(url) Paul Marie Verlaine (1844 - 1896)
marcel 02.12.2006 19:52:19 (permalink)



Giới thiệu tác giả: Nhà thơ Paul Verlaine (1844 - 1896)



Paul Verlaine (Paul Marie Verlaine) sinh ngày 30 tháng 3 năm 1844 tại Metz, nơi cha ông đóng quân. Như mọi đứa trẻ con một, Paul được nâng niu và cưng chìu hơi thái quá. Ngay từ bé, ông đã biểu lộ bản tính nghịch ngợm và phá phách hoang tàn đến nỗi cha mẹ phải quyết định gửi ông đi trọ học. Trái ngược hẳn với Rimbaud, chỉ là một học sinh đầy năng khiếu, Paul từng có văn bằng tú tài và theo luật khoa.Tuy nhiên, ông lại sống cuộc đời hết sức tầm thường và rất dễ bị lôi cuốn vào rượu chè và đời sống phóng đãng rày đây mai đó. Người ta từng thấy ông la cà trong các quán rượu và thường tới lui giao du với giới văn chương tại Paris.

Năm 1866 ông xuất bản thành công tác phẩm Poèmes Saturniens.Thế nhưng, ảnh hưởng bởi rượu chè khiến ông gây nhiều tai tiếng. Vào năm 1869, ông đính hôn cùng người con gái trẻ chỉ mới mười sáu tuổi, tên Mathilde Mauté và thành hôn với nàng vào một năm sau đó. Tiếp theo ấy, ông xuất bản tác phẩm Fêtes Galantes. Thời gian này, nhà thơ như đã khôn ngoan chững chạc ra và cuộc sống ông cũng trở nên thật yên bình. Liền đó, ông sáng tác La Bonne Chanson, dành cho Mathilde, nhưng thi tập này bị dư luận đặt nhiều nghi vấn, cho rằng ông đặt riêng tâm tư vào tác phẩm đến cuộc chiến mà ông từng tham gia vì trong phong trào nổi dậy ông đã gia nhập vào khởi nghĩa quân.

Năm 1871, ông gặp gỡ nhà thơ trẻ tuổi Arthur Rimbaud. Bị quyến rũ bởi tài của chàng trai trẻ này, ông liền bỏ Paris. Trong thời gian thật ngắn, Rimbaud đã khiến ông trở nên sa đoạ, trụy lạc. Cả hai cùng lộ liễu la cà đến các quán rượu hộp đêm và đã gây thật nhiều tai tiếng thị phi.Paul luôn cãi nhau với Mathilda, thường là do say sưa mà ra. Mặc dù mối bất hoà giữa hai vợ chồng cứ liên tục xảy đến, họ vẫn có với nhau một người con trai, đặt tên Georges.

Trong giai đoạn khi Rimbaud quay về Charleville, thì đời sống của vợ chồng ông được bình yên một lúc. Nhưng chẳng bao lâu, Rimbaud trở lại, và cả hai cùng nhau trốn sang Bỉ. Mathilda tìm đủ cách để lôi kéo chồng trở lại, nhưng mọi cố gắng đều bất thành. Bị lôi cuốn theo cuộc sống bấp bênh của Rimbaud, cả hai lại bỏ sang Luân Ðôn. Ngay lần này, chính mẹ của Paul phải ra sức buộc ông trở về con đường chân chính, nhưng bà cũng chẳng đạt được kết quả gì khá hơn Mathilda. Cuối cùng, chính Rimbaud là người đầu tiên mệt mỏi cuộc sống phiêu lưu lãng tử và quyết định từ bỏ Paul. Trước biến cố này, nhà thơ vô cùng khủng hoảng nên đã bắn một phát súng ngắn vào cánh tay Rimbaud. Kết quả, ông bị kết án hai năm tù. Ngay thời gian bị giam giữ ông chợt tìm ra niềm tin của mình. Chính trong giai đoạn ấy, ông sáng tác Romances sans Paroles.

Sau khi được phóng thích, ông trở nên mềm mỏng thấu đáo hơn. Ông quay về Anh Quốc giảng dạy hội hoạ và Pháp Văn.Năm 1880, ông xuất bản tác phảm Sagesse nhưng lại bị thất bại hoàn toàn. Năm 1882, ông trở lại Paris. Khi ấy, vợ ông từ bỏ cuộc sống chung của hai người. Ðến năm 1886 thì nàng xin ly dị. Cùng thời gian ấy, Rimbaud bỏ đi Ethiopie. Thế là một lần nữa, ông lại chìm đắm trong say sưa. Luôn bị quyến rũ bởi Rimbaud, ông gia tâm công bố tác phẩm riêng của mình cùng với các sáng tác chung của hai người như Jadis et Naguère ra mắt năm 1884, và Parallèlement năm 1889.

Kiếm được bao nhiêu tiền thì ông lại say sưa chè chén hết bấy nhiêu, đến nổi bạn bè như Barrès, Bourget, v.v. ... phải cùng nhau gom góp để trợ giúp ông. Là một người hiếu động, ông ứng cử vào Hàn Lâm Viện nhưng chẳng được ai đề bạt. Tuy nhiên vào năm 1894, Paul được vinh danh là Prince des Poètes, xin tạm dịch "ông hoàng của các nhà thơ."

Paul Verlain mất ngày 9 tháng 1, năm 1896 vì chứng xuất huyết phổi. Khi ấy, cả Paris hoàn trả lòng tôn kính ngưỡng mộ lại cho ông. Từ một người từng bị mệnh danh là người nghệ sĩ suy đồi, thi sĩ nghiện ngập ông được nhìn nhận là nhà thơ tài năng vô song với những tác phẩm chứa đầy nhạc tính. Hàng ngàn dân Paris xếp thành hàng rào trước chiếc xe tang của ông trên đường đến nghĩa trang, đi qua khu Quartier Latin, nơi mà chỉ mới vừa đây thôi, ông thường tới lui các quán hàng tồi tàn và tiệm rượu.

Có thể nói, không nghi ngờ mảy may rằng Paul Verlaine là một trong những nhà thơ lớn ở cuối thế kỷ 19.




oOo
 
 
La Lune Blanche
(Paul Verlaine)


La lune blanche
Luit dans les bois ;
De chaque branche
Part une voix
Sous la ramée ...

Ô bien-aimée.

L'étang reflète,
Profond miroir,
La silhouette
Du saule noir
Où le vent pleure ...

Rêvons, c'est l'heure.
Un vaste et tendre
Apaisement
Semble descendre
Du firmament
Que l'astre irise ...

C'est l'heure exquise.

 
*
* *
 
 
Nguyệt Bạch

(Nguyệt Trinh phỏng dịch)

chong trời nguyệt bạch đốt mây
treo nghiêng thắp sáng rừng gầy âm u
đậu trên nhánh lá sương mù
dưới cành say ngủ hồn thu vọng về

ao sâu lộng bóng gương thề
cúi đầu tơ liễu dầm dề đêm thâu
gió khuya nức nở kêu sầu
cho ta ảo mộng mấy màu thời gian

sao sa trên đỉnh bạt ngàn
dệt hoa ngũ sắc ru vàng ước mơ
bước chân năm tháng ơ hờ
trầm ngâm một cõi hoang sơ tuyệt vời. 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2006 11:09:55 bởi TTL >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9