quân vào Miền Nam Việt Nam. Vào lúc này, vẫn chưa ai có thể tiên đoán được rằng chiến dịch oanh tạc chính thật là bước đầu tiên của một kế hoạch đang biến dần thành kế hoạch can thiệp quân sự lớn lao của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Riêng về phương diện ngoại giao thì những nhân viên ở Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng đã thảo luận vấn đề dùng không lực của Hoa Kỳ để đối phó với Bắc Việt từ trước cả khi có biến cố vịnh Bắc Việt. Khi cân nhắc những ưu và khuyết điểm của kế hoạch can thiệp bằng không lực, những người trong nhóm soạn thảo chính sách của Hoa Kỳ vẫn phân vân chẳng hiểu họ có nên can thiệp hay không? Sở dĩ nhóm soạn thảo chính sách của Hoa Kỳ phân vân là vì họ vẫn chưa cân nhắc được ảnh hưởng của những yếu tố phức tạp khác trên trường chính trị quốc tế. Nếu đứng trên phương diện chiến lược mà luận thì Việt Nam quả thật là một sự thử thách của chính sách ngăn chận thế lực cộng sản và bảo vệ tự do dân chủ ở tất cả các quốc gia trong khối đồng minh trên thế giới (containment policy). Dĩ nhiên, khi Việt Nam không thể chống chọi được với Bắc Việt mà Hoa Kỳ vẫn muốn chính sách containment thành công thì họ phải can thiệp bằng quân sự ở Việt Nam. Mặt khác, Hoa Kỳ vẫn sợ rằng sự can thiệp của họ có thể bị Nga và Tàu cho rằng họ có ý muốn khiêu khích các thế lực cộng sản. Nói rõ hơn thì họ sợ rằng sự can thiệp của họ ở Việt Nam có thể khiến cuộc chiến Việt Nam bành trướng thành một cuộc thế chiến. Vì đã thấy rõ những yếu tố phức tạp của sự can thiệp nên Hoa Kỳ muốn giảm thiểu sự can thiệp của họ đến mức tối đa. Có lẽ họ cho rằng giải pháp vẹn toàn nhất là giúp chánh phủ Việt Nam cải thiện và củng cố quân đội Việt Nam để Miền Nam Việt Nam có thể tự đối phó với Bắc Việt thì họ có thể vẫn áp dụng được chính sách containment mà không cần phải can thiệp bằng quân sự. Chính vì thế nên lúc nào Hoa Kỳ cũng muốn tình hình chánh phủ của Việt Nam ổn định để họ có thể áp dụng được giải pháp can thiệp nửa vời như một giải pháp vẹn toàn. Mặc dầu trong năm 1964, nhóm soạn thảo kế hoạch do ông Bundy đứng đầu có đề ra nhiều giải pháp khác nhau, cho tới hạ tuần tháng 11 năm 1964 vẫn chưa hề có giải pháp nào đáng được gọi là quyết định. Lúc đó, đại sứ Taylor Maxwell vừa từ Sài Gòn trở về Hoa Thịnh Đốn. Ông đã trở lại để thuyết trình cho nhóm soạn thảo kế hoạch làm việc dưới quyền ông Bundy. Lúc này nhóm soạn thảo đang làm việc trong giai đoạn cuối và những giải pháp của họ sắp được đệ trình lên tổng thống. Vì đại sứ Taylor vừa mới từ Sài Gòn trở về và nhóm soạn thảo kế hoạch lại đang ở vào giao đoạn chót, tình hình đã khiến đại sứ Taylor đứng vào cương vị chủ chốt và tại thời điểm này, quan niệm của ông thật vô cùng quan trọng. Vào ngày 27 tháng 11, bản báo cáo của ông vừa thành thật lại vừa vô cùng bi quan. Đại sứ Taylor viết rằng tình trạng xáo trộn ở Việt Nam có thể được coi như một "chứng bệnh kinh niên" của chánh phủ. Ông cho rằng đây là một "yếu điểm trầm trọng." "Nếu chánh phủ Việt Nam không đủ khả năng để tiếp tay với những nỗ lực của Hoa Kỳ thì những nỗ lực tiếp trợ của Hoa Kỳ chẳng qua chỉ là những nỗ lực vô ích, chẳng khác nào những nguồn năng lực có thể khiến một chiếc bánh xe quay tròn, nhưng lại không thể truyền đi được sức mạnh của những vòng quay." Đại sứ Taylor cho rằng "Nếu muốn thúc đẩy tình hình biến chuyển thì phải thiết lập ngay một chánh phủ vững chãi ở Việt Nam." Khi Ngoại Trưởng Dean Rusk trực tiếp hỏi phải theo phương pháp cụ thể nào để chánh phủ Việt Nam có thể hoạt động khả quan hơn thì đại sứ Taylor trả lời rằng giới lãnh đạo Việt Nam phải được loan báo những "tin tức thiết thực," họ cần phải biết rõ giải pháp của Hoa Kỳ cùng với những dấu hiệu cho thấy Hoa Kỳ sẵn sàng "nói chuyện nghiêm chỉnh về vấn đề thực sự đương đầu với Miền Bắc." (Ông nhấn mạnh điều này.) Đại sứ Taylor cho rằng những tin tức thiết thực có thể khích lệ chánh phủ Việt Nam điều hành hữu hiệu hơn. Giữa lúc đại sứ Taylor đang trình bày ý kiến thì Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara lại nêu câu hỏi: Nếu ngay cả khi những tin tức cần thiết đã được loan báo rồi mà chánh quyền Sài Gòn vẫn không thay đổi thì liệu Hoa Kỳ có đủ lập luận để oanh tạc miền Bắc hay không? Rồi chính ông McNamara đã trả lời rằng Hoa Kỳ sẽ có đủ lập luận để oanh tạc. Đại sứ Taylor cũng đồng ý với ông McNamara và cho rằng khi tình thế đã tuyệt vọng thì những hành động mạnh mẽ có thể sẽ khiến Việt Nam đoàn kết lại với nhau. Khi rút tỉa từ những ý kiến phát biểu trong cuộc trao đổi giữa hai ông McNamara và ông Taylor, ông William Bundy đã diễn tả những hành động mạnh mẽ kêu gọi Việt Nam đoàn kết có thể ví như một hiện tượng "chạm điện." Theo ông Taylor thì "ý kiến về nỗ lực cuối cùng -chữa trị bằng phương pháp 'giật dây,' tương tự như phương pháp giật dây một động cơ cho nổ máy có thể là một giải pháp thích nghi." Bốn ngày sau, vào ngày 1 tháng 12, Tổng Thống Lyndon Johnson chánh thức chấp nhận đề nghị của nhóm soạn thảo chính sách. Chủ trương của chính sách mới đòi hỏi Hoa Kỳ phải gia tăng áp lực với Bắc Việt. Nếu cần, cách gia tăng áp lực sẽ bao gồm cả việc tấn công bằng không lực vào những căn cứ quân sự quan trọng của Bắc Việt. Nhưng theo ý tổng thống Johnson thì trước tiên đại sứ Taylor nên cố gắng dùng hết sức tạo sự đoàn kết giữa những người quốc gia Việt Nam. Tổng thống Johnson nhắn nhủ đại sứ Taylor: "Nếu muốn thực thi chánh sách oanh tạc không lực thì ông phải tìm cách nối kết toàn thể các lãnh tụ chánh trị hiện thời." Đây là những lời nhắn nhủ đại sứ Taylor vẫn ghi nhớ khi trở về Sài Gòn, nhưng chỉ một tháng sau ông đã gửi một bức điện tín rất dài về Hoa Thịnh Đốn, báo cáo rằng những cố gắng của ông đã hoàn toàn thất bại. Đại sứ Taylor quay lại Việt Nam để thực thi chỉ định của tổng thống Johnson vào giữa lúc chánh quyền tướng Khánh đang ở trong tình trạng khủng hoảng. Lúc này các tướng trẻ đang nổi loạn và vụ bắt cóc các nhân viên Thượng Hội Đồng vừa xảy ra. Tuy đã cố hết sức hàn gắn và hô hào đoàn kết, những nỗ lực của đại sứ Taylor vẫn hoàn toàn vô hiệu. Việt Nam chẳng hề có bất kỳ ý niệm nào về việc cần phải đoàn kết cả. Trái lại, thái độ mạnh ai nấy sống lộ rõ ở khắp các nẻo đường Sài Gòn. Đại sứ Taylor cho rằng Việt Nam có thái độ này vì họ đã có một cảm giác chung rằng đất nước đã đến hồi bỉ vận và Hoa Kỳ có lẽ cũng chỉ đến khoanh tay đứng nhìn mà thôi. Ông Bundy còn nhớ đại sứ Taylor đã phát biểu: "Kể cả những thang thuốc mạnh nhất cũng không đủ hiệu lực. Giờ đây chẳng còn cách nào khác hơn là phải giải phẫu con bệnh." Những suy luận của đại sứ Taylor đã khiến ông Bundy nhận định: "Nếu theo chủ kiến của đại sứ Taylor thì cả vấn đề củng cố tinh thần lẫn vấn đề củng cố những hoạt động chính trị của Việt Nam đều lệ thuộc rất nhiều vào việc thực thi những chương trình oanh tạc không lực." Vào ngày 1, tháng 12-1964, ngoài những yếu tố vừa kể, những yếu tố khác còn lại có ảnh hưởng đến việc tổng thống Johnson chấp thuận quyết định thực thi chương trình oanh tạc là: Vấn đề cần phải trả đủa những cuộc tấn công của Việt Cộng và thể hiện sự quyết tâm của Hoa Kỳ, nhất là vấn đề cần phải gia tăng áp lực để buộc Bắc Việt phải thu nhỏ tầm hoạt động. Tài liệu cho thấy quyết định oanh tạc cũng lệ thuộc rất nhiều vào lập luận "hà hơi tiếp sức" của đại sứ Taylor vào cuối tháng 11, khi ông đưa ý kiến lần đầu và rồi sau đó vẫn tiếp tục giữ vững quan điểm trong những buổi thuyết trình tương tự kế tiếp vào đầu tháng giêng. Tất cả những buổi thuyết trình đều nhấn mạnh vào vấn đề cần phải có một động cơ cấp thiết thúc đẩy những người Việt Nam đoàn kết lại với nhau. Điều cuối cùng đáng chú ý trong lập luận của đại sứ Taylor về việc đề nghị chương trình oanh tạc Bắc Việt là: Tuy ủng hộ chính sách tấn công bằng không lực, đại sứ Taylor đã chấp thuận một phần cũng là vì đây còn là một phương sách giữ cho Hoa Kỳ khỏi phải đi sâu vào những vấn đề quân sự phức tạp. Phó Đại Sứ Alexis Johnson đã phát biểu: "Thật ra, vì là những người làm việc ở tòa đại sứ, chúng tôi còn mong mỏi một điều khác. Chúng tôi hy vọng rằng chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder sẽ xoa dịu những yêu cầu, đòi hỏi các lực lượng bộ binh Hoa Kỳ phải trực tiếp can thiệp." Họ nghĩ rằng chương trình oanh tạc sẽ khiến những người hiếu chiến giảm bớt áp lực đòi hỏi Hoa Kỳ phải đổ quân. Vào tháng 2, cả đại sứ Taylor lẫn các phụ tá của ông đều bị áp lực về vấn đề phải đổ quân Hoa Kỳ vào Việt Nam. Tuy thế, những suy nghĩ cẩn trọng của Hoa Kỳ lại chẳng hề đi đôi với bất kỳ nỗ lực nào của chính quyền Việt Nam. Vì nằm trong trạng huống của một chánh phủ đầy những rối ren trong nội bộ, ông Nguyễn Khánh làm gì còn có thời giờ suy nghĩ về biến chuyển của những chương trình oanh tạc. Ông Khánh không hề ở vào cương vị có thể đồng ý hoặc chối từ -Ở vào thời điểm này, ông Khánh gần như không còn nói chuyện được với đại sứ Taylor. Hơn nữa, các tướng lãnh lại suy nghĩ ngược hẳn với ý kiến của đại sứ Taylor. Họ không hề thấy việc đâu lưng đoàn kết là cần thiết. Thật ra, vào những ngày tàn tạ của chánh quyền Nguyễn Khánh, các tướng lãnh chia rẽ chẳng phải do những nguyên nhân xuất phát từ thái độ mạnh ai nấy sống như đại sứ Taylor đã xét đoán mà là do những mâu thuẫn và xung khắc phát xuất từ những đố kỵ và tham vọng cá nhân. Đối với các nhóm quân nhân đang chú tâm vào việc tranh quyền thì chương trình oanh tạc chỉ là một chuyện tự nhiên Hoa Kỳ phải làm và chẳng ai cần thắc mắc cả. Do đó, nỗ lực tiếp sức mạnh mẽ của Hoa Kỳ vào lúc này là một việc làm đơn phương, không thể nào có thể gọi là quyết định hỗn hợp của cả hai chánh phủ Hoa Kỳ và Việt Nam. Tuy quyết định oanh tạc ảnh hưởng đến vấn đề can thiệp trầm trọng là thế mà khi bắt đầu nắm quyền vào ngày 18 tháng 2-1965, chánh phủ Việt Nam vẫn chẳng duyệt lại tình hình. Tôi tin chắc rằng ông Khánh cũng chẳng quan tâm gì đến việc báo cáo với bác sĩ Quát về những kế hoạch của Hoa Kỳ. Tôi còn nhớ một cuộc đàm thoại ngắn ngủi trong tuần đầu lúc tôi bắt đầu làm việc, khi bác sĩ Quát lưu ý rằng đại sứ Taylor sẽ ghé qua tường trình với chúng tôi về những chương trình oanh tạc. Sau đó, cứ hai tuần một lần, đại sứ Maxwell Taylor và ông Alexis Johnson lại đến phủ thủ tướng mang theo một xấp bản đồ để chỉ cho chúng tôi những mục tiêu đang bị oanh tạc. Vai trò hoạt động quân sự đơn phương của Hoa Kỳ được coi là chuyện tự nhiên cho đến nỗi chính phủ Việt Nam không thèm đưa cả vấn đề vào chương trình nghị sự ở mỗi kỳ họp hàng tuần. Vấn đề can thiệp chẳng những đã không nằm trong chương trình nghị sự của chính phủ Việt Nam mà cũng chẳng hề được nhắc nhở gì đến trong bất kỳ chương trình nghị sự hỗn hợp Mỹ-Việt nào của tôi và cố vấn tòa đại sứ Melvin Manfull. Lúc này, tôi và ông Melvin Manfull là hai nhân viên cùng nhận lãnh trách nhiệm soạn thảo các chương trình nghị sự cho bác sĩ Quát, đại sứ Taylor và các phụ tá chính của họ. Quyết định về việc xử dụng không lực Hoa Kỳ trên lãnh thổ Việt Nam (khác với quyết định oanh tạc) cũng được tiến hành rập khuôn như trường hợp trước, không hề có sự thỏa thuận hoặc thảo luận đặc biệt nào trước với chánh phủ Việt Nam. Thực thi một chính sách có ảnh hưởng hệ trọng đến toàn thể dân chúng mà lại không cần đếm xỉa gì đến vấn đề thương thảo, nhận định chung của cả hai chánh phủ thật là một việc ngoài mức tưởng tượng. Tuy thế, áp lực của tình hình đã khiến những người lãnh đạo của cả hai quốc gia cùng đồng ý rằng: Thực ra, vấn đề vẫn chưa nghiêm trọng đến mức cần phải thảo luận với chính phủ Sài Gòn chứ đừng nói tới việc phải liệu xem mức độ cần thiết thực sự đã đến độ nào! Một bên thì các nhà chức trách quân sự Hoa Kỳ, dưới áp lực của tình hình chiến sự, có lẽ đã nghĩ rằng vấn đề không quan trọng và chưa cần phải thảo luận với chánh phủ Việt Nam. Và một bên thì còn đang lặn ngụp, trăn trở với những vấn đề cấp bách, không có đủ thời giờ mà nghĩ quá xa đến những vấn đề phức tạp. Lúc này, chánh phủ Việt Nam đang xoay sở khốn đốn vì thiếu thốn phương tiện chỉnh đốn lại các hỗn loạn di lại từ trước. Tư thế lặn hụp, trăn trở, cố ngoi đầu lên khỏi mặt nước đã khiến Việt Nam phải để các tổ chức quân sự tự đương đầu với chiến cuộc trong mọi vấn đề. Dù rằng việc quyết định dùng các lực lượng không quân Hoa Kỳ đã là một vấn đề đáng lưu tâm, việc đổ bộ của Hải Quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 3-1965 lại còn đáng chú tâm hơn. Đối với Hoa Kỳ thì quyết định đổ bộ hải quân là một quyết định đánh dấu giai đoạn khởi đầu nhập cuộc chiến tranh lục địa Á Châu. Đối với dân chúng Việt Nam thì vấn đề đổ bộ cho thấy quân đội ngoại quốc lại chiếm đóng ở Việt Nam thêm một lần nữa. Vào thời gian này, mối liên hệ giữa tôi và bác sĩ Quát đã vượt xa quan hệ đơn thuần giữa cấp trên và cấp dưới. Mười lăm năm tình nghĩa đã biến chúng tôi thành thân thiết gần như "anh em." Chúng tôi vẫn thường bàn luận với nhau về những vấn đề khúc mắc, khó xử. Riêng về vấn đề hiện diện của quân đội ngoại quốc ở Việt Nam thì chúng tôi cùng đồng quan điểm đã từ lâu. Bất kể tầm mức cần thiết về vấn đề quân sự có quan trọng tới mức nào, cả hai chúng tôi đều dứt khoát cho rằng để quân đội ngoại quốc nhập cuộc là tự chuốc lấy một vấn đề khó khăn vô tả. Vào năm 1953, chúng tôi đã từng ở vào một tình trạng hết sức khó xử khi tham gia vào chánh quyền của ông Bảo Đại. Chính kinh nghiệm của những việc khó xử đó đã khiến chúng tôi phải ngần ngại. Chúng tôi sợ rằng rồi đây những người không ở trong tình trạng của chúng tôi sẽ lại rơi vào bộ máy tuyên truyền của cộng sản để kết án chúng tôi là bù nhìn. Nếu bị kết án bù nhìn chẳng những cá nhân chúng tôi phải chịu đựng chỉ trích mà cả chính nghĩa của Miền Nam Việt Nam cũng vì thế mà bị suy tổn. Chúng tôi cho rằng chỉ có thể để Hoa Kỳ can thiệp bằng quân sự nếu quả thật đã đến đường cùng và chẳng còn biện pháp nào khác hơn. Vào tháng 3 năm 1965, tuy trong bụng lo lắng nhưng tôi vẫn nghĩ rằng Hoa Kỳ có lẽ sẽ chánh thức yêu cầu chánh phủ Việt Nam thỏa thuận cho họ đổ quân vào Việt Nam. Lúc này, có thể việc Hoa Kỳ yêu cầu đổ quân là một việc hợp lý vì họ có thể xin chánh phủ Việt Nam chánh thức cho phép họ bảo vệ các căn cứ của Hoa Kỳ đã được thiết lập ở phía bắc bờ biển Đà Nẵng. Tuy đã biết trước vấn đề yêu cầu, nhưng thời khóa biểu chất chồng đã khiến tôi chẳng thể dành hết mọi thì giờ mà nghĩ tới chuyện này. Tôi chỉ tự nhủ thầm rằng sẽ có lúc tôi tìm cách đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự của các buổi họp hỗn hợp hàng tuần giữa đại sứ Taylor và bác sĩ Quát. Như tôi đã trình bày khi trước, phần lớn các chương trình nghị sự đều do tôi và ông Manfull soạn thảo. Nhưng biến cố đã đi ra ngoài sự tiên liệu của tôi. Rạng ngày mùng 8 tháng 3, tôi bỗng nhận được điện thoại của bác sĩ Quát mời đến nhà ông lập tức vì có việc cần. Khi tôi đến nơi thì ông Melvin Manfull đã có mặt. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ trông có vẻ bình thản nhưng bác sĩ Quát thì có vẻ căng thẳng trông thấy. Chưa mời tôi ngồi, bác sĩ Quát đã nói rằng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã đổ bộ vào Đà Nẵng. Tình hình đòi hỏi tôi và ông Manfull phải viết một bản báo cáo hỗn hợp để xác nhận là chánh phủ Việt Nam đồng ý cho phép Thủy Quân Lục Chiến của Hoa Kỳ đổ bộ vào Việt Nam. Bác sĩ Quát nhắn tôi: "Biên càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi." Vì tôi đã đoán trước việc tướng Westmoreland sẽ yêu cầu đổ quân, nên những tin tức mới nhất này không hề làm tôi ngạc nhiên, nhưng khung cảnh bất ngờ và thiếu chuẩn bị đã làm tôi bực mình. Tôi nắm tay bác sĩ Quát, dẫn ông vào phòng kế cận, hỏi: "Có việc gì đặc biệt xảy ra mà chúng ta chưa biết không? Tại sao họ lại hành động bất ngờ như vậy?" Bác sĩ Quát cố giữ bình tĩnh, nhưng giọng ông vẫn thật căng thẳng: "Anh ơi, họ đang đổ bộ vào bờ biển. Họ đã lên bờ rồi. Anh hãy thảo ngay bản thông cáo rồi chúng ta sẽ bàn luận chuyện này sau!" Trong vòng nửa tiếng đồng hồ, tôi và ông Manfull đã soạn thảo xong bản thông cáo hỗn hợp thông báo việc hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã đổ bộ "với sự thỏa thuận của chánh phủ Việt Nam." Khi nhà ngoại giao Hoa Kỳ vừa đi khỏi, tôi lại trở lại ngay vấn đề và hỏi bác sĩ Quát. Ông Quát cho biết nhiều ngày trước đây, ông và đại sứ Taylor có "trao đổi ý kiến" về vấn đề cần phải gia tăng việc phòng thủ Việt Nam. Trong cuộc trao đổi ý kiến sơ khởi, đại sứ Taylor có đề cập đến vấn đề Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đổ bộ. Theo lời bác sĩ Quát thì đây chỉ mới là vấn đề trao đổi ý kiến tổng quát. Ông cũng cho biết rằng lúc thảo luận ông đã đưa ý kiến rằng ông rất ngần ngại nếu người Mỹ phải trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc thảo luận tuy bác sĩ Quát chưa yêu cầu Hoa Kỳ đổ quân nhưng ông cũng chưa tỏ ý chống đối. Bác sĩ Quát cho biết đại sứ Taylor đã "đồng ý với phần lớn các quan điểm của ông." Khi tôi hỏi tại sao chúng tôi lại phải đương đầu với một biến chuyển đột xuất như vừa rồi thì bác sĩ Quát trả lời rằng: "Tôi nghĩ chính đại sứ Taylor cũng phải ngạc nhiên. Khi sáng ông ta có viện lẽ rằng đây chẳng qua chỉ là một vấn đề do tình hình ở các căn cứ không lực bắt buộc vào lúc này." Hôm sau, các tờ báo Sài Gòn đã đăng tải những hình ảnh khác hẳn những biến động bất ngờ đã đến với chúng tôi ngày hôm trước. Hình ảnh các binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ được các thiếu nữ mặc áo dài mang vòng hoa đón tiếp nồng nhiệt được đăng ngay trong những trang đầu. Theo các hình ảnh đăng tải thì đây có vẻ là một cuộc đón tiếp chánh thức và trọng thể. Mấy ai biết rõ sự thật ẩn sau những vòng tay chào đón rộng mở và những khuôn mặt hớn hở tươi vui? Theo tài liệu của ông Bundy, và hồi ký của các ông Alexis Johnson, Taylor và Westmoreland thì chính bản thân đại sứ Taylor cũng "vô cùng ngần ngại" khi đồng ý việc đổ quân. Vào ngày 22 tháng 2-1965, ông Taylor cũng đã trình bày quan điểm "dè dặt" của ông Quát với bộ ngoại giao. Ông Bundy viết rằng: "Đại sứ Taylor dứt khoát khước từ vấn đề Hoa Kỳ đổ quân. Ông chống đối tất cả mọi cuộc đổ quân bất kể quân số và chỉ đồng ý có thể để một lực lượng an ninh [dùng vào việc phòng thủ các căn cứ Không Lực ở Đà Nẵng.]" Theo lời tường thuật của ông Bundy thì đại sứ Taylor đã suy luận rất minh bạch về những bất lợi gây ra khi quân đội Hoa Kỳ nhập cuộc. Tuy nhiên, vào ngày 24 tháng 2, chỉ 2 ngày sau, tướng Westmoreland đã gửi riêng một đề nghị về Hoa Thịnh Đốn đòi hỏi 2 tiểu đoàn thủy quân lục chiến phải đổ bộ cấp tốc vào Đà Nẵng để bảo vệ các căn cứ không lực. Tướng Westmoreland cũng nhắn thêm rằng đại sứ Taylor đã đồng ý với ông về việc này. Đề nghị của tướng Westmoreland được chuyển đến Bộ Tổng Tham Mưu rồi Bộ Tổng Tham Mưu lại nhân cơ hội yêu cầu một lữ đoàn viễn chinh gần 5000 binh sĩ bao gồm cả pháo binh và chiến đấu cơ yểm trợ. Theo lời Phó đại sứ Johnson thì khi nghe tin cả đại sứ Taylor cùng ông đều "kinh ngạc." Kế hoạch đổ quân của Bộ Tổng Tham Mưu lần này vượt xa tầm mức quân sự cần thiết và là điều họ chưa hề tưởng đến bao giờ. Họ nhất định bác bỏ đề nghị đổ quân. Đêm đó, một giải pháp dung hòa được thông qua. Trong giải pháp này, cả Phó đại sứ Johnson lẫn đại sứ Taylor đều đồng ý cho phép 3500 Thủy Quân Lục Chiến được đổ bộ vào Việt Nam. Họ quyết định thật "lưỡng lự" và chỉ thỏa thuận với điều kiện đây là con số tối đa. Hơn nữa, họ còn nhấn mạnh khi những đội quân Việt Nam đã đủ sức thay thế thì những đội quân Hoa Kỳ phải rút lui ngay. Vào ngày 26 tháng 2 Bộ Quốc Phòng chuyển lời đề nghị lên tổng thống trong một bữa ăn trưa. Trong bữa ăn trưa, tổng thống Johnson đã đồng ý chấp thuận lời yêu cầu. Theo ông Bundy thì vào lúc này chánh phủ Hoa Kỳ chưa hề tham khảo ý kiến Bộ Ngoại Giao. Diễn biến cho thấy ngay trong nội bộ Hoa Kỳ đã có một hố ngăn cách lớn lao. Những cơ quan quân sự không hề ngần ngại khi cần hành động ngược lại với quan niệm của các cơ quan dân sự hoặc tự ý liên lạc với tổng thống. Việc đổ bộ hiển nhiên là việc đại sứ Taylor không hề hay biết. Các nhân viên tham mưu chẳng thèm đoái hoài gì đến việc thông báo trước với ông. Khi việc đổ quân xảy ra bất ngờ, đại sứ Taylor vô cùng phẫn nộ. Cuộc cãi vã giữa ông và tướng Westmoreland găng cho đến mức ông đã nhắc nhở tướng Westmoreland về vấn đề ai giữ chức vụ quan trọng hơn ai. Đại sứ Taylor còn phẫn khích hơn khi khám phá được rằng lúc đổ quân, những đội quân Thủy Quân Lục Chiến đã mang theo cả xe tăng, đại pháo lưu động và nhiều khí cụ nặng khác mà nếu đem dùng vào việc "phòng thủ căn cứ" thì quả là một điều hoàn toàn vô lý. Có lẽ đại sứ Taylor đã cảm thấy mình bị qua mặt. Ông đã bác bỏ giải pháp quân sự, rồi lại gượng gạo đồng ý cho phép một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến phòng vệ đóng ở Đà Nẵng vào lúc đầu. Sau đó lại cho phép một tiểu đoàn thứ hai đổ vào để bảo vệ tiểu đoàn thứ nhất. Chỉ mới thoáng một cái mà quân số hai tiểu đoàn đã lên đến 3500. Chẳng những thế, cả đại sứ Taylor lẫn Phó đại sứ Alexis Johnson đều cho là mình hãy còn may mắn đã giới hạn được con số quân nhỏ như vậy. Chỉ vẻn vẹn hai ngày sau, tin tức về việc đổ quân lại lan ra khiến cho các đồng nghiệp của đại sứ Taylor ở Bộ Ngoại Giao không tài nào có đủ thời giờ hoặc cơ hội xem xét lại những đề nghị của các viên chức tham mưu quân sự. Để kết thúc quá trình, các tham mưu trưởng đã không báo trước với ông về việc đổ bộ. Hơn nữa, khi các đội binh thủy quân lục chiến đổ bộ, họ đã ào ạt ùa vào chẳng khác nào cuộc đổ bộ vào bãi biển Iwo Jima hồi Đệ Nhị Thế Chiến thay vì chỉ đổ bộ một cách kín đáo như đại sứ Taylor đã nghĩ. Theo các tài liệu thì dù rằng ở giai đoạn nào, đại sứ Taylor cũng rất ngần ngại khi phải để Hoa Kỳ đổ quân chánh thức tham dự chiến cuộc. Tuy vậy, ý kiến của ông đã bị Hoa Thịnh Đốn bác bỏ và cuối cùng, vì không còn đường chọn lựa, đại sứ Taylor đành phải miễn cưỡng đi theo. Việc đại sứ Taylor đột ngột thay đổi quan niệm chính là vì ý kiến của ông đã bị bác bỏ. Và cũng vì vậy mà ông đã phải yêu cầu bác sĩ Quát chấp thuận quyết định của Hoa Kỳ, trong khi trên thực tế thì quyết định đã được chấp hành trước cả lúc ông bắt đầu ngỏ lời yêu cầu. Hậu quả tai hại của những biến cố bất ngờ ngày càng lộ rõ. Vấn đề liệu bác sĩ Quát có thể trì hoãn hoặc bác bỏ được cuộc đổ quân hay không lại là một vấn đề khác. Bản thân bác sĩ Quát cũng là người mới nắm quyền và quyền lực của ông còn phụ thuộc rất nhiều vào quân đội. Thực sự thì tuy bác sĩ Quát chưa chính thức bác bỏ việc đổ quân mà đã bị đặt vào một tình trạng của sự đã rồi. Đại sứ Taylor đã trình bày thành thực rằng quân Hoa Kỳ sẽ chỉ đóng một vai trò phòng vệ hạn hẹp. Hơn nữa, vấn đề đóng quân chẳng qua chỉ là một vấn đề tạm thời. Bác sĩ Quát đã đồng ý thỏa thuận việc đổ quân. -Ít ra cũng là đồng ý thỏa thuận vào giai đoạn này. Có lẽ bác sĩ Quát nên hành động khác, nhưng nhìn lại tình hình lúc đó, tôi không thể tự dối mình mà bảo rằng nếu bác sĩ Quát có hỏi thì tôi đã cho ý kiến khác. Trong tình cảnh chánh phủ mới lúc đó vừa nắm quyền và hãy còn mơ hồ, hẳn nhiên việc chúng tôi có thể chống đối khi Hoa Kỳ tự ý hành động đã hẳn là một việc không hề thực tế. Tuy nhiên một khi quyết định can thiệp đã được thực thi thì những diễn biến tuần tự kế tiếp chỉ là những bước cố định nằm trong một tiến trình bắt buộc. Vấn đề can thiệp quân sự và can thiệp chính trị thật chẳng khác nào việc thụ thai. Vấn đề có "thụ thai nửa chừng" chỉ là một vấn đề lệch lạc và ảo tưởng. Chỉ mới hai tuần sau khi 3500 Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ vào Đà Nẵng thì Tư Lệnh quân đội Harold K. Johnson đã gửi lời yêu cầu tổng thống Johnson xin phép cho thêm ba sư đoàn bao gồm hai sư đoàn Hoa Kỳ và một sư đoàn Đại Hàn đổ vào Việt Nam để tăng viện. Đại sứ Taylor lại bác bỏ. Khi trót thỏa thuận việc cho phép Thủy Quân Lục Chiến Đổ Bộ, đại sứ Taylor đã bị viễn ảnh can thiệp lớn rộng của Hoa Kỳ ám ảnh dằn vặt và phải chịu đựng rất nhiều đau khổ. Tuy tôi không rõ đích thực bác sĩ Quát cùng ông Taylor bàn luận ra sao nhưng bác sĩ Quát đã nhiều lần cho biết rằng ông và đại sứ Taylor cùng đồng quan điểm về vấn đề phải giới hạn vai trò của Thủy Quân Lục Chiến ở Đà Nẵng. Đại sứ Taylor đã trả lời những yêu cầu của tướng Harold Johnson bằng cách đánh điện tín về Tòa Bạch Ốc rằng ông nhất định không đi xa hơn con số Thủy Quân đang đóng ở Đà Nẵng. Vào tháng ba, khi được triệu hồi về Hoa Thịnh Đốn, ông vẫn khăng khăng, một mực quyết định giữ vững lập trường. Hiển nhiên là lúc này đại sứ Taylor đanh tranh luận kịch liệt cùng tướng Westmoreland và các nhân viên tham mưu quân sự về vấn đề đổ quân bành trướng các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tuy thế, đại sứ Taylor không phải là người duy nhất ra mặt chống đối. Gần như tất cả những nhân viên dân sự ở Hoa Thịnh Đốn cũng đều chống đối như ông. Vào ngày 1, tháng 4, trong một cuộc họp hội đồng an ninh quốc gia, tổng thống Johnson đã cho cả hai bên, các cố vấn quân sự cũng như các cố vấn dân sự một phần những điều họ đòi hỏi. Thay vì 2 sư đoàn như những sĩ quan tham mưu đã yêu cầu, tổng thống chỉ thỏa thuận cho phép hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến được đổ bộ vào Việt Nam mà thôi. Theo ông Bundy thì việc giới hạn quân số là do đại sứ Taylor cùng nhiều nhân viên dân sự khác đã hết lòng can gián. Tuy thế, để đổi lại vấn đề cắt giảm quân số, những đội quân Hoa Kỳ đóng ở Đà Nẵng lại được phép nới rộng hoạt động thay vì chỉ được phép "phòng vệ căn cứ" như đã đề ra lúc đầu. Lúc này các đội quân được phép đóng một vai trò "chủ động hơn" trong cuộc chiến. Hơn nữa, những đội thủy quân lục chiến mới sẽ được hai mươi ngàn nhân viên binh nhu và quân cụ đi theo yểm trợ. Đây tuy là giải pháp dung hòa nhưng đại sứ Taylor vẫn giữ được thế thượng phong. Ít nhất ông cũng đã trì hoãn được phần nào các cuộc đổ quân khổng lồ của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Trong tất cả các quyết định kể trên, quyết định quan trọng nhất là quyết định cho phép các đội quân Thủy Quân Lục Chiến nới rộng và bành trướng phạm vi hoạt động. Quyết định này đã khiến quan niệm "phòng vệ căn cứ," nguyên là yếu tố chính của cuộc đổ quân lúc đầu chuyển thành "chiến lược bao bọc," một chiến thuật cho phép các đội quân Thủy Quân Lục Chiến được phép chiến đấu trong phạm vi 80 cây số quanh căn cứ. Hơn nữa, khi tình hình khẩn cấp, các đội quân của Hoa Kỳ còn có thể chiến đấu nếu có lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam. Đây là lần đầu tiên các lực lượng Hoa Kỳ được phép đóng một vai trò chủ động trên chiến trường Việt Nam. Vào thượng tuần tháng 4, đại sứ Taylor trở lại Sài Gòn để yêu cầu bác sĩ Quát "cùng thỏa thuận" với quyết định của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ về việc gia tăng các đội quân tiếp tế và tăng cường trách nhiệm của các đội quân Hoa Kỳ. Đầu tiên bác sĩ Quát chưa hiểu rõ được tình hình. Lúc này chúng tôi hoàn toàn mù tịt về việc Hoa Kỳ sắp mang thêm 20,000 quân yểm trợ và sắp bành trướng cả quân số lẫn nhiệm vụ của các đội quân Hoa Kỳ. -Chỉ mới hai tuần lễ trước, chúng tôi đã ngạc nhiên về việc hai tiểu đoàn Hoa Kỳ đổ bộ và đã biết rất rõ đại sứ Taylor không hề hưởng ứng vấn đề đổ quân, thế mà giờ đây chính ông lại đưa ra những chính sách hoàn toàn đi ngược lại với những quan niệm khi trước. Đại sứ Taylor là người già giặn kinh nghiệm ngoại giao, nhưng dĩ nhiên ông vẫn không cho chúng tôi biết những mâu thuẫn đã đưa đến giải pháp dung hòa của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ. Hơn nữa, chính chúng tôi cũng chẳng biết đây là giải pháp dung hòa. Tất nhiên đại sứ Taylor khó thể tiết lộ rằng: "Thật ra, chúng tôi cũng bối rối như các ông về việc lo liệu cho tình hình được khả quan hơn. Chúng tôi cũng chẳng biết nên làm gì và cũng đang bàn cãi sôi nổi. Đây có lẽ là giải pháp hoàn hảo nhất của chúng tôi tuy rằng riêng tôi vẫn không ủng hộ giải pháp này." Vì vừa mù tịt về những quá trình dẫn đến kế hoạch của Hoa Kỳ, lại vừa chẳng biết gì về những dự định, toan tính thực tiễn của giải pháp cuối cùng nên chúng tôi khó thể lượng định đúng mức hoặc hợp lý được giá trị của những kế hoạch do Hoa Kỳ đưa ra. Tuy vậy, chúng tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ Hoa Kỳ đang hành động theo một kế hoạch khéo léo kiện toàn nào đó mà họ không muốn thố lộ. Chúng tôi đã chẳng biết rõ chi tiết việc Hoa Kỳ lượng định tình hình ra sao mà cũng chẳng rõ những nhóm cố vấn đã xét đoán tầm mức cần thiết của chúng tôi là thế nào mặc dù hơn ai hết chúng tôi biết rất rõ những nhu cầu của chính mình. Điều chúng tôi cần nhất là ổn định tình hình chính trị nội bộ để có thể có cơ hội đóng góp vào những cố gắng chiến tranh. Đây là điều kiện tiên quyết căn bản dẫn đến việc giải quyết những vấn đề khác như kinh tế, chính trị, xã hội và quân sự trong việc xây dựng tương lai lâu dài của đất nước. Chúng tôi phải tìm cách vượt qua những vấn đề đang đe dọa bao trùm lấy tất cả chúng tôi, chẳng hạn như những lủng củng, hỗn loạn nội bộ, do ông Ngô Đình Diệm và các tướng tá đã gây ra. Dĩ nhiên chúng tôi rất cần những giúp đỡ quân sự. Nhưng vào tháng 3 và tháng 4 năm 1965, câu hỏi liệu Hoa Kỳ nên thực thi những chánh sách giúp đỡ ra sao chính là câu hỏi mà chúng tôi vẫn chưa thể tự mình trả lời. Cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều không đồng ý việc phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam nhưng vấn đề phải làm thế nào để có thể xử dụng đúng cách những nỗ lực giúp đỡ của một đồng minh khổng lồ là quả là vấn đề mà cho đến lúc này chúng tôi mới bắt đầu suy nghĩ. Vào giữa lúc đang suy xét vấn đề thì chúng tôi đã phải đương đầu với những quyết định chuyển quân ào ạt của Hoa kỳ. Lúc đó chúng tôi không tài nào hiểu được trọn vẹn mục đích thực thụ của những yêu cầu do Hoa Kỳ đưa ra. Mặc dầu tin tưởng vô biên vào khả năng của đồng minh Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn muốn biết họ đang suy nghĩ thế nào, nhất là trong việc tìm hiểu cho rõ ràng, mạch lạc những lời yêu cầu đổ quân ăn khớp ra sao với những kế hoạch lớn lao của toàn cuộc. Bác sĩ Quát cũng đã khổ tâm không kém gì đại sứ Taylor vì việc phải cùng lúc đối phó với cả những rối ren của việc đổ quân lẫn những khó khăn xuất phát từ việc Hoa Kỳ thiếu thành thật. Trong cơn bối rối, ông đã nhờ tôi tìm hiểu dự định của Hoa Kỳ. Lúc này tuy Việt Nam đã có đại sứ ở Hoa Kỳ, đại sứ lại là tướng Trần Thiện Khiêm, người đã giúp tướng Khánh đảo chánh và cũng chính là người đã đưa ông Khánh sang Hoa Kỳ sau khi chánh quyền tướng Khánh bị lật đổ. Tướng Khiêm nguyên là một nhân vật có nhiều thủ đoạn nhưng lúc đó ông vừa mới tới Hoa Kỳ và lại là một quân nhân nên sự hiểu biết của ông về chính trị Hoa Kỳ thật là giới hạn. Bởi thế, tôi bị buộc phải tìm hiểu từ những nguồn tin phía trong Sài Gòn. Tôi liên lạc với tất cả. Từ các nhân viên Ngoại Giao như đại sứ Taylor, phó đại sứ Alexis Johnson, những bạn bè đang phục vụ trong các chương trình Hoa Kỳ cho đến những nguồn tin từ phía báo chí, nhất là những phóng viên am hiểu tình hình của cả hai phía Mỹ Việt chẳng hạn như phóng viên Jerry Rose của báo The Saturday Evening Post. Tuy vậy tôi vẫn thấy mình chẳng khác nào một con ếch ngồi đáy giếng trong chuyện ngụ ngôn, chỉ nhìn thấy một phần phiến diện, nhỏ bé của thế giới bên ngoài và đến ngay cả những phần này cũng bị méo mó, thiên lệch. Dù sao đi nữa thì ngay khi tôi còn đang dự định mở cuộc thăm dò rộng rãi thì tòa đại sứ Hoa Kỳ ngỏ ý muốn chánh phủ Việt Nam trả lời về lời yêu cầu đổ bộ thêm quân. Hậu quả là vào ngày 6 tháng 4 năm 1965, vì chẳng còn làm cách nào khác hơn được, bác sĩ Quát đã bị buộc phải đồng ý thỏa thuận việc để Hoa Kỳ đổ quân thêm và mở rộng tầm hoạt động của các đội quân đã trấn đóng. Khi chánh phủ hai bên đã đồng ý thỏa thuận thì quyết định tối quan trọng được thông qua: Quân đội Hoa Kỳ sẽ đóng một vai trò độc lập trong cuộc chiến Việt Nam. Đây chính là quyết định mà ông William Bundy gọi là "một bước ngoặt" của toàn cuộc. Trong nội bộ Hoa Kỳ thì yếu tố chính dẫn đến quyết định này là do cả thất vọng lẫn bối rối. Thất vọng vì không biết phải làm gì và bối rối vì chẳng thể để mặc tình hình bấp bênh như hiện tại. Lúc này Hoa Kỳ đang phải đương đầu với những đòi hỏi phải có hành động thiết thực và giới lãnh đạo quân sự -Các tướng William Westmoreland, Harold Johnson và các tư lệnh tham mưu- đã cho rằng vấn đề phải can thiệp quân sự là việc dĩ nhiên. Ngược lại, các lãnh đạo dân sự lại cho rằng để quân đội Hoa Kỳ can thiệp không phải là một giải pháp đúng để giải quyết vấn đề. Tuy thế các nhà lãnh đạo dân sự lại chẳng biết làm gì hơn là tự nhủ thầm phải canh chừng hết sức thận trọng để khi cần thì đánh đổi những nguyên tắc căn bản ban đầu mà chọn lấy những giải pháp dung hòa. Trong khi đó thì chánh phủ Việt Nam lại là một chánh phủ mới vừa nắm quyền, chưa thể củng cố được nội bộ và chẳng thể làm gì khác hơn là nhắm mắt đi theo. Chánh phủ Việt Nam là một chánh phủ thiếu thốn cả từ quyết tâm cho đến khả năng để có thể chịu đựng được áp lực của Hoa Kỳ. Đối với Hoa Kỳ thì vấn đề cần phải có sự hiểu biết song phương có lẽ là chuyện không cần thiết, trong khi đối với chúng tôi là những đồng minh nhỏ bé thì việc đòi hỏi phải có sự thông cảm và hiểu biết song phương lại là việc hoàn toàn nằm ngoài tầm với. Những tiến trình của các kế hoạch do Hoa Kỳ đặt ra cứ nối tiếp theo nhau trong một khung cảnh gần như áp đặt, Hết "Oanh Tạc Không Lực," rồi "Tấn Công Để Phòng Thủ," và rồi cuối cùng "Trực Tiếp Can Thiệp Bằng Quân Sự." Chỉ khoảng chín tháng sau, các đội quân Thủy Quân Lục Chiến ban đầu đã chuyển thành một quân đội với tổng số 200,000 quân bao gồm cả các binh lính Hoa Kỳ lẫn những binh lính từ những đồng minh khác. Tất cả đều đến Việt Nam vì những lý do tương tự như những lý do vừa kể. Mục đích chính của quyết định do tổng thống Lyndon Johnson đưa ra vào ngày 1 tháng 4 là tiếp trợ quân nhu, khí cụ, gia tăng quân số và phạm vi hoạt động của những đội quân Thủy Quân Lục Chiến để yểm trợ Việt Nam. Nếu đây quả là một giải pháp dung hòa thì cách giải quyết này cũng vẫn không phải là một giải pháp vĩnh cửu. Vào ngày 11 tháng 4, vì không bằng lòng với lời yêu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu, tướng Westmoreland đã điện thoại cho Thủy Sư Đô Đốc Ulysses Grant Sharp, Jr., tổng tư lệnh của hạm đội Thái Bình Dương, nói rằng ông vẫn cần thêm ít ra là một lực lượng vào cỡ sư đoàn không lực 173 của quân đội Hoa Kỳ lúc đó. Sau những cuộc bàn bạc giữa những nhân vật lãnh đạo quân sự cao cấp, vào ngày 14 tháng 4, Bộ Tổng Tham Mưu đã ra lệnh cho sư đoàn không lực 173 đóng quân ở Việt Nam. Khi trở lại Sài Gòn sau những cuộc tranh cãi quyết liệt ở Hoa Thịnh Đốn, đại sứ Taylor cho rằng tổng thống Johnson đã đồng ý giảm thiểu và giới hạn những can thiệp quân sự. Tuy thế, khi nhìn thấy rõ rằng trong thực tế vấn đề lại khác hẳn, đại sứ Taylor cảm thấy vô cùng khó chịu. Trong một bức điện gửi đến Ngoại Trưởng Dean Rusk tuy với lời lẽ nhẹ nhàng, đại sứ Taylor vẫn không dấu hết được cảm giác bực tức. Ông điện rằng: "Gần đây, những hành động liên quan đến việc đổ quân đã khiến tôi có ấn tượng về thái độ nóng nảy của một vài cơ quan về vấn đề cần phải đổ quân vào Việt Nam. Đây quả là một thái độ thật là khó hiểu... Hành động của các cơ quan này hoàn toàn tương phản với những chính sách Hoa Thịnh Đốn đã đề ra [vào ngày 1 tháng 4]." Hôm sau, đại sứ Taylor nhận được điện tín trả lời của Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng John McNaughton. Lời lẽ của bức điện chẳng hề làm ông suy giảm phẫn nộ: "Giới lãnh đạo tối cao tin rằng tình hình Miền Nam Việt Nam đang tan rã. Để hỗ trợ cho những cuộc tấn công Miền Bắc, chúng ta phải có một hoạt động nào đó giúp Việt Nam đạt được thắng lợi. Ngoài những đề nghị khác bản điện tín còn có kèm theo cả những lời đề nghị yêu cầu đại sứ Taylor thỏa thuận việc chuyển quân nhanh chóng của sư đoàn không lực 173. Sau này phó Đại Sứ Alexis Johnson đã viết thêm rằng: "Chúng tôi hoàn toàn tối tăm mặt mũi vì những hồ sơ đề nghị. Cuộc đổ quân ồ ạt, gần như thể một con đê đã vỡ toang hoác khiến những người 'chậm chạp' như chúng tôi chẳng thể sửa chữa hoặc ngăn chận kịp thời." Vào ngày 17 tháng 4, để đối phó với những biến chuyển không hoàn toàn như ý, đại sứ Taylor đã gửi một bức thư dài cho cả hai ông Dean Rusk ở Bộ Ngoại Giao và ông McGeorge Bundy ở tòa Bạch Ốc. Trong bức điện tín, ông tường trình những biến chuyển nhanh chóng và phức tạp của tình trạng lúc này. Một trong những vấn đề ông Taylor đã đề cập đến là việc bác sĩ Quát có thể phản đối việc đóng quân. Ông đã viết rằng: "Việc minh xác tầm mức cần thiết trong vấn đề đổ quân thật vô cùng quan trọng. Trước khi đặt vấn đề của chúng ta ra với chánh phủ Việt Nam, tôi phải biết rõ ràng vấn đề là gì và lý do ra sao. Việc thuyết phục chánh phủ Việt Nam thỏa thuận cho phép một lực lượng với quân số lớn lao đến đóng ngay trong lãnh thổ Việt Nam nhất định sẽ phải gặp nhiều khó khăn trừ khi lý do cần thiết đã trở nên rõ ràng và minh bạch." Những khác biệt trong quan niệm của đại sứ Taylor và bộ tham mưu đã đưa đến một cuộc họp căng thẳng vào ngày 19 tháng 4 ở Honolulu. Cuộc họp do Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara chủ tọa và bao gồm nhiều nhân vật lãnh đạo như đại sứ Taylor, ông William Bundy và ông McNaughton. Sau hai ngày bàn cãi "quyết liệt", đại sứ Taylor đã bị thuyết phục ngả theo ý kiến chung về việc đề nghị gia tăng quân số (tới 82,000) và về sự thỏa thuận đề nghị một số quân khoảng 7250 binh sĩ từ "một đệ tam quốc gia." Theo ông Alexis Johnson thì đây là một sự "đồng ý miễn cưỡng." Lại thêm một lần nữa đại sứ Taylor đã nhượng bộ những ý kiến riêng của ông để đổi lại một giải pháp dung hòa. Theo như sự thỏa thuận thì những lực lượng Hoa Kỳ không được phép tự do tấn công và chỉ có thể hoạt động trong những vùng ven biển quanh căn cứ. Lúc này theo ông Bundy thì những quân nhân Hoa Kỳ tin rằng việc giới hạn tầm hoạt động của các đội quân sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh. Nhưng ông Bundy cũng nói thêm: "Những giới hạn bắt buộc quân đội phải tự khống chế các hoạt động có thể sẽ khiến những viên chức quân sự phục vụ trong quân đội [Hoa Kỳ] mang một quan niệm bi quan hơn (và thực tiễn hơn) về những gì có thể xảy ra." Đối với những người Việt Nam thì tháng 4 là tháng của những yêu cầu liên tiếp từ phía Hoa Kỳ. Theo như nghị định do Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đưa ra, bác sĩ Quát đã chấp thuận việc đóng quân của những tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 20,000 quân tiếp trợ. Một tuần lễ sau đó, dư luận lại đồn đãi về việc đòi hỏi các đồng minh khác phải thêm quân tiếp trợ. Trong khi đại sứ Taylor nỗ lực giới hạn những kế hoạch lớn lao đang lũ lượt gởi đến từ Hoa Thịnh Đốn thì tâm trạng bác sĩ Quát ngày càng lo âu. Cho tới lúc này, tuy vẫn vô cùng ngần ngại, ông vẫn bị buộc phải ngả theo tình thế. Theo tôi thấy thì bác sĩ Quát cũng đã biết rõ ràng sự can thiệp của những đội quân Thủy Quân Lục Chiến là một sự can thiệp chỉ có tính cách tạm thời. Tuy chỉ có rất ít binh sĩ Hoa Kỳ hiện diện ở Việt Nam vào lúc này, việc đòi hỏi gia tăng thêm quân lực hiển nhiên là việc sắp đến. Nhưng ngoài cách thỏa thuận ra chúng tôi còn có thể phản ứng bằng cách nào khác hơn chăng? Trước tiên thì câu trả lời dường như phụ thuộc vào việc lượng định tình hình quân sự của các giới chức quân sự Việt Nam. Nếu vòng đai phòng vệ của Việt Nam đang tan vỡ vì những cuộc tấn công của cộng sản Bắc Việt thì hẳn nhiên chúng tôi không còn đường chọn lựa. Mặt khác, nếu các giới chức quân sự nghĩ rằng tình thế vẫn còn khả quan hơn vậy thì chúng tôi sẽ có cơ hội chống trả lại áp lực của Hoa Kỳ một cách hữu hiệu hơn. Khi đại sứ Taylor từ Honolulu trở về Việt Nam thì tôi đã bắt đầu tham khảo ý kiến của các tướng lãnh Việt Nam. Vào ngày 24 tháng 4, đại sứ Taylor tường thuật cho bác sĩ Quát những ý kiến chung rút ra từ những cuộc tranh cãi ở Hawaii. Lúc này bác sĩ Quát đã hiểu rõ sự nghiêm trọng của những biến chuyển sắp tới. Thật sự thì từ nhiều tuần trước đây, ông đã dành rất nhiều thời giờ để suy nghĩ. Khi đại sứ Taylor đến gặp ông Quát để nâng số quân Hoa Kỳ ở Việt Nam lên đến 82,000, bác sĩ Quát đã trả lời rằng ông cần thời giờ để đo lường những ảnh hưởng chính trị và quân sự nếu Hoa Kỳ gia tăng quân số ở Việt Nam. Ngay sau khi đại sứ Taylor vừa đi khỏi, ông Quát chạy ngay đến văn phòng tôi. Lúc gặp tôi, dường như ông không còn dấu được vẻ hốt hoảng. Ông hỏi ngay như thể cố trút cả nỗi lo âu vào câu hỏi: "Có chuyện gì ngoài chiến trường mà chúng ta không biết rồi sao?" Vào lúc này, bác sĩ Quát không còn tìm được bất cứ lý do nào khác để giải thích lời yêu cầu đổ quân của Hoa Kỳ với quân số to lớn như vậy vào Việt Nam. Những suy nghĩ của tôi cũng chẳng lấy gì làm khác bác sĩ Quát. Mặc dù vừa mới hội họp với các sĩ quan trước đấy mấy hôm, hiển nhiên chúng tôi lại phải tham khảo với họ chi tiết hơn thêm một lần nữa trước khi có thể quyết định bất cứ chuyện gì. Cuối tuần đó, tôi và bác sĩ Quát liền bắt đầu ngay những buổi họp liên tục với tất cả các vị chỉ huy cao cấp của Việt Nam. Chúng tôi đã tham khảo ý kiến của riêng từng người về việc lượng định tình hình quân sự về cả các giai đoạn ngắn hạn cũng như dài hạn. Ngoài ra chúng tôi còn trình bày thêm những nghi ngờ của riêng chúng tôi cũng như tham khảo ý kiến của các tướng lãnh về vấn đề này. Vì chánh quyền Việt Nam lúc này vẫn chưa có cơ quan nào có thể ví như Hội Đồng An Ninh Quốc Gia để xem xét những vấn đề quan trọng nên những những cuộc thảo luận của chúng tôi không mang tính cách chánh thức. Nhưng dù sao đi nữa thì những quan niệm của chúng tôi vẫn phản ảnh trung thực ý kiến chung của các chính trị gia và các tư lệnh Việt Nam lúc này. Tuy chẳng có gì đáng gọi là thủ tục chánh thức về những cuộc tham khảo, cả tôi lẫn bác sĩ Quát đều đã biết rằng dù có nhìn tình hình bằng một nhãn quan chánh trị hoặc quân sự đi chăng nữa thì việc gạt bỏ những quan niệm của các tướng lãnh vẫn không phải là việc dễ dàng. Hơn nữa, chính bản thân chúng tôi cũng có những sự ngần ngại riêng đối với vấn đề để cho Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam. Với tư cách là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng, tôi thường phải đối phó với những vụ khiếu nại và kiện tụng mỗi khi có những vụ rắc rối hoặc tai nạn xe cộ liên quan đến quân đội Hoa Kỳ. Vì thế, tôi đã biết rất rõ những khó khăn đi đôi với vấn đề gia tăng quân đội Hoa Kỳ. Tầm hiểu biết của tôi bao gồm từ những vụ tai nạn đơn giản như những tai nạn do xe nhà binh cán người cho đến những vụ vi phạm luật lệ xảy ra hàng ngày. Hơn nữa, từ khi Pháp còn chiếm đóng, tôi đã từng phải đối phó với những khó khăn cũng liên quan đến những vấn đề tương tự như vấn đề phàn nàn Mỹ-Việt lúc này. Trước đây, trong những cuộc đàm phán ở Élysée với Pháp vào đầu thập niên 1950, trách nhiệm của tôi lúc đó là tìm cách giải quyết những vấn đề khó khăn khi phải thiết lập một lực lượng Việt Nam để Pháp có thể giao trả dần độc lập. Những cuộc thảo luận lúc đó cũng là những phàn nàn Pháp-Việt gần giống như vấn đề của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam lúc này. Mặt khác, bác sĩ Quát vốn vừa là Bộ Trưởng Quốc Phòng, vừa là thượng cấp của tôi lúc trước nên cũng nhạy cảm không kém gì tôi. Theo sự suy nghĩ của chúng tôi thì có lẽ cả hai chúng tôi đều quá nhạy cảm, có thể việc chúng tôi ráo riết tham khảo ý kiến chẳng qua cũng chỉ là do những kích động của sự nhạy cảm mà thôi. Việc tìm hiểu những câu trả lời của các giới chức quân sự là việc mà chúng tôi có thể đoán trước được phần nào. Theo tình hình lúc này thì những giới chức quân sự nhận định rằng: Tuy những trận chiến lớn sắp sửa mở màn, Việt Nam không hề ở vào bất kỳ tình cảnh ngặt nghèo nào đáng kể. Nhưng những nhận định của họ về tình hình lâu dài của chiến cuộc lại hoàn toàn khác hẳn. Lúc này đã có những đơn vị của ít nhất là hai sư đoàn (sư đoàn 324 và 304) chính qui Bắc Việt đang tấn công ráo riết vào Miền Nam và mức độ xâm nhập đang ngày càng tăng. Hơn nữa, vì thiếu thốn nhân lực và thời gian để huấn luyện các binh sĩ, việc tăng cường quân đội để chống lại những lực lượng mới của Việt Cộng là một việc vô cùng khó khăn. Sau khi thẩm định tình hình các tướng lãnh đã kết luận rằng: Bất kể sự hiện diện của những đội quân Hoa Kỳ có tạo ra khó khăn gì đi nữa thì việc gia tăng quân đội Hoa Kỳ vẫn là một lợi điểm lớn lao đối với Việt Nam. Lạ lùng thay, phản ứng của các chính trị gia cũng không khác các tư lệnh quân sự là mấy. Một vài người quá khích đã lấy làm thích thú về viễn ảnh của một cuộc chiến tranh chống cộng quốc tế. Vài người khác lại dễ dãi bỏ qua tất cả những vấn đề thuộc mặt trái của cuộc đổ quân. Khi lượng định những vấn đề khó khăn bác sĩ Quát đã cho rằng những sĩ quan cao cấp đều chịu ảnh hưởng của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ. Và vì vậy nên nếu ý kiến của họ có trùng hợp với ý kiến chung của các viên chức quân sự Hoa Kỳ thì cũng là một việc dễ hiểu. Chẳng khác gì những đồng nghiệp Hoa Kỳ, các tướng lãnh Việt Nam cũng chỉ quan sát mọi việc qua ống kính quân sự hạn hẹp. Sự huấn luyện và kinh nghiệm quân sự nghề nghiệp đã làm giảm khả năng suy nghĩ của họ về những vấn đề khác, chẳng hạn như ảnh hưởng xã hội hoặc tâm lý của việc gia tăng quân số Hoa Kỳ ở Việt Nam. Nhưng nếu lấy tiêu chuẩn an ninh quốc gia làm chuẩn để suy xét thì việc bác bỏ quan niệm của họ là một việc vô cùng khó khăn. Và nếu lấy những suy xét chính trị làm chuẩn thì việc bác bỏ những suy xét của họ lại còn là việc viễn vông hơn nữa. Khi phải đương đầu với quyết định cuối cùng, bác sĩ Quát hoàn toàn đơn độc. Vì là thủ tướng của một quốc gia đang giữa lúc chiến tranh, ông đã phải xử dụng uy quyền từ một chỗ đứng mong manh và đầy đe dọa. Đã có lúc bác sĩ Quát nói với tôi rằng ở vào những giây phút hiểm họa, ông chỉ còn biết trông chờ vào "lương tâm cùng những linh tính chánh trị của riêng bản thân ông." Có thể ông đã bác bỏ những đề nghị của Hoa Kỳ trên phương diện lý thuyết, nhưng những thực tế chính trường đã khiến ông chẳng thể thoát khỏi những áp lực khủng khiếp của Hoa Kỳ. -Đây là một điều mà những giới chức quân sự phục vụ dưới quyền ông cũng cùng đồng quan điểm. Ở những giai đoạn cuối, bác sĩ Quát đã thực sự hành động theo linh tính. Ông vẫn ôm ấp hy vọng rằng rồi đây tình hình sẽ khả quan hơn và lúc đó ông sẽ có khả năng để thay đổi. Lúc đó, ông sẽ có một khả năng khác hẳn trường hợp yếu thế lúc này. Vì suy nghĩ như thế nên vào ngày 28 tháng 4, bác sĩ Quát thông báo với đại sứ Taylor rằng Việt Nam đã thỏa thuận lời yêu cầu mới của Hoa Kỳ. Những cánh cửa ngăn chận giờ đây đã được mở rộng. Công bằng mà luận thì ngay cả cho đến lúc những gia tăng quân sự đã khởi đầu, Tổng Thống Lyndon Johnson và chánh phủ Hoa Kỳ vẫn muốn đàm phán với Bắc Việt. Nhưng đối với chánh quyền Việt Nam thì vấn đề bàn bạc những giải pháp hòa bình cũng mờ mịt chẳng kém gì những ý định của Hoa Kỳ về phương diện quân sự. Nếu nhìn từ một cương vị nhất định nào đó thì quyết định không tham khảo ý kiến Việt Nam của Hoa Kỳ chẳng qua cũng dễ hiểu. Những quá khứ hỗn loạn và những tương lai mờ mịt của Việt Nam đã khiến chánh phủ Sài Gòn chẳng thể đóng trọn vai trò của một đồng minh mà Hoa Kỳ có thể tham khảo ý kiến về phương diện ngoại giao. Tuy rằng những chánh sách của Hoa Kỳ có liên hệ chặt chẽ đến vấn đề sinh tử của Việt Nam mà vì hoàn toàn mù tịt về mọi vấn đề, nên chánh quyền Việt Nam vẫn không đóng góp được gì nhiều vào việc soạn thảo những giải pháp chính trị cũng như quân sự. Dĩ nhiên là chúng tôi vẫn thông báo về những tiến triển của các giải pháp hòa bình đang diễn ra công khai ở Hoa Kỳ. Chẳng hạn như tin tức về những bài diễn văn của tổng thống Johnson ở đại học John Hopkins vào ngày 7 tháng 4, hoặc những tin tức về quyết định ngưng dội bom vào ngày 10 tháng 5. Ngay cả vào những lúc sớm hơn, như vào khoảng tháng ba, ông Alexis Johnson cũng đã thông báo cho Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ về những dự định trong việc kêu gọi một cuộc hội nghị khác ở Geneva do Anh Quốc và Liên Xô đứng ra làm chủ tọa. Nhưng chúng tôi chỉ biết rất ít về những việc bí mật quan trọng, chẳng hạn như những vụ thăm dò Bắc Việt, những điều mà Hoa Kỳ đã ngầm đưa ra với đại sứ J. Blair Seaborn của Gia Nã Đại, nguyên là nhân viên của phái đoàn kiểm soát quốc tế, hoặc những tiếp xúc của Hoa Kỳ với đại sứ Trung Hoa ở Warsaw, và Mai Văn Bộ, đại diện của Bắc Việt ở Ba Lê. Chúng tôi biết rằng Hoa Kỳ vẫn còn cố gắng tìm tòi, dọ dẫm qua nhiều sự móc nối khác nhau, nhưng chúng tôi chỉ có thể cho rằng những móc nối bí mật chẳng qua chỉ là một trong những giải pháp vận động thông thường mà thôi. Tuy chúng tôi chẳng nghi ngờ gì Hoa Kỳ nhưng vấn đề thiếu hiểu biết dường như lúc nào cũng dẫn đến sự nghi kỵ. Trong những diễn biến vừa kể, mặc cho Hoa Kỳ hết sức dùng cả những biện pháp công khai lẫn các biện pháp bí mật, Hà Nội vẫn lạnh lùng ngoảnh mặt. Rốt cuộc, vì chẳng thể ảnh hưởng gì được Hà Nội nên dư luận lại trở về các đề tài chính trị hoặc quân sự của chánh phủ Sài Gòn. Vào mùa thu 1965, khi Hoa Kỳ đã quyết định Mỹ Hóa Chiến Tranh Việt Nam thì họ trực tiếp vào cuộc bằng cách áp đặt chính sách can thiệp dưới một khung cảnh đột xuất và cao ngạo. Cách can thiệp khác thường của họ đã khởi nguồn một câu chuyện lịch sử thật dài và vô cùng quan trọng. Họ vào cuộc với những mục tiêu rõ rệt: Giúp đỡ đồng minh và cố gắng nuôi dưỡng, phát triển một nền dân chủ độc lập ở Việt Nam. Giúp Việt Nam ổn định và củng cố để chống lại cộng sản. Nhưng một khi những chánh sách mang mục đích cao đẹp của họ thất bại thì hậu quả đã di lại những tổn thương trầm trọng và vĩnh cửu. Tôi không có ý kết án rằng Hoa Kỳ phải một mình chịu nhận tất cả mọi trách nhiệm và hậu quả. Đúng ra thì những người lãnh đạo Việt Nam phải chịu phần lớn trách nhiệm. Ngoài những nhân vật lãnh đạo ra, trách nhiệm thất bại có thể được qui một phần về những phần tử quốc gia đã chia rẽ quá mức trong thời gian chiến tranh. Hậu quả của sự chia rẽ đã khiến các đoàn thể quốc gia suy nhược đến độ họ chẳng còn có thể tiếp tục tự vệ khi họ bị buộc phải tự mình đối phó với cuộc chiến. Nhưng qua suốt 11 năm Hoa Kỳ can thiệp, nếu đứng trên phương diện ngoại giao mà luận thì những chính sách của Hoa Kỳ quả đã gây ra rất nhiều hậu quả đáng tiếc. Đầu tiên, trong thời gian vào khoảng đầu thập niên 1950, thì người Hoa Kỳ nhất định nhắm mắt không can thiệp. Họ đã an nhiên mục kích số phận thăng trầm của cả hai giới độc tài dân cũng như quân sự của Việt Nam. Khi ông Diệm nắm quyền thì tòa đại sứ Hoa Kỳ đã đưa ra những chiêu bài "hợp pháp", "chưa hợp thời" và cố tình để mặc những phần tử quốc gia tự mình xoay sở trong khung cảnh bất lực. Rồi vào năm 1963, khi các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm thì Hoa Kỳ gần như vẫn nhắm mắt làm ngơ và tuy đã chấp thuận với đề nghị đảo chánh của các tướng lãnh, nhưng nếu cần, Hoa Kỳ vẫn vui lòng chối bỏ sự can thiệp. Trong suốt cả một thập niên dường như họ đã cố tình bưng mắt đứng ngoài, hoặc chỉ can thiệp nhẹ nhàng cho có lệ. Cuối cùng, vào năm 1965, ngay giữa khi Việt Nam đang gặp những khủng hoảng chính trị và đang ở vào lúc xáo trộn thì họ lại quyết định rằng đó là lúc họ cần can thiệp trực tiếp. Họ ào ạt đổ quân. Họ ra sức thiết lập các căn cứ và tự đưa ra những chiến dịch oanh tạc. Họ hành động một cách bất chợt và đơn phương, không thèm đếm xỉa gì đến việc tham khảo ý kiến của chánh phủ Việt Nam. Những hành động quyết đoán và chủ quan của họ đã khiến họ tự dồn mình vào một phương vị bế tắc. Rồi họ tự đi đến kết luận: Phải Mỹ Hóa chiến tranh Việt Nam. Và khi chính sách của họ thất bại thì họ lại tháo lui thật phũ phàng. Họ tự tìm lấy những giải pháp hòa bình dễ dàng cho họ và bỏ mặc đồng minh -bất kể đồng minh của họ là quốc gia nào- phải tiếp tục ở lại chịu trận. Vốn đã tình cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố tự tròng lấy trách nhiệm vào người, tôi cũng lại tình cờ hiện diện vào lúc Hoa Kỳ cố cởi bỏ những trách nhiệm họ đã tự tròng vào khi trước. Có lẽ ngoại trừ phương pháp can thiệp khác thường này, Hoa Kỳ chẳng thể còn bất cứ cách thức can thiệp nào khác có thể hủy hoại đồng minh khốc liệt hơn! Nguồn: Bản Dịch: Đặc Trưng Phan Lê Dũng
|